“Ngàn mây xám,
chiều nay về đây treo lững lờ,”
chiều nay về đây treo lững lờ,”
“Và tiếng hát,
về ru mình trong giấc ngủ vùi,
về ru mình trong giấc ngủ vùi,
Rồi từ đó,
loài sâu nửa đêm quên đi ưu phiền,
loài sâu nửa đêm quên đi ưu phiền,
Để người về hát đêm hồng,
Địa đàng còn in dấu chân bước
quên.”
“Địa đàng in dấu chân”, nơi nào thế? Phải chăng là: “đêm
hồng”, là “bước quên”, hay “giấc ngủ vùi”? Thật ra thì, nghệ sĩ là những vị từng
“ru với gió”, “mơ theo trăng”, và “vơ vẩn cùng mây”, làm sao định vị được địa đàng,
tìm dấu chân.
Bần
đạo đây, cũng đã cảm nghiệm được điều ấy, những hai lần. Lần đầu, là lần quyết
tâm về “miền quá khứ”, có người cháu gọi bằng cậu từng 50 năm chôn vùi đời mình
chốn viện tu rất khắc kỷ, ở “Castagniers” miền Nam nước Pháp. Lần đó, bần đạo cứ
là bon chen tìm đến với núi rừng trùng điệp với hy vọng xa vắng chốn miền có dấu
chân “địa đàng”, nhưng không được. Bởi, lúc nào cũng văng vẳng nghe bên tai lời
ca vui tựa hồ lời nghệ sĩ đang còn hát:
“Trời
buông gió, và mây về ngang bên lưng đèo,
Mùa
xanh lá, loài sâu ngủ quên trong tóc chiều.
Cuộc
đời đó, nửa đêm tiếng ca như than phiền
Bàng
hoàng lạc gió mây miền,
Trùng
trùng, ngoài khơi nước lên sóng mềm.”
Lần thứ hai, bần đạo lại cũng tìm về miền dĩ vãng chốn khổ tu
khi trước, ở vùng sâu vùng xa, rất gần Machu Pichu, xứ Pê-ru. Và
lần này, bần đạo cũng lại bị quật thê thảm đến độ toàn thân mình trở thành gần
như hư vô/rỗng tuếch, cả đầu óc lẫn con người. Có ở tâm trạng ấy, mới thấy những
gì gắn liền đời mình vẫn chẳng là gì cả. Chỉ là hư luống.
Hôm nay, ngồi “một mình trên phố” lố nhố chốn phồn hoa đô hội,
lại thấy cần sự tĩnh mịch/lặng thinh, nhưng nay thấy hiếm. Cũng may còn có cái
gì đó tựa ơn trên gửi đến cho mình vài ba tư tưởng nhỏ, rất thoáng chốc, giống
lời thơ người nghệ sĩ vẫn ray rứt:
“Ngựa
buông vó người đi chùng chân đã bao lần
Nửa đêm đó lời ca dạ lan như ngại ngùng
Vùng u tồi loài sâu hát lên khúc ca cuối cùng
Một đời bỏ ngõ đêm hồng
Ngoài trời còn dâng nước lên mắt em.”
Nhà
thơ đây, những là “chứng chân”, ”buông vó” vì đêm đó nghe như “lời ca dạ lan ngại
ngùng”. Còn bần đạo đâu dám làm thế, chỉ là bạn bè thấy mà thương bèn tặng cho
một bài suy tư có dáng dấp của đấng bậc tải trên báo, có lời lẽ về những “lặng
thinh là tình đã thuận”, bận bịu như sau:
“Lặng thinh, không chỉ là việc cần có trong thánh lễ, hoặc
các buổi phụng vụ thôi, nhưng cả với cuộc đời nữa. Cuộc sống hôm nay chừng như
quá ồn ào, kích bốc. Nhìn vào mọi chốn, người người đều thấy nơi nào cũng lào xào
đủ thứ tiếng động. Thanh âm đủ loại chừng như cứ nối tiếp và nối tiếp không ngừng
từ các loa phóng thanh cứ ra rả từ các đài phát sóng, cho đến các loại máy ghi âm
tân kỳ phát ra đủ mọi loại âm thanh, cùng tiếng nhạc. Cả khi người ta đang tập
trung lái xe hay làm việc quần quật, hoặc ngủ nghỉ, lúc nào cũng thấy toàn những
âm thanh và tiếng động. Khủng khiếp hơn, ngày hôm nay, các màn ảnh phát hình và
vi tính chiếm đoạt gần như trọn vẹn thời gian trong cuộc sống của nhiều người.
