Thứ Tư, 31 tháng 5, 2017

Trăm năm ly hợp 2

  Trăm năm ly hợp 2 
(Truyện lịch sử dòng họ Lê Khắc 
làng Văn Xá-Thừa Thiên Huế)
Chương 9 - Từ sấm ngữ Trạng Trình 
tới thành ngữ
Miền Bắc nhận hàng/ Miền Nam nhận họ
Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân.
Lúc ông tổ đằng ngoại của Văn Trí là Nguyễn Hoàng theo khuyến dụ của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, giữa thế kỷ 16 vượt Hoành Sơn (Đèo Ngang) lập đại nghiệp, thì ông tổ họ Lê bên nội của Trí đã từ Thanh Hóa nam tiến lập làng giữ nước ở Thuận Hóa trước đó trăm năm, giữa thế kỷ 15.
Nhưng với mấy anh em Văn Trí, thì ba thập niên cuối thế kỷ 20, từ miền Bắc xuôi nam theo câu sấm Trạng Trình là một cuộc chuyển cư đổi đời, vừa góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục phương Nam, vừa tác động gắn kết hòa hợp dòng tộc giữa hồi ly tán.
Văn Trí hăm hở lên đường Nam tiến ngay từ tháng 02 năm 1973. Đi bằng đường không mới sang chứ. Phóng xe đạp cuốc Liên Xô sang sân bay Gia Lâm. Người và xe chui tọt vào tàu bay. Lần đầu bay trên trời, sướng âm ỉ, dù chỉ cưỡi máy bay  đầm già loại cổ lỗ cánh quạt chậm rề rề. Đáp xuống sân bay Đồng Hới, đường băng trải tấm thép trên đất nện, máy bay chồm chồm tưởng như cưỡi trâu. Lại cắm cổ đạp xe vào Vĩnh Linh, qua cầu Hiền Lương là tới quê hương Bà mẹ Gio Linh- Mẹ già cuốc đất trồng khoai nuôi con đánh giặc đêm ngày/ Cho dù áo rách sờn vai cơm ăn bát vơi bát đầy... Trèo qua Dốc Miếu, cứ điểm tử thủ trên hàng rào điện tử Mac Namara. Anh du kích dẫn đường căn dặn nhà báo: cẩn thận đi theo từng bước, đặt chân đúng vết chân tôi đi trước, chệch là đạp phải mìn đó nghe. Trưởng phòng giáo dục Triệu Phong Nguyễn Văn Truyền đưa lên thăm chốt, nơi giáp ranh hai vùng phía ta và phía chính quyền Sài Gòn.  Nhìn lên, thấy bên này cờ sao vàng trên nền nửa đỏ nửa xanh, bên kia là cờ vàng ba sọc đỏ. Vùng xôi đỗ, da báo là đây. Triệu Phong có 5 xã lọt vào phía bên kia, cùng với huyện Hải Lăng và Thành cổ Quảng Trị - chiến trường khốc liệt từ tháng 6 đến tháng 9 năm 1972 phải hứng chịu một lượng bom đạn mà sức công phá của nó tương đương với 7 quả bom nguyên tử ném xuống Hérosima (Nhật Bản) trong đại chiến thế giới lần II - 1945.  Anh Truyền đưa Văn Trí đi thăm các lớp vừa xóa mù chữ vừa vỡ lòng. Các em nhỏ ngồi bên thanh niên du kích và cả các chị học vỡ lòng mà vàng đeo đầy người. Xúc động, về Hà Nội làm một cái ký chiếm trọn hai trang báo giới thiệu Trường học của miềng.   
Lê Khắc Hân thì đi cùng đoàn Trại sách B để hướng dẫn dùng sách giáo khoa mới. Rồi năm 1975 thì vào hẳn, góp phần dẫn dắt đội tuyển học sinh giỏi Toán Bình Trị Thiên 6 năm liền làm nên kỳ tích đẹp như mơ.
Hân tốt nghiệp khoa toán đại học sư phạm Vinh năm 1962, khi tròn 20 tuổi. Trong số 22 người con của ông Văn Phố, chỉ có Hân cầm trong tay bằng đại học chính quy. Vào nghề dạy toán ở cấp 3 Gia Lộc, Hải Dương. Dạy giỏi, viết lách khá, nên lọt mắt xanh cơ quan quản lý. Được điều lên Ban tu thư soạn sách giáo khoa B, tức là sách dùng cho các trường học vùng giải phóng phía Nam đang ngày càng mở rộng, cho tới 1975 thì mở ra toàn miền Nam.
Đó chính là cơ duyên đưa Lê Khắc Hân trở về trực tiếp phục vụ quê hương. Trên trang web của gia tộc Lê Khắc làng Văn, chú út đã thuật lại cặn kẽ thành tích huy hoàng ngành giáo dục Bình Trị Thiên bồi dưỡng học sinh giỏi môn toán giai đoạn 1975-1983.
“…Ngày đầu tôi đến ty giáo dục nhận công tác, anh trưởng ty Nguyễn Kỳ ôm vai thân mật, giọng Huế chay nhỏ nhẹ tình cảm: “… Hân chú ý, trong khi quán xuyến chăm lo chất lượng đại trà, đừng có quên mũi nhọn nhé.  Cái mũi nhọn chất lượngấy, tôi luôn nhớ. Lúc còn dạy học ở Hải Dương, tôi đã tham gia bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi toán của tỉnh, rất thú vị mô hình lớp phổ thông chuyên toán.                                  
Lúc này (1975-1976), miền Bắc đang theo hệ giáo dục phổ thông 10 năm, các lớp phổ thông chuyên toán đã có chế độ chính sách ưu đãi rõ ràng, đã thực hiện ổn định chương trình và sách giáo khoa, Thừa Thiên-Huế và toàn miền Nam thì thực hiện chương trình và sách giáo khoa mới của hệ 12 năm, chưa có chút gì cho chuyên toán. Vậy là phải tự làm từ bước đầu. Trước hết, xây dựng chương trình và biên soạn tài liệu giảng dạy. Tìm trong vốn nhà - tại chỗ, ở đại học tôi mời các anh Lê Đình Phi, Lê Tự Hỷ, Lê Tự Rô và ở phổ thông là các anh Châu Trọng Ngô, Lê Quanh Ninh, Ngô Viết Diễn, Ngô Hữu Phước, Lê Văn Thucùng nhau bàn thảo nội dung chương trình và chia nhau biên soạn giáo trình. Chọn trường Quốc học làm nơi đặt các lớp chuyên toánQuan trọng hơn hết là thuyết phục lãnh đạo tỉnh duyệt chế độ chính sách tạm thời cho lớp chuyên gồm học bổng và phần thưởng cho học sinh, kinh phí cho bộ máy nhân sự và cơ sở vật chất, chế độ lương thưởng đối với giáo viên. Cuối cùng là chọn thầy và tuyển trò. Nhanh chóng tìm ra cho mỗi lớp chuyên toán hai giáo viên giỏi phụ trách môn chuyên, còn giáo viên các môn khác chọn ngay trong trường Quốc học. Trò thì tổ chức thi tuyển. Năm học 1976-1977 đã là tỉnh lớn Bình Trị Thiên, trong một tỉnh có hai hệ giáo dục phổ thông, lấy Hiền Lương làm giới tuyến, nửa Nam hệ 12 năm, nửa Bắc hệ 10 năm. Trong khó khăn, ngay năm học ấy Bình Trị Thiên xuất quân tham dự kỳ thi học sinh giỏi với toàn miền Bắc và môn Toán đoạt giải nhất toàn đoàn.
Thực hiện cả hai hệ nên khối lượng công việc chỉ đạo chuyên môn, tổ chức thi cử... luôn phải nhân đôi. Dạo đó công cụ còn thô sơ. Tôi sử dụng thành thạo máy đánh chữ. Trong các kỳ thi toán, trưởng ty Nguyễn Kỳ (vốn là giáo viên toán) duyệt, tôi ra đề và đánh máy xtăng-xin, một công nhân quay rô-nê-ô. Tôi tự tay đốt bản xtăng-xin, bản in thử rồi cho đề thi vào phong bì, niêm phong. Đề thi đảm bảo tuyệt mật.
Thầy dạy chuyên toán cây nhà lá vườn, ưu tiên trẻ, thực sự có năng lực,  chú trọng phương pháp dạy tư duy cho học sinh giỏi. Ba thầy giáo trẻ Trần Văn Khải, Trần Thanh Thiên và Lê Văn Quang được phân công chủ nhiệm 3 lớp với sự tiếp tay của các nhà giáo tuổi nghề già dặn, kiến thức uyên thâm,  kinh nghiệm dày dạn như Ngô Viết Diễn, Lê Văn Thu, Ngô Hữu Phước Chúng tôi lần lượt mời các giáo sư Phan Đức Chính, Lại Đức Thịnh, Văn Như Cương, Ngô Xuân Sơn, Nguyễn Đăng Phất về Huế, vừa truyền đạt kinh nghiệm dạy học sinh giỏi toán, vừa bồi dưỡng các chuyên đề quan trọng cho đội tuyển.
Năm học thứ 3, Huế đã có Hồ Đình Duẩn được chọn vào đội tuyển quốc gia dự thi Olympic toán quốc tế (IMO) năm 1978 ở Rumani và em đoạt giải ba. Đó là thành tích đầu tiên của các tỉnh phía Nam! Và cũng là kỷ niệm không quên với bản thân tôi. Số là trong các lần Huế có học sinh giỏi được chọn vào đội tuyển quốc gia, tôi đều nhận lãnh nhiệm vụ chăn dắt các em. Kỳ thi năm 1978 ấy, thầy trò bay ra Hà Nội, lần đầu bỡ ngỡ, kinh phí eo hẹp, tôi đưa Duẩn về tá túc nhạc gia của tôi. Dù nhà cửa không mấy rộng rãi, ông bà cụ dành riêng cho thầy trò cả căn gác yên tĩnh để tu luyện. Ngày ba bữa, mẹ vợ tôi- một bà cụ Huế chính gốc - thết đãi món ăn Huế ngon lành khiến Duẩn lần đầu ra Hà Nội mà tưởng như sống ở nhà mình.
Thắng lợi quốc tế đầu tiên khích lệ chúng tôi lao vào việc bồi dưỡng các lứa học sinh giỏi tiếp sau. Tại Vương quốc Anh năm 1979, Lê Bá Khánh Trình đoạt giải nhất và giải đặc biệt. Năm 1982, tại Hungari, Ngô Phú Thanh giải nhì. Năm 1983, tại Pháp, Nguyễn Văn Lượng giải nhì và Hoàng Ngọc Chiến giải ba. ( Thành tích quốc tế gián đoạn bởi hai năm 1980 và 1981 nước ta không dự thi IMO; còn thi chọn học sinh giỏi  trong nước thì đội  toán của Bình Trị Thiên vẫn dẫn đầu).
Suốt đời tôi không quên cái đêm mưa Huế  dầm dề năm 1979 ấy, tình cờ đi qua một chiếc loa công cọng đúng lúc phát thanh viên đọc vang lên Lê Bá Khánh Trình đoạt giải nhất và…” Vậy là hối hả đạp xe tới nhà anh Nguyễn Kỳ. Chia sẻ niềm vui, ôm nhau trong đầm đìa nước mắt.
Lê Trần Cảnh thời kỳ 1960-1970 đã học thêm văn hóa tốt nghiệp tú tài, rồi lẽo đẽo theo trường Đại học Sư phạm Vinh thời chiến sơ tán lên vùng núi Thạch Thành, dùi mài đèn sách 3 năm ròng, lấy bằng chính quy Đại học Toán. Năm 1975, anh Cảnh chuyển vùng về quê vợ, làm tổ trưởng chuyên môn, dạy toán cấp 3 Hương Trà được 3 năm thì về hưu. Học trò cũ thường rủ nhau tới thăm thầy Cảnh, biếu cân chè, chai rượu Có những món quà giá trị vật chất đâu có nhiều mà nhớ mãi. Năm ấy học trò Hương Trà kéo lọc cọc vào thành phố Huế một xe ba gác chất đầy thân cây sa mộc đã cưa bằng đầu bằng đuôi, chở tới nhà số 10 Trần Thúc Nhẫn, nói là quốc lộ Một mở rộng nên triệt hạ hàng cây bên đường mà thầy Cảnh đã cùng bọn em trồng năm 1976. Nhà trường bảo chúng em mang thành quả của thầy ngày xưa tới biếu thầy.
Tấm lòng trọng đạo tôn sư  làm dịu nỗi buồn nhà giáo già. Anh Cảnh tự vịnh:
Sống đến tám mươi kể đã nhiều
Xưa nay tuổi ấy có bao nhiêu
Tai lành tai điếc nghe ngơ ngác
Cẳng thấp cẳng cao bước vẹo xiêu
Mắt sáng mắt mù nhìn chập choạng
Tay run tay rẩy viết cong queo
Ơn trời cái óc còn minh mẫn
Vẫn cứ ngày ngày đủ mấy chiêu   
Quý 3 năm 1975, nhà xuất bản Kim Đồng tái bản lần hai cuốn truyện Mái trường thân yêu, Văn Trí tới nhận nhuận bút, gặp nhà văn Văn Hồng, trưởng phòng biên tập. Trí thân với Hồng từ 1964, khi Hồng viết bài trên tạp chí Văn học giới thiệu nồng nhiệt cuốn Mái trường…” Sang 1968, Mái trường…” tái bản lần đầu, cũng chính Hồng góp một số ý đột phá giúp Trí bổ sung nhuận sắc.
Đếm đủ tiền nhuận bút, cất túi, gài nắp cẩn thận, Trí mới quay ra tán gẫu. Thời điểm ấy, cán bộ Hà Nội đang ùn ùn vào nam thăm thân, rộn ràng miền bắc nhận hàng, miền nam nhận họ. Văn Hồng hỏi Trí:
- Nghe bảo cậu vừa đi Sài Gòn thăm anh chị ruột, khuân ra bắc cả núi quà?        
- Ờ, xếp chật toa tầu - Văn Trí cười to - Nhưng anh chàng nhà báo Bắc Việt này vẫn tư thế ngẩng cao đầu, cho không lấy thấy không xin. Mua sắm thứ gì, mình xì tiền túi. Không nhận quà tặng. Không ngửa tay xin. Chẳng thiết nhận hàng!
Văn Trí vào Sài Gòn từ giữa tháng 7-1975. Hành trang gọn nhẹ.  Xẹp lép sau lưng chiếc ba lô con cóc. Cộm túi ngực mớ tiền ngân hàng quốc gia Việt Nam vừa rút từ sổ tiết kiệm. Thêm một tấm thẻ nhà báo kèm giấy phép đi vào miền Nam do Ban Thống nhất trung ương cấp. Chặng đầu, Hà Nội - Vinh, đi đường sắt, ngồi tàu đêm có hai toa dành riêng chở cán bộ về Nam thăm quê. Bốn giờ sáng tới ga Vinh. Đoàn xe tải lù lù chờ sẵn. Văn Trí leo lên chiếc cuối, ngồi bệt sàn xe, chen vai thích cánh mấy chục bạn đồng hành háo hức hồi hương sau mấy chục năm tha phương. Xe chạy dọc quốc lộ Một. Con đường huyết mạch vùng cán xoong, sau 8 năm đạn bom băm nát, chỉ kịp sữa chữa chắp vá sơ sài. Xe tải bò rì rì, xóc nẩy tưng tưng. Tới Đà Nẵng, đổi xe khách, mỗi người một ghế đệm êm ru. Lao như bay trên đường nhựa phẳng lì. Chỉ giảm tốc độ tránh xe ngược chiều. Đoàn người đi phép xuôi nam răm rắp quay đầu sang trái, dán mắt ngó xe ngược bắc. Qua khung cửa sổ, không tài nào nhìn rõ mặt những người trả phép, mà chỉ thấy hàng hóa ngôn ngốt chồng chất, toàn những búp bê nhựa, quạt máy, khung xe đạp. Xe Trí xuýt xoa bàn tán hết ồ tới à. Xôn xao từng chặp, vẫn chủ đề Bắc Nam một nhà thì miền Bắc nhận hàng, miền Nam nhận họ.
Vào Sài Gòn, Văn Trí cũng hăm hở săm soi các loại  hàng điện tử, vải vóc ê hề. Nhưng giữ kẽ, không xin. Anh Trần Văn Kinh và chị Bích Hà ép mãi, Trí mới cầm một chiếc chemise cũ của cháu Anh Tuấn, kiểu áo đuôi tôm lạ mắt. Trí đem bọc tiền mang từ Hà Nội ra chợ Bến Thành đổi lấy tiền Nam, suýt bị hai thằng du thủ du thực cướp trắng bằng trò làm xiếc nhanh như chớp đánh tráo gói tiền. May có mấy cháu gái Thục Hà, Phi Hà bọc lót áp sát kịp vạch trò gian. Anh chị và các cháu dẫn lượn chợ, khuân về la liệt nào quạt máy, vải vóc, máy thu thanh, xe đạp. Cầm bản kê dài dằng dặc Quà tặng gia đình xin mang ra Bắc tới Ủy ban quân quản thành phố, được bút phê độc một chữ thuận kèm con dấu đỏ chót, thế là yên trí lọt qua Trạm kiểm soát liên hợp đầu cầu Hiền Lương.
Đồ đạc lỉnh kỉnh chất lên mui ô tô khách, chằng buộc kỹ lưỡng, êm thấm vượt hai chặng đổi xe đường dài Sài Gòn - Huế và Huế - Thanh Hóa. Chặng cuối, xe lửa Thanh Hóa - Hà Nội mới thật là chuyến tàu bão táp.
Chuyến tàu Vinh - Hà Nội chậm mất hai giờ, giữa trưa lừ đừ vào tới ga Thanh Hóa thì đã chật ních người. Toa nào toa nấy như nêm cối. Khách ào lên tàu, chiếm chỗ đứng ở bậc lên xuống. Người đeo bám cửa toa như chùm mít lúc lỉu. Trí đang điên ruột giữa đống hàng ngổn ngang thì ở khung cửa sổ giữa toa số 7, thò ra một mũ cối gắn quân hiệu, một gương mặt trẻ măng nhễ nhại mồ hôi, và tiếng thét to: Này, chuyển hàng lên đây bọn em giữ cho. Thôi đành liều. Trí thoăn thoắt nâng nâng, dúi dúi, nào túi nào bọc, nào ba lô, quạt máy. Khiếp, của nả ở đâu khuân ra lắm thế! Tất cả sáu món, nhớ nhé. Thôi nhanh lên mang gửi xe đạp kẻo tàu chạy bây giờ! Trí cuống cuồng chạy lên toa chở hàng ở đầu đoàn tàu, gửi được chiếc xe, chạy dọc đường ke về toa số 7 vừa hay tàu rúc còi báo hiệu chuyển bánh. Ở cửa sổ chỉ loang loáng thấy người lúc nhúc. Đầu tàu hổn hển, bánh tàu xục xịch. Trí hớt hải giật lui về cuối toa. Bậc lên xuống người bu đông đặc. Chới với. Không tài nào len lên. Đúng lúc đó, ở cửa sổ phòng vệ sinh ló ra một cái mũ bộ đội với cánh tay huơ huơ: nhảy bám lên đây, cánh tớ kéo! Tối tăm mặt mũi, không còn hiểu nổi mình chui qua cửa sổ bằng cách nào, cuối cùng rồi cũng đứng được một chân trong phòng vệ sinh chen chúc quân phục. Ơn trời, cái mũ cối chụp trên đầu và cái máy thu thanh bán dẫn Sony đeo hông vẫn còn nguyên! Cứ nghiêng người đứng một chân như thế suốt 7 giờ. Tịnh không thấy nóng bức, mỏi mệt. Chỉ lo ngay ngáy về các món hàng coi như đồ vô chủ đang nằm rải rác đâu đó trong toa. Mỗi khi tàu dừng ở ga xép, Trí lại cố lách người thò đầu qua cửa sổ, dõi theo ai đó vẻ mặt sao nom gian gian, đồ đạc mang xuống sao nom giông giống gói bọc của mình. Phấp phỏng, hồi hộp rồi le lói hi vọngThôi đành, trời cho sót lại món nào mừng món đó.
Tối sập, tàu mới tới ga Hàng Cỏ Hà Nội. Mạnh ai nấy chen. Lúc Trí tay không lách ngược dòng người, tới được giữa toa số 7 thì chẳng còn thấy một chiếc mũ bộ đội nào. Hốt hoảng nhìn xuống các gầm ghế. Đây rồi, một. Đây rồi, hai. Đây, ba, bốn, năm. Và thở phào: sáu. Đủ cả sáu món hàng, gói bọc ni lông không xuy xuyển, cánh quạt máy không cong vênh. Rõ là phép lạ!
Thế là Văn Trí vào cầu! Nguyên tiền chênh lệch bằng một năm lương phóng viên bậc 5 mỗi tháng 86 đồng. Hàng họ mang ra chỉ dùng ít vải vóc, thửa một bộ Tôn Trung Sơn 4 túi láng cóng, còn thì cho đi ở.
Cứ một hai năm có chuyến công tác vô Nam, Văn Trí đều kết hợp khuân hàng ra. Năm 1977, Văn Trí cùng nhà thơ Nguyễn Thái Vận đi tuốt xuống Cà Mau, làm việc quên giờ giấc, và qua mỗi tỉnh đều xin giấy mua phân phối một cái xe đạp. Cuối đợt, Vận một con khiêm tốn nhận phần một xe, còn Trí bốn con ham hố ba chiếc! Năm ấy tàu Thống nhất bắt đầu chạy suốt Sài Gòn Hà Nội. 4 xe, buộc làm 2 cặp. Thuê xích lô ra ga Bình Triệu. Vào cửa soát vé, hai cây bút sức yếu, không vác nổi mỗi người một cặp xe. Bèn hò nhau khuân một đoạn lại đặt xuống, quay lui khuân tiếp, kiểu sâu đo. Mấy cô soát vé lắc đầu cười thông cảm.
Chuyến ấy quá cồng kềnh nên chơi sang thuê xích lô. Chứ thường thì đi công tác dè sẻn từng hào. Không ở khách sạn mà ngủ nhờ phòng tập thể 2B Điện Biên Phủ của nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm. Nằm tạm ghế bố đặt trong toa-lét cũ. Ăn thì tùng tiệm nấu một món trên cái bàn ủi chổng ngược làm bếp điện, mấy anh em xì xụp qua quít. Từ nhà Tiềm ra ga Bình Triệu đi tàu Thống nhất, Văn Trí vẫn tay xách nách mang cuốc bộ. Có bữa một bác xích lô đang ngồi vểnh râu đọc báo, thấy Trí lếch thếch ngang qua, liền mời cậu hai ơi ngồi lên xe đi cho lẹ. Dạ, cám ơn, gần tới Bình Triệu rồi, đi bộ khỏe người. Khỏe chi, túi nhỏ túi lớn trĩu sau lưng trì trước mặt bễ bượi hai vai. Trời đổ lửa, mặt hăm hia mồ hôi giọt giọt thế kia! Thôi ngồi lên đây tôi xin cậu ba cắc thôi! Trí chịu thua. Ông xích lô đi đường vui chuyện. Quý anh Hà Nội làm ăn tiêu pha khác chúng tôi. Quý anh lĩnh được đồng lương nào là nộp hết cho vợ, đố có sơ sểnh lấy một cắc. Sài Gòn bọn tôi khác. Đạp xích lô một ngày kiếm được mươi lăm đồng thì mang về cho má nó một chục. Còn mình dằn túi vài đồng, phòng khi xe hư bất tử. Rồi sáng sáng nhâm nhi tờ Tuổi Trẻ, tô hủ tiếu, ly cà phê. Lựa thêm tờ vé số lấy hên. Tụi tôi quen sống cách ấy, có chút tiền chia nhỏ nhiều người xài. Đồng tiền chui khỏi túi tung tẩy đây đó. Tiền ra cửa tiền đẻ. Ngoài phố trong chợ Sài thành thêm công ăn việc làm kẻ bán người muaTrí cũng góp chuyện. Như tôi ngoài Hà Nội ấy à, có ba thằng con trai sao tóc trẻ con mọc nhanh thế. Liền sắm bộ tông đơ. Đè con ra húi đầu. Mỗi tháng coi như bỏ vô heo đất chín cắc! Nhà báo nhà xe cười rổn rảng!
Rồi tới lúc sực nghĩ: Ờ nhỉ, mình là nhà báo, thì phải tự cứu bằng tờ báo chứ nhỉ.  Nài nỉ xin Bộ Thông tin cho ấn hành một phụ san. Mùa hè 1990, được cấp giấy phép số 198/BTT cho xuất bản mỗi tháng một số chuyên đề báo Giáo viên Nhân dân.
Nhưng cái tên đạo mạo ấy làm sao góp mặt đua tranh trên sạp báo Sài Gòn?
Ở 14 Lê Trực Hà Nội, ngôi biệt thự ba tầng xinh xắn mà trước cổng còn nám đen dấu tích lịch sử đêm đông 1972 pháo đài bay B52 phơi xác bốc cháy đùng đùng, trên lầu một, bộ ba Trường Giang, Văn Trí, Đỗ Quốc Anh ấn định tên phụ san là THẾ GIỚI MỚI. Ở 35 Lê Thánh Tôn Sài Gòn, nhà thơ - họa sĩ tài danh Hoàng Ngọc Biên cùng nhà thơ - họa sĩ tài tử Đỗ Trung Quân phóng bút sáng tạo cái manchette THẾ GIỚI MỚI đầy ấn tượng.
Nhưng nhà in lắc đầu: không dám Thế Giới Mới đâu nha, cứ phải Giáo viên nhân dân y chang tên khai sinh ghi trên giấy phép!
Phải xoay xở chạy giấy phép con. Canh me đúng dịp thứ trưởng phụ trách báo chí Phan Hiền và vụ trưởng báo chí Lưu Văn Hân đi nước ngoài, báo Giáo viên Nhân dân làm tờ trình, tha thiết xin cho phụ san mang tên Thế Giới Mới vì các lý do a, b, c, đ Một phó vụ trưởng báo chí bút phê xeo xéo bên lề rằng “…Lãnh đạo đi vắng, việc gấp, Vụ  đồng ý cho số này tạm thời mang tên Thế Giới Mới…” Cộp con dấu quốc huy đỏ chói. Máy in lập tức vận hành. Thứ trưởng và Vụ trưởng ở nước ngoài về, cầm ấn phẩm trên tay, ngó cái bìa, đọc lướt vài bài, tặc lưỡi: cũng được. Số tiếp đó, lại số tiếp nữa vẫn thế, cũng được. Không ai còn nhớ hai chữ tạm thời. Mấy tháng sau, cấp phép tăng kỳ thành bán nguyệt san, THẾ GIỚI MỚI chính thức vào sổ bộ khai sinh.
Những số đầu, 100 trang Thế Giới Mới chỉ dành 30% cho chủ đề giáo dục. Ít mà tinh. Toàn chuyện nóng hổi của nhà trường: thay sách giáo khoa, tin học nhập môn, giáo dục giới tính, bồi dưỡng năng khiếu, đào tạo nhân tài, cải cách đại học
Phân nửa dung lượng dành đăng tải tri thức mới, chuyện lạ thế giới, bổ ích hấp dẫn. Đầu thập niên 1990, báo chí nhập khẩu nhỏ giọt chỉ phục vụ cho đối tượng đặc biệt, lại về chậm cả tháng. Các cây bút biên dịch của Thế Giới Mới phải kỳ công mai phụcở sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất săn lùng từng tờ báo nhàu nhĩ do du khách nước ngoài quăng lại sau chuyến bay xuyên lục địa.
20% còn lại ưu ái dành cho nhà nghiên cứu điện ảnh gạo cội Sâm Thương giới thiệu các bộ phim hút khách và các ngôi sao màn bạc Hồng Kông, Đài Loan. Ban đầu Văn Trí còn chần chừ: liệu có rẻ tiền mì ăn liền không anh ơi? Sâm Thương đánh thông lập tức: phải chiều thị hiếu thượng đế. Thiên hạ đang phát cuồng lên với phim bộ Đài Loan, Hồng Kông (thời ấy chưa tới lúc phim hành động Mỹ, cổ trang Tàu, ái tình Hàn làm mưa làm gió ở Sài Gòn). Miễn rằng liều lượng hợp lý. Phải dụ người ta xỉa tiền mua báo. Bìa phải bắt mắt, ảnh phải đẹp, và mỹ nữ phảihở hang tí chút vừa đủ khêu gợi tưởng tượng, mà không bị tuýt còi!
Thế Giới Mới số 1 liều lĩnhấn hành 12.000 bản, bán hết nhẵn trong vòng 5 ngày! Số 2 in 14 ngàn. Số 3, số 4 lên tới 20 ngàn. Từ năm 1993, 1994 trở đi, mỗi tháng bán ra thị trường trên 200 ngàn bản Thế Giới Mới.
Đạt tới thành tựu như mơ, trước hết nhờ đội ngũ tác giả. Ngay từ những số đầu, đã có Dương Thiệu Tống, Văn Như Cương, Hoàng Hữu Đản, Lê Ngọc Trà, Sâm Thương, Hoàng Ngọc Biên, Đỗ Trung Quân, Phong Thu. Cộng tác viên nòng cốt có Nguyên Ngọc, Ma Văn Kháng, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Khải, Nguyễn Kiên, Lê Nguyễn Đội ngũ biên tập viên hùng hậu: Trần Quốc Toàn, Vũ Trọng Thanh, Đào Quốc Toàn, Phạm Bá Thủy, Phăng - Xi - Păng, Trịnh Quân, Nguyễn Khoa Đăng, Hoàng Đình Quang, Nguyễn Thị Minh Thái, Hà Văn Thùy, Nguyễn Đăng Thanh, Lê Khắc Thao, Lê Lam Phong và cả ca sĩ ưu tú Tuấn Phong. Bộ máy điều hành mỗi người chuyên trách một hai việc. Đỗ Quốc Anh vừa làm thư ký tòa soạn vừa lo ngoại giao liên kết. Nguyễn Vũ Tiềm vừa tập hợp các cây bút chuyên nghiệp thơ văn vừa khai phá bài vở khoa học huyền bí bằng chuyên mục có cái tên rất gợi Vào ngưỡng cửa thế giới chưa biết. Lê Khắc Hân phát huy chỗ mạnh nhà quản lý giáo dục, khai thác chất xám các nhà khoa học hàng đầu trong nam ngoài bắc. Bên cạnh đó là một Hội đồng biên tập thông tuệ hiếm hoi: các giáo sư tiến sĩ khoa học Nguyễn Cang, Châu Diệu Ái, Nguyễn Chung Tú, Đào Văn Tiến, Lê Ngọc Trà, các chính khách, ủy viên trung ương Đảng Huy Cận, Nguyễn Duy Quý, Vũ Tuyên Hoàng, Hữu Thọ. Không phải là trưng tên lên trang Thể thức kiểu bày hàng sang trọng câu khách! Mà từng ủy viên biên tập là tiến sĩ khoa học đầu ngành nhập vai thực chất, phụ trách thẩm định bài vở khoa học chuyên ngành. Hai vị Trung ủy, Vũ Tuyên Hoàng và Hữu Thọ, đảm nhận hẳn hai chuyên mục cực kỳ hấp dẫn bởi chất thời sự và tính trí tuệ, là Chuyện đờiSổ tay nhà khoa học, đều đặn gửi bài từ Hà Nội vào, đăng liên tục vài trăm kỳ Thế Giới Mới, sau đó nhà xuất bản Hội Nhà Văn ấn hành toàn tập.
Các cây bút đồng tộc có thâm niên Sài Gòn như Lê Khắc Thành, Lê Khắc Cầm, Lê Khắc Quảng, Lê Khắc Tích cũng thường lui tới tòa báo thăm hỏi, góp ý, góp bài. Một nguồn động viên lớn với anh em nhà Văn Trí.
Một sáng thứ hai, thình lình anh Văn Khê ghé thăm Thế Giới Mới. Ông này lạ, suốt tuổi 50 bấy bớt mà vượt mốc 60 lại phát tướng. Có da có thịt, mặt mũi hồng hào. Khê nháy mắt: nhờ được cởi trói, liều mạng bung ra tổ chức làm sách tham khảo cho thầy trò. Khê vừa nhận sổ hưu, nay đi ké với đoàn cán bộ giáo dục Ninh Bình tham quan miền Nam. Thực ra mục tiêu chính của Khê là học lỏm cách làm ăn của mấy bác đầu nậu Sài thành! Khê dặn: em Trí có dịp đi địa phương nhớ dò hỏi xem có ai biết anh Thụ nhà chị Vân đang ở đâu, lạ quá, hòa bình thống nhất hơn mười năm mà sao không liên lạc ra Bắc. Khê rủ Trí: khi nào ra Bắc họp tranh thủ về Hoa Lư, thăm Xóm Lê Khắc đông vui, xây thêm 5 cái nhà lầu hẳn hoi rồi Trò chuyện tới đó thì Khê phải quay trở về nhập đoàn tham quan, và Trí cũng bận chủ trì họp cơ quan.
Thành nếp, sáng thứ hai hàng tuần Thế Giới Mới họp tòa soạn rút kinh nghiệm số báo vừa ra và nhìn sang báo bạn học điều hay. Học tới đâu áp dụng tới đó. Báo chí Sài Gòn giỏi tương tác giao lưu, thì Thế Giới Mới mở thêm sân chơi các loại cho cả trăm ngàn bạn đọc. Báo bạn đi đầu làm từ thiện thì báo mình bỏ ra mấy trăm triệu đồng trao học bổng sinh viên Cao đẳng Sư phạm Sài Gòn và trao tiền hỗ trợ các nhà giáo ưu tú trong cả nước. Báo chí Sài Gòn trả nhuận bút rất cao? Thì ta học theo. Ngoài Hà Nội trả mỗi bài năm mươi ngàn thì ta trả hai trăm, ba trăm, thậm chí năm trăm ngàn. Thi tài sáng tác truyện rất ngắn 1000 chữ, Phan Thị Vàng Anh được trao giải nhất 10 triệu đồng, trị giá bằng 4 tấn gạo ngon!
Chẳng còn ai ngạc nhiên thắc mắc tại sao bài hay ảnh đẹp khắp nơi đổ dồn về Thế Giới Mới!
Những năm đầu thập niên 1990, bùng nổ phụ san, hầu như mỗi tờ báo đều ra phụ san, và các tỉnh thành, các nhà xuất bản cũng đua nhau ấn hành phụ bản, số chuyên đề theo kiểu tạp chí trá hình. Thế Giới Mới là thương hiệu ăn khách, kích thích làng báo cả nước đột nhiên xuất hiện hàng loạt tờ thế giới…”: Thế Giới Trẻ, Thế Giới Phụ Nữ, Thế Giới Điện Ảnh, Thế Giới Âm Nhạc, Thế giới Hoa Ngữ, Thế Giới Trong Ta Tuy nhiên, sau một thời gian thị trường sàng lọc, không ít tờ sang hẳn thế giớibên kia.
Năm 1990, cùng lúc với Văn Trí, dăm chục nhà văn, nhà báo từ Hà Nội nam tiến hội nhập làng báo Sài Gòn. Sang tới 1995, 1996, lục tục hồi cư - quay về Thủ đô. Còn Thế Giới Mới trụ lại Sài Gòn, phát triển thành tạp chí tri thức tổng hợp ra hàng tuần trực thuộc Bộ, vững vàng đóng đô ở tòa nhà đồ sộ 322 Điện Biên Phủ. Là tòa báo duy nhất trú đóng Sài Gòn mà chủ quản là cơ quan trung ương ở tận Thủ đô. Ăn nên làm ra, tiếng tăm không chỉ quanh quẩn Sài thành. Thủ trưởng trung ương các ngành tuyên huấn, văn hóa, giáo dục, thủ lĩnh các Hội đoàn văn hóa văn nghệ cùng với bầu bạn làng báo làng văn ngoài Bắc trong Nam, hễ có dịp tới Sài Gòn là tranh thủ ghé thăm Thế Giới Mới.
Hầu như ở cuộc giao ban tuần nào, tòa soạn cũng nhắc nhau đặc biệt lưu ý chiều lòng bạn đọc. Bạn đọc là thượng đế. Thượng đế số một. Báo càng bán chạy càng quý từng người đọc, bạn chí thiết không bao giờ rời bỏ Thế Giới Mới. Cả những lúc nguy nan, dăm ba lần sa sẩy tai nạn nghề nghiệp thông thường không báo nào tránh khỏi.
Đó là khi các nhà quản lý báo chí – “thượng đế số hai, gọi cách khác là trọng tài cảnh cáo bằng thẻ vàng, thậm chí giơ thẻ đỏ. Mở đầu là vụ Thế Giới Mới 28 sexy. Chiều thượng đế quá đà, lượng bài tươi mát nhiều một chút, bị người nghiêm nghị phàn nàn (thực ra, mức độ sexy ở TGM28 chỉ là muỗi so với thực trạng báo chí Việt Nam đầu thế kỷ 21). Nặng đô hơn, có mùi chính chị chính em, là Thế Giới Mới số 78 đăng tải truyện ngắn dự thi Pho tượng linh thiêng. Ai đó tung tin cắc cớ: ám chỉ thần tượng nào đấy nhỉ. May có Trung ủy Hữu Thọ xuất chiêu đỡ đòn: không có chuyện biểu tượng hai mặt ở đây, nhưng thôi các cậu từ nay cẩn thận hơn chút. Nghiêm trọng nhất là vụ  Đường tăng. Năm 1994, Thế Giới Mới phối hợp với nhà xuất bản Hội nhà văn ấn hành tuyển tập Truyện rất ngắn trong đó có tác phẩm Đường tăng, truyện được đổng giải nhất với Hoa muộn của Phan Thị Vàng Anh. Giữa buổi sáng hôm ấy, thình lình nhiều trăm nhà sư bủa vây tòa báo kiến nghị phản đối Truyện ngắn Đường tăng bôi nhọ nhà Phật. Áo vàng ngút ngát chiếm cứ khoảnh sân trước mênh mông của tòa nhà 35 Lê Thánh Tôn. Lại còn đứng ngồi lô xô kín các bậc cầu thang, làm hậu thuẫn cho đoàn đại biểu mươi tăng lữ chức sắc gay gắt chất vấn. Văn Trí, rồi Đỗ Quốc Anh, luân phiên đối thoại nhã nhặn, giải thích rằng đây là văn chương hư cấu. Nhưng vẫn không yên. Có kẻ giấu mặt giật dây nhằm cái đích ngoài văn chương, ngoài tôn giáo. Đơn thư cáo buộc Thế Giới Mới bay tận thiên đình! Có chỉ dụ xuống Bộ Văn hóa Thông tin. Bộ trưởng Trần Hoàn buộc phải ký quyết định thu hồi tập Truyện rất ngắn. Song, tiếng còi thu hồi ré lên, lập tức sách bán sạch bách. Và nhiều năm sau đó, đáp ứng nhu cầu bạn đọc, các nhà xuất bản in tái in hồi vài chục lần tác phẩm chất lượng cao ấy (chỉ bỏ bớt truyện Đường tăng cho an toàn).
Năm 1996, nhà xuất bản Kim Đồng ấn hành lần thứ sáu Mái trường thân yêu, trân trọng đưa vào Tủ sách vàng. Có cái lộc ấy là do cơ hội vàng ròng tân giám đốc Nguyễn Thắng Vu rinh tùng rinh rước được chú mèo máy Đô-rê-mon từ xứ Hoa anh đào về Việt Nam, làm nên cuộc lột xác thần kỳ của nhà Kim Đồng. Văn Hồng tái ngộ Văn Trí ở Sài Gòn. Bấy giờ, tại tòa lầu 322 Điện Biên Phủ Quận Mười đang manh nha mầm mống một tập đoàn báo chí của ngành giáo dục. Đỗ Quốc Anh làm tổng biên tập Thế Giới Mới. Nguyễn Vũ Tiềm và Lê Khắc Hân vừa phụ trách cơ quan thường trú của báo Giáo dục-Thời đại vừa mở thêm báo mới. Tiềm đẻ ra phụ san Tài Hoa Trẻ. Hân kiêm nhiệm báo Dân Trí. Tổng quân số tòa báo liên hợp trên bốn chục cây bút. Bạn bè quen thân gật gù khen: Khá đấy. Năm 1991 là tòa báo trà-đặc-Bắc-kỳ làm riêng tờ Thế Giới Mới. Nay làm 4 tờ, Giáo dục-Thời đại, Thế Giới Mới kiêm Tài Hoa Trẻ và Dân Trí thì phải kêu bằng tòa báo DÂN GIÁO TÀI THẾ- dân giáo dục làm báo tài thế!
Văn Hồng nói: Mình muốn tặng tập thể 322 Điện Biên Phủ một danh xưng ấn tượng hơn. Vài chục nhà giáo cự phách kiêm cây bút văn chương có hạng, mà chung tay xây được tòa báo giàu. Đi đầu xóa cái dớp thảm hại nhà văn nhà báo nhà giáo nhà nghèo. Mình sẽ viết bài tôn vinh tập thể đầu tiên ở nước ta đạt danh hiệu bốn nhà trong một: nhà văn-nhà báo-nhà giáo-nhà giàu.
Rồi Văn Hồng đay lại chuyện cũ. Trí chưa quên chứ, năm 1975, cậu từng vênh váo cây bút miền Bắc vào Nam không thiết nhận hàng. Nay thành tâm cúi đầu phản tỉnh đi! Ông Nguyễn Thắng Vu nhà Kim Đồng khởi nghiệp từ con mèo máy Đô-rê-mon xứ Nhật. Còn Thế Giới Mới ban đầu bốc lên nhờ những thông tin tân kỳ hút hồn cóp nhặt từ mớ báo Âu Mỹ ở sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất. Không nhận hàng của người ta, có tới tết Công Gô thì Kim Đồng và Thế Giới Mới cũng còn lệt bệt!
Đúng quá Trí hưởng ứng ngay - Nhưng Kim Đồng và Thế Giới Mới nhận hàng không đơn giản chỉ là nhận nguyên liệu chất liệu như anh Hồng vừa nói. Trí đã ngộ ra điều bao trùm hệ trọng. Thế Giới Mới ăn nên làm ra là nhờ cung cúc tìm thầy học đạo. Đạoở đây là toàn bộ cung cách làm báo làm sách của Sài Gòn. Trả nhuận bút tương xứng chất xám người tài để thu hút bài hay. Guồng máy in ấn thế nào cho hiệu quả? Mạng lưới phát hành nhanh nhậy rộng khắp thế nào? Quan trọng số một là làm báo làm sách phải chiều theo nhu cầu món ăn tinh thần của thượng đế bạn đọc. Đó là cung cách vùng thoát đổi đời Kim Đồng Nguyễn Thắng Vu. Cũng là phép lạ đổi đời Văn Trí.
Từ khoảng giữa thập niên 1970, Văn Trí đã là cây bút hàng đầu của báo chí giáo dục. Từng viết ngàn bài lớn nhỏ biểu dương nhân tố mới, giới thiệu kinh nghiệm  đơn vị tiên tiến, trường học anh hùng. Từng lên núi xuống biển ra bắc vào nam phụ trách hàng chục lớp bồi dưỡng thông tín viên báo chí. Về địa phương, tới cơ quan quản lý giáo dục tỉnh huyện hoặc thăm trường tiên tiến, không cần xuất trình thẻ, chỉ xưng tên tôi là Văn Trí liền được đón tiếp niềm nở thân tình! Nhưng đầu thập niên 1990, bắt tay xây dựng cơ ngơi mới ở Sài Gòn, Thiên đường báo chí, Văn Trí dứt khoát xác định mình vào đây làm môn đồ thụ giáo làng báo phương Nam. Càng suy ngẫm càng thấm thía bài học khai tâm mà các ân sư tận tình truyền dạy cho trò Trí những ngày chập chững. Nói khơi khơi, như đùa như thật, rằng quý anh ngoài ấy bao nhiêu năm ca như vẹt cái điệp khúc Làm theo năng lực - Hưởng theo nhu cầu. Tụi tôi trong này xin vô phép chế chút xíu, hoán vị, thay chữ, kêu bằng Làm theo nhu cầu - Hưởng theo hiệu suất. Cái gốc thành công là Làm theo nhu cầu. Nhu cầu của bạn đọc, của thị trường báo chí. Bí quyết của Thế Giới Mới chính là chìa khóa vàng Làm theo nhu cầu, làm báo theo cơ chế thị trường.
Văn Hồng gật gù: chí lý. Cái chìa khóa vàng này ở phương Nam đã có lịch sử dày công bền bỉ đúc rèn ròng rã mấy trăm năm, từ thời Tây, thời MỹMấy chục năm qua không chỉ riêng người làm báo làm sách ở phía bắc, mà hàng chục ngành kinh tế, văn hóa, xã hội đã may mắn nhận được bài học cơ chế thị trường.
Ờ nhỉVăn Trí sực nghĩ điều cốt lõi sâu xa: tiếp thụ bài học kinh tế thị trường, mình  không chỉ nhận hàng mà thực chất chính là nhận họ. Một khâu trọng yếu trong chu trình ly hợp! Bốn chục năm ly hương ra Bắc, mình lơ ngơ cải họ theo tập trung quan liêu bao cấp, thất tán lạc loài, nay hồi hương về Nam, sung sướng nhận lại họ hàng gốc gác ông cha! Cùng với Văn Trí, là mấy chục anh chị em ruột, anh chị em họ. Thảy đều ra Bắc thời kháng Pháp, ở miền Bắc dư một phần ba thế kỷ, rồi quay trở vào, không phải về quê Trung, mà tuốt xuống phương Nam định cư. Đã có cháu có chắt, sinh sôi tới Thế thứ tư, tức là Thế 14 Lê Khắc. Số thành viên Lê Khắc gốc Trung, đi ra Bắc, quay vào Nam tăng thành con số trăm! Theo sấm ngữ Trạng Trình, vượt Hoành Sơn, định cư phương Nam, làm nên sự nghiệp, xây thành cơ nghiệp, vừa nhận hàng, vừa nhận họ!
Chương 10: Huế hiếu học
Một trăm năm qua, những người Lê Khắc thành đạt vẻ như phần lớn xuất chính làm quan. Quan thượng thư, tham tri, tuần phủ, tri huyện Nam triều. Quan tham quan phán thời Tây. Rồi bộ trưởng thứ trưởng tỉnh trưởng huyện trưởng Nhà nước Cộng hòa trong Nam, Nhà nước Xã hội chủ nghĩa ngoài Bắc.
Nhưng đó là danh vọng bề nổi.
Kỳ thực, trí thức Lê Khắc phần đông làm nghề dạy học. Nhà Nho tiến vi quan, thoái vi sư. Mấy trăm năm Nho học, rất nhiều thầy đồ, ông khóa Lê Khắc dạy chữ Nho ở trong làng ngoài tổng. Thời tân học, dạy quốc ngữ là chính có kèm theo chữ Nho và tiếng Pháp, mở đầu là ông Lê Bang (1893-1917, Thế thứ 9), dạy học chỉ được hai năm. Tiếp đó, Thế thứ 10 có chú Lê Khắc Nguyện (1904-1992), chú Lê Khắc Giai (1901-1967), chú Lê Đình Trân (1906-1991), chú Lê Viết Kính (1901-1975)...Tới thế thứ 11 của Văn Trí thì số lượng nhà giáo Lê Khắc bùng nổ tới con số trăm. Vài chục người dạy ở trường Đại học, viết sách giáo dục, làm báo giáo dục, nghiên cứu quản lý chỉ đạo giáo dục ở các Viện, Vụ, Cục. Vài trăm đứng lớp ở trường Tiểu học, Trung học. Hầu như gia đình Lê Khắc nào cũng có vài bốn người làm nhà giáo. Đã có hàng trăm tấm Huân chương, Huy chương tưởng thưởng công tích nhà giáo Lê Khắc.
Quá trình hòa giải hòa hợp bà con Lê Khắc sau ngày đất nước thống nhất dường như khởi đầu từ lĩnh vực giáo dục. Không chờ tới ngày 30 tháng 4 năm 1975, mà ngay sau khi ký kết Hiệp định Paris năm 1973, các nhà giáo Lê Khắc tòng sự tại cơ quan Bộ giáo dục ở Hà Nội đã vượt sông Bến Hải, bắt đầu chặng đường chắp nối hòa hợp. Ban đầu những tưởng mau chóng dễ dàng. Càng về sau càng ngộ ra là gian nan còn hơn cả 30 năm bom đạn. Củi, kiếm ba năm thiêu một giờ. Thiêu một giờ chỉ còn chút tro than. Muốn nhen nhóm vun đắp thành đống thành kho, lại đòi hỏi ba năm kiếm củi. Quá trình hội tụ, ly tán, hòa hợp ngàn vạn con người, từ sâu xa trong tâm thức, thì ra cũng trần ai như vậy.
Văn Trí làm báo ngành giáo dục, trước 1975 đã đi khắp các tỉnh thành miền Bắc, sau 1975 lại đi khắp phía Nam. Tới các tỉnh thành phía Nam, việc chính của Trí là tìm hiểu những chuyển biến mới sau ngày thống nhất và làm báo miệng, kể cho nhà giáo phía Nam nghe chuyện Bắc Lý, Cẩm Bình, các nhà trường xã hội chủ nghĩa phía Bắc. Nói chuyện ở đâu cũng được đồng nghiệp phía Nam trân trọng. Duy có một lần Thính giả là những nhà giáo cốt cán tiêu biểu triệu tập từ các trường trung học toàn thành phố. Giữa trăm vẻ mặt chăm chú tán thưởng, Trí phát hiện một khóe cười nhạo kèm động tác nhún vai khinh thị. Giờ giải lao, dò hỏi ai thế?, liền được cán bộ tổ chức Sở giới thiệu vồ vập. Ông ta tên Thụy, Trịnh Thụy, tuổi chỉ ngoài 40. Vốn là giáo sư văn triết. Sau thống nhất xét thấy tiểu sử  chưa minh bạch nên không phân công giảng dạy mà điều sang phụ trách thư viện. Cần mẫn, nhiệt tình, nhiều sáng kiến, xây dựng thành công thư viện trường học tốt bậc nhất thành phố. Trí lập tức xin thu xếp cho nhà báo làm việc tay đôi với điển hình nhân tố mới hấp dẫn ấy.
Phác họa vài nét con người Trịnh Thụy. Chủ kiến vững, tư duy thoáng, lập luận sắc bén khiến Trí nhiều phen kinh ngạc. Thể hình gấu, hàng ria mép hai đầu cong vểnh ngược ngạo mỗi khi cất tiếng cười sảng khoái. Duy chỉ cặp mắt kín đáo đeo kính mát ngoại cỡ sẫm màu làm cho gương mặt nhuốm vẻ bí ẩn. Nhưng giao tiếp  chan hòa, ngay từ câu đầu thăm hỏi quê quán của nhau. Nghe giọng nói thì đoán anh Thụy gốc Bắc phải không? Thì người Việt nào không gốc Bắc, anh Trí gọi rằng người Huế, cũng là Huế sau công chúa Huyền Trân. Người Việt miền Nam ai không nhớ Bắc.Từ độ mang gươm đi mở cõi / Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long!. Trịnh Thụy sốt sắng cung cấp chất liệu làm báo đầy ắp chi tiết sinh động. Đạt yêu cầu mỹ mãn! Khi Trí hể hả gấp cuốn sổ ghi chép và giở máy ảnh ra thì ông ta xua tay: miễn phơi mặt lên báo, làm ơn tha cho tôi! Đàng hoàng nhận xét: anh Trí sở hữu kho chuyện vô tận về thi đua dạy tốt học tốt khá cuốn hút đấy. Tiện đà, Trí hỏi độp: thế nụ cười nhạo và cái nhún vai anh Thụy dành cho nhà báo này nghĩa là sao?! Thụy cười to: anh Trí có thù dai không đấy? Có gì đâu, đoạn ấy nhà báo kể chuyện tủ sách trường làng Cẩm Bình có đủ  sách Tự lực văn đoàn. Tôi liền nghĩ tới cũng chính những tác phẩm nổi tiếng ấy và bao nhiêu sách quý cổ kim đông tây ở thư viện trường tôi bị tịch thu, thiêu hủy. Lại còn kiểm thảo thủ thư truyền bá văn hóa phản động. Tôi mới cãi được một câu đã  bị dọa thi hành kỷ luật. Anh Trí ơi, thôi thì tôi nói thật nhé. Cung cách quý anh tiếp xúc với chúng tôi như mấy năm qua cần phải nghiêm khắc điều chỉnh. Quý anh tới với chúng tôi, có lẽ cũng thật lòng hòa giải hòa hợp, nhưng sao không giấu nổi thái độ bề trên chiếu cố ban ơn. Ờ thì phổ biến bài học giáo dục miền Bắc, rất quý. Ờ thì gạn đục khơi trong tìm hiểu giáo chức phía Nam sau 1975 tiến bộ thế nào, rất cần. Nhưng ngần ấy chưa đủ. Không sòng phẳng. Ba chục năm qua là khúc quanh lịch sử đau thương của dân tộc. Là một cuộc chiến trong đó chồng chéo đan xen năm bảy cuộc chiến. Có giặc ngoài có thù trong. Thù trong, trong lòng dân tộc và trong lòng người. Các anh đừng xúc phạm gọi chúng tôi là ngụy. Rõ nực cười, như xưa kia hết Quang Trung kêu Nguyễn Ánh là Ngụy-Ánh lại tới Gia Long gọi Nguyễn Huệ bằng Ngụy-Huệ, sau đó sách báo Việt Nam dân chủ cộng hòa lại khăng khăng kết tội Nguyễn Ánh cõng rắn cắn gà nhà. Quý anh chớ vội vàng rẻ rúng coi chúng tôi là loại người mấy chục năm trước đây hùa theo ngoại bang làm giáo dục nô dịch, bây giờ thua trận cúi đầu phản tỉnh cải tạo. Đừng nghĩ nông cạn thế. Từ 1945 tới 1975, phần đông giáo chức miền Nam tận tâm dạy dỗ lớp trẻ, phát triển văn hóa dân tộc, tạo nguồn nhân lực dựng xây đất nước hôm nay và mai sau. Nhìn rộng ra, trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, khoa học, kỹ thuật, văn chương, kịch nghệ, âm nhạc, hội họa, miền Nam chúng tôi 30 năm qua đều có những cống hiến thành tựu đặc sắc mà chắc chắn rồi đây lịch sử chân chính của dân tộc và nhân loại sẽ khẳng định. Tất cả những cái đó là bộ phận hợp thành văn hóa Việt Nam. Tại sao quý anh không nghiên cứu, ghi nhận, phát huy? Làm như vậy mới tạo ra tư thế bình đẳng. Hai bên ngang hàng, tới với nhau, hòa giải hòa hợp, cộng hưởng sức mạnh dân tộc thống nhất để cùng nhau đi lên. Thật đấy. Chớ hẹp hòi tưởng rằng chỉ có quý anh mới là giỏi là hay. Ví dụ như nhà giáo xã hội chủ nghĩa ngoài ấy tốt mười phần, thì nhà giáo cộng hòa dân chủ trong này cũng được tám chín. Điều hay lẽ phải nhà giáo hai miền có chỗ giống nhau, cũng có chỗ không giống vì hoàn cảnh, bởi hệ ý thức khác biệt. Nhà giáo hai miền đều có cái hay và cái dở. Chúng ta nên khiêm nhường trao đổi kinh nghiệm học hỏi lẫn nhau. Ai đó hợm hĩnh đóng vai kẻ thắng trận bề trên là thiển cận dại khờ. Cùng với thời gian, rồi quý anh sẽ ngộ ra
Nghe, mà sửng sốt toát mồ hôi!
Văn Trí về Hà Nội hào hứng viết ngay bài nêu gương thủ thư Trịnh Thụy tận tình sáng tạo (tất nhiên thời điểm ấy chưa thể trưng lên báo lập luận phản biện sắc bén, thuyết phục của ông ta). Bài báo được tổng biên tập xếp loại A. Sau một tháng, có nhiều ý kiến từ phía Nam phản hồi rằng báo chí ngành giáo dục cần có thêm nhiều bài vở kịp thời biểu dương nhân tố mới như Trịnh Thụy. Nào ngờ, nửa năm sau, tổng biên tập gặp riêng Văn Trí, hạ giọng thì thào: Trong Nam vừa mật báo, cái thằng cha Trịnh Thụy của cậu vượt biên mất rồi…”.
Kết cục này không hề làm Văn Trí bất ngờ. Bài báo của Trí biểu dương điển hình tiên tiến không hề mâu thuẫn với sự cố nhân vật chính diện vượt biên. Con người như thế trong cảnh ngộ như thế ắt phải xử sự như thế. Không buồn, nhưng Văn Trí cũng không quên lời khuyên răn thuốc đắng dã tật của Trịnh Thụy. Chớ khờ dại hợm hĩnh ngỡ rằng quý anh đúng đắn hay ho tài giỏi nhất trần đời!
Từ đấy, vào Huế, vào các tỉnh thành phía Nam, Văn Trí lưu tâm tìm kiếm những người khuất lấp, các nhà giáo bình thường ở miền Nam chưa một lần nhận huân huy chương hoặc danh hiệu vinh dự. Đã cố công tìm. Đã thấy. Nhiều, rất nhiều. Con số trăm!
Một trong những nhà giáo chiến sĩ vô danh lặng thầm như thế là người em họ của Văn Trí: nhà giáo Lê Hiếu Kính.                                                    
Là em họ, dòng Lê Khắc thuộc Chi Thứ, nhưng Lê Hiếu Kính sinh năm 1924, tức là trạc tuổi bà chị thứ 8 của Văn Trí. Năm Văn Trí đang nhếch nhác học lớp bét trường Trần Cao Vân thì Hiếu Kính đã có bằng Cao đẳng tiểu học và chững chạc gõ đầu trẻở trường Thanh Phước.
Thân phụ của Hiếu Kính, ông Lê Viết Kính (1901-1975), cũng là một nhà giáo kỳ cựu của dòng Lê Khắc, từng làm hiệu trưởng trường làng Văn Xá. Học trò xứ Huế các thế hệ truyền tai nhau tới thuộc lòng bài thơ khuyến học của thầy Lê Viết Kính:
Học hành gắng lấy hỡi em ơi
Ích lợi rồi ra biết mấy mươi
Êm ấm gia đình nhờ có học
U mê thế sự bởi ham chơi
Kiêu căng xảo quyệt đừng khôn nhé
Ít ỏi thiệt thà giả lại hơn
Nước nhà nuôi dạy, ơn đừng phụ
Hiếu trung vẹn vẻ mới nên người             
Tưởng là lời dạy con chung chung - ông chú Lê Viết Kính của Văn Trí có tới 8 người con. Nhưng thử ghép 8 chữ cái ở đầu 8 câu thơ, rành rành tên một người:  HIẾU KÍNH.  Bài thơ ấy dành riêng cho Hiếu Kính!
Tên kép là Hiếu Kính. Còn tên riêng thực ra chỉ có một từ Hiếu mà thôi.   
Bởi lẽ, ông chú của Văn Trí, nhà giáo Lê Viết Kính xác định chủ quyền huyết thống một cách độc đáo, lấy tên mình làm gốc, đặt tên kép cho cả 8 người con: Đốc Kính, Hiếu Kính, Thành Kính, Nghiêm Kính, Khâm Kính, Tin Kính, Tôn Kính và Khiêm Kính. Ngay cả phu nhân, vốn tên gốc cha sinh mẹ đẻ là Lê Thị Quốc, cũng được đấng phu quân khả kính đổi tên thành Ái Kính!
Bởi vậy gọi tên kép là Hiếu Kính, nhưng khi cần gọi tên riêng gọn lại, thì chỉ kêu một chữ : Hiếu. Đặt tên trưởng nam là Hiếu, phải chăng ngài Viết Kính trên đầu thiêng liêng tôn thờ chữ Hiếu? Có lẽ thế. Cứ ngẫm về một tình tiết sau đây. Hiện nay con cháu giữ được trên một trăm bức thư của Viết Kính gửi thân phụ là ngài Lê Trí (1877-1953), cuối lá thư nào cũng tự xưng danh như một lời tạ tội: con bất hiếu là Lê Viết Kính!
Tới lượt mình xây dựng gia đình riêng, thầy Hiếu Kính liền theo gương cha ông, lấy chữ Hiếu là tên của mình làm gốc, đặt tên kép cho cả 10 người con: Hiếu Nghĩa, Hiếu Thảo, Hiếu Liêm, Hiếu Hữu, Hiếu Trung, Hiếu Hòa, Hiếu Nhân, Hiếu Hạnh, Hiếu Thiện, và Hiếu Đễ. Đương nhiên, bà vợ vạn hạnh cũng được sung sướng mang tên chồng; danh tính do cha mẹ đặt là Trần Thị Bưởi được đổi  thành Trần Thị Hiếu Thuận.
Cuốn hồi ký Nghề giáo: tôi đã chọn của Lê Hiếu Kính được nhà xuất bản Thuận Hóa ấn hành năm 2007 có những dòng tươi tắn kể chuyện mùa thu độc lập 1945, Hiếu Kính cùng với chị Nghê, anh Tình, mấy anh chị em dòng Lê Khắc gia nhập đội văn công biểu diễn quanh vùng trong huyện Hương Trà. Đi tới đâu cũng được bà con đón rước tử tế, ủng hộ cơm nước ân cần. Văn Trí, năm ấy lên 8, đi theo các anh chị, len trong đông nghịt đồng bào vỗ tay như sấm tán thưởng các tiết mục thanh niên làng Văn tự biên tự diễn. Này là kịch thơ Hai Bà Trưng do chính hai chị Lê Khắc Bích Khuê và Lê Khắc Giáng Nghê sắm vai Trưng Trắc Trưng Nhị khoác áo gấm đội khăn vàng uy nghi lẫm liệt. Này là hoạt cảnh Hội Nghị Diên Hồng mà chính Lê Khắc Tình khua đàn cầm trịch trong cánh gà và Lê Hiếu Kính đeo râu chống gậy lòng khòng dẫn đầu đoàn bô lão thế kỷ 13 hành tiến bốn năm vòng trên sân khấu rầm rập khúc tráng ca Thần dân nghe chăng sơn hà nguy biến/ hận thù đằng đằng biên thùy rung chuyển…” Và ở bên dưới, Văn Trí cùng đám thiếu nhi cũng gân cổ hét to theo từng câu hô ứng: Trước nhục nước nên hòa hay nên chiến? -Quyết chiến! Thế nước yếu lấy gì lo chiến chinh? -Hi sinh!...
Đoạn hồi ký kết thúc ngậm ngùi: các anh chị Nghê và Tình sau đó đi kháng chiến và đều đã hi sinh.
Lê Hiếu Kính không đi tản cư mà bắt đầu dạy học ở làng Thanh Phước cách Văn Xá mười cây số. Bám trụ quê hương, bám trụ nghề giáo suốt 30 năm. Và trải qua bao long đong, quăng quật, va đập thời tao loạn. Tai ương dồn dập tới từ các phía.
Trích hồi ký Lê Hiếu Kính:
Ngày 19-11-1946, mặt trận Huế vỡ mà ở quê tôi vẫn đi dạy. Mãi đến 06-12-1947 tôi mới trở về làng và theo gia đình tản cư lên chân núi ở với bà con. Quân Pháp đã đổ bộ về đến làng xúc heo, bắt gà, trút gạo, lấy cả mền mùng, chén bát, quần áo. Nhà tôi ở gần quốc lộ nên bị mất sạch đến nổi tôi không còn mền đắp, phải đắp bao bố và chiếu. Lúc đó lại vào tháng giêng tiết trời rất lạnh. Ngày 10-02-1947 khoảng 10 giờ sáng thân phụ tôi (nhà giáo Lê Viết Kính) trở về thăm nhà, vừa đúng lúc bọn Pháp vào nhà lục soát. Trong cái tráp xưa có mấy vỏ đạn bắn chim bằng đồng và một tập hồ sơ gia nhập Đảng Dân Chủ Việt Nam do Việt Minh đưa cho mà cha tôi chưa kịp điền gì cả. Bọn Tây bắt cha tôi quỳ ở trước hiên lấy báng súng đập vào miệng đến nổi sau phải ăn cháo mấy ngày liền.
Nơi tôi dạy bị chiếm, giặc cướp phá hàng ngày. Tôi phải xin Ủy ban kháng chiến cho phép vào thành phố kiếm chỗ dạy học. Vào Huế, thất nghiệp, lang thang, lại gặp nạn, bị bắt giam! Tôi đang suy nghĩ cách trả lời khi bị hỏi cung thì thấy một người quen đi ngoài hành lang. Đó là bác Tôn Thất Đào (chồng bà Lê Thị Ngọc Đại, cô ruột của Văn Trí), trước cũng ở Quảng Trị làm Tham tá Tòa sứ. Tôi chạy ra và trình bày nguyên do bị bắt. Bác liền bảo lãnh tôi ra ngay. Hú vía! Tôi nhờ xin việc nhưng bác cũng chịu vì người ta qua Huế từ tháng 01-1947 mà mình mãi cuối tháng 6 mới qua. Ở Huế ngày 01-4-1947 các trường đã khai giảng lại. Mình vốn dạy trường thôn quê làm sao xin tái bổ ở Huế?
Cậy cục xin được tái bổ cuối năm 1947, mà tôi vẫn ăn lương công nhật, mặc dù tôi dạy lớp đi thi, lao tổn hơn các giáo viên khác. Bởi Việt Nam cộng hòa không chấp nhận bằng sư phạm Việt Nam dân chủ cộng hòa của tôi. Cứ tập sự, công nhật mấy năm liền. Mãi đến 1950, họ mới mở khóa thi gọi là thi khả năng sư phạm tại trường Gia Hội, ai đỗ mới cho ăn lương chánh ngạch. Kỳ thi này tôi đỗ đầu (1/15 giáo viên).
Cuối năm 1960, đang làm tổng giám thị trường trung học Hàm Nghi, tôi bị bắt. Nguyên do tưởng là đảo chánh thành công, không cho học sinh hát bài suy tôn Ngô Đình Diệm lúc chào cờ sáng 02/11/1960. Bị giam một tuần lễ mới được thả. Từ đó tôi lo sợ, sáng nào lễ chào cờ cũng lo, lo cờ đứt dây, lo học sinh cử Quốc ca hát bài suy tôn không đúng nhịp. Đến năm 1963, chế độ Diệm bị lật đổ thật sự mới yên tâm. Lo sợ đến nỗi mang bệnh đau tim, bỏ cái gương, ngòi viết vào túi áo cũng đau, thấy bóng dáng anh công an nào đi ngang trường cũng lo sợ. Khiếp sợ đến nỗi tôi như đau tâm thần. Rồi những vụ bãi khoá liên tiếp hàng tuần, mỗi lần học sinh bãi khoá là cảnh sát công an đến phê bình nào là trường không nghiêm ngặt, nào là trường để học sinh muốn làm gì thì làm, nào là tổng giám thị quá hiền, quá nhu nhược Rồi những em học sinh hoạt động chống đối, bị bắt, bị giam, bị đánh đập, bị tình nghi, soát nhà là tôi phải đi bảo lãnh…”
Tháng 3-1975, thành phố Huế được giải phóng. Những tưởng Nhưng không. Chính quyền mới không tin cậy người đã từng làm hiệu trưởng trường tiểu học, làm tổng giám thị trường trung học dưới chế độ cũ. Lê Hiếu Kính bị điều chuyển làm nhân viên trường Cao đẳng sư phạm, rồi bị giảm biên, nghỉ không chế độ cho tới lúc qua đời năm 1996.
Gian truân lận đận một đời lăn lộn nghề dạy học. Nhưng Lê Hiếu Kính không hề nhụt chí vươn lên. Bởi đã quen chịu cực nhẫn nhục từ tấm bé. Thuở nhi đồng, Lê Hiếu Kính cùng mẹ ở với ông bà nội (ngài Lê Trí) và bà cố nội ( tức là cố bà Lê Mẫn nhũ danh Tống Thị Phước Đoan, 1856-1936, thế thứ 8 Lê Khắc, Chi II). Bà cố quá tiện tặn, ăn cơm thì luôn độn khoai hạ trồng ở vườn, canh cũng khoai hạ, uống thì chè tàu hái ở hàng rào hoặc nồi nấu cơm xong, đổ nước vào nấu uống. Mỗi lần cho Hiếu Kính ăn cơm với ruốc, người mẹ phải dấu ruốc dưới chén cơm vì sợ Cố thấy Cố la phung phí. Căn nhà ba gian rộng mênh mông mà chỉ thắp một ngọn đèn dầu phụng leo lét. Nhờ Cố tiết kiệm thế nên sau này mới có ruộng đất để làm hương hỏa lo thờ phụng tổ tiên ông bà. Có thời kỳ thiếu đói, bữa nào mượn được gạo nấu cơm thì bà mẹ giả đau bụng để nhường cơm cho ông bà ăn. Mấy mẹ con ăn khoai. Khoai rửa sạch để cả củ nấu chín lấy đũa dằm ra cho nát rồi xúc vào chén như xúc cơm. May khoai lang Văn Xá nổi tiếng thơm, bở. Có hôm Hiếu Kính đang cuốc đất ở Bầu Ban, người chị họ mang cho một gói khoai chín, liền ăn luôn cả vỏ.
Lớn một chút, tới trường, cũng thiếu thốn trăm bề. Đi học, áo dài may bằng vải câu đối lúc bà cố mất. Có một cái sơ mi trắng thì mặc nhớp không dám giặt vì vo mạnh là rách áo! Giày dép sắm không nổi phải đi guốc. Lên Huế trọ học, nhà chỉ có một cái mùng đơn, con trai nhà chủ ngủ trên giường, Hiếu Kính nằm gầm giường phủ mùng xuống cũng đỡ muỗi. Tới lớp, vóc vạc bé nhỏ thường đứng sắp hàng phía trước, lại là học trò nhà quê ngờ nghệch nên bị học sinh lớn chọc ghẹo đủ điều. Nhiều bữa bị búng tai rất đau, nhìn lui thì thấy hàng sau im phắc. Không dám thưa thầy vì thầy biết đứa nào mà trị. Thành ra chịu đau suốt năm học. Giáo dục thời Pháp thuộc có phần quá khắt khe, học trò nhỏ thường bị roi vọt, khẻ tay, quỳ xơ mít. Có lần một cậu bạn cùng lớp lên bảng làm toán không ra, bị dúi đầu vào bảng đen, làm cho Hiếu Kính đâm ra khiếp sợ môn toán và đưa tới hậu quả dốt toán suốt đời. Tới mức vì kém toán mà trượt kỳ thi vào lớp Đệ nhất niên trường Khải Định, thất học phải trở về học (dự thính) lại lớp nhất. Đậu tiểu học rồi, mà học vẫn thua xa học sinh lớp nhất về môn toán. Thật xấu hổ. Năm sau, vào trường tư thục Kỉnh Chỉ học đệ nhất niên, biết thân phận dốt toán nên cần cù các môn khác như Pháp văn, Việt văn, nhờ thế tháng nào cũng có tên Hiếu Kính trên bảng danh dự. Nhờ tinh thần ham học và biết phát huy thế mạnh khắc phục chỗ yếu của bản thân nên năm 1946, sau 3 tháng dự khóa sư phạm cấp tốc do chính quyền dân chủ cộng hòa mở, đặt ở Duyệt Thị Đường trong Thành nội, Lê Hiếu Kính thi ra đậu thủ khoa 1/70.
Học hành cần mẫn như thế, vào nghề tất thành sự nghiệp. Từ 1945 tới 1975, trải qua cả thảy 5 trường tiểu học. Một năm ở trường Thanh Phước, là giáo viên phụ khuyết, một mình dạy cả ba lớp Năm, Tư, Ba. Thời độc lập ngắn ngủi, 1946, dạy lớp nhất trường La Chữ. 1947, tái bổ dụng tư học ăn lương công nhật ở trường Thế Dạ, trường Thượng Tứ.  Sau đó đổi về tiểu học Trần Cao Vân, dạy lớp Nhì rồi làm Hiệu trưởng. 7 năm làm giảng viên các lớp sư phạm Huế, 2 năm dạy  sư phạm thực hành Trần Quốc Toản và thường được điều động biệt phái tham gia bồi dưỡng giáo viên ở Thừa Thiên, Đà Nẵng, Quảng Ngãi. Từ 1960 tới 1975 làm tổng giám thị trung học Hàm Nghi.
Dạy nơi nào cũng được học trò quý yêu quấn quít. Suy từ căn nguyên mình kém môn toán mà quyết không dùng nhục hình với học trò. Ngay cả thời gian trên mười năm làm tổng giám thị, cũng không hề mặt sắt đen sì. Nổi tiếng nghiêm mà từ. Dạy bằng tình thương và cải tiến phương pháp. Kết hợp làm hướng đạo, tổ chức chơi mà học, gần gũi thiên nhiên, cắm trại, lên núi, xuống biển, tham quan danh lam thắng cảnh.
Hồi ký Lê Hiếu Kính kể chuyện soạn sách giáo khoa Việt ngữ:
“… Năm 1951 tôi chấm thi Tiểu học tại trường Thanh Long. Trước khi ra đề thi, Sở Học chánh đề nghị mỗi giáo viên dạy lớp nhất nạp một bài chính tả tự viết... Khi mở bì đựng đầu đề bài chính tả, ông chánh chủ khảo đọc to: Nghỉ hè. Tôi run lên sung sướng. Bài chính tả tôi soạn đã được chọn và sau đó ở Bắc Việt đã in thành sách.
“… Một hôm,  ông Ưng Quả, Giám đốc Học chánh  gặp tôi,  bảo hiện giờ học sinh đang thiếu sách đọc,  hãy soạn một tập truyện cổ tích. Tôi về loay hoay viết được 20 truyện dịch ở các truyện cổ tích Pháp và một số truyện truyền khẩu. Qua năm 1954, tôi xuất bản tập: Luật hỏi ngã đơn giản, sách in tặng chứ không bán, tái bản đến lần thứ 7.
“… Năm 1956, tôi và hai bạn Phan Văn Sung, Lê Tấn Kiểm cùng nhau soạn cuốn Việt Ngữ lớp Nhì, rồi Việt Ngữ lớp Nhất. Soạn cả ngày nghỉ, lúc nào rảnh là viết sách. Lúc này mẹ tôi bị ung thư. Nhờ xuất bản sách, tôi có tiền thuốc thang thêm cho mẹ tôi và sắm được một nửa chiếc xe Mobylette, nói một nửa vì phải  thêm tiền nhà mới đủ…”
Hồi ký Nghề giáo tôi đã chọn  không ghi được vô vàn sáng kiến cải tiến chuyên môn. Nhưng trong bộ sách đồ sộ Trường Huế của các hội đồng môn Huế, có nhiều hồi ức sinh động kể chuyện thầy Hiếu Kính.
Tác giả Võ Hương An viết:
“… Trong đời đi học, bạn đã thấy một thầy giáo nào như thầy Hiếu Kính viết lên bảng đen mà y như viết trong vở không? Chữ đều đặn, ngay hàng thẳng lối, lại có nét đậm nhạt như viết tập. Rèn luyện cho học sinh những bước cơ bản nề nếp nhất của đời học sinh, tôi nghĩ thầy là một mẫu mực điển hình. Bước vào lớp, bức tranh bàn tay cầm bút đúng cách đập ngay vào mắt. Tôi thích nhất là giờ học thuộc lòng và giờ trả luận. Bao giờ chép bài học thuộc lòng vào vở xong, thầy cũng canh đồng hồ và cho cả lớp 10 phút học tại chỗ. Cả lớp nghe rì rầm như tiếng ong mật mùa xuân. Thầy chọn toàn những bài hay, vào bộ nhớ của mình như đi dạo mát buổi chiều
Học trò Huế viết chính tả thì sợ nhất là bỏ sai dấu hỏi dấu ngã. Vì vậy, thầy dạy luật hỏi ngã rất kỹ. Bây giờ già rồi, vẫn không quên câu thần chú năm xưa thầy truyền cho Anh Huyền ngã nặng, hỏi con dao có sắc không.
Tìm hiểu thành tựu 30 năm hành nghề của nhà giáo Lê Hiếu Kính, Văn Trí không khỏi ngỡ ngàng: làm sao ông em họ quý mến của Văn Trí bẩm sinh sức khỏe có phần hạn chế, trí thông minh không phải là xuất chúng mà có thể bền bỉ vượt qua bao chặng đường đời gian nan nghiệt ngã để xây nên sự nghiệp? Chỉ tới khi đọc kỹ cuốn hồi ký, mới ngộ ra.
Cội nguồn sức mạnh Lê Hiếu Kính chính là gia giáo - hiệu ứng giáo dục của gia tộc, gia đình. Từ bà cố cần kiệm cả đời. Cho tới tổ phụ, thân sinh.
“… Ông nội tôi (ngài Lê Trí) ngày nào cũng la rầy về chuyện sạch sẽ, ăn bả miá xả cùng vườn là không được, giấy loại cũng nhớp lắm. Ông còn dạy những câu chữ Hán về đạo lý làm người: Chưởng qua đắc qua, chưởng đậu đắc đậu (Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu) Tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác. Ai làm gì sai trái ông thường la rầy bất cận nhân tình. Ông thường hay nói giàu lắm cũng chỉ ăn ngày ba bữa, ngủ sáu tấc ngựa phản, đừng làm giàu thất đức. Để sách cho con chắc chi con đọc được, để vàng cho con chắc chi con tiêu được, để đức cho con cháu là hơn cả. Thành ra ông tôi làm thầy thuốc mà rất nghèo.  Ai có thai mà ngồi lên chiếc chiếu trải không thẳng ông cũng la, ông dạy là giáo dục con từ thuở còn trong bụng mẹ, bỏ con vô dạ là mẹ đi tu. Mẹ mang thai là miệng không nói lời dữ, tai không nghe điều xấu, mắt không nhìn cảnh tượng hung ác. Gọi là thai giáo
“… Thân phụ chúng tôi xuất thân con nhà nho, biết Hán tự. Thân mẫu tôi đọc được sách Tam Quốc Chí, thường kể chuyện, chuyện đời xưa có, đời nay có, các chuyện trong Nhị Thập Tứ Hiếu, chuyện vui, buồn, dạy chúng tôi tính thật thà, ngay thẳng, thương người. Mẹ tôi hay đố các chữ Hán, tôi nhớ Mẹ đố câu: Cục đất trên có cây sào, con xây lưng lại không chào mặt cha là chữ gì? Đó là chữ Giáo nghĩa là dạy
“… Vì muốn đền ơn trả nghĩa lúc đói khó ở quê nên cha mẹ tôi đem một số con cháu họ hàng qua nuôi ăn học. Có lúc lên đến 25 người, mỗi bữa ăn 3 mâm, thấy rổ chén đọi ai cũng tưởng nhà có kỵ. Lương tiền ít nên ăn uống rất kham khổ. Đồ ăn thì cá khô, rau luộc, muối mè. Buổi sáng mỗi người một chén cơm với nước mắm, lỡ ai chan mặn thì ráng nuốt không có cơm thêm. Nhà tôi ngày nào cũng đi chợ Đông Ba, đội về một thúng rau muống, cá khô. Đông quá nên đàn bà thường ăn sau, có khi hết cơm, nhà tôi nhịn đói luôn…”
Thừa hưởng ân đức sinh thành, thầy Hiếu Kính đối xử với bà con họ tộc bằng tình thương hiếm có. Ví như mẩu chuyện về chiếc xe hơi sắm được sau bao năm chắt chiu dành dụm:
“… Ở Huế về quê 13 km, dẫn đàn con ra Cửa Hữu đón xe, vì đông trẻ nên xe ít khi dừng.  Tôi quyết định học lái xe và mua lại chiếc Peugeot đen giá 80.000 đồng. Đôi lúc về làng, qua xe không cũng uổng nên dừng xe lại dọc đường mời người đi đường lên xe cùng đi. Nhưng đa số không chịu lên vì họ ngại, sợ chở họ đi đâu thì sao. Có khi ra chợ Đông Ba gặp xóm giềng đi chợ, mời họ lên xe. Sau này gặp lại, họ hỏi: Lúc đó chúng tôi đi xe có giỏ đồ ăn, cá biển thầy không sợ nhớp xe sao?. Có xe cũng nghiệt, ai mượn xe đều phải cho. Từ khi họ lấy xe cho đến lúc họ trả xe mới hết bồn chồn lo sợ. Lỡ họ tông chết người, mình phải liên đới chịu trách nhiệm. Thành thử cho mượn xe mình tự lái mới yên tâm. Hết giúp người này đến giúp người khác. Xe chạy quay vòng như chong chóng…”
Những người biên tập cuốn hồi ký khắc họa hình tượng Lê Hiếu Kính là: một học trò không xuất sắc nhưng chịu khó, một giáo sinh năng động, một người thầy giáo tiểu học tận tâm, một người viết sách giáo khoa Việt ngữ tận tụy, một Tổng Giám thị trường trung học nghiêm mà từ, một hướng đạo sinh xốc vác, một huynh trưởng hướng đạo xông xáo, một người công dân sống có nghĩa tình và trách nhiệm, một người con hiếu thảo, một người cha gương mẫu.
Ông bà Hiếu Kính - Hiếu Thuận 10 lần sinh còn 8 người con. Tất cả nên người. Lê Hiếu Nghĩa (1949) học đại học lấy 2 bằng Quốc Gia Hành chánh và Luật khoa Sài Gòn, hiện ở Cali (Hoa Kỳ). Lê Thị Hiếu Thảo (1951) học một lúc 2 trường Đại Học Sư Phạm và Văn Khoa Huế, nguyên giáo viên trường cấp 3 Hương Thủy. Lê Hiếu Liêm (1952) mới lớp 8 đã chê lối học từ chương, thầy đọc trò chép, bèn bỏ học tự học ở nhà, sau học bình dân học vụ rồi vào Quốc học, khi vào đại học cùng lúc lấy 2 bằng Quốc Gia Hành chánh và Luật khoa Sài Gòn; đi du học tự túc ở Pháp vào đại học Sorbonne, chỉ 1 năm đã lấy bằng thạc sĩ và 2 năm sau lấy bằng tiến sĩ Công Pháp quốc tế. Lê Hiếu Hữu (1954) học Đại Học Cần Thơ, là kỹ sư nông nghiệp, hiện là Giám đốc marketting của công ty Map Pacific (công ty Singapore); là chủ tịch Hội đồng quản lý Quỹ Giáo dục Huế Hiếu Học. Lê Hiếu Hòa (1957) học đại học Bách Khoa TP. HCM, hiện là chuyên viên của công ty Intel tại Mỹ. Lê Hiếu Nhân (1960), học đại học Tổng Hợp Huế, ra trường học thêm 2 bằng cử nhân Anh và Tin; 45 tuổi còn đi học Cao học Lý,  48 tuổi lấy bằng thạc sỹ, hiện dạy trường THCS Hàm Nghi. Lê Thị Hiếu Hạnh (1962), bác sĩ chuyên khoa II tại bệnh viện  tỉnh Quảng Trị. Lê Hiếu Đễ (1969), chủ tiệm may Mỹ Toàn ở Huế.
Năm 2006, hậu duệ nhà giáo Lê Hiếu Kính, những người con hiếu thảo: Hiếu Hữu, Hiếu Nhân, Hiếu Liêm, Hiếu Nghĩa cùng một số thân hữubàn nhau lập Quỹ Giáo dục Huế Hiếu Học. Kỹ sư Lê Hiếu Hữu, chủ tịch Hội đồng quản trị Quỹ, bộc bạch: Ý tưởng ban đầu là về Huế, thấy học sinh cấp 2 phần đông suy dinh dưỡng, rất tội, nên  anh chị em trong nhà có ý là lập Quỹ  "Chén cơm cho học sinh nghèo", với mong muốn là mỗi tháng giúp các em khoảng 5 ký gạo. Sau này thấy tên ấy thê lương quá mà gạo cũng dễ mua, nên đổi tên là Huế Hiếu Học. Nhiều học trò cũ muốn lấy tên thầy Lê Hiếu Kính làm tên Quỹ. Nhưng như vậy khó lòng thuyết phục đông đảo người tham gia, vì các lương sư xứ Huế xưa nay được học trò các thế hệ tri ân nhiều không kể xiết!
Quỹ giáo dục HUẾ HIẾU HỌC hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự tạo vốn, tự quản, tự trang trải các chi phí cho hoạt động và chịu trách nhiệm bằng chính tài sản của mình; không vì mục đích lợi nhuận. Là tổ chức phi chính phủ, có tư cách pháp nhân, có con dấu và được mở tài khoản tại Ngân hàng. Ba nội dung hoạt động chủ yếu của Quỹ là Chương trình học bổng, khen thưởng cho học sinh sinh viên nghèo, hiếu học; Chương trình hỗ trợ trang thiết bị, xây dựng trường lớp và Chương trình Văn Thể Mỹ để giúp các em phát triển toàn diện.
Tổng số tiền Quỹ Giáo Dục Huế Hiếu Học nhận được từ năm 2006 cho đến cuối năm 2011 là: 4.722.000.000 đồng (bốn tỷ bảy trăm hai mươi hai triệu đồng). Trong 5 năm hoạt động, đã xây dựng và sửa chữa trường lớp 1.574.000.000 đồng. Riêng chương trình học bổng, Quỹ đã trao 3.696 suất gồm: 2.412 suất học bổng các cấp phổ thông và 1.284 suất học bổng đại học và cao đẳng, tổng giá trị 2.245.000.000 đồng.
Sung sướng chia vui với Quỹ học bổng Huế hiếu học đang đà phát triển ra toàn miền Nam, không khỏi bồi hồi nhớ lại lần đầu tiên, ở Sài Gòn, khi đang làm phó tổng biên tập báo Giáo dục và Thời đại, Văn Trí đã xúc động tới dự lễ trao Giải thưởng toán học Nguyễn Đình Chung Song - Giải thưởng do một cô giáo Lê Khắc là Túy Đại chủ trì tổ chức từ năm 1992.
Lê Thị Túy Đại Nguyễn Đình Song là đôi lương duyên giai ngẫu xuất thân từ hai gia đình tiêu biểu bậc nhất của nghề dạy học khuôn vàng thước ngọc ở dải đất miền Trung khoảng giữa thế kỳ 20. Thân phụ của Túy Đại, ông Đốc học Lê Khắc Giai (1901-1967), là nhà sư phạm nổi tiếng mẫu mực và tiết tháo. Là con trai thứ hai của ngài Lê Triết (1870-1943 Thế thứ 9 Lê Khắc), ông Lê Khắc Giai ra đời năm Tân Sửu 1901, lúc chữ Nho mất địa vị độc tôn, từ cuộc cải cách giáo dục năm 1906 thời vua Thành Thái chú trọng dạy học Quốc ngữ và Pháp ngữ cho tới Nghị định năm 1917 của Toàn quyền Đông Dương quy định chương trình giáo dục 3 bậc Tiểu học, Trung Học và Đại học. Năm 1921, ông Giai đậu Diplôme, học tiếp ngành sư phạm, vào nghề dạy học. Thầy Giai tính tình cương trực, không chịu xu nịnh, không khuất phục cường quyền nên đường sự nghiệp không mấy suôn sẻ. Dạy trường Paul Bern, qua Quốc học (Kinh đô Huế), vì đối phó với quan Tây, tranh cãi nảy lửa với đồng sự người Pháp, ông bị đổi đi liên tục, hết Tuyên Hóa (Quảng Bình), Quảng Điền (Thừa Thiên) lại tới Bình Định, Phan Rang, Hội An, Đà Nẵng, khi trực tiếp đứng lớp, khi làm hiệu trưởng, trưởng ty Vốn giàu lòng yêu nghề yêu trẻ, tận tâm giảng dạy, lại có tri thức uyên thâm và phương pháp giáo dục tân tiến, nên thầy Giai luôn được học trò và phụ huynh yêu quý kính trọng. Hầu như ở mỗi miền đất, thầy Giai đều ghi dấu ấn bằng những kỳ tích. Có năm, ở Phan Rang, cả 22 học trò của thầy Giai dự thi Primaire đều đủ điểm trúng tuyển, làm khó cho các quan chức đầu ngành giáo dục phải tới vận động thầy bớt điểm số để đánh rớt 2 thí sinh, nếu không thì phải tổ chức thi lại, chứ không đời nào cho đậu cả trăm phần trăm! Vì quyền lợi của số đông học trò (nếu thi lại sẽ bị phiền phức khó khăn) nên thầy Giai đành xót xa gạt bỏ  2 em con nhà khá giả (có điều kiện học lại thuận lợi hơn số đông trò nghèo!). Chịu nhượng bộ mà vẫn không yên thân. Quan trên nghi ngờ, bày ra một cuộc thanh tra đột xuất nhằm xem xét thực chất năng lực chuyên môn và hiệu quả giảng dạy của thầy Giai. Cả một phái đoàn rầm rộ dự giờ thăm lớp, kiểm tra bài soạn của thầy, vở học của trò suốt hai ngày cả sáng lẫn chiều. Kết quả tất nhiên phải thế, phái đoàn thanh tra tổng kết đánh giá toàn những ““trèsbien, excellence”…, không còn từ nào diễn tả hơn được nữa, trên cả tuyệt vời! Thế là, từ thân phận bị trù dập, thầy Giai được thăng cấp đặc cách làm Đốc học Bình Định (từ đó có danh xưng ông Đốc Giai). Trải qua biến động thế sự thăng trầm đông tây xung đột giữa thế kỷ 20, thầy Giai lần lượt phụ trách lớp đào tạo giáo viên cho ngành giáo dục Thừa Thiên sau cách mạng Tháng Tám 1945, rồi về dạy ở Huế, chuyển vào làm hiệu trưởng ở Hội An, trưởng ty giáo dục Đà Nẵng, rồi do bênh vực thuộc cấp, bất tuân thượng lệnh, lại bị hạ xuống làm giáo viên Quốc học Huế cho đến khi nghỉ hưu. Chu trình khép kín cuộc hành nghề trồng người cao cả!
Dòng họ Lê Khắc tôn kính ông Đốc Giai là một nhà giáo có tấm lòng hiếu nghĩa nhân ái ôm trùm nhiều thế hệ với một cuộc sống riêng tư giản dị kiệm cần. Trưởng nữ của ông là Lê Thị Túy Đại (1934) đã hồi ức về thân phụ và tổ phụ:
“… Năm ấy, sắp nghỉ hè thì được tin ông nội tôi bị bệnh nặng. Ba tôi và tôi về làng Văn Xá, suốt ngày ba tôi ngồi trò chuyện với Ông hay tiếp khách đến thăm Ông. Còn tôi chơi tha thẩn trong sân, lúc dùng cơm thì Ông hay gọi tôi vào quạt nhẹ cho Ông.
Thời gian đó, Ông thường dặn nhà bếp nấu thêm cơm để có nhiều cơm cháy trong om đất dành cho tôi. Quả là ngon thật, tôi được hàng ngày ăn món cơm cháy  ấy cho đến khi Ông ra đi vĩnh viễn. Sau này mỗi lần về nhà thờ, đi qua bộ ván chỗ ông nằm, tôi cảm thấy như ông còn phảng phất đâu đây và nhớ về hương vị thơm ngon của món cơm cháy trong om đất thuở xưa.
“…Từ nhà tôi ở Văn Xá đi ra khoảng 3 cây số đường quốc lộ, rẽ tay phải đi khoảng 2 cây số nữa thì đến trường La Chữ. Sáng nào hai cha con cũng chuẩn bị sách vở, chờ mẹ tôi nấu cơm, ăn sáng và bới vào mo cau đem đi ăn trưa. Cơm nhồi nhuyễn cắt lát sẵn với một gói muối mè hay muối đậu phụng. Hôm nào ba tôi mới lãnh lương thì mẹ tôi làm tôm rim để bới đi cho hai cha con. Thỉnh thoảng khi ba tôi mới lãnh lương thì hai cha con đi xe ngựa. Bình thường, đi bộ, tuy có mệt nhưng đến mùa lúa chín thì thật thú vị ngắm nhìn hai bên đường lúa chín vàng  phảng phất mùi thơm. Ba tôi thường nhắc: Con cứ hít vào thật nhiều hương lúa đồng quê. Sau này mỗi lần đi từ Huế về Văn Xá, đến ngang làng La Chữ, như phản xạ tôi cố nhìn vào làng mà bồi hồi nhớ về những ngày tháng cũ được cùng đi học với cha mình. Tôi đậu Trung học đệ nhất cấp hạng Bình, được Ba thưởng chiếc xe đạp. Tôi vui sướng và cũng quá bất ngờ vì nhà tôi xưa nay sống bằng tiền lương của ba tôi mà thời gian đó ba tôi còn phải đài thọ cho Bà nội và O Tiểu Thiền (O không có chồng con và chăm sóc cho bà nội tôi rất tốt). Sau này, tôi hỏi Ba lấy tiền đâu  mua xe cho con? Ba tôi bảo đó là tiền ba mẹ tiết kiệm. Ba tôi có thói quen dậy sớm uống trà loại ngon nhất, nhưng để có tiền mua xe cho tôi, Ba đã dặn Mẹ mua loại ít tiền hơn. Còn mẹ tôi thì dành dụm tiền bằng cách mua tôm về um lấy nước chan cơm ăn hoặc ăn ruốc kho. Tôi lặng người xúc động về tấm lòng của cha mẹ đối với mình…”
Nối nghiệp phụ thân, Lê Thị Túy Đại gần như suốt đời phụng sự ngành giáo dục. Túy Đại đã có bằng cử nhân văn khoa và chứng chỉ Tâm lý học, từng làm xướng ngôn viên đài phát thanh Huế, rồi dạy môn Văn ở các trường Nữ trung học Đồng Khánh Huế (1957-1959), Nữ trung học Bùi Thị Xuân Đà Lạt (1959-1962), Trung học Lý Thường Kiệt - Gia Định (1962-1969), Trung học Nguyễn Thượng Hiền - Tân Bình (1969-1978), trường Cán bộ quản lý giáo dục  thành phố Hồ Chí Minh ( 1978-1990) và sau khi nghỉ mất sức (1990), tham gia dạy môn Văn, khoa Tại Chức, trường đại học Tài chính Kế toán.
Năm 1959, khi hai nhà giáo Lê Thị Túy Đại và Nguyễn Đình Song kết duyên, bà con hai họ, giới trí thức cố đô Huế hoan hỉ với cuộc phối ngẫu cực kỳ môn đăng hộ đối! Bởi, thân phụ của Nguyễn Đình Song, nhà giáo dục Nguyễn Đình Ngân (1890 - 1967), là người nổi tiếng toàn miền Trung cả về kiến văn và đức độ.
Nguyễn Đình Ngân xuất thân từ một thế gia vọng tộcở làng Phượng Đình, xã Hoằng Anh, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Phụ thân của ông Ngân, quan phó bảng Nguyễn Đình Văn, khi làm án sát tỉnh Khánh Hòa, từng vác ghế choảng viên công sứ Pháp là quan đầu tỉnh bởi y can thiệp thô bạo vào chuyện xét xử! Vốn chán ghét bất phục chính quyền bảo hộ, quan án Nguyễn Đình Văn xin hưu trí rồi qua đời năm 1905. Bấy giờ Nguyễn Đình Ngân 15 tuổi, được giới thiệu ra Hà Nội học Đông Kinh nghĩa thục. Chỉ được 3 tháng thì trường bị thực dân Pháp đóng cửa! Nguyễn Đình Ngân về lại Thanh Hóa, vừa làm gia sư kiếm thêm tiền giúp mẹ vừa sôi kinh nấu sử. Năm Nhâm Tý 1912, cậu Ngân đậu cử nhân xếp thứ 5. Trong thời gian học chữ Hán, cậu còn học cả chữ Pháp, không có thầy, mà tự học bằng từ điển. Sau khi thi đỗ, ông cử tân khoa Nho học lại ra Hà Nội theo bậc trung học Tây học, rồi theo ngành sư phạm, vì biết thời thế đã đổi thay. Năm 1916, tốt nghiệp sư phạm, Nguyễn Đình Ngân được bổ về dạy trường Quốc Tử Giám ở kinh đô Huế. Tại đây, trong vòng gần 20 năm, ông Ngân thăng đến chức Tế tửu (hiệu trưởng). Năm 1935, ông Đốc Ngân về Bộ Học giữ chân Tá lý, Thị lang, cuối cùng là hàm Tham tri (như Thứ trưởng bây giờ).
Ba mươi năm làm quan thuộc hàng cao cấp, nhưng ông Ngân chỉ quanh quẩn với nhà trường, sách vở, học trò, trọng đạo làm thầy, giữ vững gia nghiêm. Vốn hiếu học, của cải đáng kể nhất trong gia đình ông là cái thư viện - thư viện tư nhân lớn vào loại bậc nhất ở Huế thời ấy. Hầu như sách nào ông cũng mua, báo nào ông cũng đặt, kể cả báo chí xuất bản tại Pháp. Điều ông quan tâm nhất là việc học. Đường học hành của các em, ngay cả em rể, của con cháu, kể cả cháu rể tương lai, con cháu trong làng, trong họ ông đều chăm chút, dạy dỗ. Nhà quan Tham tri bộ Học thì phòng học là rộng rãi nhất. Theo lối sống nhà nho, lại thấm nhuần tinh thần Đông Kinh nghĩa thục, thú vui của ông chỉ có xướng họa thơ văn. Trong giao du, hoạt động xã hội, Nguyễn Đình Ngân tuyệt không đi lại với quan Pháp, quan thân Pháp, thân Nhật. Chính quyền thực dân, chính phủ Nam triều, nhiều lần muốn chuyển ông từ ngạch học quan sang ngạch quan cai trị, ông đều từ chối. Nhưng Nguyễn Đình Ngân lại làm nòng cốt khôi phục Thị xã Hương Giang đầy tinh thần dân tộc, đỡ đầu thành lập Nữ công học hội của bà Đạm Phương (thân mẫu nhà cách mạng Hải Triều), là nơi tập hợp nữ giới để huấn luyện lòng yêu nước. Ngoài ra, ông còn góp phần chăm lo đời sống của Phan Bội Châu đang bị giam lỏng ở Huế, tổ chức truy điệu Phan Chu Trinh và hoạt động đắc lực để bầu Huỳnh Thúc Kháng vào Viện Dân biểu Trung kỳ, giữ chân Viện trưởng. Bạn bè mà Nguyễn Đình Ngân hay qua lại là Huỳnh Thúc Kháng, Đào Duy Anh, Tôn Quang Phiệt, Trần Đình Nam, những nhà yêu nước nổi tiếng từng bị thực dân bắt tù đày. Trong tâm ông khắc ghi tinh thần mà mình đã nguyện từ ngày trai trẻ: Bảng vàng chỉ để nêu tên tuổi/Lòng đỏ thì đem hiến núi sông.
Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, Nguyễn Đình Ngân được chính quyền mới tín nhiệm giao giữ chức Viện trưởng Viện Văn hóa Trung bộ. Tiếp đến, ông làm Tỉnh hội trưởng Hội Liên hiệp quốc dân tỉnh Thừa Thiên. Toàn quốc kháng chiến 1946, ông Ngân đưa cả gia đình tản cư theo cơ quan. Sáng sớm 09 - 2 - 1947, ông lên Hiền Sĩ làm việc với ủy ban hành chính Trung bộ thì Pháp khởi hấn, tấn công. Chiến sự xảy ra quá bất ngờ làm ông và gia đình ly tán, sau nhiều ngày tháng tìm kiếm, liên lạc không được, ông đành xa gia đình cho đến ngày mất.
Ông Nguyễn Đình Ngân ra chiến khu Quảng Trị, và được cử về làm việc ở Thanh Hóa. Năm 1948, Nguyễn Đình Ngân được cử giữ chức ủy viên ủy ban Kháng chiến Hành chính Liên khu IV cùng các ông Hồ Tùng Mậu, Võ Liêm Sơn, Nguyễn Sơn, Trần Hữu Dực. Ông lần lượt làm Trưởng ban thi đua, ủy viên ủy ban phụ trách văn hóa - giáo dục, ủy viên thường trực Liên Việt, Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, ủy viên Ban Thanh tra Liên Khu IV. Bước chân ông trải khắp 3 vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh. Cấp Liên khu giải thể (1958), ông về ở hẳn tỉnh nhà Thanh Hóa, làm phó chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh. Ông còn là đại biểu Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khoá II (1960 - 1964) và khóa III (1964 - 1971)). Bác Hồ sinh thời rất quý mến ông Ngân. Giữa hai người có những điểm tạo nên sự gần gũi. Hai vị đồng tuế, thân phụ lại cùng đậu Phó bảng. Bác đồng cảm với việc ông Ngân xa gia đình, vợ con, tận tâm với công cuộc đấu tranh giành độc lập thống nhất. Đầu năm 1950, Bác gửi cụ Hồ Tùng Mậu, Tổng Thanh tra Chính phủ đem vào Thanh Hóa biếu ông Ngân một chiếc can bằng trúc rất đẹp. Mỗi lần ra Hà Nội họp Quốc hội, ông Ngân đều được gặp Bác. Có lần, Bác cầm tay, thương cảm Làm sao mà cụ gầy vậy! (Ông Ngân vóc dáng nhỏ nhắn, nặng chỉ hơn bốn mươi cân).
Tính ông Ngân chu đáo, cẩn mật từ những việc nhỏ. Người từ Huế trở vào phát âm tên ông hay thêm phụ âm g vào thành Ngâng khiến ông rất bực. Để tránh sai sót không đáng có này, đặt tên con, ông đều chọn các từ có g cuối cùng: Nguyễn Đình Chung, Nguyễn Đình Song, Nguyễn Đình Cung, Nguyễn Thị Thu Dung, Nguyễn Thị Xuân Trang.
Ông Nguyễn Đình Ngân suốt đời chú trọng việc giáo dục lớp trẻ. Dân trí cao nước nhà mới tiến bộ. Thanh niên được học hành, có văn hóa thì sẽ biết phải làm gì cho đất nước. Con cháu của ông Ngân đều bằng con đường học hành mà thành đạt. Noi gương cha, 5 người con sống với mẹ ở miền Nam cùng ba người con dâu đều không làm công chức mà làm nghề dạy học.
Người con thứ hai, Nguyễn Đình Song (1928), vào nghề từ năm 1947. Nhắc đến thầy Song, nhiều thế hệ học trò nhớ mãi hình ảnh mái tóc bồng bềnh, bộ đồ sơ mi và quần tây đều màu trắng một mẫu thanh niên cương nghị tài hoa pha chút phong trần lãng tử giữa thế kỷ 20! Chữ ký của thầy cũng đặc biệt khi có hai đường thẳng song song. Thời kỳ trước năm 1975, thầy giáo Nguyễn Đình Song đã nổi tiếng khắp miền Nam về phương pháp sư phạm cũng như trình độ toán học. Vì mối quan hệ đặc biệt thân thiết gắn bó với người anh ruột cũng làm nghề dạy học là thầy Nguyễn Đình Chung nên thầy Nguyễn Đình Song đặt tên kép cho mình là Chung Song, coi đó là bút danh khi viết sách, cũng là nghệ danh khi dạy học. Ở Huế đã thành lập tủ sách Chung Song. Nhiều thế hệ học trò chọn sách Chung Song bởi cách  trình bày dắt dẫn khúc chiết, dễ hiểu. Giáo viên Toán nói chung ít thích dạy Hình học không gian và Lượng giác, nhưng đông đảo học trò thán phục thầy Chung Song ở chính 2 môn này. Không gian là môn sở trường vì Chung Song vẽ hình rất đẹp bằng cả hai tay, nét đậm, nét nhạt, nét đứt rất rõ ràng. Thầy Chung Song nổi tiếng là người khởi xướng phương pháp dạy Toán, đặc biệt là Lượng giác, bằng thơ, nhiều học trò cũ tự hào nhờ cách học đó mà tới tuổi 60, 70 vẫn viết đúng công thức Toán. Thầy cũng là một trong những người đầu tiên ở Sài Gòn nghiên cứu về tân toán học. Các vị chủ trường tư đến tận nhà thầy, có khi chờ đến 11, 12 giờ đêm để năn nỉ mời thầy về dạy dùm cho hai giờ một tuần, với mức thù lao 150 đồng/giờ. Đủ thấy thầy Chung Song được hâm mộ như thế nào! Thầy phải nhận lời dạy các trường tư thục từ Huế, Hội An, cho tới Đà Lạt, Sài Gòn, rồi cả Mỹ Tho, Long Xuyên! Sau 30-4-1975, thầy lần lượt làm hiệu phó trường Trung học cơ sở Hưng Đạo, cán bộ giảng dạy khoa Toán Lý trường Cao đẳng Sư Phạm, trường Cán bộ quản lý giáo dục thành phố Hồ Chí Minh. Trong 44 năm dạy học, Chung Song xuất bản trên 20 đầu sách về hình học, lượng giác, đại số, xác suất, tích phân... Tâm huyết với sự nghiệp trồng người, thầy tin rằng: Học sinh Việt Nam rất thông minh, nếu có điều kiện học tập, khả năng toán học của các em không hề thua kém học sinh các nước khác
Thầy Chung Song qua đời ngày 27 tháng Chín Tân Mùi 1991. Liền 49 ngày, cô Túy Đại để bàn thờ chồng trong phòng khách, mấy mẹ con nằm ngủ quây quanh. Bà không ngủ được, nghĩ rằng mình nên làm điều gì đó, để ghi lại những tình cảm yêu thương của ông với mấy mẹ con, với toán học và với  học trò.
Một năm sau, giải thưởng toán học mang tên Nguyễn Đình Chung Song ra đời. Ngày 24/9/1992, trao giải cho học sinh giỏi toán nhất lớp 9 của quận Phú Nhuận. Từ năm 1993, giải thưởng được liên tục tổ chức hàng năm để tuyên dương các học sinh giỏi toán nhất TPHCM. Cấp Thành phố: trao cho học sinh có điểm Toán cao nhất trong kỳ thi Olympic toán quốc tế, kỳ thi giỏi toán quốc gia lớp 12 hằng năm do bộ Giáo dục tổ chức. Cấp quận huyện: trao cho mỗi quận huyện một học sinh có điểm toán cao nhất trong kỳ thi học sinh giỏi toán lớp 9 hằng năm do sở Giáo dục tổ chức. Khởi đầu chỉ là những món quà nhỏ được chuẩn bị từ nguồn tiền tiết kiệm của gia đình, đến nay đã có cả một danh sách dài những Mạnh thường quân ủng hộ. Ban đầu giải thưởng chỉ đóng khuôn trong những học sinh giỏi toán ở quận Phú Nhuận, nay đã được trao cho toàn bộ học sinh giỏi toán nhất thành phố Hồ Chí Minh. Qua 20 lần tổ chức, 1992 2011, đã trao giải thưởng cho 537 học sinh giỏi toán. Giải thưởng toán học Nguyễn Đình Chung Song trở thành một mục tiêu và niềm tự hào của những học sinh giỏi toán thành phố Hồ Chí Minh..
Tuổi mấp mé bát tuần, trong người mang trọng bệnh nhưng bà Túy Đại vẫn tìm cách liên lạc với các học sinh từng được nhận giải thưởng. Với bà, dõi theo bước tiến của các mầm non toán học là niềm vui khó có gì sánh bằng. Sức yếu nên mỗi ngày bà chỉ nói chuyện qua điện thoại với một hai học sinh cũ. Những ngày đầu năm mới luôn là ngày mà nhà bà giáo già Túy Đại vui nhất, khi danh sách học sinh giỏi toán cấp quận, huyện, thành phố được cập nhật. Cả nhà, mấy mẹ con, bà cháu  tíu tít lên danh sách, in giấy chứng nhận, bàn nhau đi chọn mua quà, xúm xít gói quà..., nao nức như chuẩn bị phần thưởng cho cả đàn đông đúc con cháu họ hàng ruột thịt.
Mấy năm gần đây, bà Túy Đại dần dần chuyển giao công việc cho 4 người con trai đều đã thành đạt. Nguyễn Đình Song Nguyên (1960) tốt nghiệp đại học Kinh tế hiện làm việc tại Ngân hàng Đông Á TPHCM. Nguyễn Đình Song Minh (1962) tốt nghiệp khoa Toán đại học Sư phạm, giáo viên giỏi trường Nguyễn Thị Minh Khai, được nhiều bằng khen của Sở, của Ủy ban Thành phố, của bộ Giáo dục, của Thủ tướng Chính phủ. Nguyễn Đình Song Huy (1964), tốt nghiệp bác sĩ Nội trú khoa Ngoại tổng quát, từ 1990 đến nay đã kinh qua các chức vụ Phó khoa Ngoại tổng quát, Trưởng khoa U Gan, Phó giám đốc Trung tâm Ung bướu bệnh viện Chợ Rẫy, được phong tặng danh hiệu Thầy thuốc Ưu tú. Nguyễn Đình Song Vinh (1967), tốt nghiệp Cao đẳng Sư Phạm Kỹ thuật TPHCM, hiện làm việc tại một công ty của Singapore. Trong 4 người con ấy, tất nhiên nhà giáo Song Minh được giao chủ trì tổ chức Giải thưởng Nguyễn Đình Chung Song.
50 năm qua, ở miền Nam, các nhà sư phạm Lê Viết Kính, Lê Hiếu Kính, Lê Khắc Giai, Lê Thị Túy Đại, Nguyễn Đình Chung Song đã tiếp nối truyền thống tôn sư trọng đạo của tổ tiên, không những cống hiến đắc lực cho ngành giáo dục-đào tạo, mà còn truyền cho con cháu ý tưởng xây dựng các Quỹ hiếu học khuyến tài nổi tiếng từ Huế tới Sài Gòn. Để rồi sang thế kỷ 21, chuyển giao sự nghiệp tổ chức điều hành Quỹ Huế hiếu học và Giải thưởng toán học Nguyễn Đình Chung Song cho kỹ sư Lê Hiếu Hữu và nhà giáo Nguyễn Đình Song Minh, các thành viên nội ngoại tiêu biểu của Thế 12 dòng tộc Lê Khắc làng Văn.
Chương 11: Chuyện ông chú út hai lần cầm vàng mà lội qua sông           
Ông chú út của Văn Trí là Lê Khắc Lự.
Ngài Văn Xuyên Lê Từ, ông nội của Văn Trí, có 15 người con trai. Bà Hai Hoàng Thị Huệ sinh hạ 3 con trai, Bà Ba Trần Thị Dung có 5 và Bà Tứ Nguyễn Khoa Thị Liên cũng có 5 con trai. Bà Năm Võ Thị Xuân My thì chỉ sinh 2 trai, chú Lê Khắc Bằng sinh năm 1914 và chú út Lê Khắc Lự 1916.
Bà Năm Võ Thị Xuân My về làm dâu nhà Lê Khắc khi Ông đã ngoài 50 tuổi. Bà thì tròn 19. Còn rất ngây thơ. Bữa vu quy, tiệc tùng cỗ bàn xong xuôi, Cô Năm ý tứ têm cơi trầu, vấn khay thuốc, e lệ đặt bên Ông Tuần, rồi sẽ sàng lui về phòng dành riêng, tự mình gài chốt cửa kỹ càng. Ông không tiện kêu cửa, phải nhờ  Bà Ba. Bà Ba tới ngọt ngào gọi cô Năm ơi mở cửa Ông vô. Cô Năm đứng bên trong lễ phép thưa rằng khuya rồi Ông vô làm chi, bữa trước Bà Ba tới nhà biểu tui về hầu têm trầu vấn thuốc cho Ông, thì bữa ni tui làm xong rồi, để sẵn ở đó rồi!
Năm 1928, khi ngài Văn Xuyên tạ thế, bà Năm 40 tuổi, một nách 6 con, trong đó có 5 vị thành niên. Cô út Lê Khắc Thị Duật mới 6 tháng tuổi.
Phút lâm chung, ngài Văn Xuyên tay chân lạnh dần mà đôi mắt không lạc thần vẫn đau đáu xót xa nuối nhìn bầy con bà Năm còn quá nhỏ. Mười người con trai lớn đã xuất chính, con bà Hai, bà Ba và bà Tứ, đứng quanh người cha hấp hối, thống thiết thưa rằng cha ơi xin cha yên lòng nhắm mắt, có chúng con ở lại bù trì dắt díu bầy em thơ.
Ở Huế, đất thần kinh, hoàng phái đông vô kể. Dòng tôn thất, nhà triều quan phần đông con đàn cháu đống. Nhiều sự đời trớ trêu cười ra nước mắt. Không ít nhà quyền quý mất người trụ cột, gia cảnh sa sút thảm thê. Nghèo rớt mồng tơi mà không cam chịu phận hèn đâu nha. Áo gấm te tua, ra đường vẫn súng sính. Khẩu khí vẫn kẻ cả làm cha thiên hạ. Đói ăn tới độ thèm khoai luộc phải ngửa tay xin tiền người ta mà giở giọng ngọt nhạt: mi nộp cho mệ đồng xèng mệ chém củ khoai coi răng!. Hoặc quay quắt nhớ miếng trầu, liều mạng vượt rào sang vườn hàng xóm trèo cau hái trộm, bị nhà chủ trấn dưới gốc cây bắt quả tang, còn to tiếng quyền uy quát nạt: nì, liệu hồn, mi xê ra cho mệ tuôộc xuống , không thì mệ ngưức đầu!
Được cái, nhà chú Lự tuy mẹ góa con côi nhưng không khi nào gieo neo cơ hàn. Bà Năm nuôi các cô các chú bằng hoa lợi thu từ ruộng vườn, lại mở cái quán nhỏ buôn bán lặt vặt cho O Cư, O Tấn trông coi. Mười mấy người con lớn cùng cha khác mẹ đã trưởng thành ông nọ bà kia, lại sẵn sàng đón em út về nuôi dạy. Xúm nhau đỡ đần Bà Năm, em trai được chăm lo cho ăn học nên người, kiếm việc đàng hoàng; em gái được gả chốn gia phong nền nếp. Không ai lâm cảnh nghèo túng. Nhưng cũng không ai vượt bậc giàu sang tòa ngang dãy dọc tiền kho lúa đụn.
Vậy thì ông chú út Lê Khắc Lự lấy đâu ra bạc vàng châu báu mà cầm mà lội qua sông?
Một buổi sáng giữa tháng Hai Nhâm Thân 1992, nhân viên trực văn phòng Thế Giới Mới gọi điện thoại lên lầu Một báo Văn Trí có khách. Vội xuống tầng trệt ngay. Khách, một ông già nhỏ thó, tự giới thiệu:
- Tui là Lê Khắc Lự.
- Dạ, cháu chào chú Lự. Thưa chú, cháu có nghe Mạ cháu kể chuyện chú. Cháu gặp Lê Khắc Quảng, thấy em ấy vạm vỡ, không hình dung ông chú út của mình khi già vóc vạc gọn lại thế này.  
- Tui cũng mới 77, bằng tuổi anh Điềm. Nhưng anh Điềm ngó rứa mà sướng, đường đời ít nỗi gian nan. Còn tui đoạn trường lênh đênh nên hom hem ra ri. Ui chao là hoạn nạn đời tui. Thuở tráng niên gầy dựng vun quén cho lắm rồi trắng tayĐể bữa khác có thì giờ tui kể anh nghe. Bữa ni tui sang mời anh ngày mốt sang nhà tui bên Thủ Thiêm An Khánh kỵ Ông.
Đó là buổi giỗ Ông Nội Văn Xuyên Lê Từ mà Văn Trí được dự lần đầu tiên trên đời. Do chính con trai út của Ông tổ chức. Ngoài con cháu đích của mình, chú Lự chỉ đặc cách kêu thằng cháu vừa từ Hà Nội chuyển vô trong số 22 đứa cháu ruột của chú năm 1992 đang có mặt ở Sài Gòn. Sau giờ hành lễ là câu chuyện không dứt về dòng tộc.
Năm 1908, Ông Tuần hồi hưu làm tiên chỉ làng Văn Xá và trưởng tộc Lê đại tộc liên tục 20 năm. Tư dinh của Ông ở làng là ngôi nhà rường đồ sộ ba gian hai chái do cao tổ Lê Cát xây dựng từ giữa thế kỷ 19.
Nhà ngang có 3 gian tiếp liền ngôi nhà lớn. Thường ngày, Ông sinh hoạt ở gian giữa nhà ngang. Chính giữa có cái phản gõ Ông thường ngồi. Tựa vào chiếc gối dựa 5 lá, Ông đọc sách, ngâm thơ, hút thuốc bằng một ống điếu dài. Phía trước phản gõ đặt chiếc bàn gỗ sến có trường kỷ hai bên. Ở đó, các bô lão, hương lý thường tới ngồi hầu chuyện, bàn việc, có khi kéo dài cả buổi. Hương lý Văn Xá có việc chi khó xử đều tới nhờ Ông chỉ giúp. Có nhiều vụ kiện cáo trong các họ, dân làng không mang nhau vào cửa quan trên huyện mà tới nhờ cụ Tuần phân xử.
Phía bên trên tấm phản gõ Ông ngồi treo một cánh quạt kéo rộng hơn mét, dài tới hai mét, nối với sợi dây luồn qua ròng rọc chạy tít ra hiên nhà, nơi chú tiểu đồng ngồi trên ghế đẩu vừa kéo quạt vừa ngủ gật. Bé Lự thỉnh thoảng vào kéo thay. Và thích thú xem Ông giải trí bằng trò chơi đồng hồ.
Đồ chơi gồm có một bộ 10 que gỗ mun dài khoảng 90cm, một hồ lô gỗ cao khoảng 80cm và một miếng gỗ vuông bằng nửa bàn tay gọi là con cóc. Người chơi đứng cách chỗ đặt hồ lô khoảng 3m. Con cóc đặt ở khoảng giữa (cách mỗi bên 1,5m). Ông cầm một chiếc thẻ, nhịp nhịp, phi nhằm con cóc. Thẻ nẩy ngược lên, bay vòng, thật tài tình, chúc đầu cắm trúng miệng hồ lô, gõ vào đáy hồ lô có cái trống nhỏ kêu bung một tiếng. Thế là thắng cuộc! Chú bé Lự háo hức đứng chực, reo to khi trống kêu bung, và lúc thúc chạy nhặt thẻ nộp trả cho Ông, được Ông xoa đầu.
Hình như chơi Đồng hồ còn là dịp Ông bói toán cái chi đó. Thấy Ông lẩm nhẩm tính, chú Lự không hiểu. Nhưng chú biết chắc Ông rất giỏi bói toán. Từ khi bé tí chú đã chứng kiến. Hôm ấy, chừng nửa buổi sáng, o Giông (cô Lê Khắc Bích Thông, 1901-1988, con gái út của Bà Hai) từ trên Văn Xá Thượng bấn loạn chạy bộ xuống, khóc lóc trình rằng Thầy ơi mạ con chắc chết mất, đi tả ba bốn lần, đầu ngón tay móp hết rồi, nằm mê man, người lạnh ngắt …” Ông vội đánh quẻ tay, gật gật đầu, mở tráp lấy mấy đồng tiền bói ra gieo quẻ leng keng. Rồi Ông cười một tiếng, bảo o Giông: Nín đi con, bây chừ mạ con tỉnh lại rồi. Để thầy biểu thằng xe đưa con về cho mau. Thấy mạ tỉnh táo thì con hầm nồi cháo thiệt loãng, cho mạ húp nước cháo vài lần rồi ăn chút cháo lỏng. Ngày mai là mạ con mạnh hẳn. Chứ không cần thuốc thang chi hết. Thằng xe quay về cho thầy biết tình hình, rồi chiều mát thầy lên thăm mạ con…” Mọi sự về sau quả nhiên như Ông nói.        
Vùng đất có một cụm sáu bảy nhà thờ họ liền nhau này quả là địa linh. Ngày mồng Năm tháng Tám năm Đinh Mão 1927, húy nhật lần thứ 37 ngài Văn Sơn Lê Cát, chạng vạng tối, lúc các bậc tôn trưởng là 7 ngài đồng tông Lê Từ, Lê Trọng Bỉnh, Lê Doãn Thăng, Lê Triết, Lê Đôn, Lê Trí, Lê Phu và 2 ông rể là Trượng (dượng) Hiệp Tôn Thất Thị, Trượng Thượng Tôn Thất Diệm đang ngồi trò chuyện sau bữa cơm giỗ thì chú Lự (11 tuổi) đứng ngoài sân trông thấy trên nóc nhà thờ Phái Lê Khắc (ở thôn Giáp Ba, tức là phe Ba) xuất hiện một vừng sáng xanh, tròn to bằng quả bưởi. Rồi nối tiếp một viên nữa. Lại một viên nữa Tất cả 15 quầng sáng nối nhau vọt lên, như một dải lụa óng ánh bay thẳng về hướng bắc, chừng 500m thì lần lượt tắt dần Phía ấy chính là Nhà thờ lớn của Lê đại tộc ở thôn Giáp Tư (phe Tư). Chú Lự lật đật chạy vô thưa với quý ông. Ngài Bồ Nam xoa đầu trai út: Đó là anh linh Ông Bà về hiệp Kỵ xong rồi vô lại nhà thờ Họ. Con thấy được các cố là phước lớn đó…”
Tại góc vườn phía tây bắc, chen giữa rặng tre có một cây bứa gốc tày ôm, cành lá sum suê. O Cư và o Tấn (chị ruột chú Lự) kể rằng xưa có con tinh áo trắng đêm khuya ngồi vắt vẻo cành bứa xõa tóc tỉ tê ru con. Hai o thường theo người làm trong nhà rủ nhau rình coi. Một đêm Ông thức dậy kêu không thấy o nào, liền ra vườn tìm. Biết chuyện, Ông mang súng ra nhằm cành bứa nã một phát. Con tinh biến mất và từ đó không hiện ra nữa. Bẵng tới chục năm sau, khi Ông đã qua đời, một lần bà Năm đau nặng, lúc mê sảng cứ nói the thé Cụ Tuần không cho tui ngồi cành bứa thì cụ đuổi là tui đi ngay, can chi cụ bắn tui què chưn, mạ con tui phải vất vưởng nơi cây sung kề miễu khổ sở bao nhiêu năm…” Quả thật xế cửa nhà bà Năm có ngôi miếu cổ kiểu nhà sàn nằm cạnh đường, các cụ trong làng bảo miếu rất thiêng thường thắp hương cúng vái. Gần miếu đúng là có gốc sung cổ thụ. Người nhà bèn mời thầy cúng tạ lễ tại miếu và cây sung. Bà Năm hết đau.
Dạo ấy, chú Lự đã được anh tham Hy (chú Lê Khắc Hy) đón vô Huế học hết tiểu học, được anh Đốc Nguyện (chú Lê Khắc Nguyện) đón ra Vinh học Quốc học Vinh, thi đậu bằng thành chung (diplôme). Đã khăn gói ra Hà Nội học tiếp Tú tài 1, nhưng vì cảnh nhà khó khăn, chú Lự phải bỏ dở, quay vào Trung kỳ đi làm công chức cho chính quyền Bảo hộ tại Tòa Công sứ Đồng Hới.
1945. Việt Nam giành độc lập. Chú Lự tham gia cướp chính quyền và trở thành cán bộ Ủy ban hành chính tỉnh Quảng Trị. Bắt đầu chặng đời trung niên đong đầy nỗi niềm bi tráng, cầm vàng mà lội qua sông…”
1946. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Thực dân Pháp trở lại tái chiếm thành phố Huế, tiến đánh ra Quảng Trị. Có lệnh nổ mìn phá hủy trụ sở và sơ tán cơ quan tỉnh ra huyện cực bắc Vĩnh Linh.
Chú Lự kể rằng:   
Tôi lúc đó đã có 3 con. Hoàng Mai 5 tuổi. Hoàng Lan 3 tuổi. Và Quảng mới được 10 tháng. Trăn trở dằn vặt nhất với tôi thời điểm ấy là lựa chọn giữa hai con đường : đi(kháng chiến) hay ở lại(với vợ con). Quyết định sau cùng: đi! Bước đầu mang cả vợ con ra Vĩnh Linh. Tình hình diễn biến rất nhanh. Địch đánh tiếp ra Vĩnh Linh. Cơ quan phân tán thành hai bộ phận. Phần lớn chuyển ra vùng an toàn Nghệ An, Thanh Hóa. Chỉ chọn 10 người trung kiên ngược lên vùng núi cao Quảng Trị, bám trụ, tổ chức kháng chiến. Tôi nằm trong số đó. Thế là chia tay vợ con trong một đêm giá lạnh tháng 2 năm 1947. Khi giặc vào Vĩnh Linh, vợ con tôi cùng đồng bào tản cư lên miền rừng Vĩnh Quang. Sinh hoạt gian khổ, ban ngày cấm đốt lửa, ban đêm cọp beo gầm thét. Vợ tôi đành bồng con lần tìm về quê ngoại, làng Vĩnh Phước. Con nhỏ quá chưa đứa nào tự đi nổi, phải gánh hai đứa ngồi lọt thỏm vào hai thúng, còn một đứa bế trên tay.
Cơ quan kháng chiến tỉnh Quảng Trị đi lên chiến khu. Giữ bí mật hành quân đi không dấu - nấu không khói - nói không tiếng. Khi biết địch không bám theo mới dừng lại ổn định sinh hoạt. Nơi đó là chiến khu Ba Lòng. Núi cao rừng già. Chỉ độc đạo một đường thủy theo sông Thạch Hãn, qua bao thác ghềnh hiểm trở. Ổn định bộ khung rồi mới bắt đầu phát triển guồng máy Ủy ban tỉnh. Có đủ bộ phận: công an, y tế, học chánh, tòa án, tài chánh, tiếp tế hậu cần
Ban đầu tôi phụ trách tài chánh, dự trù kinh phí trả cho các bộ phận của tỉnh, cho các ủy ban huyện, tỉnh đội dân quân. Cử người ra Ủy ban kháng chiến khu Tư đóng tại Nghệ An nhận tiền (giấy bạc cụ Hồ). Mỗi dân công gánh hai thùng tiền là thùng gỗ đai sắt niêm phong. Tiền nhận về, không có két sắt bảo quản, phải cất kho bí mật chỉ có tôi và một nhân viên bốc vác biết chỗ. Khi thăm kho phòng mối đục, khi lấy tiền ra cấp phát, chỉ hai người chúng tôi biết. Lúc địch càn, chúng tôi được ưu tiên chạy trước tìm chỗ an toàn qua các địa điểm dự bị: Khe Me, Khe Su, Hòn Linh
Sau mấy năm chiến đấu không hề để mất mát thiệt hại công quỹ, tôi được ra Nghệ An một tháng học lớp trung cấp Nguyễn Ái Quốc, trở về làm Ty trưởng thuế vụ Quảng Trị. Không còn ở cùng chỗ với Ủy ban, cơ quan thuế đặt tại trung tâm Trấm trên sông Thạch Hãn, cửa ngõ vào chiến khu. Thêm 4 nhân viên thu thuế buôn chuyến, mở trạm thuế ở Cùa.
Năm sau tôi được triệu tập ra họp tận Việt Bắc. Đạp xe qua 3 tỉnh Thanh Hóa, Hòa Bình, Phú Thọ, tới Tuyên Quang. Họp trong rừng. Về kế hoạch triển khai thuế công thương nghiệp. Có bộ trưởng Bộ tài chính trực tiếp chỉ đạo.
Đi họp về tôi được đề bạt làm chủ nhiệm Phân sở Thuế Bình Trị Thiên.
Tôi gia nhập đảng Cộng sản Đông Dương năm 1947. Vì thuộc thành phần gia đình quan lại phong kiến nên tôi không vào thẳng làm đảng viên chính thức như anh em tầng lớp công nông, mà phải kinh qua đảng viên dự bị thử thách 6 tháng. Nhưng nhờ công tác tháo vát tận tụy nên tôi được tổ chức tin cậy. Chi bộ cơ quan Ủy ban kháng chiến Quảng Trị bầu tôi làm bí thư. Rồi sau đó lại bầu làm bí thư liên chi gồm các chi bộ cơ quan cấp tỉnh đóng ở chiến khu.
Năm 1954, cuộc chiến kháng Pháp đã kết thúc giai đoạn phòng ngự và cầm cự, chuyển sang tổng phản công. Tiên liệu Pháp sẽ rút nhưng đất nước phải tạm chia đôi. Tổ chức dự kiến cài cắm tôi ở lại hoạt động trong vùng địch. Tôi lại được điều ra Bắc lần thứ ba để huấn luyện nghiệp vụ tình báo. Xong lớp học bí mật, tôi không về Quảng Trị mà đi thẳng vào chiến khu Thừa Thiên. Sau Hiệp định Giơ-ne tháng 7-1954, tôi về Văn Xá gặp mẹ, nhờ liên lạc bà con Lê Khắc ở Huế đón tôi vào thành. Tại Công an Huế, tôi khai báo theo như kịch bản vạch từ Việt Bắc, rằng tôi đi kháng chiến là đảng viên phong trào. Nay hòa bình, tôi hồi cư sum họp gia đình. Thế là được tái bổ làm thư ký hành chánh, chuyển vô tỉnh Quảng Ngãi, khu vực chính phủ kháng chiến mới bàn giao. Năm 1956, lại đổi ra Huế làm Tòa hành chánh Tỉnh đường Thừa Thiên. Tôi hoạt động tình báo đơn tuyến, chỉ liên hệ với một cấp trên là đồng chí Phước ở chiến khu Thừa Thiên đã từng chỉ đạo tôi. Tại văn phòng Tỉnh trưởng, tôi thu thập được một số tài liệu; trong hai năm có hai lần xin nghỉ phép vào Đà Nẵng và Sài Gòn báo cáo, họp mạng lưới.
Tháng 8-1958, tôi bị lực lượng an ninh của Ngô Đình Cẩn bắt. Bị giải qua tòa Khâm, thấy anh Phước bị giam ở đấy. Thế là rõ, cả mạng lưới bị lộ. Công an thẩm vấn kể vanh vách tên tuổi cán bộ tỉnh ủy và phụ trách các ban ngành của ta ở Thừa Thiên. Họ cũng kê ra tường tận mọi việc tôi đã làm.
Ở Huế thời ấy họ Lê Khắc có một số nhân vật tên tuổi. Anh ruột tôi là Lê Khắc Tưởng làm giám đốc tài chánh Trung bộ. Cháu ruột tôi là Lê Khắc Duyệt làm giám đốc công an Trung phần Trung nguyên. Một cháu ruột nữa,  Lê Khắc Quyến, là bác sĩ giỏi, giám đốc Y tế Trung bộ, nhà hoạt động xã hội có tiếng. Phải chăng vì vậy anh em ông Diệm đối xử với tôi có phần nương tay? Thế mà tôi cũng bị giam giữ 4 năm ròng trong trại tòa Khâm Năm 1962 mới được thả ra. Làm nhân viên thư ký hành chánh do công an Huế trực tiếp theo dõi chặt.
Thế là sự nghiệp chính trị của Lê Khắc Lự tan tành!
Cầm vàng mà lội qua sông / Vàng trôi không tiếc, tiếc công cầm vàng.
Thế là mất vàng. Tiếc công cầm vàng!...
Nghe tới đó, Văn Trí thốt nhiên bật dậy sỗ sàng:
- Chú nói cái gì? Mất vàng à? Vàng nào mất? Chú nói lại cháu nghe coi.
- Ờ thì rứa đó. Chú cầm vàng chú lội qua sông, chú để cho vàng trôi
Trí càng gay gắt:
- Cháu xin lỗi chú, chú nghĩ sai rồi! Chú không làm trôi, không đánh mất một mảy vàng nào cả! Cháu biện giải chú nghe thử. Năm 1945-1946, thứ vàng ròng mà toàn dân Việt Nam nâng niu, mà chú Lự và cả họ Lê Khắc nhà mình cầm, cả dân tộc Việt Nam cầm, chính là ý chí giành giữ độc lập tự do cho dân tộc. Con sông phải lội qua ở đây chính là cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ 9 năm. Tất thảy chúng ta đã oanh liệt qua sông mà vàng ròng độc lập tự do không suy suyển một ly! Năm 1955, thực dân Pháp cuốn cờ rút lui. Sứ mạng cao cả đã hoàn thành, có phần đóng góp của chú Lự thay cho Thế thứ 10 Lê Khắc! Lúc cuộc chiến 1946 bùng nổ, trong số 20 người con còn tại thế của ngài Bồ Nam, duy nhất người trai út Lê Khắc Lự dứt áo bỏ lại lũ con thơ, lên đường cứu nước cho tới ngày kháng chiến thắng lợi.
Chú Lự ngẫm ngợi, ấp úng:
- Nhưng mà sau đó
- Sau đó lại là chuyện khác. Từ 1955, bản chất thời cuộc đã chuyển biến. Cháu còn nhớ rành rành năm 1955, ở ngoài Bắc mở đợt vận động quán triệt tới từng người dân, xác định nhiệm vụ lịch sử số một của Việt Nam là đấu tranh thống nhất đất nước, hòa hợp dân tộc, Nam Bắc một nhà. Bà con Lê Khắc ngoài ấy đều biết sự việc Lê Khắc Nhãn đang làm phó vụ trưởng ngành giáo dục bí mật vượt tuyến vào Nam móc nối với anh ruột Lê Khắc Quyến vận động hòa hợp bà con hai miền. Cũng trong năm ấy đã tổng kết khen thưởng thành tích kháng Pháp. Họ hàng nhà mình được trao tặng vài trăm tấm Huân Huy chương Nếu chú Lự của cháu tập kết ra Bắc thì cháu đoan chắc chú sẽ nhận được tấm Huân chương cao nhất trong số bà con Lê Khắc hiện diện ở miền Bắc. Nhưng năm 1954, tổ chức phân công chú ở lại miền Nam hoạt động bí mật. Không phải chú đào ngũ về Huế với vợ con, mà là chú tuân thượng lệnh, khoác vỏ bọc đặng thực thi điệp vụ. Nghề tình báo gian nguy may rủi khôn lường. Trường hợp chú phải gọi là tai nạn nghề nghiệp. Đối phương phăng được đầu mối, chứ có phải chú trở cờ đâu!
Mặt chú Lự vẫn rầu rầu:
- Ờ thì đường dây bị lộ không phải tại chú phản bội. Nhưng chú vẫn ngày đêm dằn vặt về lầm lỗi của mình. Chú hèn yếu ở thời điểm nghiệt ngã lựa chọn giữa khai nhận và cái chết. Địch đánh bài tâm lý, dẫn chú về tận nhà thăm 6 đứa con, mấy đứa sau là Hoàng Anh mới có sáu tuổi, Hoàng Hoa lên bốn, Cường lên hai. Chú thương 6 đứa con đứt ruột, chú buông xuôi. Còn anh Phước và các đồng chí kiên trung ngày ấy thì hi sinh không còn ai cháu ơi! Tâm tư sâu kín còn chuyện này nữa, chú bộc bạch cháu nghe. Từ ngày chú trở lại với gia đình và bị địch bắt, cuộc sống của gia đình chú rất khó khăn. Suốt đời chỉ đi ở nhà thuê nhà mướn. Lúc vào Sài Gòn thuê một cái gác nhỏ sống qua ngày, thiếu thốn đủ điều, thậm chí không có nơi đi vệ sinh... mà các cháu khi đến thăm chú thím đã được tận mắt thấy. Nhưng lời dạy của ông cha để lại, giấy rách phải giữ lấy lề, không chỉ riêng chú mà tất cả con của chú thím đều giữ nằm lòng cho đến hôm nay. Các con của chú đều được ăn học nên người nhưng chỉ hưởng thụ theo công sức bỏ ra, không đứa nào giàu có. Đủ ăn đủ mặc là quý rồi, chỉ lấy đạo đức và tình người làm trọng!
Văn Trí lắng nghe. Im lặng hồi lâu. Câu chuyện sau đó đằm lại. Lịch sử công bằng vẫn ghi chuyện xưa chú Lê Khắc Lự cầm vàng đại nghĩa lội qua sông không đánh mất vàng không để vàng trôi. Niềm vui lớn hôm nay là chú còn minh mẫn, còn thân còn dịp đền bồi, thực thi sứ mệnh kết liên hòa hợp
- Cháu ơi, thân già sức mấy mà đóng góp với đền bồi?
- Thưa chú, sao lại không? Chỉ tính riêng đại gia đình nhà cháu, hậu duệ ngài Văn Phố, được tặng thưởng nhiều Huân Huy chương nhất và cũngcó nhiều người sau năm 1975 buộc lòng rời đất nước nhất. Nếu tính cả họ Lê Khắc thì vài trăm tấm Huân chương đối lại với vài trăm ly khách tha hương! Bỗng dưng tách ra hai phía đối lập! Giờ đây, cả hai phía thành tâm tìm về hòa hợp. Chúng cháu xin dốc sức. Tuy nhiên, người con trai duy nhất còn sống của Tổ phụ Lê Từ phải dẫn đầu họ tộc làm theo Di huấn thiêng liêng.
Chú Lự lật giở bản Hưu phủ Bồ Nam Lê thị gia huấn:
- Ờ, ờ, phải. Cháu xem đây nì, Di Huấn của tổ phụ. Ta làm quan hơn 30 năm, nhiều lần được trong ngoài khen ngợi. Thời tại chức chưa tới 20 năm (bởi có hơn 10 năm nghỉ việc quan về làng thọ tang thân phụ và thân mẫu ghi chú của người chép Tộc phả), cẩn trọng giữ gìn không phạm điều kiêng cấm của người làm quan. Trong nhà không có tiền dư thừa, cần kiệm giản dị suốt đời, lộc vua tích lũy sắm được một miếng vườn để vui thú lúc về già. Chỉ có một ngôi nhà từ đường là sản nghiệp đời trước dùng vào việc thờ cúng, đến đời ta ở chăm sóc…”; “…Phàm các con ta sau này vào đời, người nào thu nhập tháng dưới 20 đồng, ăn mặc không đủ thì miễn; người nào trên 20 đồng, mỗi tháng cần trích 5% (năm phần trăm) góp vào việc phụng dưỡng, sau khi ta chết lấy phụ thêm vào việc thờ cúng…”; “…Sau khi ta mất, nơi thờ cúng không nên để trống không. Hoặc do các Phòng luân phiên ở để chăm sóc từ đường, hoặc chọn lựa ủy thác người có khả năng trong số con cháu ở để coi giữ, nhưng vẫn do các Phòng chăm sóc từ đường…” À, cháu nhớ cho kỹ chú Lự lật giở lại trang một câu khai mở thấu suốt 15 điều Di Huấn: Kinh sử là ruộng vườn của nhà ta. Trung hiếu là châu báu của nhà ta.
- Dạ, hậu duệ Lê Khắc ghi tâm khắc cốt: Trung Hiếu là châu báu của nhà ta. Nửa thế kỷ trước, chú cháu mình mang vàng ròng đại nghĩa Trung với nước vượt sông kháng chiến cứu quốc. Giờ đây, chú cháu ta mang châu báu gia truyền Hiếu với Tổ tiên mà vượt qua con sông chia ly, kết nối hòa hợp đôi bờ.
- Rứa thì được. Chú sẽ góp sức già. Chỉ tiếc tuổi 80 lãng cả hai tai.
Trí cười, trêu chú:
- Đồng bệnh điếc lác, chú cháu mình thương nhau. Cháu kém chú 21 tuổi mà phải dùng máy trợ thính mười năm rồi.
Hôm sau, Trí mua biếu chú Lự cái máy trợ thính. Chú Lự đeo thử, kêu trời: nhức đầu long óc, ù ù ầm ĩ như cả một nhà máy cơ khí vận hành bên tai! Nhưng chú cố sử dụng, khả dĩ bàn chuyện dòng họ với Trí. Chú vẫn canh cánh xót xa tình trạng Nhà thờ đêm ngày lạnh lẽo. Trí cũng thấy Văn Xá quê mình sao mà nhiều nhà thờ, đi quanh làng cứ vài chục bước lại gặp một nhà thờ của họ tộc nào đó. Riêng chi phái Lê Khắc có tới chục nhà thờ, trong đó 4 ngôi chỉ để thờ phụng, không có người ở lại trông nom. Có lẽ nên sắp xếp, chỉ để một Nhà-Thờ-Chuyên-Thờ-Cúng, chính là Nhà-Thờ-Phái-Lê-Khắc tạo lập năm Ất Sửu 1925. Còn Nhà thờ Trung phụng đại phu Lê Từ thì nên chăng trở thành từ đường có cháu chắt ở lại ngày đêm trông nom hương khói, như Di Huấn của Người? Nhưng hậu duệ dòng đích của Ông hiện nay không một ai sống ở làng. Có thể tìm một người cháu nào đó về làng ở hẳn trong Nhà thờ, được sử dụng hai phòng chái, và dựng thêm vài gian nho nhỏ kế  bên cho gia đình thủ từ sinh hoạt?
Văn Trí bèn làm một chuyến xuyên Việt thăm dò các cụm Lê Khắc từ nam ra bắc. Ghé  Xóm Hoa Lư. Anh Khắc Luân chết rồi! Làm xong cái lễ lên lão bảy mươi, ốm khặc khừ vài tuần rồi mất, đưa tang lặng lẽ không báo về quê. Chị Báu soạn tủ sách chồng để lại, thấy lá thư anh Luân viết chưa kịp gửi vào Sài Gòn “…chú Điềm, chú Nhãn, chú Sính thân mến tôi định khi nào sức khỏe hồi phục thì về làng bàn việc trông nom Nhà thờ Phái và Nhà thờ Ông Nội…” Con gái lớn của anh Luân lấy cu Sơn nhà Hải-Na đã theo chồng lên thành phố định cư. Con trai cả, cu Tân, ngoài 40 tuổi mà chẳng chịu lấy vợ, bệnh thần kinh có vẻ nặng thêm. Chị Báu buồn héo hon, ở với vợ chồng con gái út. Chị Na vô lo, béo phây phây, quanh ra quẩn vào mỗi việc chăm chút cho hai thằng nhóc - cháu ngoại bà Na lại cũng là cháu nội bà Vân! Chị Vân một nhà đông đúc đề huề tới hai chục con (trai gái dâu rể) và hai chục cháu (nội ngoại). Hàng xóm cứ kháo nhau kêu Khê-Vân bằng cái tên nhà giáo nhà giàu. Mà có lẽ giàu thật. Ấy là nhờ thu nhập từ trung tâm sách tham khảo hình thành năm 1994. Ý tưởng làm sách nẩy nở từ sáng kiến của mấy cậu học trò tinh quái năm nào sao chụp bài giảng của thầy Khê, biến thành hàng hóa. Đúng lúc nhà trường phổ thông đổi chương trình, thay sách giáo khoa. Anh Khê vào Sài Gòn học mót kinh nghiệm, lên Hà Nội khai thác chất xám. Tổ chức cho các giáo sư đầu ngành từng bộ môn bám sát nội dung sách giáo khoa quốc gia, biên soạn sách hướng dẫn tỉ mỉ cách dạy cách học từng bài một. Y như bài soạn mẫu cho thầy và cho trò. Coi là cẩm nang dạy học! Lại móc nối với các sở Thông tin văn hóa tỉnh xin giấy phép xuất bản nhất thời. Gặp buổi tranh sáng tranh tối, cả triệu thầy trò đang bí bách ngơ ngác với chương trình mới, đổ xô tìm cẩm nang. Văn Khê làm kiểu cuốn chiếu, hàng năm Bộ giáo dục thay sách giáo khoa lớp nào là Trung tâm cung ứng sách hướng dẫn lớp đó. Mỗi đầu sách của trung tâm chui in vài trăm ngàn bản. Các tỉnh gần xa kìn kìn đánh xe tải về lấy sách. Nhưng sự thịnh vượng không bền. Các công ty Sách và Thiết bị trường học tới mua, dần dà học lỏm quy trình làm ra ấn phẩm, rồi tỉnh nào tỉnh nấy tự túc tổ chức in lấy sách tham khảo. Thành ra bão hòa. Mấy năm sau, hai ngành Giáo dục và Xuất bản trong Nam ngoài Bắc toát mồ hôi loay hoay…“dẹp loạn sách tham khảo! Tuy thế, trong dăm năm cả nhà Khê-Vân xúm vào làm sách, cũng đã đủ tiền cho con cái vung vinh xây nhà tầng suốt lượt.
Bất ngờ nhất trong chuyến đi này là Trí tái ngộ anh Thụ trong vai Việt kiều yêu nước. Không ai nghĩ anh suýt soát tuổi 70. Vạm vỡ, da căng đỏ au, tóc râu đen mun. Thì ra anh Thụ vừa từ Hoa Kỳ về thăm Khê-Vân. Lại bổ vào Thanh Hóa về làng xưa cúng tiền xây ngôi chùa cổ bị phá trong thổ cải. Chị Vân bĩu môi  quên cái làng ấy đi thì Thụ cười cười hòa giải hòa hợp em ơi. Với lại anh thương cha nhớ mẹ nên cung tiến xây chùa cho người làng mình cầu cúng ăn chay niệm Phật quên đi mọi oán thù chỉ nhớ điều nhân nghĩa. Thụ tủm tỉm cười hỏi chú Trí không nhận ra anh à. Sao không nhớ, vừa thấy đôi mày lưỡi mác với thân hình đồ sộ là em nhận ra ngay. Sau gần nửa thế kỷ mà anh Thụ vẫn như xưa. Ha ha, lấy đâu ra nửa thế kỷ? Anh em mình đụng độ đốp chát cách nay mới có một phần tư thế kỷ thôi! Nhà báo xã hội chủ nghĩa quên béng nhân vật thủ thư điển hình trường học mới giải phóng phía Nam rồi! Thụ cười khà khà sảng khoái, lục túi, đeo lên mắt chiếc kính râm ngoại cỡ sẫm màu sệ xuống gốc mũi. Bộ mặt trở nên bí ẩn. Nhưng hàng ria mép hai đầu cong vểnh ngược ngạo nom quen quá là quen! Trời ơi, ông  Thụy, giáo sư văn triết Trịnh Thụy, thủ thư Trịnh Thụy từ Sài thành trốn chui trốn nhủi vượt biên năm 1977. Thì ra, rõ ma lanh, vượt tuyến năm 1954, Trịnh Thụ chắp thêm chữ y vào cuối danh tính thoắt biến thành Trịnh Thụy. Rồi vật đổi sao dời, năm 2003 phục hồi nguyên trạng Trịnh Thụ doanh nhân thành đạt người Mỹ gốc Việt quy cố hương hành hiệp thiện nguyện với bao toan tính tốt lành. Trí bảo anh Thụ ơi mang vốn liếng ở Mỹ về mở doanh nghiệp làm ăn xây dựng đất nước đi. Thụ ờ ờ, lần này về thăm dò xem sao, chuyện hồi hương tính sau, còn phải thu xếp vợ con cháu chắt cả chục nhân mạng.
Anh Khê đã buông hẳn việc làm ăn. Gia tài chia hết cho con. Nhà lầu của con trai con gái con dâu con rể xây nối nhau thành dãy phố trù phú. Khê Vân chỉ sống bằng 2 suất lương hưu. Khê đẹp lão, ngoài giờ đọc sách quanh quẩn trong phố nhà, bảo ban lũ trẻ học hành. Bà mẹ mười con Trịnh Thị Vân thì chẳng chịu già  theo thời gian, gương mặt bầu bầu hồng hào không nếp nhăn còn nguyên bóng dáng thời xuân sắc. Vẫn con cón lam làm, sáng chiều đảo qua các nhà, luôn tay luôn chân đỡ đần con cháu công kia việc nọ. Thi thoảng, đêm, Khê đem cây banjo alto cổ tích Suối Mây lên sân thượng. Tay cầm que gẩy vê dòn tan giai điệu ngày xưa. Thánh thót Giọt Mưa Thu, Con Thuyền Không Bến. Rộn rã Bóng Cờ Lau, Tiến Về Hà Nội. Ông chơi đàn, mấy bà cháu khen lấy khen để rằng nghe hay hơn ti vi.  
Cũng có lúc nghĩ ngợi lăn tăn. Chia hết của nả cho con, thôi đóng vai nhà giáo nhà giàu, Khê Vân đôi khi hụt hẫng. Ơ hay, dường như khách khứa thưa vắng hẳn đi? Ngày trước, nào đồng nghiệp của chồng, nào bà con đằng vợ, ra vào rối rít. Tuần nào cũng một hai người cười cười ngượng nghịu ngỏ ý vay mượn tiền nong. Được cái chị Vân xởi lởi tốt bụng. Sinh hoạt giản dị, tiêu dùng cho bản thân thì chi li chặt chẽ, nhưng hễ người thân nhờ cậy là niềm nở đáp ứng. Nay, bạn bè vẻ như nhạt nhẽo. Mấy hội đoàn ở địa phương trước đây hào phóng ban tặng Khê-Vân mỹ hiệu Mạnh Thường Quân, từ khi nhà hảo tâm gia tài khánh tận thì không mấy ai hỏi han săn đón. Nghe chị Vân phàn nàn, anh Khê cười xòa, ngâm nga: Bần cư trung thị vô nhân vấn/ Phú tại thâm lâm hữu khách tầm(Nghèo ngồi giữa chợ không người hỏi/ Giàu ở rừng sâu có kẻ tìm). Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm từ năm trăm năm trước đã bóc mẽ Thói đời: Còn bạc còn tiền còn đệ tử/ Hết cơm hết rượu hết ông tôi. Nói đâu xa, ngay đàn con rứt ruột mình quần quật vật vã nuôi dạy nên người, dựng vợ gả chồng, cấp vốn ăn nên làm ra, thế mà sau khi chia hết sản nghiệp còn có đứa ngảng ra hờ hững. Nhân tình thế thái ngàn đời, trong gia đình cũng như ngoài làng nước, quyền lực kinh tế chi phối mọi mối quan hệ. Mạnh vì gạo, bạo vì tiền. Đồng tiền là tiên là phật, là sức bật tuổi trẻ, là sức khỏe tuổi già! Cho nên ông cha ta trước kia phân bổ gia tài chỉ ghi trong di chúc, khi qua đời mới thực thi. Đời xưa lề luật gia giáo nghiêm minh còn thế, huống hồ thời nay kinh tế kẻ chợ hội nhập toàn cầu. Không việc gì phải lăn tăn! Người ta ăn nhau ở hậu vận. Vợ chồng mình tiền hung hậu cát, được bình an mở mặt như hôm nay là mãn nguyện. Nhà ta xây cơ đồ trên đất thiêng cố đô Tiền Lê. Đất lành chim đậu. Không đi đâu nữa! Ta cắm sào bến Hoa Lư, đóng vai già làng vun xây một nhánh phía bắc dòng Lê Khắc. Chị Vân còn thầm thì mách với Trí rằng chị sẽ rủ rê anh Thụ hoàn cố quốc đầu tư kinh doanh, mở mối hàng thuốc Tây hoặc lập xưởng chế biến nông sản thực phẩm. Sẽ cho cả đàn con Lê Khắc theo bác Thụ học bài bản làm ăn kinh tế thị trường thứ thiệt, hẳn hoi làm triệu phú đô la! Chứ như mươi năm qua, chúng nó theo cha làm ăn kiểu chụp giật thời buổi nhá nhem, luồn lách kẽ hở pháp luật, thì thành tỉ phú tiền đồng là phúc. Anh Khắc Luân sinh thời từng luận bàn về chỗ mạnh chỗ yếu trong truyền thống Lê Khắc nhà ta. Thế kỷ 20, Lê Khắc các Thế thứ 9 thứ 10 thứ 11 rất tài sinh sôiphát đinh, cũng đã xông xênh phát quý. Nhưng còn thiếu chữ phú! Mà luật đời, dân có giàu thì nước mới mạnh. Thế kỷ 21 này, các Thế thứ 12 thứ 13 thứ 14 phải dấn lên phát phú. Kết hợp vận số và tài năng của họ Trịnh nhà Thụ Vân, sẽ phát triển nhánh Lê Khắc  mạnh giàu trên đất Hoa Lư!
Văn Trí đi về kể hết tình hình với chú Lự. Chú ơi, bà con ngoài bắc không ai vào được thì mình nhắm vào con em cháu chắt ở Huế. Chắc chắn chúng cháu sẽ tìm được người đảm trách chăm nom Nhà thờ Tổ phụ. Chú cứ yên tâm.
Việc hiếu nghĩa xuôi gió thuận buồm giúp chú Lự sống vui cho tới lúc qua đời ở tuổi 89 - ngày 20 tháng Giêng năm Giáp Thân 2004.
Trước khi chú Lự mất mấy tuần, Văn Trí đến thăm, xin ý kiến cho tổ chức rước di ảnh của bốn bà nội, Bà Hai, Bà Ba, Bà Tứ, Bà Năm và di ảnh ba chục Ông Chú Mụ O vào nhà thờ quây quần bên tổ phụ Bồ Nam. Cõi âm đầm ấm, cõi dương cũng thêm gắn bó. Chú nghe ra, vui lắm. Người mệt không nói được nhiều nhưng hai mắt hấp háy tinh anh. Trí ngồi bên chú, bồi hồi vuốt ve đôi bàn tay da mồi nhăn nheo, gân xanh chằng chịt. Chính đôi tay gân guốc này đây, giữa thế kỷ 20, đã cùng đồng sự xốc vác đưa Bình Trị Thiên khói lửa vượt thoát thảm trạng tài chính kiệt quệ. Đã chuyển tải bao hòm tiền cụ Hồ từ Nghệ An vào Quảng Trị. Đã bảo vệ từng tờ bạc cụ Hồ trong rừng sâu. Đã nhặt nhạnh từng tờ bạc Đông Dương ở các trạm thu thuế buôn chuyến tiền phươngChắt chiu cóp nhóp từng đồng mà thành kho bạc Thạch Sanh cung ứng nguồn lực góp phần đưa cuộc kháng Pháp tới thành công, một bước mở đường đón bà con Lê Khắc Văn Xá tha phương quay về đoàn tụ.
Chương 12: Vị võ quan tứ đẳng thị vệ và người con trai tư duy sáng tạo khoa học đa ngành:
Trung phụng Đại phu Lê Từ từng làm quan đầu tỉnh Quảng Trị, tỉnh Phú Yên  và tỉnh Quảng Ngãi, từng làm thị lang Bộ Binh, song vốn dĩ vẫn là quan văn từ đầu chí cuối hoạn lộ ba mươi năm. Ngài có 15 ông con trai, thì 14 cũng theo nghiệp thi thư. Chỉ hiếm hoi một ông làm quan võ. Đó là chú Lê Khắc Chí (1897- 1969), con trai út của Bà Hai Hoàng Thị Huệ,
Hưu trí ở làng quê, lúc cao hứng Trung phụng Đại phu thường kể cho con cháu nghe chuyện vui: Ông vì giữ thể diện người Việt mà thách thức người Pháp thi tài thể thao. Đó là dịp Quốc khánh Pháp cát-tó duy-dê  tức là ngày 14 tháng 7, thường tổ chức vui chơi, đá bóng, đua ngựa, bơi trải, leo cột, đẩy tạ tranh giải điền kinh. Đồng chủ tọa là viên Công sứ Pháp và cụ tuần phủ Nam triều. Nhiều nhân viên tòa công sứ, kể cả viên Phó sứ, hăng hái cùng người Việt tranh tài chạy thi, ném lao, đua ngựa, và giải quán quân bao giờ cũng về tay người Pháp. Viên công sứ đắc chí:
- Cụ Tuần thấy chưa! Người Pháp chúng tôi tuy rằng dân bàn giấy nhưng không sao lãng ôn luyện thể thao nên khỏe mạnh thừa hành công vụ, chứ không như quý quan Nam triều hễ rảnh rỗi là tụ tập tài bàn tổ tôm thâu đêm suốt sáng, còn đâu sức lực phụng sự quốc gia
Cụ Tuần ôn tồn, thâm thúy:
- Quan lớn dạy chí phải. Người Pháp quán xuyến ôm hết việc to việc nhỏ, thành ra người Nam ỉ lại dựa dẫm, nhàn cư sinh bất thiện. Song, chúng tôi văn quan yếu đuối cũng có chút nghề mọn khả dĩ góp vui. Nếu quan lớn vui lòng cho phép, chính tôi sẽ ra sân mời người Pháp thi tài ném xa.
- Thi môn thể thao ném xa? Là đẩy tạ hay phóng lao?
- Không! Mấy quả tạ, ngọn lao mà lực sĩ Pháp vừa biểu diễn, chúng tôi chưa hề đụng tới thì làm sao thi thố? Thi ném xa theo cách của chúng tôi là ném các vật thông thường như hòn đất, viên đá, cục gạch rất sẵn trên sân vận động này. Thể thức đơn giản. Người thi ném đứng trên cùng một vạch vôi. Ai ném xa nhất người ấy thắng cuộc.
Viên Công sứ cười xòa, xì xà xì xồ tiếng Pháp với đám thuộc cấp, và ngay lập tức cử quán quân đẩy tạ và quán quân ném lao ra thi tài với cụ Tuần. Lễ phục cởi ra vắt lưng ghế, cụ Tuần người Việt ngũ thập bước xuống sân thi tài với hai lực sĩ Pháp trẻ trai. Một viên đội Pháp chuyên huấn luyện thể thao đứng làm trọng tài. Lực sĩ Pháp chọn vật ném là những viên đá xanh cầm gọn lòng bàn tay. Cụ Tuần sai lính nhặt mươi viên ngói vỡ.
Cả 3 lần ném đầu tiên, mảnh ngói hồng đều vút ra xa nhất. Nóng mặt, viên Công sứ sai Giám binh tuyển người giỏi ra tiếp tục thi tài ném với cụ Tuần. Bọn này có nghề, và cũng ranh ma, đã quan sát cách ném của cụ Tuần nên đều ném ngói theo cách ném thia lia cho mảnh ngói nằm ngang giảm sức cản. Nhưng vẫn không ai địch nổi cụ Tuần! Cuối cùng cả bọn hoan hô vang dậy, công kênh cụ già vô địch chạy một vòng sân!
- Thầy học võ, học ném lúc mô mà tài rứa hè? Con cháu tấm tắc.
- Võ chi mà võ! Chẳng là quen tay đó thôi. Hồi nhỏ ở làng, chiều tà hoặc đêm trăng, thầy hay ra ruộng khô mới cày chơi đánh trận giả với bọn trẻ trong làng. Chia hai phe, đứng đối mặt trên hai bờ ruộng cách nhau vừa tầm, lượm đất cục thi nhau ném và tránh. Đứa nào trúng đạn hoặc bật lui khỏi chiến tuyến coi là tử sĩ. Phe nào chết hết là thua. Thầy thường cầm đầu một phe. Phe của thầy trận nào cũng thắng. Thầy giỏi ném đất ném gạch từ nhỏ, chứ tài cán võ vẽ chi mô. Thời làm quan, có năm thầy về triều làm Binh bộ thị lang, nhưng vẫn là quan văn. Họ mình phần lớn quan văn. Văn quan tứ phẩm đã sang/ Võ quan tam phẩm còn mang gươm hầu…”
Tuy phụ thân dạy cho như thế, nhưng chú Lê Khắc Chí từ nhỏ không ưa sách vở chữ nghĩa, học trước quên sau, chỉ giỏi trèo cây bắt cá bắn chim. Ông Tuần giận, rầy: nhác học như rứa thì ở với heo! Chú bé Chí làm theo ngay tức khắc, phóc vô chuồng ngồi chồm hổm giữa bầy heo, làm cả nhà phì cười.
Tính ông Tuần vốn thoáng, thường chăm lo tạo điều thuận lợi cho con cái nấu sử sôi kinh phát huy thiên bẩm, chứ không bắt ne bắt nét ép buộc nhất nhất theo ý phụ thân. Ai kết nghiệp văn thì học văn. Ai khoái nghề võ cứ học võ. Làm thầy làm thợ làm ruộng chăn trâu đi cày, cứ hễ tròn phận sự, không làm điều chi trái luân thường đạo lý quốc pháp gia phong, thì là người tốt. Cho nên chú Chí thuở thiếu thời chỉ cần kiếm được lưng vốn chữ nghĩa thánh hiền rồi thôi, khỏi bị sách vở từ chương vây bủa nhồi nhét nhức đầu chóng mặt. Thở phào, chú hăm hở phụ mẹ lo việc đồng áng.
Tới tuổi đi lính, vì là quan viên tử nên chú Chí được sung vào cơ ngũ đóng trong Thành Nội Huế. Học võ sáng ý chuyên cần tinh thông quyền cước, mà lao dịch thổ mộc nặng nhọc cũng không quản ngại nề hà. Một bữa, chú đang ngâm người hì hục dọn rác dưới Hồ Sen thì vua Khải Định lững thững đi qua, đứng lại hỏi han. Đứa tê con nhà ai ngó bộ linh lợi sáng sủa hè.  Ủa, con quan Tuần phủ mà bắt lội bùn chi tội rứa(!) Thế là chú Chí được sung vào đội thị vệ hầu cận ngài ngự. Chú vốn tháo vát lam làm, tính tình chân chất nên Khải Định rất thương. Thành thân tín, bắt hầu luôn bên cạnh. Một lần nhà vua đau nặng, chú Chí túc trực bên long sàng. Ngồi lâu cuồng cẳng, thấy hoàng thượng đã yên giấc điệp, chú bèn lẻn đi dạo mát, vui chân ra tận cửa Thành Nội. Nhà vua sực tỉnh, kêu không thấy, giận lắm. Nhưng thương tình không nỡ phạt nặng, mà chỉ hạ lệnh đuổi về quê cho đã nư. Thì về quê! Chú Chí thản nhiên cắp khăn gói về với mẹ ở Văn Xá Thượng. Sáng sáng huýt sáo dắt trâu vác bừa ra ruộng.
Anh Lê Khắc Duyệt, trong cuốn hồi ký của mình, kể rằng một hôm, bé Duyệt đang nhảy chân sáo ra ruộng xem chú Chí cày bừa thì có lính ở trên hoàng thành đi xe đạp bánh lốp đặc về tận làng, sục tìm chú Chí. Thì ra ngài ngự nhớ cậu thị vệ  thật thà hiền hậu, chỉ dụ tức tốc đón Chí trở lại hoàng cung. Thì trở lại hoàng cung! Chú Chí thản nhiên khăn gói phóc lên xe đạp, ngồi trên cái then ngang đúc bằng thép ống, cho bạn đồng ngũ hồng hộc guồng hai chân kẽo kẹt lục cục chở về Thành Nội hầu vua.
Năm 1922, Khải Định sang Pháp dự đấu xảo thuộc địa (hội chợ) tại thành phố Marseille, có ngũ đẳng thị vệ Lê Khắc Chí tháp tùng. Sau khi Khải Định qua đời, chú Chí tiếp tục làm việc trong cung vua một thời gian, được thăng tứ đẳng thị vệ, rồi cải ra làm quan võ ngoài (Chánh quản) trông coi lăng tẩm triều Nguyễn và Sở ngựa của Hoàng gia.
Chú Chí cả đời làm quan võ bậc thấp, lương bổng chẳng nhiều nhặn gì, nên bà vợ là thím Đặng Thị Tây phải thu vén xoay xỏa bán hàng tấm mới đủ nuôi đàn con 2 gái 4 trai ăn học. Mà vẫn rộng lòng đùm bọc cháu chắt. Anh Lê Khắc Điềm từng ở với chú Chí thím Tây từ 1931 tới 1935 để theo học Quốc học Huế. Lại nữa, khoảng năm 1944-1945, Văn Trí cùng anh Tình chị Mộc từ Văn Xá lên Huế ăn học, ở nhà chú Chí. Trí và chị Mộc học tiểu học Trần Cao Vân, anh Tình học trung học Pellerin. Bấy giờ Huế cùng với cả Trung kỳ và Bắc kỳ đang sống những ngày ảm đạm bởi ảnh hưởng trận đói bi khốc năm Ất Dậu. May mà có làng quê Văn Xá hàng tháng gánh gạo lên tiếp tế cho ăn đủ no. Nhưng thức ăn thì kham khổ, chỉ có chút cá khô, tép rang. Và nhớ đời một món ăn độc đáo, mà cả lũ trẻ lốc nhốc vui đùa kêu bằng ngôi sao xanh và gắp lia lịa cho  nhau, đó là món khế muối, chua ơi là chua, mặn ơi là mặn. Bấy giờ chị cả Lê Thị Quán đã lấy chồng, là anh Hoàng Phương Thảo (anh Thảo trong kháng chiến chống Pháp làm chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chánh tỉnh Thừa Thiên, năm 1954 ra Bắc làm việc ở Bộ tài chính, sau tháng 3-1975 từ miền Bắc về lại làm phó chủ tịch ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh Thừa Thiên-Huế). Số còn lại, chục anh chị em họ cùng trạc tuổi chơi với nhau thân thiết như hình với bóng. Anh Tình với Khung và Sính. Chị Mộc với Vân và Linh. Còn quấn quít với bé Trí 7 tuổi là bé Cúc 8 tuổi (đầu thế kỷ 21, Văn Trí nối lại liên lạc, thì cô em họ Kim Cúc đã thành bà lão với một bầu đoàn phu tử đông đúc 6 con gái, 3 con trai cùng 9 con rể con dâu và 18 cháu nội ngoại!).
Thực dân Pháp tái chiếm Huế, gia đình chú Chí tản cư về Văn Xá, cư ngụ tại Nhà thờ Ông một thời gian ngắn, lên Văn Xá Thượng chỗ vườn Bà Hai một năm rồi quay xuống Văn Xá Đông ở tại cơ ngơi của bác Phủ (tức nhà Văn Trí) gồm ba dãy nhà bề thế xếp hình chữ U đang bỏ không vì đại gia đình Văn Trí đã tản cư tuốt ra Thanh Hóa. Phải tránh Văn Xá Thượng vì lính Pháp o ép ráo riết, có đồn Am ở mé bắc và đồn Thanh Khê ở mé Nam kìm kẹp, đêm đêm vãi đạn như mưa nếu thấy đèn sáng, chó sủa. Trong vòng vây địch bắn phá, chú Chí vẫn cáng đáng nhiệm vụ kháng chiến, làm chủ tịch Hội Liên Việt xã Hương Thạnh (tên đơn vị hành chánh của Văn Xá bấy giờ; trước đó kêu bằng xã Hương Xá, và sau ngày thống nhất 1975 thì đổi thành xã Hương Văn).
Năm 1950, đối phương càn quét dữ quá, chú Chí phải đưa gia đình ra Huế mua nhà ở tạm lánh, nhưng vẫn đều đặn về làng cùng thân tộc tổ chức các ngày Giỗ trọng ở Nhà thờ phái Lê Khắc và Nhà thờ chi Lê Từ. Chú vẫn hoạt động bí mật. Cho tới khi bị mật thám Pháp phát hiện, bắt giam. Phải nhờ anh Lê Văn Sâm chồng chị Ngãi (là con gái chú Lê Khắc Tuệ) đang làm bên Quân vụ Trung bộ đứng ra bảo lãnh, chú Chí mới được về.
Mấy người con trai của chú Chí đều nối tiếp được chí khí yêu nước, tinh thần hăng hái việc công của cha ông. Lê Khắc Khung (1925) và Lê Khắc Sính (1928) năm 1946 cùng gia nhập vệ quốc đoàn: “…Xếp bút nghiên lên đường tranh đấu! Xếp bút nghiên coi thường công danh như phù vânHèn thay đời nhàn cư hèn thay vui yêu đương Một lòng yêu non sông vì dân ta liều thân!
Đại đội trưởng Khung hi sinh từ ngày đầu vỡ mặt trận Huế. Sính thì thoát ly lên núi rồi năm 1953 được điều vào thành phố sống cùng chú Chí để hoạt động bí mật.
Con trai thứ ba, Lê Khắc Vân (1931) từ 1950 sang Pháp học chụp hình, vẽ đồ bản, rồi vừa làm nghề vừa hoạt động cứu quốc, trở thành nòng cốt của Hội Việt kiều yêu nước. Giai đoạn 1960-1975, nhà Vân là trạm đón tiếp những người yêu nước ở Sài Gòn sang làm việc, ở cả tuần cả tháng. Như giáo sư Nguyễn Thị Bình (sau này là phó Chủ tịch Nước), và bà luật sư Ngô Bá Thành (sau này là phó chủ tịch Ủy ban pháp luật của Quốc hội). Tới 30-4-1975, đất nước hòa bình thống nhất, Vân liền về Sài Gòn thăm mẹ. Bà Bình và bà Thành nghe tin, tìm ngay tới, đồng chí đồng minh hội ngộ hàn huyên ôn chuyện cũ bàn việc mới.
Con trai út, Lê Khắc Linh (1934) năm 1953 đang học trung học Khải Định thì tới tuổi trốn lính, được tổ chức kháng chiến đưa ra vùng tự do Hà Tĩnh. Năm 1975, Linh từ Hà Nội vào Nam thì chỉ còn gặp mẹ, cha đã mất từ 6 năm trước.
Con cháu còn thương tiếc nhắc nhớ mãi về cái tai nạn nghề y năm 1969 ấy. Chú Lê Khắc Chí bị bệnh thận, phải phẫu thuật. Bác sĩ Lê Khắc Quyến gởi gắm sinh mạng ông chú ruột của mình cho người bạn thân là bác sĩ Ngô Gia Hy, Khoa trưởng đại học Y Sài Gòn kiêm giám đốc bệnh viện Bình Dân. Đích thân bác sĩ Hy cầm dao mổ cho chú Chí. Ca mổ thành công. Khi bệnh nhân đã ổn định thì mới giao cho sinh viên năm thứ ba thực tập chăm sóc. Chẳng may lúc truyền sérum, bị sốc. Thực tập sinh lúng túng không xoay trở kịp. Khi hai vị bác sĩ giỏi nhất Sài Gòn và Huế nhận được cấp báo, tức tốc có mặt, thì bệnh nhân đã tắt thở. Bác sĩ Hy khóc ròng. Bác sĩ Quyến vì quá thương chú mình, lần đầu tiên trên đời nặng lời với bạn: trời ơi, sao ở Sài Gòn sinh viên năm thứ ba mà chưa biết xử lý sốc sérum, ở Huế tôi dạy từ năm thứ nhất!
Tháng 7 năm 1991, lúc Văn Trí đưa vợ con từ Hà Nội vào Nam định cư thì hậu duệ chú Chí ở Sài Gòn chỉ còn có gia đình Lê Khắc Sính.
Thím Đặng Thị Tây đã mất năm 1980. Hai vợ chồng Lê Khắc Vân vẫn định cư ở Pháp, năm 1987 chết vì tai nạn giao thông. Vợ chồng gái út Lê Thị Kim Cúc-Nguyễn Văn Nghiệp với 9 người con ở Tuy Hòa Phú Yên từ 1959. Hai cặp vợ chồng, gái cả Lê Thị Hương Quán - Hoàng Phương Thảo và trai út Lê Khắc Linh - Hoàng Thị Sơn thì vẫn yên vị ở Hà Nội từ giữa thập niên 1950 tới bấy giờ.
Cuối thế kỷ 20, Thế 11 Lê Khắc phần lớn vào tuổi 70, 80, quyết định bắt đầu chuyển dần công việc dòng tộc cho Thế 12 đông đúc và sung sức. Cuộc chuyển giao thế hệ này diễn tiến hiệu quả rõ nhất ở gia đình Sính. Lê Khắc Sính qua đời năm 1997; ngay sau lễ tang, con trai cả Lê Khắc Lâm (1952) xung phong nối việc cha. Đó là thành viên thuộc Thế 12 đầu tiên tham gia Ban phụ trách!
Cũng là lúc Văn Trí bắt đầu đảm đương đứng mũi chịu sào việc họ. Mới nghỉ hưu và vừa lên lão 60, nhưng sức lực Trí ọp ẹp. Tim mạch, dạ dày, xương khớp đều cuối thời hạn sử dụng, đau lên đau xuống, mỗi tuần một hai lần tái khám lấy đủ loại thuốc viên to nhỏ, uống nghiềm. Từ tuổi 50 đã phải lủng lẳng toòng teng trước ngực sợi dây máy trợ thính. Tai nghễnh ngãng đâu dám cưỡi xe máy ra phố. Đi gần thì túc tắc đạp xe, xa chút là phải ngồi sau xe máy ôm eo con cháu. Cháu đây chính là Lê Khắc Lâm. Hễ ông bác ới một tiếng là ông cháu sẵn sàng tạm ngưng việc nhà, xăn tay áo lo việc họ. Thế 11 Lê Khắc phần lớn lên lão thượng thọ, con cháu cả đàn xúm xít, ở Sài Gòn tháng nào cũng có đám, rất nhiều cuộc vui, là hỉ, mỗi năm một hai đám buồn, là hiếu. Hẳn nhiên đám cưới nào trưởng ban, trưởng phái cũng tới chia vui, còn đám ma thì không thể vắng mặt. Không dưới chục lần cháu Lâm cầm lái thận trọng lượn lách giữa đường phố Sài Gòn người xe chen chúc như nêm cối, sao cho khỏi va quệt rơi rụng cái vòng hoa thành kính phân ưu mà bác Trí khệ nệ nâng niu ôm giữ phía sau!
Đau buồn không kể xiết, cái lần Văn Trí mang vòng hoa tới viếng chính người cháu mẫu mực của mình! Năm 2007, Lâm mất vì ung thư ở tuổi 55.
Và thật xúc động, Lâm vừa nằm xuống thì vợ là Lê Thị Hương nuốt nước mắt, rắn rỏi thay chồng huy động năm sáu người thân cùng lúc đứng vào hàng ngũ cháu con Lê Khắc xông pha việc hiếu. Con đẻ của Lâm Hương là Lê Khắc Phong. Em trai của Lâm là Lê Khắc Dũng, Lê Khắc Minh, Lê Khắc Song, Lê Khắc Tuy. Rồi tới em gái là Lê Khắc Tuyết Thanh làm Phó trưởng ban đại diện, đảm trách công việc thư ký tổng hợp của cha mình 15 năm trước.
Chính các cháu Lê Khắc Lâm và Tuyết Thanh chủ động phát triển ảnh hưởng  ra các tỉnh thành khác. Có hiệu quả ngay! Ở Hà Nội, bà Lê Thị Quán mất từ tháng 8-1991, nhưng đã có 5 con họ Hoàng là Phương Nga, Phương Hà, Phương Lan, Phương Lưu và Phương Mai sốt sắng cúng góp việc hiếu nghĩa bên dòng Lê Khắc của mẹ mình. Ở miền Trung, gia đình Kim Cúc-Nguyễn Văn Nghiệp có hai con trai là Nguyễn Hữu Tài và Nguyễn Hữu Nguyên vào Sài Gòn làm ăn, lấy vợ, sinh concũng bắt đầu tham gia việc họ.
Đặc biệt, gia đình Linh-Sơn- Lê Khắc Linh - Hoàng Thị Sơn cùng con gái Lê Khắc Hồng Hạnh, con trai Lê Khắc Hùng - thì luôn gương mẫu, số tiền cúng góp các đợt tu sửa Nhà thờ - Lăng mộ luôn cao nhất so với mấy chục gia đình Lê Khắc ở miền Bắc. Không chỉ góp phần từ xa, Linh còn nhiều lần từ Hà Nội về tận Văn Xá viếng mộ tổ tiên, và lần nào cũng trực tiếp gặp người phụ trách thường trực ở quê hương, trao tiền triệu gọi là cúng góp nhang đèn.
Thực ra, giữa Lê Khắc Linh và Văn Trí, cùng với nghĩa tình đồng tộc gắn bó, còn có mối quan hệ cộng tác mật thiết lâu bền 30 năm qua, từ đầu thập niên 1980. Trí, với tư cách một nhà báo sùng sục săn tìm nhân tố canh tân đổi mới, khi ở Hà Nội, lúc ở Sài Gòn, từ báo Giáo Viên Nhân Dân, báo Giáo Dục&Thời Đại tới tạp chí Thế Giới Mới, tạp chí Trí Tuệ, tạp chí Giáo Dục và Xã Hội. Còn Lê Khắc Linh, là tư cách nhân vật điển hình, một kỹ sư chuyên gia ngành cầu đường với tư duy đặc sắc độc đáo sáng tạo khoa học đa ngành từng gặt hái những thành công vang dội.
Ai đã từng làm hành khách (khách bị hành hạ!) của tàu Thống Nhất những năm 1977-1982 hẳn không thể quên 3 ngày đày ải trên những toa chật như nêm, nóng như thiêu vàchậm như rùa.
Năm 1936, thời Pháp thuộc, hành trình tàu hỏa Hà Nội-Sài Gòn là 40 giờ 35 phút. Sau thống nhất 1975, đường sắt mới khôi phục, thì hành trình tàu khách xuyên Việt ấn định 72 giờ (nhưng nhùng nhằng giờ cao su, thường phải kéo nhây thêm dăm bảy giờ).
Tới đầu thế kỷ 21 thì như có phép lạ đổi đời: hành trình tàu khách Thống nhất Hà Nội - Sài Gòn rút lại chỉ còn 40%, tức là trên dưới 30 giờ. Kỳ tích đó là thành quả lao động sáng tạo đổ mồ hôi sôi nước mắt của ngàn vạn cán bộ công nhân viên ngành đường sắt. Tuy nhiên, lịch sử đường sắt Việt Nam đã ghi nhận: sự kiện tạo đà nhảy vọt là sáng kiến có tính đột phá do kỹ sư Lê Khắc Linh đề xướng gồm 7 giải pháp hữu ích đồng bộ cải tiến quy trình và kỹ thuật vận hành.
Đó là một công trình nổi bật trong chuỗi sáng tạo khoa học kỹ thuật của kỹ sư Linh liên tục nửa thế kỷ qua!
Tháng 10-1953, Lê Khắc Linh 19 tuổi, chống địch bắt lính, từ thành phố Huế vượt thoát ra vùng tự do. Đang học lớp 9 (cuối bậc học phổ thông) trường dân lập Lê Ninh ở Hà Tĩnh thì Hiệp định Genève được ký kết. Ở lại miền Bắc, vừa làm thợ vừa tự học. Tháng 8-1954, vào ngành đường sắt, làm công nhân khảo sát. Học tại chức đạt trình độ trung cấp kỹ thuật, tham gia thiết kế cầu đường, 3 năm liền là chiến sĩ thi đua. 1958, tự học tốt nghiệp phổ thông cấp 3 (thí sinh tự do tại trường Trưng Vương Hà Nội). Tháng 9-1959 là cán bộ được cử đi học lớp Cầu đường 59 Khoa xây dựng trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Sinh viên ưu tú, ngay năm thứ nhất đã gia nhập đảng Lao động lớp đảng viên Hồ Chí Minh. Tháng 3-1963, tốt nghiệp hạng ưu với điểm tuyệt đối 5/5.
Tiếp đó là 10 năm kỹ sư Linh lăn lộn trên các công trường dọc đường sắt Hà Nội, Lào Cai, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Vinh. Nét đặc sắc của Lê Khắc Linh được đồng sự ngưỡng mộ là chuyên cần nghiên cứu phát hiện những bất hợp lý trong sản xuất và đời sống, suy nghĩ tìm biện pháp cải tiến, nâng cao chất lượng công tác.
Năm 1964, tại công trình Trạm bơm Khu gang thép Thái Nguyên, phải đào 3.000 mét khối đá phong hóa ngầm dưới nước, Linh đề xuất 6 giải pháp đồng bộ, trong đó giải pháp chủ đạo là thay việc khoan tạo lỗ để nổ mìn bằng cách đóng cọc sắt phi 100mm, tăng năng suất gấp 20 lần (2000%).
Năm 1965, chặng đầu chiến tranh phá hoại, nghi trang cầu Cun trên đường sắt Thanh Hóa - Vinh. Dàn cầu 50m bị bom đánh sập, gấp khúc chữ V nằm nghiêng. Sáng kiến của Linh: khôi phục thành một nhịp ngắn hơn, ban ngày hạ xuống nằm nghiêng như cũ, ban đêm kéo lên nối ray cho tàu qua, máy bay Mỹ có mắt như mù.
Năm 1968, ga Thanh Hóa bị bom băm nát nền đường, ray gãy cong queo, toa tàu đổ ngổn ngang. Trước yêu cầu nhanh chóng khôi phục giao thông cho tàu đưa hàng vào Nam, kỹ sư Linh mạnh dạn đề xuất bác bỏ phương án đi trên đường cũ, lập phương án cho tàu chạy trên đường bộ! Ga cũ để nguyên, lừa giặc lái Mỹ. Chỉ cần khẩn trương thi công nối từ Thọ Hạc đến ghi nam Thanh Hóa, đắp đường vuốt dốc, lát tà vẹt, kéo ray, rải đá răm, có che đậy nghi trang, ban đêm tàu hỏa xục xịch bò qua an toàn!
Năm 1972, khôi phục cầu Hàm Rồng 2 nhịp dài 160m. Phương án thi công lắp dầm từ đầu bờ bắc. Kỹ sư Linh phát hiện bất lợi là độ dốc lớn và đường dẫn cong. Bèn đề xuất: lợi dụng phà đường sắt có sẵn để chuyển các thanh dầm cầu từ bờ bắc vượt qua sông Mã, lắp dầm trên bờ nam có đường rộng, thẳng, bằng phẳng, rút ngắn thời gian lắp và lao dầm.
Năm 1973, Lê Khắc Linh chuyển công tác, kinh qua Phó ban chỉ huy thi công cầu Thăng Long, Phó trưởng ty Giao thông vận tải tỉnh Cửu Long, rồi làm Trọng tài viên kinh tế bộ Giao thông vận tải. Đã rời ngành đường sắt nhưng đi công tác, Linh vẫn chọn phương tiện tàu hỏa. Đóng vai hành khách nhưng không ngừng xem xét, phát hiện chỗ bất hợp lý trên đường vận hành, tìm cách cải tiến. Bấy giờ, tàu Thống nhất thường chậm, hành trình mất tới 80 chứ không phải 72 giờ! Linh phát hiện trong quy phạm khai thác kỹ thuật đường sắt hình thành từ thời Pháp thuộc năm 1936 tồn tại một điều bất hợp lý là quy định bắt buộc đoàn tàu khách nhẹ (2,4 T/m) chạy chung tốc độ của đoàn tàu hàng nặng (4,2 T/m). Sau khi tính toán, Linh đề nghị tách tốc độ, cho tàu khách chạy nhanh hơn tàu hàng. Đồng thời, cần làm thêm đường tránh tàu ở một số ga, từng bước có trọng điểm nâng cấp cầu đường, tỉa thưa các điểm chạy chậm, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, hợp lý hóa tác nghiệp ở các ga đỗ
Ngày 30/8/1982, báo Giao thông vận tải đăng tóm tắt kiến nghị của Lê Khắc Linh 7 giải pháp hữu ích đồng bộ rút ngắn thời gian chạy tàu khách đường sắt Thống nhất.
Tháng 12/1982, ông Đồng Sĩ Nguyên, phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, ông Bùi Danh Lưu, chủ tịch Hội đồng khoa học công nghệ của bộ Giao thông vận tải chấp thuận toàn bộ đề nghị của Linh và trực tiếp chỉ đạo triển khai áp dụng.
Ngày 12/01/1983, ông Nguyễn Tuấn Bình, phó Tổng cục trưởng Tổng cục đường sắt chủ trì hội nghị khoa học kỹ thuật Nâng cao tốc độ tàu khách Thống nhất, cùng 36 nhà khoa học và quản lý trong ngành đường sắt, bộ Giao thông vận tải, trường đại học Xây dựng, trường đại học Giao thông vận tải, thảo luận, chấp nhận sáng kiến của kỹ sư Linh.
Ngày 13/5/1983, thứ trưởng Bùi Danh Lưu (sau này là bộ trưởng Giao thông vận tải trong 10 năm) trực tiếp chỉ đạo kế hoạch triển khai 7 giải pháp đồng bộ.
Từ năm 1983 tới 1988, toàn ngành đường sắt áp dụng 6 biện pháp hỗ trợ, rút ngắn hành trình Bắc Nam còn 58 giờ.
Đầu năm 1989, Tổng cục trưởng Nguyễn Văn Tư quyết định áp dụng giải pháp chủ đạo tách tốc độ, nhờ thế hành trình rút ngắn thêm 10 giờ, còn 48 giờ, vượt mức kế hoạch nhà nước giao 7 năm, làm lợi 8.830 tỉ đồng (Nhà nước giao năm 1995 chạy 48 giờ).
Thế là sau 7 năm (1983-1989) đã áp dụng toàn bộ 7 giải pháp, rút ngắn hành trình được 32 giờ.
Sau nhiều đợt đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng và thiết bị, đến năm 2005, hành trình Bắc-Nam tàu khách từ 80 giờ chỉ còn 29 giờ 30 phút, và tàu hàng từ 120 giờ chỉ còn 50 giờ.
Lợi ích mang lại cho nước cho dân không kể xiết. Còn việc tưởng thưởng cán bộ công nhân toàn ngành đường sắt và tác giả sáng kiến cải tiến kỹ thuật thì sao?
Tổng cục trưởng Nguyễn Văn Tư, trước khi chuyển công tác năm 1989, đã giao cho Phòng thi đua tuyên truyền lập hồ sơ khen thưởng. Song, Hội đồng sáng kiến Tổng cục đường sắt, khi xem xét, công nhận kỹ sư Linh đã đăng ký sáng kiến và sáng kiến có mang lại hiệu quả rõ ràng, nhưng nại lý dođây là thực hiện mệnh lệnh sản xuất của Tổng cục trưởng nên không thưởng sáng kiến!
Bắt đầu chặng đường gian khổ đấu tranh cho lẽ công bằng với sự tham gia của các cơ quan hữu quan, được đưa dần lên tới thượng đỉnh.
Các cán bộ lãnh đạo bộ Giao thông vận tải và Tổng cục đường sắt trong thời gian chỉ đạo áp dụng sáng kiến này, Đồng Sĩ Nguyên, Bùi Danh Lưu, Nguyễn Văn Tư, Nguyễn Tuấn Bình và 21 người khác xác nhận sáng kiến, yêu cầu xét thưởng. Ông Đồng Sĩ Nguyên viết: “…chấp nhận chính thức tác giả đề tài thuộc về đồng chí Lê Khắc Linh là việc làm minh bạch, không mất gì cả mà giữ được tiếng thơm cho Tổng công ty đường sắt. Văn phòng Quốc hội, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ khoa học công nghệ, Cục bản quyền tác giả yêu cầu xem xét giải quyết. Năm 2005 và năm 2009, 2 lần Thủ tướng và Văn phòng Chính phủ yêu cầu giải quyết! Năm 2007, Chủ tịch nước, Phó chủ tịch nước 3 lần giao cho Trợ lý và chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước đưa ra yêu cầu giải quyết. Ngày 16/3/2009, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tiếp kỹ sư Linh, trân trọng ghi nhận ý nguyện thiết tha của đương sự đề xuất giải quyết dứt điểm công nhận sáng kiến.
Song, tất cả như sóng dội tường đá! Tổng công ty đường sắt khăng khăng khước từ!
Góp phần vào tiếng nói chung, 20 tờ báo và tạp chí đã lên tiếng ủng hộ quyền sở hữu trí tuệ chính đáng của kỹ sư Linh. Nhiều báo đăng liền ba bốn bài. Tạp chí Trí Tuệ - nơi Văn Trí đang tham gia ban phụ trách - liên tục đăng 6 bài trên báo giấy và báo mạng. Đặc biệt, báo chí in đậm lời trần tình của kỹ sư Linh gửi Chủ tịch nước: Tôi mong cấp có thẩm quyền công nhận sáng kiến. Còn tiền thù lao cho tác giả, điều lệ quy định được hưởng 5% số tiền làm lợi, thì tôi chỉ xin nhận 1%, còn 4% dành lại cho ngành đường sắt cải tạo bình diện nơi có R (bán kính đoạn đường vòng) bé và có độ dốc lớn để có nhiều lý trình đạt  tốc độ tàu khách lớn hơn…”
Những lời chân thành thấm thía ấy, cho tới nay dường như vẫn chưa lọt tai những người có trách nhiệm giải quyết.
Đầu năm 2011, Văn Trí ở Sài Gòn thình lình nhận được một tập tài liệu dày dặn của Lê Khắc Linh gửi từ Hà Nội. Cứ ngỡ là Vụ khiếu kiện quyền sở hữu trí tuệ có tình tiết mới. Nhưng không! Cả 30 trang không có dòng nào về rút ngắn thời gian chạy tàu Thống nhất. Toàn bộ nội dung tập tư liệu vẫn là chuyện sở hữu trí tuệ của kỹ sư Linh, nhưng thuộc lĩnh vực lạ hoắc với một chuyên gia ngành cầu đường.
Nổi bật ở trang đầu là Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả của Cục bản quyền tác giả, ngày 08-12-2008, chứng nhận tác phẩm 10 phương pháp và giải pháp hữu ích đồng bộ về điều khiển giới tính động vật (gia súc, gia cầm) của Lê Khắc Linh đã được đăng ký quyền tác giả. Tiếp đó là bài báo Nông thôn ngày nay số ra ngày 01-9-2009, với cái tựa đề thoạt nhìn phải sửng sốt: Một kỹ sư bán công nghệ lựa chọn giới tính vật nuôi.
Văn Trí vội ấn phím cái di động cục gạch của mình:
- Chú Linh đấy à, sao tài thế, từ hợp lý hóa chạy tàu Thống nhất nhảy sang hợp lý hóa sinh đẻ bò cái bò đực từ bao giờ mà im hơi lặng tiếng mãi nay mới công khai cho nhau biết?
- Ơ kìa, bác Trí lẫn cẫn rồi! Việc nghiên cứu điều khiển giới tính động vật này Linh tiến hành gần như đồng thời với rút ngắn thời gian chạy tàu Thống Nhất. Cũng năm 1982-1983, ngành xuất bản báo chí đã giúp Linh quảng bá sáng kiến Điều khiển sinh con theo ý muốn. Chính bác Trí có hỗ trợ bằng tờ báo Giáo viên nhân dân
- À, à
Trí nhớ ra rồi. Phải, chính Trí có dự phần. Nhưng phát súng mở màn là bài báo Nhân Dân số 24-3-1983 giới thiệu sáng kiến của Lê Khắc Linh Nghiên cứu ứng dụng phương pháp khoa học sinh trai, gái theo ý muốn kết hợp với sinh đẻ có kế hoạch. Rồi hàng chục tờ báo khác. Rồi nhà xuất bản Thanh Niên tung ra ấn phẩm Sinh con theo ý muốn, mà những năm sau đó, các nhà xuất bản trên cả nước tái bản tới 25 lần.
Trên báo Giáo dục&Thời đại ngày 20-01-1992, giáo sư Nguyễn Lân Dũng kể lại:
“… Chương trình Tự nguyện đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào hộ nông dân nhận được đề án tham gia của một cặp vợ chồng: anh Lê Khắc Linh và chị Hoàng Thị Sơn. Chúng tôi thấy đề tài lạ quá: Điều khiển giới tính ở người và động vật Là người hoạt động lâu năm trong ngành sinh học, tôi băn khoăn vì thấy vấn đề rất lớn mà lại do hai tác giả ngoại đạo đề xuất. Khi tôi tìm đến nhà, anh Linh tặng tôi cuốn sách Sinh con theo ý muốn của Linh Sơn do nhà xuất bản Thanh niên tái bản lần thứ tư. Tôi lật giở xem qua rồi hỏi:
- Phần cơ sở khoa học của quá trình sinh sản và hình thành giới tính đã có quá nhiều tài liệu giới thiệu rồi, vậy sách của anh chị có gì mới lạ mà được tái bản nhiều lần thế?
- Một phần vì sách của chúng tôi trình bày dễ hiểu hơn, hấp dẫn hơn, nhưng chủ yếu là do đề xuất được những bí quyết sinh con trai hay con gái đúng theo ý muốn.
- Đây là chuyện rất khó, kể cả ở các nước có trình độ khoa học phát triển cao. Tôi được biết để tách tinh trùng X và tinh trùng Y,  người ta phải dùng tới kỹ thuật ly tâm siêu tốc, kỹ thuật điện di Anh chị có chủ quan hay không khi giới thiệu bí quyết của mình?
- Anh Nguyễn Lân Dũng chuyên làm khoa học thì rõ hơn tôi: con số trên 300 trường hợp đã áp dụng bí quyết này với độ tin cậy thành công trên 95% cho phép chúng ta kết luận bí quyết này đâu phải là  thiếu cơ sở khoa học?
Anh Linh lấy cho tôi xem rất nhiều ảnh của các gia đình đã toại nguyện vì sinh con trai, con gái đúng như ý muốn. Tôi lật xem mặt sau từng tấm ảnh và vui thích được đọc những dòng chữ hết sức cảm động của những ông bố, bà mẹ đã mang ơn cặp vợ chồng Linh-Sơn. Tôi hỏi hơi khiếm nhã một chút, rằng: ngành y tế rất kỵ dân ngoại đạo, vậy anh có được ai bên Y tế đồng tình ủng hộ không? Anh Linh đáp:
- Thì chính giáo sư Hồ Đắc Di, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện đã đề tựa cho cuốn sách! Năm 1989, bộ trưởng Bộ Y tế Phạm Song đã hai lần giới thiệu cuốn này trên Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam.
Anh Linh đưa cho tôi xem lá thư của giáo sư Đoàn Xuân Mượu, phó chủ tịch kiêm tổng thư ký Hội chữ thập đỏ Việt Nam. Trong thư có những câu sau đây: Phương pháp mà ông Linh kiên trì nghiên cứu, thể nghiệm đã thu được những kết quả khả quan trong việc sinh con trai, con gái theo ý muốn, đã được cơ quan ngôn luận của chúng tôi, tạp chí Nhân Đạo, đăng tải trên số 3 và số 7 năm 1990. Chúng tôi nghĩ rằng phần lớn người Việt Nam đều muốn có con trai con gái, có nếp có tẻ. Tâm lý ấy đã, đang và sẽ còn đúng, khỏi tranh luận. Cung cấp kiến thức cho họ thực hiện chính xác nguyện vọng của họ, không phải may rủi, thì số trẻ sinh ra không theo ý muốn sẽ ít đi. Ý nghĩa của kế hoạch hóa đến đó cũng khá rồi. Đòi hỏi mỗi người chỉ đẻ một con mới là kế hoạch hóa gia đình thì không thực tế. Để cho tâm lý tự nhiên của bậc cha mẹ điều chỉnh tự nhiên số con trai con gái cũng hợp với lẽ tự nhiên vậy…”
- Vậy là anh cũng đã có nhiều tiếng nói chính thức ủng hộ rồi đấy.
- Vâng, có sự ủng hộ của nhiều cấp và nhất là do có sự hưởng ứng của quần chúng cho nên số sách được in ra cho đến nay đã  60 nghìn cuốn. Nhưng cũng chả thấm tháp gì khi ta biết mỗi năm đều có thêm khoảng một triệu gia đình trẻ và số chưa có con hoặc chỉ mới có một con lúc nào cũng vào khoảng sáu bảy triệu gia đình. Tất nhiên cũng có nhiều người hồ nghi hoặc phản bác. Rất tiếc là không ít người trong số này chưa hề đụng tay tới cuốn sách của chúng tôi một lần nào!
- Có lẽ bụt chùa nhà không thiêng, cứ phải có vài ông viện sĩ nước ngoài nhắc đến thì mới trở thành thiêng được.
- Chúng tôi đã gửi đơn đăng ký sáng chế  và đã được cục trưởng Cục sáng chế (Ủy ban khoa học Nhà nước) thông báo chấp nhận. Chúng tôi đã được Đại sứ Việt Nam tại Ấn Độ trực tiếp đề nghị với Ủy ban Khoa học Nhà nước đưa vào chương trình hợp tác khoa học kỹ thuật với Ấn độ. Hãng bảo vệ quyền tác giả của Việt Nam cũng đã chính thức giới thiệu công trình này với nhiều nước
- Sao trong đề án của anh gửi cho chương trình chúng tôi lại có cả điều khiển giới tính cho động vật?
- Vâng, chúng tôi đã thử nghiệm triển khai đối với bò và tháng 4-1991 tại thôn Phú Dực (Phù Đổng-Gia Lâm-Hà Nội) đã có 2 con bê cái lai Sind được ra đời theo kỹ thuật điều khiển giới tính này. Phương pháp rất đơn giản, hộ nông dân nào cũng có thể thực hiện được. Giá bê cái thường cao hơn bê đực khoảng nửa triệu đồng nên các nơi chăn nuôi bò đều muốn sinh bê cái.
Đêm hôm ấy, tôi hứng thú đọc hết cuốn sách của nhà nghiên cứu sáng tạo tài ba và ghi nhớ những lời giới thiệu của cố giáo sư Hồ Đắc Di: “…Tác giả Linh Sơn, tuy là người ngoại đạo vẫn nghiên cứu nhiều năm một cách vô tư. Vì thiết tha mong muốn phục vụ xã hội, nhờ say mê mà nhiều khi những người ngoại đạo lại  tìm ra được những cái hay mới…”
Sau khi báo đăng bài của giáo sư Nguyễn Lân Dũng, Linh Sơn tiếp tục nghiên cứu, triển khai đề tài này. Ngày 19-5-1992, Đại sứ quán Cu Ba có văn bản chính thức mời Lê Khắc Linh sang Cu Ba giúp điều khiển bò sữa đẻ bê cái. Sau việc ứng dụng đề tài ở bò đạt kết quả, vết dầu loang sang giống gia súc khác. Điều khiển giới tính đẻ hươu cái bằng phương pháp cho nhảy trực tiếp thành công ở Quỳnh Lưu. Rồi điều khiển cho lợn, cho chó cảnh đẻ nhiều con cái một lứa. Ngày 01-5-1994, Viện khoa học thuộc Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam quyết định cho thành lập Trung tâm tư vấn giới tính Linh Sơn. Thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng tỏ ý quan tâm khi nghe trợ lý Vũ Quốc Tuấn giới thiệu cuốn sách của Linh Sơn. Đặc biệt, vợ chồng Linh Sơn có lần được trực tiếp báo cáo với Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Phó thủ tướng phụ trách khoa học kỹ thuật - chủ tịch Ủy ban quốc gia dân số và sinh đẻ có kế hoạch, được Đại tướng cho ý kiến khuyến khích triển khai rộng rãi công trình điều khiển giới tínhTuy nhiên, sau đó cơ quan chức năng tỏ ý quan ngại là đã có dấu hiệu mất cân bằng giới tính ở người. Phạm vi đối tượng tác động phải thu hẹp lại.
Năm 2008, Linh Sơn đề xuất 10 phương pháp và giải pháp hữu ích đồng bộ về điều khiển giới tính gia súc, gia cầm được cấp giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả. Đặc biệt lần này đăng ký cả gia cầm, đấy là chọn trứng trống, trứng mái trước khi ấp. Cho đến nay, ở Việt Nam và các nước đều chọn gà trống mái sau khi ấp nở một ngày bằng thủ công, gà trống mới nở chỉ giữ 10% làm giống, 90% sấy khô làm thức ăn gia súc. Khi áp dụng sáng kiến cải tiến, chọn trứng trống trứng mái trước khi ấp, chủ chăn nuôi có lợi lớn: 90% trứng trống không phải ấp, cho tiêu dùng ngay, giảm công suất sử dụng lò ấp, tiết kiệm năng lượng và nhân công. Về gia súc, ngoài phương pháp điều khiển theo thời điểm thụ thai, còn đề ra nhiều điểm mới như sử dụng dịch có độ pH axit hay kiềm để hỗ trợ tinh trùng X hay tinh trùng Y; chế tạo tinh đông một bề là X hay Y tùy nhu cầu thị trường (dùng tinh đông X đẻ nhiều con cái, dùng tinh đông Y đẻ nhiều con đực); sử dụng biện pháp hoóc môn kích thích rụng thêm trứng để loài đa thai thì thêm thai, loài đơn thai thành song thai ( chú ý phải cho cả 2 thai đều là cái, vì nếu 1 đực 1 cái sẽ sinh ra hiện tượng Freematin nối mạch giữa thai đực và thai cái làm cho thai cái khi trưởng thành sẽ vô sinh 90%...)
Ưu điểm của công nghệ điều khiển giới tính động vật là dễ áp dụng, có độ tin cậy cao, mang lại lợi ích lâu dài. Công nghệ này đã được chuyển giao cho một số cơ sở của Viện chăn nuôi quốc gia và Hội thú y Việt Nam như Trung tâm bò và đồng cỏ Ba Vì, Trung tâm dê và thỏ Sơn tây, Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương, Công ty Giống gia súc Hà Nội và Trung tâm chuyển giao công nghệ thú y.
Ngày 16-11-2010, Lê Khắc Linh chính thức đăng ký chào bán trên chợ công nghệ và thiết bị Việt Nam 10 phương pháp và giải pháp hữu ích đồng bộ về điều khiển giới tính gia súc gia cầm qua trung tâm giao dịch thông tin công nghệ Việt Nam. Cách làm ăn bài bản thời buổi Kinh tế thị trường!
Báo Nông thôn ngày nay giật cái tít gây sốc: Một kỹ sư bán công nghệ giới tính vật nuôi. Người đang sở hữu các giải pháp này là kỹ sư Lê Khắc Linh. Nguyên lý của các giải pháp này là theo dõi chu kỳ rụng trứng của động vật, sau đó dùng một dung dịch để điều chỉnh độ pH trong bộ phận sinh dục của con cái nhằm lựa chọn giới tính cho con con. Có thể áp dụng cho cả gia súc và gia cầm. Trong đó, tỷ lệ thành công trong việc lựa chọn giới tính đối với gia súc có thể đạt đến 90%. Các phương pháp của ông có thể giúp gia súc mang nhiều thai trong một lần sinh…”
Đưa cho Trí xem tận mắt các văn bản chào bán, Linh giải thích thêm:
- Theo bản đăng ký này, phí chuyển nhượng có lý có tình, khi đạt hiệu quả thì bên nhận hưởng 50% lợi nhuận, tác giả 40% và nơi môi giới 10%. Nhưng Linh đã sửa lại theo tỉ lệ tác giả và môi giới chỉ nhận 30%, dành cho bên nhận 70%. Ấy là nhằm đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật về điều khiển giới tính vào sản xuất góp phần phát triển ngành chăn nuôi
Thế đấy, ông già Lê Khắc sắp bước vào tuổi 80 vẫn hăm hở tư duy sáng tạo khoa học phục vụ đời sống. Linh vẫn tháng tháng ngược xuôi thăm nom, chỉ dẫn các cơ sở sản xuất thực nghiệm đề tài. Và thi thoảng lại nối liên lạc với Trí, bằng đường thư tay và cả điện đàm, bàn bạc chuyện giỗ chạp dòng tộc, chuyện phối hợp nghiên cứu viết lách, và không kém phần sôi nổi là ôn nhớ kỷ niệm sâu đậm thời niên thiếu hai anh em ở thành phố Huế, ở làng quê Văn Xá. Nhớ những buổi chiều trên đồng quê, đón tiếng còi hú gọi, chú bé Linh mê mải nhìn theo cái đầu tàu đen chũi kéo theo mười toa hổn hển ì ạch bò vào ga Văn Xá, chợt mơ màng ao ước mai sau thành người thợ lực lưỡng giật lái điều khiển con tàu chạy nhanh thêm nữa Nhớ những buổi sáng theo cha ra ruộng, ngạc nhiên thấy vị võ quan tứ đẳng thị vệ con ông Tuần phủ mà sao cày bừa thành thạo như nhà nông chính cống. Rồi lúc cha cày xong, bé Linh dắt trâu gặm cỏ, nghe bạn mục đồng chuyện vãn xuýt xoa cầu trời con trâu nuôi rẽ đang bụng chửa kềnh càng mai mốt đẻ ra con nghé cái cho nhà nó thỏa nguyện ruộng sâu trâu nái…” Lại nhớ buổi trưa hôm nào bà Dì ruột hồi hộp kiểm tra đàn gà con chiêm chiếp mới nở vài ngày xem con nào trống con nào mái, Dì vạch từng cánh gà con xem hai hàng lông tơ dài bằng nhau hay hàng dài hàng ngắn so le. Lại nắm chụm chân gà, xách ngược lên thử coi con nào ngóc đầu lên, con nào xuôi đầu xuống. Rồi tắc lưỡi tiếc rẻ con trống mất rồi. Hoặc mừng húm may quá được con gà mái. Bé Linh ngẫm ngợi lan man không biết tại sao dì mình băn khoăn so đo đực cái, trống mái Cũng có buổi tối nằm võng hóng nghe cha kể chuyện họ tộc nhà mình trước đây mấy đời độc đinh nên ông bà nào cũng ngong ngóng đẻ con trai. Nhưng bà nội mình thì vẻ như có khác, đẻ được ba ông con trai liền liền, bác Cung, bác Thứ và cha mình, thì lại vui lắm khi lần sinh thứ tư được người con gái là dì Thông. Hay như cha mẹ mình, sinh gái đầu lòng là chị Quán, rồi liền một mạch 4 con trai Khung Sính Vân Linh, tới lần thứ 6 sinh được em Kim Cúc mừng ơi là mừng! Hỏi mẹ tại sao khi sinh trai khi sinh gái, mẹ bảo ơn nhờ trời phật sai bà mụ nặn giống cho chi được nấy. Trong lòng chú bé Linh mung lung mơ tưởng giá như có ông bụt bà tiên ban cho người đời hòn ngọc ước thần kỳ, cầu con trai đẻ ra con trai, thích con gái đẻ ngay con gái. Rồi ban phép lạ cho các con vật sống bên con người, cũng thế, nhà này mong trâu nái, nhà kia cầu dê đựcmuốn gì được nấy, thích thì chiều!
Có ai ngờ được nhỉ, sáu mươi năm sau, ước mơ tưởng chừng viển vông ấy dần dần trở thành hiện thực trên đường đi tới của người trai Lê Khắc. Con đường trưởng thành gập ghềnh hơn nửa thế kỷ ấy biết mấy chông gai! Thì cũng như đường đời của hàng trăm anh em họ tộc đồng thế 11 với Lê Khắc Linh, từ nam chí bắc, không ai có diễm phúc sắm vai con xe con pháo được săn đón nuông chiều trên bàn cờ thế sự nhiễu nhương này! Tất thảy đều trầy vi tróc vẩy tự mình vùng quẫy nếm mật nằm gai trong vô vàn gian khó ngoi lên thành đạt. Lê Khắc Linh tuy có không ít phút giây vinh hạnh vua biết mặt chúa biết tên, nhưng cả đời cũng lận đận long đong bởi cơ chế bảo thủ trì trệ bủa vây, thế gian định kiến hẹp hòi, đố kỵ. Đạt tới thành công là nhờ tâm huyết, nhờ trí lự. Và nhất là nhờ bền chí kiên gan. Làm sao đo đếm được những ngày mọt sách trong thư viện, những ngày miệt mài trên trang giấy với vô số phép tính lượng giác rắc rối, những công thức hóa học dài dòng, những nguyên lý sinh học kỳ bí. Rồi đạn bom trên công trường đường sắt. Lại nắng mưa trên trang trại ruộng đồng. Cứ thế mà vượt lên, nhẫn nại khơi gợi lần tìm. Thoạt tiên soi rọi manh nha le lói vài tia sáng, rồi chắp nối hội tụ thành chùm chói lòa ánh hào quang khoa học.
Khoa học vận trù, hợp lý hóa sản xuất, bằng cả cụm 7 giải pháp hữu ích đồng bộ, thúc đẩy trăm ngàn đoàn tàu băng băng nhân đôi tốc độ,  xoay chuyển cục diện toàn ngành đường sắt.
Khoa học vận dụng tổng hợp quy luật sinh hóa sinh sôi, bằng cả cụm 10 phương pháp và  giải pháp hữu ích đồng bộ, điều khiển sinh thành giới tính của con người và vật nuôi, góp viên gạch nhỏ xây hạnh phúc ngàn vạn cuộc đời. 
Tưởng như có phép thần thông, giữa thời ly hợp biến động bể dâu, vẫn cứ phôi thai tượng hình ngời ngợi hai thành quả để đời của người trai Thế hệ vàng Lê Khắc năm mươi năm cần mẫn tư duy sáng tạo khoa học đa ngành.
Chương 13:  Thế hệ vàng trong lửa đỏ ly hợp
Thế thứ 11 của Văn Trí chính là Thế hệ vàng của chi phái Lê Khắc. Một thế hệ hùng hậu, trước đó chưa từng có. Ngài trưởng tộc Thế thứ 9 Văn Xuyên Bồ Nam Lê Từ có hơn năm mươi cháu nội trai. Đồng thế, ba ông em ruột, Lê Triết, Lê Doãn Thăng, Lê Trọng Bỉnh và ba ông em họ, Lê Đôn, Lê Trí, Lê Phu có gần một trăm cháu nội trai nữa. Vị chi Thế 11 Lê Khắc có cả thảy trăm rưởi đinh. Cao tuổi nhất, anh Lê Khắc Duyệt, sinh năm 1912. Ít tuổi hơn nhiều là các em Lê Khắc thuộc chi thứ (Lê Đôn chi) như Lê Khắc Hậu (con út chú Lê Sỹ) sinh năm 1958, hay con chú Lê Thanh là út Phước sinh 1970. Trong số hơn một trăm người thành đạt, có không ít tên tuổi đã trở nên quen thuộc với thiên hạ ngoài bắc trong nam.    
Thế hệ vàng ấy đã qua thử lửa. Lửa hai cuộc chiến sắc tộc và ý thức hệ. Lửa ly hợp. Qua lửa, tùy thuộc tính cách - hàm lượng vàng của từng cá thể, tùy thuộc cảnh ngộ may rủi sa vào từng vòng xoáy, tùy thuộc mức độ gian truân, khốc liệt trận chiến, nhiệt độ lò nung quyết định số phận bi tráng mỗi người một vẻ.
Trong số đó, đặc biệt có một cặp bài trùng đường đời dường như trùng khớp mà số phận thăng trầm thuận nghịch sáng tối đan xen. Đó là hai anh em ruột, Lê Khắc Hiền và Lê Khắc Thành, con trai thứ nhất và thứ nhì trong 9 người con 3 gái 6 trai của ông chú Lê Khắc Hy và bà thím Hoàng Thị Thanh Lê.
Xem đây, họ gần như sinh đôi - song đôi.
Lê Khắc Hiền tuổi Kỷ Tỵ, sinh 29-10-1929. Lê Khắc Thành tuổi Canh Ngọ, sinh 11-02-1931, tức là sau anh mình 13 tháng rưỡi.
Hai anh em cùng học đệ tứ niên trường Quốc Học Huế thì gặp cách mạng tháng 8-1945.
Năm 1947 cùng đi kháng chiến. Năm 1948, cùng công tác ở tỉnh đội Quảng Bình. Hiền làm bí thư, Thành làm văn thư cho chính trị viên tỉnh đội Đồng Sĩ Nguyên (sau này ông Nguyên là Ủy viên Bộ chính trị đảng Cộng sản Việt Nam).
Hai chàng thanh niên Lê Khắc háo hức vào đời đẹp trai lồng lộng ấy cùng gia nhập đảng Cộng sản Đông Dương lúc tuổi còn rất trẻ, Hiền 19 (7-1948) và Thành thì 18 (5-1949).
Cùng được cơ quan cho ra Hà Tĩnh học trường văn hóa Bình Trị Thiên và cùng đậu Thành chung (diplôme) năm 1949.
Cùng ra Thanh Hóa theo học ban chuyên khoa Văn Triết trường Thiếu sinh quân Liên khu Tư của tướng Nguyễn Sơn.   
Năm 1950, lại cùng được tuyển lựa vào chương trình đào tạo sĩ quan các quân chủng mới. Hiền ra Tuyên Quang học không quân. Thành lớp hải luyện, sang Trung Quốc theo khóa đào tạo sĩ quan thủy quân.
Cùng có năng khiếu về lý luận, triết học. Hiền 17 năm làm giảng viên lý luận chính trị trường quân chính Quân khu Tả ngạn và Học viện quân y (phía Nam). Thành chuyển ngành đi học đại học sư phạm khoa Văn Sử, học thêm trường Đảng Nguyễn Ái Quốc rồi về Viện Triết học (Hà Nội). Sau năm 1975, vào Nam, làm chuyên viên Ban tôn giáo chính phủ, rồi chuyển sang Viện nghiên cứu quản lý kinh tế (phía Nam).
Gần cuối thập niên 1980, Hiền bền bỉ bốn chục tuổi quân được phong hàm đại tá thì Thành bên dân sự thăng chuyên viên bậc 3.
Cùng là cây bút tiếng tăm ở Sài Gòn thời kỳ đổi mới. Hiền, với bút danh Hiền Lê, trong 18 năm đăng 2098 bài báo, chưa kể 3 cuốn sách dịch chung với Trần Đức. Thành cũng từng cho đăng tải trên các tờ báo lớn khoảng ngần ấy bài báo bao quát nhiều lĩnh vực chính trị xã hội, kinh tế tài chính, khoa học kỹ thuật, văn học nghệ thuật; là tác giả một số cuốn sách và bài báo rất được chú ý ở Hà Nội, Sài Gòn.
Thế đó, từng bước đường đời gần như trùng khít!
 Giống nhau như hai giọt nước.
Vậy mà oái oăm thay, trong cơn ly hợp, cuộc đời hai anh em Hiền - Thành kết cục xoay chiều bi tráng chênh lệch một trời một vực.
Trong cuốn Hồi ký viết cho các con, đại tá Lê Khắc Hiền luôn cho rằng mình được như ngày nay là nhờ gặp bao may mắn trong hơn 80 năm qua. Trước hết là thuở thiếu thời được thụ hưởng sự chăm sóc giáo dục chu đáo của gia đình, của nhà trường đồng thời tiếp nhận ảnh hưởng rất tích cực của xã hội Việt Nam cuối thời Pháp thuộc đang cơn tức nước vỡ bờ.
“… Phụ thân tôi, ông Lê Khắc Hy (1903-1987), tốt nghiệp trường Luật và hành chính- một trường được chính quyền đô hộ Pháp mở ra trước khi nước ta có trường đại học, nhằm đào tạo công chức bậc cao. Tốt nghiệp, sẽ được bổ nhiệm tri huyện trong ngạch Nam triều hoặc tham tá trong ngạch bảo hộ. Ông không thích ngạch Nam triều phải đội khăn đóng, mặc áo dài, có vẻ khúm núm, nên làm việc ở hệ thống bảo hộ. Mới 24 tuổi (1928), ông đã được gọi là ông tham (commis) trên các ông phán (thư ký). Ông đọc sách nhiều, được tiếng làm việc giỏi. Ông làm ở tòa công sứ Quảng Trị, ra Thanh Hóa làm tham đầu tòa rồi về Huế làm ở tòa khâm sứ (bao quát cả Trung kỳ). Tháng 3-1945, Nhật đảo chính Pháp, chính phủ Trần Trọng Kim bổ nhiệm ông Lê Khắc Hy làm tỉnh trưởng Gia Lai. Chưa kịp nhậm chức, đang trên đường tới nhiệm sở, thì nổ ra Cách mạng tháng Tám. Chỉ sau đó một năm, ông được chính quyền mới bổ làm chủ sự hành chính của Ủy ban tỉnh Quảng Bình.
Mẫu thân tôi, bà Hoàng Thị Thanh Lê (1912-1984), là con gái đầu một gia đình nền nếp. Bà học trường Đồng Khánh, biết tiếng Pháp, viết chữ đẹp. Ham đọc sách báo, cư xử lịch thiệp. Tính thương người, hào phóng, sẵn sàng giúp đỡ kẻ khó. Dạy con tỉ mỉ, tối tối thường dựa vào thời khóa biểu mà kèm tôi dò bài. Bà nấu ăn khéo cả món ta và món tây.
Nhờ ơn các bậc sinh thành, tuổi thơ tôi rất sung sướng. Dễ nuôi, mập mạp, hồi bé tí, tôi được kêu bằng Rọm (gầy), một kiểu gọi ngược cho khỏi bị thần thánh ma quỷ chi đó quở phạt!
Năm 1941, tôi thi trượt vào trường Khải Định (Quốc học Huế ngày nay) nên phải học tư thục Thuận Hóa một năm. Cũng là điều hay: từ hiệu trưởng là thầy Tôn Quang Phiệt cho tới giáo viên trường ấy đều là những trí thức có tư tưởng tiến bộ, tinh thần chống Tây, nhiều thầy rất giỏi như Đào Duy Anh dạy sử, Hoài Thanh dạy Pháp văn, Nguyễn Đỗ Cung dạy vẽ Năm sau, thi lại vào Khải Định và đậu thứ 11 trong 55 học sinh trúng tuyển. Đó là một trường công chính quy có nền nếp tốt. Hiệu trưởng và tổng giám thị người Pháp. Đội ngũ giáo viên rất giỏi gồm cả người Pháp và người Việt. Quy mô và kiểu cách như một trường bên mẫu quốc. Nội dung giáo dục toàn diện. Phương pháp giảng dạy tiên tiến, hiện đại. Cách dạy ở trường này giúp học trò có tư duy sáng tạo, năng lực tự học. Nhờ thế, suốt nửa thế kỷ về sau, tôi biết cách tự học không ngừng nâng cao trình độ, biết đọc sách, thâu tóm nội dung và vận dụng vào đời sống. Ngoài sách giáo khoa và sách đọc thêm trong chương trình mà nhà trường cho thuê, tôi còn xin thẻ Thư viện Bảo Đại. Những năm này, tôi đọc hầu hết các tác phẩm cổ điển của Pháp, từ Balzac đến Victor Hugo, từ Alphonse Daudet đến Anatole France
Những năm 1941-1945, hoàn cảnh xã hội sôi sục. Chiến tranh thế giới 1939-1945. Pháp thua trận. Nhật đảo chính Pháp. Việt Minh ra đời, vận động đánh Tây đuổi Nhật, giành độc lập. Không khí chính trị mới mẻ, khơi gợi ý thức dân tộc, đặc biệt cuốn hút giới trẻ, kích thích tinh thần và tình cảm mạnh mẽ. Thanh niên, học sinh náo nức hướng đến hoạt động yêu nước, hoạt động chính trị. Nào anh em ta cùng nhau xông pha lên đàng kiếm nguồn tươi sáng/ Ta nguyền đồng lòng điểm tô giang san từ nay, đua sức anh tài. (Ca khúc Lên Đàng của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước).
Một may mắn đặc biệt nữa là Lê Khắc Hiền luôn gặp được người tốt, những bạn hữu toàn vẹn đức tài, những cán bộ lãnh đạo giỏi dang nhân hậu.
Trên đường kháng chiến, ở đâu cũng hạnh ngộ bạn chí tình. Năm 1948, bạn gái đầu đời của Hiền là cô học sinh đệ tứ xinh đẹp và hát hay Tân Nhân - sau này là ca sĩ nức tiếng với ca khúc Xa khơi. Làm chính trị viên, Hiền chân thành đoàn kết với thủ trưởng quân sự và các bạn đồng ngũ, cảm thông giúp đỡ lẫn nhau. Phụ trách chính trị các đoàn văn công Quân khu, Hiền cộng tác tốt với Tào Mạt, Chu Nghi, Hoài Giao là những nhà văn danh tiếng sau này. Tào Mạt là đoàn trưởng tâm đầu ý hợp, là bạn thiết cốt ân nghĩa với cả hai anh em Hiền Thành. Hoài Giao là cây sáng tác cung cấp cho đoàn văn công của Hiền các kịch bản đặc sắc: Trần Quốc Toản ra quân, Đường về trận địaChu Nghi là nhà viết kịch trẻ đầy triển vọng nhưng đã sớm hi sinh ở Đường 9 Khe Sanh.
Hầu như ở mỗi chặng đường công tác, Lê Khắc Hiền đều gặp được thủ trưởng cấp trên thương yêu trân trọng. Năm 1948, chính trị viên tỉnh đội Đồng Sĩ Nguyên dìu dắt đứa em nuôi Lê Khắc Hiền vào đảng Cộng sản và bồi dưỡng thành cán bộ trẻ năng động tháo vát. Đến khi Hiền đề đạt nguyện vọng đi học lên thì dù rất luyến tiếc, ông Nguyên vẫn chấp thuận cho ra Hà Tĩnh học trường văn hóa Bình Trị Thiên.
Chín năm làm chính trị viên các đoàn văn công quân khu, nhớ mãi Phó chính ủy Quân khu Lương Tuấn Khang. Mười bảy năm Hiền giảng dạy lý luận chính trị ở trường quân chính Quân khu và Học viện Quân y, được lãnh đạo tin cậy bồi dưỡng, giao việc, cất nhắc. Thủ trưởng Tô Ngọc Trữ thẳng thắn đánh giá: Lê Khắc Hiền là giáo viên lý luận giỏi trong toàn quân!
Vị lãnh đạo đầu tiên mở ra trang sử ly hợp bi tráng của gia đình Lê Khắc Hiền chính là ông Hoàng Văn Diệm, chủ tịch Ủy ban kháng chiến tỉnh Quảng Bình. Năm 1947, chú Lê Khắc Hy đang làm chủ sự hành chính của Ủy ban tỉnh, đưa cả nhà gồm bà vợ và 8 đứa con đi theo kháng chiến. Nhưng không có tiền lương, quá khó khăn thiếu thốn, chú Hy phải một mình quay về Huế. Hẳn là chú Hy và thím Thanh Lê có bàn bạc trước. Sau khi chú Hy bỏ đi, thím Lê lên gặp chủ tịch tỉnh. Là người hiểu biết và độ lượng, ông Diệm quyết đoán thấu tình đạt lý. Một, giúp đỡ thím Lê đưa 4 con nhỏ về vùng địch tạm chiếm theo chú Hy. Hai, giữ 4 người con lớn của chú thím ở lại, sắp xếp học hành, công tác để phục vụ kháng chiến. Thời điểm phân ly lịch sửấy, chị cả Túy Nga 19 tuổi, Lê Khắc Hiền 18, Thành 17, Hòa 15. Và 28 năm sau, 1975, chú Hy thím Lê ở Sài Gòn vỡ òa niềm vui đón 4 người con đã trưởng thành từ miền Bắc trở về làm trung tâm hòa hợp đại gia đình. Cái ngày đại đoàn tụ dân tộc, gia tộc ấy, trong số mấy trăm con cháu ngài Bồ Nam Lê Từ, thì gia đình chú Lê Khắc Hy là trọn vẹn nhất! Năm 1947 phân ly, nhà chú Hy có 6 người lủi thủi quay vào, 4 người hăm hở đi ra. Cả 4 người con dấn thân vào cuộc kháng Pháp ấy năm 1975 đã trở về yên lành giữa Sài Gòn. Không chỉ vẹn nguyên mà còn phát triển, lấy vợ lấy chồng sinh con đẻ cái. Túy Nga 1 thành 5. Hiền 1 thành 6. Hòa 1 thành 4. Chỉ có Thành là độc thân, nguyên con số 1. Như thế, chú Hy thím Lê hiến dâng 4 người con ra đi cứu nước thì quân số trở về là 16. Kỷ lục!
Thực ra trong 28 năm ấy, từng xuất hiện hai cơ hội đoàn tụ cha con mà bị bỏ lỡ cả hai. Lần đầu, cuộc kháng Pháp mới bước vào giai đoạn cầm cự, người con đang ở thế yếu. Lần sau, thế cờ đã lật ngược, người con đang đà thắng vẻ vang và người cha ở mặt trận bên kia sửa soạn rút chạy.
Lần đầu là năm 1948. Bấy giờ Hiền chưa vào đảng Cộng sản. Một hôm, trên đường núi chiến khu Tuyên Hóa Quảng Bình, một thanh niên nông dân đón đợi Hiền, rủ vào quán nói chuyện. Anh ta đưa ra bức thư của chú Hy. Con đi theo kháng chiến là tốt nhưng học hành dở dang. Theo ý Cậu, con nên về đi học tiếp thành tài, sau này muốn phục vụ bên nào tùy con. Nếu đồng ý, con theo người cầm thư này về đồn Minh Cầm, cha đạo Minh Cầm sẽ đưa con về với gia đình. Hiền lập tức từ chối. Cuộc sống lý tưởng chiến đấu vì độc lập tự do mới bắt đầu, đầy hấp dẫn tuổi trẻ, Hiền quyết không đào ngũ. Cuối đời nhìn lại, Hiền thấy nửa thế kỷ trước mình lựa chọn đúng. Nếu năm 1948 mình về Huế thì có thể được Cậu cho sang Pháp du học thành tài như một số anh em Lê Khắc đồng thế đồng tuế. Nhưng ngày hôm nay, ván cờ đã tàn, số phận từng người ngã ngũ, thì thấy rõ cuộc sống công chức no đủ êm đềm của anh em làm sao sánh được với cuộc đời hoạt động của mình, phong phú hào hùng, nếm trải mọi cung bậc thăng trầm. Từng trải những ngày thiếu đói cùng cực, để đọng lại suốt đời câu hỏi xót lòng của thằng em trai lên ba ngày nào cũng lo lắng hỏi Mạ bằng cái giọng ngọng líu Mạ ơi chòn dạo hông? (Mạ ơi còn gạo không?). Từng xông pha qua bao gian nguy. Cái buổi chiều tà thình lình gặp đôi cọp vằn vện lù lù phủ phục án ngữ đầu dốc Cổ Liêm Quảng Bình. Cái lần ngã bệnh mê man tưởng chết, nằm bệt mấy ngày trên nhà bè chài cá Tuyên Quang. Ba lần chạm trán tử thần ở Điện Biên Phủ, dính bom sập hầm, bị pháo kích đúng hào giao thông trước giờ nổ súng. Càng đậm dấu ấn những chặng đường lừng lẫy. Chín năm xây dựng thành công 3 đoàn văn công Quân đội, liên tiếp lập chiến công trên mặt trận văn nghệ. Đoàn tả ngạn với vở chèo Trần Quốc Toản ra quân quen thuộc. Đoàn quân khu Ba tiếng tăm với các vở Đường về trận địaCô chống lầy (từng diễn cho Bác Hồ xem). Đoàn quân khu Tả ngạn sau này thăng hoa cùng tiếng hát Lê Dung. Mười bảy năm chuyên tâm nghiên cứu giảng dạy lý luận chính trị, trở thành giảng viên chính trị, triết học uyên bác vững vàng, vươn lên chủ yếu bằng tự học cần cù và phương pháp tư duy sáng tạo.
Cơ hội thứ hai xuất hiện khi cuộc kháng chiến 9 năm vừa kết thúc nức lòng người. Hiền  vừa được tặng Huân chương Chiến công trên chiến trường Điện Biên và Thành là chính trị viên trung đội hoàn thành nhiệm vụ tiễu phỉ ở Tiên Yên Quảng Ninh, được thưởng  Huân chương Chiến thắng. Bộ đội cụ Hồ tiến vào Thủ đô Hà Nội rực rỡ cờ hoa ngày 10-10-1954. Nhưng miền Bắc chưa hoàn toàn giải phóng. Hải Phòng vẫn thuộc vùng tạm chiếm, là khu tập kết 300 ngày trước khi đối phương rút hết vào Nam.
Thật trớ trêu, đúng thời điểm ấy, hai cha con bị đặt vào thế đối nghịch trực diện. Chú Lê Khắc Hy đang làm chánh án Hải Phòng. Lê Khắc Hiền là chính trị viên phó đại đội đang luyện quân ở Ninh Giang - Hải Dương, chuẩn bị tiến quân vào tiếp quản Hải Phòng!
Một ngày cuối năm 1954. Hiền đang trên bãi tập, giờ giải lao thấy một chú bé bán báo đi qua, liền gọi lại mua tờ Thời Mới. Ngó qua mục Rao vặt, tưởng như không tin vào mắt mình: Hoàng Thị Thanh Lê tìm gặp các con Lê Khắc Túy Nga, Lê Khắc Hiền, Lê Khắc Thành, Lê Khắc Hòa. Mẹ đang ở 25 Tràng Thi Hà Nội…” Bàng hoàng, mừng rỡ. Cứ nghĩ gia đình đang ở Huế, hi vọng gì gặp được. Hạnh phúc òa tới bất ngờ. Hiền xin đi phép 3 ngày. Thời ấy bộ đội chưa có quân hàm, nhưng được phát quân trang phân biệt cán bộ từ đại đội trở lên mặc áo 4 túi. Cũng chưa có lương, chỉ được phụ cấp ít tiền cắt tóc, mua xà phòng. Đi xe ô tô khách tới Hà Nội, Hiền bỡ ngỡ hỏi đường về trung tâm thành phố. Phố Trường Thi sang trọng nằm dọc bờ Hồ Gươm. Nhà số 25 là hiệu bán thực phẩm ngoại nhập có cái tên tây Chiffer. Bấm chuông. Hiền vừa bước vào nhà, đã thấy Mạ (bà Hoàng Thanh Lê) trên cầu thang chạy xuống. Mẹ con gặp nhau sau 7 năm xa cách. Mừng rỡ, hồi hộp, ngỡ ngàng. Thì ra đây là nhà của một bà bạn của Mạ, Mạ từ Hải Phòng lên, trú nhờ chờ tìm các con. Chủ nhà, bà tư sản, tấm tắc: cậu nhà tuấn tú, mặc áo 4 túi chững chạc, con nhà tông không lẫn vào đâu. Được khen mà Hiền thấy khó chịu, nói riêng với Mạ: sao lại ở nhà mụ tư sản mại bản? Chiều lòng con trai cả, hôm sau Mạ chuyển sang nhà người quen khác ở một đường phố cũng trung tâm - một ông thầu khoán có phần vốn đầu tư mỏ than Hongay. Ổng cứ hỏi dò Hiền liệu tư nhân có được tiếp tục kinh doanh mỏ than? Nghe mà rầu lòng! Sao Mạ giao du với hết bà tư sản mại bản tới ông tư sản dân tộc?! Hiền vừa dự mấy đợt chỉnh huấn cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức năm 1954, giác ngộ giai cấp bạn thù rạch ròi phân minh lắm (!) Vả chăng, lúc này cán bộ xuất thân tiểu tư sản đều mặc cảm vị thế chông chênh; mình sơ hở tiếp xúc với tầng lớp trên e không khỏi bị phê phán mất lập trường!    
Hiền cùng với Mạ và các em nhỏ (Ngọc, Diệp, Hùng, Cường) đưa nhau dạo phố, vào hiệu chụp ảnh, vào rạp xem phim. Mạ ngỏ ý mua sắm xe đạp, nhẫn vàng cho Hiền. Câu trả lời thẳng băng dứt khoát: Mạ và các em ở lại miền Bắc thì cho gì con cũng lấy, nếu quay vào Nam thì con dứt khoát một chút quà cũng không nhận!.
Hiền về đơn vị, tới lượt Thành đi phép vào Hà Nội gặp Mạ. Thành được nghỉ lâu hơn nên trong thời gian ở Hà Nội còn tranh thủ nhào về Ninh Giang cùng Hiền bàn cách giữ gia đình ở lại miền Bắc. Thành đề xuất: trực tiếp gặp ông Khuất Duy Tiến lúc đó phụ trách tổ chức ở Hà Nội, đặt vấn đề nhờ ông Tiến mời Cậu (chú Hy) ở lại làm việc với chính phủ cụ Hồ. Ông Tiến nhiệt tình giúp ngay, cho người về Hải Phòng liên lạc với Cậu. Nhận được tín hiệu móc nối, ngay hôm sau, không chờ Mạ nữa, Cậu bay trước vào Sài Gòn, để lại thư gửi Hiền Thành rằng Cậu không phản đối con đường các con đã chọn nhưng về phần Cậu tự thấy tuổi cao sức yếu, không thể theo con đường gian khổ!
Sau này nghĩ lại, thấy diễn biến như thế là may mắn! Cậu Mạ và các em, nếu ở lại miền Bắc, thì 20 năm sau đó chịu đựng sao nổi cuộc sống vô vàn gian khổ về vật chất thời chiến tranh phá hoại ác liệt và những giằng xé mắc mớ bất an về tinh thần, hậu quả của chính sách hẹp hòi, phân biệt đối xử, thành phần chủ nghĩa thời ấu trĩ bao cấp tù túng trói buộc. Thê thảm biết mấy, khi các bậc sinh thành bất lực tận mắt chứng kiến tai họa giáng xuống phá nát cuộc đời và tương lai vốn đầy hứa hẹn của đứa con trai tuấn tú mà cả gia đình chứa chan kỳ vọng
Mạ còn gửi Thành cầm xuống Ninh Giang trao cho Hiền một lượng vàng. Lần đầu tiên trên đời Hiền nhìn thấy một lượng vàng! Trong khi quanh năm suốt tháng 4 túi không tiền! Nhưng, không chút do dự, Hiền gửi vàng trả lại Mạ. Hẳn là Mạ buồn lắm. Nhưng Mạ ơi, Mạ hiểu cho con, con không cho phép mình nhận vàng bạc hiện kim của Mạ. Còn tấm lòng vàng của Mạ thì con đã từng thấm thía cảm nhận và sẽ còn cảm nhận mãi mãi về sau. Con được như hôm nay là nhờ những đức tính mạ dạy từ hồi bé tí, tình thương người, hào phóng, cung cách cư xử lịch thiệp và lòng tự trọng. Mạ gieo vào chúng con những tính tốt ấy bằng cả cuộc đời tận tụy vì chồng và một lũ 9 đứa con. Quán xuyến việc nhà thời bình, bươn chải vượt khó thời chiến. Năm 1945, gia đình theo Cậu đi Gia Lai nhậm chức, nửa đường mắc nghẽn lại Đà Nẵng, coi như thất nghiệp, Mạ phải xoay xở mở tiệm cà phê sống tạm gần một năm. Tới 1947, gia đình lại theo Cậu đi kháng Pháp, đâu đủ lương tiền nuôi cả đàn con. Mạ làm bánh bột lọc mang bán ở chợ làng. Sau sự biến 1975, kinh tế khó khăn, Cậu không còn lương hưu, mấy em của con thất nghiệp, chính Mạ lại chạy vạy lo cái ăn cho cả nhà. Mạ không kêu ca, thực lòng hòa nhập cuộc sống mới, hăng hái tham gia công tác phụ nữ, được chính quyền thành phố biểu dương. Mạ chung thủy yêu thương  và âu yếm chăm nom Cậu tỉ mỉ cho tới cuối đời. Chúng con không bao giờ quên hình ảnh Mạ vào buổi sáng định mệnh tháng 5-1984 ấy Bệnh tim trở nặng, Mạ mỏi mê lệt bệt mấy ngày rồi, nhưng sáng ấy Mạ vẫn dậy sớm vén màn, xếp chăn, săn sóc Cậu chỉn chu như thường lệ Rồi giây phút chia xa trong lặng lẽ. Mạ thanh thản ra đi
Lê Khắc Hiền là trưởng ban tiền nhiệm của Văn Trí trong Ban liên lạc bà con Lê Khắc ở Sài Gòn. Trước Hiền, là Lê Khắc Điềm, Lê Khắc Nhãn. Trong nhiệm kỳ 5 năm 1996-2000, Lê Khắc Hiền lèo lái Ban liên lạc tập trung vào hai việc lớn: biên soạn Gia phả và tu sửa nhà thờ. Dòng họ quá rộng lớn, thôi thì thu gọn lại, Hiền thống nhất với Trí là làm trước Gia phả của nhánh Bồ Nam - tức là một phần bảy của dòng Lê Khắc! Mới một phần bảy mà ước tính phải kể tên ngàn người! Ngàn người rải hầu khắp địa cầu, trong số đó chỉ biết mang máng là tập trung có phần nhiều hơn ở Sài Gòn, Huế, Hà Nội, Hoa Kỳ, Pháp, Canada, Úc. Trưởng ban Hiền phải nối đường dây liên lạc, phân công từng nhánh, từng phòng, từng gia đình làm đầu mối thu thập tư liệu. Văn bản, danh sách trăm nơi phơi phới bay về, trưởng ban cặm cụi xử lý, hiệu đính, xếp đặt sao cho ai nấy vào đúng chỗ của mình. Lại nhờ chuyên gia Hoa văn chuyển ngữ từ Hán tự sang quốc ngữ bản Di huấn của Tổ phụ Trung Phụng đại phu Lê Từ và 13 bản Sắc phong mà các đời vua Tự Đức, Đồng Khánh, Thành Thái, Khải Định ban cho các bậc cao tổ. Rồi nâng niu chồng bản thảo mang đi in ấn. Cuối cùng, giữa năm 1997, bà con Lê Khắc vui mừng cầm trên tay cuốn Gia phả đầu tiên của nhánh Bồ Nam.
Cùng lúc, lo tu sửa nhà thờ Tổ phụ. Dặm dọi mái ngói cho đỡ dột. Gia cố cửa nẻo cho kín đáo. Con đường từ cổng lớn đi vào và khoảnh sân đất quá lầy lội, phải láng xi măng toàn bộ. Ngó khang trang tươm tất rồi, lại tính chuyện cắt cử người trông nom hương khói. Cháu đích của ngài Bồ Nam không còn ai ở làng, phải nhờ chi thứ Lê Khắc giao phó trách vụ cho Lê Khắc Hà. Chỉ đạo, thu xếp ngần ấy việc, trong khi trưởng ban Hiền vẫn thường trú ở Sài Gòn. Rõ là ăn một nơi, ấp một nơi. Dăm bảy tháng đi về một lần cũng phải chi tiêu vài bốn triệu tiền riêng. Còn chuyện thư từ, điện tín, đường thoại đường dài thì khỏi nói cũng biết nhiêu khê ra sao. Hiền vốn tận tâm, năng nổ, trên bốn mươi năm làm việc quân là vậy, nay gánh vác việc hiếu vẫn tiếp tục truyền thống ấy. Nhân hậu, vị tha như một thói quen đã ăn sâu vào tâm thức, lắng đọng thành tính cách. Làm việc Họ thời xã hội chủ nghĩa rõ là ăn cơm nhà thổi tù và dòng tộc. Nhưng Trưởng ban xả thân, không so đo tính toán thiệt hơn, việc gì cũng đi trước làm gương nên bà con thương yêu tin cậy nhất hô bách ứng.  
Hiền đang điều hành bộ máy chạy đều thì đột ngột hứng chịu trận đau tim dữ dội. Đứng trước nguy cơ đột quỵ nếu không giảm bớt cường độ làm việc, Hiền đành đắn đo vận động Trí:
- Thôi anh làm trưởng ban liên lạc thay tôi đi.
Trí rất quý và nể ông em họ mẫu mực, nên nhận ngay, nhưng còn đưa yêu sách  phải cử thêm một phó trưởng ban, chứ mình Trí làm sao mà thay được Hiền.
- Phó ban thì không khó lắm, chúng ta cử Tôn Thất Lan. Với lại anh Trí yên tâm. Tôi không làm trưởng ban nhưng không lơ là việc họ đâu.
Lê Khắc Hiền nói thế nào làm như thế ấy. Suốt chục năm sau đó, Hiền vẫn một tay xốc vác công việc gia tộc bên Phòng Ba- tức là hậu duệ của bà Ba Trần Thị Dung. Các cuộc vận động lớn, Hiền vẫn đi đầu cúng góp. Ủng hộ giúp đỡ bà con khó khăn đột xuất, bao giờ cũng có cái tên Hiền đi cùng với các cái tên Điềm, Lan, Trí. Vẫn vẹn nguyên bộ tứ! Khi lập Hội đồng gia tộc hay Hội đồng cố vấn, Hiền đều sốt sắng tham gia. Và tới giai đoạn chuyển giao trọng trách cho Thế 12 thì Hiền bồi dưỡng con trai là Lê Khắc Hoàng nhận nhiệm vụ khó khăn vất vả nhất là chủ trì phối hợp chăm sóc Nhà thờ và Lăng mộ ở làng Văn Xá.
Thì suốt đời Hiền là như thế. Nhận việc là làm hết mình, chất lượng luôn thuộc tốp dẫn đầu. Nhưng không trì trệ dẫm chân một chỗ tới mọc rêu. Mà lúc nào tự thấy mình không thích hợp nữa là tìm cách thay đổi. Linh hoạt, ưu thời mẫn thế, cho nên cuộc đời năng động của Hiền chia làm nhiều quãng: này, nhịp 3 (3 năm đại đội Pháo 351); nhịp 3 nữa: chính trị viên đại đội; nhịp 6: công tác thanh niên trong quân đội; nhịp 9: lãnh đạo văn công quân khu; và cuối đời công tác là nhịp 17: giảng dạy lý luận chính trị.
Tất nhiên con đường phát triển không thể bằng phẳng đối với một trí thức nặng căn như Lê Khắc Hiền. Suốt đời - trừ thời gian hơn một năm được ông Đồng Sĩ Nguyên dìu dắt - cảm giác như luôn có một cặp mắt hau háu nghi ngại dõi theo hành tung của người đảng viên có cha đẻ là công chức cao cấp phục vụ phía bên kia.
Năm 1953, có 100 cán bộ trẻ ưu tú được chọn về An toàn khu Đại Từ (Thái Nguyên) bồi dưỡng chuẩn bị sang Liên Xô, Trung Quốc đào tạo đội ngũ trí thức cho sự nghiệp tái thiết đất nước. Đảng viên Lê Khắc Hiền, 24 tuổi, đã kinh qua chiến đấu, trình độ văn hóa chuyên khoa Văn Triết, tất nhiên được triệu tập. Ba tháng học chính trị. Từng người khai lý lịch. Hiền không hề che giấu thành phần xuất thân quan lại phong kiến công chức thực dân. Sau đó, 60 người được chọn, lên đường du học, phần lớn sau này trở thành trí thức hàng đầu như Đào Thế Tuấn, Nguyễn Tài Thu Hiền nằm trong số 40 người bị trả về. Buồn 5 phút, rồi Hiền đi chiến dịch Điện Biên. Và lập trường không hề dao động (cho nên năm sau, 1954, Hiền mới cứng nhắc cùng Thành đòi cha mẹ rời bỏ phía bên kia để phục vụ phía bên này!).
Năm 1973, suýt nữa Lê Khắc Hiền được chọn về Bộ sĩ quan liên hợp 4 bên sau Hiệp định Paris. Lý do bị gạt ra ngoài? Vũ như cẩn (vẫn như cũ!). Lại có chuyện tưởng như khó hiểu là sao chờ dài cổ hàng chục năm chẳng thấy đề bạt, nâng quân hàm? Hiền vẫn nhẫn nhịn. Và tự đánh thông tư tưởng, rằng trông lên thì chẳng bằng ai/ nhìn xuống khối kẻ thiệt thòi hơn ta!. Nhà thơ Xuân Thiêm ở Phòng Văn nghệ Quân đội, nói câu chí tình: ““Bọn tiểu tư sản, tiểu trí thức như chúng mình đừng nên đi vào con đường làm cán bộ chính trị mà nên phát huy thế mạnh chuyên môn…” Theo lời khuyên xác đáng ấy, Hiền vùng thoát sang làm công tác nghiên cứu giảng dạy lý luận chính trị.
Đó cũng là quãng thời gian Hiền thăng tiến mạnh.
Đồng thời kết hợp hài hòa bổn phận làm chồng, làm cha.
Mải mê công tác, mãi năm 33 tuổi Lê Khắc Hiền mới lập gia đình. Nhưng đã kịp bù lại, 10 năm sinh 4 con. 3 gái đầu là Hương, Hà, Huyền và trai út là Hoàng. Bốn con, mà vẫn chồng một nơi vợ một nẻo. Chồng theo cơ quan nay Quảng Yên (Quảng Ninh), mai Chí Linh (Hải Dương); vợ công tác Hải Phòng, thời chiến tranh phá hoại ôm con sơ tán khi Kiến Thụy, lúc An Dương. Được cái, hiền nội Nguyễn Tâm Khuê đảm đang bươn chải, tổ chức đàn con ăn ở học hành, xoay xỏa tranh thủ tăng gia sản xuất, làm vườn trồng rau, nuôi vịt đẻ trứng, thêm vào tiền lương, nên cả nhà không khi nào quá cực. Chỉ canh cánh bên lòng nỗi khổ hai mươi năm vợ chồng cha con xa nhau, hàng tuần tranh thủ sum họp được ngày chủ nhật. Cho nên năm 1982, hạ quyết tâm bằng mọi cách xin cho cả hai vợ chồng chuyển công tác vào  Sài Gòn. Thực sự là bước đổi đời. An cư, lạc nghiệp. Và hơn nữa, làm nòng cốt xử lý hóa giải mối quan hệ phức tạp trong đại gia đình chú Lê Khắc Hy có 4 con ở lại miền Nam và 4 con từ miền Bắc trở về. Có người phía Nam thuộc diện chính quyền mới triệu tập cải tạo, được Lê Khắc Hiền đứng ra bảo lãnh. Có người phía Bắc khủng khỉnh lên mặt công thần, bất hòa với người thân, lại chính Hiền khuyên răn, dàn xếp nội bộ gia đình êm thấm. Với bản tính nhân hậu, khoan dung và cung cách ứng xử mềm mỏng khôn ngoan, Hiền tác động kết nối hòa đồng dòng họ.
Cuối chặng đường quân ngũ, Lê Khắc Hiền được phong hàm đại tá. Đàn con học hành tới nơi tới chốn, vào đời thành đạt. Đại gia đình con cháu dâu rể quây quần đầm ấm. Công thành danh toại, riêng chung vẹn toàn.
Chia sẻ niềm vui trọn vẹn với người anh, càng buồn tiếc cho người em song đôi là Lê Khắc Thành. Ngược hẳn với anh trai, Khắc Thành một đời không thành đạt!
Mà Thành, từ thuở bé tí đã thông minh dĩnh ngộ, niềm hi vọng lớn của cha mẹ, họ hàng. Thành học giỏi đều các môn, luôn có tên trên bảng danh dự của trường. Xuất sắc nhất là toán học, bạn bè phục lăn kêu bằng cây toán có u toán sau gáy. Giá như cả đời Thành đeo đuổi môn toán Lại nhớ, cái năm 1951 sang Lôi Châu Trung Quốc học khóa thủy-quân-du-kích, Thành có dịp trổ tài toán học với phái viên thủy binh của nguyên soái Lâm Bưu. Giảng viên đặt vấn đề cho cả lớp nghiên cứu: đánh nhau trên thuyền buồm, nổ súng thời điểm nào hiệu quả nhất? Học viên khóa ấy hầu hết xuất thân dân chài, rất thạo sông nước, nhưng văn hóa có hạn. Thành mày mò nghiên cứu quy luật sóng biển lúc thủy triều lên xuống, tính toán, đề xuất thời điểm nổ súng chuẩn xác. Tiến hành thực nghiệm. Kết quả đúng. Thành được nêu gương trước toàn khóa.
Thế đó, giá mà Thành suốt đời kiên trì theo con đường toán học!
Nhưng ai mà biết được các bước ngoặt thình lình xuất hiện trên đường đời quanh co. Thành lên trung học, ở Lycée Khải Định (Quốc học Huế) được xếp vào hệ E.O, học xuất sắc toàn diện từ môn La tinh đến môn Toán. Vào thiếu sinh quân, lại theo ban chuyên khoa Văn Triết. 1955 xuất ngũ, học đại học sư phạm Văn Sử, xuất sắc, 1957 tốt nghiệp, được giữ lại dạy đại học tổng hợp. Đúng thời kỳ rộ lên vụ án Nhân văn- Giai phẩm. Đảng viên trẻ Lê Khắc Thành hăng hái sắm vai mác lê xung kích sắc bén. Thành viết bài đánhTrần Đức Thảo (Nhân vật lớn, giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2000. Nhiều giai thoại gần như huyền thoại; cho tới nay Trần Đức Thảo vẫn được coi là triết gia số một, thậm chí ông Trần Văn Giàu còn gọi ông Thảo là triết gia duy nhất, của Việt Nam!). Cái cú đá ngựa nonấy được rầm rộ tung hô, bài báo đấu đá của Thành đăng trên tạp chí Học tập (tạp chí Cộng sản ngày nay)  được dư luận chú ý. Cú đáấy rồi sẽ tạo ra bước ngoặt quyết định rủi ro dẫn Thành vào mê lộ đại họa. Sau một khóa học ở trường đảng Nguyễn Ái Quốc, Thành được điều động về Viện triết học Mác Lê-nin (hiện nay là Viện Khoa học xã hội Việt Nam). Một tác phẩm được chú ý của Thành thời kỳ này là cuốn sách Văn nghệ miền Nam sẽ đi đến đâu? Văn nghệ miền Nam đi tới đâu thì hạ hồi phân giải, còn báo ứng nhỡn tiền là sinh mệnh chính trị của bản thân tác giả đi tới cõi lụi tàn! Năm 1964, bùng nổ vụ án Xét lại chống Đảngtrọng phạm chính là Viện trưởng Viện triết học Hoàng Minh Chính. Ông Chính bị khai trừ Đảng, rồi bị tập trung cải tạo, quản chế ròng rã 20 năm. Lê Khắc Thành phát biểu quan điểm phản đối Nghị quyết 9 (về quan hệ Quốc tế) của Trung ương Đảng. Qua nhiều cuộc kiểm thảo căng thẳng gay gắt gần như đấu tố thời cải cách ruộng đất, Thành vẫn cãi lý tới cùng, một mực xin bảo lưu ý kiến. Thậm chí liên tiếp viết đơn thư phản biện khiếu nại gửi lên các cấp trên cao. Chi bộ quy chụp là có tư tưởng xét lại, chống phá chủ trương đường lối của Đảng. Rồi công an xét nhà. Rồi khởi tố, tuy qua thẩm vấn không có chứng cứ kết tội, vẫn bị khai trừ khỏi Đảng. Năm 1967, Thành bị hạ bậc lương, đình chỉ công tác chuyên môn, tống đi cải tạo lao động ở nông trường Cao Phong (Hòa Bình). Nhà lý luận từng viết bài đăng báo Đảng chỉ đường cho triệu cán bộ đảng viên, nay được giao trọng trách chăn dắt đàn bò trăm con giữa núi đồi hoang sơ! Lại đúng lúc Thành phát bệnh nặng. Chỉ trụ với đàn bò được mấy tháng, Thành phảibò về Hà Nội, đưa trình cơ quan quản lý hồ sơ bệnh án nội tiết và đơn thuốc của bệnh viện đúng tuyến, đúng thẩm quyền nhưng lãnh đạo không thèm ngó. Mà lạnh lùng kết tội chống quyết định cải tạo, đào nhiệmchăn bò. Cay đắng, Thành nhận kỷ luật buộc thôi việc. Quyết định thải hồi trao tận tay Thành kèm một tháng lương an ủi theo bậc lương đã bị hạ tức là 63 đồng. Phát đạn ân huệ đấy! Coi như xóa toàn bộ công tích cống hiến từ 1947 tới 1967! 20 năm trên chiến trường và trên giảng đường, 20 năm thấm đẫm mồ hôi, có cả máu hồng và bao nhiêu chất xám. Xóa sạch.
Lê Khắc Hiền, những năm ấy đang lãnh đạo văn công quân đội, quyết không chấp nhận nghịch lý phân ly sau mấy chục năm ròng hai anh em sát cánh bên nhau đi cùng một đường, đứng cùng một phía. Khi xảy đại họa, Hiền có mặt ngay bên Thành, khuyên em khôn ngoan  nhẫn nhịn nín thở qua sông. Khi Thành bị thải hồi là Hiền lập tức tìm về Hà Nội làm chỗ dựa cho em mình. Từ 1968 tới 1975, Thành làm cây bút tự do, viết báo, dịch sách kiếm sống. Để em đỡ cô đơn, Hiền rủ các bạn văn nghệ thân thiết cùng về Hà Nội thăm Thành, chuyện trò viết lách văn nghệ báo chí. Có người, như Tào Mạt, trong một lần ghé chơi, thấy Thành quá khó khăn, liền đưa Thành 100 đồng là tiền nhuận bút một vở kịch vừa lĩnh được. Vào cuối những năm 1960, đó là món tiền lớn. Trong di chúc năm 2006, Thành nhờ anh Hiền khi xử lý tài sản nhà đất của mình sẽ cố dành một khoản tiền lớn gấp nhiều lần gửi lại gia đình Tào Mạt.
Lê Khắc Thành vào Sài Gòn cùng gia đình ngay từ tháng 6-1975. Vẫn đang là người tự do (ngoài biên chế nhà nước). Lúc đó, một số khá đông cán bộ, thanh niên tưởng rằng gió đã xoay chiều, hẳn tiếng Nga lên ngôi! Thành chớp thời cơ,  mở lớp dạy tiếng Nga. Rồi năm 1980, nhờ ông Đồng Sĩ Nguyên ra tay can thiệp, Thành được nhận lại vào biên chế nhà nước, làm chuyên viên nghiên cứu ở Ban tôn giáo Chính phủ. Vốn liếng Sử - Triết - Văn mốc meo hàng chục năm, bấy giờ trở nên đắc dụng. Thành tập trung đi sâu nghiên cứu, biên soạn nhiều công trình có giá trị về các tôn giáo: Công giáo, đạo Cao Đài và đạo Hồi ở Sài Gòn. Từ 1984, Thành lại chuyển về Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế (phía Nam). Tác phẩm nghiên cứu Nền tiểu công nghiệp ở một số nước tư bản chủ nghĩa được nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. Rồi hàng loạt bài báo quan trọng của Thành thời kỳ tiền đổi mới,  nghiên cứu về quản lý công nghiệp, về đổi mới ngân hàng, về tự do báo chí, đổi mới văn học liên tiếp xuất hiện, được đánh giá cao.
Năm 1990, Trí vào Sài Gòn, cho ra mắt các số Thế Giới Mới đầu tiên, thì  nhà báo tự do Lê Khắc Thành đã là một tên tuổi lẫy lừng. Thành đến tòa soạn Thế Giới Mới, rỉ tai mách nước lão anh họ Văn Trí vài ngón làm ănthiên đường báo chí.  
Báo chí trung ương và các tỉnh thành đặt trụ sở làm ănở Sài Gòn ra sức săn đón các cây bút xông xáo, đa năng như Lê Khắc Thành.
Thành đang ngon trớn đi tới, thì đột ngột hiện ra khúc ngoặt hiểm nghèo cuối đời. Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế (phía Nam) giải thể. Tất cả cán bộ của Viện được điều ra Viện trung ương ở Hà Nội. Nhưng Thành ra Hà Nội sao được. Mảnh đất ấy, với Thành, chứa đầy kỷ niệm u ám. Còn Sài Gòn, chính là mảnh đất làm nên thương hiệu Lê Khắc Thành.
Thành dứt khoát ở lại Sài Gòn. Sắp bước vào tuổi 60, không còn quỹ thời gian để phiêu lưu làm lại cuộc đời lần nữa. Thành xin nghỉ hưu. Nhưng mới vào lại biên chế mươi năm, làm sao đủ tiêu chuẩn hưởng lương hưu? Bạn bè xúm vào bàn cách. Lối thoát duy nhất là xin truy nhận phục hồi 20 năm công tác trước đây bị xóa oan uổng. Nhưng muốn khôi phục thâm niên ấy, cơ quan thẩm quyền (tối cao) phải ra một quyết định chiêu tuyết - minh oan cho không ít người, trong đó có những nhân vật cộm cán gấp bội Lê Khắc Thành! Nghĩa là phải lật lại toàn bộ vụ án Xét lại chống Đảng năm 1968. Còn lâu! (Năm 1991, ban chấp hành trung ương đảng Cộng sản Việt Nam ra thông báo về hai vụ án Nhân văn Giai phẩm và Xét lại chống Đảng, vẫn đánh giá hai vụ án như trước đây).
Lê Khắc Thành phẩy tay: thôi không xin xỏ hưu hiếc gì hết!
Khắc Thành khắc có cách sống sót. Còn cây bút là còn tất.
Đúng là Thành đã cầm cự sống sót được dăm bảy năm sau đó. Nhưng tới cuối thế kỷ 20 thì thời thế thay đổi. Đòi hỏi của đất nước, của người đọc báo nâng cao dần. Vốn liếng lý luận, triết học được bồi đắp từ thời Trường tổng hợp - Viện triết học những năm 1960 chỉ tỏ ra đắc dụng khi làm con dao mổ xẻ tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội thời kỳ phôi thai đổi mới. Vốn liếng ngoại ngữ, biên dịch chỉ đủ cho cây bút Lê Khắc Thành tung hoành thời kỳ mới mở cửa, sách báo nước ngoài chưa kịp tràn ngập, mạng internet chưa kịp mở rộng và đội ngũ các nhà biên dịch trẻ giỏi ngoại ngữ chưa kịp trưởng thành. Tới nay, Lê Khắc Thành đã vào thời lên lão, 60 rồi 70. Lão lai tài tận. Thu nhập ít dần, Thành sa vào nghèo túng. Nghèo túng lại cô đơn. Nuôi chó nuôi mèo làm bầu làm bạn gừ-gừ-meo-meo hủ hỉ đêm hôm. Mặc cảm thất bại, tâm sự u uất của Thành chất chứa trong bài thơ Khóc mèo: Ta khóc con, thương xót tựa người thân/ Mang vóc hình của giống người, đồng loại/ Vắng tiếng con ôi lòng ta quằn quại/ Nỗi thương đau nhức nhối cả tâm can Ta khóc con mặc người đời cười nhạo/ Ta có điên đâu, ta luôn tỉnh táo/ Bút ta đây, ta trọn nghĩa dâng đời/ Giọt lệ này đâu phải chuyện trêu ngươi/ Ôi, đời vui mà lòng ta hiu quạnh/ Khóc mèo, hay khóc đời ta bất hạnh
Cảm thông chia sẻ với người em thất thế cơ hàn, Lê Khắc Hiền tìm mọi cách giúp đỡ Thành. Hai con của Hiền là cháu Hương và cháu Hoàng làm ở ngành hàng không, thường đưa báo chí tiếng Pháp về cho bố đọc, Hiền lại chuyển cho Thành chọn bài ăn khách dịch đưa các báo. Hiền là sĩ quan cao cấp, ngoài căn nhà được phân cho gia đình cư ngụ tại Nguyễn Tri Phương Quận 10, còn được cấp một miếng đất gần sân bay Tân Sơn Nhất. Khi Thành mất chỗ ở Phú Nhuận, Hiền liền cho em làm nhà ở Tân Sơn Nhất. Rồi Thành bán chỗ ấy, mua 300 mét vuông đất Thạnh Lộc Hóc Môn làm căn nhà nhỏ để sinh sống, viết lách. Hiền theo dõi trên báo, biết số bài được đăng của Thành ngày càng ít đi, hẳn là túng thiếu. Bèn tháng tháng trích lương hưu gửi cho em chút tiền có định mức, ban đầu 300 ngàn, sau tăng lên 400, rồi 500. Xuống thăm em, thấy em ăn ở khổ quá mà thương. Ai đời sang thế kỷ 21 mà còn xài cái ti vi đen trắng 9 inch tậu từ 1975! Bèn xắn tay áo kêu gọi cả đàn con xúm vào hỗ trợ chú Thành nhà mình. Đổi ti vi màu. Sắm quạt bàn, điện thoại. Dấn lên chút, thửa hẳn một dàn vi tính! Thành phấn khởi lắm, quyết làm chủ kỹ thuật tân tiến để hội nhập thế giới mạng. Nhưng ở tuổi 75, mở hướng phát triển đâu có dễ. Huống hồ Thành cô đơn, bệnh tật. Tai họa lần cuối ập tới. Cú té ngã một thân một mình ấy xảy ra đêm khuya. Sáng ra, khi bà con đưa Thành đi cấp cứu thì không kịp nữa. Đó là ngày định mệnh 29-10-2006.
Sau đám tang Lê Khắc Thành, Trí lặng người xúc động khi Hiền đưa bảy trăm ngàn đồng trích trong khoản nhuận bút cuối đời của Thành cúng góp Quỹ Nhà thờ -  Lăng mộ gia tộc. Hai anh em ngồi rủ rỉ tâm tình.
- Tôi đau đớn day dứt không thể nguôi khi Thành chết đột ngột - Hiền nói - Tôi với Thành là anh em ruột quấn quít bên nhau, đường đời nhiều chặng trùng khít, như đôi bạn chí thân. Tôi ân hận trách mình sao không quyết liệt giúp Thành hiệu quả hơn. Giá như năm 1964 mình thuyết phục được Thành nhẫn nhịn. Lại giá như.
- Anh Hiền ạ, sau cái chết của Thành, tôi cũng nghĩ mãi về cuộc đời Thành, từ đó mà nhìn lại cả Thế hệ vàng tức là Thế 11 Lê Khắc chúng mình. Có thể chia làm 4 lứa. Lứa anh cả như anh Duyệt, anh Điềm, anh Hoài, anh Quyến, anh Nhãn, tức là lớp thanh niên hoàn toàn trường thành và vào đời ít lâu thì bước vào kháng Pháp. Lứa thứ tư, út ít tức là các em sinh ra khoảng trước sau kháng Pháp thắng lợi như em Cường, em Hoa, em Phúc. Trí tôi ở lứa thứ ba, khoảng tuổi lên 5 lên 10 thì nổ ra chiến tranh, ngu ngơ quăng quật trong cuộc chiến. Còn lứa thứ hai như anh Lê Khắc Tình của tôi, Lê Khắc Khung nhà chú Chí, rồi anh Hiền, anh Thành, bước vào hai cuộc chiến với hành trang là vốn liếng thu thập được từ nhà trường thời Pháp. Vốn kiến thức, ngoại ngữ, phương pháp tư duy Hấp thu tinh túy văn minh văn hóa Pháp. Cả cái ý chí gang thép kháng Pháp giành độc lập tự do cũng mọc mầm mãnh liệt trong lứa thanh niên ấy. Các anh vào đời với nhiều thuận lợi cơ bản về văn hóa và chính trị. Nhưng số phận khác nhau. Thôi những người đã hi sinh như anh Tình, anh Khung thì đành rồi. Còn những anh đi được tới cuối chặng đường thì đều xứng đáng ngẩng cao đầu. Riêng về anh Thành, thì cái quan định luận, đã tới lúc có thể xem xét thấu đáo một cuộc đời bi tráng
Công phu thu thập, sắp xếp hệ thống các công trình trước tác, di cảo, tài liệu, bút tích, kỷ vậtcủa Lê Khắc Thành để lại, Hiền càng hiểu càng thương em trai. Chính Văn Trí, cầm trên tay cuốn tuyển tập các bài viết tiêu biểu của Lê Khắc Thành, cũng giật mình khi thoạt chạm mắt vào các tựa đề: Cần dân chủ hóa quá trình lập pháp, Mối quan hệ giữa sự lãnh đạo của Đảng ở các cấp với các cơ quan dân cử, Cần sớm có một số định hướng cơ bản cho công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh yêu cầu bức thiết đổi mới ngân hàng, Báo chí nước ta trên đường thực hiện tính công khai, Giao đất và phân cấp quản lý, những con dao hai lưỡi”… Hàng trăm bài báo nóng bỏng như thế, ở thời kỳ tiền đổi mới, đã liên tiếp xuất hiện trên các báo tầm cỡ như Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân, Sài Gòn Giải Phóng, Tuổi Trẻ, tạp chí Cộng Sản
Hoàn toàn xứng đáng với câu tự bạch trong bài Khóc mèo: Bút ta đây ta trọn nghĩa dâng đời! Lê Khắc Thành đã dâng đời bao nhiêu công trình tâm huyết sáng giá! Phát hiện thông minh nhậy bén. Biện giải sắc sảo, tường minh. Và đầy tính dự báo, cảnh báo cho cả vài chục năm sauThử so sánh cống hiến trọn đời của Thành với những anh em Lê Khắc đồng thế ở Hà Nội trở về được bà con họ hàng coi là thành đạt như Hiền, Trí, Nhãn, Hân, Bảo, những người suốt đời cầm bút cầm phấn, từng lên lớp vạn tiết giảng tài hoa đào tạo bồi dưỡng ngàn học trò ưu tú, từng biên soạn dăm ba cuốn sách, vài ngàn bài báo cuốn hút bổ ích. Rõ ràng Thành không sút kém một phân. Đánh giá con người ở phần cốt lõi nhất, xem xét đo đếm toàn bộ giá trị cống hiến cho xã hội, thì Lê Khắc Thành đã thành công!   
Công thành, nhưng danh không toại! Cả đời Thành không thành đạt, nếu xét về khía cạnh người lao động tay chân hay trí óc được thụ hưởng phần thỏa đáng thành quả do chính mình làm ra để đạt tới cuộc sống cá nhân hạnh phúc. Nói nôm na là Lê Khắc Thành làm nhiều mà hưởng chẳng bao nhiêu, cả danh và lợi. Bất công! Cả một đời trằn mình làm việc quần quật, dâng hiến trọn vẹn tâm lực, kết cuộc Thành không tự mình đảm đương mua sắm nổi vài ba tiện ích tối thiểu cho riêng mình. Thành không có nhà cửa, tài sản. Không có cả cái hạnh phúc đơn sơ mà người bình thường ai cũng có. Là một mái ấm, với giọng vợ dịu dàng, tiếng con ríu rít. Thật trớ trêu, cây toán của thế hệ vàng, có thể tính toán tài tình để bày bảo cho phái viên nguyên soái Lâm Bưu thời điểm tối ưu nổ súng trên thuyền buồm cưỡi sóng, mà không tìm được phép giải bài toán hóc búa trong bước ngoặt hiểm nghèo của đời mình! Rõ là dao sắc không gọt được chuôi. Nhà lý luận uyên bác có thể kiến giải đặc điểm u u minh minh của một tôn giáo, có thể kiến nghị ở tầm vĩ mô về hướng đi lên của cả nền kinh tế, văn nghệ, báo chí mà không tìm ra lối thoát hóa giải bế tắc trên đường đời ẩm ương của chính mình!
Có một phần do nhược điểm của tính cách. Thành yêu mình quá lên một chút, thành ra vị kỷ. Đánh giá bản thân cao quá một chút, thành ra tự phụ. Tự tin tới mức ngang ngạnh. Nên khó hòa đồng. Nên hay va vấp. Lại thêm cố chấp. Hành nghề rủi ro hứng chịu đại họa là Thành phản ứng tiêu cực, co lại, cô đơn.
Giá như
Giá như Lê Khắc Thành có được tố chất ưu việt do bẩm sinh thiên phú, chăm chú luyện rèn, có được khả năng hóa giải thử thách khắc nghiệt, để thích ứng và hòa đồng với môi trường hoàn cảnh, như người anh song đôi của mình
Chương 14:  Văn Lương nhân từ noi Đức Tổ
Ai sinh ra Huế dịu dàng?
Đất trời sinh chứ ai sinh! Địa linh sinh nhân kiệt. Dằng dặc dải đất miền Trung nước Việt, lưng dựa Trường Sơn, ngực ưỡn hiên ngang ngàn năm hứng chịu  bão biển Thái Bình Dương, hai trăm năm gan góc đón đánh giặc cướp phương Tây, phương Bắc. Nghệ - Tĩnh - Bình - Trị - Thiên - Nam - Ngãi - Bình - PhúThế kỷ Mười Chín - Hai MươiĐánh giặc giữ nước, cứu nước, bách tính anh hùng nối gót anh hùng bách tính: họ Phan, họ Trần, họ Hồ, họ Võ, họ Lê, họ Nguyễn, họ Ngô, họ Huỳnh, họ PhạmCùng một dòng máu bất khuất, một khí phách cương trực, miền Trung - cây đòn gánh cật tre cứng cáp quảy đôi bồ lịch sử đầu Bắc -  đầu Nam. Nhưng sao kỳ lạ: chung một khí chất đội trời đạp đất trung dũng kiên cường, mà riêng Tính - Cách - Huế bỗng dưng nảy sinh, phát lộ thêm khả năng thích ứng, tố chất mềm dẻo, dịu nhẹ tới không ngờ.
Thể hiện ngay từ giọng nói.
Ta xuôi Nam, quen nghe giọng Nghệ Tĩnh chất phác nặng trịch, hầu như mọi dấu thanh đều ục ịch hiện thành dấu nặng; qua Đèo Ngang chợt ngỡ ngàng nghe giọng Bình Trị Thiên nhẹ bổng tưởng chừng các dấu thanh bỗng dưng biến mất!
Ta ngược Bắc, quen nghe giọng Nam Ngãi bộc trực thô mộc, hầu như mọi nguyên âm đều bị bẻ cong queo không thương tiếc; vượt Đèo Hải Vân lịm người  trong giọng  Huế đằm thắm mịn màng như hát như ru
Ai sinh ra Huế dịu dàng?
Đất Ô Châu, Hóa Châu - từ khi có Huế đến nay, từ ngày công chúa Huyền Trân thân gái dặm trường đi mở cõi - không hề là Đất Hiền! Lịch sử ngàn năm dân tộc Việt, từ  cực bắc Đồng Văn tới cực nam Cà Mau, khoảnh đất thiêng liêng thấm máu nhiều thế hệ người Việt nhất chính là Bình Trị Thiên. Nam - Bắc phân tranh, Đông - Tây đối chọi, đều giáp chiến trên tử địa này. Có vùng đất thiêng nào nghĩa trang tử sĩ nhiều bằng nơi đây! Tất thảy các dòng sông ở Xứ - Huế - Mộng - Mơ cũng đều là chứng tích bi hùng. Sông Gianh hai trăm năm nhuộm máu Trịnh-Nguyễn. Sông Hương phẳng lặng bao phen dậy sóng Nhất giang lưỡng quốc nan phân thuyết/ Tứ nguyệt tam vương triệu bất tường. Sông Bến Hải - nhát dao chia cắt khía giữa hình đất nước. Và nữa: Đò qua Thạch Hãn xin chèo nhẹ/ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm…”
Ngọn lửa giao tranh thù hận tại xứ này, thật diệu kỳ, trùng lai với làn nước mát lành giao lưu văn hóa! Nơi đây, từ bảy trăm năm trước, Văn minh kinh đô Thăng Long hạnh ngộ giao hòa cùng Văn minh kinh thành Đồ Bàn, tương thích, tương hợp, rồi chắt lọc, tiếp nhận, phối ngẫu tương sinh Văn Minh - Thuận - Hóa. Thuận lẽ trời, thuận đạo người mà châu Hóa hóa thành thuần hậu, hóa thành Thuận - Hóa, tức là Xứ Hóa, phát âm điệu đàng dịu mềm đi chút thành Xứ Huế! Xứ Huế khơi nguồn nước hòa hợp đặng dập ngọn lửa chiến tranh, dĩ nhu chế cương, lấy mềm thắng cứng! Vả chăng, dù cho Đòn - Gánh - Lịch - Sử có cứng tới vô cùng thì ở chính ngay điểm tựa cũng phải dẻo phải mềm mới thoát họa gãy đổ diệt vong! Xứ Huế dẻo dai, Người Huế mềm mỏng, Giọng Huế dịu dàng, ấy là nết đất thiêng liêng của Điểm - Tựa - Lịch - Sử Dân - Tộc - Việt.
Bình Trị Thiên là vùng đất tiếp giáp giữa hai miền Nam Bắc. Tùy theo lịch sử giao tranh giao lưu ly hợp Bắc Nam mà đường ranh xê xích lên xuống. Thời nay, Nam Bắc về lại một nhà, đầu thế kỷ 21, mặc nhiên đường ranh là cực nam Thừa Thiên - Huế, Hải Vân sơn đệ nhất hùng quan. Giữa thế kỷ trước, chia cắt đối chọi Đông - Tây, đường ranh hằn lõm thành con sông Bến Hải Quảng Trị. Còn ngược lên xa xưa, thời phân tranh Trịnh Nguyễn thế kỷ 16, 17, theo sấm Trạng Trình, đường ranh nổi cộm thành sống núi Hoành Sơn cực bắc Quảng Bình.
Đối với gia tộc Lê Khắc, đường ranh ly hợp có lẽ nằm ngay ở Đồng Hới, Quảng Bình. Nơi này, còn hơn cả làng quê Văn Xá, rõ ràng là chứng tích bao cuộc ra đời, ra đi, phân ly, hòa hợp của dòng Lê Khắc. Văn Trí, Khôi, Duy và vài chục người em họ Thế 11 Lê Khắc ra đời ở nhà thương Đồng Hới. Hàng chục người trai Lê Khắc chi trưởng và chi thứ là liệt sĩ tử sĩ trên mảnh đất này. Thân phụ của Văn Trí, ngài Văn Phố Lê Khắc Thứ cũng tòng sự lâu nhất ở đây, làm Kinh Lịch Quảng Bình, tri huyện Tuyên Hóa rồi tri phủ Quảng Trạch. Chú Lê Khắc Hy, chú Lê Khắc Lự, anh Lê Khắc Điềm đều từng gánh vác trọng trách của chính phủ kháng Pháp nơi đây.
Nhưng để lại dấu ấn sâu đậm nhất trên đất Đồng Hới chính là chú Lê Khắc Tuệ (1893-1938). Hôm nay, thập niên thứ hai của thế kỷ 21, bà con Lê Khắc thăm lại vùng Lũy Thầy- sông Nhật Lệ, vẫn còn được các lão nông khoát tay chỉ một vùng ruộng đất bao la: đó, đó, đồn điền ông Tuệ, đập nước ông Tuệ, ấp Văn Lương của ông Tuệ
Chú Văn Lương Lê Khắc Tuệ là con trai cả của bà Ba Trần Thị Dung, nhưng  sinh (1893) sau ông Văn Phố 2 năm. Năm 1922, chú Tuệ đã là ông Phán đầu tòa dinh Phó sứ Quảng Bình. Tiêm nhiễm đầu óc văn minh cải cách phương tây, chú Tuệ lập đồn điền Văn Lương 45 mẫu (Trung bộ). Nơi đây xưa kia là làng Lương Yến bị bão lũ cuốn nhà cửa sạch trơn ra biển, dân bỏ đi hết nên ruộng đất hoang hóa. Nhà nước bảo hộ cấp cho ông Phán Tuệ làm đồn điền. Mộ dân lập ấp. Làm thủy lợi, xây đập trữ nước nguồn sẵn tưới ruộng, có cống thông ra Nhật Lệ, lắp cửa chủ động điều tiết nước vào ra. Ấp được sở hữu một đoạn sông Nhật Lệ, mùa cá quây lưới bắt lên vun thành ba đống lớn, một chia chung dân ấp, một cho người đánh bắt, còn một cho chủ ấp. Bão năm Thìn (1928), nước ngập mênh mông, dân chạy lên núi, nhà nào phòng bị sẵn thuyền thì đêm ngủ trong khoang quờ tay qua mạn thuyền đụng phải ngọn tre! Mấy chục gia đình tá điền có mẹ già con dại không chạy kịp, kéo hết lên trú trên tòa lâu đài đồ sộ nền đá xanh 13 bậc, trung tâm đồn điền Văn Lương. Thóc trong lẫm kìn kìn xúc ra, xay, sàng sẩy, không kịp giã, nấu cơm gạo lức ăn với cá mắm, muối mè. Đảm bảo ấm no cho cả trăm người già trẻ tới khi nước rút.          
Chú Tuệ chủ trương tạo dựng đồn điền văn minh nên trong nhà sắm đủ bàn bóng bàn, sân bóng chuyền, bóng rổ, để giờ nghỉ cuối ngày, ngày nghỉ cuối tuần, 9 người con cả gái lẫn trai và thanh niên thanh nữ quanh vùng tập tành thi đấu vui chơi. Đặc biệt 7 ngày Tết nguyên đán thì tổ chức chơi hô hát bài chòi. Dựng 9 chòi bằng tre (gồm 8 chòi cho người chơi và 1 chòi cho nhà cái). Mái chòi tre trang trí rất đẹp, trên nóc cắm cờ hội. Trong chòi treo lồng đèn, có ghế tre để ngồi. Người chơi lần lượt chiếm các chòi. Những người giúp việc cải trang thành lính lệ đi chân đất đội nón lá màu đỏ lăng xăng chạy đi chạy lại bán thẻ bài, trao cờ xéo. Những người còn lại thì đứng ngồi bao quanh 9 cái chòi để xem nhà cái vừa diễn trò vừa hát. Vật chơi là bộ bài có 32 thẻ bài, chia đều cho 10 người, mỗi người 3 quân, 2 quân để lại. Nhà cái (gọi là anh Hiệu) cũng có một bộ thẻ bài như vậy đựng trong ống tre. Sau câu hò mở đầu cuộc chơi, anh Hiệu rút một quân bài trong ống tre và hát vài câu lục bát hoặc song thất lục bát có liên quan đến quân bài trên tay, sau đó xướng tên quân bài rõ to. Người chơi có quân bài trùng tên thì hô to có đây, được trao một lá cờ xéo. Ván chơi kết thúc khi một người chơi có đủ 3 lá cờ liên tục, gọi là tới (thắng cuộc) được nhận quà như lồng đèn, mứt kẹo, hạt dưa... Mỗi lần có người tới, tiếng trống, tiếng chiêng, tiếng kèn lại nổi lên phấn khích
Bài chòi anh cứ đánh chơi
Ruộng vườn để đó có tôi trông chừng
Tiết xuân thôn xóm tưng bừng
Kẻ chào thưa thím người mừng thưa anh
Mấy chú chạy hiệu thiệt lanh
Miệng hô, rút thẻ, loanh quanh chín chòi
Gia đình nhà chủ cũng tham gia lao động. Sáng sáng ông chủ mặc áo dài khăn đóng ngồi xe kéo 3 km ra Đồng Hới làm phận sự, con cái đã vấn sẵn cho 10 điếu thuốc, têm sẵn 10 miếng trầu bỏ trong tráp mang theo. Chiều về, cởi áo dài, lột khăn đóng, phóc lên yên ngựa, cưỡi thủng thẳng bước một rảo thăm đồn điền. Bà chủ Tôn Nữ Thị Du, ái nữ của Đông các đại học sĩ Tôn Thất Trạm và Chánh nhất phẩm Mệnh phụ phu nhân Tạ Thị Quỳnh, cũng xắn quần lội ruộng lầy, có lần bị đỉa bám chân, hoảng hồn la hét, thợ cấy phải bôi nước cốt trầu cho đỉa rụng! Vốn là tiểu thư khuê các mà lam làm tằn tiện hiếm thấy. Chú Tuệ tòng sự nơi nào là thím Du mua nhà nơi đó chứ không chịu ở nhà thuê tháng,tốn tiền lắm, ngoảnh đi ngoảnh lại là hết vèo 30 ngày! Bà chủ đồn điền sắm máy may, bộ đồ chằm nón, bộ đồ làm bánh dành riêng cho con cái. 9 người con, học tiểu học ở Đồng Hới, học trung học ở Huế, rồi học đại học Y và đại học Luật ở Hà Nội hễ nghỉ ở nhà dài ngày là quây quần xúm xít lao động chân tay, chằm nón, may áo, làm bánh kể cả bánh phồng tôm, ép chuối khô mang bỏ mối ở các chợ! Mua cả cá biển, tép moi sản xuất cá khô, nước mắm hàng hóa. Ấy là tập tành cho con cái làm ra sản phẩm, chứ không nhằm kiếm sống, làm giàu. Cả út Trinh (Lê Khắc Thị Trinh, sinh năm 1934), bé lũn cũn chưa tới trường, không học được nghề, thì đòi ra ruộng mót lúa về…”bán cho mẹ nuôi gà vịt! Ấy nhưng ở ruộng về nhà, thay quần áo, là Út trèo lên ngồi trên cổ cha mình, bàn tay nhỏ xíu cầm tóc giật giật, cái miệng xinh xinh kêu ếp ếp bắt chú Tuệ làm xe làm ngựa! Thương con út nên chú chiều. Thương con chi lạ. Mà thương người cũng chi lạ. Chú Tuệ rất thích cái tên Văn Lương; gia tộc mình vốn là dòng Văn từ làng Văn Xá, còn Lương là lương thiện. Con cái bất kể làm nghề gì cũng phải đặt chữ lương lên đầu. Làm thầy thuốc, thầy giáophải là lương y, lương sư. Hai con trai đầu đi học bác sĩ Y khoa và cử nhân Luật khoa để chữa bệnh cứu người, làm thầy cãi giúp dân. Bốn cô con gái hướng nghề sư phạm dạy dỗ trẻ thơ nên người.
Cả nhà còn nhắc mãi cái lần Cậu của mình đâm anh kẻ trộm. Số là chú Tuệ có cái chĩa sắt ba ngạnh dựng trong buồng để phòng xa trộm cướp đột nhập. Thế mà lần ấy trộm viếng thật. Đêm hôm lớ quớ, chú Tuệ cầm đinh ba xỉa một nhát vào chân anh trộm. Nó ôm chân kêu oai oái. Bật đèn lên, thấy có máu chảy. Chú thương quá, cho băng bó rồi bảo đưa anh trộm đi nhà thương Đồng Hới! Từ đó cất cái chĩa vào nhà kho khi soi ếch chài cá thì dùng, thôi không đâm người!
Con cái trách Cậu nhân đạo chi lạ rứa!. Chú cười hiền thanh minh rằng bởi  Cậu giống tính bà nội các con ở Văn Xá ngày trước. Bà thương người lắm, không hề la rầy đánh mắng ai. Nhà Bà nuôi con mèo tam thể rất hay chuột. Một bữa chú (Lê Khắc) Niệm 14 tuổi và chú (Lê Khắc) Tố 13 tuổi tinh quái bắt trộm con mèo làm thịt ăn! Vắng mèo, mới đầu hôm chuột đã quậy tưng. Nghe chuột mẹ chuột con chút chít rúc rích phá bồ lúa, Bà cằn nhằn con mèo đi mô rồi hè. Thế là chú Niệm với chú Tố chia nhau, mỗi chú nấp ở một đầu nhà, thi nhau kêu ngoeo, ngoeo mà họ hàng nhà chuột đâu có sợ. Thế là Bà biết. Bà lầm rầm mấy tiếng tụi quỷ lá lay thiên tặc, thế thôi chứ không đánh mắng chú mô hết. Có một đêm Bà đang ngủ trên sập ngựa thì kẻ trộm lọt vào nhà lục lọi Bà nói nho nhỏ: con ơi tiền cất trong ngăn kéo tê tề, con đừng lấy hết, nhớ để lại một ít cho mệ sáng mai đi chợ Lại lần khác, kẻ trộm kì cạch đào ngạch. Chú Niệm chú Tố cầm hai con dao lăm lăm chực sẵn bên trong. Chú Niệm còn dặn chú Tố: thế nào thằng trộm cũng khua khoắng cái cán xẻng vô dò đường, em đừng có mắc lừa chém ngay. Chờ hắn thò đầu vô anh em ta chặt! Bà nghe thấy thế, vội kêu to đánh động: con ơi con, đừng có dại chun đầu qua lỗ bọn hắn pheng đứt cổ chừKẻ trộm hết hồn vác xẻng huỳnh huỵch chạy trốn, làm chú Niệm chú Tố tiếc hùi hụi!
Ấp Văn Lương đang phát triển đến hồi cực thịnh thì năm 1938, chú Lê Khắc Tuệ chết đột ngột ở tuổi 45 vì tai biến mạch máu não. Thím Tuệ năm ấy mới 43 tuổi, nuốt nước mắt chịu đựng nỗi đau như trái núi đè xuống. Với sự can đảm vô song, người mẹ góa một tay chống chèo gìn giữ gia phong, chăm cả đàn con ăn học tới nơi tới chốn. Cho tới khi con trai cả Lê Khắc Quyến tốt nghiệp bác sĩ Y khoa và con trai thứ Lê Khắc Nhãn xong cử nhân Luật.
Đồn điền Văn Lương gãy cây cột cái, không còn vững chãi như xưa. Thím Tuệ phải về Huế sống với các con. Lâu đài Văn Lương bị tàn phá trong tiêu thổ kháng chiến năm 1946, rồi những năm sau đó bị máy bay Pháp, Mỹ san thành bình địa. Ruộng đất giao lại cho bà con nông dân chia nhau cày cấy làm lấy mà ăn thu hoạch riêng lẻ, không ai phải nộp địa tô hết. Ở Đồng Hới chỉ có người con thứ 7 là Lê Khắc Luyến làm ăn sống với vợ con, không dựa vào nguồn thu nhập từ ấp Văn Lương. Thế mà năm 1955, cải cách ruộng đất, Luyến vẫn bị tù 3 năm. Bấy giờ đang trong thời hạn chuyển quân 300 ngày giữa hai miền, chưa đóng cửa giới tuyến trên sông Bến Hải. Một người bà con Lê Khắc ở Văn Xá, thím Trần Thị Hồng, (vợ chú Lê Khắc Cưỡng, còn gọi là chú Trợ Cưởng, thuộc chi thứ, Lê Đôn chi) là nhân viên của bác sĩ Quyến được cử ra Đồng Hới thăm dò tình hình. Báo hại: thím Hồng cũng bị đoàn ủy thổ cải bắt giam bốn tháng mới thả cho về Huế! Thím ấy bị bắt giam chính tại nơi trước đây chú Trợ Cưởng đang dạy học ở vùng du kích Việt Minh thì bị lính Pháp ruồng bố bắn chết, cho tới nay chưa tìm ra phần mộ!
Bà con Lê Khắc ở Quảng Bình chỉ có hai người lâm nạn trong số mấy trăm ngàn địa chủ, phú nông miền Bắc thời ấy bị đấu tố, tù đày. Lê Khắc Luyến rất hiểu gặp thời thế thế thời phải thế, nên sau khi ra tù vẫn tiếp tục làm công dân tốt của nước Việt Nam dân chủ cọng hòa. Con trai cả, Lê Khắc Duy, sinh năm 1952, đủ 18 tuổi thì tòng quân. Và năm 1972, Duy hi sinh trong chiến tranh phá hoại, trở thành liệt sĩ.
Ấp Văn Lương ngộ nạn gãy đổ rường cột lương đống, nhưng ơn trời phật đã có lương mẫu chống chèo giữ nếp lương gia. Nhờ thế, thiên lương nhân đạo bác ái của thân phụ Lê Khắc Tuệ tiếp tục ăn sâu bén rễ vào cả đàn con 9 người, mà tiêu biểu nhất là trai cả, lương y Lê Khắc Quyến (1915-1977).
Từ nhỏ, Quyến học hành sáng dạ nổi tiếng Đồng Hới. Thầy, bạn hỏi bài nào, dù là Pháp văn hay Việt văn, Lịch sử hay Địa lý, Quyến gấp vở khoanh tay đọc làu làu cả chương, không sai một chữ! Thế mà lần đi thi ri-me(tiểu học), Quyến làm cả nhà hết hồn. Buổi sáng treo bảng, Quyến bỏ trường chạy về nhà, khóc như mưa như gió. Mẹ thương quá, ôm lấy dỗ dành: thôi con ơi, trượt thì sang năm thi lại, con khóc chi hư mắt. Vừa lúc ấy chú Trợ Mân (Lê Khắc Mân) cũng dạy trường ấy hớt hải chạy vô tìm, bế xốc Quyến lên xe kéo vù vù về trường. Thì ra Quyến đậu đầu! Xướng tên thủ khoa, không thấy học trò bước lên lĩnh thưởng, bà đầm chánh chủ khảo bắt chú Trợ Mân về tận nhà đưa Quyến tới. Rồi chính bà đầm to lớn bế xốc trò Quyến nhỏ nhắn trên tay, nâng lên thật cao cho thầy trò toàn trường tung hô rầm trời. Từ năm ấy tới cả chục năm sau, cho tới khi tốt nghiệp bác sĩ Y khoa, Quyến luôn được Nhà nước bảo hộ cấp học bổng.
Bùng nổ kháng chiến toàn quốc 1946, Lê Khắc Quyến gia nhập Quân y Trung bộ. Năm ấy chiến trường trung Trung bộ thiếu thốn vô cùng. Đói cơm, đói thuốc. Thím Tuệ từ Huế gửi thuốc cho Quyến bồi dưỡng và chữa bệnh thì Quyến dành hết cho thương bệnh binh. Giường nằm, mền gối cũng ưu tiên phục vụ thương bệnh binh trước hết, còn bác sĩ, y tá, hộ lý đều nằm chèo queo trên ổ rơm trải dưới đất. Quá kham khổ, mà sức vốn yếu, nên Quyến ốm nặng, phải cắt một lá phổi và về Huế trị bệnh cả năm trời.
Sức khỏe vừa hồi phục, gượng dậy được, bác sĩ Lê Khắc Quyến mở phòng mạch ở 7 Thượng Tứ, thành phố Huế. Thời ấy, Huế có nhiều phòng mạch, có cả phòng mạch của bác sĩ Morue người Pháp, nhưng bệnh nhân cứ đổ dồn tới bác sĩ Quyến. Họ tin vì đoán bệnh chính xác. Họ thêm yên tâm thấy toa thuốc chỉ một hai vị mà hiếm thấy trụ sinh. Tốn ít tiền, không hại sức mà bệnh mau khỏi. Nên ai nấy đều tin. Quá đông khách, người khám phải hẹn trước hoặc tới sớm lấy số thứ tự. Bởi vì bác sĩ Quyến còn bận rộn bao việc khác: giám đốc Y tế Trung phần, giám đốc Bệnh viện trung ương Huế, khoa trưởng Đại học y khoa Huế. Lại chủ trì tờ báo Lành Mạnh chuyên lĩnh vực y tế. Vẫn chưa thôi, bác sĩ Quyến còn mở Nhà thương thí đối diện với phòng mạch bên ngoài cửa Thượng Tứ. Khám bệnh kê đơn cho người nghèo, học trò, thầy tu thì miễn phí. Người nghèo khổ cô đơn nằm chữa bệnh được miễn cả tiền thuốc, tiền phòng, tiền ăn. Người cận nghèo thì chỉ miễn tiền khám, tiền phòng. Còn người khá giả muốn tới đây hưởng thuốc hay thầy giỏi thì phải thanh toán đầy đủ để gánh vác phần chi phí cho người kém may mắn, kể cả tiền nuôi y tá, điều dưỡng viên (một mô hình ưu việt của ngành Y cùng lúc chăm sóc sức khỏe cho người giàu lẫn người nghèo!. Tuyệt đối bác sĩ Quyến không hưởng một chút thù lao lợi nhuận nào từ Nhà thương thí. Có người nghèo bệnh nặng qua đời, bác sĩ cho tiền mua vải liệm và tiền thuê xe chở thi hài về quê. Khi có người ở vùng căn cứ kháng chiến về chữa bệnh hay chữa thương, không phân biệt dân thường hay bộ đội, đều được tận tình săn sóc.
Bác sĩ Quyến dặn người nhà không được khước từ những người cơ nhỡ khuya khoắt bệnh nặng tới nhờ cứu chữa. Có lần bị bọn cướp lợi dụng, đêm khuya đấm cửa kêu bác sĩ ơi mau cứu người nhà quê trúng đạn pháo. Cửa mở, chúng ập vào giơ súng nã tiền, lấy được tiền là rút chứ không gây thương tích cho nạn nhân..Thế nhưng hôm khác bệnh nhân cấp cứu nửa đêm, bác sĩ Quyến vẫn cho mở cửa. Ờ thì mình có thể mất mát thiệt thòi, nhưng làm thầy thuốc phải lấy y đức làm đầu.
Thân mẫu của tổng thống Ngô Đình Diệm và lãnh chúa miền Trung Ngô Đình Cẩn bệnh già đau yếu lâu ngày, ông Cẩn chạy thầy thuốc giỏi khắp nơi, mời cả ngự y tới chữa, bệnh vẫn không thuyên giảm. Cuối cùng, đến hồi nguy kịch, tới tay bác sĩ Quyến thì lành. Từ đó hễ mẹ đau ốm là Cẩn mời Quyến. Tổng thống Ngô Đình Diệm về thăm, thấy thần sắc mẹ, mừng quá, nhã nhặn xin được tri ân đáp đền chút ít, biếu Quyến chiếc xe mercedes choáng lộn để bác sĩ có phương tiện tới giúp mẹ tôi cấp thời…” Quyến từ chối thì Diệm dỗi: nếu bác sĩ không nhận thì từ nay bà cố ốm đau chi cũng không dám phiền nữa Quyến đành nhận chiếc xe xa xỉ phẩmấy, nhưng chỉ dùng mỗi khi tới khám chữa cho nhà Ngô Đình.
Cho tới thời Ngô Đình Cẩn đàn áp Phật giáo, người biểu tình bị lựu đạn cay nằm la liệt, trong đó có rất nhiều sinh viên đại học Y. Cẩn gọi Quyến tới, ra lệnh: không đuợc cho người bị lựu đạn cay nằm nhà thương! Quyến bèn dọn dẹp phòng học ở trường Y cho sinh viên nằm và đích thân Quyến ra tay chữa trị. Cẩn kêu Quyến lên, hạch tội bất tuân thượng lệnh, thì Quyến trả lời: Thưa, cụ cố vấn bảo không cho họ nằm nhà thương thì tôi đã thực hiện, nhưng sinh viên trường y thì tôi phải mở cửa trường cứu các em, vì nhiễm độc khói lựu đạn cay ở Huế chỉ có một mình tôi biết cách chữa trị. Đó là y đức…” Ngô Đình Cẩn hậm hực cho Quyến về.
Rồi tìm cách trị! Lần đó, Cẩn bắt giám đốc các cơ quan Trung phần ký tên vào biên bản đồng ý cho soát xét chùa chiền. Quyến không ký, nại rằng đó thuộc chức trách an ninh của chính quyền, không phải việc của ngành Y. Ngay sau đó, Cẩn cho bắt Quyến giam vào Chín Hầm, nơi giam cầm tử tội, không mấy người sống sót trở về. Thì chính lính gác tù cứu Quyến! Một số có thân nhân từng được bác sĩ chữa bệnh, số còn lại không ai không biết tiếng bác sĩ Quyến lương y nhân từ, nên lén lút mang cho mền chiếu, thức ăn, nước uống, bô dùng tiêu tiểu
Khi chính quyền gia đình trị Ngô Đình sụp đổ, phe nhóm của đại tướng Dương Văn Minh cho xe đến ngay Chín Hầm rước Lê Khắc Quyến. Quyến không đi xe, với lý do tôi biết sức tôi ra ngoài gặp nắng gió đột ngột thì nguy tới tính mạng! Đợi xe quay về rồi, mãi lâu sau Quyến mới lần từng bước ra, và gặp ngay sinh viên Y tới đón, tiếng đồn loang nhanh, cả trăm người kéo tới rước bác sĩ về nhà.
Giữa thời loạn ly, muốn làm người thầy thuốc chuyên tâm trị bệnh cứu người đâu có dễ. Nhất là một lương y nổi tiếng, được lòng dân. Nên hết bị phái này đến  phái kia lôi kéo. Nhưng Quyến không phải là người dành cho chính trị. Có tham gia Hội đồng nhân dân cứu quốc của ai đó nặn lên, nhưng cũng chỉ ba bảy hăm mốt. Hoặc làm 1 trong 16 thành viên của cái gọi là Thượng Hội đồng Quốc gia- cơ quan chấp chánh của Ủy ban Lãnh đạo lâm thời do ba tướng Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh và Trần Thiện Khiêm thành lập năm 1964, thì cái tổ chức èo uột ấy chỉ sống sót nổi trăm ngày! Lại có dạo ông em ruột Lê Khắc Nhãn là cán bộ cấp Vụ ngoài Bắc bí mật luồn vào móc nối Quyến. Nhưng nào ai biết có nên cơm nên cháo gì không? Suốt mấy chục năm rầm rộ trỗi dậy các tổ chức chính trị đủ sức lay trời chuyển đất như Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (1960), Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa Bình Việt Nam (1968) đều không thấy có thành viên là Lê Khắc Quyến. Và sau năm 1975, Bắc Nam thống nhất, Quyến đang làm giám đốc bệnh viện Sùng Chính trang thiết bị hiện đại của người Hoa ở Sài Gòn, vẫn an nhiên tự tại hành nghề y, mà không bị ai trù dập, cũng không ai hỏi han ưu đãi. Vẫn chỉ là bác sĩ Quyến nổi tiếng thương người bệnh, thương dân nghèo. Vẫn nguyên vẹn người con của ấp Văn Lương, lương y của dân chúng.
Sau năm 1975, cũng có đôi ba người Việt hiện sống lưu vong trong tâm thế oán thù dai dẳng từng nói về Lê Khắc Quyến bằng lời chỉ trích hằn học cay chua. Nhưng hầu hết bà con vẫn nhìn nhận đúng bản chất con người bác sĩ Quyến. Sau đây  là những dòng hồi ức của người đồng hương Quế Chi:
Bác sĩ Lê Khắc Quyến cùng vợ và 2 con gái đến ở căn nhà bên cạnh tiệm ăn Lạc Thành được ít tháng thì chuyển qua nhà ông Xì Gà bên kia đường, cạnh nhà Maria Mộng Hoa. Bà con trong xóm đặc biệt quý trọng và mến phục, thường gọi là ông Đốc ( do chữ Pháp Docteur là bác sĩ). Còn bà con vạn đò Thương Bạc hay vạn đò Gia Hội cũng như bà con miệt dưới quê, dưới biển  lên thì có người còn gọi là Quan Đốc. Mỗi lần nghe gọi Quan Đốc, ông cười hiền lành và nói thủng thẳng một giọng Huế rặc:
"Nì! Mệ gọi là bác sĩ được rồi. Tui có làm quan quyền chi mô mà kêu quan.
Mệ già cắp cái nón lá bên hông, chắp hai tay khúm núm thưa:
"Dạ bẩm quan, bác sĩ là chức chi bầy con không biết, quan cho con gọi là quan cho dễ."
Ôn Đốc Quyến, bọn con nít trong xóm chúng tôi thường gọi như vậy khi nhắc đến bác sĩ. Ôn Đốc Quyến, người tầm thước, có thể nói là khá cao lớn so với người Việt Nam bình thường thời đó. Thường ngày, trừ hôm mưa lạnh thì Ôn hay mặc áo sơ mi trắng có túi (vescane?), cụt tay, bỏ ngoài quần tây đen hay xám. Nước da trắng xanh, mặt mày đầy đặn. Tôi cứ nghĩ nếu Ông Đốc để râu chắc sẽ có một hàm râu quai nón đẹp lắm vì tuy khi mô cũng cạo râu sạch sẽ mà chân râu vẫn cứ xanh rì quanh môi miệng. Mặt mũi nghiêm nghị nhưng vẫn có cái nét hiền hòa dễ gần, dễ mến.  Ông nói năng từ tốn, thủng thẳng và rất bình dân. 
Ông Đốc nổi tiếng là một bác sĩ giỏi khắp cả thành phố Huế và các miền phụ cận cũng như tiếng tăm lan đến cả những vùng quê xa xôi hẻo lánh. Nhiều khi người ta dùng đò để chở bệnh nhân từ dưới biển, từ các Quận Huyện hay dùng xe từ Quảng Trị chở bệnh nặng nhờ Quan Đốc cứu chữa. Chính nhờ tài năng và tấm lòng lương y nên ông Đốc đã cứu sống nhiều mạng người trong trường hợp tưởng chừng tuyệt vọng.
Ở Huế thời đó, bác sĩ Lê Khắc Quyến chủ trương một Nguyệt San (?) chuyên về Y Tế mang tên là Lành Mạnh. Nhiều người Quốc Gia cho là ông có tinh thần thiên tả hay thiên Cọng, nhưng cá nhân tôi luôn nghĩ ông là một trí thức yêu nước và có tinh thần dân tộc.
Công lao của ông Quyến với trường Đại học Y khoa Huế rất lớn, vì tuy chỉ là khoa trưởng nhưng đã quy tụ được một đội ngũ giáo sư giỏi trong cả nước,  đã góp phần đào tạo lớp bác sĩ đầu tiên cho Huế, cho toàn miền Trung. Tôi hân hạnh có những người đàn anh hay những người bạn học là học trò của ông và sau này trở thành bác sĩ giỏi, có tiếng khắp nước làm rạng danh trường Y khoa Huế như Đặng Ngọc Hồ, Hà Thúc Như Hỷ, Hoàng Đại May, Võ Văn Đàng, Hoàng Quỳnh, Bùi Hữu Út, Trần Đình Tùng v.v.
Bác sĩ Quyến luôn chứng tỏ tài năng và đức độ đáng kính của một người trí thức thời loạn. Trong bất cứ  cương vị nào: Khoa trưởng Đại học Y khoa Huế, Giám đốc bệnh viện Trung ương Huế, Giám đốc bệnh viện Sùng Chính Sài Gòn, bác sĩ Quyến luôn được sự kính nể của đồng nghiệp, sự thương quý của học trò và nhân viên, sự tri ân của bệnh nhân...
Trong con mắt dân chúng miền Nam, Lê Khắc Quyến là một trí thức yêu nước, một thầy thuốc thương dân, một bậc thầy của ngành Y có công đào tạo bồi dưỡng hàng loạt bác sĩ giỏi Quyến là thế. Không được một chính thể nào thật bụng tin dùng, mà được nhân dân thành ý tin yêu! Cho nên, sau khi Quyến qua đời mấy chục năm, cứ vào dịp Ngày thầy thuốc Việt Nam, bàn luận về y đức, lương y như từ mẫu, các bác sĩ tên tuổi lại nhắc tới tấm gương sáng khám bệnh không lấy tiền của những Đặng Văn Ngữ, Phạm Ngọc Thạch, và Lê Khắc Quyến
Ở làng Văn Xá, cho tới hôm nay, vẫn còn những dấu tích của lương y Lê Khắc Quyến. Sau Hiệp định Genève 1954, hòa bình lập lại, Văn Xá xây trường tiểu học khang trang. Quyến về thăm, thấy làng mình có cơ sở giáo dục mà chưa có cơ sở y tế, liền bỏ tiền xây Trạm xá có văn phòng, phòng sản, nhà công vụ cho y tá, hộ sinh, tường xây mái ngói cao ráo đặt cạnh trường tiểu học. Đặc biệt, có Khoa sản bệnh viện Huế bảo trợ, hễ nẩy sinh sự cố là cho xe cấp cứu về trợ giúp kịp thời. Trạm này hoạt động đều đặn hiệu quả suốt 20 năm, cho tới năm 1975
Còn người làng Văn Xá, không riêng dòng Lê Khắc, thì được bác sĩ Quyến cứu chữa kể tới hàng trăm. Cho tới nay, người già trong làng vẫn nhắc nhớ chuyện ông đốc Quyến trị bệnh cho đứa con trai lên 3 của o Con ở xóm Phủ Thờ. Chỉ là bệnh ghẻ ngứa, nhưng lây lan nhanh gây lở lói khắp tay chân, dùng bao ngiêu thứ thuốc nam đều không thuyên giảm. Phải bế con vào Huế nhờ ông Quyến. Được nằm lại, thầy hay, thuốc hạp, sau một tuần thì các vết lở khô lại, teo dần. O Con mừng ơi là mừng, nhưng lại ngay ngáy lo rằng nằm lâu thêm nữa mình kiếm đâu ra tiền thanh toán viện phí, mà thầy đã bảo là thầy thương thầy chothành ra mình lạm dụng lòng tốt Thế là bồng con trốn về làng! Báo hạibác sĩ quay quắt tìm bệnh nhi! Y tá trực xuê xoa: gần khỏi hẳn nên về. Bác sĩ không yên tâm, nhắn về làng hỏi thăm: cháu bé về rồi sao, bệnh có tái phát không, có gì cần thì tìm tôi ngay! Chuyện này kết thúc rất có hậu: cậu bé ấy là Trần Xuân Anh (1953), 20 năm sau trở thành con rể Lê Khắc (Trần Xuân Anh lấy Lê Thị Mỹ Hạnh là con chú Lê Khắc Nghi, 1928-1998).
Em gái út của Quyến là Lê Khắc Thị Trinh, năm nay đã 78 tuổi, mà khi kể chuyện anh mình vẫn day dứt một điều là Quyến chữa bệnh cho người đời thật mát tay mà sao không cứu giúp được cho người ruột thịt gần gũi nhất và cho chính bản thân vào những phút giây hiểm nghèo sinh tử. Năm 1938, Quyến ở trường Y Hà Nội đang thực tập, chạy chữa trực tiếp cứu sống một bệnh nhân bị tai biến mạch máu não, thì ở Đồng Hới, thân phụ là Lê Khắc Tuệ đứt mạch máu não đột tử ngay tại công sở. Hoặc năm 1944, Quyến bảo vệ xuất sắc luận án trị bệnh thương hàn, thì ở Đồng Hới, người em trai 15 tuổi mắc đúng căn bệnh đó; Quyến hay tin vội mang thuốc đặc trị bổ nhào về mà không kịp cứu em ruột! Hay là, bất lực bó tay với căn bệnh ung thư của chính mình, Quyến qua đời ở tuổi 63!
Một điều an ủi rất lớn là lương y Lê Khắc Quyến được tự tay săn sóc thân mẫu những ngày tháng ốm đau cuối đời. Sáng sớm, trước khi đi làm, bao giờ Quyến cũng giao Trinh hai quả trứng gà la coóc (ngâm nước sôi nửa chín nửa sống) và dặn Mợ dậy thì em đút cho Mợ ăn chút một nghe…” Tới năm 1977, Mợ đuối lắm rồi, vào nằm ở lầu hai Sùng Chính thì anh Quyến phát bệnh ung thư, nằm ở lầu phía trên. Thế mà ngày nào anh Quyến cũng ngồi xe lăn đi thang máy xuống thăm khám cho Mợ. Rồi tới chiều ấy, cúi sát người Mợ, Quyến thốt rụng rời buông thõng ống nghe, bật khóc: hết rồi các em ơi, mạch chết rồi
Trong số những người con truyền nhân nối tiếp phát huy truyền thống đạo cao đức trọng bác ái từ bi của lương y Lê Khắc Quyến, gia tộc thường nhắc tới con trai út Lê Khắc Nhàn (1961), tức là thầy Hằng Trường, tốt nghiệp đại học Mỹ, xuất gia thụ giáo Phật Pháp chính truyền từ Đại lão Hòa thượng Tuyên Hóa. Thầy Hằng Trường là một trong những vị Tăng có uy tín trong cộng đồng người Việt ở nhiều nơi trên thế giớí, phục vụ nhiều cộng đồng đa chủng khắp châu Á, châu Mỹ, châu Âu. Thầy có đường lối tu hành toàn diện, tổng hợp và tân tiến hóa Phật giáo, đem Đạo nhập thế, thuyết giảng nhiều triết thuyết mới có giá trị toàn cầu, thích nghi với trào lưu tiến hóa của nhân loại.
Trinh nói:
- Anh Trí ạ, qua bảy mươi năm rồi mà em vẫn mường tượng rõ mồn một khung cảnh năm xưa sum họp bà con chú bác nhà mình rất đông ở Đồng Hới. Những bữa em chạy lon ton theo Mợ sang chơi bên bác Phủ. Bác rung đùi ngâm thơ, em nghe chẳng hiểu chi, chỉ nhớ có câu nhơn từ noi đức tổ”…
- À, đó là bài thơ Chào xuân Kỷ Mão 1939 của Cậu anh. Mấy câu đầu là: Kìa kìa cọp núp thỏ ra đua/ Văn Xá hừng xuân tiết thuận mùa/ Dạy trẻ nhân từ noi đức tổ…” Đức tổ đây là đạo đức của tổ phụ đó, ngài Văn Sơn Lê Cát hay ngài Văn Xuyên Lê Từ đều nổi tiếng nhân từ. Cho nên con cháu, như ông Văn Phố, ông Văn Lương đều lấy nhân từ làm gốc đối nhân xử thế
- Anh nói đúng, bác Phủ hiền lắm. Mà thương con cháu vô cùng. Em còn nhớ có bữa em sang, thấy bác bệ vệ ngồi trên ghế bành, cho hai anh Ặng và Ịn (Trí và Khôi) ngồi nhún nhảy trên hai đùi - lại có hai chú lính đứng hai bên chờ sẵn bồng hai anh. Rứa mà bác Phủ còn kêu Trinh ơi con vô đây với bác. Còn đùi mô nữa mà bác biểu con vô? Thì đây, hai anh ngồi hai bên, con đứng giữa, bác ôm con vô lòng! Em đành hanh không chịu đứng, mà bắt bác dịch ra sau tựa lưng vào ghế để lấy chỗ cho em phóc lên ngồi chễm chệ giữa hai anh! Tới bữa ăn, em cũng lanh chanh giành chỗ bên bác, báo hại bác không ăn được, mà bác không hề la (mắng). Khi bác ngủ trưa, em cũng sán lại, tay cầm cái nhíp đòi con nhổ tóc bạc (sâu) cho bác nghe! Ờ ờ, con nhổ nhẹ tay đừng làm bác đau, để bác ngủ. Em lần sờ mãi, nhổ được một sợi, khoe rối rít: đây bác ơi! Giọng bác ngái ngủ khê khê: ờ, giỏi. Khi em nhổ được sợi thứ hai thì bác đã thiu thiu, mà em cứ lay vai bắt bác mở mắt xem thành tích của cháu gái. Tới sợi thứ ba thì bác ngủ say, lay không được, em liền cù nách bắt bác dậy coi tóc bạc đây nữa nì! Thế là bác chịu thua, bác xoa đầu em: giỏi quá, giỏi quá, thôi cho con đi chơi, bác hết cả tóc bạc rồi!
Ui chao, kể về bác Phủ, lại nhớ tới các ông chú khác, dù là con Bà Hai, Bà Ba, Bà Tứ hay Bà Năm thì cũng đều thương em là đứa gái út mồ côi cha từ năm lên bốn. Em chơi bời nghịch ngợm, cũng đánh đáo đánh khăng chơi bi đá cầu như đứa con trai, vì em là út gái mà trước em lại là 3 anh trai. Mợ bận rộn coi sóc đồn điền  nên gửi em ăn học ở nhà người thân. Ban đầu là chú Lự. Rồi chú Hy, anh Quyến. Rồi chú Ủy, chú Bằng. Ai cũng thương quý em. Bà nội em thì khỏi nói. Hễ em về Văn Xá là phá như giặc, ra vườn chọc trái ổi, đào, chanh phần thì ăn thỏa thích, phần thì quăng quật chơi thẻ đánh chuyền, mà không hề bị Bà la. Tới bữa thấy Bà nhặt nhạnh xếp vào thúng mấy xấp lá chuối với các loại trái trong vườn, mới biết Bà phải để dành mang ra chợ bán lấy tiền mua thức ăn. Em thương bà nội lắm. Cho tới nay chỉ biết Bà quê Phú Yên, chứ không rõ làng thôn tổng xã. Ông nội cưới Bà giữa lúc Ông chuyển từ Án sát Phú Yên về Kinh đô làm Tá Lý Bộ Lễ. Năm ấy, vội vã ngồi lên võng theo Ông về Huế, Bà chưa đầy 20 tuổi. Sau này chú Hy, rồi anh Quyến nhờ bao người quen ở Phú Yên dò tìm tông tích quê hương bản quán của Bà, mà vẫn không biết đích xác. Bởi bao nhiêu năm chiến tranh loạn lạc
Trong cuộc phân ly, bầu đoàn con cái cháu chắt của chú Tuệ thím Du gần như chia hẳn làm hai mảng lớn tản mác ở đông và tây bán cầu. Chỉ có 3 người con ở lại đất nước, Nhãn và Trinh ở Sài Gòn, Luyến ở Đồng Hới.
Ngay từ ngày đầu thành lập Ban đại diện dòng tộc Lê Khắc, cả 3 anh em Nhãn Luyến Trinh sốt sắng tham gia. Nhãn là ủy viên thường vụ điều hành mọi hoạt động. Luyến làm trưởng ban xây dựng, phải tiền lưng gạo bị từ Đồng Hới vô thường trực tại Huế hàng tháng để chỉ đạo tu sửa Nhà thờ Ông, nhà thờ bà Ba và xây lăng mộ ở Văn Xá. Trinh cũng tham dự đầy đủ mọi cuộc họp bàn và các chuyến về làng xử lý thực địa tại chỗ. Ơn trên tổ tiên run rủi cho Trinh được dự phần cùng với anh Nhãn, với Lê Khắc Hiền con chú Tham Hy, với Ngô Văn Yên con rể chú Thông Niệm, đều là cháu nội Bà Ba, tìm được báu vật gia truyền thiêng liêng. Ấy là dạo đầu năm 1993, Ban đại diện từ Sài Gòn về Văn Xá khảo sát lập dự án tu sửa nhà thờ Ông. Mấy anh em trèo lên xem xét kỹ lưỡng từng cái rui cái mè, phát hiện dưới mái ngói có một ống gỗ to bằng ống bương, dài cả thước, lên nước đen bóng, bên trong cuộn tròn 13 tờ sắc phong các đời vua ban cho cao tổ Lê Khắc. Đây rồi, hiện vật vô giá minh chứng văn nghiệp võ công oanh liệt huy hoàng của tổ tiên ta! Quý hơn vàng! Mấy anh em chia nhau bảo vệ, canh giữ toàn vẹn trên đường chuyển vận từ làng quê về tới Sài Gòn để bắt đầu công việc dịch thuật, trân trọng đưa vào gia phả.
Những ngày ấy, Trinh xăng xái ở lại làng, sáng sáng ra chợ Văn Xá thưởng thức hết các món ngon dân dã thời thơ ấu. Các cố các mẹ quý lắm, cứ bắt ăn thêm bánh trái và xuýt xoa: cháu chắt Ông Tuần đây rồi, cái chợ ni là do Cố Ông lập nên cho dân làng nhờ đây o nờ!
Rồi Trinh về Huế, dạo thăm chốn cũ, đi chợ Đông Ba. Các mệ nắm tay xoa xuýt: Ui chao, em gái ông đốc Quyến đây, anh em giống nhau chi lạ. Ông Quyến khám bịnh mát tay dịu dàng. O Trinh bàn tay cũng đẹp, mềm mà trắng rứa (trời ơi, Trinh là bà già 60 da tay nhăn nheo, đẹp chi nữa mà đẹp!). Nhưng lời các mệ làm Trinh nhớ anh Quyến da diết. Nhớ cái lần ngồi xe hơi bon bon trên đường phố ni đây, anh Quyến bỗng dừng xe, tưởng trở ngại chi, thì thấy anh bước xuống chào hỏi một ông đạp xích lô: Nì, mụ vợ bệnh đỡ chưa? Thứ biệt dược mà tui kê toa có mua được không? Nếu khó quá thì tới tui đổi toa, kê thứ thuốc dễ tìm hơn…”
Cũng chịu cho cái tính thương người của anh. Dạo ở Văn Lương, anh Quyến học ở Hà Nội đi tàu hỏa về thăm nhà, anh bảo rằng Trinh ơi anh có mua cho em con búp bê thiệt đẹp, nhưng rủi cho em là trên tàu anh gặp một con nhỏ nhà ông nớ gầy ốm tong teo cứ dán mắt vào con búp bê, miệng chóp chép như thèm thuồng đòi ăn đòi bú, anh thương quá anh cho nó rồi! Thôi để lần sau ở Hà Nội về anh mua cho Trinh con búp bê khác. Nhưng làm chi có lần sau nữa mà chờ! Bởi năm ấy Cậu đột tử. Anh Quyến cứ xin Mợ cho con nghỉ học đi làm thay Cậu nuôi các em. Chị Nhơn bấy giờ mới tốt nghiệp sư phạm, phải giành vị thế chim đầu đàn, dàn xếp mãi anh Quyến mới chịu ra Hà Nội học tiếp cho thành tài. Còn đâu nữa, búp bê cho em Trinh. Cũng làm chi còn nữa, thời cực thịnh Văn Lương ấp.   
Sau thống nhất đất nước, Trinh về ở Đồng Hới một thời gian. Đi thăm khắp nơi xưa, Văn Lương, Xuân Dục (Cộn). Thăm cả khu ruộng lúa năm nào Trinh đi học về gặp trận càn, sợ bọn tây rạch mặt hãm hại đàn bà con gái, phải bốc bùn trét mặt mũi chân tay lem luốc rồi trốn chui nhủi. Rồi tiếp đó, cứ mỗi khi có dịp trở về chốn cũ, Trinh lại tha thẩn dạo thăm từ vòng ngoài tới vòng trong Văn Lương ấp ngày xưa. Theo mỗi bước chân, cảnh tượng bảy chục năm trước hiện về. Này là cánh đồng sau vụ gặt gốc rạ lởm chởm. Này là vạt ruộng bé Trinh ngồi xổm bên trẻ chăn trâu hí húi nướng khoai nướng bắp. Cả cá cả tôm, con gì cũng nướng ăn. Gà vịt để cả lông, bốc bùn trét kín, vùi giữa đống trấu cháy ngút, chờ chín khều ra đập vỡ lớp đất, lộ thịt nướng vàng ươm thơm phức, chấm muối ăn no luôn. Này là khu vườn mênh mông bao quanh nhà, buổi trưa trốn mợ ra tìm cái ăn. Bé Trinh cứ giả bộ nằm im, chờ Mợ ngủ say thì lén ngồi dậy, đắp cái mền trên cái gối ôm đặt dọc như bên trong có người nằm, rồi bốc một nắm muối trắng nhót ra vườn. Này cà chua, me, ổi non. Này ớt chưa rụng rốn (không cay mô mà sợ). Này quýt non lúc lỉu bằng đầu ngón tay, vỏ cay xè Thứ chi cũng chấm muối nhai rau ráu, bụng no kềnh. Mợ ra tìm, bắt được, không đánh, chỉ la trời: bộ Mợ bỏ đói con hay sao mà con ăn tạp rứa Trinh ơi là Trinh!
Thương nhất là cái nền nhà xưa. Nay trơ trụi khung đất cao vồ vộ. Trinh có thể nhớ vanh vách, chỉ rành rọt. Đây, xưa là khu xay lúa giã gạo, xếp một dãy các loại cối giã gạo đạp chân, cối giã chày đâm tay, chày vồ. Các anh các chị trong đồn điền vừa xay giã vừa hát hò đối đáp. Rồi con nuôi của Mợ là chị Thảo bưng ra một nồi chè nếp thơm lựng mùi gừng, ai nấy sụp soạp húp cho ấm bụng trước khi về nhà. Đây, chỗ để mấy chị em trong nhà ngồi chằm nón, thêu thùa, tập tành lao động. Phía trên, cái gác xép chứa đồ cũ là nơi anh Nhãn từng bị cấm túc. Anh ấy thích xem phim quá, rủ bạn trốn giờ tự học trèo tường khu nội trú trường Khải Định ở Huế kéo nhau vào rạp. Trường mời phụ huynh tới hài tội! Cậu xử anh Nhãn: 4 chủ nhật cấm túc, ở Huế về Đồng Hới là ôm chồng sách vở trèo lên gác xép. Đồ ăn thức uống dòng dây kéo gióng đưa lên. Rồi giao anh Nhãn chỉ tiêu từ nay xếp hạng trong lớp phải nằm trong tốp 3. Thuốc đắng dã tật là thế. Còn đây là khu học tập của cả bầy con, tối nào Cậu cũng giở bài làm của từng đứa ra kiểm tra, rồi giảng chỗ làm sai, rồi ra bài làm hôm sau. Ba chị gái của Trinh, này Nhơn, này Ngãi, này Lễ, xinh đẹp mảnh mai như ba nàng tiên, lại học rất chăm, rất giỏi. Cả bốn gái cưng, Nhơn Ngãi Lễ Trinh, lớn lên đều làm cô giáo như mẹ hiền.
Bước ra sân, Trinh tần ngần ngoái đầu nhìn sang mé trái. Đúng, chỗ này đây, thuở yên hàn, anh Quyến dự định cất dãy nhà dài 10 phòng. Ở giữa là phòng  Cậu Mợ. Hai bên, 5 phòng dành cho con trai, 4 phòng  bầy con gái. Anh Quyến ao ước mai sau dù anh chị em mình ai ai sinh sống nơi đâu cũng hẹn ngày Giỗ Tết đem con cháu quay về đoàn tụ đại gia đình.
Ước vọng tan tành thành ảo vọng.
Cái mai sau của anh Quyến chính là hôm nay đây. Mà chỉ còn Luyến và Trinh, thay mặt anh chị em, về thăm lại khu vườn thân thương, trầm ngâm tư lự đứng trên nền đất u hoài xưa là lâu đài Văn Lương. Thưa với vong linh thân phụ Lê Khắc Tuệ và thân mẫu Tôn Nữ Thị Du rằng tất thảy anh chị em chúng con đã tuân theo ý nguyện bậc sinh thành, trọn đời làm lương y, lương sư, lương dân, nối tiếp song thân làm rạng danh Văn Lương ấp.
Chương 15:  Ngọc giũa mài càng sáng
Bà Tứ Nguyễn Khoa Thị Liên có 14 cháu nội gái, thì đồng loạt cả 14 người có họ và chữ lót y hệt như nhau, đều là Lê Khắc Ngọc…”. Chỉ khác nhau ở một chữ tên! Trưởng phái Văn Trí thường gọi vui 14 bà em con chú ruột của mình là 14 hạt ngọc long lanh Nhà Bà Tứ. Chứ còn gì nữa: Bà Tứ vốn trân quý con cháu hơn mọi báu vật trên đời!
Con trai cả của Bà Tứ, chú Lê Khắc Thái, có 3 con gái là Lê Khắc Ngọc Anh, Ngọc Bích, Ngọc Minh. Nhà chú thứ hai, Lê Khắc Tưởng, cũng có 3: Lê Khắc Ngọc Giao, Ngọc Khuê, Ngọc Mai. Chú thứ ba, Lê Khắc Nguyện có 4 con gái: Lê Khắc Ngọc Diện, Ngọc Bội, Ngọc Châu, Ngọc Trang. Và nhà chú út trai Lê Khắc Ủy cũng có 4: Lê Khắc Ngọc Quỳnh, Ngọc Cầu, Ngọc Túy, Ngọc Diệp.
Năm 1893, vị đường quan Nguyễn Khoa Huệ và bà chánh thất Lê Thị Huyền  thuận kết thân gia với Gia nghị đại phu Lê Cát và Mạng phụ phu nhân Trần Thị Khẩn, gả tiểu thư khuê các Nguyễn Khoa Thị Liên cho quan Thị lang Bộ Hình Lê Từ cưới về làm chánh thất! Môn đăng hộ đối vọng tộc danh gia!  Sau hôn lễ trọng thể, hợp cẩn thành thân rồi mới biết té ra tân lang Lê Từ 38 tuổi từng có bốn  bà vợ  cưới hỏi hẳn hoi, hiện tại chung sống với hai bà, Bà Hai Hoàng Thị Huệ 30 tuổi và Bà Ba Trần Thị Dung 21 tuổi, đều là kế thất. Và tân nương Nguyễn Khoa Thị Liên 19 tuổi cũng chính danh là kế thất, kêu bằng Bà Tứ!
Ván đã đóng thuyền! Sau những câu giãi bày nỉ non của tân lang cộng thêm bao lời khuyên nhủ ân cần của quan viên hai họ, tân nương dần dà đổi giận làm vui. Nhưng Bà sau khăng khăng ra điều kiện không ở chung khu nhà với Ông và hai Bà trước. Mà cương quyết cất nhà ở riêng. Riêng, nghĩa là nhà Ông nhà Bà phải cách xa nhau. Khi Ông Tuần về hưu, Bà Tứ xây cơ ngơi ở gần chợ Văn Xá và sông Văn Xá, cách trung tâm bề thế của Ông tới vài phút đi bộ lững thững. Nghĩa là ngó bộ xa xa vậy thôi! Không biết Ông Tuần có chủ tâm gia tăng tần suất mật độ tới lui gần gụi để đáp đền chi đó hay không, chỉ biết rằng trong 24 năm từ 1895 tới 1918, Bà Tứ đã sinh ra cho Ông Tuần tới 10 người con, tròn trặn 5 gái và 5 trai.
Bà Tứ Nguyễn Khoa Thị Liên vốn dòng gia giáo, được học hành thông thạo cả quốc ngữ và chữ Nho, thích đọc sách, thuộc lòng nhiều kinh sử. Tính Bà nhân hậu, nhưng ưng lý lẽ rạch ròi, phải trái phân minh. Bà thương con mà dạy rất nghiêm, bắt vào khuôn phép, khi con cái có lỗi lầm thì giảng giải cặn kẽ, có khi dẫn cả Bộ Luật Hồng Đức nhà Lê ra mà luận điều phải trái. Đại gia đình Nguyễn Khoa theo đạo Phật, bà Thị Liên có pháp danh là Đồng Phương. Giáo dục đạo đức của nhà Phật, Bà răn dạy con cháu Hiếu tâm - hiếu hạnh là cội nguồn của đạo làm người:
Cây có gốc mới trổ cành xanh lá
Nước có nguồn mới bể cả sông sâu
Người ta nguồn gốc từ đâu?
Có tổ tiên trước rồi sau có mình!
Bà chú tâm khuyến khích cháu chắt học giỏi. Hàng tháng, các cháu nội ngoại được cha mẹ đưa tới trình Bà giấy khen hoặc bằng cấp và đều sung sướng được Bà trao phần thưởng xứng đáng. Nhờ thế, con cái của Bà Tứ đều được rèn giũa nên người hiếu hạnh. Nhất là 5 ông con trai thì đều học hành thành đạt.
Chú Lê Khắc Thái (1895-1981) là người con trưởng đặc biệt hiếu thảo. Ngay sau khi đậu bằng Thành Chung (Diplôme - trung học đệ nhất cấp), chú Thái đi làm ở Quảng Trị để phụ giúp mẹ nuôi các em. Trong nhà thường nuôi 3,4 em hoặc cháu ruột ăn học. Cả hai bà vợ, thím Công Tôn Nữ Đinh Khoa và thím Công Tôn Nữ Xích Văn, đều mất sớm, khi chú Thái mới ngoài 40 tuổi, nhưng chú không tục huyền mà ở vậy chăm sóc mẹ và nuôi dạy 4 người con. Khi đã nghỉ hưu, năm 1957, chú Thái còn thi lấy bằng ngành dược do bác sĩ Lê Khắc Quyến, giám đốc Y tế Trung phần cấp cho, mở hiệu thuốc Tây ở Tây Lộc trong Thành nội Huế, thêm chút thu nhập phụng dưỡng mẹ già và phụ giúp con cái. Chú Thái là người chí thành chí tâm theo Phật giáo, từng làm ở tỉnh hội Phật giáo Quảng Trị và Khuôn trưởng Phật giáo khuôn An Lạc Tây Lộc Huế. Hai người anh trai của chú Thái, con Bà Hai là Lê Khắc Thứ (1891-1946) và con Bà Ba là Lê Khắc Tuệ (1893-1938) đều đi làm ở tỉnh xa và mất sớm, nên chú Thái một vai gánh vác việc Họ. Chú hàng chục năm làm Trưởng Phái Lê Khắc. Ngay cả khi già yếu, rời làng quê vào Sài Gòn ở với con trưởng Lê Khắc Huề, rồi ra Đà Nẵng ở nhà con gái Lê Khắc Ngọc Bích, thì chú Thái vẫn là bậc trưởng thượng cẩn trọng cất giữ bảo quản các tư liệu gia phả dòng họ để bàn giao cho con cháu sau này.
Chú Lê Khắc Tưởng (1903-1984) là người con trai hiển đạt nhất của Trung phụng Đại phu Lê Từ. 16 tuổi đã dự kỳ thi Nho học cuối cùng ở Việt Nam vào thời Khải Định. Cùng lúc thụ hưởng cả hai nền văn hóa giáo dục của Á Đông và Âu Tây. Thuộc làu lịch sử và thông thạo ngôn ngữ cả hai quốc gia Trung Hoa và Pháp. Tri thức uyên thâm, tư tưởng phóng khoáng, chỉ làm theo suy nghĩ độc lập của mình sau khi chiêm ngẫm, mà không tin tưởng và tuân thủ tuyệt đối bất cứ một điều luật ràng buộc khắt khe của tôn giáo hoặc hệ tư tưởng nào. Chú Tưởng có lối sống thường nhật điều độ tới cực đoan. Đặt lệ ba ngày tắm một lần, dù người đang ốm hay trời rét tới mấy cũng không thay đổi. Đặt lệ tập thể dục hít đất hàng ngày, tập thật đều không bỏ buổi nào nhưng sợ nền nhà dơ nên leo lên phản tập… “hít gỗ. Lại còn thanh minh với con cái: Cậu tự biết mình sức yếu mà tính lười nhác nên đã dụng công suy nghĩ tìm ra một lối sống thích hợp, để đủ sức khỏe làm thật tốt mọi công việc - mà cậu vẫn giữ cho mình cái quyềnlười nhác (!) Phải chăng lối sống đặc thù đó là bí quyết giúp chú tiến nhanh trên hoạn lộ? Mới 27 tuổi, chú Lê Khắc Tưởng đã làm tri huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An. Thời Pháp thuộc, phụng sự Nam triều, chú Tưởng lên tới chức Tham tri Bộ Học (tùng nhị phẩm, ngang với phẩm hàm của thân phụ, Trung phụng đại phu Lê Từ). Thời Việt Nam cộng hòa, chú Tưởng lại làm Giám đốc tài chính Trung phần. Ra làm quan từ  trẻ, sau đó lần lượt nhận những chức vụ tương đối lớn, cộng thêm với vai vế cao về thứ bậc trong gia đình (Phòng Bà Tứ) cũng như bên phía nhạc gia dòng lớn Hoàng tộc, nên trong những buổi cúng kỵ, họp mặt gia đình bà con quen biết, chú Tưởng thường được mời ngồi ở giữa, và mọi người có thói quen vây quanh bẩm cụ, bẩm cụ hỏi han đủ chuyện! Nhờ thông minh, đọc sách nhiều, hiểu biết rộng, chú Tưởng cứ thế mà thao thao bất tuyệt chuyện kim cổ đông tây, kể cả khi ở bên nhạc gia cũng không chút e dè mà còn có đôi phần kẻ cả- như một vài bà con nhận xét! Ấy thế nhưng chú Tưởng lại là người rất tốt bụng, thường hay giúp đỡ bà con gặp khó khăn, nên được quý mến thực lòng. Và phẩm chất đáng quý nhất ở chú Tưởng là khí khái chí công vô tư. Khi làm giám đốc Tài chính Trung phần dưới thời Quốc trưởng Bảo Đại, chú đã giúp cho nhiều người thực tài du học bằng tiền công, nhưng tới lượt 2 con mình thì dứt khoát tự túc bằng tiền nhà. Mặc dù lương cao, nhưng không hà lạm công quỹ, không tư túi nên khi nghỉ hưu gia sản chẳng có gì nhiều, chỉ đủ nuôi 6 người con 3 gái 3 trai ăn học nên người. Riêng ý tưởng thực thi cách sống hợp lý khôn ngoan, giữ gìn sức khỏe để làm việc…” thì quả là chú thành công. Bẩm sinh sức yếu, vậy mà qua bao gian truân biến cố do chính trường xáo động và chiến tranh, chú Lê Khắc Tưởng vẫn hoàn thành nghĩa vụ đối với xã hội, làm tròn bổn phận với con cái, còn bản thân mình thì đã nhẹ nhàng rút lui khỏi chốn quan trường (dưới thời Ngô Đình Diệm) về an hưởng tuổi già. Cho tới lúc qua đời ở tuổi 82 vì già yếu, chú Tưởng không phải nằm bệnh viện lấy một ngày!
Em trai kề của chú Tưởng, chú Lê Khắc Nguyện (1904-1992), là nhà sư phạm tiêu biểu nhất của Thế thứ 10 Lê Khắc. Sinh năm 1904, tốt nghiệp Cao đẳng sư phạm Đông Dương, chú Nguyện được bổ làm giáo sư trường Collège Vinh (Quốc học Vinh). 50 năm bền bỉ theo nghề dạy học qua bao thể chế. Ở Nghệ An thời thuộc Pháp. Ở Hội An thời Việt Nam độc lập 1945-1946. Ở vùng tự do Liên khu 5 thời kháng Pháp 1947-1954. Ở Huế, Nha Trang trào Ngô Đình Diệm. Ở Sài Gòn trào Nguyễn Văn Thiệu Chú Nguyện tới năm 75 tuổi mới thôi công việc dạy học. Có tới 6 người con của chú theo nghề cao quý ấy. Hầu hết làm việc ở phía Nam. Chỉ có con trai thứ hai là Lê Khắc Bảo tập kết ra Bắc năm 1955, dạy toán lừng danh ở đại học sư phạm Hà Nội, sau năm 1975 chuyển vào Sài Gòn biên soạn sách giáo khoa, làm phó tổng biên tập Nhà xuất bản Giáo dục.
Chú thứ tư, Lê Khắc Nhã (1907-1979), không rõ vì sao không lập gia đình. Chú làm công chức, rất sốt sắng tham gia việc Họ. Năm 1964, chính chú Nhã đứng ra chỉ đạo thi công đúc đồng loạt 300 tấm bia mộ Phái Lê Khắc. Năm 1945, Văn Trí cùng với anh Tình và chị Mộc đã trọ học nửa năm tại nhà chú Nhã trong thành nội Huế. Nhà rất rộng, mà chú đi làm suốt ngày, tối khuya mới về, ăn uống ở đâu không rõ, nên ba anh chị em Văn Trí tha hồ tự tung tự tác.
Chú út Lê Khắc Ủy (1911-1982), từ những năm tiểu học, đã được chú Thái nuôi ăn học ở Quảng Trị. Trò Ủy chuyên cần, luôn được biểu dương gương mẫu. Thi đậu thủ khoa kỳ thi Primaire theo chương trình Pháp, được ông chánh chủ khảo xuống chỗ đám đông học sinh, bồng xốc lên cho các bạn noi gương. Chú Ủy là người con hiếu thảo hiếm có. Năm 1953, đang công tác ở Nha Trang công việc thuận lợi, gia đình đầm ấm hưởng thụ khí hậu biển tốt lành, con cái đều học hành tấn tới, thì chú Ủy cương quyết xin chuyển về Huế để sống cận kề thăm nom cho mẹ già sống vui tuổi 80. Một số thuộc cấp của chú Ủy ở Nha ngoại viện Huế, sau 60 năm còn nhớ như in những ấn tượng đẹp về sếp Lê Khắc Ủy:  tánh tình điềm đạm, bình dân, ít nói, chỉ nói những điều thật cần thiết, giải quyết việc công dễ dàng, mau lẹ, làm gì tốt được cho nhân viên tòng sự là làm ngay, coi cấp dưới như em, như cháu, không cao đạo, hách dịch và làm tổn thương ai hết. Vốn người cao ráo, ông có bước đi dài, chỉ nhìn đường đi, không dòm ngó nhân viên đề bắt bẻ. Về trang phục thì cả Nha đều tấm tắc khen bà Ủy chăm sóc chỉn chu cái mặc cho chồng: Ông luôn luôn mặc complet rất sang và lịch sự, sơ-mi ủi thẳng ro, cravate hẳn hoi và màu sắc phù hợp với áo!.... Thanh liêm mẫu mực, chú Ủy tòng nhiệm nơi nào cũng được cộng sự và thuộc cấp tin yêu, mến phục. Không ít người được chú Ủy giúp đỡ tận tình, hoàn thành sự vụ, bèn sắm sanh chút đỉnh tạ ơn, thì bị chú la cho. Chú rất trân trọng lời tri ân chân chất của đương sự, nhưng quà cáp thì không nhận mảy may, dù chỉ vài ký trái cây. Chức vụ của chú Ủy không phải thấp, nhưng đồng lương khiêm tốn; vợ chồng con gái Ngọc Cầu - Tôn Thất Kiên công tác tại Quy Nhơn, thường xuyên thăm viếng lo lắng và giúp đỡ, vì các em của Ngọc Cầu còn tuổi đi học. Cho tới ngày về hưu, chú Ủy vẫn không tạo lập được cho riêng mình một ngôi nhà!
Với gia đình ông chú Lê Khắc Ủy thì Văn Trí may mắn có nhiều cơ hội đồng cảm gắn bó. Mặc dù Trí sinh sau đẻ muộn, và mãi sau ba chục năm tha phương lênh đênh, tới tháng 7-1975 mới hạnh ngộ diện kiến ông chú tại Sài Gòn.
Dịp ấy, Trí vào thăm anh chị Trần Văn Kinh, Lê Khắc Bích Hà, nhà số 284/28 Trương Minh Giảng, quận Ba. Ở liền kề giáp vách chung tường, số 284/26, chính là tư gia chú Lê Khắc Ủy - ngôi nhà hai tầng trong hẻm do các con của chú thím tạo dựng.
Văn Trí hớn hở đi cùng anh Kinh chị Hà, mở cánh cửa ngách giữa hai nhà 26 và 28, sang chào chú thím, sung sướng pha chút tò mò ngắm nhìn ông chú hiền hậu nho nhã đúng như cái tên Lê Khắc Ủy, sánh cùng bà thím dịu dàng, đằm thắm Tôn Nữ Cẩm Dung. Ngày xa Huế 1946, Trí mới lên 9, nên vào thời khắc đoàn tụ đại tộc này, cố mường tượng mối tình thơ mộng của đôi trai thanh gái lịch đất thần kinh hơn bốn mươi năm trước, có phải  y như câu thơ lãng mạn ngày xưa: Cô Tôn Nữ Huế cười trong nón/ Chàng trai Lê Khắc mộng đuốc hoa   
Và rồi may mắn không ngờ, Trí đã được đọc thiên hồi ký Nàng Tôn nữ tuyệt vời của tác giả Lê Khắc Ủy. Những dòng tươi rói như làm sống lại cái thuở ban đầu lưu luyến ấy.
“… Chúng tôi, những chàng trai vừa tốt nghiệp ở Hà Nội vào nhậm chức ở tòa Khâm Sứ, cứ thắc mắc hỏi nhau sao mà hiếm thấy bóng giai nhân Huế trên đường phố. Không lẽ con gái Huế suốt ngày ru rú trong khuê phòng, cung cấm?
Cho tới ngày ấy, tôi dạo thăm Chợ phiên tọa lạc bên hữu ngạn Hương giang: Huế, phiên chợ mừng xuân. Những dãy hàng phô bày tinh hoa Huế lôi kéo khách tham quan. Này là gian hàng bánh mứt đủ màu đủ kiểu. Này là gian hàng sách bày biện khéo léo. Lại nữa, khu chợ hoa, hoa thật, hoa vải đua chen sắc màu rực rỡ. Song, cuốn hút nhất đối với những chàng công chức trai trẻ chúng tôi là các thiếu nữ xinh tươi e lệ bên các quầy hàng.
Lần bước theo tiếng nhạc, đến gian hàng nằm giữa khuôn viên: Vườn hoa Tôn Nữ. Ôi chao là khâm phục những tác phẩm thủ công. Đủ loài hoa được tỉa bằng trái đu đủ. Hoa hồng phơn phớt vàng cam, vàng tươi, tím ngát, như tỏa hương vị ngây ngất. Chùm hoa bưởi trắng tinh khiết nổi bật  đài hoa màu lục nâng niu nhụy hoa vàng nhạt nom như thật. Đóa thược dược màu cánh sen mảnh mai sinh động như hoa thật. Rồi thủy tiên, ngọc lan, hoa nào cũng đẹp. Mà tất cả đều là mứt!
Kế đó là là các loại bánh lạ mắt: bánh kê vàng mỏng, bánh rơm thơm mùi khoai được thái nhỏ cuốn thành những vòng tròn dễ thương với những hạt đường tí xíu lấm tấm.
Lại một mâm quả sắp theo hình lưỡng long chầu nguyệt và phụng loan hòa hợp. Những con rồng uốn khúc, con phượng xòe cánh khéo léo kết bằng các thứ trái cây bốn mùa xứ Huế.
Bước lên nữa là tới gian hàng đan thêu: áo gối, khăn bànĐặc biệt nhất là một bức tranh lớn, thêu tỉ mỉ hoạt cảnh đám cưới cổ truyền
- Thưa, tất cả làm bằng tay
Giọng thiếu nữ nhẹ như gió thoảng. Tôi vội đáp:
- Dạ, cám ơn.
Chỉ nhìn nhau một thoángMột thoáng bối rối. Bắt gặp ánh mắt của tôi, nàng e ấp nhìn sang phía khác. Tôi bồi hồiTừ giây phút ấy, tôi không quan tâm ngắm nghía đặc sản trưng bày nữa, mà loay hoay rối rít tìm cách dò bằng được tên tuổi cùng nơi ở của nàng.
Thật may, dòng Nguyễn Khoa bên mẹ tôi có người làm dâu bên phủ Tuy Lý Vương. Tôi tìm cách thuyết phục mẹ tôi nhờ người mai mối. Lo lắng trằn trọc nhiều đêm. Không biết cậu phán quèn tòa Khâm là tôi có địch nổi bao ông tham, ông huyện đang vây vo ngấp nghé bên nhà nàng? Nàng có để ý tôi không, chàng trai có đôi mắt dại khờ, đắm đuối giữa chợ phiên? Tôi đâu có gì xuất sắc để lọt vào mắt xanh, để có diễm phúc làm chủ đóa hoa sắc hương trọn vẹn?
Căn nhà bên xóm Ngự Viên đã trở thành tổ ấm của chúng tôi. Nàng có tất cả những điều tôi ao ước: đức tính hiền từ đôn hậu đảm đang, cái nhìn âu yếm hút hồn, bữa cơm ấm cúng, chiếc áo gối thêu hoa xinh xắn. Rồi đứa con gái đầu lòng, Ngọc Quỳnh, chào đời năm 1937. Rồi cứ hai năm chúng tôi lại đón thêm một gương mặt dễ thương bụ bẫm: Ngọc Cầu, Quyền, Ngọc Túy, Huy, Bình, Ngọc Diệp.
Thời kỳ 1945-1946 biến động Những ngày tản cư thiếu thốn gian nan, lúc Niêm Phò, khi Mỹ Xá. Tôi đi công tác theo cơ quan kháng chiến, nàng phải lo toan tất cả. Có lúc hiểm nguy mạng sống ngàn cân treo sợi tóc…”
Giây phút hiểm nghèo ấy, sau này được Lê Khắc Ngọc Cầu ghi lại:
“… Giữa năm 1946, một hôm Ba tôi đi làm về, báo cho biết là Ba phải theo cơ quan đi làm việc ở Quảng Trị, không về nhà thường xuyên được. Đến cuối năm ấy gia đình tôi phải tản cư về Mỹ Xá là làng của một người Dì bà con. Me tôi có đem theo một người giúp việc là O Cháu , người cao lớn khỏe mạnh để giữ em tôi. Một hôm, mấy người ngoài Đình làng chạy vào la lớn: Tây tới! Tây tới! Phải chạy trốn qua làng bên. Mẹ tôi hoảng hồn, chỉ kịp gọi đủ chúng tôi và bỏ áo quần vào mấy xách tay nhỏ cho O Cháu, bảo O dẫn em Túy, rồi Mẹ tôi một tay bồng em Huy (mới gần đầy năm), tay kia cầm xách áo quần. Chúng tôi nhanh chân chạy theo! Đến một khúc sông, thấy xa xa người bơi bì bõm. Mẹ tôi liền bước xuống, và tõm. Không còn thấy Mẹ và em tôi đâu cả! Chỉ thấy cái mũ của em trôi bồng bềnh! Chị Quỳnh với tôi chỉ biết khóc la, kêu cứu. Nhưng mọi người đang táo tác chạy giặc Vài phút trôi qua, chúng tôi hồn vía lên mây thì thấy Ba tôi mặc bộ áo dài lương đen phăm phăm chạy tới. Chúng tôi la khóc, chỉ tay xuống sông, kêu líu lưỡi: Me!!. Lập tức, Ba tôi nhảy ngay xuống sông và bơi ra giữa dòng, bồng được em tôi ném ngay lên bờ cỏ cho chúng tôi, rồi bồng tiếp Mẹ tôi lên! Trời ơi! Chúng tôi hú hồn, nước mắt chảy xuống miệng cười. Ba tôi bồng ngược Me và em tôi để xốc nước ra
Xách tay đựng quần áo đã trôi theo dòng nước nên đành lấy áo đầm của em gái mặc cho em trai tôi! Lúc bấy giờ cả nhà mới hoàn hồn hỏi tại sao Ba tôi có mặt ngay thời điểm đó. Ba tôi cho biết là Nhà nước cho về mấy ngày đưa vợ con đi tản cư. Đúng lúc Me tôi gặp nạn thì Ba tôi kịp chạy đến! Tôi nghĩ: Trời Phật, Tổ Tiên đã chỉ đường cho Ba tôi mới có sự trùng hợp ngẫu nhiên như thế!...
... Niên khóa 1950-1951, Trung học Đồng Khánh, trường Nữ lớn nhất miền Trung, chỉ mở ba lớp Đệ Thất (lớp 6), học sinh ở Huế cùng các tỉnh miền Trung dự thi rất đông nên tuyển chọn khó lắm. Thế mà cả Ngọc Quỳnh (1937) và Ngọc Cầu (1939) cùng trúng tuyển! Chú thím Ủy rất vui, đặt may hai bộ áo dài lụa trắng, cho hai ả tố nga đầu lòng vào năm học mới.
Năm 1957, hai chị em cùng đậu Tú Tài II.
Thời điểm ấy tại Huế mới mở vài phân khoa Đại học. Những năm học đệ nhị cấp tại Quốc Học Huế, Ngọc Cầu theo ban Khoa học, sở thích là Toán-Lý Hóa, mơ ước theo ngành đại học Dược. Nhưng khó thay Huế không mở phân khoa này. Nên Ngọc Cầu ghi danh phân khoa Luật, ngành học có sự hấp dẫn đặc biệt bởi các giáo sư Luật nức tiếng dạy giỏi. Thêm vào đó, vị hôn phu của Ngọc Cầu là thầy cử nhân Luật Tôn Thất Kiên!
Lễ thành hôn của Lê Khắc Ngọc Cầu - Tôn Thất Kiên được tổ chức đầu năm 1958 và cuối năm đó trưởng nam Tôn Thất Thịnh chào đời! Làm vợ rồi làm mẹ, ắt không thể tiếp tục làm sinh viên Luật! Ngọc Cầu xin vào dạy ở trường Đồng Khánh, rồi đầu niên khóa 1959-60 chuyển vào dạy trường Cường Để và trường Nữ học Quy Nhơn, bởi phải tòng phu. Quy Nhơn là nơi luật sư Tôn Thất Kiên hành nghề, đã giỏi làm thầy cãi, lại thương người, sẵn lòng cãi miễn phí cho dân nghèo, lại còn nhận lời mời làm hiệu trưởng trường Bồ Đề kiêm giáo sư phụ trách môn Công dân Trung học Bồ Đề..
Năm 1965, Luật sư Kiên được điều vào Sài Gòn làm ở sở Pháp chế thuộc Bộ Giáo dục. Cô giáo Ngọc Cầu lại lẽo đẽo theo chồng, vào dạy trường Võ Trường Toản từ 1965. Đến 1976, chuyển qua dạy ở trường Trần Văn Ơn và nghỉ hưu năm 1995. Như thế, ngoài 8 năm dạy ở miền Trung, Ngọc Cầu liên tục giảng dạy 30 năm ở Sài Gòn. Vừa làm tròn bổn phận nhà giáo vừa nuôi dạy đàn con 2 trai 4 gái.      
Trong 6 người con ấy, trưởng nam Tôn Thất Thịnh phải gánh vác nghĩa vụ xã hội sớm nhất. Tốt nghiệp Phổ thông Trung học năm 1976 nhưng Thịnh rớt Đại học vì có cha đi học tập. Năm 1978, Thịnh thi hành nghĩa vụ quân sự, huấn luyện tại Quang Trung 3 tháng, rồi sang chiến đấu ở Căm-pu-chia. Biền biệt hơn nửa năm, gia đình vừa nhận được thư Thịnh báo đang đóng quân tại Mimốt thì đùng một cái, đồng đội tới tận nhà báo tin Thịnh đã mất tích tại chiến trường!
Ngọc Cầu kể lại: 
“… Anh Kiên nhờ bạn bè đưa lên biên giới Tây Ninh tìm con. Đáy bể mò kim. Mà mò được! Tình cờ may mắn, gặp Đồn trưởng công an ở đối diện nhà anh Kiên tạm trú chỉ một đêm, cho biết đàn em của ông cứu được Thịnh đang bất tỉnh tại miền núi Campuchia và đã trả về Sư đoàn, hiện nằm tại bệnh xá biên giới Lộc Ninh. Đang có giao tranh ác liệt, không được qua thăm thương bệnh binh. Anh Kiên đành ra về.
Đầu tháng 01-1979, nhận được thư Thịnh vỏn vẹn mấy dòng: Con hiện ở bệnh xá biên giới Lộc Ninh, Ba Me tìm cách lên thăm. Hồi ấy, muốn mua vé đi xa, phải ra bến xe sắp hàng từ 2,3 giờ khuya! Vợ chồng tôi lại còn 5 con nhỏ nên phải chọn phương tiện đi Lộc Ninh bằng xe Honda. Tôi ngồi sau xe chỉ biết niệm Phật và thỉnh thoảng nhắc chồng đi chậm. Đến Lộc Ninh, người dân cho biết Bệnh xá xây dựng trên đồiVào đến cửa Bệnh xá, thấy nhiều thương bệnh binh mặt mày xanh xao, đi đứng không vững! Một đồng đội của Thịnh đưa vợ chồng tôi vào lều vải, vừa nhìn ra dáng con, tôi đứng sững không thể ngờ Thịnh gầy yếu đến thế. Lúc lên xe đi nghĩa vụ, con tôi khỏe mạnh cân gần 60 kg; lúc này khoảng chưa được 40 kg, mặt mày hốc hác thảm thương! Thịnh bị sốt rét, phù thủng, nhưng chỉ được cấp mỗi ngày 3 viên APC! Tôi soạn thức ăn mang theo. Thịnh nét mặt rạng rỡ, ôm mọi thứ trên tay, nhưng lúc nếm vài miếng, kể cả gà rôti, món ăn con tôi thích nhất, cũng đều ném xuống với vẻ thất vọng vì thấy món nào cũng đắng chát! Hỏi ra mới biết đã hơn 3 tháng nay, bạn bè đem cho thứ gì thì ăn thứ ấy trong lúc đang đau nên chẳng thấy mùi vị gì! Con tôi gọi đồng đội vào mời ăn hết! Tôi chỉ để lại vài đòn bánh tét, ít lạp xưởng, vài ổ bánh mì hy vọng mai mốt Thịnh khỏe, có thể ăn được. Rồi moi gói tiền trao cho con. Dịp ấy nhà trường có phân phối cho giáo viên một quần satin đen, tôi bán được 55 đồng, để ở nhà 5 đồng, và đem 50 đồng cho con. Cầm xấp tiền trên tay, Thịnh sướng run lên vì thấy quá nhiều! Chưa bao giờ con tôi có được số  tiền lớn như  thế!
Thời gian sau có đợt giải ngũ, chúng tôi xin cho con được hưởng quy chế ấy…”
Sự ngẫu nhiên may mắn trời cho ở thời chiến 1946 đã không lặp lại với gia đình chú Lê Khắc Ủy sau biến cố 1975.
Trong thời khắc hội ngộ tháng 7-1975, Văn Trí nào có biết chú thím mình đang cháy ruột cháy gan lo cho 5 người con. Chú Ủy có 3 con trai là giáo sư Trung học Lê Khắc Quyền, giáo sư Đại học Lê Khắc Huy, bác sĩ Lê Khắc Bình, và 2 chàng rể là giám đốc Bưu điện Sài Gòn Đỗ Kỳ Quang, luật sư thanh tra Tiếp vận Tôn Thất Kiên, thì cả 5 người đều bị tập trung cải tạo từ đầu tháng 5-1975! Ba con trai ở ba trại khác nhau, còn hai con rể thì chung một trại. Chú thím ngày ngày đi ra đi vào đợi chờ...và an ủi nhau Một thời gian sau, được gửi quà cho người học tập. Cả 5 người con đều gởi thư về! Con út, bác sĩ Lê Khắc Bình, 3 tháng sau được về hẳn ở nhà. Chú thím sung sướng và hy vọng. Qua chuyến thư thứ hai thì lạ quá, trưởng nam Lê Khắc Quyền không hồi âm, mặc dầu trại học tập Trảng Lớn không xa mấy. Lo lắng, lòng như lửa đốt. Nhờ người quen quản trại dò tin. Vẫn bặt tăm! Cho tới 8 tháng sau, mới được thư người bà con cùng học một trại báo cho biết Quyền đã mất vì bệnh sốt rét ác tính, ngày giỗ đầu của Quyền là 21-11-1976! Trời ơi! Đau thương không kể xiết. Nhìn vợ Quyền và đứa con tuổi thôi nôi, xót xa quá chừng Thím Ủy  và các con được khóc nên phần nào vơi bớt khổ đau. Riêng chú Ủy nuốt nước mắt vào trong, ngày ngày đứng trước di ảnh trưởng nam, thở dài não nuột.
Sau 7 tháng, chàng rể Tôn Thất Kiên được về đoàn tụ gia đình. Năm 1977, đến lượt chàng rể Đỗ Kỳ Quang, chồng Lê Khắc Ngọc Quỳnh. Và về sau cùng là thứ nam Lê Khắc Huy. Nhìn vẻ mặt mọi người vừa mừng rỡ vừa đau đớn,  Huy linh cảm Phấp phỏng bước lên lầu. Và phát hiện bàn thờ anh cả Lê Khắc Quyền.  Lau nước mắt, an ủi nhau để sống.
Năm 1980, Huy đi định cư tại Hoa Kỳ. Chú Ủy lúc này do đau buồn đã yếu nhiều. Tới 1982 thì suy sụp. Con trai út Lê Khắc Bình lại mắc vòng lao lý, mà không ai dám nói cho chú biết. Lúc nằm ở nhà, khi đi bệnh viện, chú Ủy hỏi Bình đâu không vào thăm Ba thì cứ phải bảo Bình đi công tác. Thím Ủy túc trực ngày đêm. Mấy chị em Ngọc Quỳnh, Ngọc Cầu, Ngọc Túy, Ngọc Diệp ngoài giờ đi dạy cũng thay phiên chăm sóc thân phụ. Nghe lời Thầy ở chùa Văn Thánh Thị Nghè, vợ chồng Ngọc Cầu mời một vị Sư đến nhà đọc kinh và xin phóng sanh. Chú Ủy nằm ở phòng sau nghe kinh cũng đọc theo. Thím Ủy bèn xin Thầy chùa Hải Quang cho chú Ủy Pháp danh là Nguyên Chơn. Ngày Chín tháng Tám năm Mậu Tuất (25/9/1982), chú Lê Khắc Ủy qua đời! Con trai không còn ai ở nhà, nên cháu ngoại, Tôn Thất Hưng, thứ nam của Ngọc Cầu, phải thay thế các cậu trong tang lễ.
Sau 100 ngày của chú Ủy, Bình mới được về. Cuối năm 1989, Lê Khắc Huy bảo lãnh cho vợ con sang Hoa Kỳ. Năm 1990, thím Ủy và các con được bảo lãnh đi tiếp. Chỉ có gia đình Ngọc Cầu ở lại Sài Gòn vì không cùng hộ khẩu với thiếm Ủy. Cô gái cả Ngọc Quỳnh cùng chồng con sang Canada định cư.  
Lê Khắc Ngọc Quỳnh là cô giáo được mến mộ từ hồi còn dạy văn ở Trung học Phan Châu Trinh, Đà Nẵng. Lê Khắc Ngọc Quỳnh hiền như dòng sông Hương/ Cắt mái tóc mây một sớm đến trường/ Thành người lớn để làm cô giáo/ Có gói tóc về để nhớ thương?”…“Phan Châu Trinh thuở tơ vương/ Những người xưa ấy dễ thương tới giờ…”,Yêu thương không tuổi tình thắm mãi/ Áo trắng không màu nên chẳng phai…”. Bộ sách Giáo khoa Việt văn bậc Trung học do giáo sư Ngọc Quỳnh biên soạn năm 1970 là cẩm nang đắc dụng của nhiều thế hệ thầy trò. Xuất ngoại, Ngọc Quỳnh trở thành cây bút quen thuộc của người Việt ở Bắc Mỹ. Các tập truyện ngắn Nét chân tâm (220 trang, Canada 1995), Nét phong lan (246 trang, Canada 2005) và tập thơ Hương quê mẹ (2001) là những trang giãi bày tâm tưởng Y La Lê Khắc Ngọc Quỳnh. Đúng như một tờ báo của cộng đồng người Việt ở Toronto đã bình phẩm:
“… Là một người sống xa quê hương, chị Ngọc Quỳnh đề cao những nếp sống đẹp, những nét văn hóa cao quí của Đông Phương nói chung và Việt Nam nói riêng như những nhắc nhở và kêu gọi , nhất là kêu gọi nữ giới trẻ, thành đạt trong xã hội vật chất văn minh tột bực, đừng quên cái gốc và nét đẹp của văn hóa Việt Nam mà tiêu biểu là tấm lòng thương yêu gia đình vô hạn, quên cái tôi để sống cho niềm vui và hạnh phúc của gia đình - gia đình không chỉ đóng khung trong nghĩa hạn hẹp vợ chồng con cái mà bao hàm cả tứ thân phụ mẫu, ông bà, tổ tiên. Đại gia đình tựa như bóng mát của cây cổ thụ tỏa ra cho con người nương náu giữa sa mạc và bão tố cuộc đời lắm nỗi gian nan…”
Và đây, những dòng nghẹn ngào do chính Ngọc Quỳnh ghi về ngày vui sum họp muộn màng, đón mẫu thân trong mùa xuân quê người: 
“… Sau bao năm xa cách nhớ nhung, Mẹ đã mang không khí Tết đoàn tụ giữa miền tuyết trắng bao la. Như một bà tiên, Mẹ hiện diện và mùa xuân đã trở về. Cành mai Canada thêm vàng tươi, làm sáng cả căn nhà. Mẹ bảo em tôi chặt một cành hoa fosythia bắt đầu có nụ ngoài vườn đem vào nhà, đốt nhẹ dưới cành để nhựa cây vẫn còn đủ nuôi cành và làm nở hoa vào đúng ngày tết Việt Nam. Càng ngạc nhiên hơn khi Mẹ biến một cành hoa quincy thành một cành đào với những cánh hồng tươi nở tròn, tràn đầy sức sống. Bàn thờ cũng bày đủ lễ vật, đèn nến sáng choang. Mẹ đợi cả nhà đi làm về cùng lễ tổ tiên. Một cái tết ấm cúng như trên quê hương ngày nào. Vui rộn rã, cả nhà quên tuyết giá và gió lạnh ngoài trời. Quây quần, mà mắt Mẹ rưng rưng. Mọi thứ ở đây đầy đủ quáChạnh nhớ quê xưaNhớ thuở nào các con còn thơ dại, bên lò than hồng đêm trừ tịch, Ba các con đọc truyện cho cả nhà nghe. Nay Ba không còn, quê hương quá xa, lòng người day dứt nhớ thương…”
Niềm tôn kính người mẹ dòng dõi hoàng phái đã được Ngọc Quỳnh biến thành lời thơ Mẹ hiền cho cậu em út nhạc sĩ Lê Khắc Bình phổ nhạc:
 Mẹ vòng tay ấm áp
Mẹ trăng sáng ngàn đêm
Mẹ bình minh ấm êm
Thuở nào con khôn lớn 
Mẹ, bài ca thiết tha
Mẹ, lời thơ không dứt
Tám mươi mùa mưa nắng
Mẹ vẫn đây mẹ hiền 
Mẹ, vòng tay ấm áp
Vòng tay ấm áp của người mẹ Tôn Nữ ấy không chỉ âu yếm chở che những đứa con máu huyết của chồng, mà còn bao dung ôm trọn dòng họ Lê Khắc nhà chồng. Bối cảnh mất mát thương đau, khổ nạn sinh ly tử biệt không làm phai nhạt  nghĩa tình gia tộc thiêng liêng. Qua bao va đập bi khốc, bào giũa gian truân, bản chất lòng nhân thêm sáng. Tuy bà thím Cẩm Dung sống xa đất nước, nhưng trong những văn bản hồ sơ gia tộc mà Văn Trí trân trọng lưu giữ, bao giờ trên những dòng đầu tiên cũng sáng lên hai chữ Thím Ủy. Những năm đầu thập niên 1990, trong sổ vàng vinh danh bà con gần xa cúng góp xây lăng mộ, sửa nhà thờ, Thím Ủy luôn dẫn đầu. Sau này, khi Thím qua đời, thì thay vào tên Thím Ủy là các cái tên thân thương: Ngọc Quỳnh, Ngọc Cầu, Ngọc Túy, Lê Khắc Huy, Lê Khắc Bình, Ngọc Diệp. Và bao giờ số tiền cúng góp cũng thuộc hàng tốp.
Tháng 7-1998, dường như biết trước vận số, bà thím Cẩm Dung từ nửa bên kia trái đất làm một chuyến trở về lần cuối thăm đất nước, quê hương, con cháu. Mạnh khỏe và vui tươi. Nước mắt ngày gặp lại cũng là những giọt vui. Bà già tuổi 83 đĩnh đạc ngồi xe hơi đường trường xuyên Việt, Nha Trang, Đà Nẵng, Huế, Hà Nội. Thăm quê nội, quê ngoại, cúng quảy Nhà thờ, Lăng mộ tổ tiên. Ở Sài Gòn, ở Huế đều tổ chức họp mặt đông đủ bà con nội ngoại, thăm hỏi ân cần từng đứa cháu, không quên gửi chút quà kỷ niệm.
Mấy tháng sau chuyến hồi hương nghĩa tình trọn vẹn ấy, ngày 10-12-1998, bà Cẩm Dung qua đời ở Hoa Kỳ. Con cháu quay quắt trong nỗi đau không cùng. Từ Sài Gòn, Ngọc Cầu không nén được tiếng kêu:    
Me ơi! Me ơi! Tai nạn lớn nhất đời con đã xảy ra.
Vẫn biết Me đi thật nhẹ nhàng/ Đau đớn quá con làm sao nén được!
Nhớ câu thơ xưa:
Dẫu bạc đầu vẫn là con của Mẹ/ Dẫu là vua, mất Mẹ vẫn mồ côi.
Bà Tôn Nữ Cẩm Dung khuất núi, nhưng nguyên vẹn còn đó hình mẫu sống về lòng nhân ái. Đức tính hiếu thảo như mạch nước ngọt lành từ người mẹ người bà đã lan tỏa thấm sâu vào con cháu. Lê Khắc Ngọc Cầu ở lại quê hương, không chỉ làm trung tâm liên lạc trong nước với nước ngoài, mà còn theo gương mẹ dẫn dắt đàn con Tôn Thất của mình làm việc gia tộc Lê Khắc!
Ngọc Cầu tâm sự:
“… Những năm từ 1975 đến 1985 gia đình tôi thật khó khănHạnh phúc gia đình chợt đến rồi đi vì những buồn lo từ đâu đưa đến! Các con tôi đều đã khôn lớn, nhưng không nghĩ đến việc lập gia đình vì tưởng sẽ ra đi xa quê hương. Bây giờ tôi quyết định ở lại và khuyên các cháu nghĩ đến quy luật trai gái trưởng thành phải có gia đình riêng để nối dõi Những lúc rối lòng, tôi  thắp hương cầu xin Trời Phật, Tổ tiên phù hộ cho tôi đủ sức sống để lo cho chồng con, đưa các con tôi hội nhập với xã hội mới. Và tự nhủ chính người mẹ phải gương mẫu! Hằng ngày đến lớp, gặp học sinh, tôi hết lòng dạy bảo và tại đây, lòng tôi thấy thoải mái. Những kỷ niệm tốt đẹp với học sinh là niềm vui giúp tôi vững lòng. Tôi sung sướng cảm nhận  tình cảm thương quí của các thế hệ học trò. Từ năm 1995, tuy tôi đã nghỉ hưu, nhưng học sinh dù ở rất xa vẫn thường xuyên thăm hỏi, cô trò cùng ôn lại bao kỷ niệm vui buồn ở 4 mái trường tôi từng gắn bó…”
Luật sư Tôn Thất Kiên với nghề tay trái là dạy học, lúc tuổi đã cao lại nhận được một phần thưởng tinh thần vô giá là tình cảm quý mến của cựu môn sinh. Số là, hồi giữa thế kỷ 20, theo học ngành Luật tại Hà Nội, khóa 1949-1954, sinh viên Tôn Thất Kiên có dạy trường Trung học Nguyễn Bỉnh Khiêm Hải Dương. Sau gần 60 năm, khi Thầy mừng thọ bát tuần (không hiểu sao học trò nhớ đúng?), các học trò cũ mà đại diện là cháu ngoại của hai vợ chồng cựu môn sinh là ông bà Thu - Hải đem từ Hà Nội vào tận nhà Thầy trân trọng trao tặng  bức trướng lụa đỏ thêu chữ vàng:
KÍNH MỪNG THƯỢNG THỌ
Thầy giáo Tôn Thất Kiên
Tuổi Thầy đã tám chục
Luyện Đức rèn Tài nghĩa cao siêu
Trò cũ kể hàng ngàn
Tạc dạ ghi lòng công ơn giáo dục!
ĐỒNG MÔN TRUNG HỌC HẢI DƯƠNG 49-54
Rồi sau đó, đích thân đôi vợ chồng cựu môn sinh 78, 79 tuổi ấy đưa nhau hành phương Nam thăm người thầy cũ 80 tuổi!
Nghỉ hưu, Lê Khắc Ngọc Cầu càng hăng hái làm công quả hiếu nghĩa. Không chỉ là trung tâm liên lạc trong nước với nước ngoài, mà còn theo gương thân mẫu Cẩm Dung dẫn dắt đàn con Tôn Thất của mình gánh vác việc gia tộc. Mà Ngọc Cầu đâu có ít con. Tròn mâm cỗ 6 người: Tôn Thất Thịnh, Tôn Thất Hưng, Tôn Nữ Ngọc Bảo, Tôn Nữ Kim Bảo, Tôn Nữ Nguyên Bảo, Tôn Nữ Châu Bảo. Niên liễm không khi nào đóng chậm. Hễ dòng tộc có đợt vận động, gửi văn bản đi thì y như rằng trước tiên được nghe qua điện thoại tiếng reo trong trẻo của Ngọc Cầu: anh Trí ơi, nhà em thu được hai trăm năm mươi đô rồi, anh ghi sổ dùm em. Mười lăm năm Ngọc Cầu làm nòng cốt tập họp vận động bà con Lê Khắc ở Sài Gòn. Và khi Thế 11 hoàn toàn chuyển giao trọng trách cho Thế 12 thì con cả của Ngọc Cầu là Tôn Thất Thịnh thay mẹ đảm đương việc Họ. Thịnh phụ trách Trang web lekhacvanxa kiêm Phó trưởng ban đại diện gia tộc Lê Khắc ở Sài Gòn. Trong Ban đại diện ấy, bên cạnh Phó trưởng ban Tôn Thất Thịnh, còn có các Phó trưởng ban Bảo Thạnh và Tôn Thất Lẫm. Tức là có 3 người dòng Tôn Thất hoàng phái. Theo quan niệm cổ xưa, đối với dòng họ Lê Khắc Văn Xá thì 3 thành viên cốt cán này được coi là ngoại tộc!
Chương 16:  Đôi cánh thảo hiền từ bầu trời ngoại tộc
Bà Tứ Nguyễn Khoa Thị Liên có 5 người con gái: Lê Thị Uyển (1898-1957), Lê Thị Cẩn (1901-1988) Lê Thị Đương (1905-1968), Lê Khắc Ngọc Đại (1916-2002) và Lê Khắc Ngọc Luyện (1918-1996).
O Lê Thị Cẩn, người con gái thứ hai, năm 40 tuổi mới thành hôn với dượng Tôn Thất Chước (1895-1947). O Cẩn Dượng Chước chỉ sinh hạ được một người con, là Tôn Thất Lan.
Dòng họ Tôn Thất Lan 4 đời độc đinh. Cưng quý cậu con trai cầu tự lắm lắm nên Dượng Chước và O Cẩn âu yếm đặt cho quý tử nối dõi tông đường cái tên Lan. Kiểu tên con gái. Phải chăng do Lan tính nết dịu hiền? Không có đâu nha! Thuở bé tí tẹo, được mẹ và bà nội cưng chiều rất mực nên Lan nhõng nhẽo quậy phá tới số. Mấy bà em con cô con cậu (hơn tuổi) Lan tới nay đều ngoại 70 mà còn thi nhau kể tội anh Lan thuở nhỏ nghịch như quỷ, trêu chòng khắp lượt, hễ đi qua cô em nào là thò tay nhéo, khoèo chân đạp một cái cho la toáng lên mới thôi!”“Anh Lan thời nhóc tì sao ghét dễ sợ, bọn em thi nhau ghét, đồng lòng ghét. Nhưng bởi bọn cháu gái sợ uy quyền Bà Nội nên nhịn quách cho yên. Rứa mà lạ ghê, anh Lan lớn lên đổi tính đổi nết, dễ thương hết xẩy, con gái con trai họ nhà mình ai nấy đều bảo thương quý nhất anh Lan!
Văn Trí tán thành ngay: thương quý nhất Tôn Thất Lan!
Tạ ơn trời đất sinh ra người em hào hoa phong nhã Tôn Thất Lan để đặt vào vị thế phó ban liên lạc sát cánh kề vai với ông anh Văn Trí khẳng kheo nhàu nhĩ. Ngõ hầu hợp thành một cặp, vẻ ngoài dường như tương phản cọc cạch, song tâm tính bên trong là tương thích hài hòa, bổ khuyết cho nhau làm việc Hiếu.
Nếu như Văn Trí được cái đầu óc mẹo mực sắp đặt liên kết thì Tôn Thất Lan chính là chất keo đặc hiệu gắn bó bảy bè chín nhóm thành viên đồng tộc nhưng khác thứ bậc, khác cả tâm tư. Nào gia đình anh phía bên nớ, gia đình em phía bên ni. Nào chị ở phòng kế thất, tôi là phòng thứ thất. Nào chi trưởng ngành trên, chi thứ nhánh dưới
Giữa bộn bề ngổn ngang trăm mối, Tôn Thất Lan, bằng tấm lòng chân chất thơm thảo, bằng tình thương máu mủ ruột rà, đã là tố chất hiệu nghiệm gắn kết dòng tộc mau lẹ mà vững bền.
Buổi Giỗ Ông năm ấy đặt tại nhà anh Lê Khắc Điềm, căn biệt thự kiểu Pháp xinh xắn ở phố Nguyễn Đình Chiểu. Xong phần cúng lễ, bà con lục tục xếp mâm ăn giỗ thì đột ngột Tôn Thất Lan đứng dậy, lật cái mũ mềm cầm ngửa trên tay, lần lượt tới từng bàn, vận động quyên tiền giúp cho hai người con gái độc thân của chú Lê Khắc Mân ở Đà Nẵng đang cơn túng quẫn. Trí không được hội ý trước việc quyên góp này nên lúng túng một thoáng mới rút ví. Số đông bà con cũng ngỡ ngàng. Rồi ai nấy hiểu ra, thông cảm rất nhanh. Mở lòng, người vài ba chục, kẻ một hai trăm. Cứ thế, mặc kệ chung quanh ăn uống cười nói ríu ran, Tôn Thất Lan hí húi đếm đếm ghi ghi. Vẻ mặt tươi hơn hớn. Lan là thế.
Việc gia tộc, bao cuộc họp, bao thỏa ước, thư từ gửi đi, điện thoại réo về, chung quy xoay quanh tình nghĩa và tiền bạc. Ai cũng biết chuyện đi xin cho được đồng tiền liền khúc ruột là cực khó, cực khổ. Cái gánh cựcấy, Lan ghé vai không ngần ngại. Không biết tới mấy trăm lần, Lan và Trí gọi điện thoại ngược xuôi năn nỉ ôn tồn giải trình, thuyết phục, cả nịnh nọt nữa! Nhận được lời hứa từ xa, chính Lan lại phải tìm tận nhà bà con, nhận tiền tại chỗ, rồi phóng tới nộp ngay cho thủ quỹ, cưỡi xe máy vòng vèo khắp mấy quận Sài Gòn. Mát tính, mát tay, nên tiền cúng góp việc hiếu nghĩa, bao giờ Tôn Thất Lan cũng thu được nhiều nhất cho gia tộc.
Cứ thế, Lan xông xáo hành thiện một cách hào hứng, hồn nhiên, Có khi quá hồn
 nhiên. Lần ấy, Lan tới 36 Nơ Trang Long, hỏi:
- Em nghe nói nhà anh Trí rộng rãi còn thừa một phòng bỏ không?
- Ừ có, phòng xép chứa đồ thô, trên lầu ba, chỉ 12 mét vuông.
- Nhỏ thì nhỏ, cứ cho em xem qua
Xem loáng cái, Lan gật gù hài lòng. Rồi đề xuất ngon lành: cho mượn phòng này ít lâu nghe! Có một người bà con Lê Khắc hứng chịu tai họa dồn dập, vừa bị tai biến tim mạch, lại bị xiết nhà. Gia đình 5 khẩu, nhét vào căn phòng xép này của anh Trí thì chật đấy, nhưng còn hơn nằm ngoài đường. Trí nghe Lan như nghe tiếng bom! Bởi gia đình Trí vừa mới đây thôi đã đồng thuận ra nghị quyết không để khách khứa ngủ lại trong nhà. Bạn bè, bà con của cha mẹ con cái tới thì tiếp chuyện ở phòng khách, mời dùng bữa ở phòng ăn. Ai có nhu cầu ngủ lại thì nhà mình thu xếp chu đáo bằng cách đứng ra thuê bao một phòng trọ đủ tiện nghi ở mấy khách sạn liền kề. Họ hàng nội ngoại từ miền Trung, miền Bắc vào hay miền tây Nam bộ lên cũng tuân theo quy định khắt khe bất nhơnấy. Là vừa mới sửa sai cực đoan từ uyển chuyển thành cứng nhắc! Trong vòng mươi năm nay, hai ba chục cháu chắt ngoài bắc từng lần lượt kéo vào vui vầy ăn ở quanh năm suốt tháng trong nhà Văn Trí. Cho tới khi xảy sự cố. Một đứa cháu ở nhờ trong căn phòng xép ấy, 5 giờ sáng mở cửa đi làm trong khi cả nhà còn say giấc. Mọi ngày nó nhớ khóa cửa, bữa ấy hới hớp vội vàng quên bẵng. Kẻ trộm rình sẵn đâu đó, lập tức lẻn vào nẫng gọn cái xe Dream Thái. Từ ngày mất bò, cả nhà bàn tính đặt nội quy nghiêm ngặt gia cố cái chuồng 5 tầng mặt tiền đại lộ.
Tôn Thất Lan ở hiền gặp lành, chưa bao giờ như Trí cay đắng nếm mùi đạo chích viếng. Căn nhà hai tầng khiêm tốn của Lan nằm khuất nẻo trong hẻm xe đạp Nhiêu Tứ phường 7 Phú Nhuận luôn là nơi đón tiếp ân cần chu đáo nhất hàng chục gia đình bà con nội ngoại từ Huế, Đà Nẵng vào. Thậm chí, có người em họ ở Văn Xá lần đầu thăm Sài Gòn, xin ở nhờ một hôm để tìm người quen, bị Lan nạt cho: mi chê anh chị nghèo hay sao? Mi không được ở một hai ngày, mà phải chơi đây hai ba tuần trở lên! Cậu em ở chơi, thoải mái quá, một tháng chưa muốn về, cho tới ngày vợ nó réo điện thoại đường dài đòi chồng như nặc nô đòi nợ.
Thật may, Lan hiểu ngay chỗ khó của Trí! Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh. Vả chăng, chính Trí tuần trước biên thư riêng gửi mấy Mạnh thường quân trong họ nhờ giúp nóng cho trường hợp đặc biệt này, và Trí cùng Lan sốt sắng hưởng ứng trước tiên! Nên Lan vui vẻ quay đi bươn bả tìm chỗ khác cho gia đình ngộ nạn tá túc. Tất nhiên là tìm được. Tôn Thất Lan là thế, không nề tốn kém khó khăn, vô tư nhận về mình phần nhọc nhằn thua thiệt.
Có đức mặc sức mà ăn”…, tiền nhân dạy không sai. Dường như Lan luôn có quý nhân phù trợ trong bao chặng đời lận đận.
Gia tộc Lan, tuy là hoàng phái, nhưng ba đời không giàu. Tổ phụ từng ngồi phủ đường làm quan phụ mẫu, nhưng gia cảnh tùng tiệm, đón thân hữu từ xa viếng thăm có khi phải sang hàng xóm mượn chút tiền hay con gà chi đó về đãi khách. Thân phụ cũng làm quan, Hường lô tự khanh, nhưng sống đời bình dị, sau buổi làm ở sở có khi tạt qua chợ mua con cá xách về. Năm Lan lên 7 thì mồ côi cha (1947). Được mẹ tảo tần nuôi ăn học tới đậu tú tài 2, vừa hay Huế mở đại học sư phạm. Chưa ý thức gì về nghề giáo, nhưng ngó cái học bổng sư phạm mà ham. Mỗi tháng 1.500 đồng lận! Trong khi mỗi lượng vàng 250 đồng. Chi tiêu ăn ở hàng tháng mỗi suất chỉ cần 500 đồng là tươm. Học bổng ngần ấy đủ nuôi hai mẹ con ung dung. Lan liền làm đơn thi vào sư phạm khoa tiếng Pháp. Mang đơn tới trường, như trời phật sắp đặt, Lan hạnh ngộ cơ hội ngàn vàng xoay chuyển cuộc đời! Đi qua hành lang, gặp đúng ông cậu Lê Đình Trân, thư ký học vụ đại học (cậu Trân là con ngài Lê Doãn Thăng em ruột ông ngoại Lê Từ). Cậu Trân dừng lại ân cần hỏi chuyện, ngay sau đó cho Lan lời khuyên: Đừng học khoa Pháp, không tài nào theo kịp lứa bạn chuyên Pháp 7 năm đâu. Cháu chuyển sang tiếng Anh đi, sẽ lợi lâu dài…” Lan vâng lời cậu, về làm lại đơn. Thế là thi đậu vào khoa Anh. Cố sức liền 3 năm, khi thi tốt nghiệp lọt vào tốp 4 sinh viên dẫn đầu với điểm 14/20. Tiếng Anh từ buổi ấy nâng cậu học trò nghèo Tôn Thất Lan cất cánh vào đời. Cho tới hôm nay tuổi ngoài 70 vẫn là giảng viên Anh văn tên tuổi xứ Sài thành.
Trong cuộc bay nửa thế kỷ bão dông, song song với cánh bay tiếng Anh là cánh bay tiếng hát, hợp thành đôi cánh đời Lan. Đây, trên trang bìa 4 các ấn phẩm văn thơ nhạc họa của Tôn Thất Lan, thường có lời hóm hỉnh trích ngang lý lịch: “… Cất tiếng hát chào đời tháng 01 năm 1940! 
Tài hoa cầm kỳ thi họa Tôn Thất Lan có nguồn cơn từ nết đất, tính trời. Núi Ngự sông Hương trăm năm là miền thơ nhạc. Dượng Chước đàn ngọt, O Cẩn hò hay. Lan chỉ tiếc là không giữ được giọng hò của mẹ trong băng đĩa. Mẹ sắm cho Lan cây đàn măn-đô từ hồi bé tí, do anh Lê Xuân Điềm con của dì Biên để lại. Đến trường, hạnh ngộ thầy Ngô Ganh, thầy Nguyễn Hữu Ba, được các thầy dạy dỗ mớm cho tình yêu nghệ thuật. Tuổi 15 đã độc tấu đàn mandoline được xuýt xoa tán thưởng. Hàng tuần cùng ban hợp ca Thanh Bình trình diễn tại Thương Bạc do Ty Thông tin tổ chức. Có khi diễn ở rạp chiếu bóng. Không còn nhớ được nhận thù lao nhiều ít bao nhiêu. Chỉ đọng lại niềm tự hào của nghệ sĩ được thính giả chấp nhận. Nhớ mãi buổi biểu diễn đặc biệt ở trường Quốc Học có cả Ngô Tổng thống long trọng dự khán, Lan hồi hộp tham gia công diễn khúc hợp xướng của nhạc sĩ Lê Hữu Mục ca ngợi thân phụ Tổng thống là (cố) thượng thư Ngô Đình Khả!
Lớn thêm chút, với cây đàn guitare cũ trên tay, Tôn Thất Lan mày mò học nhạc lý và mon men viết ca khúc. Tập tành sáng tác trước hết bằng cách nghiên cứu chép lại các nhạc phẩm mua của nhà xuất bản Tinh Hoa và mượn của bạn bè - trước sau chép tới ngàn bài! Vào Sư phạm mới trình làng ca khúc đầu tay Còn như thuở ban đầu hơi hướm tình ca Đoàn Chuẩn - Từ Linh! Nhận biết là mình có khiếu âm nhạc, biểu diễn cũng như sáng tác, Lan miệt mài viết và xem đó là bài tập. Cứ ráng viết cho hay, coi thử loại bài như thế mình làm được không. Suốt đời say mê đàn hát và sáng tác, nhưng không bao giờ coi mình là dân chuyên nghiệp, nhạc sĩ, nhạc công hay ca sĩ. Lan tự nhận là nhiều nhà lắm nhưng chỉ là nhà thuê!
Nhớ lại khoảng 1963, phong trào sinh viên nổi dậy chống chính quyền đàn áp Phật giáo, chiếm được đài phát thanh. Ban đại diện mời thầy giáo Anh văn Tôn Thất Lan tới đài tham gia đàn hát. Không ngờ chỉ được ít lâu, chính quyền kiểm soát trở lại, đàn áp. Thị trưởng triệu tới hạch hỏi, và Lan cuối cùng phải chấp nhận biện pháp trừng phạt là… “bắt lính (lẽ ra Lan là con một thì được miễn đi lính).
Vào Thủ Đức, ở đại đội 13 sinh viên sĩ quan, Lan được chọn cử làm quản ca. Liền sáng tác Hành khúc Đại đội 13 được coi là bài ca chính thức của đơn vị! Từ Thủ Đức chuyển thẳng về trường sinh ngữ quân đội, dạy tiếng Anh cho các hạ sĩ quan đi học làm thông dịch viên. Sang Hoa Kỳ bổ túc nghiệp vụ (tiếng Anh), Lan và kết với cây kèn trompette. Tất nhiên là vẫn tiếp tục sáng tác để phục vụ kịp thời cho những kỳ họp mặt. Có cả những bài hát song ngữ Việt Anh do Lan biên soạn lời Anh hoặc chuyển ngữ tiếng Anh cho bài hát Việt. Về nước, trở lại trường quân đội thấy lạc lõng lơ ngơ, tiếc thời gian hoang phí. Tình cờ gặp nhạc sĩ Phạm Duy, ổng thương thằng em nhỏ bơ vơ, bèn biên thư nhờ một viên tướng có thế lực giúp đỡ. Nhờ thế, Lan được về lại trường Phan Châu Trinh, đi dạy, với danh nghĩa sĩ quan biệt phái.
Ròng rã 1966-1970, tính ra chỉ một mớ thâm niên ít ỏi vài năm quân ngũ! Thế mà sau biến cố 1975, thầy giáo Tôn Thất Lan lại phải tiếp tục cất cao tiếng Anh và tiếng hát trong trại học tập cải tạo của chính quyền mới! Tốt tính như Lan, đa tài như Lan, ai mà không thương, dại chi không dùng? Ở trại, Lan được ưu đãi cho phụ trách thư viện, sinh hoạt tập thể, ca hát. Kết quả cải tạo (đầu óc có sai trái chi mô mà cải tạo?) rất khả quan nên Lan chỉ thụ hình không đầy một năm.
Ra trại, trả về thành phố Đà Nẵng. Nhưng ai cho dạy trường cũ Phan Châu Trinh!
Vậy một mẹ già trên 70 và hai con nhỏ lấy gì mà sống đây? Thì làm thợ đụng. Có hai tuần, theo lệnh chính quyền địa phương đi gỡ mìn. Nghe rợn tóc gáy. Tiếng là từng ở quân trường Thủ Đức, nhưng Lan có hiểu chi đâu về vũ khí. Kỳ thi kỹ thuật quân sự, Lan phải tháo ráp cây súng lục. Loay hoay, lóng ngóng, lò xo vụt thăng thiên.Viên trung úy chấm thi cười: anh yếu quá. Lan nhân dịp tiếp luôn: dạ, tôi đau yếu luôn. Tất cả cười xòa. Thế là dư điểm tốt nghiệp.
Bàn tay thư sinh thôi cầm phấn, cầm đàn, chuyển sang cầm cuốc cầm xẻng đào đất thuê. Nhưng yếu quá, năng suất thấp nên công ty không thuê nữa. Thất nghiệp bơ vơ. Thì âm nhạc lại cứu. Lan xin được vào đoàn cải lương Sông Hàn, thổi kèn trompette trong ban tân nhạc - hòa tấu mua vui 30 phút trước giờ mở màn và khi đóng màn thì chào biệt khán giả bằng khúc nhạc Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”… Lênh đênh theo đoàn Sông Hàn ra tận Hà Nội, Hải Phòng rồi lưu diễn trở về từng chặng ở miền Trung, gặp mùa mưa dầm Bình Trị Thiên treo niêu vài tuần. Một thân hữu, bằng vần tứ tuyệt, đã phác đôi nét về những năm sầu đời trôi nổi:
Tôn Thất Lan điệu slow buồn thổn thức
Tiếng kèn đồng chới với gọi chiêm bao
Đêm hát tuồng nghe ngựa hí quân reo
Tiếng sênh phách nhịp nhàng ru nỗi nhớ
Bước đường cùng! Năm 1984, nhà giáo Tôn Thất Lan phải cùng vợ là Vũ Thị Cẩm Thúy bỏ nghề thầy thuốc, dắt díu mẹ già con dại chuyển cư vào Sài Gòn.
Vào Sài Gòn là tới với Miền Hào Hiệp! Nơi ấy, người tứ xứ quây quần hội tụ gắn bó làm bạn với nhau, sẻ gan sẻ ruột yêu thương nhau. Đó là thành phố có các tòa báo đóng vai trung tâm thiện nguyện, mỗi ngày bạn đọc góp giúp người khốn khó tới tiền tỷ! Đó là nơi xuất phát trăm ngàn chuyến xe chở hàng cứu trợ bão lụt, mang tiền xây cầu, cất nhà tình nghĩa vùng xa vùng sâu, tặng lương thực thuốc men cho người già neo đơn, trao học bổng tiếp bước trò nghèo hiếu học tới trường. Đó là nơi mỗi ngày có nhiều ngàn suất cơm từ thiện, mỗi mùa thi có nhiều ngàn chỗ trọ miễn phí.
Sài Gòn hào phóng lại luôn đi trước, hăng hái đổi mới, giao thương cởi mở, sản xuất kinh doanh năng động táo bạo, học hành, văn nghệ, và cả ăn chơi, đều sôi nổi! Giữa thập niên 1980, đã bắt đầu thời kỳ ngàn vạn con người may mắn sở hữu bàn tay vàng, cây bút vàng, đôi chân vàng, giọng ca vàng từ khắp Bắc Trung Nam đua nhau hành miền hào hiệp. Trong số đó có người trai dòng Tôn Thất - Lê Khắc hào hoa đa tài mà thất cơ lỡ vận!
Lan vào Sài Gòn, vừa hay gặp thời tiếng Anh đắc dụng. Nhà nhà, người người học tiếng Anh. Các trung tâm dạy Anh văn mọc lên như nấm. Nhưng mà
Cái học tiếng Anh thật rộn ràng
Mười người theo học sáu thôi ngang
Thế mà cứ tưởng là ngon béo
Liệu sớm lui ngay kẻo lỡ làng!
Ấy là Lan nhại Tú Xương, mô tả phong trào học tiếng Anh có vẻ rầm rộ mà thành tựu quá èo uột, lãng phí sức lực, tiền của. Hài hước vui chút để cảnh báo thực trạng rồi ngay sau đó Lan tự nhận trách nhiệm góp phần bổ cứu. Lan tổng kết kinh nghiệm 15 năm giảng dạy tiếng Anh ở trường Phan Châu Trinh và trường sinh ngữ quân đội, biên soạn công trình Phương thức học tiếng Anh hữu hiệu bao gồm những nội dung hết sức cụ thể về đặc điểm tiếng Anh, bốn kỹ năng, bốn tiêu chuẩn, phương pháp bổ sung bằng phân tích, đối chiếu, bắt chước, phương pháp thực hành Ngắn gọn chừng 4 ngàn từ thôi, nhưng là cẩm nang quý báu cho người học tiếng Anh. Tất nhiên, Lan có thể thị phạm thực thi thành thạo hệ thống lý thuyết của mình. Cho nên trong 28 năm ở Sài Gòn (1984-2012), Tôn Thất Lan là giảng viên Anh văn nổi tiếng ở các trung tâm ngoại ngữ của Hội trí thức yêu nước, của Sở ngoại vụ (Cefalt), ở các trường Đại học tổng hợp, Đại học sư phạm, Đại học Văn Lang. Giờ dạy của Lan còn cuốn hút nhờ các cải tiến sáng tạo. Học viên có thể học tiếng Anh qua các cuốn sách song ngữ Việt Anh do Lan chọn dịch như Slices of life - Những mảnh đời (Tuyển tập văn xuôi, gồm 15 tác phẩm, trong đó có 14 truyện rất ngắn của tạp chí Thế Giới Mới). Lại có thể học qua hàng chục tuyển tập ca khúc song ngữ do Lan chuyển ngữ hoặc đặt lời hát tiếng Anh, như tập dân ca Hát hội trăng rằm The full-Moon Festival gồm 14 khúc dân ca đặc sắc của 3 miền Bắc Trung Nam: Qua cầu gió bay, Lý con sáo, Ru con
Cứ khoảng vài ba tháng một lần Trí được Lan tới tận nhà trao quà văn nghệ. Đó là giấy mời dự Chương trình điểm hẹn ngày chủ nhật thưởng thức nhạc phẩm và giao lưu với nhạc sĩ Tôn Thất Lan. Đó là các ấn phẩm cây nhà lá vườn vừa ra lò, các tập truyện ngắn như Những tâm hồn lạc, Thà trễ còn hơn không, Cung bậc tình yêu”…; các tuyển ca khúc như Huế vẫn ngàn năm, Ghé lại bên đời, Gọi đàn, do chính tác giả Tôn Thất Lan trình bày và vẽ minh họa”… Văn Trí phải trầm trồ: ông em của tớ thật đa tài, đủ mùi Cầm Kỳ Thi Họa. Lan liền cải chính: chưa đủ cả bốn mùi đâu anh ơi! Ờ thì có chút mùi đàn địch hát hò. Có chút mùi thơ phú văn chương. Có cả mùi vẽ vời sắc màu hình khối. Nhưng em Lan của anh còn thiếu mùi cờ, không cờ tướng, không cờ vua, không cờ bạc! Nên em xin thay chữ Kỳ bằng chữ Cười, đổi thành Tôn Thất Lan Cầm Cười Thi Họa!
Chí lý! Xem kỹ thì thấy, trang văn bài thơ nào của Lan cũng thấp thoáng đó đây nụ cười thâm thúy dí dỏm. Còn ca khúc thì khỏi nói. Bên cạnh vài trăm tình khúc thì Lan có cả mấy chục tếu ca đã in ra và nhiều bài đã trình diễn. Lời nói đầu 20 tếu k như sau: Tếu không thể thiếu trong cuộc sống. Có khóc phải có cười. Như âm dương trong vũ trụ. Cười tự trào cái dở của mình. Cười phê phán thói hư tật xấu của người đời. Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ, tội chi bỏ phí. Cái tếu nếu như đi kèm với chuyện đời thường mà thiên hạ cho rằng tục thì cũng là đương nhiên…”
Đã là tếu khúc, ắt nét nhạc phải nhún nhảy, cục cựa để hợp với ca từ tinh nghịch quậy phá. Ông lái đò là ông lò ấy. Ơ sao ông kia ăn mặc hớ hênh. Người tưởng ông say người bảo ông điên. Vì ông lái đò là ông ló đài”… Hôm qua đi cúng làng bên/ lim dim tụng suốt ngày đêm/ cúng cho bà góa chết chồng/ Khi về chỉ nhớ mắm với cà, chỉ nhớ má với cằm
Thế nên hễ gặp Lan là vui, mâm ăn nhóm họp nào có mặt Lan là rộ lên từng tràng cười sảng khoái. Lan thanh minhMáu khôi hài ở em chắc là do di truyền. Các cụ xưa bản tính nghiêm nghị mà cũng hay diễu cợt và có khi ngẳng hết biết. Như ông nội của em, có lần đi chơi về khuya, khi đang ở rể nhà cụ Trương Quảng Ngãi (Gia tộc cụ Trương Đăng Quế), quẹt diêm đốt cả một đống rơm sáng cho thấy đường đi!. Chuyện ấy tưởng như chỉ có trong ca dao xưa: Ngồi buồn đốt một đống rơm/ Khói bay nghi ngút chẳng thơm tí nào/ Khói bay lên tận Thiên tào/ Ngọc Hoàng phán hỏi: đứa nào đốt rơm! Cậu (cha) em thì có lần uống rượu say hơi hơi, đã múc một muổng canh để cậu chan canh cho con nghe, nói thế nhưng không chan lên bát cơm mà đổ cả muổng canh vào trong cổ áo của em! Cậu em mất  lúc em mới 7 tuổi, nên không  còn nhớ nhiều về Cậu. Em nhớ dạo tháng 8-1945, có cuộc tấn công của Việt Minh vào lực lượng đồn trú của Tây Nhật tại thành phố Huế. Điện tắt hết. Nhà nhà đóng cửa cài then. Cậu em cứ chạy ra ngoài, lát sau trở vào lau nước mắt mừng rỡ nói với vợ con: Mình thắng rồi! Về sau này em được anh Lê Khắc Huề, con cậu Hường Thái kể chuyện, nhận xét: Dượng Chước là người rất thoáng. Em nghe mà nhớ Cậu. Em thừa hưởng cái đức tính rộng rãi trong cuộc sống và trong nghệ thuật là từ Cậu em. Và cả khiếu  hài hước, hóm hỉnh gây vui cười…”
Tiếng cười thể hiện tính lạc quan.
Tôn Thất Lan quan niệm: Đời vui hay buồn, sướng hay khổ là tùy ở mỗi người cảm nhận. Nhưng vui buồn, sướng khổ thường song hành bên nhau, đó là âm dương của vũ trụ này. Điều con người có thể làm được là biến cái buồn thành cái ít-buồn, làm cái khổ thành bớt-khổ. Hoặc giả nhân cái sướng cho to hơn, cái vui cho lớn hơn nhiều lầnĐó là chưa nói đến việc làm cho cái khổ thành sướng, buồn hóa vui. Khả năng này có hay không là tùy ở mỗi người, ở tâm tính, cảm quan, kinh nghiệm và suy ngẫm Khi muốn tránh điều gì đấy mà không tránh được thì chỉ có cách là chấp nhận thôi. Và vui vẻ!
Trong mọi tình huống, Tôn Thất Lan đều nhìn từ góc độ tích cực. Đời người ai mà tránh khỏi tai nạn rủi ro lúc này lúc khác? Hãy hóa giải bằng tính lạc quan. Lỡ xảy ra chuyện xấu, thì hãy nghĩ là may mà chỉ xấu mức đó! Năm 1986, một bữa Lan đang dạy học ở Hội trí thức yêu nước, thì giám thị dẫn vào một chú nhóc kêu to hốt hoảng: Thưa bác, con bác té gãy tay! Vẻ mặt ông giám thị trở nên nghiêm trọng cảm thông tình cảnh nhà giáo nghèo. Không chỉ tình thương con cái, mà có cả mối lo chạy chữa. Thời buổi khốn khó thiếu thốn trăm bề này, tin xấu đó quả là đại họa. Cả lớp im phắc chờ thầy phản ứng. Lan không hề cao giọng, hỏi lại:
- Thế con bác nó bị gãy một tay hay hai tay hở cháu?
Thằng bé chưng hửng, ấp úng:
- Dạ, gãy có một tay thôi ạ.
- Thế thì may. Cảm ơn cháu!
Rồi sau đó Lan cũng tìm được vị bác sĩ quen thân và bệnh viện tốt bụng ra tay cứu chữa cho thằng bé nghịch ngợm không may cha mẹ phận hèn nhập cư chưa xoay xở nổi hộ khẩu thành phố. Với Lan, con té gãy tay rõ ràng là chuyện xấu, nhưng dù sao, không phải xấu nhất!
Thậm chí cũng không việc gì phải sầu não về nghiệp chướng tưởng chừng độc đinh của dòng họ, tới đời thứ tư cũng chỉ có nhõn một gã trai Tôn Thất Lan. Thì có sao đâu nhỉ? Cùng tắc biến, biến tắc thông. Thì đó, vợ chồng Thúy Lan tới nay đã có hai anh con trai Tôn Thất Lẫm và Tôn Thất Long đang tuổi làm ăn, sung sức sinh sôi, và đã có hai cháu nội trai, một cháu nội gái! Vẫn máu khôi hài, lúc đẻ con trai, Lan thêm thắt hỗn danh cho hai cậu nhóc: anh là cu cứng, em là cu cong. Tự trào mà cũng là tự hào. Cu-cứng-cu-cong, một phần thể hiện thành công phá thế độc đinh của dòng họ, phần còn lại hẳn là tự hào về… “bản lĩnh đàn ông!
Trong cuộc họp Họ mở đầu thế kỷ 21, Văn Trí lấy nê bận nhiều việc công tư, xin thôi trưởng ban liên lạc, đề nghị bà con tìm người thay. Lập tức ba bốn bà nhanh nhẩu đề xuất: cử Tôn Thất Lan! Nhưng rồi một bậc trưởng thượng phát biểu dè dặt:
- Tôi thấy mọi việc ông Lan phụ trách đều kết quả tốt, chỉ có điều phân vân trưởng dòng Lê Khắc là một ông Tôn Thất ngoại tộc, ngó bộ không giống ai!
Trí cố dàn xếp:
- Ngoại tộc có cái hay của ngoại tộc. Dòng họ ta đặc biệt - Trí giở ngay tộc phả - Đây này. Danh sách đầy đủ họ tên, ở Sài Gòn có hơn 300 người, trong đó khoảng 100 là dâu rể (hôn phối). Đích thực hậu duệ nội ngoại của ngài Bồ Nam là 200. Trong số đó, tôi đếm được không tới trăm người họ Lê Khắc. Còn trên trăm người thuộc hàng chục họ: Nguyễn, Trần, Hồ, Tôn Thất, Phan, Đỗ, Lưu, Hoàng, Đặng, Lý, Phạm, Bùi, Đoàn, VõỜ thì gọi là ngoại tộc. Nhưng ngoại tộc chiếm số đông, thì cử một người trong số đó làm trưởng cũng được chứ sao!
Cử tọa ồ lên, nhao nhao. Lạ, bàn kỹ thì rốt cuộc ý kiến thiểu số ban đầu thắng thế. Đại để là tuy Tôn Thất Lan hoàn toàn đủ tín nhiệm làm trưởng ban, nhưng dù sao chúng ta chọn người nội tộc vẫn hay hơn. Vậy thì Văn Trí không được phép hưu. Lan sướng quá, cười, vỗ tay bồm bộp.
Khi mọi người về gần hết, Trí bá vai Lan: nào, hai ta tiếp tục. Mình từ Bắc vô, hòa nhập với  phương Nam, thấy tình cảm họ ngoại thân thương chi lạ. Ngoài phố, trong chợ, cứ kêu nhau bằng dì hai ơi, cậu hai ơi, ngoại ơi nghe như chung một gia đình. Chứ kêu bằng nội, chú, ”… coi tuồng nhạt nhẽo! Cứ ngẫm câu tục ngữ sẩy cha còn chú, sẩy mẹ ấp vú dì; đứa bé mồ côi tá túc nhà chú đằng nội với lý lẽ tính đếm khô khan, còn đằng ngoại, nhà dì thì chan chứa yêu thương ôm ấp đứa cháu máu mủ ruột rà!                                                               
Có lẽ tâm thức hiếu nghĩa tốt lành thấm sâu vào Tôn Thất Lan từ những ngày bé tí sinh hoạt Phật tử Hướng Thiện. Từ bi hỉ xả, vị tha. Ở trường Phan Châu Trinh, ở quân trường, ở trại cải tạo, ở trung tâm ngoại ngữ, ở Ban liên lạc đồng hương Huế, dòng tộc Lê Khắc, hễ việc gì có lợi cho cộng đồng là Lan không tiếc sức. Không kể công, không vụ lợi. Dí dỏm tuyên ngôn qua bài ca Cộng đồng tôi: Không ai làm thì tôi làm! Không ai ăn thì tôi ăn (ê, những gì ăn được thôi nghe!) nên cộng đồng tôi luôn sạch sẽ gọn gàng, thấy chưa, mình vui cả làng!
Cộng đồng tôi của Lan nào có ít ỏi nhỏ hẹp cho cam! Tuổi 70, Tôn Thất Lan vẫn dạy mỗi tuần ba bốn chục tiết Anh văn. Việc chung to nhỏ ai nấy đều muốn trông cậy vào Lan. Chủ nhiệm Câu lạc bộ ca Huế; cố vấn văn nghệ Hội đồng hương. Chăm sóc từ đường và lăng mộ bên nội Tôn Thất ở Huế (độc đinh nên phải gánh vác tất tật!). Rồi cũng từng ấy trọng trách bên họ vợ ở Đà Nẵng. Lan đi như con thoi, như không biết mệt. Được cái, ngày nào cũng nẩy sinh đôi niềm vui nho nhỏ, tới đâu cũng thu hút những nụ cười bè bạn.
Tiếng Anh và Tiếng hát, Hiếu thuận và Thảo hiền như đôi cánh đời Lan, động lực vượt qua hiểm trở, hòa hợp thiết cốt với gia tộc và cộng đồng.
Đức năng thắng số. Đời Lan bao lần gặp rắc rối nguy hiểm nhưng lại may mắn thoát khỏi. Như phép lạ hóa giải hoạn nạn truân chuyên. Ngộ biến, thoát hiểm nhờ bạn hữu. Vượt khó, ổn định cuộc sống cũng nhờ bạn hữu. Lan bộc bạch: Con cháu của em bây giờ có đủ cơm áo cũng nhờ tổ phúc hai bên nội ngoại. Nhà ông ngoại các cháu (ngài Văn Xuyên Lê Từ) sẵn lòng giúp thóc gạo cho hàng xóm qua cơn đói kém, có người thiếu thốn quá không trả nổi, Ông cũng không đòi. Các con  thắc mắc sao không thấy họ trả thì Ông cười: Có chứ, bây giờ họ chưa trả cho Thầy thì sau này sẽ có người trả cho các con!  Lan ngẫm lại, y như rằng, linh nghiệm! Chẳng hạn chuyện Lan xây nhà. Thầy giáo nghèo thất thế sa cơ lỡ vận chỉ biết dạy học kiếm tiền nuôi mẹ già, con dại, mà vẫn mơ tưởng một cái túp nhỏ nhoi khả dĩ che nắng mưa. Đau đáu nghĩ tới một mái nhà, bởi kiếp ở nhờ và thuê phòng trọ sao mà khốn khổ. 8 năm trời 6 lần dọn nhà. Dọn thì rất gọn, chỉ một xích-lô chở mền gối và soong nồi chén bát. (thêm sách vở và hai cây đàn mandoline và guitare). Nhưng ở đâu cũng khổ. Hoặc chủ nhà gây khó dễ. Hoặc cảnh sát khu vực đe nẹt thiếu giấy tờ. Gieo neo không kể xiết. Nào bồi bổ ngũ quan bằng dưỡng chất là trăm thứ rác rưởi cống rãnh muỗi mòng giữa lòng chợ Bà Chiểu. Nào luyện rèn sức vóc bằng cầu thang ọp ẹp dốc đứng, mỗi nhân mạng góp vào vài cú té ngã - trừ bà mẹ 80 được cõng lên gác gỗ
“… Nhớ lại mà thắt lòng thương Mẹ tôi cả đời cá chuối đắm đuối vì con. Về với Cậu 10 năm, Mợ mới sinh được tôi, khi bà đã 40 tuổi. Rứa mà 7 năm sau đã thành góa phụ. Tôi nhớ lúc Cậu bệnh, người thầy thuốc tận tâm cứu chữa là bác sĩ Tây y nổi tiếng Lê Khắc Quyến. Bệnh Cậu trở nặng, Mợ cho mời, bác sĩ Quyến đến lật đật chạy vào phòng, chích ngay ống thuốc cuối cùng - thuốc hồi dương, và buồn rầu nói: dượng đi rồi, o ơi! Mẹ tôi lăn lộn gào thét. Cây đàn nguyệt treo nơi bàn thờ rồi cũng đem cho vì thấy lại buồn quá!. Sau đám tang Cậu, Mợ dẫn  tôi tới trường Thượng Tứ xin học. Trường chưa có lớp 5 (lớp 1 bây giờ), nên đành vào lớp 4 (lớp 2). Cứ thế mà lết cho hết bậc tiểu học.
Mẹ tôi thuộc loại lý sự, nói lý không chịu thua ai. Đã có lần Mợ cãi bayông thầy dạy tôi lớp 3. Số là tôi vì một chuyện không đâu mà bị thầy đuổi học, giữa buổi ôm vở về khóc như mưa. Mợ liền dẫn tôi đến trường, xin gặp thầy hỏi cho ra lẽ. Tôi bị khép tội là xô ngã một học sinh khác gây thương tích khi cả bọn ùa ra cổng trường chạy theo chiếc lambretta phát thanh quảng cáo buổi diễn kịch tối đó. Thực tình tôi không xô ai hết, mà không hiểu thầy nghe ai đó bảo tội ở tôi! Mẹ tôi liền vặn hỏi: thầy có chứng kiến không?Không, tôi đang họp chỗ khác.. Thế sao biết con tôi xô ngã bạn?. Thì nghe học trò nói!.. Thưa thầy, thế nếu nó đổ thừa cho con tôi để che giấu cho bạn khác thì sao? Rồi Mợ chảy nước mắt, than vãn mẹ góa con côi Cuối cùng thầy cười xòa, cho trò Lan trắng án!
    Có một điều lớn nhất mà tôi không thể làm vừa lòng Mợ là không theo học ngành Y để thành bác sĩ. Với Mẹ tôi thì làm bác sĩ còn hơn cả làm vua! Nhưng tôi học Y sao nổi, một khi các môn khoa học tự nhiên đều trầy trật, tính toán nhân chia ấp úng, suốt ngày, rồi suốt đời ca hát lêu nghêu
Khi đã trên 80, Mẹ tôi yếu dần. Vợ chồng tôi gần gụi săn sóc, nhưng gia cảnh bần hàn, đâu có nhiều thuốc thang tẩm bổ. Năm 1988,  Mợ được cõng lên căn gác gỗ trong căn nhà thuê ở chợ Bà Chiểu, rồi chỉ xuống một lần cuối nhờ xe hơi đón thẳng lên chùa Trúc Lâm nằm mấy hôm trước lúc qua đời. Tôi chỉ mong được sư thầy cho để quan tài bên hè Chùa, ai dè thầy phát nguyện cho đưa vào để chánh điện thờ luôn. Thực là phúc lớn không ngờ. Em bạn dì Nguyễn Văn Phước (con dì Lê Thị Mai Kha) đứng ra lo chuyện hậu sự cho Mẹ tôi. Và cũng đúng lúc đó tôi vừa được hộ khẩu để mua đất chôn cất Mợ…”
Khổ như thế, cho nên Lan nghĩ ngay tới chuyện mua nhà khi ký được hợp đồng dạy tiếng Anh cho các cô giáo tại Trung tâm nuôi dưỡng trẻ khuyết tật do tổ chức từ thiện Hà Lan tài trợ với mức thù lao mỗi tháng 300 đô. Có người chỉ mối, một mảnh đất tối tăm, dơ dáy. Lan tới xem, thấy vừa túi tiền, ưng ý ngay. Người xem đất trước đó đã trả giá hai cây vàng. Lan không muốn ép giá, nên tự mình lượng định và trả luôn: ba cây rưỡi! Chủ nhà hoảng, ban đầu tưởng nghe lầm, nhưng khi biết đúng là người mua trả như thế, liền tội chi không nài thêm, xin một chỉ nữa để làm giấy tờ. Lan gật ngay. Nhà chủ đâm choáng. Làm chi có người tính tình dễ dãi vậy? Đâm ra cảnh giác khéo không bị lừa! Nhưng rồi cuối cùng đôi bên hỉ hả thuận mua vừa bán trót lọt chóng vánh.
Có đất, tính cất nhà luôn. Vay mượn bạn hữu người một vài chỉ. Có người đưa luôn năm chỉ. Năm năm sau mới trả hết nợ, có ân nhân như Phạm Phú Ngọc Trai, giám đốc công ty nước ngọt Pepsi-Cocacola, còn xua tay: thôi trả làm gì! Nhưng Lan đã mượn thì phải trả chứ.
Sư thầy trụ trì chùa Trúc Lâm, thân thiết từ ngày tang lễ mẹ, lại nhận giúp trông nom thợ xây. Hôm cúng tân gia, bè bạn ngỡ ngàng: tao thấy đúng số nhà 152/3 Nhiêu Tứ rồi mà cứ tưởng đi lộn. Bởi có ai ngờ nhà giáo nghèo như Tôn Thất Lan mà xây được căn nhà đàng hoàng! Hôm đó có đông đủ bạn bè ân nghĩa mang tới những món quà ý nghĩa. Hơn thế, là những kỷ niệm không quên, những biểu tượng sâu xa. Này là anh Huỳnh Bá Thành họa sĩ Ớt ngày xưa, phó tổng biên tập báo Công an thành phố hôm nay, yêu quý thầy giáo cũ Tôn Thất Lan, năm nào đã thu xếp cho cả nhà nhập khẩu, nhờ vậy mà Thúy và Lan có đủ thủ tục làm đám tang thân mẫu, xếp được chỗ học cho hai thằng con, và đủ tư cách công dân Sài thành làm chủ căn nhà này. Này là nhạc sĩ lão thành Châu Kỳ thân quen mang tới âm hưởng cổ nhạc miền trung qua các ca khúcTừ giã kinh thành, Đón xuân này nhớ xuân xưa”… Này là nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương với bài thất ngôn tứ tuyệt trứ danh sâu đẫm triết lý nhà Phật:
Còn gặp nhau thì hãy cứ vui
Chuyện đời như nước chảy hoa trôi
Lợi danh như bóng mây chìm nổi
Chỉ có tình thương để lại đời
Chính tình thương bạn bè thiết cốt ấy đã tạo dựng nên nếp nhà đầm ấm hôm nay, như bốn câu bạn thơ Huỳnh Quang Gia đề tặng:
Vốn đã huy hoàng hiên lãm Thúy
Càng thêm đầm ấm nếp nhà Lan
Nhạc thơ thắm đượm tình tri kỷ
Đời mãi vui tươi với tiếng đàn
Nghe thơ, thấm thía, bất chợt ngước nhìn một món quà vô giá ngự trên tường, là bức ảnh rước về từ phần mộ đại thi hào Nguyễn Du tận chân núi Hồng Lĩnh Nghi Xuân Hà Tĩnh. Bức ảnh kỳ công chụp nguyên vẹn một chữ TÂM viết kiểu thư pháp. Như trịnh trọng lập ngôn. Như nhắc nhớ câu thơ tiên hiền hai trăm năm trước thần tình tiên đoán, lột tả thần thái phẩm cách, và cũng là bộc bạch gửi gắm tâm niệm trọn đời của đôi vợ chồng Lan Thúy chủ mái ấm tân gia hôm nay:
Chữ TÂM kia mới bằng ba chữ tài!
Lê Khắc Hoan
Theo http://lekhacvanxa.yolasite.com/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Sợi thơ vút lên vỡ ráng chiều mộng mị

Sợi thơ vút lên vỡ ráng chiều mộng mị Đèo Prenn ngun ngút sắc trời// Hờ hững ngang chiều dải lụa nàng tiên rơi mùa hội trẩy/ Lả lướt theo ...