Thậm chí, cả vào lúc gia đình tụ họp để ăn uống, bên nhau chuyện trò hoặc nguyện
cầu, lại vẫn thấy tình huống sôi động, rất dễ nóng bỏng.
Vâng. Ngày nay người người cần đến thinh lặng. Cần lặng thinh
để suy tư, nghĩ ngợi, hiệp thông với Chúa. Nhận ra được sự hiện diện của Đức
Chúa. Có lẽ, hơn bao giờ hết, con người cần đến sức mạnh của nội tâm, điều mà
sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo từng minh định:
“Nhu cầu đời sống nội tâm là tất cả những gì ta cần đến, cho
cuộc sống. Bởi, cuộc sống hôm nay, có nhiều thứ khiến con người mình dễ chia
trí và ra khỏi mọi động thái suy tư tụng niệm, tự kiểm hoặc xem xét tình trạng
an nhiên tự tại, của chính mình.” (x. GLHTCG chương đoạn 1779)
Chính vì lý do đó, có lẽ cũng nên nhìn ra sự cần thiết để ra
khỏi cảnh trí ồn ào nói trên thỉnh thoảng cũng nên tắt máy phát thanh, nghe nhạc
trên đĩa hoặc ipod nhét nơi tai. Để rồi, thay vì bị phóng pháo bằng tiếng động,
là những dụng cụ khiến con người trở nên thụ động, tê cứng, để mà tìm kiếm những
giây phút hoặc kế hoạch chuyện trò với Chúa, qua nguyện cầu. Đó, là thế giới
khác hẳn. Thế giới của an bình, lặng thinh. Rồi tự hỏi: sao tôi cứ phải lệ thuộc
vào với máy móc, đến là thế…” (x. Lm John Flader, Question Time, The
Catholic Weekly 15/1/2012 tr. 10)
Bần
đạo đây, chẳng là đấng bậc hoặc thày sáu cao siêu vời vợi để dám đề nghị với
chúng nhân anh em, mà chỉ dám đưa ra một nhận định cho riêng mình, ấy là: có lặng
thinh mới thấy và nghe được điều Chúa nói với con người, thời đại này. Thấy, là
thấy Chúa vẫy gọi mọi người hãy đến với Ngài. Nghe, là nghe lời thầm thì của lặng
thinh Chúa nói nhỏ.
Khi
xưa, môn đồ gần cận luôn thấy Chúa làm việc trong âm thầm, lặng thinh. Lặng
thinh trong nguyện cầu. Thinh lặng khi chữa lành và ban ơn. Và nhiều nữa, kể
sao cho hết. Ngày nay, Chúa vẫn còn khuyến cáo còn rất nhiều thứ, dù họ không
là đồ đệ chẳng tin vào Ngài, cả những hiện tượng ồn ào như thác lũ. Hiện tượng
xảy đến với nhân gian, không chỉ cho người ngoài Đạo, mà cả đến dân con của
Ngài nữa.
Hôm
nay, phiếm luận chuyện Đạo xen lẫn chuyện đời, bần đạo thấy có bổn phận phải mở
mắt cho to, vểnh tai cho rộng để thấy và nghe được tiếng lào xào của lặng
thinh, lình bình nơi góc xó. Tiếng lào xào của thinh lặng này không chỉ xảy ra
nơi con trẻ, ở trời Tây, mà nhiều địa hạt khác, như: thi ca, âm nhạc, hội họa,
y tế, giáo dục, và nhiều thứ khác, nói chung nơi cuộc sống thực tiễn.
Cuộc
sống hôm nay, ngoài những thông tin rất “loạn” (hiểu theo nghĩa tiêu cực, bóng
bảy) còn thấy xảy ra hiện tượng người người chạy trốn, thoát rất xa khỏi chốn
miền thiên nhiên, triền miên im ắng. Cả và thiên nhiên hôm nay, lại cũng bị con
người dính tay vào để tàn phá, chỉnh sửa hoặc bố ráp theo ý mình. Ý của người vẫn
sử dụng tiền tài/của cải mà khuynh loát.
Nói
cách khác, những ai bận tâm lo lắng chuyện như thế, nay cảm nghiệm thêm lời người
nghệ sĩ xưa vẫn còn hát:
“Tiếng
ca bắt nguồn từ đất khô
Từ
mưa gió, từ vào trong đá xưa,
Đến
bây giờ, mắt đã mù,
Tóc
xanh đen vầng trán thơ,
Dòng
sông đó, loài rong yên ngủ sâu,
Mới
hôm nào bão trên đầu,
Lời
ca đau trên cao.”
Phải
chăng, tiếng lào xào của lặng thinh ở đâu đó, là “lời ca đau trên cao”? Phải
chăng, chỉ những ai biết được sự lặng thinh/im ắng mới cảm nhận được những ồn
ào của lặng câm, ở mọi chốn? Lời ca trên cao và tiếng ồn ào lặng câm ấy, không
phải ai cũng cảm và cũng thấy, nhất là chuyện lào xào nghe rất “phiếm” như chuyện
bên lề một điện thư/thư điện trên mạng mà bần đạo mới nhận từ bạn bè thân
thương, như sau:
“Cảm ơn anh em đã gửi cho bọn này bài viết có "lời lẽ rất
phá hoại". Phá cả Đạo lẫn đời. Đúng là “lời lẽ phá hoại” của những người rảnh
rỗi không có việc gì làm, hoặc có chủ đích phá Đạo, hoặc được trả tiền để làm
việc ấy.
Tôi không theo dõi loạt bài về "Cánh Chung luận"
qua lại giữa Gm Nguyễn Văn Khảm và những người "ăn theo" hoặc
"nói dựa", vì đâu hiểu gì vấn đề hóc búa là "Cánh Chung",
làm sao luận.
Tôi nghĩ, mình cũng nên để tâm hồn lắng đọng mà đi vào thinh
lặng, sẽ nghe và thấy nhiều, rồi hãy suy tư tản mạn chuyện "Lặng
thinh" luôn thấy cần. Mấy hôm nay, đầu óc bọn tôi cứ rong chơi đâu đó, nên
khó viết. Cầu mong mọi sự trở về với lặng thinh, bình dị để người người cảm nhận
được sự im ắng của thiên nhiên, vạn vật, cuộc đời.
Cầu chúc anh em và mọi người vẫn cứ bình an sau khi đọc các
bài viết mang tính "phá thối" ở trên mạng hay đâu đó, vẫn lền khên
xoá không kịp.”
Và
sau đó, một thư hồi âm từ bạn tri âm có tâm hồn cũng tri kỷ, lại rất kỹ như:
“Mong rằng Anh sẽ lắng nghe được "TIẾNG VỖ CỦA MỘT BÀN
TAY" để cảm nhận và nghe được nội âm vang lừng của TÌNH YÊU THƯƠNG, để viết
cho mọi người, không trừ một ai, cả những kẻ có ngôn từ phá hoại nữa.” (trích
điện thư qua lại của bạn bè trong nhóm thư từ rất điện tử hôm 03/02/2012)
Với
người đời, tiếng lào xào của lặng câm/im như hến, đến là thế. Đến như thế hoặc
rặt như vậy vẫn cứ ào ào, khiến con người càng đi dần vào cuộc cãi tranh, giành
giựt, tranh chấp. Tranh và chấp, cả khi có sự việc mà mình không tài nào nắm bắt,
như chuyện “Cánh chung luận” của ai đó vẫn còn đó. Tranh và chấp, cả khi các thứ
ấy không là “của bở” ăn được/uống được, mà vẫn chỉ lặng câm/im ắng, rất miên
trường.
Với
nhà Đạo, nỗi lắng đọng của lặng thinh mang ý nghĩa một mời gọi ở kinh sách
Thánh Hiền đề cập gọi mời mọi người hãy để ý:
“Khi
vạn vật chìm sâu trong thinh lặng,
lúc đêm trường chừng như điểm canh ba,
thì từ trời cao thẳm, lời toàn năng của Ngài
đã rời bỏ ngôi báu, ví tựa người chiến sĩ can trường
xông vào giữa miền đất bị tru diệt,
mang theo bản án không thể huỷ của Ngài
như lưỡi gươm sắc bén. “
(Khôn
ngoan)
Và,
Lời của Chúa còn đó rất buồn như sau:
“Còn
anh em, khi cầu nguyện,
hãy vào phòng, đóng cửa lại,
và cầu nguyện cùng Cha của anh,
Đấng hiện diện cả nơi kín ẩn.”
Thiết
tưởng, “Nơi kín ẩn” mà thánh sử nói đến, hẳn là chốn miền đầy ắp những
lặng thinh, tình thông thoáng. Có lắng đọng hiệp thông, chung sống với thiên
nhiên vạn vật, hoặc con người. Im ắng ấy, chắc không là tranh chấp, cãi tranh,
giành giựt như ngôn sứ Habacúc từng khẳng định:
“Và
Giavê, ngự trong thánh điện của Người ,
toàn thể cõi đất, hãy thinh lặng trước nhan Người!”
Trên
thực tế, nhiều “thánh điện của Chúa” vẫn trưng bảng chỉ dẫn “Nơi này, Nhà của
Chúa” để nhắn nhủ dân con bước vào đó, hãy cứ lặng thinh, im ắng, nguyện cầu.
Còn ngoài đời, làm sao tìm được chốn nguyện cầu im ắng, giống như thế? Vũ trụ vạn
vật vẫn còn đó, đón chờ loài người hãy cùng chim muông, thú vật, đến mà xem.
Xem rồi, hãy hòa mình mà lắng đọng trong thinh lặng. Và khi đã lặng thinh/im ắng
rồi sẽ phát hiện tình huống rất dễ thương, như truyện kể ở bên dưới:
“Nhà hiền triết nọ dẫn học trò đi ngao du khắp chốn trên đời.
Trong mười năm, thầy trò theo nhau đi hầu hết các nước, gặp hầu như tất cả những
người có học vấn. Nay, thầy trò trở về, người nào người nấy kinh luân đầy một bụng.
Kinh nghiệm đầy mình.
Trước khi vào thành, nhà hiền triết ngồi nghỉ trên bãi cỏ ở
ngoại thành, nói với học trò: “Mười năm ngao du, các con đều trở thành kẻ
sĩ học rộng hiểu nhiều. Nay, sự học sắp kết thúc, ta sẽ giảng cho các con bài học
cuối.”
Học trò kéo đến vây quanh nhà hiền triết. Một lát sau, bậc
thầy hỏi:
- Hiện chúng ta đang ngồi ở đâu thế?
- Dạ thưa, ta đang ngồi nơi bãi cỏ hoang ngoài thành.
- Trên bãi hoang này, có cây gì mọc lên không?
- Dạ, Bãi hoang này, mọc toàn cỏ dại.”
- Đúng! Nơi đây mọc toàn cỏ dại. Giờ ta muốn biết có cách gì để
trừ nó không?
Đám học trò thi nhau đáp:
- Dạ. Chỉ cần một xẻng là đi hết.
- Dạ thưa thầy, dùng lửa để diệt cỏ, cũng là phương cách rất
hay!
- Thưa thầy, theo em, rắc vôi lên là tốt nhất.
- Theo em, diệt cỏ phải trừ tận gốc. Chỉ cần nhổ được hết thứ
đó là xong!
Nghe
vậy, nhà hiền triết đứng dậy nói:
- Bài học hôm nay, đến đây là hết. Các con hãy đi về, làm theo
cách suy nghĩ của mình mà diệt cỏ. Nếu không được, năm sau quay lại ta nói chuyện
tiếp.
Năm sau, thầy trò quay lại, ai cũng thấy cỏ hoang hôm trước
nay trở thành đồng lúa ngô xanh tươi. Đám học trò quây quần bên đám ruộng, chờ
thầy đến, nhưng chờ mãi vẫn không thấy thầy. Ít năm sau, nhà hiền triết quá
vãng, đám học trò cũ của ông mới lại tìm đến nhau để tu sửa các tài liệu cùng
luận thuyết của thầy mình, chợt thấy ở chương cuối, ông có ghi thêm một câu: “Muốn
diệt hết cỏ dại ở bãi hoang, chỉ một cách hay nhất, là trồng cấy mùa màng ở
trên đó. Cũng vậy, muốn cho bãi cỏ nhà mình không còn lo buồn chuyện ồn
ào/huyên náo, cách duy nhất là đem vào đó, sự lặng thinh tuyệt đối, mới được.”
Học
thuyết của nhà hiền triết, có thể chỉ áp dụng trên giấy bút, thôi. Thực tế ở đời,
người người nên ứng dụng sự lặng thinh cho riêng mình, rồi sẽ thấy. Thấy và đạt,
chỉ khi nào ta quyết tâm sống bền bỉ, không nôn nóng. Đó mới là điểm son vàng của
cái gọi là “lặng thinh là tình đã thuận.” Thuận, trong an vui. Hiền hòa. Lặng lẽ.
Dấu Chân Địa Đàng
Trịnh Công Sơn - Hồng Nhung
Trần Ngọc Mười Hai
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét