Trăm năm ly hợp 2
(Truyện lịch sử dòng họ Lê Khắc
làng Văn Xá-Thừa Thiên Huế)
tới thành ngữ
“Miền Bắc nhận hàng/ Miền Nam nhận họ”
“Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân”.
Lúc ông tổ đằng ngoại của
Văn Trí là Nguyễn Hoàng theo khuyến dụ của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, giữa
thế kỷ 16 vượt Hoành Sơn (Đèo Ngang) lập đại nghiệp, thì ông tổ họ Lê bên nội của
Trí đã từ Thanh Hóa nam tiến lập làng giữ nước ở Thuận Hóa trước đó trăm năm,
giữa thế kỷ 15.
Nhưng với mấy anh em Văn Trí,
thì ba thập niên cuối thế kỷ 20, từ miền Bắc xuôi nam theo câu sấm Trạng Trình
là một cuộc chuyển cư đổi đời, vừa góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục
phương Nam, vừa tác động gắn kết hòa hợp dòng tộc giữa hồi ly tán.
Văn Trí hăm hở lên đường Nam tiến
ngay từ tháng 02 năm 1973. Đi bằng đường không mới sang chứ. Phóng xe đạp cuốc
Liên Xô sang sân bay Gia Lâm. Người và xe chui tọt vào tàu bay. Lần đầu bay
trên trời, sướng âm ỉ, dù chỉ cưỡi máy bay đầm già loại cổ lỗ cánh quạt
chậm rề rề. Đáp xuống sân bay Đồng Hới, đường băng trải tấm thép trên đất nện,
máy bay chồm chồm tưởng như cưỡi trâu. Lại cắm cổ đạp xe vào Vĩnh Linh, qua cầu
Hiền Lương là tới quê hương “Bà mẹ Gio Linh”- Mẹ già cuốc đất trồng khoai nuôi con đánh giặc đêm
ngày/ Cho dù áo rách sờn vai cơm ăn bát vơi bát đầy... Trèo qua Dốc Miếu,
cứ điểm tử thủ trên hàng rào điện tử Mac Namara. Anh du kích dẫn đường căn dặn
nhà báo: cẩn thận đi theo từng bước, đặt chân đúng vết chân tôi đi trước, chệch
là đạp phải mìn đó nghe. Trưởng phòng giáo dục Triệu Phong Nguyễn Văn Truyền
đưa lên thăm “chốt”, nơi giáp
ranh hai vùng phía ta và phía chính quyền Sài Gòn. Nhìn lên, thấy
bên này cờ sao vàng trên nền nửa đỏ nửa xanh, bên kia là cờ vàng ba sọc đỏ.
Vùng “xôi đỗ, da báo” là đây.
Triệu Phong có 5 xã lọt vào phía bên kia, cùng với huyện Hải Lăng và Thành cổ
Quảng Trị - chiến trường khốc liệt từ tháng 6 đến tháng 9 năm 1972 phải hứng chịu
một lượng bom đạn mà sức công phá của nó tương đương với 7 quả bom nguyên tử
ném xuống Hérosima (Nhật Bản) trong đại chiến thế giới lần II - 1945. Anh
Truyền đưa Văn Trí đi thăm các lớp vừa xóa mù chữ vừa “vỡ
lòng”. Các em nhỏ ngồi bên thanh niên du kích và cả các
chị học vỡ lòng mà vàng đeo đầy người. Xúc động, về Hà Nội làm một cái ký
chiếm trọn hai trang báo giới thiệu “Trường học của
miềng”.
Lê Khắc Hân thì đi cùng đoàn “Trại sách B” để hướng dẫn dùng sách
giáo khoa mới. Rồi năm 1975 thì vào hẳn, góp phần dẫn dắt đội tuyển học sinh giỏi
Toán Bình Trị Thiên 6 năm liền làm nên kỳ tích đẹp như mơ.
Hân tốt nghiệp khoa toán đại học sư
phạm Vinh năm 1962, khi tròn 20 tuổi. Trong số 22 người con của ông Văn Phố, chỉ
có Hân cầm trong tay bằng đại học chính quy. Vào nghề dạy toán ở cấp 3 Gia Lộc,
Hải Dương. Dạy giỏi, viết lách khá, nên lọt mắt xanh cơ quan quản lý. Được điều
lên Ban tu thư soạn sách giáo khoa “B”,
tức là sách dùng cho các trường học vùng giải phóng phía Nam đang ngày càng mở
rộng, cho tới 1975 thì “mở” ra
toàn miền Nam.
Đó chính là cơ duyên đưa Lê Khắc
Hân trở về trực tiếp phục vụ quê hương. Trên trang web của gia tộc Lê Khắc làng
Văn, chú út đã thuật lại cặn kẽ thành tích huy hoàng ngành giáo dục Bình Trị
Thiên bồi dưỡng học sinh giỏi môn toán giai đoạn 1975-1983.
“…Ngày
đầu tôi đến ty giáo dục nhận công tác, anh trưởng ty Nguyễn Kỳ ôm vai thân mật,
giọng Huế chay nhỏ nhẹ tình cảm: “… Hân chú ý, trong
khi quán xuyến chăm lo chất lượng đại trà, đừng có quên mũi nhọn nhé”. Cái “mũi nhọn chất lượng” ấy, tôi luôn nhớ. Lúc còn dạy học ở Hải Dương, tôi đã tham
gia bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi toán của tỉnh, rất thú vị mô hình lớp phổ
thông chuyên toán.
Lúc này (1975-1976), miền
Bắc đang theo hệ giáo dục phổ thông 10 năm, các lớp phổ thông chuyên toán đã có
chế độ chính sách ưu đãi rõ ràng, đã thực hiện ổn định chương trình và sách
giáo khoa, … Thừa Thiên-Huế và toàn miền Nam thì thực
hiện chương trình và sách giáo khoa mới của hệ 12 năm, chưa có chút gì cho
chuyên toán. Vậy là phải tự làm từ bước đầu. Trước hết, xây dựng chương trình
và biên soạn tài liệu giảng dạy. Tìm trong “vốn nhà - tại
chỗ”, ở đại học tôi mời các anh Lê Đình Phi, Lê Tự Hỷ,
Lê Tự Rô và ở phổ thông là các anh Châu Trọng Ngô, Lê Quanh Ninh, Ngô Viết Diễn,
Ngô Hữu Phước, Lê Văn Thu…cùng nhau bàn thảo nội dung
chương trình và chia nhau biên soạn giáo trình. Chọn trường Quốc học làm nơi đặt
các lớp chuyên toán…Quan trọng hơn hết là thuyết phục
lãnh đạo tỉnh duyệt chế độ chính sách tạm thời cho lớp chuyên gồm học bổng và
phần thưởng cho học sinh, kinh phí cho bộ máy nhân sự và cơ sở vật chất, chế độ
lương thưởng đối với giáo viên. Cuối cùng là chọn thầy và tuyển trò. Nhanh
chóng tìm ra cho mỗi lớp chuyên toán hai giáo viên giỏi phụ trách môn chuyên,
còn giáo viên các môn khác chọn ngay trong trường Quốc học. Trò thì tổ chức thi
tuyển. Năm học 1976-1977 đã là tỉnh lớn Bình Trị Thiên, trong một tỉnh có hai hệ
giáo dục phổ thông, lấy Hiền Lương làm “giới tuyến”, nửa Nam hệ 12 năm, nửa Bắc hệ 10 năm. Trong khó khăn,
ngay năm học ấy Bình Trị Thiên xuất quân tham dự kỳ thi học sinh giỏi với toàn
miền Bắc và môn Toán đoạt giải nhất toàn đoàn.
Thực hiện cả hai hệ nên khối lượng công
việc chỉ đạo chuyên môn, tổ chức thi cử... luôn phải nhân đôi. Dạo đó công cụ
còn thô sơ. Tôi sử dụng thành thạo máy đánh chữ. Trong các kỳ thi toán, trưởng
ty Nguyễn Kỳ (vốn là giáo viên toán) duyệt, tôi ra đề và đánh máy xtăng-xin, một
công nhân quay rô-nê-ô. Tôi tự tay đốt bản xtăng-xin, bản in thử rồi cho đề thi
vào phong bì, niêm phong. Đề thi đảm bảo tuyệt mật.
Thầy dạy chuyên toán “cây nhà lá vườn”, ưu tiên trẻ, thực
sự có năng lực, chú trọng phương pháp dạy tư duy cho học sinh giỏi.
Ba thầy giáo trẻ Trần Văn Khải, Trần Thanh Thiên và Lê Văn Quang được phân công
chủ nhiệm 3 lớp với sự tiếp tay của các nhà giáo tuổi nghề già dặn, kiến thức
uyên thâm, kinh nghiệm dày dạn như Ngô Viết Diễn, Lê Văn Thu, Ngô Hữu
Phước… Chúng tôi lần lượt mời các giáo sư Phan Đức
Chính, Lại Đức Thịnh, Văn Như Cương, Ngô Xuân Sơn, Nguyễn Đăng Phất… về Huế, vừa truyền đạt kinh nghiệm dạy học sinh giỏi toán,
vừa bồi dưỡng các chuyên đề quan trọng cho đội tuyển.
Năm học thứ 3, Huế đã có Hồ Đình Duẩn
được chọn vào đội tuyển quốc gia dự thi Olympic toán quốc tế (IMO) năm 1978 ở
Rumani và em đoạt giải ba. Đó là thành tích đầu tiên của các tỉnh phía Nam!
Và cũng là kỷ niệm không quên với bản thân tôi. Số là trong các lần Huế có học
sinh giỏi được chọn vào đội tuyển quốc gia, tôi đều nhận lãnh nhiệm vụ “chăn dắt” các em. Kỳ thi năm 1978 ấy,
thầy trò bay ra Hà Nội, lần đầu bỡ ngỡ, kinh phí eo hẹp, tôi đưa Duẩn về tá túc
nhạc gia của tôi. Dù nhà cửa không mấy rộng rãi, ông bà cụ dành riêng cho thầy
trò cả căn gác yên tĩnh để “tu luyện”.
Ngày ba bữa, mẹ vợ tôi- một bà cụ Huế chính gốc - thết đãi món ăn Huế ngon lành
khiến Duẩn lần đầu ra Hà Nội mà tưởng như sống ở nhà mình.
Thắng lợi quốc tế đầu tiên
khích lệ chúng tôi lao vào việc bồi dưỡng các lứa học sinh giỏi tiếp sau. Tại
Vương quốc Anh năm 1979, Lê Bá Khánh Trình đoạt giải nhất và giải đặc biệt. Năm
1982, tại Hungari, Ngô Phú Thanh giải nhì. Năm 1983, tại Pháp, Nguyễn Văn Lượng
giải nhì và Hoàng Ngọc Chiến giải ba. ( Thành tích quốc tế gián đoạn bởi hai
năm 1980 và 1981 nước ta không dự thi IMO; còn thi chọn học sinh giỏi trong
nước thì đội toán của Bình Trị Thiên vẫn dẫn đầu).
Suốt đời tôi không quên
cái đêm mưa Huế dầm dề năm 1979 ấy, tình cờ đi qua một chiếc loa
công cọng đúng lúc phát thanh viên đọc vang lên “Lê Bá
Khánh Trình đoạt giải nhất và…” Vậy là hối hả đạp xe tới
nhà anh Nguyễn Kỳ. Chia sẻ niềm vui, ôm nhau trong đầm đìa nước mắt….
Lê Trần Cảnh thời kỳ 1960-1970
đã học thêm văn hóa tốt nghiệp “tú tài”,
rồi lẽo đẽo theo trường Đại học Sư phạm Vinh thời chiến sơ tán lên vùng núi Thạch
Thành, dùi mài đèn sách 3 năm ròng, lấy bằng chính quy Đại học Toán. Năm 1975,
anh Cảnh chuyển vùng về quê vợ, làm tổ trưởng chuyên môn, dạy toán cấp 3 Hương
Trà được 3 năm thì về hưu. Học trò cũ thường rủ nhau tới thăm thầy Cảnh, biếu
cân chè, chai rượu… Có những món quà giá trị vật chất
đâu có nhiều mà nhớ mãi. Năm ấy học trò Hương Trà kéo lọc cọc vào thành phố Huế
một xe ba gác chất đầy thân cây sa mộc đã cưa bằng đầu bằng đuôi, chở tới nhà số
10 Trần Thúc Nhẫn, nói là quốc lộ Một mở rộng nên triệt hạ hàng cây bên đường
mà thầy Cảnh đã cùng bọn em trồng năm 1976. Nhà trường bảo chúng em mang thành
quả của thầy ngày xưa tới biếu thầy.
Tấm lòng trọng đạo tôn sư làm
dịu nỗi buồn nhà giáo già. Anh Cảnh tự vịnh:
Sống
đến tám mươi kể đã nhiều
Xưa
nay tuổi ấy có bao nhiêu
Tai
lành tai điếc nghe ngơ ngác
Cẳng
thấp cẳng cao bước vẹo xiêu
Mắt
sáng mắt mù nhìn chập choạng
Tay run
tay rẩy viết cong queo
Ơn
trời cái óc còn minh mẫn
Quý 3 năm 1975, nhà xuất bản Kim Đồng
tái bản lần hai cuốn truyện “Mái trường thân yêu”, Văn Trí tới nhận nhuận bút, gặp nhà văn Văn Hồng, trưởng
phòng biên tập. Trí thân với Hồng từ 1964, khi Hồng viết bài trên tạp chí Văn học
giới thiệu nồng nhiệt cuốn “Mái trường…”
Sang 1968, “Mái trường…” tái bản
lần đầu, cũng chính Hồng góp một số ý đột phá giúp Trí bổ sung nhuận sắc.
Đếm đủ tiền nhuận bút, cất túi, gài nắp
cẩn thận, Trí mới quay ra tán gẫu. Thời điểm ấy, cán bộ Hà Nội đang ùn ùn vào
nam thăm thân, rộn ràng “miền bắc nhận hàng, miền nam
nhận họ”. Văn Hồng hỏi Trí:
- Nghe bảo cậu vừa đi Sài Gòn thăm anh chị ruột, khuân
ra bắc cả núi quà?
- Ờ, xếp chật toa tầu - Văn Trí cười to - Nhưng anh
chàng nhà báo Bắc Việt này vẫn tư thế ngẩng cao đầu, cho không lấy thấy không
xin. Mua sắm thứ gì, mình xì tiền túi. Không nhận quà tặng. Không ngửa tay xin.
Chẳng thiết nhận hàng!
Văn Trí vào Sài Gòn
từ giữa tháng 7-1975. Hành trang gọn nhẹ. Xẹp lép sau lưng chiếc ba
lô con cóc. Cộm túi ngực mớ tiền ngân hàng quốc gia Việt Nam vừa rút
từ sổ tiết kiệm. Thêm một tấm thẻ nhà báo kèm giấy phép “đi
vào miền Nam” do Ban Thống nhất trung ương cấp. Chặng
đầu, Hà Nội - Vinh, đi đường sắt, ngồi tàu đêm có hai toa dành riêng chở cán bộ
về Nam thăm quê. Bốn giờ sáng tới ga Vinh. Đoàn xe tải lù lù chờ sẵn.
Văn Trí leo lên chiếc cuối, ngồi bệt sàn xe, chen vai thích cánh mấy chục bạn đồng
hành háo hức hồi hương sau mấy chục năm tha phương. Xe chạy dọc quốc lộ Một.
Con đường huyết mạch vùng “cán xoong”,
sau 8 năm đạn bom băm nát, chỉ kịp sữa chữa chắp vá sơ sài. Xe tải bò rì rì,
xóc nẩy tưng tưng. Tới Đà Nẵng, đổi xe khách, mỗi người một ghế đệm êm ru. Lao
như bay trên đường nhựa phẳng lì. Chỉ giảm tốc độ tránh xe ngược chiều. Đoàn
người đi phép xuôi nam răm rắp quay đầu sang trái, dán mắt ngó xe ngược bắc.
Qua khung cửa sổ, không tài nào nhìn rõ mặt những người trả phép, mà chỉ thấy
hàng hóa ngôn ngốt chồng chất, toàn những búp bê nhựa, quạt máy, khung xe đạp.
Xe Trí xuýt xoa bàn tán hết ồ tới à. Xôn xao từng chặp, vẫn chủ đề Bắc Nam một
nhà thì miền Bắc nhận hàng, miền Nam nhận họ.
Vào Sài Gòn, Văn Trí cũng hăm hở
săm soi các loại hàng điện tử, vải vóc ê hề. Nhưng giữ kẽ, không
xin. Anh Trần Văn Kinh và chị Bích Hà ép mãi, Trí mới cầm một chiếc chemise cũ
của cháu Anh Tuấn, kiểu áo đuôi tôm lạ mắt. Trí đem bọc tiền mang từ Hà Nội ra
chợ Bến Thành đổi lấy tiền Nam, suýt bị hai thằng du thủ du thực cướp trắng
bằng trò làm xiếc nhanh như chớp đánh tráo gói tiền. May có mấy cháu gái Thục
Hà, Phi Hà bọc lót áp sát kịp vạch trò gian. Anh chị và các cháu dẫn lượn chợ,
khuân về la liệt nào quạt máy, vải vóc, máy thu thanh, xe đạp. Cầm bản kê dài dằng
dặc “Quà tặng gia đình xin mang ra Bắc”
tới Ủy ban quân quản thành phố, được bút phê độc một chữ “thuận” kèm con dấu đỏ chót, thế là yên trí lọt qua Trạm kiểm soát
liên hợp đầu cầu Hiền Lương.
Đồ đạc lỉnh kỉnh chất lên
mui ô tô khách, chằng buộc kỹ lưỡng, êm thấm vượt hai chặng đổi xe đường dài
Sài Gòn - Huế và Huế - Thanh Hóa. Chặng cuối, xe lửa Thanh Hóa - Hà Nội mới thật
là chuyến tàu bão táp.
Chuyến tàu Vinh - Hà Nội
chậm mất hai giờ, giữa trưa lừ đừ vào tới ga Thanh Hóa thì đã chật ních người.
Toa nào toa nấy như nêm cối. Khách ào lên tàu, chiếm chỗ đứng ở bậc lên xuống.
Người đeo bám cửa toa như chùm mít lúc lỉu. Trí đang điên ruột giữa đống hàng
ngổn ngang thì ở khung cửa sổ giữa toa số 7, thò ra một mũ cối gắn quân hiệu, một
gương mặt trẻ măng nhễ nhại mồ hôi, và tiếng thét to: “Này,
chuyển hàng lên đây bọn em giữ cho.” Thôi đành liều.
Trí thoăn thoắt nâng nâng, dúi dúi, nào túi nào bọc, nào ba lô, quạt máy. “Khiếp, của nả ở đâu khuân ra lắm thế! Tất cả sáu món, nhớ
nhé. Thôi nhanh lên mang gửi xe đạp kẻo tàu chạy bây giờ!”
Trí cuống cuồng chạy lên toa chở hàng ở đầu đoàn tàu, gửi được chiếc xe, chạy dọc
đường ke về toa số 7 vừa hay tàu rúc còi báo hiệu chuyển bánh. Ở cửa sổ chỉ
loang loáng thấy người lúc nhúc. Đầu tàu hổn hển, bánh tàu xục xịch. Trí hớt hải
giật lui về cuối toa. Bậc lên xuống người bu đông đặc. Chới với. Không tài nào
len lên. Đúng lúc đó, ở cửa sổ phòng vệ sinh ló ra một cái mũ bộ đội với cánh
tay huơ huơ: nhảy bám lên đây, cánh tớ kéo! Tối tăm mặt mũi, không còn hiểu nổi
mình chui qua cửa sổ bằng cách nào, cuối cùng rồi cũng đứng được một chân trong
phòng vệ sinh chen chúc quân phục. Ơn trời, cái mũ cối chụp trên đầu và cái máy
thu thanh bán dẫn Sony đeo hông vẫn còn nguyên! Cứ nghiêng người đứng một chân
như thế suốt 7 giờ. Tịnh không thấy nóng bức, mỏi mệt. Chỉ lo ngay ngáy về các
món hàng coi như đồ vô chủ đang nằm rải rác đâu đó trong toa. Mỗi khi tàu dừng ở
ga xép, Trí lại cố lách người thò đầu qua cửa sổ, dõi theo ai đó vẻ mặt sao nom
gian gian, đồ đạc mang xuống sao nom giông giống gói bọc của mình. Phấp phỏng,
hồi hộp rồi le lói hi vọng…Thôi đành, trời cho sót lại
món nào mừng món đó.
Tối sập, tàu mới tới ga
Hàng Cỏ Hà Nội. Mạnh ai nấy chen. Lúc Trí tay không lách ngược dòng người, tới
được giữa toa số 7 thì chẳng còn thấy một chiếc mũ bộ đội nào. Hốt hoảng nhìn
xuống các gầm ghế. Đây rồi, một. Đây rồi, hai. Đây, ba, bốn, năm. Và thở phào:
sáu. Đủ cả sáu món hàng, gói bọc ni lông không xuy xuyển, cánh quạt máy không
cong vênh. Rõ là phép lạ!
Thế là Văn Trí “vào cầu”! Nguyên tiền “chênh lệch” bằng một năm lương phóng
viên bậc 5 mỗi tháng 86 đồng. Hàng họ mang ra chỉ dùng ít vải vóc, thửa một bộ
Tôn Trung Sơn 4 túi láng cóng, còn thì “cho đi ở”.
Cứ một hai năm có chuyến công
tác vô Nam, Văn Trí đều kết hợp khuân hàng ra. Năm 1977, Văn Trí cùng nhà
thơ Nguyễn Thái Vận đi tuốt xuống Cà Mau, làm việc quên giờ giấc, và qua mỗi tỉnh
đều xin giấy mua phân phối một cái xe đạp. Cuối đợt, Vận “một
con” khiêm tốn nhận phần một xe, còn Trí “bốn con” ham hố ba chiếc! Năm ấy tàu
Thống nhất bắt đầu chạy suốt Sài Gòn – Hà Nội. 4 xe, buộc
làm 2 cặp. Thuê xích lô ra ga Bình Triệu. Vào cửa soát vé, hai “cây bút” sức yếu, không vác nổi mỗi
người một cặp xe. Bèn hò nhau khuân một đoạn lại đặt xuống, quay lui khuân tiếp,
kiểu “sâu đo”. Mấy cô soát vé lắc
đầu cười thông cảm.
Chuyến ấy quá cồng kềnh nên chơi sang
thuê xích lô. Chứ thường thì đi công tác dè sẻn từng hào. Không ở khách sạn mà
ngủ nhờ phòng tập thể 2B Điện Biên Phủ của nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm. Nằm tạm ghế
bố đặt trong toa-lét cũ. Ăn thì tùng tiệm nấu một món trên cái bàn ủi chổng ngược
làm bếp điện, mấy anh em xì xụp qua quít. Từ nhà Tiềm ra ga Bình Triệu đi tàu
Thống nhất, Văn Trí vẫn tay xách nách mang cuốc bộ. Có bữa một bác xích lô đang
ngồi vểnh râu đọc báo, thấy Trí lếch thếch ngang qua, liền mời cậu hai ơi ngồi
lên xe đi cho lẹ. Dạ, cám ơn, gần tới Bình Triệu rồi, đi bộ khỏe người. Khỏe
chi, túi nhỏ túi lớn trĩu sau lưng trì trước mặt bễ bượi hai vai. Trời đổ lửa,
mặt hăm hia mồ hôi giọt giọt thế kia! Thôi ngồi lên đây tôi xin cậu ba cắc
thôi! Trí chịu thua. Ông xích lô đi đường vui chuyện. Quý anh Hà Nội làm ăn
tiêu pha khác chúng tôi. Quý anh lĩnh được đồng lương nào là nộp hết cho vợ, đố
có sơ sểnh lấy một cắc. Sài Gòn bọn tôi khác. Đạp xích lô một ngày kiếm được
mươi lăm đồng thì mang về cho má nó một chục. Còn mình dằn túi vài đồng, phòng
khi xe hư bất tử. Rồi sáng sáng nhâm nhi tờ Tuổi Trẻ, tô hủ tiếu, ly cà phê. Lựa
thêm tờ vé số lấy hên. Tụi tôi quen sống cách ấy, có chút tiền chia nhỏ nhiều
người xài. Đồng tiền chui khỏi túi tung tẩy đây đó. Tiền ra cửa tiền đẻ. Ngoài
phố trong chợ Sài thành thêm công ăn việc làm kẻ bán người mua…Trí
cũng góp chuyện. Như tôi ngoài Hà Nội ấy à, có ba thằng con trai sao tóc trẻ
con mọc nhanh thế. Liền sắm bộ tông đơ. Đè con ra húi đầu. Mỗi tháng coi như bỏ
vô heo đất chín cắc! Nhà báo nhà xe cười rổn rảng!
Rồi tới lúc sực
nghĩ: Ờ nhỉ, mình là nhà báo, thì phải tự cứu bằng tờ báo chứ nhỉ. Nài
nỉ xin Bộ Thông tin cho ấn hành một phụ san. Mùa hè 1990, được cấp giấy phép số
198/BTT cho xuất bản mỗi tháng một số chuyên đề báo Giáo viên Nhân dân.
Nhưng cái tên đạo mạo ấy
làm sao góp mặt đua tranh trên sạp báo Sài Gòn?
Ở 14 Lê Trực Hà Nội, ngôi
biệt thự ba tầng xinh xắn mà trước cổng còn nám đen dấu tích lịch sử đêm đông
1972 pháo đài bay B52 phơi xác bốc cháy đùng đùng, trên lầu một, bộ ba Trường
Giang, Văn Trí, Đỗ Quốc Anh ấn định tên phụ san là THẾ GIỚI MỚI. Ở 35 Lê Thánh
Tôn Sài Gòn, nhà thơ - họa sĩ tài danh Hoàng Ngọc Biên cùng nhà thơ - họa sĩ
tài tử Đỗ Trung Quân phóng bút sáng tạo cái manchette THẾ GIỚI MỚI đầy ấn tượng.
Nhưng nhà in lắc đầu: không dám Thế
Giới Mới đâu nha, cứ phải Giáo viên nhân dân y chang tên khai
sinh ghi trên giấy phép!
Phải xoay xở chạy giấy phép con.
Canh me đúng dịp thứ trưởng phụ trách báo chí Phan Hiền và vụ trưởng báo chí
Lưu Văn Hân đi nước ngoài, báo Giáo viên Nhân dân làm tờ trình, tha thiết xin
cho phụ san mang tên Thế Giới Mới vì các lý do a, b, c, đ… Một phó vụ trưởng báo chí bút phê xeo xéo bên lề rằng “…Lãnh đạo đi vắng, việc gấp, Vụ đồng ý cho số này
tạm thời mang tên Thế Giới Mới…” Cộp con dấu quốc
huy đỏ chói. Máy in lập tức vận hành. Thứ trưởng và Vụ trưởng ở nước ngoài về,
cầm ấn phẩm trên tay, ngó cái bìa, đọc lướt vài bài, tặc lưỡi: cũng được. Số tiếp
đó, lại số tiếp nữa… vẫn thế, “cũng
được”. Không ai còn nhớ hai chữ “tạm
thời”. Mấy tháng sau, cấp phép tăng kỳ thành bán nguyệt
san, THẾ GIỚI MỚI chính thức vào sổ bộ khai sinh.
Những số đầu, 100 trang
Thế Giới Mới chỉ dành 30% cho chủ đề giáo dục. Ít mà tinh. Toàn chuyện nóng hổi
của nhà trường: thay sách giáo khoa, tin học nhập môn, giáo dục giới tính, bồi
dưỡng năng khiếu, đào tạo nhân tài, cải cách đại học…
Phân nửa dung lượng dành
đăng tải tri thức mới, chuyện lạ thế giới, bổ ích hấp dẫn. Đầu thập niên 1990,
báo chí nhập khẩu nhỏ giọt chỉ phục vụ cho đối tượng đặc biệt, lại về chậm cả
tháng. Các cây bút biên dịch của Thế Giới Mới phải kỳ công “mai
phục” ở sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất săn lùng từng tờ
báo nhàu nhĩ do du khách nước ngoài quăng lại sau chuyến bay xuyên lục địa.
20% còn lại ưu ái dành cho nhà
nghiên cứu điện ảnh gạo cội Sâm Thương giới thiệu các bộ phim hút khách và các
ngôi sao màn bạc Hồng Kông, Đài Loan. Ban đầu Văn Trí còn chần chừ: liệu có rẻ
tiền mì ăn liền không anh ơi? Sâm Thương đánh thông lập tức: phải chiều thị hiếu
thượng đế. Thiên hạ đang phát cuồng lên với phim bộ Đài Loan, Hồng Kông (thời ấy
chưa tới lúc phim hành động Mỹ, cổ trang Tàu, ái tình Hàn làm mưa làm gió ở Sài
Gòn). Miễn rằng liều lượng hợp lý. Phải dụ người ta xỉa tiền mua báo. Bìa phải
bắt mắt, ảnh phải đẹp, và mỹ nữ phải…hở hang tí chút vừa
đủ khêu gợi tưởng tượng, mà không bị tuýt còi!
Thế Giới Mới số 1 “liều lĩnh” ấn hành 12.000 bản, bán hết
nhẵn trong vòng 5 ngày! Số 2 in 14 ngàn. Số 3, số 4 lên tới 20 ngàn. Từ năm
1993, 1994 trở đi, mỗi tháng bán ra thị trường trên 200 ngàn bản Thế Giới
Mới.
Đạt tới thành tựu như mơ, trước hết
nhờ đội ngũ tác giả. Ngay từ những số đầu, đã có Dương Thiệu Tống, Văn Như
Cương, Hoàng Hữu Đản, Lê Ngọc Trà, Sâm Thương, Hoàng Ngọc Biên, Đỗ Trung Quân,
Phong Thu. Cộng tác viên nòng cốt có Nguyên Ngọc, Ma Văn Kháng, Nguyễn Quang
Sáng, Nguyễn Khải, Nguyễn Kiên, Lê Nguyễn… Đội ngũ biên
tập viên hùng hậu: Trần Quốc Toàn, Vũ Trọng Thanh, Đào Quốc Toàn, Phạm Bá Thủy,
Phăng - Xi - Păng, Trịnh Quân, Nguyễn Khoa Đăng, Hoàng Đình Quang, Nguyễn Thị
Minh Thái, Hà Văn Thùy, Nguyễn Đăng Thanh, Lê Khắc Thao, Lê Lam Phong … và cả ca sĩ ưu tú Tuấn Phong. Bộ máy điều hành mỗi người
chuyên trách một hai việc. Đỗ Quốc Anh vừa làm thư ký tòa soạn vừa lo ngoại
giao liên kết. Nguyễn Vũ Tiềm vừa tập hợp các cây bút chuyên nghiệp thơ văn vừa
khai phá bài vở khoa học huyền bí bằng chuyên mục có cái tên rất gợi “Vào ngưỡng cửa thế giới chưa biết”. Lê
Khắc Hân phát huy chỗ mạnh nhà quản lý giáo dục, khai thác chất xám các nhà
khoa học hàng đầu trong nam ngoài bắc. Bên cạnh đó là một Hội đồng biên tập
thông tuệ hiếm hoi: các giáo sư tiến sĩ khoa học Nguyễn Cang, Châu Diệu Ái,
Nguyễn Chung Tú, Đào Văn Tiến, Lê Ngọc Trà, các chính khách, ủy viên trung ương
Đảng Huy Cận, Nguyễn Duy Quý, Vũ Tuyên Hoàng, Hữu Thọ. Không phải là trưng tên
lên trang Thể thức kiểu bày hàng sang trọng câu khách! Mà từng ủy viên biên tập
là tiến sĩ khoa học đầu ngành nhập vai thực chất, phụ trách thẩm định bài vở
khoa học chuyên ngành. Hai vị “Trung ủy”, Vũ Tuyên Hoàng và Hữu Thọ, đảm nhận hẳn hai chuyên mục cực
kỳ hấp dẫn bởi chất thời sự và tính trí tuệ, là “Chuyện
đời” và “Sổ tay nhà khoa học”, đều đặn gửi bài từ Hà Nội vào, đăng liên tục vài trăm kỳ
Thế Giới Mới, sau đó nhà xuất bản Hội Nhà Văn ấn hành toàn tập.
Các cây bút đồng tộc “có thâm niên Sài Gòn” như Lê Khắc
Thành, Lê Khắc Cầm, Lê Khắc Quảng, Lê Khắc Tích cũng thường lui tới tòa báo
thăm hỏi, góp ý, góp bài. Một nguồn động viên lớn với anh em nhà Văn Trí.
Một sáng thứ hai, thình lình
anh Văn Khê ghé thăm Thế Giới Mới. Ông này lạ, suốt tuổi 50 bấy bớt mà vượt
mốc 60 lại phát tướng. Có da có thịt, mặt mũi hồng hào. Khê nháy mắt: nhờ được
cởi trói, liều mạng bung ra tổ chức làm sách tham khảo cho thầy trò. Khê vừa nhận
sổ hưu, nay đi ké với đoàn cán bộ giáo dục Ninh Bình tham quan miền Nam.
Thực ra mục tiêu chính của Khê là học lỏm cách làm ăn của mấy bác “đầu nậu” Sài thành! Khê dặn: em Trí
có dịp đi địa phương nhớ dò hỏi xem có ai biết anh Thụ nhà chị Vân đang ở đâu,
lạ quá, hòa bình thống nhất hơn mười năm mà sao không liên lạc ra Bắc. Khê rủ
Trí: khi nào ra Bắc họp tranh thủ về Hoa Lư, thăm “Xóm
Lê Khắc” đông vui, xây thêm 5 cái nhà lầu hẳn hoi rồi… Trò chuyện tới đó thì Khê phải quay trở về nhập đoàn tham
quan, và Trí cũng bận chủ trì họp cơ quan.
Thành nếp, sáng thứ hai hàng tuần
Thế Giới Mới họp tòa soạn rút kinh nghiệm số báo vừa ra và “nhìn
sang báo bạn” học điều hay. Học tới đâu áp dụng tới đó.
Báo chí Sài Gòn giỏi tương tác giao lưu, thì Thế Giới Mới mở thêm “sân chơi” các loại cho cả trăm ngàn
bạn đọc. Báo bạn đi đầu làm từ thiện thì báo mình bỏ ra mấy trăm triệu đồng
trao học bổng sinh viên Cao đẳng Sư phạm Sài Gòn và trao tiền hỗ trợ các nhà
giáo ưu tú trong cả nước. Báo chí Sài Gòn trả nhuận bút rất cao? Thì ta học
theo. Ngoài Hà Nội trả mỗi bài năm mươi ngàn thì ta trả hai trăm, ba trăm, thậm
chí năm trăm ngàn. Thi tài sáng tác “truyện rất ngắn” 1000 chữ, Phan Thị Vàng Anh được trao giải nhất 10 triệu đồng,
trị giá bằng 4 tấn gạo ngon!
Chẳng còn ai ngạc nhiên “thắc mắc” tại sao bài hay ảnh đẹp khắp
nơi đổ dồn về Thế Giới Mới!
Những năm đầu thập niên 1990,
bùng nổ phụ san, hầu như mỗi tờ báo đều ra phụ san, và các tỉnh thành, các nhà
xuất bản cũng đua nhau ấn hành “phụ bản”, “số chuyên đề”
theo kiểu tạp chí “trá hình”. Thế
Giới Mới là thương hiệu ăn khách, kích thích làng báo cả nước đột nhiên xuất
hiện hàng loạt tờ “thế giới…”: Thế
Giới Trẻ, Thế Giới Phụ Nữ, Thế Giới Điện Ảnh, Thế Giới Âm Nhạc, Thế giới Hoa Ngữ,
Thế Giới Trong Ta… Tuy nhiên, sau một thời gian thị
trường sàng lọc, không ít tờ sang hẳn thế giới…bên kia.
Năm 1990, cùng lúc với Văn Trí,
dăm chục nhà văn, nhà báo từ Hà Nội “nam tiến hội nhập
làng báo Sài Gòn”. Sang tới 1995, 1996, lục tục “hồi cư - quay về Thủ đô”. Còn Thế Giới
Mới trụ lại Sài Gòn, phát triển thành tạp chí tri thức tổng hợp ra hàng tuần trực
thuộc Bộ, vững vàng đóng đô ở tòa nhà đồ sộ 322 Điện Biên Phủ. Là tòa báo duy
nhất trú đóng Sài Gòn mà chủ quản là cơ quan trung ương ở tận Thủ đô. Ăn nên
làm ra, tiếng tăm không chỉ quanh quẩn Sài thành. Thủ trưởng trung ương các
ngành tuyên huấn, văn hóa, giáo dục, thủ lĩnh các Hội đoàn văn hóa văn nghệ
cùng với bầu bạn làng báo làng văn ngoài Bắc trong Nam, hễ có dịp tới Sài Gòn
là tranh thủ ghé thăm Thế Giới Mới.
Hầu như ở cuộc giao ban tuần
nào, tòa soạn cũng nhắc nhau đặc biệt lưu ý chiều lòng bạn đọc. Bạn đọc là thượng
đế. “Thượng đế số một”. Báo
càng bán chạy càng quý từng người đọc, bạn chí thiết không bao giờ rời bỏ Thế
Giới Mới. Cả những lúc nguy nan, dăm ba lần sa sẩy tai nạn nghề nghiệp thông
thường không báo nào tránh khỏi.
Đó là khi các nhà quản lý báo
chí – “thượng đế số hai”, gọi
cách khác là trọng tài – cảnh cáo bằng “thẻ vàng”, thậm chí giơ “thẻ đỏ”. Mở đầu là vụ “Thế Giới Mới 28 sexy”. Chiều
thượng đế quá đà, lượng bài “tươi mát”
nhiều một chút, bị người nghiêm nghị phàn nàn (thực ra, mức độ sexy ở TGM28 chỉ
là “muỗi” so với thực trạng báo
chí Việt Nam đầu thế kỷ 21). Nặng đô hơn, có mùi “chính
chị chính em”, là Thế Giới Mới số 78 đăng tải
truyện ngắn dự thi “Pho tượng linh thiêng”. Ai đó tung tin cắc cớ: ám chỉ thần tượng nào đấy nhỉ. May
có Trung ủy Hữu Thọ xuất chiêu đỡ đòn: “không
có chuyện biểu tượng hai mặt ở đây, nhưng thôi các cậu từ nay cẩn thận hơn chút”. Nghiêm trọng nhất là vụ “ Đường
tăng”. Năm 1994, Thế Giới Mới phối hợp với nhà xuất
bản Hội nhà văn ấn hành tuyển tập “Truyện rất ngắn” trong đó có tác phẩm Đường tăng, truyện được đổng giải nhất
với “Hoa muộn” của
Phan Thị Vàng Anh. Giữa buổi sáng hôm ấy, thình lình nhiều trăm nhà sư bủa vây
tòa báo kiến nghị phản đối “ Truyện ngắn Đường tăng bôi
nhọ nhà Phật”. Áo vàng ngút ngát chiếm cứ khoảnh sân
trước mênh mông của tòa nhà 35 Lê Thánh Tôn. Lại còn đứng ngồi lô xô kín các bậc
cầu thang, làm hậu thuẫn cho đoàn đại biểu mươi tăng lữ chức sắc gay gắt chất vấn.
Văn Trí, rồi Đỗ Quốc Anh, luân phiên đối thoại nhã nhặn, giải thích rằng đây là
văn chương hư cấu. Nhưng vẫn không yên. Có kẻ giấu mặt giật dây nhằm cái đích
ngoài văn chương, ngoài tôn giáo. Đơn thư cáo buộc Thế Giới Mới bay tận “thiên đình”! Có chỉ dụ xuống Bộ Văn
hóa Thông tin. Bộ trưởng Trần Hoàn buộc phải ký quyết định thu hồi tập “Truyện rất ngắn”. Song, tiếng còi
thu hồi ré lên, lập tức sách bán sạch bách. Và nhiều năm sau đó, “đáp ứng nhu cầu bạn đọc”, các nhà xuất
bản in tái in hồi vài chục lần tác phẩm chất lượng cao ấy (chỉ bỏ bớt truyện Đường
tăng cho an toàn).
Năm 1996, nhà xuất bản Kim Đồng
ấn hành lần thứ sáu “Mái trường thân yêu”, trân trọng đưa vào Tủ sách vàng. Có cái lộc ấy là do cơ hội
vàng ròng tân giám đốc Nguyễn Thắng Vu rinh tùng rinh rước được chú mèo máy
Đô-rê-mon từ xứ Hoa anh đào về Việt Nam, làm nên cuộc lột xác thần kỳ của nhà
Kim Đồng. Văn Hồng tái ngộ Văn Trí ở Sài Gòn. Bấy giờ, tại tòa lầu 322 Điện
Biên Phủ Quận Mười đang manh nha mầm mống một “tập đoàn
báo chí” của ngành giáo dục. Đỗ Quốc Anh làm tổng biên
tập Thế Giới Mới. Nguyễn Vũ Tiềm và Lê Khắc Hân vừa phụ trách cơ quan thường
trú của báo Giáo dục-Thời đại vừa mở thêm báo mới. Tiềm đẻ ra phụ san Tài
Hoa Trẻ. Hân kiêm nhiệm báo Dân Trí. “Tổng quân số” tòa báo liên hợp trên bốn chục cây bút. Bạn bè quen thân gật
gù khen: “Khá đấy. Năm 1991 là tòa báo “trà-đặc-Bắc-kỳ” làm riêng tờ Thế Giới
Mới. Nay làm 4 tờ, Giáo dục-Thời đại, Thế Giới Mới kiêm Tài Hoa Trẻ và Dân Trí
thì phải kêu bằng tòa báo DÂN GIÁO TÀI THẾ- dân giáo dục làm báo tài thế!”
Văn Hồng nói: Mình muốn tặng tập
thể 322 Điện Biên Phủ một danh xưng ấn tượng hơn. Vài chục nhà giáo cự phách
kiêm cây bút văn chương có hạng, mà chung tay xây được tòa báo giàu. Đi đầu xóa
cái dớp thảm hại “nhà văn nhà báo nhà giáo nhà nghèo”. Mình sẽ viết bài tôn vinh tập thể đầu tiên ở nước ta đạt
danh hiệu bốn nhà trong một: nhà văn-nhà báo-nhà giáo-nhà giàu.
Rồi Văn Hồng đay lại chuyện cũ. Trí
chưa quên chứ, năm 1975, cậu từng vênh váo “cây bút miền
Bắc vào Nam không thiết nhận hàng”. Nay thành
tâm cúi đầu phản tỉnh đi! Ông Nguyễn Thắng Vu nhà Kim Đồng khởi nghiệp từ con
mèo máy Đô-rê-mon xứ Nhật. Còn Thế Giới Mới ban đầu bốc lên nhờ những thông tin
tân kỳ hút hồn cóp nhặt từ mớ báo Âu Mỹ ở sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất. Không “nhận hàng” của người ta, có tới tết
Công Gô thì Kim Đồng và Thế Giới Mới cũng còn lệt bệt!
Đúng quá –
Trí hưởng ứng ngay - Nhưng Kim Đồng và Thế Giới Mới “nhận
hàng” không đơn giản chỉ là nhận nguyên liệu chất liệu
như anh Hồng vừa nói. Trí đã ngộ ra điều bao trùm hệ trọng. Thế Giới Mới ăn nên
làm ra là nhờ cung cúc tìm thầy học đạo. “Đạo” ở đây là toàn bộ cung cách làm báo làm sách của Sài Gòn. Trả
nhuận bút tương xứng chất xám người tài để thu hút bài hay. Guồng máy in ấn thế
nào cho hiệu quả? Mạng lưới phát hành nhanh nhậy rộng khắp thế nào? Quan trọng
số một là làm báo làm sách phải chiều theo nhu cầu “món
ăn tinh thần” của thượng đế bạn đọc. Đó là cung cách
vùng thoát đổi đời Kim Đồng – Nguyễn Thắng Vu. Cũng là
phép lạ đổi đời Văn Trí.
Từ khoảng giữa thập niên 1970,
Văn Trí đã là cây bút hàng đầu của báo chí giáo dục. Từng viết ngàn bài lớn nhỏ
biểu dương nhân tố mới, giới thiệu kinh nghiệm đơn vị tiên tiến, trường
học anh hùng. Từng lên núi xuống biển ra bắc vào nam phụ trách hàng chục lớp bồi
dưỡng thông tín viên báo chí. Về địa phương, tới cơ quan quản lý giáo dục tỉnh
huyện hoặc thăm trường tiên tiến, không cần xuất trình thẻ, chỉ xưng tên “tôi là Văn Trí” liền được đón tiếp
niềm nở thân tình! Nhưng đầu thập niên 1990, bắt tay xây dựng cơ ngơi mới ở Sài
Gòn, “Thiên đường báo chí”, Văn
Trí dứt khoát xác định mình vào đây làm môn đồ thụ giáo làng báo phương Nam.
Càng suy ngẫm càng thấm thía bài học khai tâm mà các ân sư tận tình truyền dạy
cho trò Trí những ngày chập chững. Nói khơi khơi, như đùa như thật, rằng quý
anh ngoài ấy bao nhiêu năm ca như vẹt cái điệp khúc “Làm
theo năng lực - Hưởng theo nhu cầu”. Tụi tôi trong này
xin vô phép “chế” chút xíu,
hoán vị, thay chữ, kêu bằng “Làm theo nhu cầu - Hưởng
theo hiệu suất”. Cái gốc thành công là Làm
theo nhu cầu. Nhu cầu của bạn đọc, của thị trường báo chí. Bí quyết của Thế
Giới Mới chính là chìa khóa vàng Làm theo nhu cầu, làm báo theo cơ chế
thị trường.
Văn Hồng gật gù: chí lý. Cái chìa
khóa vàng này ở phương Nam đã có lịch sử dày công bền bỉ đúc rèn ròng rã mấy trăm
năm, từ thời Tây, thời Mỹ…Mấy chục năm qua không chỉ
riêng người làm báo làm sách ở phía bắc, mà hàng chục ngành kinh tế, văn hóa,
xã hội đã may mắn nhận được bài học cơ chế thị trường.
Ờ nhỉ…Văn Trí
sực nghĩ điều cốt lõi sâu xa: tiếp thụ bài học kinh tế thị trường, mình không
chỉ “nhận hàng” mà thực chất
chính là “nhận họ”. Một khâu trọng
yếu trong chu trình ly hợp! Bốn chục năm ly hương ra Bắc, mình lơ ngơ “cải họ” theo tập trung quan liêu bao
cấp, thất tán lạc loài, nay hồi hương về Nam, sung sướng nhận lại họ hàng gốc
gác ông cha! Cùng với Văn Trí, là mấy chục anh chị em ruột, anh chị em họ. Thảy
đều ra Bắc thời kháng Pháp, ở miền Bắc dư một phần ba thế kỷ, rồi quay trở vào,
không phải về quê Trung, mà tuốt xuống phương Nam định cư. Đã có cháu có chắt,
sinh sôi tới Thế thứ tư, tức là Thế 14 Lê Khắc. Số thành viên Lê Khắc “gốc Trung, đi ra Bắc, quay vào Nam”
tăng thành con số trăm! Theo sấm ngữ Trạng Trình, vượt Hoành Sơn, định cư
phương Nam, làm nên sự nghiệp, xây thành cơ nghiệp, vừa nhận “hàng”, vừa nhận “họ”!
Chương 10: Huế hiếu học
Một trăm năm qua, những
người Lê Khắc thành đạt vẻ như phần lớn xuất chính làm quan. Quan thượng thư,
tham tri, tuần phủ, tri huyện Nam triều. Quan tham quan phán thời
Tây. Rồi bộ trưởng thứ trưởng tỉnh trưởng huyện trưởng Nhà nước Cộng hòa trong Nam,
Nhà nước Xã hội chủ nghĩa ngoài Bắc.
Nhưng đó là danh vọng bề
nổi.
Kỳ thực, trí thức Lê Khắc
phần đông làm nghề dạy học. Nhà Nho “tiến vi quan,
thoái vi sư”. Mấy trăm năm Nho học, rất nhiều thầy đồ,
ông khóa Lê Khắc dạy chữ Nho ở trong làng ngoài tổng. Thời tân học, dạy quốc ngữ
là chính có kèm theo chữ Nho và tiếng Pháp, mở đầu là ông Lê Bang (1893-1917,
Thế thứ 9), dạy học chỉ được hai năm. Tiếp đó, Thế thứ 10 có chú Lê Khắc Nguyện
(1904-1992), chú Lê Khắc Giai (1901-1967), chú Lê Đình Trân (1906-1991), chú Lê
Viết Kính (1901-1975)...Tới thế thứ 11 của Văn Trí thì số lượng nhà giáo Lê Khắc
“bùng nổ” tới con số trăm. Vài
chục người dạy ở trường Đại học, viết sách giáo dục, làm báo giáo dục, nghiên cứu
quản lý chỉ đạo giáo dục ở các Viện, Vụ, Cục. Vài trăm đứng lớp ở trường Tiểu học,
Trung học. Hầu như gia đình Lê Khắc nào cũng có vài bốn người làm nhà giáo. Đã
có hàng trăm tấm Huân chương, Huy chương tưởng thưởng công tích nhà giáo Lê Khắc.
Quá trình hòa giải hòa hợp bà
con Lê Khắc sau ngày đất nước thống nhất dường như khởi đầu từ lĩnh vực giáo dục.
Không chờ tới ngày 30 tháng 4 năm 1975, mà ngay sau khi ký kết Hiệp định Paris
năm 1973, các nhà giáo Lê Khắc tòng sự tại cơ quan Bộ giáo dục ở Hà Nội đã vượt
sông Bến Hải, bắt đầu chặng đường chắp nối hòa hợp. Ban đầu những tưởng mau
chóng dễ dàng. Càng về sau càng ngộ ra là gian nan còn hơn cả 30 năm bom đạn. Củi,
kiếm ba năm thiêu một giờ. Thiêu một giờ chỉ còn chút tro than. Muốn nhen nhóm
vun đắp thành đống thành kho, lại đòi hỏi ba năm kiếm củi. Quá trình hội tụ, ly
tán, hòa hợp ngàn vạn con người, từ sâu xa trong tâm thức, thì ra cũng trần ai
như vậy.
Văn Trí làm báo
ngành giáo dục, trước 1975 đã đi khắp các tỉnh thành miền Bắc, sau 1975 lại đi
khắp phía Nam. Tới các tỉnh thành phía Nam, việc chính của Trí là tìm hiểu những
chuyển biến mới sau ngày thống nhất và “làm báo miệng”, kể cho nhà giáo phía Nam nghe chuyện Bắc Lý, Cẩm Bình…, các nhà trường xã hội chủ nghĩa phía Bắc. Nói chuyện ở đâu
cũng được đồng nghiệp phía Nam trân trọng. Duy có một lần…
Thính giả là những nhà giáo cốt cán tiêu biểu triệu tập từ các trường trung học
toàn thành phố. Giữa trăm vẻ mặt chăm chú tán thưởng, Trí phát hiện một khóe cười
nhạo kèm động tác nhún vai khinh thị. Giờ giải lao, dò hỏi “ai
thế?”, liền được cán bộ tổ chức Sở giới thiệu vồ vập.
Ông ta tên Thụy, Trịnh Thụy, tuổi chỉ ngoài 40. Vốn là giáo sư văn triết. Sau
thống nhất xét thấy tiểu sử chưa minh bạch nên không phân công giảng
dạy mà điều sang phụ trách thư viện. Cần mẫn, nhiệt tình, nhiều sáng kiến, xây
dựng thành công thư viện trường học tốt bậc nhất thành phố. Trí lập tức xin thu
xếp cho nhà báo làm việc tay đôi với điển hình nhân tố mới hấp dẫn ấy.
Phác họa vài nét con người Trịnh Thụy.
Chủ kiến vững, tư duy thoáng, lập luận sắc bén khiến Trí nhiều phen kinh ngạc.
Thể hình gấu, hàng ria mép hai đầu cong vểnh ngược ngạo mỗi khi cất tiếng cười
sảng khoái. Duy chỉ cặp mắt kín đáo đeo kính mát ngoại cỡ sẫm màu làm cho gương
mặt nhuốm vẻ bí ẩn. Nhưng giao tiếp chan hòa, ngay từ câu đầu thăm hỏi
quê quán của nhau. Nghe giọng nói thì đoán anh Thụy gốc Bắc phải không? Thì người
Việt nào không gốc Bắc, anh Trí gọi rằng người Huế, cũng là Huế sau công chúa
Huyền Trân. Người Việt miền Nam ai không nhớ Bắc.“Từ
độ mang gươm đi mở cõi / Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long!”. Trịnh Thụy sốt sắng cung cấp chất liệu làm báo đầy ắp
chi tiết sinh động. Đạt yêu cầu mỹ mãn! Khi Trí hể hả gấp cuốn sổ ghi chép và
giở máy ảnh ra thì ông ta xua tay: miễn phơi mặt lên báo, làm ơn tha cho tôi!
Đàng hoàng nhận xét: anh Trí sở hữu kho chuyện vô tận về thi đua dạy tốt học tốt
khá cuốn hút đấy. Tiện đà, Trí hỏi độp: thế nụ cười nhạo và cái nhún vai anh Thụy
dành cho nhà báo này nghĩa là sao?! Thụy cười to: anh Trí có thù dai không đấy?
Có gì đâu, đoạn ấy nhà báo kể chuyện tủ sách trường làng Cẩm Bình có đủ sách
Tự lực văn đoàn. Tôi liền nghĩ tới cũng chính những tác phẩm nổi tiếng ấy và
bao nhiêu sách quý cổ kim đông tây ở thư viện trường tôi bị tịch thu, thiêu hủy.
Lại còn kiểm thảo thủ thư truyền bá văn hóa phản động. Tôi mới cãi được một câu
đã bị dọa thi hành kỷ luật. Anh Trí ơi, thôi thì tôi nói thật nhé.
Cung cách quý anh tiếp xúc với chúng tôi như mấy năm qua cần phải nghiêm khắc
điều chỉnh. Quý anh tới với chúng tôi, có lẽ cũng thật lòng hòa giải hòa hợp,
nhưng sao không giấu nổi thái độ bề trên chiếu cố ban ơn. Ờ thì phổ biến bài học
giáo dục miền Bắc, rất quý. Ờ thì gạn đục khơi trong tìm hiểu giáo chức phía Nam sau
1975 tiến bộ thế nào, rất cần. Nhưng ngần ấy chưa đủ. Không sòng phẳng. Ba chục
năm qua là khúc quanh lịch sử đau thương của dân tộc. Là một cuộc chiến trong
đó chồng chéo đan xen năm bảy cuộc chiến. Có giặc ngoài có thù trong. Thù
trong, trong lòng dân tộc và trong lòng người. Các anh đừng xúc phạm gọi chúng
tôi là “ngụy”. Rõ nực cười, như
xưa kia hết Quang Trung kêu Nguyễn Ánh là “Ngụy-Ánh” lại tới Gia Long gọi Nguyễn Huệ bằng “Ngụy-Huệ”, sau đó sách báo Việt Nam dân chủ cộng hòa lại khăng khăng
kết tội “Nguyễn Ánh cõng rắn cắn gà nhà”. Quý anh chớ vội vàng rẻ rúng coi chúng tôi là loại người mấy
chục năm trước đây hùa theo ngoại bang làm giáo dục nô dịch, bây giờ thua trận
cúi đầu phản tỉnh cải tạo. Đừng nghĩ nông cạn thế. Từ 1945 tới 1975, phần đông
giáo chức miền Nam tận tâm dạy dỗ lớp trẻ, phát triển văn hóa dân tộc, tạo nguồn
nhân lực dựng xây đất nước hôm nay và mai sau. Nhìn rộng ra, trên các lĩnh vực
kinh tế, xã hội, khoa học, kỹ thuật, văn chương, kịch nghệ, âm nhạc, hội họa…, miền Nam chúng tôi 30 năm qua đều có những cống hiến thành
tựu đặc sắc mà chắc chắn rồi đây lịch sử chân chính của dân tộc và nhân loại sẽ
khẳng định. Tất cả những cái đó là bộ phận hợp thành văn hóa Việt Nam. Tại
sao quý anh không nghiên cứu, ghi nhận, phát huy? Làm như vậy mới tạo ra tư thế
bình đẳng. Hai bên ngang hàng, tới với nhau, hòa giải hòa hợp, cộng hưởng sức mạnh
dân tộc thống nhất để cùng nhau đi lên. Thật đấy. Chớ hẹp hòi tưởng rằng chỉ có
quý anh mới là giỏi là hay. Ví dụ như nhà giáo xã hội chủ nghĩa ngoài ấy tốt mười
phần, thì nhà giáo cộng hòa dân chủ trong này cũng được tám chín. Điều hay lẽ
phải nhà giáo hai miền có chỗ giống nhau, cũng có chỗ không giống vì hoàn cảnh,
bởi hệ ý thức khác biệt. Nhà giáo hai miền đều có cái hay và cái dở. Chúng ta
nên khiêm nhường trao đổi kinh nghiệm học hỏi lẫn nhau. Ai đó hợm hĩnh đóng vai
kẻ thắng trận bề trên là thiển cận dại khờ. Cùng với thời gian, rồi quý anh sẽ
ngộ ra…
Nghe, mà sửng sốt toát mồ hôi!
Văn Trí về Hà Nội hào hứng viết ngay
bài nêu gương thủ thư Trịnh Thụy tận tình sáng tạo (tất nhiên thời điểm ấy chưa
thể trưng lên báo lập luận phản biện sắc bén, thuyết phục của ông ta). Bài báo
được tổng biên tập xếp loại A. Sau một tháng, có nhiều ý kiến từ phía Nam phản
hồi rằng báo chí ngành giáo dục cần có thêm nhiều bài vở kịp thời biểu dương
nhân tố mới như Trịnh Thụy. Nào ngờ, nửa năm sau, tổng biên tập gặp riêng Văn
Trí, hạ giọng thì thào: “Trong Nam vừa mật
báo, cái thằng cha Trịnh Thụy của cậu vượt biên mất rồi…”.
Kết cục này không hề làm Văn
Trí bất ngờ. Bài báo của Trí biểu dương điển hình tiên tiến không hề mâu thuẫn
với sự cố nhân vật chính diện vượt biên. Con người như thế trong cảnh ngộ như
thế ắt phải xử sự như thế. Không buồn, nhưng Văn Trí cũng không quên lời khuyên
răn thuốc đắng dã tật của Trịnh Thụy. Chớ khờ dại hợm hĩnh ngỡ rằng quý anh
đúng đắn hay ho tài giỏi nhất trần đời!
Từ đấy, vào Huế, vào các tỉnh
thành phía Nam, Văn Trí lưu tâm tìm kiếm “những người
khuất lấp”, các nhà giáo bình thường ở miền Nam chưa một
lần nhận huân huy chương hoặc danh hiệu vinh dự. Đã cố công tìm. Đã thấy. Nhiều,
rất nhiều. Con số trăm!
Một trong những nhà giáo “chiến sĩ vô danh” lặng thầm như thế
là người em họ của Văn Trí: nhà giáo Lê Hiếu
Kính.
Là em họ, dòng Lê Khắc thuộc Chi Thứ,
nhưng Lê Hiếu Kính sinh năm 1924, tức là trạc tuổi bà chị thứ 8 của Văn Trí.
Năm Văn Trí đang nhếch nhác học lớp bét trường Trần Cao Vân thì Hiếu Kính đã có
bằng Cao đẳng tiểu học và chững chạc “gõ đầu trẻ” ở trường Thanh Phước.
Thân phụ của Hiếu Kính, ông Lê Viết
Kính (1901-1975), cũng là một nhà giáo kỳ cựu của dòng Lê Khắc, từng làm hiệu
trưởng trường làng Văn Xá. Học trò xứ Huế các thế hệ truyền tai nhau tới thuộc
lòng bài thơ “khuyến học” của
thầy Lê Viết Kính:
Học
hành gắng lấy hỡi em ơi
Ích
lợi rồi ra biết mấy mươi
Êm
ấm gia đình nhờ có học
U mê
thế sự bởi ham chơi
Kiêu
căng xảo quyệt đừng khôn nhé
Ít
ỏi thiệt thà giả lại hơn
Nước
nhà nuôi dạy, ơn đừng phụ
Hiếu
trung vẹn vẻ mới nên người
Tưởng là lời dạy con chung
chung - ông chú Lê Viết Kính của Văn Trí có tới 8 người con. Nhưng thử ghép 8
chữ cái ở đầu 8 câu thơ, rành rành tên một người: HIẾU KÍNH. Bài
thơ ấy dành riêng cho Hiếu Kính!
Tên kép là Hiếu Kính. Còn tên
riêng thực ra chỉ có một từ Hiếu mà thôi.
Bởi lẽ, ông chú của Văn Trí,
nhà giáo Lê Viết Kính “xác định chủ quyền huyết thống” một cách độc đáo, lấy tên mình làm gốc, đặt tên kép cho cả
8 người con: Đốc Kính, Hiếu Kính, Thành Kính, Nghiêm Kính, Khâm Kính, Tin Kính,
Tôn Kính và Khiêm Kính. Ngay cả phu nhân, vốn tên gốc cha sinh mẹ đẻ là Lê Thị
Quốc, cũng được đấng phu quân khả kính đổi tên thành Ái Kính!
Bởi vậy gọi tên kép là Hiếu Kính,
nhưng khi cần gọi tên riêng gọn lại, thì chỉ kêu một chữ : Hiếu. Đặt tên trưởng
nam là Hiếu, phải chăng ngài Viết Kính trên đầu thiêng liêng tôn thờ chữ Hiếu?
Có lẽ thế. Cứ ngẫm về một tình tiết sau đây. Hiện nay con cháu giữ được trên một
trăm bức thư của Viết Kính gửi thân phụ là ngài Lê Trí (1877-1953), cuối lá thư
nào cũng tự xưng danh như một lời tạ tội: “con bất hiếu
là Lê Viết Kính”!
Tới lượt mình xây dựng gia đình
riêng, thầy Hiếu Kính liền theo gương cha ông, lấy chữ Hiếu là tên của mình làm
gốc, đặt tên kép cho cả 10 người con: Hiếu Nghĩa, Hiếu Thảo, Hiếu Liêm, Hiếu Hữu,
Hiếu Trung, Hiếu Hòa, Hiếu Nhân, Hiếu Hạnh, Hiếu Thiện, và Hiếu Đễ. Đương
nhiên, bà vợ vạn hạnh cũng được sung sướng mang tên chồng; danh tính do cha mẹ
đặt là Trần Thị Bưởi được đổi thành Trần Thị Hiếu Thuận.
Cuốn hồi ký “Nghề
giáo: tôi đã chọn” của Lê Hiếu Kính được nhà xuất
bản Thuận Hóa ấn hành năm 2007 có những dòng tươi tắn kể chuyện mùa thu độc lập
1945, Hiếu Kính cùng với chị Nghê, anh Tình, mấy anh chị em dòng Lê Khắc gia nhập
đội văn công biểu diễn quanh vùng trong huyện Hương Trà. Đi tới đâu cũng được
bà con đón rước tử tế, ủng hộ cơm nước ân cần. Văn Trí, năm ấy lên 8, đi theo
các anh chị, len trong đông nghịt đồng bào vỗ tay như sấm tán thưởng các tiết mục
thanh niên làng Văn tự biên tự diễn. Này là kịch thơ Hai Bà Trưng do chính hai
chị Lê Khắc Bích Khuê và Lê Khắc Giáng Nghê sắm vai Trưng Trắc Trưng Nhị khoác
áo gấm đội khăn vàng uy nghi lẫm liệt. Này là hoạt cảnh Hội Nghị Diên Hồng mà
chính Lê Khắc Tình khua đàn cầm trịch trong cánh gà và Lê Hiếu Kính đeo râu chống
gậy lòng khòng dẫn đầu đoàn bô lão thế kỷ 13 hành tiến bốn năm vòng trên sân khấu
rầm rập khúc tráng ca “Thần dân nghe chăng sơn hà
nguy biến/ hận thù đằng đằng biên thùy rung chuyển…” Và
ở bên dưới, Văn Trí cùng đám thiếu nhi cũng gân cổ hét to theo từng câu hô ứng: “Trước nhục nước nên hòa hay nên chiến? -Quyết chiến! Thế nước
yếu lấy gì lo chiến chinh? -Hi sinh!”...
Đoạn hồi ký kết thúc ngậm ngùi:
các anh chị Nghê và Tình sau đó đi kháng chiến và đều đã hi sinh.
Lê Hiếu Kính không đi tản cư mà
bắt đầu dạy học ở làng Thanh Phước cách Văn Xá mười cây số. Bám trụ quê hương,
bám trụ nghề giáo suốt 30 năm. Và trải qua bao long đong, quăng quật, va đập thời
tao loạn. Tai ương dồn dập tới từ các phía.
Trích hồi ký Lê Hiếu Kính:
“Ngày
19-11-1946, mặt trận Huế vỡ mà ở quê tôi vẫn đi dạy. Mãi đến 06-12-1947 tôi mới
trở về làng và theo gia đình tản cư lên chân núi ở với bà con. Quân Pháp đã đổ
bộ về đến làng xúc heo, bắt gà, trút gạo, lấy cả mền mùng, chén bát, quần áo.
Nhà tôi ở gần quốc lộ nên bị mất sạch đến nổi tôi không còn mền đắp, phải đắp
bao bố và chiếu. Lúc đó lại vào tháng giêng tiết trời rất lạnh. Ngày 10-02-1947
khoảng 10 giờ sáng thân phụ tôi (nhà giáo Lê Viết Kính) trở về thăm nhà, vừa
đúng lúc bọn Pháp vào nhà lục soát. Trong cái tráp xưa có mấy vỏ đạn bắn chim bằng
đồng và một tập hồ sơ gia nhập Đảng Dân Chủ Việt Nam do Việt Minh đưa cho mà
cha tôi chưa kịp điền gì cả. Bọn Tây bắt cha tôi quỳ ở trước hiên lấy báng súng
đập vào miệng đến nổi sau phải ăn cháo mấy ngày liền.
…Nơi tôi dạy
bị chiếm, giặc cướp phá hàng ngày. Tôi phải xin Ủy ban kháng chiến cho phép vào
thành phố kiếm chỗ dạy học. Vào Huế, thất nghiệp, lang thang, lại gặp nạn, bị bắt
giam! Tôi đang suy nghĩ cách trả lời khi bị hỏi cung thì thấy một người quen đi
ngoài hành lang. Đó là bác Tôn Thất Đào (chồng bà Lê Thị Ngọc Đại, cô ruột của
Văn Trí), trước cũng ở Quảng Trị làm Tham tá Tòa sứ. Tôi chạy ra và trình bày
nguyên do bị bắt. Bác liền bảo lãnh tôi ra ngay. Hú vía! Tôi nhờ xin việc nhưng
bác cũng chịu vì người ta qua Huế từ tháng 01-1947 mà mình mãi cuối tháng 6 mới
qua. Ở Huế ngày 01-4-1947 các trường đã khai giảng lại. Mình vốn dạy trường
thôn quê làm sao xin tái bổ ở Huế?
…Cậy cục xin được
tái bổ cuối năm 1947, mà tôi vẫn ăn lương công nhật, mặc dù tôi dạy lớp đi thi,
lao tổn hơn các giáo viên khác. Bởi Việt Nam cộng hòa không chấp nhận
bằng sư phạm Việt Nam dân chủ cộng hòa của tôi. Cứ tập sự, công nhật
mấy năm liền. Mãi đến 1950, họ mới mở khóa thi gọi là thi khả năng sư phạm tại
trường Gia Hội, ai đỗ mới cho ăn lương chánh ngạch. Kỳ thi này tôi đỗ đầu (1/15
giáo viên).
…Cuối năm
1960, đang làm tổng giám thị trường trung học Hàm Nghi, tôi bị bắt. Nguyên do
tưởng là đảo chánh thành công, không cho học sinh hát bài suy tôn Ngô Đình Diệm
lúc chào cờ sáng 02/11/1960. Bị giam một tuần lễ mới được thả. Từ đó tôi lo sợ,
sáng nào lễ chào cờ cũng lo, lo cờ đứt dây, lo học sinh cử Quốc ca hát bài suy
tôn không đúng nhịp. Đến năm 1963, chế độ Diệm bị lật đổ thật sự mới yên tâm.
Lo sợ đến nỗi mang bệnh đau tim, bỏ cái gương, ngòi viết vào túi áo cũng đau,
thấy bóng dáng anh công an nào đi ngang trường cũng lo sợ. Khiếp sợ đến nỗi tôi
như đau tâm thần. Rồi những vụ bãi khoá liên tiếp hàng tuần, mỗi lần học sinh
bãi khoá là cảnh sát công an đến phê bình nào là trường không nghiêm ngặt, nào
là trường để học sinh muốn làm gì thì làm, nào là tổng giám thị quá hiền, quá
nhu nhược … Rồi những em học sinh hoạt động chống đối,
bị bắt, bị giam, bị đánh đập, bị tình nghi, soát nhà …
là tôi phải đi bảo lãnh…”
Tháng 3-1975, thành
phố Huế được giải phóng. Những tưởng… Nhưng không.
Chính quyền mới không tin cậy người đã từng làm hiệu trưởng trường tiểu học,
làm tổng giám thị trường trung học dưới chế độ cũ. Lê Hiếu Kính bị điều chuyển
làm nhân viên trường Cao đẳng sư phạm, rồi bị giảm biên, nghỉ không chế độ cho
tới lúc qua đời năm 1996.
Gian truân lận đận một đời lăn
lộn nghề dạy học. Nhưng Lê Hiếu Kính không hề nhụt chí vươn lên. Bởi đã quen chịu
cực nhẫn nhục từ tấm bé. Thuở nhi đồng, Lê Hiếu Kính cùng mẹ ở với ông bà nội
(ngài Lê Trí) và bà cố nội ( tức là cố bà Lê Mẫn nhũ danh Tống Thị Phước Đoan,
1856-1936, thế thứ 8 Lê Khắc, Chi II). Bà cố quá tiện tặn, ăn cơm thì luôn độn
khoai hạ trồng ở vườn, canh cũng khoai hạ, uống thì chè tàu hái ở hàng rào hoặc
nồi nấu cơm xong, đổ nước vào nấu uống. Mỗi lần cho Hiếu Kính ăn cơm với ruốc,
người mẹ phải dấu ruốc dưới chén cơm vì sợ Cố thấy Cố la phung phí. Căn nhà ba
gian rộng mênh mông mà chỉ thắp một ngọn đèn dầu phụng leo lét. Nhờ Cố tiết kiệm
thế nên sau này mới có ruộng đất để làm hương hỏa lo thờ phụng tổ tiên ông bà.
Có thời kỳ thiếu đói, bữa nào mượn được gạo nấu cơm thì bà mẹ giả đau bụng để
nhường cơm cho ông bà ăn. Mấy mẹ con ăn khoai. Khoai rửa sạch để cả củ nấu chín
lấy đũa dằm ra cho nát rồi xúc vào chén như xúc cơm. May khoai lang Văn Xá nổi
tiếng thơm, bở. Có hôm Hiếu Kính đang cuốc đất ở Bầu Ban, người chị họ mang cho
một gói khoai chín, liền ăn luôn cả vỏ.
Lớn một chút, tới trường, cũng thiếu thốn
trăm bề. Đi học, áo dài may bằng vải câu đối lúc bà cố mất. Có một cái sơ mi trắng
thì mặc nhớp không dám giặt vì vo mạnh là rách áo! Giày dép sắm không nổi phải
đi guốc. Lên Huế trọ học, nhà chỉ có một cái mùng đơn, con trai nhà chủ ngủ
trên giường, Hiếu Kính nằm gầm giường phủ mùng xuống cũng đỡ muỗi. Tới lớp, vóc
vạc bé nhỏ thường đứng sắp hàng phía trước, lại là học trò nhà quê ngờ nghệch
nên bị học sinh lớn chọc ghẹo đủ điều. Nhiều bữa bị búng tai rất đau, nhìn lui
thì thấy hàng sau im phắc. Không dám thưa thầy vì thầy biết đứa nào mà trị.
Thành ra chịu đau suốt năm học. Giáo dục thời Pháp thuộc có phần quá khắt khe,
học trò nhỏ thường bị roi vọt, khẻ tay, quỳ xơ mít. Có lần một cậu bạn cùng lớp
lên bảng làm toán không ra, bị dúi đầu vào bảng đen, làm cho Hiếu Kính đâm ra
khiếp sợ môn toán và đưa tới hậu quả dốt toán suốt đời. Tới mức vì kém toán mà
trượt kỳ thi vào lớp Đệ nhất niên trường Khải Định, thất học phải trở về học (dự
thính) lại lớp nhất. Đậu tiểu học rồi, mà học vẫn thua xa học sinh lớp nhất về
môn toán. Thật xấu hổ. Năm sau, vào trường tư thục Kỉnh Chỉ học đệ nhất niên,
biết thân phận dốt toán nên cần cù các môn khác như Pháp văn, Việt văn, nhờ thế
tháng nào cũng có tên Hiếu Kính trên bảng danh dự. Nhờ tinh thần ham học và biết
phát huy thế mạnh khắc phục chỗ yếu của bản thân nên năm 1946, sau 3 tháng dự
khóa sư phạm cấp tốc do chính quyền dân chủ cộng hòa mở, đặt ở Duyệt Thị Đường
trong Thành nội, Lê Hiếu Kính thi ra đậu thủ khoa 1/70.
Học hành cần mẫn như thế, vào
nghề tất thành sự nghiệp. Từ 1945 tới 1975, trải qua cả thảy 5 trường tiểu học.
Một năm ở trường Thanh Phước, là giáo viên phụ khuyết, một mình dạy cả ba lớp
Năm, Tư, Ba. Thời “độc lập” ngắn
ngủi, 1946, dạy lớp nhất trường La Chữ. 1947, “tái bổ dụng” tư học ăn lương công nhật ở trường Thế Dạ, trường Thượng Tứ. Sau
đó đổi về tiểu học Trần Cao Vân, dạy lớp Nhì rồi làm Hiệu trưởng. 7 năm làm giảng
viên các lớp sư phạm Huế, 2 năm dạy sư phạm thực hành Trần Quốc Toản
và thường được điều động biệt phái tham gia bồi dưỡng giáo viên ở Thừa Thiên,
Đà Nẵng, Quảng Ngãi. Từ 1960 tới 1975 làm tổng giám thị trung học Hàm Nghi.
Dạy nơi nào cũng được học
trò quý yêu quấn quít. Suy từ căn nguyên mình kém môn toán mà quyết không dùng
nhục hình với học trò. Ngay cả thời gian trên mười năm làm tổng giám thị, cũng
không hề “mặt sắt đen sì”. Nổi
tiếng nghiêm mà từ. Dạy bằng tình thương và cải tiến phương pháp. Kết hợp làm
hướng đạo, tổ chức chơi mà học, gần gũi thiên nhiên, cắm trại, lên núi, xuống
biển, tham quan danh lam thắng cảnh.
Hồi ký Lê Hiếu Kính kể chuyện soạn sách
giáo khoa Việt ngữ:
“… Năm 1951 tôi chấm
thi Tiểu học tại trường Thanh Long. Trước khi ra đề thi, Sở Học chánh đề nghị mỗi
giáo viên dạy lớp nhất nạp một bài chính tả tự viết... Khi mở bì đựng đầu đề
bài chính tả, ông chánh chủ khảo đọc to: “Nghỉ hè”. Tôi run lên sung sướng. Bài chính tả tôi soạn đã được chọn
và sau đó ở Bắc Việt đã in thành sách.
“… Một
hôm, ông Ưng Quả, Giám đốc Học chánh gặp tôi, bảo
hiện giờ học sinh đang thiếu sách đọc, hãy soạn một tập truyện cổ
tích. Tôi về loay hoay viết được 20 truyện dịch ở các truyện cổ tích Pháp và một
số truyện truyền khẩu. Qua năm 1954, tôi xuất bản tập: “Luật hỏi ngã đơn giản”, sách in tặng chứ không bán, tái
bản đến lần thứ 7.
“… Năm 1956, tôi và
hai bạn Phan Văn Sung, Lê Tấn Kiểm cùng nhau soạn cuốn Việt Ngữ lớp Nhì, rồi Việt
Ngữ lớp Nhất. Soạn cả ngày nghỉ, lúc nào rảnh là viết sách. Lúc này mẹ tôi bị
ung thư. Nhờ xuất bản sách, tôi có tiền thuốc thang thêm cho mẹ tôi và sắm được
một nửa chiếc xe Mobylette, nói một nửa vì phải thêm tiền nhà mới đủ…”
Hồi ký “Nghề giáo tôi đã chọn” không
ghi được vô vàn sáng kiến cải tiến chuyên môn. Nhưng trong bộ sách đồ sộ “Trường Huế” của các hội đồng môn Huế,
có nhiều hồi ức sinh động kể chuyện thầy Hiếu Kính.
Tác giả Võ Hương An viết:
“… Trong đời
đi học, bạn đã thấy một thầy giáo nào như thầy Hiếu Kính viết lên bảng đen mà y
như viết trong vở không? Chữ đều đặn, ngay hàng thẳng lối, lại có nét đậm nhạt
như viết tập. Rèn luyện cho học sinh những bước cơ bản nề nếp nhất của đời học
sinh, tôi nghĩ thầy là một mẫu mực điển hình. Bước vào lớp, bức tranh bàn tay cầm
bút đúng cách đập ngay vào mắt. Tôi thích nhất là giờ học thuộc lòng và giờ trả
luận. Bao giờ chép bài học thuộc lòng vào vở xong, thầy cũng canh đồng hồ và
cho cả lớp 10 phút học tại chỗ. Cả lớp nghe rì rầm như tiếng ong mật mùa xuân.
Thầy chọn toàn những bài hay, vào bộ nhớ của mình như đi dạo mát buổi chiều…
Học trò Huế viết chính tả thì sợ nhất
là bỏ sai dấu hỏi dấu ngã. Vì vậy, thầy dạy luật hỏi ngã rất kỹ. Bây giờ già rồi,
vẫn không quên câu thần chú năm xưa thầy truyền cho “Anh
Huyền ngã nặng, hỏi con dao có sắc không”.
… Tìm hiểu
thành tựu 30 năm hành nghề của nhà giáo Lê Hiếu Kính, Văn Trí không khỏi ngỡ
ngàng: làm sao ông em họ quý mến của Văn Trí bẩm sinh sức khỏe có phần hạn chế,
trí thông minh không phải là xuất chúng… mà có thể bền
bỉ vượt qua bao chặng đường đời gian nan nghiệt ngã để xây nên sự nghiệp? Chỉ tới
khi đọc kỹ cuốn hồi ký, mới ngộ ra.
Cội nguồn sức mạnh Lê Hiếu Kính chính
là gia giáo - hiệu ứng giáo dục của gia tộc, gia đình. Từ bà cố cần kiệm cả đời.
Cho tới tổ phụ, thân sinh.
“… Ông nội tôi (ngài Lê
Trí) ngày nào cũng la rầy về chuyện sạch sẽ, ăn bả miá xả cùng vườn là không được,
giấy loại cũng nhớp lắm. Ông còn dạy những câu chữ Hán về đạo lý làm người: “Chưởng qua đắc qua, chưởng đậu đắc đậu”
(Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu) “Tích thiện
phùng thiện, tích ác phùng ác”. Ai làm gì sai trái ông
thường la rầy “bất cận nhân tình”.
Ông thường hay nói giàu lắm cũng chỉ ăn ngày ba bữa, ngủ sáu tấc ngựa phản, đừng
làm giàu thất đức. “Để sách cho con chắc chi con đọc được,
để vàng cho con chắc chi con tiêu được, để đức cho con cháu là hơn cả”. Thành ra ông tôi làm thầy thuốc mà rất nghèo. Ai
có thai mà ngồi lên chiếc chiếu trải không thẳng ông cũng la, ông dạy là giáo dục
con từ thuở còn trong bụng mẹ, “ bỏ con vô dạ là mẹ đi
tu”. Mẹ mang thai là miệng không nói lời dữ, tai không
nghe điều xấu, mắt không nhìn cảnh tượng hung ác. Gọi là thai giáo…
“… Thân phụ chúng
tôi xuất thân con nhà nho, biết Hán tự. Thân mẫu tôi đọc được sách Tam Quốc
Chí, thường kể chuyện, chuyện đời xưa có, đời nay có, các chuyện trong Nhị Thập
Tứ Hiếu, chuyện vui, buồn, dạy chúng tôi tính thật thà, ngay thẳng, thương người.
Mẹ tôi hay đố các chữ Hán, tôi nhớ Mẹ đố câu: “Cục đất
trên có cây sào, con xây lưng lại không chào mặt cha”
là chữ gì? Đó là chữ “Giáo”
nghĩa là dạy…
“… Vì muốn đền
ơn trả nghĩa lúc đói khó ở quê nên cha mẹ tôi đem một số con cháu họ hàng qua
nuôi ăn học. Có lúc lên đến 25 người, mỗi bữa ăn 3 mâm, thấy rổ chén đọi ai
cũng tưởng nhà có kỵ. Lương tiền ít nên ăn uống rất kham khổ. Đồ ăn thì cá khô,
rau luộc, muối mè. Buổi sáng mỗi người một chén cơm với nước mắm, lỡ ai chan mặn
thì ráng nuốt không có cơm thêm. Nhà tôi ngày nào cũng đi chợ Đông Ba, đội về một
thúng rau muống, cá khô. Đông quá nên đàn bà thường ăn sau, có khi hết cơm, nhà
tôi nhịn đói luôn…”
Thừa hưởng ân đức sinh
thành, thầy Hiếu Kính đối xử với bà con họ tộc bằng tình thương hiếm có. Ví như
mẩu chuyện về chiếc xe hơi sắm được sau bao năm chắt chiu dành dụm:
“…
Ở Huế về quê 13 km, dẫn đàn con ra Cửa Hữu đón xe, vì đông trẻ nên xe ít
khi dừng. Tôi quyết định học lái xe và mua lại chiếc Peugeot đen giá
80.000 đồng. Đôi lúc về làng, qua xe không cũng uổng nên dừng xe lại dọc đường
mời người đi đường lên xe cùng đi. Nhưng đa số không chịu lên vì họ ngại, sợ chở
họ đi đâu thì sao. Có khi ra chợ Đông Ba gặp xóm giềng đi chợ, mời họ lên xe.
Sau này gặp lại, họ hỏi: “Lúc đó chúng tôi đi xe có giỏ
đồ ăn, cá biển … thầy không sợ nhớp xe sao?”. Có xe cũng nghiệt, ai mượn xe đều phải cho. Từ khi họ lấy
xe cho đến lúc họ trả xe mới hết bồn chồn lo sợ. Lỡ họ tông chết người, mình phải
liên đới chịu trách nhiệm. Thành thử cho mượn xe mình tự lái mới yên tâm. Hết
giúp người này đến giúp người khác. Xe chạy quay vòng như chong chóng…”
Những người biên tập cuốn
hồi ký khắc họa hình tượng Lê Hiếu Kính là: một học trò không xuất sắc
nhưng chịu khó, một giáo sinh năng động, một người thầy giáo tiểu học tận tâm,
một người viết sách giáo khoa Việt ngữ tận tụy, một Tổng Giám thị trường trung
học nghiêm mà từ, một hướng đạo sinh xốc vác, một huynh trưởng hướng đạo xông
xáo, một người công dân sống có nghĩa tình và trách nhiệm, một người con hiếu
thảo, một người cha gương mẫu.
Ông bà Hiếu Kính -
Hiếu Thuận 10 lần sinh còn 8 người con. Tất cả nên người. Lê Hiếu Nghĩa
(1949) học đại học lấy 2 bằng Quốc Gia Hành chánh và Luật khoa Sài Gòn, hiện ở Cali (Hoa
Kỳ). Lê Thị Hiếu Thảo (1951) học một lúc 2 trường Đại Học Sư Phạm và Văn Khoa
Huế, nguyên giáo viên trường cấp 3 Hương Thủy. Lê Hiếu Liêm (1952) mới lớp
8 đã chê lối học từ chương, “thầy đọc trò chép”, bèn bỏ học tự học ở nhà, sau học bình dân học vụ rồi vào
Quốc học, khi vào đại học cùng lúc lấy 2 bằng Quốc Gia Hành chánh và Luật khoa
Sài Gòn; đi du học tự túc ở Pháp vào đại học Sorbonne, chỉ 1 năm đã lấy bằng thạc
sĩ và 2 năm sau lấy bằng tiến sĩ Công Pháp quốc tế. Lê Hiếu Hữu (1954) học Đại
Học Cần Thơ, là kỹ sư nông nghiệp, hiện là Giám đốc marketting của công ty Map
Pacific (công ty Singapore); là chủ tịch Hội đồng quản lý Quỹ Giáo dục Huế Hiếu
Học. Lê Hiếu Hòa (1957) học đại học Bách Khoa TP. HCM, hiện là chuyên viên của
công ty Intel tại Mỹ. Lê Hiếu Nhân (1960), học đại học Tổng Hợp Huế, ra trường
học thêm 2 bằng cử nhân Anh và Tin; 45 tuổi còn đi học Cao học Lý, 48
tuổi lấy bằng thạc sỹ, hiện dạy trường THCS Hàm Nghi. Lê Thị Hiếu Hạnh (1962),
bác sĩ chuyên khoa II tại bệnh viện tỉnh Quảng Trị. Lê Hiếu Đễ (1969), chủ
tiệm may Mỹ Toàn ở Huế.
Năm 2006, hậu duệ nhà
giáo Lê Hiếu Kính, những người con hiếu thảo: Hiếu Hữu, Hiếu Nhân, Hiếu Liêm,
Hiếu Nghĩa cùng một số thân hữu…bàn nhau lập Quỹ Giáo dục
Huế Hiếu Học. Kỹ sư Lê Hiếu Hữu, chủ tịch Hội đồng quản trị Quỹ, bộc bạch: Ý tưởng
ban đầu là về Huế, thấy học sinh cấp 2 phần đông suy dinh dưỡng, rất tội,
nên anh chị em trong nhà có ý là lập Quỹ "Chén cơm cho học
sinh nghèo", với mong muốn là mỗi tháng giúp các em khoảng 5 ký gạo. Sau
này thấy tên ấy thê lương quá mà gạo cũng dễ mua, nên đổi tên là Huế Hiếu
Học. Nhiều học trò cũ muốn lấy tên thầy Lê Hiếu Kính làm tên Quỹ. Nhưng như vậy
khó lòng thuyết phục đông đảo người tham gia, vì các lương sư xứ Huế xưa nay được
học trò các thế hệ tri ân nhiều không kể xiết!
Quỹ giáo dục HUẾ HIẾU HỌC hoạt
động theo nguyên tắc tự nguyện, tự tạo vốn, tự quản, tự trang trải các chi phí
cho hoạt động và chịu trách nhiệm bằng chính tài sản của mình; không vì mục
đích lợi nhuận. Là tổ chức phi chính phủ, có tư cách pháp nhân, có con dấu và
được mở tài khoản tại Ngân hàng. Ba nội dung hoạt động chủ yếu của Quỹ là
Chương trình học bổng, khen thưởng cho học sinh sinh viên nghèo, hiếu học;
Chương trình hỗ trợ trang thiết bị, xây dựng trường lớp và Chương trình Văn Thể
Mỹ để giúp các em phát triển toàn diện.
Tổng số tiền Quỹ Giáo Dục Huế
Hiếu Học nhận được từ năm 2006 cho đến cuối năm 2011 là: 4.722.000.000 đồng (bốn
tỷ bảy trăm hai mươi hai triệu đồng). Trong 5 năm hoạt động, đã xây dựng và sửa
chữa trường lớp 1.574.000.000 đồng. Riêng chương trình học bổng, Quỹ đã trao 3.696
suất gồm: 2.412 suất học bổng các cấp phổ thông và 1.284 suất học bổng đại học
và cao đẳng, tổng giá trị 2.245.000.000 đồng.
Sung sướng chia vui với
Quỹ học bổng Huế hiếu học đang đà phát triển ra toàn miền Nam, không
khỏi bồi hồi nhớ lại lần đầu tiên, ở Sài Gòn, khi đang làm phó tổng biên tập
báo Giáo dục và Thời đại, Văn Trí đã xúc động tới dự lễ trao Giải thưởng
toán học Nguyễn Đình Chung Song - Giải thưởng do một “cô
giáo Lê Khắc” là Túy Đại chủ trì tổ chức từ năm 1992.
Lê Thị Túy Đại – Nguyễn Đình Song là đôi lương duyên giai ngẫu xuất thân từ
hai gia đình tiêu biểu bậc nhất của nghề dạy học khuôn vàng thước ngọc ở dải đất
miền Trung khoảng giữa thế kỳ 20. Thân phụ của Túy Đại, ông Đốc học Lê Khắc
Giai (1901-1967), là nhà sư phạm nổi tiếng mẫu mực và tiết tháo. Là con trai thứ
hai của ngài Lê Triết (1870-1943 – Thế thứ 9 Lê Khắc),
ông Lê Khắc Giai ra đời năm Tân Sửu 1901, lúc chữ Nho mất địa vị độc tôn, từ cuộc
“cải cách giáo dục” năm 1906 thời
vua Thành Thái chú trọng dạy học Quốc ngữ và Pháp ngữ cho tới Nghị định năm
1917 của Toàn quyền Đông Dương quy định chương trình giáo dục 3 bậc Tiểu học,
Trung Học và Đại học. Năm 1921, ông Giai đậu Diplôme, học tiếp ngành sư phạm, vào
nghề dạy học. Thầy Giai tính tình cương trực, không chịu xu nịnh, không khuất
phục cường quyền nên đường sự nghiệp không mấy suôn sẻ. Dạy trường Paul Bern,
qua Quốc học (Kinh đô Huế), vì đối phó với “quan Tây”, tranh cãi nảy lửa với đồng sự người Pháp, ông bị đổi đi
liên tục, hết Tuyên Hóa (Quảng Bình), Quảng Điền (Thừa Thiên) lại tới Bình Định,
Phan Rang, Hội An, Đà Nẵng, khi trực tiếp đứng lớp, khi làm hiệu trưởng, trưởng
ty… Vốn giàu lòng yêu nghề yêu trẻ, tận tâm giảng dạy,
lại có tri thức uyên thâm và phương pháp giáo dục tân tiến, nên thầy Giai luôn
được học trò và phụ huynh yêu quý kính trọng. Hầu như ở mỗi miền đất, thầy Giai
đều ghi dấu ấn bằng những “kỳ tích”.
Có năm, ở Phan Rang, cả 22 học trò của thầy Giai dự thi Primaire đều đủ điểm
trúng tuyển, “làm khó” cho các
quan chức đầu ngành giáo dục phải tới vận động thầy “bớt
điểm số để đánh rớt 2 thí sinh, nếu không thì phải tổ chức thi lại, chứ không đời
nào cho đậu cả trăm phần trăm”! Vì quyền lợi của số
đông học trò (nếu thi lại sẽ bị phiền phức khó khăn) nên thầy Giai đành xót xa
gạt bỏ 2 em… con nhà khá giả (có điều kiện học
lại thuận lợi hơn số đông trò nghèo!). Chịu nhượng bộ mà vẫn không yên thân. “Quan trên” nghi ngờ, bày ra một cuộc
thanh tra đột xuất nhằm xem xét thực chất năng lực chuyên môn và hiệu quả giảng
dạy của thầy Giai. Cả một phái đoàn rầm rộ dự giờ thăm lớp, kiểm tra bài soạn của
thầy, vở học của trò… suốt hai ngày cả sáng lẫn chiều.
Kết quả tất nhiên phải thế, phái đoàn thanh tra tổng kết đánh giá toàn những ““trèsbien”, “excellence”…, không còn từ nào diễn tả hơn được nữa, “trên
cả tuyệt vời”! Thế là, từ thân phận bị trù dập, thầy
Giai được thăng cấp đặc cách làm Đốc học Bình Định (từ đó có danh xưng ông Đốc
Giai). Trải qua biến động thế sự thăng trầm đông tây xung đột giữa thế kỷ 20,
thầy Giai lần lượt phụ trách lớp đào tạo giáo viên cho ngành giáo dục Thừa
Thiên sau cách mạng Tháng Tám 1945, rồi về dạy ở Huế, chuyển vào làm hiệu trưởng
ở Hội An, trưởng ty giáo dục Đà Nẵng, rồi do bênh vực thuộc cấp, bất tuân thượng
lệnh, lại bị hạ xuống làm giáo viên Quốc học Huế cho đến khi nghỉ hưu. Chu trình
khép kín cuộc hành nghề trồng người cao cả!
Dòng
họ Lê Khắc tôn kính ông Đốc Giai là một nhà giáo có tấm lòng hiếu nghĩa nhân ái
ôm trùm nhiều thế hệ với một cuộc sống riêng tư giản dị kiệm cần. Trưởng nữ của
ông là Lê Thị Túy Đại (1934) đã hồi ức về thân phụ và tổ phụ:
“… Năm ấy, sắp nghỉ hè thì được tin ông nội tôi bị bệnh nặng.
Ba tôi và tôi về làng Văn Xá, suốt ngày ba tôi ngồi trò chuyện với Ông hay tiếp
khách đến thăm Ông. Còn tôi chơi tha thẩn trong sân, lúc dùng cơm thì Ông hay gọi
tôi vào quạt nhẹ cho Ông.
Thời
gian đó, Ông thường dặn nhà bếp nấu thêm cơm để có nhiều cơm cháy trong om đất
dành cho tôi. Quả là ngon thật, tôi được hàng ngày ăn món cơm cháy ấy
cho đến khi Ông ra đi vĩnh viễn. Sau này mỗi lần về nhà thờ, đi qua bộ ván chỗ
ông nằm, tôi cảm thấy như ông còn phảng phất đâu đây và nhớ về hương vị thơm
ngon của món cơm cháy trong om đất thuở xưa”.
“…Từ nhà tôi ở Văn Xá đi ra khoảng 3 cây số đường quốc lộ, rẽ
tay phải đi khoảng 2 cây số nữa thì đến trường La Chữ. Sáng nào hai cha con
cũng chuẩn bị sách vở, chờ mẹ tôi nấu cơm, ăn sáng và bới vào mo cau đem đi ăn
trưa. Cơm nhồi nhuyễn cắt lát sẵn với một gói muối mè hay muối đậu phụng. Hôm
nào ba tôi mới lãnh lương thì mẹ tôi làm tôm rim để bới đi cho hai cha con. Thỉnh
thoảng khi ba tôi mới lãnh lương thì hai cha con đi xe ngựa. Bình thường, đi bộ,
tuy có mệt nhưng đến mùa lúa chín thì thật thú vị ngắm nhìn hai bên đường lúa
chín vàng phảng phất mùi thơm. Ba tôi thường nhắc: “Con
cứ hít vào thật nhiều hương lúa đồng quê”. Sau này mỗi
lần đi từ Huế về Văn Xá, đến ngang làng La Chữ, như phản xạ tôi cố nhìn vào
làng mà bồi hồi nhớ về những ngày tháng cũ được cùng đi học với cha mình. Tôi đậu
Trung học đệ nhất cấp hạng Bình, được Ba thưởng chiếc xe đạp. Tôi vui sướng và
cũng quá bất ngờ vì nhà tôi xưa nay sống bằng tiền lương của ba tôi mà thời
gian đó ba tôi còn phải đài thọ cho Bà nội và O Tiểu Thiền (O không có chồng
con và chăm sóc cho bà nội tôi rất tốt). Sau này, tôi hỏi Ba lấy tiền đâu mua
xe cho con? Ba tôi bảo đó là tiền ba mẹ tiết kiệm. Ba tôi có thói quen dậy sớm
uống trà loại ngon nhất, nhưng để có tiền mua xe cho tôi, Ba đã dặn Mẹ mua loại
ít tiền hơn. Còn mẹ tôi thì dành dụm tiền bằng cách mua tôm về um lấy nước chan
cơm ăn hoặc ăn ruốc kho. Tôi lặng người xúc động về tấm lòng của cha mẹ đối với
mình…”
Nối nghiệp phụ thân, Lê
Thị Túy Đại gần như suốt đời phụng sự ngành giáo dục. Túy Đại đã có bằng cử
nhân văn khoa và chứng chỉ Tâm lý học, từng làm xướng ngôn viên đài phát thanh
Huế, rồi dạy môn Văn ở các trường Nữ trung học Đồng Khánh Huế (1957-1959), Nữ
trung học Bùi Thị Xuân Đà Lạt (1959-1962), Trung học Lý Thường Kiệt - Gia Định
(1962-1969), Trung học Nguyễn Thượng Hiền - Tân Bình (1969-1978), trường Cán bộ
quản lý giáo dục thành phố Hồ Chí Minh ( 1978-1990) và sau khi nghỉ
mất sức (1990), tham gia dạy môn Văn, khoa Tại Chức, trường đại học Tài chính Kế
toán.
Năm 1959, khi hai nhà
giáo Lê Thị Túy Đại và Nguyễn Đình Song kết duyên, bà con hai họ, giới trí thức
cố đô Huế hoan hỉ với cuộc phối ngẫu cực kỳ môn đăng hộ đối! Bởi, thân phụ của
Nguyễn Đình Song, nhà giáo dục Nguyễn Đình Ngân (1890 - 1967), là người nổi tiếng
toàn miền Trung cả về kiến văn và đức độ.
Nguyễn Đình Ngân xuất thân từ một
“thế gia vọng tộc” ở làng Phượng
Đình, xã Hoằng Anh, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Phụ thân của ông Ngân,
quan phó bảng Nguyễn Đình Văn, khi làm án sát tỉnh Khánh Hòa, từng vác ghế choảng
viên công sứ Pháp là quan đầu tỉnh bởi y can thiệp thô bạo vào chuyện xét xử! Vốn
chán ghét bất phục chính quyền “bảo hộ”,
quan án Nguyễn Đình Văn xin hưu trí rồi qua đời năm 1905. Bấy giờ Nguyễn Đình
Ngân 15 tuổi, được giới thiệu ra Hà Nội học Đông Kinh nghĩa thục. Chỉ được 3
tháng thì trường bị thực dân Pháp đóng cửa! Nguyễn Đình Ngân về lại Thanh Hóa,
vừa làm gia sư kiếm thêm tiền giúp mẹ vừa “sôi kinh nấu
sử”. Năm Nhâm Tý 1912, cậu Ngân đậu cử nhân xếp thứ 5.
Trong thời gian học chữ Hán, cậu còn học cả chữ Pháp, không có thầy, mà tự học
bằng từ điển. Sau khi thi đỗ, ông cử tân khoa Nho học lại ra Hà Nội theo bậc
trung học Tây học, rồi theo ngành sư phạm, vì biết thời thế đã đổi thay. Năm
1916, tốt nghiệp sư phạm, Nguyễn Đình Ngân được bổ về dạy trường Quốc Tử Giám ở
kinh đô Huế. Tại đây, trong vòng gần 20 năm, ông Ngân thăng đến chức Tế tửu (hiệu
trưởng). Năm 1935, ông Đốc Ngân về Bộ Học giữ chân Tá lý, Thị lang, cuối cùng
là hàm Tham tri (như Thứ trưởng bây giờ).
Ba mươi năm làm quan thuộc hàng
cao cấp, nhưng ông Ngân chỉ quanh quẩn với nhà trường, sách vở, học trò, trọng
đạo làm thầy, giữ vững gia nghiêm. Vốn hiếu học, của cải đáng kể nhất trong gia
đình ông là cái thư viện - thư viện tư nhân lớn vào loại bậc nhất ở Huế thời ấy.
Hầu như sách nào ông cũng mua, báo nào ông cũng đặt, kể cả báo chí xuất bản tại
Pháp. Điều ông quan tâm nhất là việc học. Đường học hành của các em, ngay cả em
rể, của con cháu, kể cả cháu rể tương lai, con cháu trong làng, trong họ ông đều
chăm chút, dạy dỗ. Nhà quan Tham tri bộ Học thì phòng học là rộng rãi nhất.
Theo lối sống nhà nho, lại thấm nhuần tinh thần Đông Kinh nghĩa thục, thú vui của
ông chỉ có xướng họa thơ văn. Trong giao du, hoạt động xã hội, Nguyễn Đình Ngân
tuyệt không đi lại với quan Pháp, quan “thân Pháp”, “thân Nhật”.
Chính quyền thực dân, chính phủ Nam triều, nhiều lần muốn chuyển ông
từ ngạch học quan sang ngạch quan cai trị, ông đều từ chối. Nhưng Nguyễn Đình
Ngân lại làm nòng cốt khôi phục Thị xã Hương Giang đầy tinh thần dân
tộc, đỡ đầu thành lập Nữ công học hội của bà Đạm Phương (thân mẫu nhà
cách mạng Hải Triều), là nơi tập hợp nữ giới để “huấn
luyện lòng yêu nước”. Ngoài ra, ông còn góp phần chăm
lo đời sống của Phan Bội Châu đang bị giam lỏng ở Huế, tổ chức truy điệu Phan
Chu Trinh và hoạt động đắc lực để bầu Huỳnh Thúc Kháng vào Viện Dân biểu Trung
kỳ, giữ chân Viện trưởng. Bạn bè mà Nguyễn Đình Ngân hay qua lại là Huỳnh Thúc
Kháng, Đào Duy Anh, Tôn Quang Phiệt, Trần Đình Nam, những nhà yêu nước nổi
tiếng từng bị thực dân bắt tù đày. Trong tâm ông khắc ghi tinh thần mà mình đã
nguyện từ ngày trai trẻ: Bảng vàng chỉ để nêu tên tuổi/Lòng đỏ thì đem hiến
núi sông.
Sau Cách mạng Tháng Tám
1945, Nguyễn Đình Ngân được chính quyền mới tín nhiệm giao giữ chức Viện trưởng
Viện Văn hóa Trung bộ. Tiếp đến, ông làm Tỉnh hội trưởng Hội Liên hiệp quốc dân
tỉnh Thừa Thiên. Toàn quốc kháng chiến 1946, ông Ngân đưa cả gia đình tản cư
theo cơ quan. Sáng sớm 09 - 2 - 1947, ông lên Hiền Sĩ làm việc với ủy ban hành
chính Trung bộ thì Pháp khởi hấn, tấn công. Chiến sự xảy ra quá bất ngờ làm ông
và gia đình ly tán, sau nhiều ngày tháng tìm kiếm, liên lạc không được, ông
đành xa gia đình cho đến ngày mất.
Ông Nguyễn Đình Ngân ra
chiến khu Quảng Trị, và được cử về làm việc ở Thanh Hóa. Năm 1948, Nguyễn Đình
Ngân được cử giữ chức ủy viên ủy ban Kháng chiến Hành chính Liên khu IV cùng
các ông Hồ Tùng Mậu, Võ Liêm Sơn, Nguyễn Sơn, Trần Hữu Dực. Ông lần lượt làm
Trưởng ban thi đua, ủy viên ủy ban phụ trách văn hóa - giáo dục, ủy viên thường
trực Liên Việt, Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, ủy viên Ban Thanh tra Liên Khu
IV. Bước chân ông trải khắp 3 vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh. Cấp Liên khu giải thể
(1958), ông về ở hẳn tỉnh nhà Thanh Hóa, làm phó chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
tỉnh. Ông còn là đại biểu Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
khoá II (1960 - 1964) và khóa III (1964 - 1971)). Bác Hồ sinh thời rất quý mến
ông Ngân. Giữa hai người có những điểm tạo nên sự gần gũi. Hai vị đồng tuế,
thân phụ lại cùng đậu Phó bảng. Bác đồng cảm với việc ông Ngân xa gia đình, vợ
con, tận tâm với công cuộc đấu tranh giành độc lập thống nhất. Đầu năm 1950,
Bác gửi cụ Hồ Tùng Mậu, Tổng Thanh tra Chính phủ đem vào Thanh Hóa biếu ông
Ngân một chiếc can bằng trúc rất đẹp. Mỗi lần ra Hà Nội họp Quốc hội, ông Ngân
đều được gặp Bác. Có lần, Bác cầm tay, thương cảm “Làm
sao mà cụ gầy vậy!” (Ông Ngân vóc dáng nhỏ nhắn, nặng
chỉ hơn bốn mươi cân…).
Tính ông Ngân chu đáo, cẩn
mật từ những việc nhỏ. Người từ Huế trở vào phát âm tên ông hay thêm phụ âm “g” vào thành “Ngâng” khiến ông rất bực. Để tránh sai sót không đáng có này, đặt
tên con, ông đều chọn các từ có “g”
cuối cùng: Nguyễn Đình Chung, Nguyễn Đình Song, Nguyễn Đình Cung, Nguyễn Thị
Thu Dung, Nguyễn Thị Xuân Trang.
Ông Nguyễn Đình Ngân suốt đời
chú trọng việc giáo dục lớp trẻ. Dân trí cao nước nhà mới tiến bộ. Thanh niên
được học hành, có văn hóa thì sẽ biết phải làm gì cho đất nước. Con cháu của
ông Ngân đều bằng con đường học hành mà thành đạt. Noi gương cha, 5 người con sống
với mẹ ở miền Nam cùng ba người con dâu đều không làm công chức mà
làm nghề dạy học.
Người con thứ hai, Nguyễn
Đình Song (1928), vào nghề từ năm 1947. Nhắc đến thầy Song, nhiều thế
hệ học trò nhớ mãi hình ảnh mái tóc bồng bềnh, bộ đồ sơ mi và quần tây đều
màu trắng – một mẫu thanh niên cương nghị tài hoa pha
chút phong trần lãng tử giữa thế kỷ 20! Chữ ký của thầy cũng đặc biệt khi
có hai đường thẳng song song. Thời kỳ trước năm 1975, thầy giáo Nguyễn
Đình Song đã nổi tiếng khắp miền Nam về phương pháp sư phạm cũng như
trình độ toán học. Vì mối quan hệ đặc biệt thân thiết gắn bó với người anh
ruột cũng làm nghề dạy học là thầy Nguyễn Đình Chung nên thầy Nguyễn Đình Song
đặt tên kép cho mình là Chung Song, coi đó là “bút danh” khi viết sách, cũng là “nghệ danh” khi dạy học. Ở Huế đã thành lập “tủ
sách Chung Song”. Nhiều thế hệ học trò chọn sách Chung
Song bởi cách trình bày dắt dẫn khúc chiết, dễ hiểu. Giáo viên Toán
nói chung ít thích dạy Hình học không gian và Lượng giác, nhưng đông đảo học
trò thán phục thầy Chung Song ở chính 2 môn này. Không gian là môn sở trường vì
Chung Song vẽ hình rất đẹp bằng cả hai tay, nét đậm, nét nhạt, nét đứt rất rõ
ràng. Thầy Chung Song nổi tiếng là người khởi xướng phương pháp dạy Toán, đặc
biệt là Lượng giác, bằng thơ, nhiều học trò cũ tự hào nhờ cách học đó mà tới tuổi
60, 70 vẫn viết đúng công thức Toán. Thầy cũng là một trong những người
đầu tiên ở Sài Gòn nghiên cứu về tân toán học. Các vị chủ trường tư đến
tận nhà thầy, có khi chờ đến 11, 12 giờ đêm để năn nỉ mời thầy về dạy dùm
cho hai giờ một tuần, với mức thù lao 150 đồng/giờ. Đủ thấy thầy
Chung Song được hâm mộ như thế nào! Thầy phải nhận lời dạy các
trường tư thục từ Huế, Hội An, cho tới Đà Lạt, Sài Gòn, rồi cả Mỹ Tho, Long
Xuyên! Sau 30-4-1975, thầy lần lượt làm hiệu phó trường Trung học cơ sở Hưng Đạo,
cán bộ giảng dạy khoa Toán Lý trường Cao đẳng Sư Phạm, trường Cán bộ quản lý
giáo dục thành phố Hồ Chí Minh. Trong 44 năm dạy học, Chung Song xuất
bản trên 20 đầu sách về hình học, lượng giác, đại số, xác suất, tích phân... Tâm
huyết với sự nghiệp trồng người, thầy tin rằng: “Học sinh Việt Nam rất thông minh, nếu có điều kiện học tập,
khả năng toán học của các em không hề thua kém học sinh các nước khác”.
Thầy
Chung Song qua đời ngày 27 tháng Chín Tân Mùi 1991. Liền 49 ngày, cô Túy
Đại để bàn thờ chồng trong phòng khách, mấy mẹ con nằm ngủ quây quanh.
Bà không ngủ được, nghĩ rằng mình nên làm điều gì đó, “để
ghi lại những tình cảm yêu thương của ông với mấy mẹ con, với toán học và với học
trò”.
Một
năm sau, giải thưởng toán học mang tên Nguyễn Đình Chung Song ra đời. Ngày
24/9/1992, trao giải cho học sinh giỏi toán nhất lớp 9 của quận Phú
Nhuận. Từ năm 1993, giải thưởng được liên tục tổ chức hàng năm để tuyên
dương các học sinh giỏi toán nhất TPHCM. Cấp Thành phố: trao cho học sinh
có điểm Toán cao nhất trong kỳ thi Olympic toán quốc tế, kỳ thi giỏi toán quốc
gia lớp 12 hằng năm do bộ Giáo dục tổ chức. Cấp quận huyện: trao cho mỗi
quận huyện một học sinh có điểm toán cao nhất trong kỳ thi học sinh giỏi toán lớp
9 hằng năm do sở Giáo dục tổ chức. Khởi đầu chỉ là những món quà nhỏ được
chuẩn bị từ nguồn tiền tiết kiệm của gia đình, đến nay đã có cả một danh sách
dài những Mạnh thường quân ủng hộ. Ban đầu giải thưởng chỉ đóng khuôn trong những
học sinh giỏi toán ở quận Phú Nhuận, nay đã được trao cho toàn bộ học sinh giỏi
toán nhất thành phố Hồ Chí Minh. Qua 20 lần tổ chức, 1992 – 2011, đã trao giải thưởng cho 537 học sinh giỏi toán. Giải
thưởng toán học Nguyễn Đình Chung Song trở thành một mục tiêu và niềm tự hào của
những học sinh giỏi toán thành phố Hồ Chí Minh..
Tuổi
mấp mé bát tuần, trong người mang trọng bệnh nhưng bà Túy Đại vẫn tìm
cách liên lạc với các học sinh từng được nhận giải thưởng. Với
bà, dõi theo bước tiến của các mầm non toán học là niềm vui khó
có gì sánh bằng. Sức yếu nên mỗi ngày bà chỉ nói chuyện qua điện thoại
với một hai học sinh cũ. Những ngày đầu năm mới luôn là
ngày mà nhà bà giáo già Túy Đại vui nhất, khi danh sách học sinh giỏi toán cấp
quận, huyện, thành phố được cập nhật. Cả nhà, mấy mẹ con, bà cháu tíu
tít lên danh sách, in giấy chứng nhận, bàn nhau đi chọn mua quà, xúm xít gói
quà..., nao nức như chuẩn bị phần thưởng cho cả đàn đông đúc con cháu họ hàng
ruột thịt.
Mấy
năm gần đây, bà Túy Đại dần dần chuyển giao công việc cho 4 người con trai
đều đã thành đạt. Nguyễn Đình Song Nguyên (1960) tốt nghiệp đại học Kinh tế hiện
làm việc tại Ngân hàng Đông Á TPHCM. Nguyễn Đình Song Minh (1962) tốt nghiệp
khoa Toán đại học Sư phạm, giáo viên giỏi trường Nguyễn Thị Minh Khai, được nhiều
bằng khen của Sở, của Ủy ban Thành phố, của bộ Giáo dục, của Thủ tướng Chính phủ.
Nguyễn Đình Song Huy (1964), tốt nghiệp bác sĩ Nội trú khoa Ngoại tổng quát, từ
1990 đến nay đã kinh qua các chức vụ Phó khoa Ngoại tổng quát, Trưởng khoa U
Gan, Phó giám đốc Trung tâm Ung bướu bệnh viện Chợ Rẫy, được phong tặng danh hiệu
“Thầy thuốc Ưu tú”. Nguyễn Đình
Song Vinh (1967), tốt nghiệp Cao đẳng Sư Phạm Kỹ thuật TPHCM, hiện làm việc tại
một công ty của Singapore. Trong 4 người con ấy, tất nhiên nhà giáo Song
Minh được giao chủ trì tổ chức Giải thưởng Nguyễn Đình Chung Song.
50
năm qua, ở miền Nam, các nhà sư phạm Lê Viết Kính, Lê Hiếu Kính, Lê Khắc Giai,
Lê Thị Túy Đại, Nguyễn Đình Chung Song đã tiếp nối truyền thống tôn sư trọng đạo
của tổ tiên, không những cống hiến đắc lực cho ngành giáo dục-đào tạo, mà còn
truyền cho con cháu ý tưởng xây dựng các Quỹ hiếu học khuyến tài nổi
tiếng từ Huế tới Sài Gòn. Để rồi sang thế kỷ 21, chuyển giao sự nghiệp tổ chức
điều hành Quỹ Huế hiếu học và Giải thưởng toán học Nguyễn Đình
Chung Song cho kỹ sư Lê Hiếu Hữu và nhà giáo Nguyễn Đình Song Minh, các
thành viên nội ngoại tiêu biểu của Thế 12 dòng tộc Lê Khắc làng Văn.
Chương 11: Chuyện
ông chú út hai
lần cầm vàng mà lội qua
sông
Ông chú
út của Văn Trí là Lê Khắc Lự.
Ngài
Văn Xuyên Lê Từ, ông nội của Văn Trí, có 15 người con trai. Bà Hai Hoàng Thị Huệ
sinh hạ 3 con trai, Bà Ba Trần Thị Dung có 5 và Bà Tứ Nguyễn Khoa Thị Liên cũng
có 5 con trai. Bà Năm Võ Thị Xuân My thì chỉ sinh 2 trai, chú Lê Khắc Bằng sinh
năm 1914 và chú út Lê Khắc Lự 1916.
Bà Năm
Võ Thị Xuân My về làm dâu nhà Lê Khắc khi Ông đã ngoài 50 tuổi. Bà thì tròn 19.
Còn rất ngây thơ. Bữa vu quy, tiệc tùng cỗ bàn xong xuôi, “Cô
Năm” ý tứ têm cơi trầu, vấn khay thuốc, e lệ đặt bên “Ông Tuần”, rồi sẽ sàng lui về phòng
dành riêng, tự mình gài chốt cửa kỹ càng. Ông không tiện kêu cửa, phải nhờ Bà
Ba. Bà Ba tới ngọt ngào gọi cô Năm ơi mở cửa Ông vô. Cô Năm đứng bên trong lễ
phép thưa rằng khuya rồi Ông vô làm chi, bữa trước Bà Ba tới nhà biểu tui về hầu
têm trầu vấn thuốc cho Ông, thì bữa ni tui làm xong rồi, để sẵn ở đó rồi!
Năm
1928, khi ngài Văn Xuyên tạ thế, bà Năm 40 tuổi, một nách 6 con, trong đó có 5
vị thành niên. Cô út Lê Khắc Thị Duật mới 6 tháng tuổi.
Phút lâm
chung, ngài Văn Xuyên tay chân lạnh dần mà đôi mắt không lạc thần vẫn đau đáu
xót xa nuối nhìn bầy con bà Năm còn quá nhỏ. Mười người con trai lớn đã xuất
chính, con bà Hai, bà Ba và bà Tứ, đứng quanh người cha hấp hối, thống thiết
thưa rằng cha ơi xin cha yên lòng nhắm mắt, có chúng con ở lại bù trì dắt díu bầy
em thơ.
Ở Huế, đất thần kinh, hoàng
phái đông vô kể. Dòng tôn thất, nhà triều quan phần đông con đàn cháu đống. Nhiều
sự đời trớ trêu cười ra nước mắt. Không ít nhà quyền quý mất người trụ cột, gia
cảnh sa sút thảm thê. Nghèo rớt mồng tơi mà không cam chịu phận hèn đâu nha. Áo
gấm te tua, ra đường vẫn súng sính. Khẩu khí vẫn kẻ cả “làm
cha thiên hạ”. Đói ăn tới độ thèm khoai luộc phải ngửa
tay xin tiền người ta mà giở giọng ngọt nhạt: “mi nộp
cho mệ đồng xèng mệ chém củ khoai coi răng!”. Hoặc quay quắt nhớ miếng trầu, liều mạng vượt rào sang vườn
hàng xóm trèo cau hái trộm, bị nhà chủ trấn dưới gốc cây bắt quả tang, còn to
tiếng quyền uy quát nạt: nì, liệu hồn, mi xê ra cho mệ tuôộc xuống ,
không thì mệ ngưức đầu!
Được cái, nhà chú Lự tuy mẹ góa
con côi nhưng không khi nào gieo neo cơ hàn. Bà Năm nuôi các cô các chú bằng
hoa lợi thu từ ruộng vườn, lại mở cái quán nhỏ buôn bán lặt vặt cho O Cư, O Tấn
trông coi. Mười mấy người con lớn cùng cha khác mẹ đã trưởng thành ông nọ bà
kia, lại sẵn sàng đón em út về nuôi dạy. Xúm nhau đỡ đần Bà Năm, em trai được
chăm lo cho ăn học nên người, kiếm việc đàng hoàng; em gái được gả chốn gia
phong nền nếp. Không ai lâm cảnh nghèo túng. Nhưng cũng không ai vượt bậc giàu
sang tòa ngang dãy dọc tiền kho lúa đụn.
Vậy thì ông chú út Lê Khắc Lự lấy
đâu ra bạc vàng châu báu mà cầm mà lội qua sông?
Một buổi sáng giữa tháng Hai
Nhâm Thân 1992, nhân viên trực văn phòng Thế Giới Mới gọi điện thoại lên lầu Một
báo Văn Trí có khách. Vội xuống tầng trệt ngay. Khách, một ông già nhỏ thó, tự
giới thiệu:
- Tui là Lê Khắc Lự.
- Dạ, cháu chào chú Lự. Thưa chú, cháu có nghe Mạ
cháu kể chuyện chú. Cháu gặp Lê Khắc Quảng, thấy em ấy vạm vỡ, không hình dung
ông chú út của mình khi già vóc vạc gọn lại thế này.
- Tui cũng mới 77, bằng tuổi anh Điềm. Nhưng anh Điềm
ngó rứa mà sướng, đường đời ít nỗi gian nan. Còn tui đoạn trường lênh đênh nên
hom hem ra ri. Ui chao là hoạn nạn đời tui. Thuở tráng niên gầy dựng vun quén
cho lắm rồi trắng tay…Để bữa khác có thì giờ tui kể anh
nghe. Bữa ni tui sang mời anh ngày mốt sang nhà tui bên Thủ Thiêm An Khánh kỵ
Ông.
Đó là buổi giỗ Ông Nội
Văn Xuyên Lê Từ mà Văn Trí được dự lần đầu tiên trên đời. Do chính con trai út
của Ông tổ chức. Ngoài con cháu đích của mình, chú Lự chỉ đặc cách kêu thằng
cháu vừa từ Hà Nội chuyển vô – trong số 22 đứa cháu ruột
của chú năm 1992 đang có mặt ở Sài Gòn. Sau giờ hành lễ là câu chuyện không dứt
về dòng tộc.
Năm 1908, Ông Tuần hồi
hưu làm tiên chỉ làng Văn Xá và trưởng tộc Lê đại tộc liên tục 20 năm. Tư dinh
của Ông ở làng là ngôi nhà rường đồ sộ ba gian hai chái do cao tổ Lê Cát xây dựng
từ giữa thế kỷ 19.
Nhà ngang có 3 gian tiếp liền
ngôi nhà lớn. Thường ngày, Ông sinh hoạt ở gian giữa nhà ngang. Chính giữa có
cái phản gõ Ông thường ngồi. Tựa vào chiếc gối dựa 5 lá, Ông đọc sách, ngâm
thơ, hút thuốc bằng một ống điếu dài. Phía trước phản gõ đặt chiếc bàn gỗ sến
có trường kỷ hai bên. Ở đó, các bô lão, hương lý thường tới ngồi hầu chuyện,
bàn việc, có khi kéo dài cả buổi. Hương lý Văn Xá có việc chi khó xử đều tới nhờ
Ông chỉ giúp. Có nhiều vụ kiện cáo trong các họ, dân làng không mang nhau vào cửa
quan trên huyện mà tới nhờ cụ Tuần phân xử.
Phía bên trên tấm phản gõ Ông
ngồi treo một cánh quạt kéo rộng hơn mét, dài tới hai mét, nối với sợi dây luồn
qua ròng rọc chạy tít ra hiên nhà, nơi chú tiểu đồng ngồi trên ghế đẩu vừa kéo
quạt vừa ngủ gật. “Bé Lự” thỉnh
thoảng vào kéo thay. Và thích thú xem Ông giải trí bằng trò chơi đồng hồ.
Đồ chơi gồm có một bộ 10
que gỗ mun dài khoảng 90cm, một “hồ lô”
gỗ cao khoảng 80cm và một miếng gỗ vuông bằng nửa bàn tay gọi là “con cóc”. Người chơi đứng cách chỗ đặt
“hồ lô” khoảng 3m. “Con cóc” đặt ở khoảng giữa (cách mỗi
bên 1,5m). Ông cầm một chiếc thẻ, nhịp nhịp, phi nhằm “con
cóc”. Thẻ nẩy ngược lên, bay vòng, thật tài tình, chúc
đầu cắm trúng miệng hồ lô, gõ vào đáy hồ lô có cái trống nhỏ kêu “bung” một tiếng. Thế là thắng cuộc!
Chú bé Lự háo hức đứng chực, reo to khi trống kêu “bung”, và lúc thúc chạy nhặt thẻ nộp trả cho Ông, được Ông xoa đầu.
Hình như chơi “Đồng hồ” còn là dịp Ông bói toán cái
chi đó. Thấy Ông lẩm nhẩm tính, chú Lự không hiểu. Nhưng chú biết chắc Ông rất
giỏi bói toán. Từ khi bé tí chú đã chứng kiến. Hôm ấy, chừng nửa buổi sáng, o
Giông (cô Lê Khắc Bích Thông, 1901-1988, con gái út của Bà Hai) từ trên Văn Xá
Thượng bấn loạn chạy bộ xuống, khóc lóc trình rằng “Thầy
ơi mạ con chắc chết mất, đi tả ba bốn lần, đầu ngón tay móp hết rồi, nằm mê
man, người lạnh ngắt …” Ông vội đánh quẻ tay, gật gật đầu,
mở tráp lấy mấy đồng tiền bói ra gieo quẻ leng keng. Rồi Ông cười một tiếng, bảo
o Giông: “Nín đi con, bây chừ mạ con tỉnh lại rồi. Để
thầy biểu thằng xe đưa con về cho mau. Thấy mạ tỉnh táo thì con hầm nồi cháo
thiệt loãng, cho mạ húp nước cháo vài lần rồi ăn chút cháo lỏng. Ngày mai là mạ
con mạnh hẳn. Chứ không cần thuốc thang chi hết. Thằng xe quay về cho thầy biết
tình hình, rồi chiều mát thầy lên thăm mạ con…” Mọi sự
về sau quả nhiên như Ông nói.
Vùng đất có một cụm sáu bảy
nhà thờ họ liền nhau này quả là địa linh. Ngày mồng Năm tháng Tám năm Đinh Mão
1927, húy nhật lần thứ 37 ngài Văn Sơn Lê Cát, chạng vạng tối, lúc các bậc tôn
trưởng là 7 ngài đồng tông Lê Từ, Lê Trọng Bỉnh, Lê Doãn Thăng, Lê Triết, Lê
Đôn, Lê Trí, Lê Phu và 2 ông rể là Trượng (dượng) Hiệp Tôn Thất Thị, Trượng Thượng
Tôn Thất Diệm đang ngồi trò chuyện sau bữa cơm giỗ thì chú Lự (11 tuổi) đứng
ngoài sân trông thấy trên nóc nhà thờ Phái Lê Khắc (ở thôn Giáp Ba, tức là phe
Ba) xuất hiện một vừng sáng xanh, tròn to bằng quả bưởi. Rồi nối tiếp một “viên” nữa. Lại một “viên” nữa… Tất cả 15 quầng sáng nối nhau
vọt lên, như một dải lụa óng ánh bay thẳng về hướng bắc, chừng 500m thì lần lượt
tắt dần… Phía ấy chính là Nhà thờ lớn của Lê đại tộc ở
thôn Giáp Tư (phe Tư). Chú Lự lật đật chạy vô thưa với quý ông. Ngài Bồ Nam xoa
đầu trai út: “ Đó là anh linh Ông Bà về hiệp Kỵ xong rồi
vô lại nhà thờ Họ. Con thấy được các cố là phước lớn đó…”
Tại góc vườn phía tây bắc, chen
giữa rặng tre có một cây bứa gốc tày ôm, cành lá sum suê. O Cư và o Tấn (chị ruột
chú Lự) kể rằng xưa có con tinh áo trắng đêm khuya ngồi vắt vẻo cành bứa xõa
tóc tỉ tê ru con. Hai o thường theo người làm trong nhà rủ nhau rình coi. Một
đêm Ông thức dậy kêu không thấy o nào, liền ra vườn tìm. Biết chuyện, Ông mang
súng ra nhằm cành bứa nã một phát. Con tinh biến mất và từ đó không hiện ra nữa.
Bẵng tới chục năm sau, khi Ông đã qua đời, một lần bà Năm đau nặng, lúc mê sảng
cứ nói the thé “Cụ Tuần không cho tui ngồi cành bứa
thì cụ đuổi là tui đi ngay, can chi cụ bắn tui què chưn, mạ con tui phải vất vưởng
nơi cây sung kề miễu khổ sở bao nhiêu năm…” Quả thật
xế cửa nhà bà Năm có ngôi miếu cổ kiểu nhà sàn nằm cạnh đường, các cụ trong
làng bảo miếu rất thiêng thường thắp hương cúng vái. Gần miếu đúng là có gốc
sung cổ thụ. Người nhà bèn mời thầy cúng tạ lễ tại miếu và cây sung. Bà Năm hết
đau.
Dạo ấy, chú Lự đã được “anh tham Hy” (chú Lê Khắc Hy) đón vô
Huế học hết tiểu học, được “anh Đốc Nguyện” (chú Lê Khắc Nguyện) đón ra Vinh học Quốc học Vinh, thi đậu
bằng thành chung (diplôme). Đã khăn gói ra Hà Nội học tiếp Tú tài 1, nhưng vì cảnh
nhà khó khăn, chú Lự phải bỏ dở, quay vào Trung kỳ đi làm công chức cho chính
quyền Bảo hộ tại Tòa Công sứ Đồng Hới.
1945. Việt Nam
giành độc lập. Chú Lự tham gia cướp chính quyền và trở thành cán bộ Ủy ban hành
chính tỉnh Quảng Trị. Bắt đầu chặng đời trung niên đong đầy nỗi niềm bi tráng, “cầm vàng mà lội qua sông…”
1946. Kháng chiến
toàn quốc bùng nổ. Thực dân Pháp trở lại tái chiếm thành phố Huế, tiến đánh ra
Quảng Trị. Có lệnh nổ mìn phá hủy trụ sở và sơ tán cơ quan tỉnh ra huyện cực bắc
Vĩnh Linh.
Chú Lự kể rằng:
… Tôi lúc đó đã có 3 con.
Hoàng Mai 5 tuổi. Hoàng Lan 3 tuổi. Và Quảng mới được 10 tháng. Trăn trở dằn vặt
nhất với tôi thời điểm ấy là lựa chọn giữa hai con đường : “đi”(kháng chiến) hay “ở lại”(với vợ con). Quyết định sau cùng: đi! Bước đầu mang cả vợ
con ra Vĩnh Linh. Tình hình diễn biến rất nhanh. Địch đánh tiếp ra Vĩnh Linh.
Cơ quan phân tán thành hai bộ phận. Phần lớn chuyển ra vùng an toàn Nghệ An,
Thanh Hóa. Chỉ chọn 10 người trung kiên ngược lên vùng núi cao Quảng Trị, bám
trụ, tổ chức kháng chiến. Tôi nằm trong số đó. Thế là chia tay vợ con trong một
đêm giá lạnh tháng 2 năm 1947. Khi giặc vào Vĩnh Linh, vợ con tôi cùng đồng bào
tản cư lên miền rừng Vĩnh Quang. Sinh hoạt gian khổ, ban ngày cấm đốt lửa, ban
đêm cọp beo gầm thét. Vợ tôi đành bồng con lần tìm về quê ngoại, làng Vĩnh Phước.
Con nhỏ quá chưa đứa nào tự đi nổi, phải gánh hai đứa ngồi lọt thỏm vào hai
thúng, còn một đứa bế trên tay.
Cơ quan kháng chiến tỉnh
Quảng Trị đi lên chiến khu. Giữ bí mật hành quân “đi
không dấu - nấu không khói - nói không tiếng”. Khi biết
địch không bám theo mới dừng lại ổn định sinh hoạt. Nơi đó là chiến khu Ba
Lòng. Núi cao rừng già. Chỉ độc đạo một đường thủy theo sông Thạch Hãn, qua bao
thác ghềnh hiểm trở. Ổn định bộ khung rồi mới bắt đầu phát triển guồng máy Ủy
ban tỉnh. Có đủ bộ phận: công an, y tế, học chánh, tòa án, tài chánh, tiếp tế hậu
cần…
Ban đầu tôi phụ trách tài
chánh, dự trù kinh phí trả cho các bộ phận của tỉnh, cho các ủy ban huyện, tỉnh
đội dân quân. Cử người ra Ủy ban kháng chiến khu Tư đóng tại Nghệ An nhận tiền
(giấy bạc cụ Hồ). Mỗi dân công gánh hai thùng tiền là thùng gỗ đai sắt niêm
phong. Tiền nhận về, không có két sắt bảo quản, phải cất kho bí mật chỉ có tôi
và một nhân viên bốc vác biết chỗ. Khi thăm kho phòng mối đục, khi lấy tiền ra
cấp phát, chỉ hai người chúng tôi biết. Lúc địch càn, chúng tôi được ưu tiên chạy
trước tìm chỗ an toàn qua các địa điểm dự bị: Khe Me, Khe Su, Hòn Linh…
Sau mấy năm chiến đấu
không hề để mất mát thiệt hại công quỹ, tôi được ra Nghệ An một tháng học lớp
trung cấp Nguyễn Ái Quốc, trở về làm Ty trưởng thuế vụ Quảng Trị. Không còn ở
cùng chỗ với Ủy ban, cơ quan thuế đặt tại trung tâm Trấm trên sông Thạch Hãn, cửa
ngõ vào chiến khu. Thêm 4 nhân viên thu thuế buôn chuyến, mở trạm thuế ở Cùa.
Năm sau tôi được triệu tập ra họp tận
Việt Bắc. Đạp xe qua 3 tỉnh Thanh Hóa, Hòa Bình, Phú Thọ, tới Tuyên Quang. Họp
trong rừng. Về kế hoạch triển khai thuế công thương nghiệp. Có bộ trưởng Bộ tài
chính trực tiếp chỉ đạo.
Đi họp về tôi được đề bạt
làm chủ nhiệm Phân sở Thuế Bình Trị Thiên.
Tôi gia nhập đảng Cộng sản
Đông Dương năm 1947. Vì thuộc thành phần gia đình quan lại phong kiến nên tôi
không vào thẳng làm đảng viên chính thức như anh em tầng lớp công nông, mà phải
kinh qua đảng viên dự bị thử thách 6 tháng. Nhưng nhờ công tác tháo vát tận tụy
nên tôi được tổ chức tin cậy. Chi bộ cơ quan Ủy ban kháng chiến Quảng Trị bầu
tôi làm bí thư. Rồi sau đó lại bầu làm bí thư liên chi gồm các chi bộ cơ quan cấp
tỉnh đóng ở chiến khu.
Năm 1954, cuộc chiến kháng Pháp
đã kết thúc giai đoạn phòng ngự và cầm cự, chuyển sang tổng phản công. Tiên liệu
Pháp sẽ rút nhưng đất nước phải tạm chia đôi. Tổ chức dự kiến cài cắm tôi ở lại
hoạt động trong vùng địch. Tôi lại được điều ra Bắc lần thứ ba để huấn luyện
nghiệp vụ tình báo. Xong lớp học bí mật, tôi không về Quảng Trị mà đi thẳng vào
chiến khu Thừa Thiên. Sau Hiệp định Giơ-ne tháng 7-1954, tôi về Văn Xá gặp mẹ,
nhờ liên lạc bà con Lê Khắc ở Huế đón tôi vào thành. Tại Công an Huế, tôi khai
báo theo như “kịch bản” vạch từ
Việt Bắc, rằng tôi đi kháng chiến là “đảng viên phong
trào”. Nay hòa bình, tôi hồi cư sum họp gia đình. Thế
là được tái bổ làm thư ký hành chánh, chuyển vô tỉnh Quảng Ngãi, khu vực “chính phủ kháng chiến” mới bàn giao.
Năm 1956, lại đổi ra Huế làm Tòa hành chánh Tỉnh đường Thừa Thiên. Tôi hoạt động
tình báo đơn tuyến, chỉ liên hệ với một cấp trên là đồng chí Phước ở chiến khu
Thừa Thiên đã từng chỉ đạo tôi. Tại văn phòng Tỉnh trưởng, tôi thu thập được một
số tài liệu; trong hai năm có hai lần xin nghỉ phép vào Đà Nẵng và Sài Gòn báo
cáo, họp mạng lưới.
Tháng 8-1958, tôi bị lực lượng
an ninh của Ngô Đình Cẩn bắt. Bị giải qua tòa Khâm, thấy anh Phước bị giam ở đấy.
Thế là rõ, cả mạng lưới bị lộ. Công an thẩm vấn kể vanh vách tên tuổi cán bộ tỉnh
ủy và phụ trách các ban ngành của ta ở Thừa Thiên. Họ cũng kê ra tường tận mọi
việc tôi đã làm.
Ở Huế thời ấy họ Lê Khắc có một
số nhân vật tên tuổi. Anh ruột tôi là Lê Khắc Tưởng làm giám đốc tài chánh
Trung bộ. Cháu ruột tôi là Lê Khắc Duyệt làm giám đốc công an Trung phần Trung
nguyên. Một cháu ruột nữa, Lê Khắc Quyến, là bác sĩ giỏi, giám đốc Y
tế Trung bộ, nhà hoạt động xã hội có tiếng. Phải chăng vì vậy anh em ông Diệm đối
xử với tôi có phần nương tay? Thế mà tôi cũng bị giam giữ 4 năm ròng trong trại
tòa Khâm… Năm 1962 mới được thả ra. Làm nhân viên thư
ký hành chánh do công an Huế trực tiếp theo dõi chặt.
Thế là sự nghiệp chính trị
của Lê Khắc Lự tan tành!
“Cầm
vàng mà lội qua sông / Vàng trôi không tiếc, tiếc công cầm vàng”.
Thế là mất vàng. Tiếc
công cầm vàng!...”
Nghe
tới đó, Văn Trí thốt nhiên bật dậy sỗ sàng:
- Chú nói cái gì? Mất vàng à? Vàng nào mất? Chú
nói lại cháu nghe coi.
- Ờ thì rứa đó. Chú cầm vàng chú lội qua sông,
chú để cho vàng trôi…
Trí
càng gay gắt:
- Cháu xin lỗi chú, chú nghĩ sai rồi! Chú không
làm trôi, không đánh mất một mảy vàng nào cả! Cháu biện giải chú nghe thử. Năm
1945-1946, thứ vàng ròng mà toàn dân Việt Nam nâng niu, mà chú Lự và cả họ Lê
Khắc nhà mình cầm, cả dân tộc Việt Nam cầm, chính là ý chí giành giữ độc lập tự
do cho dân tộc. Con sông phải lội qua ở đây chính là cuộc kháng chiến trường kỳ
gian khổ 9 năm. Tất thảy chúng ta đã oanh liệt qua sông mà vàng ròng độc lập tự
do không suy suyển một ly! Năm 1955, thực dân Pháp cuốn cờ rút lui. Sứ mạng cao
cả đã hoàn thành, có phần đóng góp của chú Lự thay cho Thế thứ 10 Lê Khắc! Lúc
cuộc chiến 1946 bùng nổ, trong số 20 người con còn tại thế của ngài Bồ Nam, duy
nhất người trai út Lê Khắc Lự dứt áo bỏ lại lũ con thơ, lên đường cứu nước cho
tới ngày kháng chiến thắng lợi.
Chú Lự ngẫm ngợi, ấp úng:
- Sau đó lại là chuyện khác. Từ 1955, bản chất thời
cuộc đã chuyển biến. Cháu còn nhớ rành rành năm 1955, ở ngoài Bắc mở đợt vận động
quán triệt tới từng người dân, xác định nhiệm vụ lịch sử số một của Việt Nam là
đấu tranh thống nhất đất nước, hòa hợp dân tộc, Nam Bắc một nhà. Bà con Lê Khắc
ngoài ấy đều biết sự việc Lê Khắc Nhãn đang làm phó vụ trưởng ngành giáo dục bí
mật vượt tuyến vào Nam móc nối với anh ruột Lê Khắc Quyến vận động
hòa hợp bà con hai miền. Cũng trong năm ấy đã tổng kết khen thưởng thành tích
kháng Pháp. Họ hàng nhà mình được trao tặng vài trăm tấm Huân Huy chương … Nếu chú Lự của cháu tập kết ra Bắc thì cháu đoan chắc chú sẽ
nhận được tấm Huân chương cao nhất trong số bà con Lê Khắc hiện diện ở miền Bắc.
Nhưng năm 1954, tổ chức phân công chú ở lại miền Nam hoạt động bí mật. Không phải
chú đào ngũ về Huế với vợ con, mà là chú tuân thượng lệnh, khoác vỏ bọc đặng thực
thi điệp vụ. Nghề tình báo gian nguy may rủi khôn lường. Trường hợp chú phải gọi
là tai nạn nghề nghiệp. Đối phương phăng được đầu mối, chứ có phải chú trở cờ
đâu!
Mặt chú Lự vẫn rầu
rầu:
- Ờ thì đường dây bị lộ không phải tại chú
phản bội. Nhưng chú vẫn ngày đêm dằn vặt về lầm lỗi của mình. Chú hèn yếu ở thời
điểm nghiệt ngã lựa chọn giữa khai nhận và cái chết. Địch đánh bài tâm lý, dẫn
chú về tận nhà thăm 6 đứa con, mấy đứa sau là Hoàng Anh mới có sáu tuổi, Hoàng
Hoa lên bốn, Cường lên hai. Chú thương 6 đứa con đứt ruột, chú buông xuôi. Còn
anh Phước và các đồng chí kiên trung ngày ấy thì hi sinh không còn ai cháu ơi!
Tâm tư sâu kín còn chuyện này nữa, chú bộc bạch cháu nghe. Từ ngày chú trở
lại với gia đình và bị địch bắt, cuộc sống của gia đình chú rất khó khăn.
Suốt đời chỉ đi ở nhà thuê nhà mướn. Lúc vào Sài Gòn thuê một cái gác nhỏ sống
qua ngày, thiếu thốn đủ điều, thậm chí không có nơi đi vệ sinh... mà các cháu
khi đến thăm chú thím đã được tận mắt thấy. Nhưng lời dạy của ông cha
để lại, “giấy rách phải giữ lấy lề”, không chỉ riêng chú mà tất cả con của chú
thím đều giữ nằm lòng cho đến hôm nay. Các con của chú đều được
ăn học nên người nhưng chỉ hưởng thụ theo công sức bỏ
ra, không đứa nào giàu có. Đủ ăn đủ mặc là quý rồi, chỉ lấy đạo đức và tình người
làm trọng!
Văn Trí lắng nghe.
Im lặng hồi lâu. Câu chuyện sau đó đằm lại. Lịch sử công bằng vẫn ghi chuyện
xưa chú Lê Khắc Lự cầm vàng đại nghĩa lội qua sông không đánh mất vàng không để
vàng trôi. Niềm vui lớn hôm nay là chú còn minh mẫn, “còn
thân còn dịp đền bồi”, thực thi sứ mệnh kết liên hòa hợp…
- Cháu ơi, thân già sức mấy mà đóng góp với
đền bồi?
- Thưa chú, sao lại không? Chỉ tính riêng đại
gia đình nhà cháu, hậu duệ ngài Văn Phố, được tặng thưởng nhiều Huân Huy chương
nhất và cũng…có nhiều người sau năm 1975 buộc lòng rời
đất nước nhất. Nếu tính cả họ Lê Khắc thì vài trăm tấm Huân chương đối lại với
vài trăm ly khách tha hương! Bỗng dưng tách ra hai phía đối lập! Giờ đây, cả
hai phía thành tâm tìm về hòa hợp. Chúng cháu xin dốc sức. Tuy nhiên, người con
trai duy nhất còn sống của Tổ phụ Lê Từ phải dẫn đầu họ tộc làm theo Di huấn
thiêng liêng.
Chú Lự lật giở bản Hưu
phủ Bồ Nam Lê thị gia huấn:
- Ờ, ờ, phải. Cháu xem đây nì, Di Huấn của
tổ phụ. “Ta làm quan hơn 30 năm, nhiều lần được
trong ngoài khen ngợi. Thời tại chức chưa tới 20 năm (bởi có hơn 10 năm
nghỉ việc quan về làng thọ tang thân phụ và thân mẫu –
ghi chú của người chép Tộc phả), cẩn trọng giữ gìn không phạm điều kiêng cấm
của người làm quan. Trong nhà không có tiền dư thừa, cần kiệm giản dị suốt đời,
lộc vua tích lũy sắm được một miếng vườn để vui thú lúc về già. Chỉ có một ngôi
nhà từ đường là sản nghiệp đời trước dùng vào việc thờ cúng, đến đời ta ở chăm
sóc…”; “…Phàm các con ta sau
này vào đời, người nào thu nhập tháng dưới 20 đồng, ăn mặc không đủ thì miễn;
người nào trên 20 đồng, mỗi tháng cần trích 5% (năm phần trăm) góp vào việc phụng
dưỡng, sau khi ta chết lấy phụ thêm vào việc thờ cúng…”;
“…Sau khi ta mất, nơi thờ cúng không nên để trống
không. Hoặc do các Phòng luân phiên ở để chăm sóc từ đường, hoặc chọn lựa ủy
thác người có khả năng trong số con cháu ở để coi giữ, nhưng vẫn do các Phòng
chăm sóc từ đường…” À, cháu nhớ cho kỹ – chú Lự lật giở lại trang một – câu
khai mở thấu suốt 15 điều Di Huấn: “Kinh sử là ruộng
vườn của nhà ta. Trung hiếu là châu báu của nhà ta”.
- Dạ, hậu duệ Lê Khắc ghi tâm khắc cốt: Trung
Hiếu là châu báu của nhà ta. Nửa thế kỷ trước, chú cháu mình mang vàng
ròng đại nghĩa Trung với nước vượt sông kháng chiến cứu quốc. Giờ
đây, chú cháu ta mang châu báu gia truyền Hiếu với Tổ tiên mà vượt
qua con sông chia ly, kết nối hòa hợp đôi bờ.
- Rứa thì được. Chú sẽ góp sức già. Chỉ tiếc tuổi
80 lãng cả hai tai.
Trí cười, trêu chú:
- Đồng bệnh điếc lác, chú cháu mình thương nhau.
Cháu kém chú 21 tuổi mà phải dùng máy trợ thính mười năm rồi.
Hôm sau, Trí mua biếu chú
Lự cái máy trợ thính. Chú Lự đeo thử, kêu trời: nhức đầu long óc, ù ù ầm ĩ như
cả một nhà máy cơ khí vận hành bên tai! Nhưng chú cố sử dụng, khả dĩ bàn chuyện
dòng họ với Trí. Chú vẫn canh cánh xót xa tình trạng Nhà thờ đêm ngày lạnh lẽo.
Trí cũng thấy Văn Xá quê mình sao mà nhiều nhà thờ, đi quanh làng cứ vài chục
bước lại gặp một nhà thờ của họ tộc nào đó. Riêng chi phái Lê Khắc có tới chục
nhà thờ, trong đó 4 ngôi “chỉ để thờ phụng, không có
người ở lại trông nom”. Có lẽ nên sắp xếp, chỉ để một
Nhà-Thờ-Chuyên-Thờ-Cúng, chính là Nhà-Thờ-Phái-Lê-Khắc tạo lập năm Ất Sửu 1925.
Còn Nhà thờ Trung phụng đại phu Lê Từ thì nên chăng trở thành từ đường có cháu
chắt ở lại ngày đêm trông nom hương khói, như Di Huấn của Người? Nhưng hậu duệ
dòng đích của Ông hiện nay không một ai sống ở làng. Có thể tìm một người cháu
nào đó về làng ở hẳn trong Nhà thờ, được sử dụng hai phòng chái, và dựng thêm
vài gian nho nhỏ kế bên cho gia đình thủ từ sinh hoạt?
Văn Trí bèn làm một chuyến
xuyên Việt thăm dò các “cụm Lê Khắc”
từ nam ra bắc. Ghé “Xóm Hoa Lư”. Anh Khắc Luân chết rồi! Làm xong cái lễ lên lão bảy mươi, ốm
khặc khừ vài tuần rồi mất, đưa tang lặng lẽ không báo về quê. Chị Báu soạn tủ
sách chồng để lại, thấy lá thư anh Luân viết chưa kịp gửi vào Sài Gòn “…chú Điềm, chú Nhãn, chú Sính thân mến…
tôi định khi nào sức khỏe hồi phục thì về làng bàn việc trông nom Nhà thờ Phái
và Nhà thờ Ông Nội…” Con gái lớn của anh Luân lấy
cu Sơn nhà Hải-Na đã theo chồng lên thành phố định cư. Con trai cả, cu Tân,
ngoài 40 tuổi mà chẳng chịu lấy vợ, bệnh thần kinh có vẻ nặng thêm. Chị Báu buồn
héo hon, ở với vợ chồng con gái út. Chị Na vô lo, béo phây phây, quanh ra quẩn
vào mỗi việc chăm chút cho hai thằng nhóc - cháu ngoại bà Na lại cũng là cháu nội
bà Vân! Chị Vân một nhà đông đúc đề huề tới hai chục con (trai gái dâu rể) và
hai chục cháu (nội ngoại). Hàng xóm cứ kháo nhau kêu Khê-Vân bằng cái tên “nhà giáo nhà giàu”. Mà có lẽ giàu thật.
Ấy là nhờ thu nhập từ “trung tâm sách tham khảo” hình thành năm 1994. Ý tưởng làm sách nẩy nở từ “sáng kiến” của mấy cậu học trò tinh
quái năm nào sao chụp bài giảng của thầy Khê, biến thành “hàng
hóa”. Đúng lúc nhà trường phổ thông đổi chương trình,
thay sách giáo khoa. Anh Khê vào Sài Gòn “học mót” kinh nghiệm, lên Hà Nội “khai thác
chất xám”. Tổ chức cho các giáo sư đầu ngành từng bộ
môn bám sát nội dung sách giáo khoa quốc gia, biên soạn sách hướng dẫn tỉ mỉ
cách dạy cách học từng bài một. Y như bài soạn mẫu cho thầy và cho trò. Coi là “cẩm nang dạy học”! Lại móc nối với
các sở Thông tin văn hóa tỉnh xin giấy phép xuất bản nhất thời. Gặp buổi tranh
sáng tranh tối, cả triệu thầy trò đang bí bách ngơ ngác với chương trình mới, đổ
xô tìm “cẩm nang”. Văn Khê làm
kiểu “cuốn chiếu”, hàng năm Bộ
giáo dục thay sách giáo khoa lớp nào là “Trung tâm” cung ứng sách hướng dẫn lớp đó. Mỗi đầu sách của “trung tâm chui” in vài trăm ngàn bản.
Các tỉnh gần xa kìn kìn đánh xe tải về lấy sách. Nhưng sự thịnh vượng không bền.
Các công ty Sách và Thiết bị trường học tới mua, dần dà học lỏm quy trình làm
ra ấn phẩm, rồi tỉnh nào tỉnh nấy tự túc tổ chức in lấy sách tham khảo. Thành
ra bão hòa. Mấy năm sau, hai ngành Giáo dục và Xuất bản trong Nam ngoài
Bắc toát mồ hôi loay hoay…“dẹp loạn sách tham khảo”! Tuy thế, trong dăm năm cả nhà Khê-Vân xúm vào làm sách,
cũng đã đủ tiền cho con cái vung vinh xây nhà tầng suốt lượt.
Bất ngờ nhất trong
chuyến đi này là Trí tái ngộ anh Thụ trong vai “Việt kiều
yêu nước”. Không ai nghĩ anh suýt soát tuổi 70. Vạm vỡ,
da căng đỏ au, tóc râu đen mun. Thì ra anh Thụ vừa từ Hoa Kỳ về thăm Khê-Vân. Lại
bổ vào Thanh Hóa về làng xưa cúng tiền xây ngôi chùa cổ bị phá trong thổ cải.
Chị Vân bĩu môi “quên cái làng ấy đi” thì Thụ cười cười hòa giải hòa hợp em ơi. Với lại anh
thương cha nhớ mẹ nên cung tiến xây chùa cho người làng mình cầu cúng ăn chay
niệm Phật quên đi mọi oán thù chỉ nhớ điều nhân nghĩa. Thụ tủm tỉm cười hỏi chú
Trí không nhận ra anh à. Sao không nhớ, vừa thấy đôi mày lưỡi mác với thân hình
đồ sộ là em nhận ra ngay. Sau gần nửa thế kỷ mà anh Thụ vẫn như xưa. Ha ha, lấy
đâu ra nửa thế kỷ? Anh em mình đụng độ đốp chát cách nay mới có một phần tư thế
kỷ thôi! Nhà báo xã hội chủ nghĩa quên béng nhân vật thủ thư điển hình trường học
“mới giải phóng” phía Nam rồi!
Thụ cười khà khà sảng khoái, lục túi, đeo lên mắt chiếc kính râm ngoại cỡ sẫm
màu sệ xuống gốc mũi. Bộ mặt trở nên bí ẩn. Nhưng hàng ria mép hai đầu cong vểnh
ngược ngạo nom quen quá là quen! Trời ơi, ông Thụy, giáo sư văn triết
Trịnh Thụy, thủ thư Trịnh Thụy từ Sài thành trốn chui trốn nhủi vượt biên năm
1977. Thì ra, rõ ma lanh, vượt tuyến năm 1954, Trịnh Thụ chắp thêm chữ y vào cuối
danh tính thoắt biến thành Trịnh Thụy. Rồi vật đổi sao dời, năm 2003 phục hồi
nguyên trạng Trịnh Thụ doanh nhân thành đạt người Mỹ gốc Việt quy cố hương hành
hiệp thiện nguyện với bao toan tính tốt lành. Trí bảo anh Thụ ơi mang vốn liếng
ở Mỹ về mở doanh nghiệp làm ăn xây dựng đất nước đi. Thụ ờ ờ, lần này về thăm
dò xem sao, chuyện hồi hương tính sau, còn phải thu xếp vợ con cháu chắt cả chục
nhân mạng.
Anh Khê đã buông hẳn việc
làm ăn. Gia tài chia hết cho con. Nhà lầu của con trai con gái con dâu con rể
xây nối nhau thành dãy phố trù phú. Khê Vân chỉ sống bằng 2 suất lương hưu. Khê
đẹp lão, ngoài giờ đọc sách quanh quẩn trong “phố nhà”, bảo ban lũ trẻ học hành. Bà mẹ mười con Trịnh Thị Vân thì
chẳng chịu già theo thời gian, gương mặt bầu bầu hồng hào không nếp
nhăn còn nguyên bóng dáng thời xuân sắc. Vẫn con cón lam làm, sáng chiều đảo
qua các nhà, luôn tay luôn chân đỡ đần con cháu công kia việc nọ. Thi thoảng,
đêm, Khê đem cây banjo alto cổ tích Suối Mây lên sân thượng. Tay cầm
que gẩy vê dòn tan giai điệu ngày xưa. Thánh thót Giọt Mưa Thu, Con Thuyền
Không Bến. Rộn rã Bóng Cờ Lau, Tiến Về Hà Nội. Ông chơi đàn, mấy bà
cháu khen lấy khen để rằng nghe hay hơn ti vi.
Cũng có lúc nghĩ ngợi lăn
tăn. Chia hết của nả cho con, thôi đóng vai “nhà giáo
nhà giàu”, Khê Vân đôi khi hụt hẫng. Ơ hay, dường như
khách khứa thưa vắng hẳn đi? Ngày trước, nào đồng nghiệp của chồng, nào bà con
đằng vợ, ra vào rối rít. Tuần nào cũng một hai người cười cười ngượng nghịu ngỏ
ý vay mượn tiền nong. Được cái chị Vân xởi lởi tốt bụng. Sinh hoạt giản dị,
tiêu dùng cho bản thân thì chi li chặt chẽ, nhưng hễ người thân nhờ cậy là niềm
nở đáp ứng. Nay, bạn bè vẻ như nhạt nhẽo. Mấy hội đoàn ở địa phương trước đây
hào phóng ban tặng Khê-Vân mỹ hiệu “Mạnh Thường Quân”, từ khi “nhà hảo tâm” gia tài khánh tận thì không mấy ai hỏi han săn đón. Nghe chị
Vân phàn nàn, anh Khê cười xòa, ngâm nga: “Bần cư
trung thị vô nhân vấn/ Phú tại thâm lâm hữu khách tầm”(Nghèo
ngồi giữa chợ không người hỏi/ Giàu ở rừng sâu có kẻ tìm). Trạng Trình
Nguyễn Bỉnh Khiêm từ năm trăm năm trước đã bóc mẽ Thói đời: “Còn bạc còn tiền còn đệ tử/ Hết cơm hết rượu hết ông tôi”. Nói đâu xa, ngay đàn con rứt ruột mình quần quật vật
vã nuôi dạy nên người, dựng vợ gả chồng, cấp vốn ăn nên làm ra, thế mà sau khi
chia hết sản nghiệp còn có đứa ngảng ra hờ hững. Nhân tình thế thái ngàn đời,
trong gia đình cũng như ngoài làng nước, quyền lực kinh tế chi phối mọi mối
quan hệ. Mạnh vì gạo, bạo vì tiền. “Đồng tiền là tiên
là phật, là sức bật tuổi trẻ, là sức khỏe tuổi già”!
Cho nên ông cha ta trước kia phân bổ gia tài chỉ ghi trong di chúc, khi qua đời
mới thực thi. Đời xưa lề luật gia giáo nghiêm minh còn thế, huống hồ thời nay “kinh tế kẻ chợ” hội nhập toàn cầu.
Không việc gì phải lăn tăn! Người ta ăn nhau ở hậu vận. Vợ chồng mình tiền hung
hậu cát, được bình an mở mặt như hôm nay là mãn nguyện. Nhà ta xây cơ đồ trên đất
thiêng cố đô Tiền Lê. Đất lành chim đậu. Không đi đâu nữa! Ta cắm sào bến Hoa
Lư, đóng vai “già làng” vun xây
một nhánh phía bắc dòng Lê Khắc. Chị Vân còn thầm thì mách với Trí rằng chị sẽ
rủ rê anh Thụ hoàn cố quốc đầu tư kinh doanh, mở mối hàng thuốc Tây hoặc lập xưởng
chế biến nông sản thực phẩm. Sẽ cho cả đàn con Lê Khắc theo bác Thụ học bài bản
làm ăn “kinh tế thị trường thứ thiệt”,
hẳn hoi làm “triệu phú đô la”!
Chứ như mươi năm qua, chúng nó theo cha làm ăn kiểu chụp giật thời buổi nhá
nhem, luồn lách kẽ hở pháp luật, thì thành “tỉ phú tiền
đồng” là phúc. Anh Khắc Luân sinh thời từng luận bàn về
chỗ mạnh chỗ yếu trong truyền thống Lê Khắc nhà ta. Thế kỷ 20, Lê Khắc các Thế
thứ 9 thứ 10 thứ 11 rất tài sinh sôi…phát “đinh”, cũng đã xông xênh phát “quý”. Nhưng còn thiếu chữ “phú”! Mà luật đời, dân có giàu thì
nước mới mạnh. Thế kỷ 21 này, các Thế thứ 12 thứ 13 thứ 14 phải dấn lên phát “phú”. Kết hợp vận số và tài năng của
họ Trịnh nhà Thụ Vân, sẽ phát triển nhánh Lê Khắc mạnh giàu trên đất
Hoa Lư!
Văn Trí đi về kể hết tình hình
với chú Lự. Chú ơi, bà con ngoài bắc không ai vào được thì mình nhắm vào con em
cháu chắt ở Huế. Chắc chắn chúng cháu sẽ tìm được người đảm trách chăm nom Nhà
thờ Tổ phụ. Chú cứ yên tâm.
Việc hiếu nghĩa xuôi gió thuận
buồm giúp chú Lự sống vui cho tới lúc qua đời ở tuổi 89 - ngày 20 tháng Giêng
năm Giáp Thân 2004.
Trước khi chú Lự mất mấy tuần,
Văn Trí đến thăm, xin ý kiến cho tổ chức rước di ảnh của bốn bà nội, Bà Hai, Bà
Ba, Bà Tứ, Bà Năm và di ảnh ba chục Ông Chú Mụ O vào nhà thờ quây quần bên tổ
phụ Bồ Nam. Cõi âm đầm ấm, cõi dương cũng thêm gắn bó. Chú nghe ra, vui lắm.
Người mệt không nói được nhiều nhưng hai mắt hấp háy tinh anh. Trí ngồi bên
chú, bồi hồi vuốt ve đôi bàn tay da mồi nhăn nheo, gân xanh chằng chịt. Chính
đôi tay gân guốc này đây, giữa thế kỷ 20, đã cùng đồng sự xốc vác đưa Bình Trị
Thiên khói lửa vượt thoát thảm trạng tài chính kiệt quệ. Đã chuyển tải bao hòm
tiền cụ Hồ từ Nghệ An vào Quảng Trị. Đã bảo vệ từng tờ bạc cụ Hồ trong rừng
sâu. Đã nhặt nhạnh từng tờ bạc Đông Dương ở các trạm thu thuế buôn chuyến tiền
phương…Chắt chiu cóp nhóp từng đồng mà thành kho bạc Thạch
Sanh cung ứng nguồn lực góp phần đưa cuộc kháng Pháp tới thành công, một bước mở
đường đón bà con Lê Khắc Văn Xá tha phương quay về đoàn tụ.
Chương 12: Vị
võ quan tứ đẳng thị vệ và
người con trai tư duy sáng tạo khoa học đa ngành:
Trung phụng Đại phu
Lê Từ từng làm quan đầu tỉnh Quảng Trị, tỉnh Phú Yên và tỉnh Quảng
Ngãi, từng làm thị lang Bộ Binh, song vốn dĩ vẫn là quan văn từ đầu chí cuối hoạn
lộ ba mươi năm. Ngài có 15 ông con trai, thì 14 cũng theo nghiệp thi thư. Chỉ
hiếm hoi một ông làm quan võ. Đó là chú Lê Khắc Chí (1897- 1969), con trai út của
Bà Hai Hoàng Thị Huệ,
Hưu trí ở làng quê,
lúc cao hứng Trung phụng Đại phu thường kể cho con cháu nghe chuyện vui: Ông vì
giữ thể diện người Việt mà thách thức người Pháp thi tài thể thao. Đó là dịp Quốc
khánh Pháp “cát-tó duy-dê” – tức là ngày 14 tháng 7, thường tổ chức vui chơi, đá bóng,
đua ngựa, bơi trải, leo cột, đẩy tạ… tranh giải điền
kinh. Đồng chủ tọa là viên Công sứ Pháp và cụ tuần phủ Nam triều. Nhiều
nhân viên tòa công sứ, kể cả viên Phó sứ, hăng hái cùng người Việt tranh tài chạy
thi, ném lao, đua ngựa, và giải quán quân bao giờ cũng về tay người Pháp. Viên
công sứ đắc chí:
- Cụ Tuần thấy chưa! Người
Pháp chúng tôi tuy rằng dân bàn giấy nhưng không sao lãng ôn luyện thể thao nên
khỏe mạnh thừa hành công vụ, chứ không như quý quan Nam triều hễ rảnh rỗi là tụ
tập tài bàn tổ tôm thâu đêm suốt sáng, còn đâu sức lực phụng sự quốc gia…
Cụ Tuần ôn tồn,
thâm thúy:
- Quan lớn dạy chí phải.
Người Pháp quán xuyến ôm hết việc to việc nhỏ, thành ra người Nam ỉ lại
dựa dẫm, nhàn cư sinh bất thiện. Song, chúng tôi văn quan yếu đuối cũng có chút
nghề mọn khả dĩ góp vui. Nếu quan lớn vui lòng cho phép, chính tôi sẽ ra sân mời
người Pháp thi tài ném xa.
- Thi môn thể thao
ném xa? Là đẩy tạ hay phóng lao?
- Không! Mấy quả tạ,
ngọn lao mà lực sĩ Pháp vừa biểu diễn, chúng tôi chưa hề đụng tới thì làm sao
thi thố? Thi ném xa theo cách của chúng tôi là ném các vật thông thường như hòn
đất, viên đá, cục gạch rất sẵn trên sân vận động này. Thể thức đơn giản. Người
thi ném đứng trên cùng một vạch vôi. Ai ném xa nhất người ấy thắng cuộc.
Viên
Công sứ cười xòa, xì xà xì xồ tiếng Pháp với đám thuộc cấp, và ngay lập tức cử
quán quân đẩy tạ và quán quân ném lao ra thi tài với cụ Tuần. Lễ phục cởi ra vắt
lưng ghế, cụ Tuần người Việt ngũ thập bước xuống sân thi tài với hai lực sĩ
Pháp trẻ trai. Một viên đội Pháp chuyên huấn luyện thể thao đứng làm trọng tài.
Lực sĩ Pháp chọn vật ném là những viên đá xanh cầm gọn lòng bàn tay. Cụ Tuần
sai lính nhặt mươi viên ngói vỡ.
Cả 3 lần
ném đầu tiên, mảnh ngói hồng đều vút ra xa nhất. Nóng mặt, viên Công sứ sai
Giám binh tuyển người giỏi ra tiếp tục thi tài ném với cụ Tuần. Bọn này có nghề,
và cũng ranh ma, đã quan sát cách ném của cụ Tuần nên đều ném ngói theo cách
ném “thia lia” cho mảnh ngói nằm
ngang giảm sức cản. Nhưng vẫn không ai địch nổi cụ Tuần! Cuối cùng cả bọn hoan
hô vang dậy, công kênh “cụ già vô địch”
chạy một vòng sân!
- Thầy học võ, học ném lúc mô mà tài rứa hè? – Con cháu tấm tắc.
- Võ chi mà võ! Chẳng là quen tay đó thôi. Hồi nhỏ
ở làng, chiều tà hoặc đêm trăng, thầy hay ra ruộng khô mới cày chơi đánh trận
giả với bọn trẻ trong làng. Chia hai phe, đứng đối mặt trên hai bờ ruộng cách
nhau vừa tầm, lượm đất cục thi nhau ném và tránh. Đứa nào “trúng
đạn” hoặc bật lui khỏi “chiến
tuyến” coi là “tử sĩ”. Phe nào “chết”
hết là thua. Thầy thường cầm đầu một phe. Phe của thầy trận nào cũng thắng. Thầy
giỏi ném đất ném gạch từ nhỏ, chứ tài cán võ vẽ chi mô. Thời làm quan, có năm
thầy về triều làm Binh bộ thị lang, nhưng vẫn là quan văn. Họ mình phần lớn
quan văn. “Văn quan tứ phẩm đã sang/ Võ quan tam
phẩm còn mang gươm hầu…”
Tuy phụ thân dạy cho như thế,
nhưng chú Lê Khắc Chí từ nhỏ không ưa sách vở chữ nghĩa, học trước quên sau, chỉ
giỏi trèo cây bắt cá bắn chim. Ông Tuần giận, rầy: nhác học như rứa thì ở với
heo! Chú bé Chí làm theo ngay tức khắc, phóc vô chuồng ngồi chồm hổm giữa bầy
heo, làm cả nhà phì cười.
Tính ông Tuần vốn thoáng, thường chăm
lo tạo điều thuận lợi cho con cái nấu sử sôi kinh phát huy thiên bẩm, chứ không
bắt ne bắt nét ép buộc nhất nhất theo ý phụ thân. Ai kết nghiệp văn thì học
văn. Ai khoái nghề võ cứ học võ. Làm thầy làm thợ làm ruộng chăn trâu đi cày…, cứ hễ tròn phận sự, không làm điều chi trái luân thường đạo
lý quốc pháp gia phong, thì là người tốt. Cho nên chú Chí thuở thiếu thời chỉ cần
kiếm được lưng vốn chữ nghĩa thánh hiền rồi thôi, khỏi bị sách vở từ chương vây
bủa nhồi nhét nhức đầu chóng mặt. Thở phào, chú hăm hở phụ mẹ lo việc đồng áng.
Tới tuổi đi lính, vì là “quan viên tử” nên chú Chí được sung
vào cơ ngũ đóng trong Thành Nội Huế. Học võ sáng ý chuyên cần tinh thông quyền
cước, mà lao dịch thổ mộc nặng nhọc cũng không quản ngại nề hà. Một bữa, chú
đang ngâm người hì hục dọn rác dưới Hồ Sen thì vua Khải Định lững thững đi qua,
đứng lại hỏi han. “Đứa tê con nhà ai ngó bộ linh lợi
sáng sủa hè”. “Ủa,
con quan Tuần phủ mà bắt lội bùn chi tội rứa”(!) Thế
là chú Chí được sung vào đội thị vệ hầu cận ngài ngự. Chú vốn tháo vát lam làm,
tính tình chân chất nên Khải Định rất thương. Thành thân tín, bắt hầu luôn bên
cạnh. Một lần nhà vua đau nặng, chú Chí túc trực bên long sàng. Ngồi lâu cuồng
cẳng, thấy hoàng thượng đã yên giấc điệp, chú bèn lẻn đi dạo mát, vui chân ra tận
cửa Thành Nội. Nhà vua sực tỉnh, kêu không thấy, giận lắm. Nhưng thương tình
không nỡ phạt nặng, mà chỉ hạ lệnh đuổi về quê cho đã nư. Thì về quê! Chú Chí
thản nhiên cắp khăn gói về với mẹ ở Văn Xá Thượng. Sáng sáng huýt sáo dắt trâu
vác bừa ra ruộng.
Anh Lê Khắc Duyệt, trong cuốn hồi
ký của mình, kể rằng một hôm, bé Duyệt đang nhảy chân sáo ra ruộng xem chú Chí
cày bừa thì có lính ở trên hoàng thành đi xe đạp bánh lốp đặc về tận làng, sục
tìm chú Chí. Thì ra ngài ngự nhớ cậu thị vệ thật thà hiền hậu, chỉ dụ
tức tốc đón Chí trở lại hoàng cung. Thì trở lại hoàng cung! Chú Chí thản nhiên
khăn gói phóc lên xe đạp, ngồi trên cái then ngang đúc bằng thép ống, cho bạn đồng
ngũ hồng hộc guồng hai chân kẽo kẹt lục cục chở về Thành Nội hầu vua.
Năm 1922, Khải Định sang Pháp dự “đấu xảo thuộc địa” (hội chợ) tại
thành phố Marseille, có ngũ đẳng thị vệ Lê Khắc Chí tháp tùng. Sau khi Khải Định
qua đời, chú Chí tiếp tục làm việc trong cung vua một thời gian, được thăng tứ
đẳng thị vệ, rồi cải ra làm quan võ ngoài (Chánh quản) trông coi lăng tẩm triều
Nguyễn và Sở ngựa của Hoàng gia.
Chú Chí cả đời làm quan võ bậc thấp,
lương bổng chẳng nhiều nhặn gì, nên bà vợ là thím Đặng Thị Tây phải thu vén
xoay xỏa bán hàng tấm mới đủ nuôi đàn con 2 gái 4 trai ăn học. Mà vẫn rộng lòng
đùm bọc cháu chắt. Anh Lê Khắc Điềm từng ở với chú Chí thím Tây từ 1931 tới
1935 để theo học Quốc học Huế. Lại nữa, khoảng năm 1944-1945, Văn Trí cùng anh
Tình chị Mộc từ Văn Xá lên Huế ăn học, ở nhà chú Chí. Trí và chị Mộc học tiểu học
Trần Cao Vân, anh Tình học trung học Pellerin. Bấy giờ Huế cùng với cả Trung kỳ
và Bắc kỳ đang sống những ngày ảm đạm bởi ảnh hưởng trận đói bi khốc năm Ất Dậu.
May mà có làng quê Văn Xá hàng tháng gánh gạo lên tiếp tế cho ăn đủ no. Nhưng
thức ăn thì kham khổ, chỉ có chút cá khô, tép rang. Và nhớ đời một món ăn độc
đáo, mà cả lũ trẻ lốc nhốc vui đùa kêu bằng “ngôi sao
xanh” và gắp lia lịa cho nhau, đó là món khế
muối, chua ơi là chua, mặn ơi là mặn. Bấy giờ chị cả Lê Thị Quán đã lấy chồng,
là anh Hoàng Phương Thảo (anh Thảo trong kháng chiến chống Pháp làm chủ tịch Ủy
ban kháng chiến hành chánh tỉnh Thừa Thiên, năm 1954 ra Bắc làm việc ở Bộ tài
chính, sau tháng 3-1975 từ miền Bắc về lại làm phó chủ tịch ủy ban nhân dân
cách mạng tỉnh Thừa Thiên-Huế). Số còn lại, chục anh chị em họ cùng trạc tuổi
chơi với nhau thân thiết như hình với bóng. Anh Tình với Khung và Sính. Chị Mộc
với Vân và Linh. Còn quấn quít với bé Trí 7 tuổi là bé Cúc 8 tuổi (đầu thế kỷ
21, Văn Trí nối lại liên lạc, thì cô em họ Kim Cúc đã thành bà lão với một bầu
đoàn phu tử đông đúc 6 con gái, 3 con trai cùng 9 con rể con dâu và 18 cháu nội
ngoại!).
Thực dân Pháp tái chiếm Huế, gia đình
chú Chí tản cư về Văn Xá, cư ngụ tại Nhà thờ Ông một thời gian ngắn, lên Văn Xá
Thượng chỗ vườn Bà Hai một năm rồi quay xuống Văn Xá Đông ở tại cơ ngơi của bác
Phủ (tức nhà Văn Trí) gồm ba dãy nhà bề thế xếp hình chữ U đang bỏ không vì đại
gia đình Văn Trí đã tản cư tuốt ra Thanh Hóa. Phải tránh Văn Xá Thượng vì lính
Pháp o ép ráo riết, có đồn Am ở mé bắc và đồn Thanh Khê ở mé Nam kìm kẹp, đêm
đêm vãi đạn như mưa nếu thấy đèn sáng, chó sủa. Trong vòng vây địch bắn phá,
chú Chí vẫn cáng đáng nhiệm vụ kháng chiến, làm chủ tịch Hội Liên Việt xã Hương
Thạnh (tên đơn vị hành chánh của Văn Xá bấy giờ; trước đó kêu bằng xã Hương Xá,
và sau ngày thống nhất 1975 thì đổi thành xã Hương Văn).
Năm 1950, đối phương càn quét dữ
quá, chú Chí phải đưa gia đình ra Huế mua nhà ở “tạm
lánh”, nhưng vẫn đều đặn về làng cùng thân tộc tổ chức
các ngày Giỗ trọng ở Nhà thờ phái Lê Khắc và Nhà thờ chi Lê Từ. Chú vẫn hoạt động
bí mật. Cho tới khi bị mật thám Pháp phát hiện, bắt giam. Phải nhờ anh Lê Văn
Sâm chồng chị Ngãi (là con gái chú Lê Khắc Tuệ) đang làm bên “Quân
vụ” Trung bộ đứng ra bảo lãnh, chú Chí mới được về.
Mấy người con trai của chú Chí
đều nối tiếp được chí khí yêu nước, tinh thần hăng hái việc công của cha ông.
Lê Khắc Khung (1925) và Lê Khắc Sính (1928) năm 1946 cùng gia nhập vệ quốc
đoàn: “…Xếp bút nghiên lên đường tranh đấu! Xếp
bút nghiên coi thường công danh như phù vân…Hèn thay đời
nhàn cư hèn thay vui yêu đương… Một lòng yêu non sông
vì dân ta liều thân!”
Đại đội trưởng Khung hi sinh từ ngày
đầu vỡ mặt trận Huế. Sính thì thoát ly lên núi rồi năm 1953 được điều vào thành
phố sống cùng chú Chí để hoạt động bí mật.
Con trai thứ ba, Lê Khắc Vân (1931) từ
1950 sang Pháp học chụp hình, vẽ đồ bản, rồi vừa làm nghề vừa hoạt động cứu quốc,
trở thành nòng cốt của Hội Việt kiều yêu nước. Giai đoạn 1960-1975, nhà Vân là “trạm” đón tiếp những người yêu nước ở
Sài Gòn sang làm việc, ở cả tuần cả tháng. Như giáo sư Nguyễn Thị Bình (sau này
là phó Chủ tịch Nước), và bà luật sư Ngô Bá Thành (sau này là phó chủ tịch Ủy
ban pháp luật của Quốc hội). Tới 30-4-1975, đất nước hòa bình thống nhất, Vân
liền về Sài Gòn thăm mẹ. Bà Bình và bà Thành nghe tin, tìm ngay tới, đồng chí đồng
minh hội ngộ hàn huyên ôn chuyện cũ bàn việc mới.
Con trai út, Lê Khắc Linh (1934) năm
1953 đang học trung học Khải Định thì tới tuổi “trốn
lính”, được tổ chức kháng chiến đưa ra vùng tự do Hà
Tĩnh. Năm 1975, Linh từ Hà Nội vào Nam thì chỉ còn gặp mẹ, cha đã mất từ 6 năm
trước.
Con cháu còn thương tiếc nhắc nhớ mãi
về cái “tai nạn nghề y” năm
1969 ấy. Chú Lê Khắc Chí bị bệnh thận, phải phẫu thuật. Bác sĩ Lê Khắc Quyến gởi
gắm sinh mạng ông chú ruột của mình cho người bạn thân là bác sĩ Ngô Gia Hy,
Khoa trưởng đại học Y Sài Gòn kiêm giám đốc bệnh viện Bình Dân. Đích thân bác
sĩ Hy cầm dao mổ cho chú Chí. Ca mổ thành công. Khi bệnh nhân đã ổn định thì mới
giao cho sinh viên năm thứ ba thực tập chăm sóc. Chẳng may lúc truyền sérum, bị
sốc. Thực tập sinh lúng túng không xoay trở kịp. Khi hai vị bác sĩ giỏi nhất
Sài Gòn và Huế nhận được cấp báo, tức tốc có mặt, thì bệnh nhân đã tắt thở. Bác
sĩ Hy khóc ròng. Bác sĩ Quyến vì quá thương chú mình, lần đầu tiên trên đời nặng
lời với bạn: trời ơi, sao ở Sài Gòn sinh viên năm thứ ba mà chưa biết xử
lý sốc sérum, ở Huế tôi dạy từ năm thứ nhất!
Tháng 7 năm 1991, lúc Văn
Trí đưa vợ con từ Hà Nội vào Nam định cư thì hậu duệ chú Chí ở Sài
Gòn chỉ còn có gia đình Lê Khắc Sính.
Thím Đặng Thị Tây đã mất năm
1980. Hai vợ chồng Lê Khắc Vân vẫn định cư ở Pháp, năm 1987 chết vì tai nạn
giao thông. Vợ chồng gái út Lê Thị Kim Cúc-Nguyễn Văn Nghiệp với 9 người con ở
Tuy Hòa Phú Yên từ 1959. Hai cặp vợ chồng, gái cả Lê Thị Hương Quán - Hoàng
Phương Thảo và trai út Lê Khắc Linh - Hoàng Thị Sơn thì vẫn yên vị ở Hà Nội từ
giữa thập niên 1950 tới bấy giờ.
Cuối thế kỷ 20, Thế 11 Lê Khắc phần lớn
vào tuổi 70, 80, quyết định bắt đầu chuyển dần công việc dòng tộc cho Thế 12
đông đúc và sung sức. Cuộc “chuyển giao thế hệ” này diễn tiến hiệu quả rõ nhất ở gia đình Sính. Lê Khắc
Sính qua đời năm 1997; ngay sau lễ tang, con trai cả Lê Khắc Lâm (1952) xung
phong nối việc cha. Đó là thành viên thuộc Thế 12 đầu tiên tham gia Ban phụ
trách!
Cũng là lúc Văn Trí bắt đầu đảm đương đứng
mũi chịu sào việc họ. Mới nghỉ hưu và vừa lên lão 60, nhưng sức lực Trí ọp ẹp.
Tim mạch, dạ dày, xương khớp… đều “cuối
thời hạn sử dụng”, đau lên đau xuống, mỗi tuần một hai
lần “tái khám” lấy đủ loại thuốc
viên to nhỏ, uống nghiềm. Từ tuổi 50 đã phải lủng lẳng toòng teng trước ngực sợi
dây máy trợ thính. Tai nghễnh ngãng đâu dám cưỡi xe máy ra phố. Đi gần thì túc
tắc đạp xe, xa chút là phải ngồi sau xe máy ôm eo con cháu. Cháu đây chính là
Lê Khắc Lâm. Hễ ông bác “ới” một
tiếng là ông cháu sẵn sàng tạm ngưng việc nhà, xăn tay áo lo việc họ. Thế 11 Lê
Khắc phần lớn “lên lão thượng thọ”,
con cháu cả đàn xúm xít, ở Sài Gòn tháng nào cũng có đám, rất nhiều cuộc vui,
là “hỉ”, mỗi năm một hai đám buồn,
là “hiếu”. Hẳn nhiên đám cưới
nào trưởng ban, trưởng phái cũng tới chia vui, còn đám ma thì không thể vắng mặt.
Không dưới chục lần cháu Lâm cầm lái thận trọng lượn lách giữa đường phố Sài
Gòn người xe chen chúc như nêm cối, sao cho khỏi va quệt rơi rụng cái vòng hoa “thành kính phân ưu” mà bác Trí khệ nệ
nâng niu ôm giữ phía sau!
Đau buồn không kể xiết, cái lần Văn
Trí mang vòng hoa tới viếng chính người cháu mẫu mực của mình! Năm 2007, Lâm mất
vì ung thư ở tuổi 55.
Và thật xúc động, Lâm vừa nằm xuống
thì vợ là Lê Thị Hương nuốt nước mắt, rắn rỏi thay chồng huy động năm sáu người
thân cùng lúc đứng vào hàng ngũ cháu con Lê Khắc xông pha việc hiếu. Con đẻ của
Lâm Hương là Lê Khắc Phong. Em trai của Lâm là Lê Khắc Dũng, Lê Khắc Minh, Lê
Khắc Song, Lê Khắc Tuy. Rồi tới em gái là Lê Khắc Tuyết Thanh làm Phó trưởng
ban đại diện, đảm trách công việc thư ký tổng hợp của cha mình 15 năm trước.
Chính các cháu Lê Khắc Lâm và
Tuyết Thanh chủ động phát triển ảnh hưởng ra các tỉnh thành khác. Có
hiệu quả ngay! Ở Hà Nội, bà Lê Thị Quán mất từ tháng 8-1991, nhưng đã có 5 con
họ Hoàng là Phương Nga, Phương Hà, Phương Lan, Phương Lưu và Phương Mai sốt sắng
cúng góp việc hiếu nghĩa bên dòng Lê Khắc của mẹ mình. Ở miền Trung, gia đình
Kim Cúc-Nguyễn Văn Nghiệp có hai con trai là Nguyễn Hữu Tài và Nguyễn Hữu
Nguyên vào Sài Gòn làm ăn, lấy vợ, sinh con…cũng bắt đầu
tham gia việc họ.
Đặc biệt, gia đình “Linh-Sơn”- Lê Khắc Linh - Hoàng Thị
Sơn cùng con gái Lê Khắc Hồng Hạnh, con trai Lê Khắc Hùng - thì luôn gương mẫu,
số tiền cúng góp các đợt tu sửa Nhà thờ - Lăng mộ luôn cao nhất so với mấy chục
gia đình Lê Khắc ở miền Bắc. Không chỉ góp phần “từ xa”, Linh còn nhiều lần từ Hà Nội về tận Văn Xá viếng mộ tổ
tiên, và lần nào cũng trực tiếp gặp người phụ trách thường trực ở quê hương,
trao tiền triệu gọi là cúng góp nhang đèn.
Thực ra, giữa Lê Khắc Linh và
Văn Trí, cùng với nghĩa tình đồng tộc gắn bó, còn có mối quan hệ cộng tác mật
thiết lâu bền 30 năm qua, từ đầu thập niên 1980. Trí, với tư cách một nhà báo
sùng sục săn tìm nhân tố canh tân đổi mới, khi ở Hà Nội, lúc ở Sài Gòn, từ báo Giáo
Viên Nhân Dân, báo Giáo Dục&Thời Đại tới tạp chí Thế Giới
Mới, tạp chí Trí Tuệ, tạp chí Giáo Dục và Xã Hội. Còn Lê Khắc Linh,
là tư cách “nhân vật điển hình”,
một kỹ sư chuyên gia ngành cầu đường với tư duy đặc sắc độc đáo sáng tạo khoa học
đa ngành từng gặt hái những thành công vang dội.
Ai đã từng làm “hành khách” (khách bị hành hạ!) của
tàu Thống Nhất những năm 1977-1982 hẳn không thể quên 3 ngày đày ải trên những
toa chật như nêm, nóng như thiêu và…chậm như rùa.
Năm 1936, thời Pháp thuộc, hành trình
tàu hỏa Hà Nội-Sài Gòn là 40 giờ 35 phút. Sau thống nhất 1975, đường sắt mới khôi
phục, thì hành trình tàu khách xuyên Việt ấn định 72 giờ (nhưng nhùng nhằng “giờ cao su”, thường phải kéo nhây
thêm dăm bảy giờ).
Tới đầu thế kỷ 21 thì như có phép lạ
đổi đời: hành trình tàu khách Thống nhất Hà Nội - Sài Gòn rút lại chỉ còn … 40%, tức là trên dưới 30 giờ. Kỳ tích đó là thành quả lao động
sáng tạo đổ mồ hôi sôi nước mắt của ngàn vạn cán bộ công nhân viên ngành đường
sắt. Tuy nhiên, lịch sử đường sắt Việt Nam đã ghi nhận: sự kiện tạo
đà nhảy vọt là sáng kiến có tính đột phá do kỹ sư Lê Khắc Linh đề xướng gồm 7
giải pháp hữu ích đồng bộ cải tiến quy trình và kỹ thuật vận hành.
Đó là một công trình nổi bật trong
chuỗi sáng tạo khoa học kỹ thuật của kỹ sư Linh liên tục nửa thế kỷ qua!
Tháng 10-1953, Lê Khắc Linh 19 tuổi,
chống địch bắt lính, từ thành phố Huế vượt thoát ra vùng tự do. Đang học lớp 9
(cuối bậc học phổ thông) trường dân lập Lê Ninh ở Hà Tĩnh thì Hiệp định Genève
được ký kết. Ở lại miền Bắc, vừa làm thợ vừa tự học. Tháng 8-1954, vào ngành đường
sắt, làm công nhân khảo sát. Học tại chức đạt trình độ trung cấp kỹ thuật, tham
gia thiết kế cầu đường, 3 năm liền là chiến sĩ thi đua. 1958, tự học tốt nghiệp
phổ thông cấp 3 (thí sinh tự do tại trường Trưng Vương Hà Nội). Tháng 9-1959 là
cán bộ được cử đi học lớp Cầu đường 59 Khoa xây dựng trường Đại
học Bách khoa Hà Nội. Sinh viên ưu tú, ngay năm thứ nhất đã gia nhập đảng Lao động
lớp đảng viên Hồ Chí Minh. Tháng 3-1963, tốt nghiệp hạng ưu với điểm tuyệt đối
5/5.
Tiếp đó là 10 năm kỹ sư Linh lăn lộn trên
các công trường dọc đường sắt Hà Nội, Lào Cai, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Vinh.
Nét đặc sắc của Lê Khắc Linh được đồng sự ngưỡng mộ là chuyên cần nghiên cứu
phát hiện những bất hợp lý trong sản xuất và đời sống, suy nghĩ tìm biện pháp cải
tiến, nâng cao chất lượng công tác.
Năm 1964, tại công trình Trạm bơm Khu gang
thép Thái Nguyên, phải đào 3.000 mét khối đá phong hóa ngầm dưới nước, Linh đề
xuất 6 giải pháp đồng bộ, trong đó giải pháp chủ đạo là thay việc khoan tạo lỗ
để nổ mìn bằng cách đóng cọc sắt “phi”
100mm, tăng năng suất gấp 20 lần (2000%).
Năm 1965, chặng đầu chiến tranh phá hoại,
nghi trang cầu Cun trên đường sắt Thanh Hóa - Vinh. Dàn cầu 50m bị bom đánh sập,
gấp khúc chữ V nằm nghiêng. Sáng kiến của Linh: khôi phục thành một nhịp ngắn
hơn, ban ngày hạ xuống “nằm nghiêng như cũ”, ban đêm kéo lên nối ray cho tàu qua, máy bay Mỹ có mắt như
mù.
Năm 1968, ga Thanh Hóa bị bom băm nát
nền đường, ray gãy cong queo, toa tàu đổ ngổn ngang. Trước yêu cầu nhanh chóng
khôi phục giao thông cho tàu đưa hàng vào Nam, kỹ sư Linh mạnh dạn đề xuất bác
bỏ phương án đi trên đường cũ, lập phương án cho tàu chạy trên…
đường bộ! Ga cũ để nguyên, lừa giặc lái Mỹ. Chỉ cần khẩn trương thi công nối từ
Thọ Hạc đến ghi nam Thanh Hóa, đắp đường “vuốt” dốc, lát tà vẹt, kéo ray, rải đá răm, có che đậy nghi
trang, ban đêm tàu hỏa xục xịch bò qua an toàn!
Năm 1972, khôi phục cầu Hàm Rồng 2 nhịp
dài 160m. Phương án thi công lắp dầm từ đầu bờ bắc. Kỹ sư Linh phát hiện bất lợi
là độ dốc lớn và đường dẫn cong. Bèn đề xuất: lợi dụng phà đường sắt có sẵn để
chuyển các thanh dầm cầu từ bờ bắc vượt qua sông Mã, lắp dầm trên bờ nam có đường
rộng, thẳng, bằng phẳng, rút ngắn thời gian lắp và lao dầm.
Năm 1973, Lê Khắc Linh chuyển công
tác, kinh qua Phó ban chỉ huy thi công cầu Thăng Long, Phó trưởng ty Giao thông
vận tải tỉnh Cửu Long, rồi làm Trọng tài viên kinh tế bộ Giao thông vận tải. Đã
rời ngành đường sắt nhưng đi công tác, Linh vẫn chọn phương tiện tàu hỏa. Đóng
vai hành khách nhưng không ngừng xem xét, phát hiện chỗ bất hợp lý trên đường vận
hành, tìm cách cải tiến. Bấy giờ, tàu Thống nhất thường chậm, hành trình mất tới
80 chứ không phải 72 giờ! Linh phát hiện trong quy phạm khai thác kỹ thuật đường
sắt hình thành từ thời Pháp thuộc năm 1936 tồn tại một điều bất hợp lý là quy định
bắt buộc đoàn tàu khách nhẹ (2,4 T/m) chạy chung tốc độ của đoàn tàu
hàng nặng (4,2 T/m). Sau khi tính toán, Linh đề nghị tách tốc độ, cho
tàu khách chạy nhanh hơn tàu hàng. Đồng thời, cần làm thêm đường tránh tàu ở một
số ga, từng bước có trọng điểm nâng cấp cầu đường, tỉa thưa các điểm chạy chậm,
ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, hợp lý hóa tác nghiệp ở các ga đỗ…
Ngày 30/8/1982, báo Giao
thông vận tải đăng tóm tắt kiến nghị của Lê Khắc Linh “7 giải pháp hữu ích đồng bộ rút ngắn thời gian chạy tàu
khách đường sắt Thống nhất”.
Tháng 12/1982, ông Đồng Sĩ
Nguyên, phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, ông Bùi Danh Lưu, chủ tịch Hội đồng
khoa học công nghệ của bộ Giao thông vận tải chấp thuận toàn bộ đề nghị của
Linh và trực tiếp chỉ đạo triển khai áp dụng.
Ngày 12/01/1983, ông Nguyễn Tuấn
Bình, phó Tổng cục trưởng Tổng cục đường sắt chủ trì hội nghị khoa học kỹ thuật “Nâng cao tốc độ tàu khách Thống nhất”,
cùng 36 nhà khoa học và quản lý trong ngành đường sắt, bộ Giao thông vận tải,
trường đại học Xây dựng, trường đại học Giao thông vận tải, thảo luận, chấp nhận
sáng kiến của kỹ sư Linh.
Ngày 13/5/1983, thứ trưởng Bùi Danh
Lưu (sau này là bộ trưởng Giao thông vận tải trong 10 năm) trực tiếp chỉ đạo kế
hoạch triển khai 7 giải pháp đồng bộ.
Từ năm 1983 tới 1988, toàn ngành đường
sắt áp dụng 6 biện pháp hỗ trợ, rút ngắn hành trình Bắc Nam còn 58 giờ.
Đầu năm 1989, Tổng cục trưởng Nguyễn
Văn Tư quyết định áp dụng giải pháp chủ đạo “tách tốc độ”, nhờ thế hành trình rút ngắn thêm 10 giờ, còn 48 giờ, vượt
mức kế hoạch nhà nước giao 7 năm, làm lợi 8.830 tỉ đồng (Nhà nước giao năm 1995
chạy 48 giờ).
Thế là sau 7 năm (1983-1989) đã áp dụng
toàn bộ 7 giải pháp, rút ngắn hành trình được 32 giờ.
Sau nhiều đợt đầu tư nâng cấp cơ sở hạ
tầng và thiết bị, đến năm 2005, hành trình Bắc-Nam tàu khách từ 80 giờ chỉ còn
29 giờ 30 phút, và tàu hàng từ 120 giờ chỉ còn 50 giờ.
Lợi ích mang lại cho nước cho dân
không kể xiết. Còn việc tưởng thưởng cán bộ công nhân toàn ngành đường sắt và
tác giả sáng kiến cải tiến kỹ thuật thì sao?
Tổng cục trưởng Nguyễn Văn Tư, trước khi
chuyển công tác năm 1989, đã giao cho Phòng thi đua tuyên truyền lập hồ sơ khen
thưởng. Song, Hội đồng sáng kiến Tổng cục đường sắt, khi xem xét, công nhận kỹ
sư Linh đã đăng ký sáng kiến và sáng kiến có mang lại hiệu quả rõ ràng, nhưng nại
lý do“đây là thực hiện mệnh lệnh sản xuất của Tổng cục
trưởng nên không thưởng sáng kiến”!
Bắt đầu chặng đường gian khổ đấu tranh cho
lẽ công bằng với sự tham gia của các cơ quan hữu quan, được đưa dần lên tới “thượng đỉnh”.
Các cán bộ lãnh đạo bộ Giao thông vận tải
và Tổng cục đường sắt trong thời gian chỉ đạo áp dụng sáng kiến này, Đồng Sĩ Nguyên,
Bùi Danh Lưu, Nguyễn Văn Tư, Nguyễn Tuấn Bình và 21 người khác xác nhận sáng kiến,
yêu cầu xét thưởng. Ông Đồng Sĩ Nguyên viết: “…chấp
nhận chính thức tác giả đề tài thuộc về đồng chí Lê Khắc Linh là việc làm minh
bạch, không mất gì cả mà giữ được tiếng thơm cho Tổng công ty đường sắt”. Văn phòng Quốc hội, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ khoa học công nghệ, Cục bản quyền tác giả… yêu cầu xem xét giải quyết. Năm 2005 và năm 2009, 2 lần Thủ
tướng và Văn phòng Chính phủ yêu cầu giải quyết! Năm 2007, Chủ tịch nước, Phó
chủ tịch nước 3 lần giao cho Trợ lý và chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước đưa ra
yêu cầu giải quyết. Ngày 16/3/2009, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tiếp kỹ sư
Linh, trân trọng ghi nhận ý nguyện thiết tha của đương sự đề xuất giải quyết dứt
điểm công nhận sáng kiến.
Song, tất cả như sóng dội tường đá! Tổng
công ty đường sắt khăng khăng khước từ!
Góp phần vào tiếng nói chung, 20 tờ
báo và tạp chí đã lên tiếng ủng hộ quyền sở hữu trí tuệ chính đáng của kỹ sư
Linh. Nhiều báo đăng liền ba bốn bài. Tạp chí Trí Tuệ - nơi Văn Trí đang tham
gia ban phụ trách - liên tục đăng 6 bài trên báo giấy và báo mạng. Đặc biệt,
báo chí in đậm lời trần tình của kỹ sư Linh gửi Chủ tịch nước: “Tôi mong cấp có thẩm quyền công nhận sáng kiến. Còn tiền thù
lao cho tác giả, điều lệ quy định được hưởng 5% số tiền làm lợi, thì tôi chỉ
xin nhận 1%, còn 4% dành lại cho ngành đường sắt cải tạo bình diện nơi có R
(bán kính đoạn đường vòng) bé và có độ dốc lớn để có nhiều lý trình đạt tốc
độ tàu khách lớn hơn…”
Những lời chân thành thấm thía ấy,
cho tới nay dường như vẫn chưa lọt tai những người có trách nhiệm giải quyết.
Đầu năm 2011, Văn Trí ở Sài Gòn thình
lình nhận được một tập tài liệu dày dặn của Lê Khắc Linh gửi từ Hà Nội. Cứ ngỡ
là “Vụ khiếu kiện quyền sở hữu trí tuệ”
có tình tiết mới. Nhưng không! Cả 30 trang không có dòng nào về “rút ngắn thời gian chạy tàu Thống nhất”. Toàn
bộ nội dung tập tư liệu vẫn là chuyện “sở hữu trí tuệ” của kỹ sư Linh, nhưng thuộc lĩnh vực “lạ
hoắc” với một chuyên gia ngành cầu đường.
Nổi bật ở trang đầu là “Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả” của
Cục bản quyền tác giả, ngày 08-12-2008, chứng nhận tác phẩm “10 phương pháp và giải pháp hữu ích đồng bộ về điều khiển giới
tính động vật (gia súc, gia cầm)” của Lê Khắc Linh
đã được đăng ký quyền tác giả. Tiếp đó là bài báo Nông thôn ngày nay số
ra ngày 01-9-2009, với cái tựa đề thoạt nhìn phải sửng sốt: “Một kỹ sư bán công nghệ lựa chọn giới tính vật nuôi”.
Văn Trí vội ấn phím cái “di động cục gạch” của mình:
- Chú Linh đấy à, sao tài thế, từ “hợp lý hóa chạy tàu Thống nhất” nhảy
sang “hợp lý hóa sinh đẻ bò cái bò đực” từ bao giờ mà im hơi lặng tiếng mãi nay mới công khai
cho nhau biết?
- Ơ kìa, bác Trí lẫn cẫn rồi! Việc nghiên cứu điều
khiển giới tính động vật này Linh tiến hành gần như đồng thời với “rút ngắn thời gian chạy tàu Thống Nhất”.
Cũng năm 1982-1983, ngành xuất bản báo chí đã giúp Linh quảng bá sáng kiến “Điều khiển sinh con theo ý muốn”.
Chính bác Trí có hỗ trợ bằng tờ báo Giáo viên nhân dân…
- À, à…
Trí nhớ ra rồi. Phải, chính Trí có dự phần.
Nhưng “phát súng mở màn” là bài
báo Nhân Dân số 24-3-1983 giới thiệu sáng kiến của Lê Khắc Linh “Nghiên cứu ứng dụng phương pháp khoa học sinh trai, gái theo
ý muốn kết hợp với sinh đẻ có kế hoạch”. Rồi hàng
chục tờ báo khác. Rồi nhà xuất bản Thanh Niên tung ra ấn phẩm “Sinh con theo ý muốn”, mà những
năm sau đó, các nhà xuất bản trên cả nước tái bản tới 25 lần.
Trên báo Giáo dục&Thời đại ngày
20-01-1992, giáo sư Nguyễn Lân Dũng kể lại:
“… Chương trình Tự
nguyện đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào hộ nông dân nhận được đề án tham
gia của một cặp vợ chồng: anh Lê Khắc Linh và chị Hoàng Thị Sơn. Chúng tôi thấy
đề tài lạ quá: “Điều khiển giới tính ở người và động
vật” Là người hoạt động lâu năm trong ngành sinh học,
tôi băn khoăn vì thấy vấn đề rất lớn mà lại do hai tác giả “ngoại
đạo” đề xuất. Khi tôi tìm đến nhà, anh Linh tặng tôi cuốn
sách “Sinh con theo ý muốn” của
Linh Sơn do nhà xuất bản Thanh niên tái bản lần thứ tư. Tôi lật giở
xem qua rồi hỏi:
- Phần cơ sở khoa học của quá trình sinh sản và
hình thành giới tính đã có quá nhiều tài liệu giới thiệu rồi, vậy sách của anh
chị có gì mới lạ mà được tái bản nhiều lần thế?
- Một phần vì sách của chúng tôi trình bày dễ
hiểu hơn, hấp dẫn hơn, nhưng chủ yếu là do đề xuất được những bí quyết sinh con
trai hay con gái đúng theo ý muốn.
- Đây là chuyện rất khó, kể cả ở các nước có trình độ
khoa học phát triển cao. Tôi được biết để tách tinh trùng X và tinh trùng Y, người
ta phải dùng tới kỹ thuật ly tâm siêu tốc, kỹ thuật điện di…
Anh chị có chủ quan hay không khi giới thiệu bí quyết của mình?
- Anh Nguyễn Lân Dũng chuyên làm khoa học thì rõ hơn
tôi: con số trên 300 trường hợp đã áp dụng bí quyết này với độ tin cậy thành
công trên 95% cho phép chúng ta kết luận bí quyết này đâu phải là thiếu
cơ sở khoa học?
Anh Linh lấy cho tôi xem rất nhiều ảnh
của các gia đình đã “toại nguyện”
vì sinh con trai, con gái đúng như ý muốn. Tôi lật xem mặt sau từng tấm ảnh và
vui thích được đọc những dòng chữ hết sức cảm động của những ông bố, bà mẹ đã
mang ơn cặp vợ chồng Linh-Sơn. Tôi hỏi hơi khiếm nhã một chút, rằng: ngành y tế
rất kỵ dân “ngoại đạo”, vậy anh
có được ai bên Y tế đồng tình ủng hộ không? Anh Linh đáp:
- Thì chính giáo sư Hồ Đắc Di, bác sĩ Nguyễn
Khắc Viện đã đề tựa cho cuốn sách! Năm 1989, bộ trưởng Bộ Y tế Phạm Song đã hai
lần giới thiệu cuốn này trên Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam.
Anh Linh đưa cho tôi xem lá thư của
giáo sư Đoàn Xuân Mượu, phó chủ tịch kiêm tổng thư ký Hội chữ thập đỏ Việt Nam.
Trong thư có những câu sau đây: “Phương pháp mà ông
Linh kiên trì nghiên cứu, thể nghiệm đã thu được những kết quả khả quan trong
việc sinh con trai, con gái theo ý muốn, đã được cơ quan ngôn luận của chúng
tôi, tạp chí Nhân Đạo, đăng tải trên số 3 và số 7 năm 1990. Chúng tôi nghĩ rằng
phần lớn người Việt Nam đều muốn có con trai con gái, “có
nếp có tẻ”. Tâm lý ấy đã, đang và sẽ còn đúng, khỏi
tranh luận. Cung cấp kiến thức cho họ thực hiện “chính
xác” nguyện vọng của họ, không phải may rủi, thì số trẻ
sinh ra không theo ý muốn sẽ ít đi. Ý nghĩa của kế hoạch hóa đến đó cũng khá rồi.
Đòi hỏi mỗi người chỉ đẻ một con mới là kế hoạch hóa gia đình thì không thực tế.
Để cho tâm lý tự nhiên của bậc cha mẹ điều chỉnh tự nhiên số con trai con gái
cũng hợp với lẽ tự nhiên vậy…”
- Vậy là anh cũng đã có nhiều tiếng nói
chính thức ủng hộ rồi đấy.
- Vâng, có sự ủng hộ của nhiều cấp và nhất
là do có sự hưởng ứng của quần chúng cho nên số sách được in ra cho đến nay đã 60
nghìn cuốn. Nhưng cũng chả thấm tháp gì khi ta biết mỗi năm đều có thêm khoảng
một triệu gia đình trẻ và số chưa có con hoặc chỉ mới có một con lúc nào cũng
vào khoảng sáu bảy triệu gia đình. Tất nhiên cũng có nhiều người hồ nghi hoặc
phản bác. Rất tiếc là không ít người trong số này chưa hề đụng tay tới cuốn
sách của chúng tôi một lần nào!
- Có lẽ “bụt chùa
nhà không thiêng”, cứ phải có vài ông viện sĩ nước
ngoài nhắc đến thì mới trở thành “thiêng” được.
- Chúng tôi đã gửi đơn đăng ký sáng chế và
đã được cục trưởng Cục sáng chế (Ủy ban khoa học Nhà nước) thông báo chấp nhận.
Chúng tôi đã được Đại sứ Việt Nam tại Ấn Độ trực tiếp đề nghị với Ủy
ban Khoa học Nhà nước đưa vào chương trình hợp tác khoa học kỹ thuật với Ấn độ.
Hãng bảo vệ quyền tác giả của Việt Nam cũng đã chính thức giới thiệu
công trình này với nhiều nước…
- Sao trong đề án của anh gửi cho
chương trình chúng tôi lại có cả điều khiển giới tính cho động vật?
- Vâng, chúng tôi đã thử nghiệm triển
khai đối với bò và tháng 4-1991 tại thôn Phú Dực (Phù Đổng-Gia Lâm-Hà Nội) đã
có 2 con bê cái lai Sind được ra đời theo kỹ thuật điều khiển giới tính này.
Phương pháp rất đơn giản, hộ nông dân nào cũng có thể thực hiện được. Giá bê
cái thường cao hơn bê đực khoảng nửa triệu đồng nên các nơi chăn nuôi bò đều muốn
sinh bê cái.
… Đêm
hôm ấy, tôi hứng thú đọc hết cuốn sách của nhà nghiên cứu sáng tạo tài ba và
ghi nhớ những lời giới thiệu của cố giáo sư Hồ Đắc Di: “…Tác
giả Linh Sơn, tuy là người ngoại đạo vẫn nghiên cứu nhiều năm một cách vô tư.
Vì thiết tha mong muốn phục vụ xã hội, nhờ say mê mà nhiều khi những người ngoại
đạo lại tìm ra được những cái hay mới…”
… Sau
khi báo đăng bài của giáo sư Nguyễn Lân Dũng, Linh Sơn tiếp tục nghiên cứu, triển
khai đề tài này. Ngày 19-5-1992, Đại sứ quán Cu Ba có văn bản chính thức mời Lê
Khắc Linh sang Cu Ba giúp điều khiển bò sữa đẻ bê cái. Sau việc ứng dụng đề tài
ở bò đạt kết quả, “vết dầu loang”
sang giống gia súc khác. Điều khiển giới tính đẻ hươu cái bằng phương pháp cho
nhảy trực tiếp thành công ở Quỳnh Lưu. Rồi điều khiển cho lợn, cho chó cảnh đẻ
nhiều con cái một lứa. Ngày 01-5-1994, Viện khoa học thuộc Liên hiệp các hội
khoa học kỹ thuật Việt Nam quyết định cho thành lập Trung tâm tư
vấn giới tính Linh Sơn. Thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng tỏ ý quan tâm khi nghe trợ
lý Vũ Quốc Tuấn giới thiệu cuốn sách của Linh Sơn. Đặc biệt, vợ chồng Linh Sơn
có lần được trực tiếp báo cáo với Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Phó thủ tướng phụ
trách khoa học kỹ thuật - chủ tịch Ủy ban quốc gia dân số và sinh đẻ có kế hoạch,
được Đại tướng cho ý kiến khuyến khích triển khai rộng rãi công trình điều khiển
giới tính…Tuy nhiên, sau đó cơ quan chức năng tỏ ý quan
ngại là đã có dấu hiệu mất cân bằng giới tính ở người. Phạm vi đối tượng tác động
phải thu hẹp lại.
… Năm 2008, Linh
Sơn đề xuất “10 phương pháp và giải pháp hữu ích đồng
bộ về điều khiển giới tính gia súc, gia cầm” được
cấp giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả. Đặc biệt lần này đăng ký cả “gia cầm”, đấy là chọn trứng trống,
trứng mái trước khi ấp. Cho đến nay, ở Việt Nam và các nước đều chọn gà trống
mái sau khi ấp nở một ngày bằng thủ công, gà trống mới nở chỉ giữ 10% làm giống,
90% sấy khô làm thức ăn gia súc. Khi áp dụng sáng kiến cải tiến, chọn trứng trống
trứng mái trước khi ấp, chủ chăn nuôi có lợi lớn: 90% trứng trống không phải ấp,
cho tiêu dùng ngay, giảm công suất sử dụng lò ấp, tiết kiệm năng lượng và nhân
công. Về “gia súc”, ngoài
phương pháp điều khiển theo thời điểm thụ thai, còn đề ra nhiều điểm mới như sử
dụng dịch có độ pH axit hay kiềm để hỗ trợ tinh trùng X hay tinh trùng Y; chế tạo
tinh đông một bề là X hay Y tùy nhu cầu thị trường (dùng tinh đông X đẻ nhiều
con cái, dùng tinh đông Y đẻ nhiều con đực…); sử dụng
biện pháp hoóc môn kích thích rụng thêm trứng để loài đa thai thì thêm thai,
loài đơn thai thành song thai ( chú ý phải cho cả 2 thai đều là cái, vì nếu 1 đực
1 cái sẽ sinh ra hiện tượng Freematin nối mạch giữa thai đực và thai cái làm
cho thai cái khi trưởng thành sẽ vô sinh 90%...)
Ưu điểm của công nghệ điều khiển giới
tính động vật là dễ áp dụng, có độ tin cậy cao, mang lại lợi ích lâu dài. Công
nghệ này đã được chuyển giao cho một số cơ sở của Viện chăn nuôi quốc gia và Hội
thú y Việt Nam như Trung tâm bò và đồng cỏ Ba Vì, Trung tâm dê và thỏ
Sơn tây, Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương, Công ty Giống gia súc Hà Nội và Trung
tâm chuyển giao công nghệ thú y.
… Ngày 16-11-2010,
Lê Khắc Linh chính thức đăng ký chào bán trên chợ công nghệ và thiết bị Việt
Nam “10 phương pháp và giải pháp hữu ích đồng bộ về
điều khiển giới tính gia súc gia cầm” qua trung
tâm giao dịch thông tin công nghệ Việt Nam. Cách làm ăn bài bản thời buổi “Kinh tế thị trường”!
Báo Nông thôn ngày nay giật
cái tít gây sốc: Một kỹ sư bán công nghệ giới tính vật nuôi. “Người đang sở hữu các giải pháp này là kỹ sư Lê Khắc Linh.
Nguyên lý của các giải pháp này là theo dõi chu kỳ rụng trứng của động vật, sau
đó dùng một dung dịch để điều chỉnh độ pH trong bộ phận sinh dục của con cái nhằm
lựa chọn giới tính cho con con. Có thể áp dụng cho cả gia súc và gia cầm. Trong
đó, tỷ lệ thành công trong việc lựa chọn giới tính đối với gia súc có thể đạt đến
90%. Các phương pháp của ông có thể giúp gia súc mang nhiều thai trong một lần
sinh…”
- Theo bản đăng ký này, phí chuyển nhượng “có lý có tình”, khi đạt hiệu quả thì
“bên nhận” hưởng 50% lợi nhuận,
tác giả 40% và nơi môi giới 10%. Nhưng Linh đã sửa lại theo tỉ lệ tác giả
và môi giới chỉ nhận 30%, dành cho “bên nhận” 70%. Ấy là nhằm đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật về
điều khiển giới tính vào sản xuất góp phần phát triển ngành chăn nuôi…
Thế đấy, “ông già Lê Khắc” sắp bước vào tuổi 80 vẫn hăm hở tư duy sáng tạo khoa học phục
vụ đời sống. Linh vẫn tháng tháng ngược xuôi thăm nom, chỉ dẫn các cơ sở sản xuất
thực nghiệm đề tài. Và thi thoảng lại nối liên lạc với Trí, bằng đường thư tay
và cả điện đàm, bàn bạc chuyện giỗ chạp dòng tộc, chuyện phối hợp nghiên cứu viết
lách, và không kém phần sôi nổi là ôn nhớ kỷ niệm sâu đậm thời niên thiếu hai
anh em ở thành phố Huế, ở làng quê Văn Xá. Nhớ những buổi chiều trên đồng quê,
đón tiếng còi hú gọi, chú bé Linh mê mải nhìn theo cái đầu tàu đen chũi kéo
theo mười toa hổn hển ì ạch bò vào ga Văn Xá, chợt mơ màng ao ước mai sau thành
người thợ lực lưỡng giật lái điều khiển con tàu chạy nhanh thêm nữa… Nhớ những buổi sáng theo cha ra ruộng, ngạc nhiên thấy vị
võ quan tứ đẳng thị vệ con ông Tuần phủ mà sao cày bừa thành thạo như nhà nông
chính cống. Rồi lúc cha cày xong, bé Linh dắt trâu gặm cỏ, nghe bạn mục đồng
chuyện vãn xuýt xoa cầu trời con trâu nuôi rẽ đang bụng chửa kềnh càng mai mốt
đẻ ra con nghé cái cho nhà nó thỏa nguyện “ruộng sâu
trâu nái…” Lại nhớ buổi trưa hôm nào bà Dì ruột hồi hộp
kiểm tra đàn gà con chiêm chiếp mới nở vài ngày xem con nào trống con nào mái,
Dì vạch từng cánh gà con xem hai hàng lông tơ dài bằng nhau hay hàng dài
hàng ngắn so le. Lại nắm chụm chân gà, xách ngược lên thử
coi con nào ngóc đầu lên, con nào xuôi đầu xuống. Rồi tắc lưỡi tiếc rẻ “con trống mất rồi”. Hoặc mừng húm “may quá được con gà mái”. Bé Linh ngẫm
ngợi lan man không biết tại sao dì mình băn khoăn so đo đực cái, trống mái… Cũng có buổi tối nằm võng hóng nghe cha kể chuyện họ tộc
nhà mình trước đây mấy đời độc đinh nên ông bà nào cũng ngong ngóng đẻ con
trai. Nhưng bà nội mình thì vẻ như có khác, đẻ được ba ông con trai liền liền,
bác Cung, bác Thứ và cha mình, thì lại vui lắm khi lần sinh thứ tư được người
con gái là dì Thông. Hay như cha mẹ mình, sinh gái đầu lòng là chị Quán, rồi liền
một mạch 4 con trai Khung Sính Vân Linh, tới lần thứ 6 sinh được em Kim Cúc mừng
ơi là mừng! Hỏi mẹ tại sao khi sinh trai khi sinh gái, mẹ bảo ơn nhờ trời phật
sai bà mụ nặn giống cho chi được nấy. Trong lòng chú bé Linh mung lung mơ tưởng
giá như có ông bụt bà tiên ban cho người đời hòn ngọc ước thần kỳ, cầu con trai
đẻ ra con trai, thích con gái đẻ ngay con gái. Rồi ban phép lạ cho các con vật
sống bên con người, cũng thế, nhà này mong trâu nái, nhà kia cầu dê đực…muốn gì được nấy, thích thì chiều!
Có ai ngờ được nhỉ, sáu mươi năm sau, ước mơ tưởng chừng
viển vông ấy dần dần trở thành hiện thực trên đường đi tới của người trai Lê Khắc.
Con đường trưởng thành gập ghềnh hơn nửa thế kỷ ấy biết mấy chông gai! Thì cũng
như đường đời của hàng trăm anh em họ tộc đồng thế 11 với Lê Khắc Linh, từ nam
chí bắc, không ai có diễm phúc sắm vai con xe con pháo được săn đón nuông chiều
trên bàn cờ thế sự nhiễu nhương này! Tất thảy đều trầy vi tróc vẩy tự mình vùng
quẫy nếm mật nằm gai trong vô vàn gian khó ngoi lên thành đạt. Lê Khắc Linh tuy
có không ít phút giây vinh hạnh “vua biết mặt chúa biết
tên”, nhưng cả đời cũng lận đận long đong bởi cơ chế bảo
thủ trì trệ bủa vây, thế gian định kiến hẹp hòi, đố kỵ. Đạt tới thành công là
nhờ tâm huyết, nhờ trí lự. Và nhất là nhờ bền chí kiên gan. Làm sao đo đếm được
những ngày “mọt sách” trong thư
viện, những ngày miệt mài trên trang giấy với vô số phép tính lượng giác rắc rối,
những công thức hóa học dài dòng, những nguyên lý sinh học kỳ bí. Rồi đạn bom
trên công trường đường sắt. Lại nắng mưa trên trang trại ruộng đồng. Cứ thế mà
vượt lên, nhẫn nại khơi gợi lần tìm. Thoạt tiên soi rọi manh nha le lói vài tia
sáng, rồi chắp nối hội tụ thành chùm chói lòa ánh hào quang khoa học.
Khoa học vận trù, hợp lý hóa sản
xuất, bằng cả cụm 7 giải pháp hữu ích đồng bộ, thúc đẩy trăm ngàn
đoàn tàu băng băng nhân đôi tốc độ, xoay chuyển cục diện toàn ngành
đường sắt.
Khoa học vận dụng tổng hợp quy luật sinh hóa sinh
sôi, bằng cả cụm 10 phương pháp và giải pháp hữu ích đồng bộ, điều
khiển sinh thành giới tính của con người và vật nuôi, góp viên gạch nhỏ xây hạnh
phúc ngàn vạn cuộc đời.
Tưởng như có phép thần thông,
giữa thời ly hợp biến động bể dâu, vẫn cứ phôi thai tượng hình ngời ngợi hai
thành quả để đời của người trai Thế hệ vàng Lê Khắc năm mươi năm cần mẫn tư duy
sáng tạo khoa học đa ngành.
Chương 13: Thế hệ vàng trong lửa
đỏ ly hợp
Thế thứ 11 của Văn Trí
chính là “Thế hệ vàng của chi phái Lê Khắc”. Một thế hệ hùng hậu, trước đó chưa từng có. Ngài trưởng tộc Thế
thứ 9 Văn Xuyên Bồ Nam Lê Từ có hơn năm mươi cháu nội trai. Đồng thế, ba
ông em ruột, Lê Triết, Lê Doãn Thăng, Lê Trọng Bỉnh và ba ông em họ, Lê Đôn, Lê
Trí, Lê Phu có gần một trăm cháu nội trai nữa. Vị chi Thế 11 Lê Khắc có
cả thảy trăm rưởi “đinh”. Cao
tuổi nhất, anh Lê Khắc Duyệt, sinh năm 1912. Ít tuổi hơn nhiều là các em Lê Khắc
thuộc chi thứ (Lê Đôn chi) như Lê Khắc Hậu (con út chú Lê Sỹ) sinh năm 1958,
hay con chú Lê Thanh là út Phước sinh 1970. Trong số hơn một trăm người thành đạt,
có không ít tên tuổi đã trở nên quen thuộc với thiên hạ ngoài bắc trong
nam.
Thế hệ vàng ấy đã qua thử lửa.
Lửa hai cuộc chiến sắc tộc và ý thức hệ. Lửa ly hợp. Qua lửa, tùy thuộc tính
cách - hàm lượng vàng của từng cá thể, tùy thuộc cảnh ngộ may rủi sa vào từng
vòng xoáy, tùy thuộc mức độ gian truân, khốc liệt trận chiến, nhiệt độ lò nung… quyết định số phận bi tráng mỗi người một vẻ.
Trong số đó, đặc biệt có
một “cặp bài trùng” đường đời
dường như trùng khớp mà số phận thăng trầm thuận nghịch sáng tối đan xen. Đó là
hai anh em ruột, Lê Khắc Hiền và Lê Khắc Thành, con trai thứ nhất và thứ nhì
trong 9 người con 3 gái 6 trai của ông chú Lê Khắc Hy và bà thím Hoàng Thị
Thanh Lê.
Xem đây, họ gần như sinh
đôi - song đôi.
Lê Khắc Hiền tuổi Kỷ Tỵ,
sinh 29-10-1929. Lê Khắc Thành tuổi Canh Ngọ, sinh 11-02-1931, tức là sau anh
mình 13 tháng rưỡi.
Hai anh em cùng học đệ tứ
niên trường Quốc Học Huế thì gặp cách mạng tháng 8-1945.
Năm 1947 cùng đi
kháng chiến. Năm 1948, cùng công tác ở tỉnh đội Quảng Bình. Hiền làm bí thư,
Thành làm văn thư cho chính trị viên tỉnh đội Đồng Sĩ Nguyên (sau này ông
Nguyên là Ủy viên Bộ chính trị đảng Cộng sản Việt Nam).
Hai chàng thanh niên Lê
Khắc háo hức vào đời đẹp trai lồng lộng ấy cùng gia nhập đảng Cộng sản Đông
Dương lúc tuổi còn rất trẻ, Hiền 19 (7-1948) và Thành thì 18 (5-1949).
Cùng được cơ quan cho ra
Hà Tĩnh học trường văn hóa Bình Trị Thiên và cùng đậu Thành chung (diplôme) năm
1949.
Cùng ra Thanh Hóa theo học
ban chuyên khoa Văn Triết trường Thiếu sinh quân Liên khu Tư của tướng Nguyễn
Sơn.
Năm 1950, lại cùng
được tuyển lựa vào chương trình đào tạo sĩ quan các quân chủng mới. Hiền ra
Tuyên Quang học không quân. Thành lớp hải luyện, sang Trung Quốc theo khóa đào
tạo sĩ quan thủy quân.
Cùng có năng khiếu
về lý luận, triết học. Hiền 17 năm làm giảng viên lý luận chính trị trường quân
chính Quân khu Tả ngạn và Học viện quân y (phía Nam). Thành chuyển ngành
đi học đại học sư phạm khoa Văn Sử, học thêm trường Đảng Nguyễn Ái Quốc rồi về
Viện Triết học (Hà Nội). Sau năm 1975, vào Nam, làm chuyên viên Ban tôn
giáo chính phủ, rồi chuyển sang Viện nghiên cứu quản lý kinh tế (phía Nam).
Gần cuối thập niên 1980,
Hiền bền bỉ bốn chục tuổi quân được phong hàm đại tá thì Thành bên dân sự thăng
chuyên viên bậc 3.
Cùng là cây bút tiếng tăm ở Sài
Gòn thời kỳ đổi mới. Hiền, với bút danh Hiền Lê, trong 18 năm đăng 2098 bài
báo, chưa kể 3 cuốn sách dịch chung với Trần Đức. Thành cũng từng cho đăng tải
trên các tờ báo lớn khoảng ngần ấy bài báo bao quát nhiều lĩnh vực chính trị xã
hội, kinh tế tài chính, khoa học kỹ thuật, văn học nghệ thuật; là tác giả một số
cuốn sách và bài báo rất được chú ý ở Hà Nội, Sài Gòn.
Thế đó, từng bước đường đời gần
như trùng khít!
Giống nhau như hai giọt nước.
Vậy mà oái oăm thay, trong cơn
ly hợp, cuộc đời hai anh em Hiền - Thành kết cục xoay chiều bi tráng chênh lệch
một trời một vực.
Trong cuốn “Hồi ký viết cho các con”, đại
tá Lê Khắc Hiền luôn cho rằng mình được như ngày nay là nhờ gặp bao may mắn
trong hơn 80 năm qua. Trước hết là thuở thiếu thời được thụ hưởng sự chăm sóc
giáo dục chu đáo của gia đình, của nhà trường đồng thời tiếp nhận ảnh hưởng rất
tích cực của xã hội Việt Nam cuối thời Pháp thuộc đang cơn tức nước vỡ
bờ.
“… Phụ thân tôi,
ông Lê Khắc Hy (1903-1987), tốt nghiệp trường Luật và hành chính- một trường
được chính quyền đô hộ Pháp mở ra trước khi nước ta có trường đại học, nhằm đào
tạo công chức bậc cao. Tốt nghiệp, sẽ được bổ nhiệm tri huyện trong ngạch Nam triều
hoặc tham tá trong ngạch bảo hộ. Ông không thích ngạch Nam triều phải đội khăn
đóng, mặc áo dài, có vẻ khúm núm, nên làm việc ở hệ thống bảo hộ. Mới 24 tuổi
(1928), ông đã được gọi là “ông tham”
(commis) trên các “ông phán”
(thư ký). Ông đọc sách nhiều, được tiếng làm việc giỏi. Ông làm ở tòa công sứ
Quảng Trị, ra Thanh Hóa làm “tham đầu tòa” rồi về Huế làm ở tòa khâm sứ (bao quát cả Trung kỳ). Tháng
3-1945, Nhật đảo chính Pháp, chính phủ Trần Trọng Kim bổ nhiệm ông Lê Khắc Hy
làm tỉnh trưởng Gia Lai. Chưa kịp nhậm chức, đang trên đường tới nhiệm sở, thì
nổ ra Cách mạng tháng Tám. Chỉ sau đó một năm, ông được chính quyền mới bổ làm
chủ sự hành chính của Ủy ban tỉnh Quảng Bình.
…Mẫu
thân tôi, bà Hoàng Thị Thanh Lê (1912-1984), là con gái đầu một gia đình nền nếp.
Bà học trường Đồng Khánh, biết tiếng Pháp, viết chữ đẹp. Ham đọc sách báo, cư xử
lịch thiệp. Tính thương người, hào phóng, sẵn sàng giúp đỡ kẻ khó. Dạy con tỉ mỉ,
tối tối thường dựa vào thời khóa biểu mà kèm tôi dò bài. Bà nấu ăn khéo cả món
ta và món tây.
Nhờ ơn các bậc sinh
thành, tuổi thơ tôi rất sung sướng. Dễ nuôi, mập mạp, hồi bé tí, tôi được kêu bằng
Rọm (gầy), một kiểu “gọi ngược”
cho khỏi bị thần thánh ma quỷ chi đó quở phạt!
Năm 1941, tôi thi trượt vào trường
Khải Định (Quốc học Huế ngày nay) nên phải học tư thục Thuận Hóa một năm. Cũng
là điều hay: từ hiệu trưởng là thầy Tôn Quang Phiệt cho tới giáo viên trường ấy
đều là những trí thức có tư tưởng tiến bộ, tinh thần chống Tây, nhiều thầy rất
giỏi như Đào Duy Anh dạy sử, Hoài Thanh dạy Pháp văn, Nguyễn Đỗ Cung dạy vẽ… Năm sau, thi lại vào Khải Định và đậu thứ 11 trong 55 học
sinh trúng tuyển. Đó là một trường công chính quy có nền nếp tốt. Hiệu trưởng
và tổng giám thị người Pháp. Đội ngũ giáo viên rất giỏi gồm cả người Pháp và
người Việt. Quy mô và kiểu cách như một trường bên “mẫu
quốc”. Nội dung giáo dục toàn diện. Phương pháp giảng dạy
tiên tiến, hiện đại. Cách dạy ở trường này giúp học trò có tư duy sáng tạo,
năng lực tự học. Nhờ thế, suốt nửa thế kỷ về sau, tôi biết cách tự học không ngừng
nâng cao trình độ, biết đọc sách, thâu tóm nội dung và vận dụng vào đời sống.
Ngoài sách giáo khoa và sách đọc thêm trong chương trình mà nhà trường cho
thuê, tôi còn xin thẻ Thư viện Bảo Đại. Những năm này, tôi đọc hầu hết các tác
phẩm cổ điển của Pháp, từ Balzac đến Victor Hugo, từ Alphonse Daudet đến
Anatole France…
Những năm 1941-1945, hoàn
cảnh xã hội sôi sục. Chiến tranh thế giới 1939-1945. Pháp thua trận. Nhật đảo
chính Pháp. Việt Minh ra đời, vận động đánh Tây đuổi Nhật, giành độc lập. Không
khí chính trị mới mẻ, khơi gợi ý thức dân tộc, đặc biệt cuốn hút giới trẻ, kích
thích tinh thần và tình cảm mạnh mẽ. Thanh niên, học sinh náo nức hướng đến hoạt
động yêu nước, hoạt động chính trị. “Nào anh em ta
cùng nhau xông pha lên đàng kiếm nguồn tươi sáng/ Ta nguyền đồng lòng điểm tô
giang san từ nay, đua sức anh tài….”
(Ca khúc Lên Đàng của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước).
Một may mắn đặc biệt
nữa là Lê Khắc Hiền luôn gặp được người tốt, những bạn hữu toàn vẹn đức tài, những
cán bộ lãnh đạo giỏi dang nhân hậu.
Trên đường kháng
chiến, ở đâu cũng hạnh ngộ bạn chí tình. Năm 1948, “bạn
gái đầu đời” của Hiền là cô học sinh đệ tứ xinh đẹp và
hát hay Tân Nhân - sau này là ca sĩ nức tiếng với ca khúc Xa khơi. Làm
chính trị viên, Hiền chân thành đoàn kết với thủ trưởng quân sự và các bạn đồng
ngũ, cảm thông giúp đỡ lẫn nhau. Phụ trách chính trị các đoàn văn công Quân
khu, Hiền cộng tác tốt với Tào Mạt, Chu Nghi, Hoài Giao…
là những nhà văn danh tiếng sau này. Tào Mạt là đoàn trưởng tâm đầu ý hợp, là bạn
thiết cốt ân nghĩa với cả hai anh em Hiền Thành. Hoài Giao là “cây
sáng tác” cung cấp cho đoàn văn công của Hiền các kịch
bản đặc sắc: Trần Quốc Toản ra quân, Đường về trận địa…Chu
Nghi là nhà viết kịch trẻ đầy triển vọng nhưng đã sớm hi sinh ở Đường 9 Khe
Sanh.
Hầu như ở mỗi chặng đường
công tác, Lê Khắc Hiền đều gặp được thủ trưởng cấp trên thương yêu trân trọng.
Năm 1948, chính trị viên tỉnh đội Đồng Sĩ Nguyên dìu dắt đứa em nuôi Lê Khắc Hiền
vào đảng Cộng sản và bồi dưỡng thành cán bộ trẻ năng động tháo vát. Đến khi Hiền
đề đạt nguyện vọng đi học lên thì dù rất luyến tiếc, ông Nguyên vẫn chấp thuận
cho ra Hà Tĩnh học trường văn hóa Bình Trị Thiên.
Chín năm làm chính trị
viên các đoàn văn công quân khu, nhớ mãi Phó chính ủy Quân khu Lương Tuấn
Khang. Mười bảy năm Hiền giảng dạy lý luận chính trị ở trường quân chính Quân
khu và Học viện Quân y, được lãnh đạo tin cậy bồi dưỡng, giao việc, cất nhắc.
Thủ trưởng Tô Ngọc Trữ thẳng thắn đánh giá: Lê Khắc Hiền là giáo viên lý luận
giỏi trong toàn quân!
Vị lãnh đạo đầu
tiên mở ra trang sử ly hợp bi tráng của gia đình Lê Khắc Hiền chính là ông
Hoàng Văn Diệm, chủ tịch Ủy ban kháng chiến tỉnh Quảng Bình. Năm 1947, chú Lê
Khắc Hy đang làm chủ sự hành chính của Ủy ban tỉnh, đưa cả nhà gồm bà vợ và 8 đứa
con đi theo kháng chiến. Nhưng không có tiền lương, quá khó khăn thiếu thốn,
chú Hy phải một mình quay về Huế. Hẳn là chú Hy và thím Thanh Lê có bàn bạc trước.
Sau khi chú Hy bỏ đi, thím Lê lên gặp chủ tịch tỉnh. Là người hiểu biết và độ
lượng, ông Diệm quyết đoán thấu tình đạt lý. Một, giúp đỡ thím Lê đưa 4 con nhỏ
về vùng địch tạm chiếm theo chú Hy. Hai, giữ 4 người con lớn của chú thím ở lại,
sắp xếp học hành, công tác để phục vụ kháng chiến. Thời điểm “phân
ly lịch sử” ấy, chị cả Túy Nga 19 tuổi, Lê Khắc Hiền
18, Thành 17, Hòa 15. Và 28 năm sau, 1975, chú Hy thím Lê ở Sài Gòn vỡ òa niềm
vui đón 4 người con đã trưởng thành từ miền Bắc trở về làm trung tâm hòa hợp đại
gia đình. Cái ngày đại đoàn tụ dân tộc, gia tộc ấy, trong số mấy trăm con cháu
ngài Bồ Nam Lê Từ, thì gia đình chú Lê Khắc Hy là trọn vẹn nhất! Năm 1947 phân
ly, nhà chú Hy có 6 người lủi thủi quay vào, 4 người hăm hở đi ra. Cả 4 người
con dấn thân vào cuộc kháng Pháp ấy năm 1975 đã trở về yên lành giữa Sài Gòn.
Không chỉ vẹn nguyên mà còn phát triển, lấy vợ lấy chồng sinh con đẻ cái. Túy
Nga 1 thành 5. Hiền 1 thành 6. Hòa 1 thành 4. Chỉ có Thành là độc thân, nguyên
con số 1. Như thế, chú Hy thím Lê hiến dâng 4 người con ra đi cứu nước thì “quân số” trở về là 16. Kỷ lục!
Thực ra trong 28 năm ấy,
từng xuất hiện hai cơ hội đoàn tụ cha con mà bị bỏ lỡ cả hai. Lần đầu, cuộc
kháng Pháp mới bước vào giai đoạn cầm cự, người con đang ở thế yếu. Lần sau, thế
cờ đã lật ngược, người con đang đà thắng vẻ vang và người cha ở mặt trận bên
kia sửa soạn rút chạy.
Lần đầu là năm 1948. Bấy
giờ Hiền chưa vào đảng Cộng sản. Một hôm, trên đường núi chiến khu Tuyên Hóa Quảng
Bình, một thanh niên nông dân đón đợi Hiền, rủ vào quán nói chuyện. Anh ta đưa
ra bức thư của chú Hy. “Con đi theo kháng chiến là
tốt nhưng học hành dở dang. Theo ý Cậu, con nên về đi học tiếp thành tài, sau
này muốn phục vụ bên nào tùy con. Nếu đồng ý, con theo người cầm thư này về đồn
Minh Cầm, cha đạo Minh Cầm sẽ đưa con về với gia đình”. Hiền
lập tức từ chối. Cuộc sống lý tưởng chiến đấu vì độc lập tự do mới bắt đầu, đầy
hấp dẫn tuổi trẻ, Hiền quyết không đào ngũ. Cuối đời nhìn lại, Hiền thấy nửa thế
kỷ trước mình lựa chọn đúng. Nếu năm 1948 mình về Huế thì có thể được Cậu cho
sang Pháp du học thành tài như một số anh em Lê Khắc đồng thế đồng tuế. Nhưng
ngày hôm nay, ván cờ đã tàn, số phận từng người ngã ngũ, thì thấy rõ cuộc sống
công chức no đủ êm đềm của anh em làm sao sánh được với cuộc đời hoạt động của
mình, phong phú hào hùng, nếm trải mọi cung bậc thăng trầm. Từng trải những
ngày thiếu đói cùng cực, để đọng lại suốt đời câu hỏi xót lòng của thằng em
trai lên ba ngày nào cũng lo lắng hỏi Mạ bằng cái giọng ngọng líu “Mạ ơi chòn dạo hông?” (Mạ ơi
còn gạo không?). Từng xông pha qua bao gian nguy. Cái buổi chiều tà thình lình
gặp đôi cọp vằn vện lù lù phủ phục án ngữ đầu dốc Cổ Liêm Quảng Bình. Cái lần
ngã bệnh mê man tưởng chết, nằm bệt mấy ngày trên nhà bè chài cá Tuyên Quang.
Ba lần chạm trán tử thần ở Điện Biên Phủ, dính bom sập hầm, bị pháo kích đúng
hào giao thông trước giờ nổ súng. Càng đậm dấu ấn những chặng đường lừng lẫy.
Chín năm xây dựng thành công 3 đoàn văn công Quân đội, liên tiếp lập chiến công
trên mặt trận văn nghệ. Đoàn tả ngạn với vở chèo “Trần
Quốc Toản ra quân” quen thuộc. Đoàn quân khu Ba tiếng
tăm với các vở “Đường về trận địa”
và “Cô chống lầy” (từng diễn
cho Bác Hồ xem). Đoàn quân khu Tả ngạn sau này thăng hoa cùng tiếng hát Lê Dung.
Mười bảy năm chuyên tâm nghiên cứu giảng dạy lý luận chính trị, trở thành giảng
viên chính trị, triết học uyên bác vững vàng, vươn lên chủ yếu bằng tự học cần
cù và phương pháp tư duy sáng tạo.
Cơ hội thứ hai xuất hiện khi cuộc
kháng chiến 9 năm vừa kết thúc nức lòng người. Hiền vừa được tặng
Huân chương Chiến công trên chiến trường Điện Biên và Thành là chính trị viên
trung đội hoàn thành nhiệm vụ tiễu phỉ ở Tiên Yên Quảng Ninh, được thưởng Huân
chương Chiến thắng. Bộ đội cụ Hồ tiến vào Thủ đô Hà Nội rực rỡ cờ hoa ngày
10-10-1954. Nhưng miền Bắc chưa hoàn toàn giải phóng. Hải Phòng vẫn thuộc vùng
tạm chiếm, là khu tập kết 300 ngày trước khi đối phương rút hết vào Nam.
Thật trớ trêu, đúng thời điểm ấy,
hai cha con bị đặt vào thế đối nghịch trực diện. Chú Lê Khắc Hy đang làm chánh
án Hải Phòng. Lê Khắc Hiền là chính trị viên phó đại đội đang luyện quân ở Ninh
Giang - Hải Dương, chuẩn bị tiến quân vào tiếp quản Hải Phòng!
Một ngày cuối năm 1954. Hiền
đang trên bãi tập, giờ giải lao thấy một chú bé bán báo đi qua, liền gọi lại
mua tờ Thời Mới. Ngó qua mục Rao vặt, tưởng như không tin vào mắt mình: “Hoàng Thị Thanh Lê tìm gặp các con Lê Khắc Túy Nga, Lê Khắc
Hiền, Lê Khắc Thành, Lê Khắc Hòa. Mẹ đang ở 25 Tràng Thi Hà Nội…” Bàng hoàng, mừng rỡ. Cứ nghĩ gia đình đang ở Huế, hi
vọng gì gặp được. Hạnh phúc òa tới bất ngờ. Hiền xin đi phép 3 ngày. Thời ấy bộ
đội chưa có quân hàm, nhưng được phát quân trang phân biệt cán bộ từ đại đội trở
lên mặc áo 4 túi. Cũng chưa có lương, chỉ được phụ cấp ít tiền cắt tóc, mua xà
phòng. Đi xe ô tô khách tới Hà Nội, Hiền bỡ ngỡ hỏi đường về trung tâm thành phố.
Phố Trường Thi sang trọng nằm dọc bờ Hồ Gươm. Nhà số 25 là hiệu bán thực phẩm
ngoại nhập có cái tên tây Chiffer. Bấm chuông. Hiền vừa bước vào nhà, đã thấy Mạ
(bà Hoàng Thanh Lê) trên cầu thang chạy xuống. Mẹ con gặp nhau sau 7 năm xa
cách. Mừng rỡ, hồi hộp, ngỡ ngàng. Thì ra đây là nhà của một bà bạn của Mạ, Mạ
từ Hải Phòng lên, trú nhờ chờ tìm các con. Chủ nhà, “bà
tư sản”, tấm tắc: cậu nhà tuấn tú, mặc áo 4 túi chững
chạc, con nhà tông không lẫn vào đâu. Được khen mà Hiền thấy khó chịu, nói
riêng với Mạ: sao lại ở nhà “mụ tư sản mại bản”? Chiều lòng con trai cả, hôm sau Mạ chuyển sang nhà người
quen khác ở một đường phố cũng trung tâm - một ông thầu khoán có phần vốn đầu
tư mỏ than Hongay. Ổng cứ hỏi dò Hiền liệu tư nhân có được tiếp tục kinh doanh
mỏ than? Nghe mà rầu lòng! Sao Mạ giao du với hết bà tư sản mại bản tới ông tư
sản dân tộc?! Hiền vừa dự mấy đợt chỉnh huấn cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ
chức năm 1954, giác ngộ giai cấp bạn thù rạch ròi phân minh lắm (!) Vả chăng,
lúc này cán bộ xuất thân tiểu tư sản đều mặc cảm vị thế chông chênh; mình sơ hở
tiếp xúc với “tầng lớp trên” e
không khỏi bị phê phán “mất lập trường”!
Hiền cùng với Mạ và các em nhỏ
(Ngọc, Diệp, Hùng, Cường) đưa nhau dạo phố, vào hiệu chụp ảnh, vào rạp xem
phim. Mạ ngỏ ý mua sắm xe đạp, nhẫn vàng cho Hiền. Câu trả lời thẳng băng dứt
khoát: “Mạ và các em ở lại miền Bắc thì cho gì con cũng
lấy, nếu quay vào Nam thì con dứt khoát một chút quà cũng không nhận!”.
Hiền về đơn vị, tới lượt Thành
đi phép vào Hà Nội gặp Mạ. Thành được nghỉ lâu hơn nên trong thời gian ở Hà Nội
còn tranh thủ nhào về Ninh Giang cùng Hiền bàn cách giữ gia đình ở lại miền Bắc.
Thành đề xuất: trực tiếp gặp ông Khuất Duy Tiến lúc đó phụ trách tổ chức ở Hà Nội,
đặt vấn đề nhờ ông Tiến mời Cậu (chú Hy) ở lại làm việc với chính phủ cụ Hồ.
Ông Tiến nhiệt tình giúp ngay, cho người về Hải Phòng liên lạc với Cậu. Nhận được
“tín hiệu” móc nối, ngay hôm
sau, không chờ Mạ nữa, Cậu bay trước vào Sài Gòn, để lại thư gửi Hiền Thành rằng “Cậu không phản đối con đường các con đã chọn nhưng về phần Cậu
tự thấy tuổi cao sức yếu, không thể theo con đường gian khổ”!
Sau này nghĩ lại, thấy diễn biến
như thế là may mắn! Cậu Mạ và các em, nếu ở lại miền Bắc, thì 20 năm sau đó chịu
đựng sao nổi cuộc sống vô vàn gian khổ về vật chất thời chiến tranh phá hoại ác
liệt và những giằng xé mắc mớ bất an về tinh thần, hậu quả của chính sách hẹp
hòi, phân biệt đối xử, thành phần chủ nghĩa thời ấu trĩ bao cấp tù túng trói buộc.
Thê thảm biết mấy, khi các bậc sinh thành bất lực tận mắt chứng kiến tai họa
giáng xuống phá nát cuộc đời và tương lai vốn đầy hứa hẹn của đứa con trai tuấn
tú mà cả gia đình chứa chan kỳ vọng…
Mạ còn gửi Thành cầm xuống Ninh
Giang trao cho Hiền một lượng vàng. Lần đầu tiên trên đời Hiền nhìn thấy một lượng
vàng! Trong khi quanh năm suốt tháng 4 túi không tiền! Nhưng, không chút do dự,
Hiền gửi vàng trả lại Mạ. Hẳn là Mạ buồn lắm. Nhưng Mạ ơi, Mạ hiểu cho con, con
không cho phép mình nhận vàng bạc hiện kim của Mạ. Còn tấm lòng vàng của Mạ thì
con đã từng thấm thía cảm nhận và sẽ còn cảm nhận mãi mãi về sau. Con được như
hôm nay là nhờ những đức tính mạ dạy từ hồi bé tí, tình thương người, hào
phóng, cung cách cư xử lịch thiệp và lòng tự trọng. Mạ gieo vào chúng con những
tính tốt ấy bằng cả cuộc đời tận tụy vì chồng và một lũ 9 đứa con. Quán xuyến
việc nhà thời bình, bươn chải vượt khó thời chiến. Năm 1945, gia đình theo Cậu
đi Gia Lai nhậm chức, nửa đường mắc nghẽn lại Đà Nẵng, coi như thất nghiệp, Mạ
phải xoay xở mở tiệm cà phê sống tạm gần một năm. Tới 1947, gia đình lại theo Cậu
đi kháng Pháp, đâu đủ lương tiền nuôi cả đàn con. Mạ làm bánh bột lọc mang bán ở
chợ làng. Sau sự biến 1975, kinh tế khó khăn, Cậu không còn lương hưu, mấy em của
con thất nghiệp, chính Mạ lại chạy vạy lo cái ăn cho cả nhà. Mạ không kêu ca,
thực lòng hòa nhập cuộc sống mới, hăng hái tham gia công tác phụ nữ, được chính
quyền thành phố biểu dương. Mạ chung thủy yêu thương và âu yếm chăm
nom Cậu tỉ mỉ cho tới cuối đời. Chúng con không bao giờ quên hình ảnh Mạ vào buổi
sáng định mệnh tháng 5-1984 ấy… Bệnh tim trở nặng, Mạ mỏi
mê lệt bệt mấy ngày rồi, nhưng sáng ấy Mạ vẫn dậy sớm vén màn, xếp chăn, săn
sóc Cậu chỉn chu như thường lệ… Rồi giây phút chia xa
trong lặng lẽ. Mạ thanh thản ra đi…
Lê Khắc Hiền là trưởng ban tiền nhiệm
của Văn Trí trong “Ban liên lạc bà con Lê Khắc ở Sài
Gòn”. Trước Hiền, là Lê Khắc Điềm, Lê Khắc Nhãn. Trong
nhiệm kỳ 5 năm 1996-2000, Lê Khắc Hiền lèo lái “Ban
liên lạc” tập trung vào hai việc lớn: biên soạn Gia phả
và tu sửa nhà thờ. Dòng họ quá rộng lớn, thôi thì thu gọn lại, Hiền thống nhất
với Trí là làm trước Gia phả của nhánh Bồ Nam - tức là “một
phần bảy” của dòng Lê Khắc! Mới “một
phần bảy” mà ước tính phải kể tên ngàn người! Ngàn người
rải hầu khắp địa cầu, trong số đó chỉ biết mang máng là tập trung có phần nhiều
hơn ở Sài Gòn, Huế, Hà Nội, Hoa Kỳ, Pháp, Canada, Úc. Trưởng ban Hiền phải nối
đường dây liên lạc, phân công từng nhánh, từng “phòng”, từng gia đình làm đầu mối thu thập tư liệu. Văn bản, danh
sách trăm nơi phơi phới bay về, trưởng ban cặm cụi xử lý, hiệu đính, xếp đặt
sao cho ai nấy vào đúng chỗ của mình. Lại nhờ chuyên gia Hoa văn chuyển ngữ từ
Hán tự sang quốc ngữ bản Di huấn của Tổ phụ Trung Phụng đại phu Lê Từ và 13 bản
Sắc phong mà các đời vua Tự Đức, Đồng Khánh, Thành Thái, Khải Định ban cho các
bậc cao tổ. Rồi nâng niu chồng bản thảo mang đi in ấn. Cuối cùng, giữa năm
1997, bà con Lê Khắc vui mừng cầm trên tay cuốn Gia phả đầu tiên của nhánh Bồ Nam.
Cùng lúc, lo tu sửa nhà thờ Tổ
phụ. Dặm dọi mái ngói cho đỡ dột. Gia cố cửa nẻo cho kín đáo. Con đường từ cổng
lớn đi vào và khoảnh sân đất quá lầy lội, phải láng xi măng toàn bộ. Ngó khang
trang tươm tất rồi, lại tính chuyện cắt cử người trông nom hương khói. Cháu
đích của ngài Bồ Nam không còn ai ở làng, phải nhờ “chi
thứ Lê Khắc” giao phó trách vụ cho Lê Khắc Hà. Chỉ đạo,
thu xếp ngần ấy việc, trong khi trưởng ban Hiền vẫn thường trú ở Sài Gòn. Rõ là
“ăn một nơi, ấp một nơi”. Dăm bảy
tháng đi về một lần cũng phải chi tiêu vài bốn triệu tiền riêng. Còn chuyện thư
từ, điện tín, đường thoại đường dài… thì khỏi nói cũng
biết nhiêu khê ra sao. Hiền vốn tận tâm, năng nổ, trên bốn mươi năm làm việc
quân là vậy, nay gánh vác việc hiếu vẫn tiếp tục truyền thống ấy. Nhân hậu, vị
tha như một thói quen đã ăn sâu vào tâm thức, lắng đọng thành tính cách. Làm việc
Họ “thời xã hội chủ nghĩa” rõ
là “ăn cơm nhà thổi tù và dòng tộc”.
Nhưng Trưởng ban xả thân, không so đo tính toán thiệt hơn, việc gì cũng đi trước
làm gương nên bà con thương yêu tin cậy nhất hô bách ứng.
Hiền đang điều hành bộ máy chạy
đều thì đột ngột hứng chịu trận đau tim dữ dội. Đứng trước nguy cơ đột quỵ nếu
không giảm bớt cường độ làm việc, Hiền đành đắn đo “vận
động” Trí:
- Thôi anh làm trưởng ban
liên lạc thay tôi đi.
Trí rất quý và nể ông em họ mẫu mực,
nên nhận ngay, nhưng còn đưa “yêu sách” phải
cử thêm một phó trưởng ban, chứ mình Trí làm sao mà thay được Hiền.
- Phó ban thì không khó lắm,
chúng ta cử Tôn Thất Lan. Với lại anh Trí yên tâm. Tôi không làm trưởng ban
nhưng không lơ là việc họ đâu.
Lê Khắc Hiền nói thế nào làm
như thế ấy. Suốt chục năm sau đó, Hiền vẫn một tay xốc vác công việc gia tộc
bên “Phòng Ba”- tức là hậu duệ
của bà Ba Trần Thị Dung. Các cuộc vận động lớn, Hiền vẫn đi đầu cúng góp. Ủng hộ
giúp đỡ bà con khó khăn đột xuất, bao giờ cũng có cái tên Hiền đi cùng với các
cái tên Điềm, Lan, Trí. Vẫn vẹn nguyên “bộ tứ”! Khi lập Hội đồng gia tộc hay Hội đồng cố vấn, Hiền đều sốt
sắng tham gia. Và tới giai đoạn chuyển giao trọng trách cho Thế 12 thì
Hiền bồi dưỡng con trai là Lê Khắc Hoàng nhận nhiệm vụ khó khăn vất vả nhất là
chủ trì phối hợp chăm sóc Nhà thờ và Lăng mộ ở làng Văn Xá.
Thì suốt đời Hiền là như
thế. Nhận việc là làm hết mình, chất lượng luôn thuộc tốp dẫn đầu. Nhưng không
trì trệ dẫm chân một chỗ tới mọc rêu. Mà lúc nào tự thấy mình không thích hợp nữa
là tìm cách thay đổi. Linh hoạt, ưu thời mẫn thế, cho nên cuộc đời năng động của
Hiền chia làm nhiều quãng: này, “nhịp 3” (3 năm đại đội Pháo 351); “nhịp 3” nữa: chính trị viên đại đội; “nhịp
6”: công tác thanh niên trong quân đội; “nhịp 9”: lãnh đạo văn công quân khu;
và cuối đời công tác là “nhịp 17”:
giảng dạy lý luận chính trị.
Tất nhiên con đường phát triển
không thể bằng phẳng đối với một trí thức “nặng căn” như Lê Khắc Hiền. Suốt đời - trừ thời gian hơn một năm được
ông Đồng Sĩ Nguyên dìu dắt - cảm giác như luôn có một cặp mắt hau háu nghi ngại
dõi theo hành tung của người đảng viên có cha đẻ là công chức cao cấp phục vụ
phía bên kia.
Năm 1953, có 100 cán bộ trẻ ưu
tú được chọn về An toàn khu Đại Từ (Thái Nguyên) bồi dưỡng chuẩn bị sang Liên
Xô, Trung Quốc đào tạo đội ngũ trí thức cho sự nghiệp tái thiết đất nước. Đảng
viên Lê Khắc Hiền, 24 tuổi, đã kinh qua chiến đấu, trình độ văn hóa chuyên khoa
Văn Triết, tất nhiên được triệu tập. Ba tháng học chính trị. Từng người khai lý
lịch. Hiền không hề che giấu thành phần xuất thân “quan
lại phong kiến công chức thực dân”. Sau đó, 60 người được
chọn, lên đường du học, phần lớn sau này trở thành trí thức hàng đầu như Đào Thế
Tuấn, Nguyễn Tài Thu… Hiền nằm trong số 40 người bị trả
về. “Buồn 5 phút”, rồi Hiền… đi chiến dịch Điện Biên. Và lập trường không hề dao động
(cho nên năm sau, 1954, Hiền mới cứng nhắc cùng Thành đòi cha mẹ “rời bỏ phía bên kia để phục vụ phía bên này”!).
Năm 1973, suýt nữa Lê Khắc
Hiền được chọn về “Bộ sĩ quan liên hợp 4 bên” sau Hiệp định Paris. Lý do bị gạt ra ngoài? “Vũ như cẩn” (vẫn như cũ!). Lại
có chuyện tưởng như khó hiểu là sao chờ dài cổ hàng chục năm chẳng thấy đề bạt,
nâng quân hàm? Hiền vẫn nhẫn nhịn. Và tự đánh thông tư tưởng, rằng “trông lên thì chẳng bằng ai/ nhìn xuống khối kẻ thiệt thòi
hơn ta!”. Nhà thơ Xuân Thiêm ở Phòng Văn nghệ Quân
đội, nói câu chí tình: ““Bọn tiểu tư sản, tiểu trí thức
như chúng mình đừng nên đi vào con đường làm cán bộ chính trị mà nên phát huy
thế mạnh chuyên môn…” Theo lời khuyên xác đáng ấy,
Hiền vùng thoát sang làm công tác nghiên cứu giảng dạy lý luận chính trị.
Đó cũng là quãng thời
gian Hiền thăng tiến mạnh.
Đồng thời kết hợp hài hòa
bổn phận làm chồng, làm cha.
Mải mê công tác, mãi năm
33 tuổi Lê Khắc Hiền mới lập gia đình. Nhưng đã kịp “bù
lại”, 10 năm sinh 4 con. 3 gái đầu là Hương, Hà, Huyền
và trai út là Hoàng. Bốn con, mà vẫn chồng một nơi vợ một nẻo. Chồng theo cơ
quan nay Quảng Yên (Quảng Ninh), mai Chí Linh (Hải Dương); vợ công tác Hải
Phòng, thời chiến tranh phá hoại ôm con sơ tán khi Kiến Thụy, lúc An Dương. Được
cái, “hiền nội” Nguyễn Tâm Khuê
đảm đang bươn chải, tổ chức đàn con ăn ở học hành, xoay xỏa tranh thủ tăng gia
sản xuất, làm vườn trồng rau, nuôi vịt đẻ trứng, thêm vào tiền lương, nên cả
nhà không khi nào quá cực. Chỉ canh cánh bên lòng nỗi khổ hai mươi năm vợ chồng
cha con xa nhau, hàng tuần tranh thủ sum họp được ngày chủ nhật. Cho nên năm
1982, hạ quyết tâm bằng mọi cách xin cho cả hai vợ chồng chuyển công tác
vào Sài Gòn. Thực sự là bước đổi đời. An cư, lạc nghiệp. Và hơn nữa,
làm nòng cốt xử lý hóa giải mối quan hệ phức tạp trong đại gia đình chú Lê Khắc
Hy có 4 con ở lại miền Nam và 4 con từ miền Bắc trở về. Có người “phía Nam” thuộc diện chính quyền
mới triệu tập cải tạo, được Lê Khắc Hiền đứng ra bảo lãnh. Có người “phía Bắc” khủng khỉnh lên mặt công
thần, bất hòa với người thân, lại chính Hiền khuyên răn, dàn xếp nội bộ gia
đình êm thấm. Với bản tính nhân hậu, khoan dung và cung cách ứng xử mềm mỏng
khôn ngoan, Hiền tác động kết nối hòa đồng dòng họ.
Cuối chặng đường quân ngũ, Lê Khắc Hiền
được phong hàm đại tá. Đàn con học hành tới nơi tới chốn, vào đời thành đạt. Đại
gia đình con cháu dâu rể quây quần đầm ấm. Công thành danh toại, riêng chung vẹn
toàn.
Chia sẻ niềm vui trọn vẹn với
người anh, càng buồn tiếc cho người em “song đôi” là Lê Khắc Thành. Ngược hẳn với anh trai, “Khắc
Thành” một đời không thành đạt!
Mà Thành, từ thuở bé tí đã
thông minh dĩnh ngộ, niềm hi vọng lớn của cha mẹ, họ hàng. Thành học giỏi đều
các môn, luôn có tên trên “bảng danh dự” của trường. Xuất sắc nhất là toán học, bạn bè phục lăn kêu
bằng “cây toán có u toán sau gáy”.
Giá như cả đời Thành đeo đuổi môn toán… Lại nhớ, cái
năm 1951 sang Lôi Châu Trung Quốc học khóa thủy-quân-du-kích, Thành có dịp trổ
tài toán học với phái viên thủy binh của nguyên soái Lâm Bưu. Giảng viên đặt vấn
đề cho cả lớp nghiên cứu: đánh nhau trên thuyền buồm, nổ súng thời điểm nào hiệu
quả nhất? Học viên khóa ấy hầu hết xuất thân dân chài, rất thạo sông nước,
nhưng văn hóa có hạn. Thành mày mò nghiên cứu quy luật sóng biển lúc thủy triều
lên xuống, tính toán, đề xuất thời điểm nổ súng chuẩn xác. Tiến hành thực nghiệm.
Kết quả đúng. Thành được nêu gương trước toàn khóa.
Thế đó, giá mà Thành suốt đời kiên
trì theo con đường toán học!
Nhưng ai mà biết được các bước
ngoặt thình lình xuất hiện trên đường đời quanh co. Thành lên trung học, ở
Lycée Khải Định (Quốc học Huế) được xếp vào hệ E.O, học xuất sắc toàn diện từ
môn La tinh đến môn Toán. Vào thiếu sinh quân, lại theo ban chuyên khoa Văn Triết.
1955 xuất ngũ, học đại học sư phạm Văn Sử, xuất sắc, 1957 tốt nghiệp, được giữ
lại dạy đại học tổng hợp. Đúng thời kỳ rộ lên “vụ án
Nhân văn- Giai phẩm”. Đảng viên trẻ Lê Khắc Thành hăng
hái sắm vai “mác lê” xung
kích sắc bén. Thành viết bài đánh…Trần Đức Thảo (Nhân
vật lớn, giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2000. Nhiều giai thoại gần như huyền thoại;
cho tới nay Trần Đức Thảo vẫn được coi là triết gia số một, thậm chí ông Trần
Văn Giàu còn gọi ông Thảo là triết gia duy nhất, của Việt Nam!). Cái “cú đá ngựa non” ấy được rầm rộ tung
hô, bài báo đấu đá của Thành đăng trên tạp chí Học tập (tạp chí Cộng sản ngày
nay) được dư luận chú ý. “Cú đá” ấy rồi sẽ tạo ra bước ngoặt “quyết
định rủi ro” dẫn Thành vào mê lộ đại họa. Sau một khóa
học ở trường đảng Nguyễn Ái Quốc, Thành được điều động về Viện triết học Mác
Lê-nin (hiện nay là Viện Khoa học xã hội Việt Nam). Một tác phẩm được chú
ý của Thành thời kỳ này là cuốn sách “Văn nghệ miền Nam sẽ
đi đến đâu?” Văn nghệ miền Nam đi tới
đâu thì hạ hồi phân giải, còn báo ứng nhỡn tiền là sinh mệnh chính trị của bản
thân tác giả đi tới cõi lụi tàn! Năm 1964, bùng nổ vụ án “Xét
lại chống Đảng” mà “trọng phạm” chính là Viện trưởng Viện triết học Hoàng Minh Chính. Ông
Chính bị khai trừ Đảng, rồi bị tập trung cải tạo, quản chế ròng rã 20 năm. Lê
Khắc Thành phát biểu quan điểm phản đối Nghị quyết 9 (về quan hệ Quốc
tế) của Trung ương Đảng. Qua nhiều cuộc kiểm thảo căng thẳng gay gắt gần như đấu
tố thời cải cách ruộng đất, Thành vẫn cãi lý tới cùng, một mực “xin bảo lưu ý kiến”. Thậm chí liên
tiếp viết đơn thư phản biện khiếu nại gửi lên các cấp trên cao. Chi bộ quy chụp
là có tư tưởng xét lại, chống phá chủ trương đường lối của Đảng. Rồi công an
xét nhà. Rồi khởi tố, tuy qua thẩm vấn không có chứng cứ kết tội, vẫn bị khai
trừ khỏi Đảng. Năm 1967, Thành bị hạ bậc lương, đình chỉ công tác chuyên môn, tống
đi cải tạo lao động ở nông trường Cao Phong (Hòa Bình). “Nhà
lý luận” từng viết bài đăng báo Đảng “chỉ
đường” cho triệu cán bộ đảng viên, nay được giao “trọng trách” chăn dắt đàn bò trăm
con giữa núi đồi hoang sơ! Lại đúng lúc Thành phát bệnh nặng. Chỉ trụ với đàn
bò được mấy tháng, Thành phải…bò về Hà Nội, đưa trình
cơ quan quản lý hồ sơ bệnh án nội tiết và đơn thuốc của bệnh viện “đúng tuyến, đúng thẩm quyền” nhưng
lãnh đạo không thèm ngó. Mà lạnh lùng kết tội chống quyết định cải tạo, đào nhiệm…chăn bò. Cay đắng, Thành nhận kỷ luật buộc thôi việc. Quyết
định thải hồi trao tận tay Thành kèm một tháng lương an ủi theo bậc lương đã bị
hạ tức là 63 đồng. Phát đạn ân huệ đấy! Coi như xóa toàn bộ công tích cống hiến
từ 1947 tới 1967! 20 năm trên chiến trường và trên giảng đường, 20 năm thấm đẫm
mồ hôi, có cả máu hồng và bao nhiêu chất xám. Xóa sạch.
Lê Khắc Hiền, những năm ấy
đang lãnh đạo văn công quân đội, quyết không chấp nhận nghịch lý phân ly sau mấy
chục năm ròng hai anh em sát cánh bên nhau đi cùng một đường, đứng cùng một
phía. Khi xảy đại họa, Hiền có mặt ngay bên Thành, khuyên em khôn ngoan nhẫn
nhịn nín thở qua sông. Khi Thành bị thải hồi là Hiền lập tức tìm về Hà Nội làm
chỗ dựa cho em mình. Từ 1968 tới 1975, Thành làm “cây
bút tự do”, viết báo, dịch sách kiếm sống. Để em đỡ cô
đơn, Hiền rủ các bạn văn nghệ thân thiết cùng về Hà Nội thăm Thành, chuyện trò
viết lách văn nghệ báo chí. Có người, như Tào Mạt, trong một lần ghé chơi, thấy
Thành quá khó khăn, liền đưa Thành 100 đồng là tiền nhuận bút một vở kịch vừa
lĩnh được. Vào cuối những năm 1960, đó là món tiền lớn. Trong di chúc năm 2006,
Thành nhờ anh Hiền khi xử lý tài sản nhà đất của mình sẽ cố dành một khoản tiền
lớn gấp nhiều lần gửi lại gia đình Tào Mạt.
Lê Khắc Thành vào Sài Gòn cùng
gia đình ngay từ tháng 6-1975. Vẫn đang là “người tự do” (ngoài biên chế nhà nước). Lúc đó, một số khá đông cán bộ,
thanh niên tưởng rằng gió đã xoay chiều, hẳn tiếng Nga lên ngôi! Thành chớp thời
cơ, mở lớp dạy tiếng Nga. Rồi năm 1980, nhờ ông Đồng Sĩ Nguyên ra
tay can thiệp, Thành được nhận lại vào biên chế nhà nước, làm chuyên viên
nghiên cứu ở Ban tôn giáo Chính phủ. Vốn liếng Sử - Triết - Văn mốc meo hàng chục
năm, bấy giờ trở nên đắc dụng. Thành tập trung đi sâu nghiên cứu, biên soạn nhiều
công trình có giá trị về các tôn giáo: Công giáo, đạo Cao Đài và
đạo Hồi ở Sài Gòn. Từ 1984, Thành lại chuyển về Viện nghiên cứu Quản
lý kinh tế (phía Nam). Tác phẩm nghiên cứu “Nền
tiểu công nghiệp ở một số nước tư bản chủ nghĩa” được
nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. Rồi hàng loạt bài báo quan trọng của
Thành thời kỳ “tiền đổi mới”, nghiên
cứu về quản lý công nghiệp, về đổi mới ngân hàng, về tự do báo chí, đổi mới văn
học … liên tiếp xuất hiện, được đánh giá cao.
Năm 1990, Trí vào Sài
Gòn, cho ra mắt các số Thế Giới Mới đầu tiên, thì “nhà báo tự do” Lê Khắc Thành đã là một
tên tuổi lẫy lừng. Thành đến tòa soạn Thế Giới Mới, rỉ tai mách nước lão anh họ
Văn Trí vài “ngón làm ăn” ở “thiên đường báo chí”.
Báo chí trung ương và các
tỉnh thành đặt trụ sở “làm ăn” ở
Sài Gòn ra sức săn đón các cây bút xông xáo, “đa năng” như Lê Khắc Thành.
Thành đang ngon trớn đi tới,
thì đột ngột hiện ra khúc ngoặt hiểm nghèo cuối đời. Viện nghiên cứu Quản lý
kinh tế (phía Nam) giải thể. Tất cả cán bộ của Viện được điều ra Viện
trung ương ở Hà Nội. Nhưng Thành ra Hà Nội sao được. Mảnh đất ấy, với Thành, chứa
đầy kỷ niệm u ám. Còn Sài Gòn, chính là mảnh đất làm nên “thương
hiệu Lê Khắc Thành”.
Thành dứt khoát ở lại Sài
Gòn. Sắp bước vào tuổi 60, không còn quỹ thời gian để phiêu lưu làm lại cuộc đời
lần nữa. Thành xin nghỉ hưu. Nhưng mới vào lại biên chế mươi năm, làm sao đủ
tiêu chuẩn hưởng lương hưu? Bạn bè xúm vào bàn cách. Lối thoát duy nhất là xin “truy nhận” phục hồi 20 năm công tác
trước đây bị xóa oan uổng. Nhưng muốn khôi phục thâm niên ấy, cơ quan thẩm quyền
(tối cao) phải ra một quyết định “chiêu tuyết - minh
oan” cho không ít người, trong đó có những nhân vật “cộm cán” gấp bội Lê Khắc Thành!
Nghĩa là phải lật lại toàn bộ vụ án “Xét lại chống Đảng” năm 1968. Còn lâu! (Năm 1991, ban chấp hành trung ương đảng
Cộng sản Việt Nam ra thông báo về hai vụ án Nhân văn Giai phẩm và Xét lại chống
Đảng, vẫn đánh giá hai vụ án như trước đây).
Lê Khắc Thành phẩy tay:
thôi không xin xỏ hưu hiếc gì hết!
Khắc Thành khắc có cách sống
sót. Còn cây bút là còn tất.
Đúng là Thành đã cầm cự “sống sót” được dăm bảy năm sau đó.
Nhưng tới cuối thế kỷ 20 thì thời thế thay đổi. Đòi hỏi của đất nước, của người
đọc báo nâng cao dần. Vốn liếng lý luận, triết học được bồi đắp từ thời “Trường tổng hợp - Viện triết học” những
năm 1960 chỉ tỏ ra đắc dụng khi làm con dao mổ xẻ tình hình chính trị, kinh tế,
văn hóa xã hội thời kỳ phôi thai đổi mới. Vốn liếng ngoại ngữ, biên dịch chỉ đủ
cho cây bút Lê Khắc Thành tung hoành thời kỳ mới mở cửa, sách báo nước ngoài
chưa kịp tràn ngập, mạng internet chưa kịp mở rộng và đội ngũ các nhà biên dịch
trẻ giỏi ngoại ngữ chưa kịp trưởng thành. Tới nay, Lê Khắc Thành đã vào thời
lên lão, 60 rồi 70. “Lão lai tài tận”. Thu nhập ít dần, Thành sa vào nghèo túng. Nghèo túng
lại cô đơn. Nuôi chó nuôi mèo làm bầu làm bạn gừ-gừ-meo-meo hủ hỉ đêm hôm. Mặc
cảm thất bại, tâm sự u uất của Thành chất chứa trong bài thơ “Khóc
mèo”: Ta khóc con, thương xót tựa người thân/ Mang
vóc hình của giống người, đồng loại/ Vắng tiếng con ôi lòng ta quằn quại/ Nỗi
thương đau nhức nhối cả tâm can… Ta khóc con mặc người
đời cười nhạo/ Ta có điên đâu, ta luôn tỉnh táo/ Bút ta đây, ta trọn nghĩa dâng
đời/ Giọt lệ này đâu phải chuyện trêu ngươi/ Ôi, đời vui mà lòng ta hiu quạnh/
Khóc mèo, hay khóc đời ta bất hạnh…
Cảm thông chia sẻ với người
em thất thế cơ hàn, Lê Khắc Hiền tìm mọi cách giúp đỡ Thành. Hai con của Hiền
là cháu Hương và cháu Hoàng làm ở ngành hàng không, thường đưa báo chí tiếng
Pháp về cho bố đọc, Hiền lại chuyển cho Thành chọn bài ăn khách dịch đưa các
báo. Hiền là sĩ quan cao cấp, ngoài căn nhà được phân cho gia đình cư ngụ tại
Nguyễn Tri Phương Quận 10, còn được cấp một miếng đất gần sân bay Tân Sơn Nhất.
Khi Thành mất chỗ ở Phú Nhuận, Hiền liền cho em làm nhà ở Tân Sơn Nhất. Rồi
Thành bán chỗ ấy, mua 300 mét vuông đất Thạnh Lộc Hóc Môn làm căn nhà nhỏ để
sinh sống, viết lách. Hiền theo dõi trên báo, biết số bài được đăng của Thành
ngày càng ít đi, hẳn là túng thiếu. Bèn tháng tháng trích lương hưu gửi cho em
chút tiền “có định mức”, ban đầu
300 ngàn, sau tăng lên 400, rồi 500. Xuống thăm em, thấy em ăn ở khổ quá mà
thương. Ai đời sang thế kỷ 21 mà còn xài cái ti vi đen trắng 9 inch tậu từ
1975! Bèn xắn tay áo kêu gọi cả đàn con xúm vào “hỗ trợ
chú Thành nhà mình”. Đổi ti vi màu. Sắm quạt bàn, điện
thoại. Dấn lên chút, thửa hẳn một dàn vi tính! Thành phấn khởi lắm, quyết làm
chủ kỹ thuật tân tiến để hội nhập thế giới mạng. Nhưng ở tuổi 75, mở hướng phát
triển đâu có dễ. Huống hồ Thành cô đơn, bệnh tật. Tai họa lần cuối ập tới. Cú
té ngã một thân một mình ấy xảy ra đêm khuya. Sáng ra, khi bà con đưa Thành đi
cấp cứu thì không kịp nữa. Đó là ngày định mệnh 29-10-2006.
Sau đám tang Lê Khắc Thành, Trí
lặng người xúc động khi Hiền đưa bảy trăm ngàn đồng trích trong khoản nhuận bút
cuối đời của Thành cúng góp Quỹ Nhà thờ - Lăng mộ gia tộc. Hai anh
em ngồi rủ rỉ tâm tình.
- Tôi đau đớn day dứt
không thể nguôi khi Thành chết đột ngột - Hiền nói - Tôi với Thành là anh em ruột
quấn quít bên nhau, đường đời nhiều chặng trùng khít, như đôi bạn chí thân. Tôi
ân hận trách mình sao không quyết liệt giúp Thành hiệu quả hơn. Giá như năm
1964 mình thuyết phục được Thành nhẫn nhịn. Lại giá như….
- Anh Hiền ạ, sau cái chết
của Thành, tôi cũng nghĩ mãi về cuộc đời Thành, từ đó mà nhìn lại cả Thế hệ
vàng tức là Thế 11 Lê Khắc chúng mình. Có thể chia làm 4 lứa. Lứa anh cả như
anh Duyệt, anh Điềm, anh Hoài, anh Quyến, anh Nhãn, tức là lớp thanh niên hoàn
toàn trường thành và vào đời ít lâu thì bước vào kháng Pháp. Lứa thứ tư, út ít
tức là các em sinh ra khoảng trước sau kháng Pháp thắng lợi như em Cường, em
Hoa, em Phúc. Trí tôi ở lứa thứ ba, khoảng tuổi lên 5 lên 10 thì nổ ra chiến
tranh, ngu ngơ quăng quật trong cuộc chiến. Còn lứa thứ hai như anh Lê Khắc
Tình của tôi, Lê Khắc Khung nhà chú Chí, rồi anh Hiền, anh Thành, bước vào hai
cuộc chiến với hành trang là vốn liếng thu thập được từ nhà trường thời Pháp. Vốn
kiến thức, ngoại ngữ, phương pháp tư duy… Hấp thu tinh
túy văn minh văn hóa Pháp. Cả cái ý chí gang thép kháng Pháp giành độc lập tự
do cũng mọc mầm mãnh liệt trong lứa thanh niên ấy. Các anh vào đời với nhiều
thuận lợi cơ bản về văn hóa và chính trị. Nhưng số phận khác nhau. Thôi những
người đã hi sinh như anh Tình, anh Khung thì đành rồi. Còn những anh đi được tới
cuối chặng đường thì đều xứng đáng ngẩng cao đầu. Riêng về anh Thành, thì “cái quan định luận”, đã tới lúc có
thể xem xét thấu đáo một cuộc đời bi tráng…
Công phu thu thập, sắp xếp
hệ thống các công trình trước tác, di cảo, tài liệu, bút tích, kỷ vật…của Lê Khắc Thành để lại, Hiền càng hiểu càng thương em
trai. Chính Văn Trí, cầm trên tay cuốn tuyển tập các bài viết tiêu biểu của Lê
Khắc Thành, cũng giật mình khi thoạt chạm mắt vào các tựa đề: “Cần dân chủ hóa quá trình lập pháp”,
“Mối quan hệ giữa sự lãnh đạo của Đảng ở các cấp với
các cơ quan dân cử”, “Cần sớm
có một số định hướng cơ bản cho công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước
ta”, “Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn xung quanh yêu cầu bức thiết đổi mới ngân hàng”,
“Báo chí nước ta trên đường thực hiện tính công khai”, “Giao đất và phân cấp quản lý, những
con dao hai lưỡi”… Hàng trăm bài báo nóng bỏng như
thế, ở thời kỳ tiền đổi mới, đã liên tiếp xuất hiện trên các báo tầm cỡ như
Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân, Sài Gòn Giải Phóng, Tuổi Trẻ, tạp chí Cộng Sản…
Hoàn toàn xứng đáng với câu tự
bạch trong bài “Khóc mèo”: Bút
ta đây ta trọn nghĩa dâng đời! Lê Khắc Thành đã dâng đời bao nhiêu công
trình tâm huyết sáng giá! Phát hiện thông minh nhậy bén. Biện giải sắc sảo, tường
minh. Và đầy tính dự báo, cảnh báo cho cả vài chục năm sau…Thử
so sánh cống hiến trọn đời của Thành với những anh em Lê Khắc đồng thế ở Hà Nội
trở về được bà con họ hàng coi là thành đạt như Hiền, Trí, Nhãn, Hân, Bảo…, những người suốt đời cầm bút cầm phấn, từng lên lớp vạn tiết
giảng tài hoa đào tạo bồi dưỡng ngàn học trò ưu tú, từng biên soạn dăm ba cuốn
sách, vài ngàn bài báo cuốn hút bổ ích. Rõ ràng Thành không sút kém một phân.
Đánh giá con người ở phần cốt lõi nhất, xem xét đo đếm toàn bộ giá trị cống hiến
cho xã hội, thì Lê Khắc Thành đã thành công!
Công thành, nhưng danh không toại!
Cả đời Thành không thành đạt, nếu xét về khía cạnh người lao động tay chân hay
trí óc được thụ hưởng phần thỏa đáng thành quả do chính mình làm ra để đạt tới
cuộc sống cá nhân hạnh phúc. Nói nôm na là Lê Khắc Thành làm nhiều mà hưởng chẳng
bao nhiêu, cả danh và lợi. Bất công! Cả một đời trằn mình làm việc quần quật,
dâng hiến trọn vẹn tâm lực, kết cuộc Thành không tự mình đảm đương mua sắm nổi
vài ba tiện ích tối thiểu cho riêng mình. Thành
không có nhà cửa, tài sản. Không có cả cái hạnh phúc đơn sơ mà người bình thường
ai cũng có. Là một mái ấm, với giọng vợ dịu dàng, tiếng con ríu rít. Thật trớ
trêu, “cây toán của thế hệ vàng”,
có thể tính toán tài tình để bày bảo cho phái viên nguyên soái Lâm Bưu thời điểm
tối ưu nổ súng trên thuyền buồm cưỡi sóng, mà không tìm được phép giải bài toán
hóc búa trong bước ngoặt hiểm nghèo của đời mình! Rõ là dao sắc không gọt được
chuôi. “Nhà lý luận uyên bác”
có thể kiến giải đặc điểm u u minh minh của một tôn giáo, có thể kiến nghị ở tầm
vĩ mô về hướng đi lên của cả nền kinh tế, văn nghệ, báo chí…
mà không tìm ra lối thoát hóa giải bế tắc trên đường đời ẩm ương của chính
mình!
Có một phần do nhược
điểm của tính cách. Thành yêu mình quá lên một chút, thành ra vị kỷ. Đánh giá bản
thân cao quá một chút, thành ra tự phụ. Tự tin tới mức ngang ngạnh. Nên khó hòa
đồng. Nên hay va vấp. Lại thêm cố chấp. Hành nghề rủi ro hứng chịu đại họa là
Thành phản ứng tiêu cực, co lại, cô đơn.
Giá như…
Giá như Lê Khắc
Thành có được tố chất ưu việt do bẩm sinh thiên phú, chăm chú luyện rèn, có được
khả năng hóa giải thử thách khắc nghiệt, để thích ứng và hòa đồng với môi trường
hoàn cảnh, như người anh “song đôi”
của mình…
Chương 14: Văn Lương nhân từ
noi Đức Tổ
Ai sinh ra Huế
dịu dàng?
Đất trời sinh
chứ ai sinh! Địa linh sinh nhân kiệt. Dằng dặc dải đất miền Trung nước Việt,
lưng dựa Trường Sơn, ngực ưỡn hiên ngang ngàn năm hứng chịu bão biển
Thái Bình Dương, hai trăm năm gan góc đón đánh giặc cướp phương Tây, phương Bắc.
Nghệ - Tĩnh - Bình - Trị - Thiên - Nam - Ngãi - Bình - Phú…Thế
kỷ Mười Chín - Hai Mươi…Đánh giặc giữ nước, cứu nước,
bách tính anh hùng nối gót anh hùng bách tính: họ Phan, họ Trần, họ Hồ, họ Võ,
họ Lê, họ Nguyễn, họ Ngô, họ Huỳnh, họ Phạm…Cùng một
dòng máu bất khuất, một khí phách cương trực, miền Trung - “cây
đòn gánh cật tre cứng cáp” quảy đôi bồ lịch sử đầu Bắc
- đầu Nam. Nhưng sao kỳ lạ: chung một khí chất đội trời đạp đất
trung dũng kiên cường, mà riêng Tính - Cách - Huế bỗng dưng nảy sinh, phát lộ
thêm khả năng thích ứng, tố chất mềm dẻo, dịu nhẹ tới không ngờ.
Thể hiện ngay từ giọng
nói.
Ta xuôi Nam, quen
nghe giọng Nghệ Tĩnh chất phác nặng trịch, hầu như mọi dấu thanh đều ục ịch hiện
thành dấu nặng; qua Đèo Ngang chợt ngỡ ngàng nghe giọng Bình Trị Thiên nhẹ bổng
tưởng chừng các dấu thanh bỗng dưng biến mất!
Ta ngược Bắc,
quen nghe giọng Nam Ngãi bộc trực thô mộc, hầu như mọi nguyên âm đều bị bẻ cong
queo không thương tiếc; vượt Đèo Hải Vân lịm người trong giọng Huế
đằm thắm mịn màng như hát như ru…
Đất Ô
Châu, Hóa Châu - từ khi có Huế đến nay, từ ngày công chúa Huyền Trân thân gái dặm
trường đi mở cõi - không hề là Đất Hiền! Lịch sử ngàn năm dân tộc Việt, từ cực
bắc Đồng Văn tới cực nam Cà Mau, khoảnh đất thiêng liêng thấm máu nhiều thế hệ
người Việt nhất chính là Bình Trị Thiên. Nam - Bắc phân tranh, Đông -
Tây đối chọi, đều giáp chiến trên tử địa này. Có vùng đất thiêng nào nghĩa
trang tử sĩ nhiều bằng nơi đây! Tất thảy các dòng sông ở Xứ - Huế - Mộng - Mơ
cũng đều là chứng tích bi hùng. Sông Gianh hai trăm năm nhuộm máu Trịnh-Nguyễn.
Sông Hương phẳng lặng bao phen dậy sóng “Nhất
giang lưỡng quốc nan phân thuyết/ Tứ nguyệt tam vương triệu bất tường”. Sông Bến Hải - “nhát dao chia cắt
khía giữa hình đất nước”. Và nữa: “Đò
qua Thạch Hãn xin chèo nhẹ/ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm…”
Ngọn lửa giao
tranh thù hận tại xứ này, thật diệu kỳ, trùng lai với làn nước mát lành giao
lưu văn hóa! Nơi đây, từ bảy trăm năm trước, Văn minh kinh đô Thăng Long hạnh
ngộ giao hòa cùng Văn minh kinh thành Đồ Bàn, tương thích, tương hợp, rồi chắt
lọc, tiếp nhận, phối ngẫu tương sinh Văn – Minh - Thuận
- Hóa. Thuận lẽ trời, thuận đạo người mà châu Hóa hóa thành thuần hậu, hóa
thành Thuận - Hóa, tức là Xứ Hóa, phát âm điệu đàng dịu mềm đi chút thành Xứ Huế!
Xứ Huế khơi nguồn nước hòa hợp đặng dập ngọn lửa chiến tranh, dĩ nhu chế cương,
lấy mềm thắng cứng! Vả chăng, dù cho Đòn - Gánh - Lịch - Sử có cứng tới vô cùng
thì ở chính ngay điểm tựa cũng phải dẻo phải mềm mới thoát họa gãy đổ diệt
vong! Xứ Huế dẻo dai, Người Huế mềm mỏng, Giọng Huế dịu dàng, ấy là “nết đất” thiêng liêng của Điểm - Tựa
- Lịch - Sử Dân - Tộc - Việt.
Bình Trị
Thiên là vùng đất tiếp giáp giữa hai miền Nam Bắc. Tùy theo lịch sử giao tranh
giao lưu ly hợp Bắc Nam mà đường ranh xê xích lên xuống. Thời nay,
Nam Bắc về lại một nhà, đầu thế kỷ 21, mặc nhiên đường ranh là cực nam Thừa
Thiên - Huế, Hải Vân sơn đệ nhất hùng quan. Giữa thế kỷ trước, chia cắt đối chọi
Đông - Tây, đường ranh hằn lõm thành con sông Bến Hải Quảng Trị. Còn ngược lên
xa xưa, thời phân tranh Trịnh Nguyễn thế kỷ 16, 17, theo sấm Trạng Trình, đường
ranh nổi cộm thành sống núi Hoành Sơn cực bắc Quảng Bình.
Đối với gia tộc
Lê Khắc, đường ranh ly hợp có lẽ nằm ngay ở Đồng Hới, Quảng Bình. Nơi này, còn
hơn cả làng quê Văn Xá, rõ ràng là chứng tích bao cuộc ra đời, ra đi, phân ly,
hòa hợp của dòng Lê Khắc. Văn Trí, Khôi, Duy và vài chục người em họ Thế 11 Lê
Khắc ra đời ở nhà thương Đồng Hới. Hàng chục người trai Lê Khắc chi trưởng và
chi thứ là liệt sĩ tử sĩ trên mảnh đất này. Thân phụ của Văn Trí, ngài Văn Phố
Lê Khắc Thứ cũng tòng sự lâu nhất ở đây, làm Kinh Lịch Quảng Bình, tri huyện
Tuyên Hóa rồi tri phủ Quảng Trạch. Chú Lê Khắc Hy, chú Lê Khắc Lự, anh Lê Khắc
Điềm … đều từng gánh vác trọng trách của chính phủ
kháng Pháp nơi đây.
Nhưng để lại dấu ấn
sâu đậm nhất trên đất Đồng Hới chính là chú Lê Khắc Tuệ (1893-1938). Hôm nay,
thập niên thứ hai của thế kỷ 21, bà con Lê Khắc thăm lại vùng Lũy Thầy- sông Nhật
Lệ, vẫn còn được các lão nông khoát tay chỉ một vùng ruộng đất bao la: đó, đó,
đồn điền ông Tuệ, đập nước ông Tuệ, ấp Văn Lương của ông Tuệ…
Chú Văn Lương Lê Khắc
Tuệ là con trai cả của bà Ba Trần Thị Dung, nhưng sinh (1893) sau
ông Văn Phố 2 năm. Năm 1922, chú Tuệ đã là “ông Phán đầu
tòa” dinh Phó sứ Quảng Bình. Tiêm nhiễm đầu óc văn minh
cải cách phương tây, chú Tuệ lập đồn điền Văn Lương 45 mẫu (Trung bộ). Nơi đây
xưa kia là làng Lương Yến bị bão lũ cuốn nhà cửa sạch trơn ra biển, dân bỏ đi hết
nên ruộng đất hoang hóa. Nhà nước bảo hộ cấp cho ông Phán Tuệ làm đồn điền. Mộ
dân lập ấp. Làm thủy lợi, xây đập trữ nước nguồn sẵn tưới ruộng, có cống thông
ra Nhật Lệ, lắp cửa chủ động điều tiết nước vào ra. Ấp được “sở
hữu” một đoạn sông Nhật Lệ, mùa cá quây lưới bắt lên
vun thành ba đống lớn, một chia chung dân ấp, một cho người đánh bắt, còn một
cho chủ ấp. Bão năm Thìn (1928), nước ngập mênh mông, dân chạy lên núi, nhà nào
phòng bị sẵn thuyền thì đêm ngủ trong khoang quờ tay qua mạn thuyền đụng phải
ngọn tre! Mấy chục gia đình tá điền có mẹ già con dại không chạy kịp, kéo hết lên
trú trên tòa lâu đài đồ sộ nền đá xanh 13 bậc, trung tâm đồn điền Văn Lương.
Thóc trong lẫm kìn kìn xúc ra, xay, sàng sẩy, không kịp giã, nấu cơm gạo lức ăn
với cá mắm, muối mè. Đảm bảo ấm no cho cả trăm người già trẻ tới khi nước
rút.
Chú Tuệ chủ trương tạo dựng
đồn điền văn minh nên trong nhà sắm đủ bàn bóng bàn, sân bóng chuyền, bóng rổ,
để giờ nghỉ cuối ngày, ngày nghỉ cuối tuần, 9 người con cả gái lẫn trai và
thanh niên thanh nữ quanh vùng tập tành thi đấu vui chơi. Đặc biệt 7 ngày Tết
nguyên đán thì tổ chức chơi hô hát bài chòi. Dựng 9 chòi bằng tre (gồm 8 chòi
cho người chơi và 1 chòi cho “nhà cái”).
Mái chòi tre trang trí rất đẹp, trên nóc cắm cờ hội. Trong chòi treo lồng đèn,
có ghế tre để ngồi. Người chơi lần lượt chiếm các chòi. Những người giúp việc cải
trang thành lính lệ đi chân đất đội nón lá màu đỏ lăng xăng chạy đi chạy lại
bán thẻ bài, trao cờ xéo. Những người còn lại thì đứng ngồi bao quanh 9
cái chòi để xem nhà cái vừa diễn trò vừa hát. Vật chơi là bộ bài có 32 thẻ bài,
chia đều cho 10 người, mỗi người 3 quân, 2 quân để lại. Nhà cái (gọi là anh
Hiệu) cũng có một bộ thẻ bài như vậy đựng trong ống tre. Sau câu hò mở đầu cuộc
chơi, anh Hiệu rút một quân bài trong ống tre và hát vài câu lục bát
hoặc song thất lục bát có liên quan đến quân bài trên tay, sau đó xướng tên
quân bài rõ to. Người chơi có quân bài trùng tên thì hô to “có
đây”, được trao một lá cờ xéo. Ván chơi kết
thúc khi một người chơi có đủ 3 lá cờ liên tục, gọi là tới (thắng cuộc) được
nhận quà như lồng đèn, mứt kẹo, hạt dưa... Mỗi lần có người tới, tiếng
trống, tiếng chiêng, tiếng kèn lại nổi lên phấn khích…
Bài
chòi anh cứ đánh chơi
Ruộng
vườn để đó có tôi trông chừng
Tiết
xuân thôn xóm tưng bừng
Kẻ
chào thưa thím người mừng thưa anh
Mấy
chú chạy hiệu thiệt lanh
Miệng
hô, rút thẻ, loanh quanh chín chòi…
… Gia
đình nhà chủ cũng tham gia lao động. Sáng sáng ông chủ mặc áo dài khăn đóng ngồi
xe kéo 3 km ra Đồng Hới làm phận sự, con cái đã vấn sẵn cho 10 điếu thuốc, têm
sẵn 10 miếng trầu bỏ trong tráp mang theo. Chiều về, cởi áo dài, lột khăn đóng,
phóc lên yên ngựa, cưỡi thủng thẳng bước một rảo thăm đồn điền. Bà chủ Tôn Nữ
Thị Du, ái nữ của Đông các đại học sĩ Tôn Thất Trạm và Chánh nhất phẩm Mệnh phụ
phu nhân Tạ Thị Quỳnh, cũng xắn quần lội ruộng lầy, có lần bị đỉa bám chân, hoảng
hồn la hét, thợ cấy phải bôi nước cốt trầu cho đỉa rụng! Vốn là tiểu thư khuê
các mà lam làm tằn tiện hiếm thấy. Chú Tuệ tòng sự nơi nào là thím Du mua nhà
nơi đó chứ không chịu ở nhà thuê tháng,“tốn tiền lắm,
ngoảnh đi ngoảnh lại là hết vèo 30 ngày…!” Bà chủ đồn điền sắm máy may, bộ đồ chằm nón, bộ đồ làm bánh
dành riêng cho con cái. 9 người con, học tiểu học ở Đồng Hới, học trung học ở
Huế, rồi học đại học Y và đại học Luật ở Hà Nội… hễ nghỉ
ở nhà dài ngày là quây quần xúm xít lao động chân tay, chằm nón, may áo, làm
bánh kể cả bánh phồng tôm, ép chuối khô… mang bỏ mối ở
các chợ! Mua cả cá biển, tép moi sản xuất cá khô, nước mắm hàng hóa. Ấy là tập
tành cho con cái làm ra sản phẩm, chứ không nhằm kiếm sống, làm giàu. Cả út
Trinh (Lê Khắc Thị Trinh, sinh năm 1934), bé lũn cũn chưa tới trường, không học
được “nghề”, thì đòi ra ruộng
mót lúa về…”bán” cho mẹ nuôi gà
vịt! Ấy nhưng ở ruộng về nhà, thay quần áo, là Út trèo lên ngồi trên cổ cha
mình, bàn tay nhỏ xíu cầm tóc giật giật, cái miệng xinh xinh kêu “ếp ếp” bắt chú Tuệ làm xe làm ngựa!
Thương con út nên chú chiều. Thương con chi lạ. Mà thương người cũng chi lạ.
Chú Tuệ rất thích cái tên Văn Lương; gia tộc mình vốn là dòng “Văn” từ làng Văn Xá, còn “Lương” là lương thiện. Con cái bất kể làm nghề gì cũng phải đặt chữ
lương lên đầu. Làm thầy thuốc, thầy giáo…phải là lương
y, lương sư. Hai con trai đầu đi học bác sĩ Y khoa và cử nhân Luật khoa để chữa
bệnh cứu người, làm thầy cãi giúp dân. Bốn cô con gái hướng nghề sư phạm dạy dỗ
trẻ thơ nên người.
Cả nhà còn nhắc mãi cái lần
“Cậu của mình đâm… anh kẻ trộm”. Số là chú Tuệ có cái chĩa sắt ba ngạnh dựng trong buồng để
phòng xa trộm cướp đột nhập. Thế mà lần ấy trộm viếng thật. Đêm hôm lớ quớ, chú
Tuệ cầm đinh ba xỉa một nhát vào chân “anh trộm”. Nó ôm chân kêu oai oái. Bật đèn lên, thấy có máu chảy. Chú
thương quá, cho băng bó rồi bảo đưa “anh trộm” đi nhà thương Đồng Hới! Từ đó cất cái chĩa vào nhà kho khi
soi ếch chài cá thì dùng, thôi không đâm người!
Con cái trách “Cậu nhân đạo chi lạ rứa!”. Chú cười
hiền “thanh minh” rằng bởi Cậu
giống tính bà nội các con ở Văn Xá ngày trước. Bà thương người lắm, không hề la
rầy đánh mắng ai. Nhà Bà nuôi con mèo tam thể rất hay chuột. Một bữa chú (Lê Khắc)
Niệm 14 tuổi và chú (Lê Khắc) Tố 13 tuổi tinh quái bắt trộm con mèo làm thịt ăn!
Vắng mèo, mới đầu hôm chuột đã quậy tưng. Nghe chuột mẹ chuột con chút chít rúc
rích phá bồ lúa, Bà cằn nhằn “con mèo đi mô rồi hè”. Thế là chú Niệm với chú Tố chia nhau, mỗi chú nấp ở một đầu
nhà, thi nhau kêu “ngoeo”, “ngoeo” mà họ hàng nhà chuột đâu có sợ.
Thế là Bà biết. Bà lầm rầm mấy tiếng “tụi quỷ lá lay
thiên tặc”, thế thôi chứ không đánh mắng chú mô hết. Có
một đêm Bà đang ngủ trên sập ngựa thì kẻ trộm lọt vào nhà lục lọi… Bà nói nho nhỏ: “con” ơi tiền cất trong ngăn kéo tê tề, “con” đừng lấy hết, nhớ để lại một ít cho mệ sáng mai đi chợ… Lại lần khác, kẻ trộm kì cạch đào ngạch. Chú Niệm chú Tố cầm
hai con dao lăm lăm chực sẵn bên trong. Chú Niệm còn dặn chú Tố: thế nào thằng
trộm cũng khua khoắng cái cán xẻng vô dò đường, em đừng có mắc lừa chém ngay.
Chờ hắn thò đầu vô anh em ta chặt! Bà nghe thấy thế, vội kêu to đánh động: “con” ơi “con”, đừng có dại chun đầu qua lỗ “bọn hắn” pheng đứt cổ chừ…Kẻ trộm hết hồn
vác xẻng huỳnh huỵch chạy trốn, làm chú Niệm chú Tố tiếc hùi hụi!
… Ấp Văn Lương đang phát
triển đến hồi cực thịnh thì năm 1938, chú Lê Khắc Tuệ chết đột ngột ở tuổi 45
vì tai biến mạch máu não. Thím Tuệ năm ấy mới 43 tuổi, nuốt nước mắt chịu đựng
nỗi đau như trái núi đè xuống. Với sự can đảm vô song, người mẹ góa một tay chống
chèo gìn giữ gia phong, chăm cả đàn con ăn học tới nơi tới chốn. Cho tới khi
con trai cả Lê Khắc Quyến tốt nghiệp bác sĩ Y khoa và con trai thứ Lê Khắc Nhãn
xong cử nhân Luật.
Đồn điền Văn Lương gãy
cây cột cái, không còn vững chãi như xưa. Thím Tuệ phải về Huế sống với các
con. Lâu đài Văn Lương bị tàn phá trong “tiêu thổ kháng
chiến” năm 1946, rồi những năm sau đó bị máy bay Pháp,
Mỹ san thành bình địa. Ruộng đất giao lại cho bà con nông dân chia nhau cày cấy
làm lấy mà ăn thu hoạch riêng lẻ, không ai phải nộp địa tô hết. Ở Đồng Hới chỉ
có người con thứ 7 là Lê Khắc Luyến làm ăn sống với vợ con, không dựa vào nguồn
thu nhập từ ấp Văn Lương. Thế mà năm 1955, cải cách ruộng đất, Luyến vẫn bị tù
3 năm. Bấy giờ đang trong thời hạn chuyển quân 300 ngày giữa hai miền, chưa
đóng cửa giới tuyến trên sông Bến Hải. Một người bà con Lê Khắc ở Văn Xá, thím
Trần Thị Hồng, (vợ chú Lê Khắc Cưỡng, còn gọi là chú Trợ Cưởng, thuộc chi thứ,
Lê Đôn chi) là nhân viên của bác sĩ Quyến được cử ra Đồng Hới thăm dò tình
hình. Báo hại: thím Hồng cũng bị đoàn ủy thổ cải bắt giam bốn tháng mới thả cho
về Huế! Thím ấy bị bắt giam chính tại nơi trước đây chú Trợ Cưởng đang dạy học ở
vùng du kích Việt Minh thì bị lính Pháp ruồng bố bắn chết, cho tới nay chưa tìm
ra phần mộ!
Bà con Lê Khắc ở Quảng
Bình chỉ có hai người lâm nạn trong số mấy trăm ngàn địa chủ, phú nông miền Bắc
thời ấy bị đấu tố, tù đày. Lê Khắc Luyến rất hiểu “gặp
thời thế thế thời phải thế”, nên sau khi ra tù vẫn
tiếp tục làm công dân tốt của nước Việt Nam dân chủ cọng hòa. Con
trai cả, Lê Khắc Duy, sinh năm 1952, đủ 18 tuổi thì tòng quân. Và năm 1972, Duy
hi sinh trong chiến tranh phá hoại, trở thành liệt sĩ.
Ấp Văn Lương ngộ nạn gãy
đổ rường cột lương đống, nhưng ơn trời phật đã có lương mẫu chống chèo giữ nếp
lương gia. Nhờ thế, thiên lương nhân đạo bác ái của thân phụ Lê Khắc Tuệ tiếp tục
ăn sâu bén rễ vào cả đàn con 9 người, mà tiêu biểu nhất là trai cả, lương y Lê
Khắc Quyến (1915-1977).
Từ nhỏ, Quyến học hành
sáng dạ nổi tiếng Đồng Hới. Thầy, bạn hỏi bài nào, dù là Pháp văn hay Việt văn,
Lịch sử hay Địa lý, Quyến gấp vở khoanh tay đọc làu làu cả chương, “không sai một chữ”! Thế mà lần đi
thi “ri-me” (tiểu học), Quyến
làm cả nhà “hết hồn”. Buổi sáng
treo bảng, Quyến bỏ trường chạy về nhà, khóc như mưa như gió. Mẹ thương quá, ôm
lấy dỗ dành: thôi con ơi, trượt thì sang năm thi lại, con khóc chi hư mắt. Vừa
lúc ấy chú Trợ Mân (Lê Khắc Mân) cũng dạy trường ấy hớt hải chạy vô tìm, bế xốc
Quyến lên xe kéo vù vù về trường. Thì ra Quyến đậu đầu! Xướng tên thủ khoa,
không thấy học trò bước lên lĩnh thưởng, bà đầm chánh chủ khảo bắt chú Trợ Mân
về tận nhà đưa Quyến tới. Rồi chính bà đầm to lớn bế xốc trò Quyến nhỏ nhắn
trên tay, nâng lên thật cao cho thầy trò toàn trường tung hô rầm trời. Từ năm ấy
tới cả chục năm sau, cho tới khi tốt nghiệp bác sĩ Y khoa, Quyến luôn được Nhà
nước bảo hộ cấp học bổng.
Bùng nổ kháng chiến toàn quốc
1946, Lê Khắc Quyến gia nhập Quân y Trung bộ. Năm ấy chiến trường trung Trung bộ
thiếu thốn vô cùng. Đói cơm, đói thuốc. Thím Tuệ từ Huế gửi thuốc cho Quyến bồi
dưỡng và chữa bệnh thì Quyến dành hết cho thương bệnh binh. Giường nằm, mền gối
cũng ưu tiên phục vụ thương bệnh binh trước hết, còn bác sĩ, y tá, hộ lý đều nằm
chèo queo trên ổ rơm trải dưới đất. Quá kham khổ, mà sức vốn yếu, nên Quyến ốm
nặng, phải cắt một lá phổi và về Huế trị bệnh cả năm trời.
Sức khỏe vừa hồi phục, gượng
dậy được, bác sĩ Lê Khắc Quyến mở phòng mạch ở 7 Thượng Tứ, thành phố Huế. Thời
ấy, Huế có nhiều phòng mạch, có cả phòng mạch của bác sĩ Morue người Pháp,
nhưng bệnh nhân cứ đổ dồn tới bác sĩ Quyến. Họ tin vì đoán bệnh chính xác. Họ
thêm yên tâm thấy toa thuốc chỉ một hai vị mà hiếm thấy trụ sinh. Tốn ít tiền,
không hại sức mà bệnh mau khỏi. Nên ai nấy đều tin. Quá đông khách, người khám
phải hẹn trước hoặc tới sớm lấy số thứ tự. Bởi vì bác sĩ Quyến còn bận rộn bao
việc khác: giám đốc Y tế Trung phần, giám đốc Bệnh viện trung ương Huế, khoa
trưởng Đại học y khoa Huế. Lại chủ trì tờ báo “Lành
Mạnh” chuyên lĩnh vực y tế. Vẫn chưa thôi,
bác sĩ Quyến còn mở “Nhà thương thí”
đối diện với phòng mạch bên ngoài cửa Thượng Tứ. Khám bệnh kê đơn cho người
nghèo, học trò, thầy tu thì miễn phí. Người nghèo khổ cô đơn nằm chữa bệnh được
miễn cả tiền thuốc, tiền phòng, tiền ăn. Người “cận
nghèo” thì chỉ miễn tiền khám, tiền phòng. Còn người
khá giả muốn tới đây hưởng “thuốc hay thầy giỏi” thì phải thanh toán đầy đủ để gánh vác phần chi phí cho người
kém may mắn, kể cả tiền nuôi y tá, điều dưỡng viên (một “mô
hình ưu việt” của ngành Y cùng lúc chăm sóc sức khỏe
cho người giàu lẫn người nghèo!. Tuyệt đối bác sĩ Quyến không hưởng một
chút thù lao lợi nhuận nào từ “Nhà thương thí”. Có người nghèo bệnh nặng qua đời, bác sĩ cho tiền mua vải
liệm và tiền thuê xe chở thi hài về quê. Khi có người ở vùng căn cứ kháng chiến
về chữa bệnh hay chữa thương, không phân biệt dân thường hay bộ đội, đều được tận
tình săn sóc.
Bác sĩ Quyến dặn người nhà
không được khước từ những người cơ nhỡ khuya khoắt bệnh nặng tới nhờ cứu chữa.
Có lần bị bọn cướp lợi dụng, đêm khuya đấm cửa kêu bác sĩ ơi mau cứu người nhà
quê trúng đạn pháo. Cửa mở, chúng ập vào giơ súng nã tiền, lấy được tiền là rút
chứ không gây thương tích cho nạn nhân..Thế nhưng hôm khác bệnh nhân cấp cứu nửa
đêm, bác sĩ Quyến vẫn cho mở cửa. “Ờ thì mình có thể mất
mát thiệt thòi, nhưng làm thầy thuốc phải lấy y đức làm đầu”.
Thân mẫu của tổng thống Ngô Đình Diệm
và “lãnh chúa miền Trung” Ngô
Đình Cẩn bệnh già đau yếu lâu ngày, ông Cẩn chạy thầy thuốc giỏi khắp nơi, mời
cả “ngự y” tới chữa, bệnh vẫn
không thuyên giảm. Cuối cùng, đến hồi nguy kịch, tới tay bác sĩ Quyến thì lành.
Từ đó hễ mẹ đau ốm là Cẩn mời Quyến. Tổng thống Ngô Đình Diệm về thăm, thấy thần
sắc mẹ, mừng quá, nhã nhặn xin được “tri ân đáp đền
chút ít”, biếu Quyến chiếc xe mercedes choáng lộn “để bác sĩ có phương tiện tới giúp mẹ tôi cấp thời…” Quyến từ chối thì Diệm “dỗi’: nếu bác sĩ không nhận thì từ nay bà cố ốm đau chi cũng
không dám phiền nữa… Quyến đành nhận chiếc xe “xa xỉ phẩm” ấy, nhưng chỉ dùng mỗi
khi tới khám chữa cho nhà Ngô Đình.
Cho tới thời Ngô Đình Cẩn đàn
áp Phật giáo, người biểu tình bị lựu đạn cay nằm la liệt, trong đó có rất nhiều
sinh viên đại học Y. Cẩn gọi Quyến tới, ra lệnh: không đuợc cho người bị lựu đạn
cay nằm nhà thương! Quyến bèn dọn dẹp phòng học ở trường Y cho sinh viên nằm và
đích thân Quyến ra tay chữa trị. Cẩn kêu Quyến lên, hạch tội bất tuân thượng lệnh,
thì Quyến trả lời: “Thưa, cụ cố vấn bảo không cho họ nằm
nhà thương thì tôi đã thực hiện, nhưng sinh viên trường y thì tôi phải mở cửa
trường cứu các em, vì nhiễm độc khói lựu đạn cay ở Huế chỉ có một mình tôi biết
cách chữa trị. Đó là y đức…” Ngô Đình Cẩn hậm hực cho
Quyến về.
Rồi tìm cách trị! Lần đó, Cẩn bắt
giám đốc các cơ quan Trung phần ký tên vào biên bản đồng ý cho soát xét chùa
chiền. Quyến không ký, nại rằng đó thuộc chức trách an ninh của chính quyền,
không phải việc của ngành Y. Ngay sau đó, Cẩn cho bắt Quyến giam vào Chín Hầm,
nơi giam cầm tử tội, không mấy người sống sót trở về. Thì chính lính gác tù cứu
Quyến! Một số có thân nhân từng được bác sĩ chữa bệnh, số còn lại không ai
không biết tiếng bác sĩ Quyến lương y nhân từ, nên lén lút mang cho mền chiếu,
thức ăn, nước uống, bô dùng tiêu tiểu…
Khi chính quyền gia đình trị Ngô Đình
sụp đổ, phe nhóm của đại tướng Dương Văn Minh cho xe đến ngay Chín Hầm rước Lê
Khắc Quyến. Quyến không đi xe, với lý do “tôi biết sức
tôi ra ngoài gặp nắng gió đột ngột thì nguy tới tính mạng!”
Đợi xe quay về rồi, mãi lâu sau Quyến mới lần từng bước ra, và gặp ngay sinh
viên Y tới đón, tiếng đồn loang nhanh, cả trăm người kéo tới “rước
bác sĩ về nhà”.
Giữa thời loạn ly, muốn làm người
thầy thuốc chuyên tâm trị bệnh cứu người đâu có dễ. Nhất là một lương y nổi tiếng,
được lòng dân. Nên hết bị phái này đến phái kia lôi kéo. Nhưng Quyến
không phải là người dành cho chính trị. Có tham gia “Hội
đồng nhân dân cứu quốc” của ai đó nặn lên, nhưng
cũng chỉ “ba bảy hăm mốt”. Hoặc
làm 1 trong 16 thành viên của cái gọi là “Thượng Hội
đồng Quốc gia”- cơ quan chấp chánh của Ủy
ban Lãnh đạo lâm thời do ba tướng Dương Văn
Minh, Nguyễn
Khánh và Trần
Thiện Khiêm thành lập năm 1964, thì cái tổ chức èo uột ấy chỉ sống
sót nổi trăm ngày! Lại có dạo ông em ruột Lê Khắc Nhãn là cán bộ cấp Vụ ngoài Bắc
bí mật luồn vào móc nối Quyến. Nhưng nào ai biết có nên cơm nên cháo gì không?
Suốt mấy chục năm rầm rộ trỗi dậy các tổ chức chính trị đủ sức lay trời chuyển
đất như “Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam” (1960), “Liên minh các lực lượng
Dân tộc, Dân chủ và Hòa Bình Việt Nam” (1968)… đều không thấy có thành viên là Lê Khắc Quyến. Và sau năm
1975, Bắc Nam thống nhất, Quyến đang làm giám đốc bệnh viện Sùng Chính trang
thiết bị hiện đại của người Hoa ở Sài Gòn, vẫn an nhiên tự tại hành nghề y, mà
không bị ai trù dập, cũng không ai hỏi han ưu đãi. Vẫn chỉ là bác sĩ Quyến nổi
tiếng thương người bệnh, thương dân nghèo. Vẫn nguyên vẹn người con của ấp Văn
Lương, lương y của dân chúng.
Sau năm 1975, cũng
có đôi ba người Việt hiện sống lưu vong trong tâm thế oán thù dai dẳng từng nói
về Lê Khắc Quyến bằng lời chỉ trích hằn học cay chua. Nhưng hầu hết bà con vẫn
nhìn nhận đúng bản chất con người bác sĩ Quyến. Sau đây là những
dòng hồi ức của người đồng hương Quế Chi:
…Bác sĩ
Lê Khắc Quyến cùng vợ và 2 con gái đến ở căn nhà bên cạnh tiệm ăn Lạc Thành được
ít tháng thì chuyển qua nhà ông Xì Gà bên kia đường, cạnh nhà Maria Mộng Hoa.
Bà con trong xóm đặc biệt quý trọng và mến phục, thường gọi là ông Đốc ( do chữ
Pháp Docteur là bác sĩ). Còn bà con vạn đò Thương Bạc hay vạn đò Gia Hội cũng
như bà con miệt dưới quê, dưới biển lên thì có người còn gọi là Quan
Đốc. Mỗi lần nghe gọi Quan Đốc, ông cười hiền lành và nói thủng thẳng một giọng
Huế rặc:
"Nì! Mệ gọi
là bác sĩ được rồi. Tui có làm quan quyền chi mô mà kêu quan”.
Mệ già cắp cái nón
lá bên hông, chắp hai tay khúm núm thưa:
"Dạ bẩm quan,
bác sĩ là chức chi bầy con không biết, quan cho con gọi là quan cho dễ."
Ôn Đốc Quyến, bọn
con nít trong xóm chúng tôi thường gọi như vậy khi nhắc đến bác sĩ. Ôn Đốc Quyến,
người tầm thước, có thể nói là khá cao lớn so với người Việt Nam bình
thường thời đó. Thường ngày, trừ hôm mưa lạnh thì Ôn hay mặc áo sơ mi trắng có
túi (vescane?), cụt tay, bỏ ngoài quần tây đen hay xám. Nước da trắng xanh, mặt
mày đầy đặn. Tôi cứ nghĩ nếu Ông Đốc để râu chắc sẽ có một hàm râu quai nón đẹp
lắm vì tuy khi mô cũng cạo râu sạch sẽ mà chân râu vẫn cứ xanh rì quanh môi miệng.
Mặt mũi nghiêm nghị nhưng vẫn có cái nét hiền hòa dễ gần, dễ mến. Ông
nói năng từ tốn, thủng thẳng và rất bình dân.
Ông Đốc nổi tiếng là một
bác sĩ giỏi khắp cả thành phố Huế và các miền phụ cận cũng như tiếng tăm lan đến
cả những vùng quê xa xôi hẻo lánh. Nhiều khi người ta dùng đò để chở bệnh nhân
từ dưới biển, từ các Quận Huyện hay dùng xe từ Quảng Trị chở bệnh nặng nhờ Quan
Đốc cứu chữa. Chính nhờ tài năng và tấm lòng lương y nên ông Đốc đã cứu sống
nhiều mạng người trong trường hợp tưởng chừng tuyệt vọng.
Ở Huế thời đó, bác sĩ Lê Khắc
Quyến chủ trương một Nguyệt San (?) chuyên về Y Tế mang tên là Lành
Mạnh. Nhiều người Quốc Gia cho là ông có tinh thần thiên tả hay thiên Cọng,
nhưng cá nhân tôi luôn nghĩ ông là một trí thức yêu nước và có tinh thần dân tộc.
Công lao của ông
Quyến với trường Đại học Y khoa Huế rất lớn, vì tuy chỉ là khoa trưởng nhưng đã
quy tụ được một đội ngũ giáo sư giỏi trong cả nước, đã góp phần đào
tạo lớp bác sĩ đầu tiên cho Huế, cho toàn miền Trung. Tôi hân hạnh có những người
đàn anh hay những người bạn học là học trò của ông và sau này trở thành bác sĩ
giỏi, có tiếng khắp nước làm rạng danh trường Y khoa Huế như Đặng Ngọc Hồ, Hà Thúc
Như Hỷ, Hoàng Đại May, Võ Văn Đàng, Hoàng Quỳnh, Bùi Hữu Út, Trần Đình Tùng
v.v.
Bác sĩ Quyến luôn chứng tỏ
tài năng và đức độ đáng kính của một người trí thức thời loạn. Trong bất cứ cương
vị nào: Khoa trưởng Đại học Y khoa Huế, Giám đốc bệnh viện Trung ương Huế, Giám
đốc bệnh viện Sùng Chính Sài Gòn, bác sĩ Quyến luôn được sự kính nể của đồng
nghiệp, sự thương quý của học trò và nhân viên, sự tri ân của bệnh nhân...
Trong con mắt dân chúng
miền Nam, Lê Khắc Quyến là một trí thức yêu nước, một thầy thuốc thương
dân, một bậc thầy của ngành Y có công đào tạo bồi dưỡng hàng loạt bác sĩ giỏi… Quyến là thế. Không được một chính thể nào thật bụng tin
dùng, mà được nhân dân thành ý tin yêu! Cho nên, sau khi Quyến qua đời mấy chục
năm, cứ vào dịp “Ngày thầy thuốc Việt Nam”, bàn luận về y đức, “lương y như từ
mẫu”, các bác sĩ tên tuổi lại nhắc tới tấm gương sáng “khám bệnh không lấy tiền” của những
Đặng Văn Ngữ, Phạm Ngọc Thạch, và Lê Khắc Quyến…
Ở làng Văn Xá, cho tới
hôm nay, vẫn còn những dấu tích của lương y Lê Khắc Quyến. Sau Hiệp định Genève
1954, hòa bình lập lại, Văn Xá xây trường tiểu học khang trang. Quyến về thăm,
thấy làng mình có cơ sở giáo dục mà chưa có cơ sở y tế, liền bỏ tiền xây Trạm
xá có văn phòng, phòng sản, nhà công vụ cho y tá, hộ sinh, tường xây mái ngói
cao ráo đặt cạnh trường tiểu học. Đặc biệt, có Khoa sản bệnh viện Huế bảo trợ,
hễ nẩy sinh sự cố là cho xe cấp cứu về trợ giúp kịp thời. Trạm này hoạt động đều
đặn hiệu quả suốt 20 năm, cho tới năm 1975…
Còn người làng Văn Xá,
không riêng dòng Lê Khắc, thì được bác sĩ Quyến cứu chữa kể tới hàng trăm. Cho
tới nay, người già trong làng vẫn nhắc nhớ chuyện “ông
đốc Quyến” trị bệnh cho đứa con trai lên 3 của o Con ở
xóm Phủ Thờ. Chỉ là bệnh ghẻ ngứa, nhưng lây lan nhanh gây lở lói khắp tay
chân, dùng bao ngiêu thứ thuốc nam đều không thuyên giảm. Phải bế con vào Huế
nhờ ông Quyến. Được nằm lại, thầy hay, thuốc hạp, sau một tuần thì các vết lở
khô lại, teo dần. O Con mừng ơi là mừng, nhưng lại ngay ngáy lo rằng nằm lâu
thêm nữa mình kiếm đâu ra tiền thanh toán viện phí, mà thầy đã bảo là thầy
thương thầy cho…thành ra mình lạm dụng lòng tốt… Thế là bồng con “trốn” về làng! Báo hại…bác sĩ quay quắt
tìm bệnh nhi! Y tá trực xuê xoa: gần khỏi hẳn nên về. Bác sĩ không yên tâm, nhắn
về làng hỏi thăm: cháu bé về rồi sao, bệnh có tái phát không, có gì cần thì tìm
tôi ngay! Chuyện này kết thúc rất có hậu: cậu bé ấy là Trần Xuân Anh (1953), 20
năm sau trở thành con rể Lê Khắc (Trần Xuân Anh lấy Lê Thị Mỹ Hạnh là con chú
Lê Khắc Nghi, 1928-1998).
Em gái út của Quyến là Lê
Khắc Thị Trinh, năm nay đã 78 tuổi, mà khi kể chuyện anh mình vẫn day dứt một
điều là Quyến chữa bệnh cho người đời thật mát tay mà sao không cứu giúp được
cho người ruột thịt gần gũi nhất và cho chính bản thân vào những phút giây hiểm
nghèo sinh tử. Năm 1938, Quyến ở trường Y Hà Nội đang thực tập, chạy chữa trực
tiếp cứu sống một bệnh nhân bị tai biến mạch máu não, thì ở Đồng Hới, thân phụ
là Lê Khắc Tuệ đứt mạch máu não đột tử ngay tại công sở. Hoặc năm 1944, Quyến bảo
vệ xuất sắc luận án trị bệnh thương hàn, thì ở Đồng Hới, người em trai 15 tuổi
mắc đúng căn bệnh đó; Quyến hay tin vội mang thuốc đặc trị bổ nhào về mà không
kịp cứu em ruột! Hay là, bất lực bó tay với căn bệnh ung thư của chính mình,
Quyến qua đời ở tuổi 63!
Một điều an ủi rất
lớn là lương y Lê Khắc Quyến được tự tay săn sóc thân mẫu những ngày tháng ốm
đau cuối đời. Sáng sớm, trước khi đi làm, bao giờ Quyến cũng giao Trinh hai quả
trứng gà “la coóc” (ngâm nước
sôi nửa chín nửa sống) và dặn “Mợ dậy thì em đút cho Mợ
ăn chút một nghe…” Tới năm 1977, Mợ đuối lắm rồi, vào nằm
ở lầu hai Sùng Chính thì anh Quyến phát bệnh ung thư, nằm ở lầu phía trên. Thế
mà ngày nào anh Quyến cũng ngồi xe lăn đi thang máy xuống thăm khám cho Mợ. Rồi
tới chiều ấy, cúi sát người Mợ, Quyến thốt rụng rời buông thõng ống nghe, bật
khóc: hết rồi các em ơi, mạch chết rồi…
… Trong số những
người con “truyền nhân” nối tiếp
phát huy truyền thống đạo cao đức trọng bác ái từ bi của lương y Lê Khắc Quyến,
gia tộc thường nhắc tới con trai út Lê Khắc Nhàn (1961), tức là thầy Hằng Trường,
tốt nghiệp đại học Mỹ, xuất gia thụ giáo Phật Pháp chính truyền từ Đại lão Hòa
thượng Tuyên Hóa. Thầy Hằng Trường là một trong những vị Tăng có uy tín
trong cộng đồng người Việt ở nhiều nơi trên thế giớí, phục vụ nhiều cộng đồng
đa chủng khắp châu Á, châu Mỹ, châu Âu. Thầy có đường lối tu hành toàn diện, tổng
hợp và tân tiến hóa Phật giáo, đem Đạo nhập thế, thuyết giảng nhiều triết thuyết
mới có giá trị toàn cầu, thích nghi với trào lưu tiến hóa của nhân loại.
Trinh nói:
- Anh Trí ạ, qua bảy mươi năm rồi mà
em vẫn mường tượng rõ mồn một khung cảnh năm xưa sum họp bà con chú bác nhà
mình rất đông ở Đồng Hới. Những bữa em chạy lon ton theo Mợ sang chơi bên bác
Phủ. Bác rung đùi ngâm thơ, em nghe chẳng hiểu chi, chỉ nhớ có câu “nhơn từ noi đức tổ”…
- À, đó là bài thơ “Chào
xuân Kỷ Mão 1939” của Cậu anh. Mấy câu đầu là: Kìa
kìa cọp núp thỏ ra đua/ Văn Xá hừng xuân tiết thuận mùa/ Dạy trẻ nhân từ noi đức
tổ…” Đức tổ đây là đạo đức của tổ phụ đó, ngài Văn
Sơn Lê Cát hay ngài Văn Xuyên Lê Từ đều nổi tiếng nhân từ. Cho nên con cháu,
như ông Văn Phố, ông Văn Lương đều lấy nhân từ làm gốc đối nhân xử thế…
- Anh nói đúng, bác Phủ hiền lắm. Mà thương
con cháu vô cùng. Em còn nhớ có bữa em sang, thấy bác bệ vệ ngồi trên ghế bành,
cho hai anh Ặng và Ịn (Trí và Khôi) ngồi nhún nhảy trên hai đùi - lại có hai
chú lính đứng hai bên chờ sẵn bồng hai anh. Rứa mà bác Phủ còn kêu Trinh ơi con
vô đây với bác. Còn đùi mô nữa mà bác biểu con vô? Thì đây, hai anh ngồi hai
bên, con đứng giữa, bác ôm con vô lòng! Em đành hanh không chịu đứng, mà bắt
bác dịch ra sau tựa lưng vào ghế để lấy chỗ cho em phóc lên ngồi chễm chệ giữa
hai anh! Tới bữa ăn, em cũng lanh chanh giành chỗ bên bác, báo hại bác không ăn
được, mà bác không hề la (mắng). Khi bác ngủ trưa, em cũng sán lại, tay cầm cái
nhíp đòi “con nhổ tóc bạc (sâu) cho bác nghe”! Ờ ờ, con nhổ nhẹ tay đừng làm bác đau, để bác ngủ. Em lần
sờ mãi, nhổ được một sợi, khoe rối rít: đây bác ơi! Giọng bác ngái ngủ khê khê:
ờ, giỏi. Khi em nhổ được sợi thứ hai thì bác đã thiu thiu, mà em cứ lay vai bắt
bác mở mắt xem thành tích của cháu gái. Tới sợi thứ ba thì bác ngủ say, lay
không được, em liền cù nách bắt bác dậy “coi tóc bạc
đây nữa nì!” Thế là bác chịu thua, bác xoa đầu em: giỏi
quá, giỏi quá, thôi cho con đi chơi, bác hết cả tóc bạc rồi!
Ui chao, kể về bác Phủ, lại
nhớ tới các ông chú khác, dù là con Bà Hai, Bà Ba, Bà Tứ hay Bà Năm thì cũng đều
thương em là đứa gái út mồ côi cha từ năm lên bốn. Em chơi bời nghịch ngợm,
cũng đánh đáo đánh khăng chơi bi đá cầu như đứa con trai, vì em là út gái mà
trước em lại là 3 anh trai. Mợ bận rộn coi sóc đồn điền nên gửi em
ăn học ở nhà người thân. Ban đầu là chú Lự. Rồi chú Hy, anh Quyến. Rồi chú Ủy,
chú Bằng. Ai cũng thương quý em. Bà nội em thì khỏi nói. Hễ em về Văn Xá là phá
như giặc, ra vườn chọc trái ổi, đào, chanh… phần thì ăn
thỏa thích, phần thì quăng quật chơi thẻ đánh chuyền…,
mà không hề bị Bà la. Tới bữa thấy Bà nhặt nhạnh xếp vào thúng mấy xấp lá chuối
với các loại trái trong vườn, mới biết Bà phải để dành mang ra chợ bán lấy tiền
mua thức ăn. Em thương bà nội lắm. Cho tới nay chỉ biết Bà quê Phú Yên, chứ
không rõ làng thôn tổng xã. Ông nội cưới Bà giữa lúc Ông chuyển từ Án sát Phú
Yên về Kinh đô làm Tá Lý Bộ Lễ. Năm ấy, vội vã ngồi lên võng theo Ông về Huế,
Bà chưa đầy 20 tuổi. Sau này chú Hy, rồi anh Quyến nhờ bao người quen ở Phú Yên
dò tìm tông tích quê hương bản quán của Bà, mà vẫn không biết đích xác. Bởi bao
nhiêu năm chiến tranh loạn lạc…
Trong cuộc phân ly, bầu
đoàn con cái cháu chắt của chú Tuệ thím Du gần như chia hẳn làm hai mảng lớn tản
mác ở đông và tây bán cầu. Chỉ có 3 người con ở lại đất nước, Nhãn và Trinh ở
Sài Gòn, Luyến ở Đồng Hới.
Ngay từ ngày đầu thành lập Ban
đại diện dòng tộc Lê Khắc, cả 3 anh em Nhãn Luyến Trinh sốt sắng tham gia. Nhãn
là ủy viên thường vụ điều hành mọi hoạt động. Luyến làm trưởng ban xây dựng, phải
“tiền lưng gạo bị” từ Đồng Hới
vô thường trực tại Huế hàng tháng để chỉ đạo tu sửa Nhà thờ Ông, nhà thờ bà Ba
và xây lăng mộ ở Văn Xá. Trinh cũng tham dự đầy đủ mọi cuộc họp bàn và các chuyến
về làng xử lý “thực địa” tại chỗ.
Ơn trên tổ tiên run rủi cho Trinh được dự phần cùng với anh Nhãn, với Lê Khắc
Hiền con chú Tham Hy, với Ngô Văn Yên con rể chú Thông Niệm, đều là cháu nội Bà
Ba, tìm được báu vật gia truyền thiêng liêng. Ấy là dạo đầu năm 1993, “Ban đại diện” từ Sài Gòn về Văn Xá
khảo sát lập dự án tu sửa nhà thờ Ông. Mấy anh em trèo lên xem xét kỹ lưỡng từng
cái rui cái mè, phát hiện dưới mái ngói có một ống gỗ to bằng ống bương, dài cả
thước, lên nước đen bóng, bên trong cuộn tròn 13 tờ sắc phong các đời vua ban
cho cao tổ Lê Khắc. Đây rồi, hiện vật vô giá minh chứng văn nghiệp võ công oanh
liệt huy hoàng của tổ tiên ta! Quý hơn vàng! Mấy anh em chia nhau bảo vệ, canh
giữ toàn vẹn trên đường chuyển vận từ làng quê về tới Sài Gòn để bắt đầu công
việc dịch thuật, trân trọng đưa vào gia phả.
Những ngày ấy, Trinh xăng
xái ở lại làng, sáng sáng ra chợ Văn Xá thưởng thức hết các món ngon dân dã thời
thơ ấu. Các cố các mẹ quý lắm, cứ bắt ăn thêm bánh trái và xuýt xoa: cháu chắt
Ông Tuần đây rồi, cái chợ ni là do Cố Ông lập nên cho dân làng nhờ đây o nờ!
Rồi Trinh về
Huế, dạo thăm chốn cũ, đi chợ Đông Ba. Các mệ nắm tay xoa xuýt: “Ui chao, em gái ông đốc Quyến đây, anh em giống nhau chi lạ.
Ông Quyến khám bịnh mát tay dịu dàng. O Trinh bàn tay cũng đẹp, mềm mà trắng rứa
(trời ơi, Trinh là bà già 60 da tay nhăn nheo, đẹp chi nữa mà đẹp!). Nhưng lời
các mệ làm Trinh nhớ anh Quyến da diết. Nhớ cái lần ngồi xe hơi bon bon trên đường
phố ni đây, anh Quyến bỗng dừng xe, tưởng trở ngại chi, thì thấy anh bước xuống
chào hỏi một ông đạp xích lô: “Nì, mụ vợ bệnh đỡ chưa?
Thứ biệt dược mà tui kê toa có mua được không? Nếu khó quá thì tới tui đổi toa,
kê thứ thuốc dễ tìm hơn…”
Cũng chịu cho cái tính
thương người của anh. Dạo ở Văn Lương, anh Quyến học ở Hà Nội đi tàu hỏa về
thăm nhà, anh bảo rằng Trinh ơi anh có mua cho em con búp bê thiệt đẹp, nhưng “rủi cho em” là trên tàu anh gặp một
con nhỏ nhà ông nớ gầy ốm tong teo cứ dán mắt vào con búp bê, miệng chóp chép
như thèm thuồng đòi ăn đòi bú, anh thương quá anh cho nó rồi! Thôi để lần sau ở
Hà Nội về anh mua cho Trinh con búp bê khác. Nhưng làm chi có “lần
sau” nữa mà chờ! Bởi năm ấy Cậu đột tử. Anh Quyến cứ
xin Mợ cho con nghỉ học đi làm thay Cậu nuôi các em. Chị Nhơn bấy giờ mới tốt
nghiệp sư phạm, phải “giành vị thế chim đầu đàn”, dàn xếp mãi anh Quyến mới chịu ra Hà Nội học tiếp cho
thành tài. Còn đâu nữa, búp bê cho em Trinh. Cũng làm chi còn nữa, thời cực thịnh
Văn Lương ấp.
Sau thống nhất đất nước,
Trinh về ở Đồng Hới một thời gian. Đi thăm khắp nơi xưa, Văn Lương, Xuân Dục (Cộn).
Thăm cả khu ruộng lúa năm nào Trinh đi học về gặp trận càn, sợ bọn tây rạch mặt
hãm hại đàn bà con gái, phải bốc bùn trét mặt mũi chân tay lem luốc rồi trốn
chui nhủi. Rồi tiếp đó, cứ mỗi khi có dịp trở về chốn cũ, Trinh lại tha thẩn dạo
thăm từ vòng ngoài tới vòng trong Văn Lương ấp ngày xưa. Theo mỗi bước chân, cảnh
tượng bảy chục năm trước hiện về. Này là cánh đồng sau vụ gặt gốc rạ lởm chởm.
Này là vạt ruộng bé Trinh ngồi xổm bên trẻ chăn trâu hí húi nướng khoai nướng bắp.
Cả cá cả tôm, con gì cũng nướng ăn. Gà vịt để cả lông, bốc bùn trét kín, vùi giữa
đống trấu cháy ngút, chờ chín khều ra đập vỡ lớp đất, lộ thịt nướng vàng ươm
thơm phức, chấm muối ăn no luôn. Này là khu vườn mênh mông bao quanh nhà, buổi
trưa trốn mợ ra tìm cái ăn. Bé Trinh cứ giả bộ nằm im, chờ Mợ ngủ say thì lén
ngồi dậy, đắp cái mền trên cái gối ôm đặt dọc như bên trong có người nằm, rồi bốc
một nắm muối trắng nhót ra vườn. Này cà chua, me, ổi non. Này ớt chưa rụng rốn
(không cay mô mà sợ). Này quýt non lúc lỉu bằng đầu ngón tay, vỏ cay xè… Thứ chi cũng chấm muối nhai rau ráu, bụng no kềnh. Mợ ra
tìm, bắt được, không đánh, chỉ la trời: bộ Mợ bỏ đói con hay sao mà con ăn tạp
rứa Trinh ơi là Trinh!
Thương nhất là cái nền nhà xưa.
Nay trơ trụi khung đất cao vồ vộ. Trinh có thể nhớ vanh vách, chỉ rành rọt.
Đây, xưa là khu xay lúa giã gạo, xếp một dãy các loại cối giã gạo đạp chân, cối
giã chày đâm tay, chày vồ. Các anh các chị trong đồn điền vừa xay giã vừa hát
hò đối đáp. Rồi con nuôi của Mợ là chị Thảo bưng ra một nồi chè nếp thơm lựng
mùi gừng, ai nấy sụp soạp húp cho ấm bụng trước khi về nhà. Đây, chỗ để mấy chị
em trong nhà ngồi chằm nón, thêu thùa, tập tành lao động. Phía trên, cái gác
xép chứa đồ cũ là nơi anh Nhãn từng bị “cấm túc”. Anh ấy thích xem phim quá, rủ bạn trốn giờ tự học trèo tường
khu nội trú trường Khải Định ở Huế kéo nhau vào rạp. Trường mời phụ huynh tới “hài” tội! Cậu xử anh Nhãn: 4 “chủ nhật “cấm túc”,
ở Huế về Đồng Hới là ôm chồng sách vở trèo lên gác xép. Đồ ăn thức uống dòng
dây kéo gióng đưa lên. Rồi giao anh Nhãn “chỉ tiêu” từ nay xếp hạng trong lớp phải nằm trong “tốp
3”. Thuốc đắng dã tật là thế. Còn đây là khu học tập của
cả bầy con, tối nào Cậu cũng giở bài làm của từng đứa ra kiểm tra, rồi giảng chỗ
làm sai, rồi ra bài làm hôm sau. Ba chị gái của Trinh, này Nhơn, này Ngãi, này
Lễ, xinh đẹp mảnh mai như ba nàng tiên, lại học rất chăm, rất giỏi. Cả bốn gái
cưng, Nhơn Ngãi Lễ Trinh, lớn lên đều làm cô giáo như mẹ hiền.
Bước ra sân, Trinh tần ngần
ngoái đầu nhìn sang mé trái. Đúng, chỗ này đây, thuở yên hàn, anh Quyến dự định
cất dãy nhà dài 10 phòng. Ở giữa là phòng Cậu Mợ. Hai bên, 5 phòng
dành cho con trai, 4 phòng bầy con gái. Anh Quyến ao ước mai sau dù
anh chị em mình ai ai sinh sống nơi đâu cũng hẹn ngày Giỗ Tết đem con cháu quay
về đoàn tụ đại gia đình.
Ước vọng tan tành thành ảo
vọng.
Cái “mai
sau” của anh Quyến chính là hôm nay đây. Mà chỉ còn Luyến
và Trinh, thay mặt anh chị em, về thăm lại khu vườn thân thương, trầm ngâm tư lự
đứng trên nền đất u hoài xưa là lâu đài Văn Lương. Thưa với vong linh thân phụ
Lê Khắc Tuệ và thân mẫu Tôn Nữ Thị Du rằng tất thảy anh chị em chúng con đã
tuân theo ý nguyện bậc sinh thành, trọn đời làm lương y, lương sư, lương dân, nối
tiếp song thân làm rạng danh Văn Lương ấp.
Chương 15: Ngọc giũa mài càng
sáng
Bà Tứ Nguyễn Khoa Thị Liên có
14 cháu nội gái, thì đồng loạt cả 14 người có họ và chữ lót y hệt như nhau, đều
là “Lê Khắc Ngọc…”. Chỉ
khác nhau ở một chữ tên! Trưởng phái Văn Trí thường gọi vui 14 bà em con chú ruột
của mình là “14 hạt ngọc long lanh Nhà Bà Tứ”. Chứ còn gì nữa: Bà Tứ vốn trân quý con cháu hơn mọi báu vật
trên đời!
Con trai cả của Bà Tứ, chú Lê Khắc
Thái, có 3 con gái là Lê Khắc Ngọc Anh, Ngọc Bích, Ngọc Minh. Nhà chú thứ hai,
Lê Khắc Tưởng, cũng có 3: Lê Khắc Ngọc Giao, Ngọc Khuê, Ngọc Mai. Chú thứ ba,
Lê Khắc Nguyện có 4 con gái: Lê Khắc Ngọc Diện, Ngọc Bội, Ngọc Châu, Ngọc
Trang. Và nhà chú “út trai” Lê
Khắc Ủy cũng có 4: Lê Khắc Ngọc Quỳnh, Ngọc Cầu, Ngọc Túy, Ngọc Diệp.
Năm 1893, vị đường quan Nguyễn
Khoa Huệ và bà chánh thất Lê Thị Huyền thuận kết thân gia với Gia
nghị đại phu Lê Cát và Mạng phụ phu nhân Trần Thị Khẩn, gả tiểu thư khuê các
Nguyễn Khoa Thị Liên cho quan Thị lang Bộ Hình Lê Từ cưới về làm chánh thất!
Môn đăng hộ đối vọng tộc danh gia! Sau hôn lễ trọng thể, hợp cẩn
thành thân rồi mới biết té ra tân lang Lê Từ 38 tuổi từng có bốn bà
vợ cưới hỏi hẳn hoi, hiện tại chung sống với hai bà, Bà Hai Hoàng Thị
Huệ 30 tuổi và Bà Ba Trần Thị Dung 21 tuổi, đều là kế thất. Và tân nương Nguyễn
Khoa Thị Liên 19 tuổi cũng chính danh là kế thất, kêu bằng Bà Tứ!
Ván đã đóng thuyền! Sau những
câu giãi bày nỉ non của tân lang cộng thêm bao lời khuyên nhủ ân cần của quan
viên hai họ, tân nương dần dà đổi giận làm vui. Nhưng “Bà
sau” khăng khăng ra điều kiện không ở chung khu nhà với
Ông và hai “Bà trước”. Mà cương
quyết cất nhà ở riêng. Riêng, nghĩa là nhà Ông nhà Bà phải cách xa nhau. Khi
Ông Tuần về hưu, Bà Tứ xây cơ ngơi ở gần chợ Văn Xá và sông Văn Xá, cách trung
tâm bề thế của Ông tới… vài phút đi bộ lững thững.
Nghĩa là ngó bộ xa xa vậy thôi! Không biết Ông Tuần có chủ tâm gia tăng tần suất
mật độ tới lui gần gụi để đáp đền chi đó hay không, chỉ biết rằng trong 24 năm
từ 1895 tới 1918, Bà Tứ đã sinh ra cho Ông Tuần tới 10 người con, tròn trặn 5
gái và 5 trai.
Bà Tứ Nguyễn Khoa Thị Liên vốn
dòng gia giáo, được học hành thông thạo cả quốc ngữ và chữ Nho, thích đọc sách,
thuộc lòng nhiều kinh sử. Tính Bà nhân hậu, nhưng ưng lý lẽ rạch ròi, phải trái
phân minh. Bà thương con mà dạy rất nghiêm, bắt vào khuôn phép, khi con cái có
lỗi lầm thì giảng giải cặn kẽ, có khi dẫn cả Bộ Luật Hồng Đức nhà Lê ra mà luận
điều phải trái. Đại gia đình Nguyễn Khoa theo đạo Phật, bà Thị Liên có pháp
danh là Đồng Phương. Giáo dục đạo đức của nhà Phật, Bà răn dạy con cháu “Hiếu tâm - hiếu hạnh là cội nguồn của đạo làm người”:
“Cây có gốc mới trổ cành xanh lá
Nước
có nguồn mới bể cả sông sâu
Người
ta nguồn gốc từ đâu?
Có
tổ tiên trước rồi sau có mình!”
Bà chú tâm khuyến khích cháu chắt
học giỏi. Hàng tháng, các cháu nội ngoại được cha mẹ đưa tới trình Bà giấy khen
hoặc bằng cấp và đều sung sướng được Bà trao phần thưởng xứng đáng. Nhờ thế,
con cái của Bà Tứ đều được rèn giũa nên người hiếu hạnh. Nhất là 5 ông con trai
thì đều học hành thành đạt.
Chú Lê Khắc Thái (1895-1981) là người
con trưởng đặc biệt hiếu thảo. Ngay sau khi đậu bằng Thành Chung (Diplôme -
trung học đệ nhất cấp), chú Thái đi làm ở Quảng Trị để phụ giúp mẹ nuôi các em.
Trong nhà thường nuôi 3,4 em hoặc cháu ruột ăn học. Cả hai bà vợ, thím Công Tôn
Nữ Đinh Khoa và thím Công Tôn Nữ Xích Văn, đều mất sớm, khi chú Thái mới ngoài
40 tuổi, nhưng chú không tục huyền mà ở vậy chăm sóc mẹ và nuôi dạy 4 người
con. Khi đã nghỉ hưu, năm 1957, chú Thái còn thi lấy bằng ngành dược do bác sĩ
Lê Khắc Quyến, giám đốc Y tế Trung phần cấp cho, mở hiệu thuốc Tây ở Tây Lộc
trong Thành nội Huế, thêm chút thu nhập phụng dưỡng mẹ già và phụ giúp con cái.
Chú Thái là người chí thành chí tâm theo Phật giáo, từng làm ở tỉnh hội Phật
giáo Quảng Trị và Khuôn trưởng Phật giáo khuôn An Lạc Tây Lộc Huế. Hai người
anh trai của chú Thái, con Bà Hai là Lê Khắc Thứ (1891-1946) và con Bà Ba là Lê
Khắc Tuệ (1893-1938) đều đi làm ở tỉnh xa và mất sớm, nên chú Thái một vai gánh
vác việc Họ. Chú hàng chục năm làm Trưởng Phái Lê Khắc. Ngay cả khi già yếu, rời
làng quê vào Sài Gòn ở với con trưởng Lê Khắc Huề, rồi ra Đà Nẵng ở nhà con gái
Lê Khắc Ngọc Bích, thì chú Thái vẫn là bậc trưởng thượng cẩn trọng cất giữ bảo
quản các tư liệu gia phả dòng họ để bàn giao cho con cháu sau này.
Chú Lê Khắc Tưởng (1903-1984) là người
con trai hiển đạt nhất của Trung phụng Đại phu Lê Từ. 16 tuổi đã dự kỳ thi Nho
học cuối cùng ở Việt Nam vào thời Khải Định. Cùng lúc thụ hưởng cả hai nền văn
hóa giáo dục của Á Đông và Âu Tây. Thuộc làu lịch sử và thông thạo ngôn ngữ cả
hai quốc gia Trung Hoa và Pháp. Tri thức uyên thâm, tư tưởng phóng khoáng, chỉ
làm theo suy nghĩ độc lập của mình sau khi chiêm ngẫm, mà không tin tưởng và
tuân thủ tuyệt đối bất cứ một điều luật ràng buộc khắt khe của tôn giáo hoặc hệ
tư tưởng nào. Chú Tưởng có lối sống thường nhật điều độ tới cực đoan. Đặt lệ ba
ngày tắm một lần, dù người đang ốm hay trời rét tới mấy cũng không thay đổi. Đặt
lệ tập thể dục “hít đất” hàng
ngày, tập thật đều không bỏ buổi nào nhưng sợ nền nhà dơ nên leo lên phản tập… “hít gỗ”. Lại còn “thanh
minh” với con cái: “Cậu tự biết
mình sức yếu mà tính lười nhác nên đã dụng công suy nghĩ tìm ra một lối sống
thích hợp, để đủ sức khỏe làm thật tốt mọi công việc - mà cậu vẫn giữ cho mình
cái quyền…lười nhác (!)” Phải
chăng “lối sống đặc thù” đó là
bí quyết giúp chú tiến nhanh trên hoạn lộ? Mới 27 tuổi, chú Lê Khắc Tưởng đã
làm tri huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An. Thời Pháp thuộc, phụng sự Nam triều, chú Tưởng
lên tới chức Tham tri Bộ Học (tùng nhị phẩm, ngang với phẩm hàm của thân phụ,
Trung phụng đại phu Lê Từ). Thời Việt Nam cộng hòa, chú Tưởng lại làm
Giám đốc tài chính Trung phần. Ra làm quan từ trẻ, sau đó lần lượt
nhận những chức vụ tương đối lớn, cộng thêm với vai vế cao về thứ bậc trong gia
đình (Phòng Bà Tứ) cũng như bên phía nhạc gia dòng lớn Hoàng tộc, nên trong những
buổi cúng kỵ, họp mặt gia đình bà con quen biết, chú Tưởng thường được mời ngồi
ở giữa, và mọi người có thói quen vây quanh “bẩm cụ, bẩm
cụ” hỏi han đủ chuyện! Nhờ thông minh, đọc sách nhiều,
hiểu biết rộng, chú Tưởng cứ thế mà thao thao bất tuyệt chuyện kim cổ đông tây,
kể cả khi ở bên nhạc gia cũng không chút e dè mà còn có đôi phần “kẻ cả”- như một vài bà con nhận xét!
Ấy thế nhưng chú Tưởng lại là người rất tốt bụng, thường hay giúp đỡ bà con gặp
khó khăn, nên được quý mến thực lòng. Và phẩm chất đáng quý nhất ở chú Tưởng là
khí khái chí công vô tư. Khi làm giám đốc Tài chính Trung phần dưới thời Quốc
trưởng Bảo Đại, chú đã giúp cho nhiều người thực tài du học bằng tiền công,
nhưng tới lượt 2 con mình thì dứt khoát tự túc bằng tiền nhà. Mặc dù lương cao,
nhưng không hà lạm công quỹ, không tư túi nên khi nghỉ hưu gia sản chẳng có gì
nhiều, chỉ đủ nuôi 6 người con 3 gái 3 trai ăn học nên người. Riêng ý tưởng “thực thi cách sống hợp lý khôn ngoan, giữ gìn sức khỏe để
làm việc…” thì quả là chú thành công. Bẩm sinh sức yếu,
vậy mà qua bao gian truân biến cố do chính trường xáo động và chiến tranh, chú
Lê Khắc Tưởng vẫn hoàn thành nghĩa vụ đối với xã hội, làm tròn bổn phận với con
cái, còn bản thân mình thì đã nhẹ nhàng rút lui khỏi chốn “quan
trường” (dưới thời Ngô Đình Diệm) về an hưởng tuổi già.
Cho tới lúc qua đời ở tuổi 82 vì già yếu, chú Tưởng không phải nằm bệnh viện lấy
một ngày!
Em trai kề của chú Tưởng, chú
Lê Khắc Nguyện (1904-1992), là nhà sư phạm tiêu biểu nhất của Thế thứ 10 Lê Khắc.
Sinh năm 1904, tốt nghiệp Cao đẳng sư phạm Đông Dương, chú Nguyện được bổ làm
giáo sư trường Collège Vinh (Quốc học Vinh). 50 năm bền bỉ theo nghề dạy học
qua bao thể chế. Ở Nghệ An thời thuộc Pháp. Ở Hội An thời Việt Nam độc
lập 1945-1946. Ở vùng tự do Liên khu 5 thời kháng Pháp 1947-1954. Ở Huế, Nha
Trang trào Ngô Đình Diệm. Ở Sài Gòn trào Nguyễn Văn Thiệu…
Chú Nguyện tới năm 75 tuổi mới thôi công việc dạy học. Có tới 6 người con của
chú theo nghề cao quý ấy. Hầu hết làm việc ở phía Nam. Chỉ có con trai thứ
hai là Lê Khắc Bảo tập kết ra Bắc năm 1955, dạy toán lừng danh ở đại học sư phạm
Hà Nội, sau năm 1975 chuyển vào Sài Gòn biên soạn sách giáo khoa, làm phó tổng
biên tập Nhà xuất bản Giáo dục.
Chú thứ tư, Lê Khắc Nhã
(1907-1979), không rõ vì sao không lập gia đình. Chú làm công chức, rất sốt sắng
tham gia việc Họ. Năm 1964, chính chú Nhã đứng ra chỉ đạo thi công đúc đồng loạt
300 tấm bia mộ “Phái Lê Khắc”.
Năm 1945, Văn Trí cùng với anh Tình và chị Mộc đã trọ học nửa năm tại nhà chú
Nhã trong thành nội Huế. Nhà rất rộng, mà chú đi làm suốt ngày, tối khuya mới về,
ăn uống ở đâu không rõ, nên ba anh chị em Văn Trí tha hồ tự tung tự tác.
“Chú út” Lê Khắc Ủy (1911-1982), từ những năm tiểu học, đã được chú
Thái nuôi ăn học ở Quảng Trị. “Trò Ủy”
chuyên cần, luôn được biểu dương gương mẫu. Thi đậu thủ khoa kỳ thi Primaire
theo chương trình Pháp, được ông chánh chủ khảo xuống chỗ đám đông học sinh, bồng
xốc lên cho các bạn noi gương. Chú Ủy là người con hiếu thảo hiếm có. Năm 1953,
đang công tác ở Nha Trang công việc thuận lợi, gia đình đầm ấm hưởng thụ khí hậu
biển tốt lành, con cái đều học hành tấn tới, thì chú Ủy cương quyết xin chuyển
về Huế để sống cận kề thăm nom cho mẹ già sống vui tuổi 80. Một số thuộc cấp của
chú Ủy ở Nha ngoại viện Huế, sau 60 năm còn nhớ như in những ấn tượng đẹp về “sếp” Lê Khắc Ủy: “ tánh tình điềm đạm, bình dân, ít nói, chỉ nói những điều thật
cần thiết, giải quyết việc công dễ dàng, mau lẹ, làm gì tốt được cho nhân
viên tòng sự là làm ngay, coi cấp dưới như em, như cháu, không cao đạo,
hách dịch và làm tổn thương ai hết. Vốn người cao ráo, ông có bước đi dài,
chỉ nhìn đường đi, không dòm ngó nhân viên đề bắt bẻ. Về trang phục thì cả Nha
đều tấm tắc khen bà Ủy chăm sóc chỉn chu cái mặc cho chồng: Ông luôn luôn mặc
complet rất sang và lịch sự, sơ-mi ủi thẳng ro, cravate hẳn hoi và màu sắc phù
hợp với áo!...”. Thanh liêm mẫu mực, chú Ủy tòng
nhiệm nơi nào cũng được cộng sự và thuộc cấp tin yêu, mến phục. Không ít người
được chú Ủy giúp đỡ tận tình, hoàn thành sự vụ, bèn sắm sanh chút đỉnh tạ ơn,
thì bị chú “la” cho. Chú rất
trân trọng lời tri ân chân chất của đương sự, nhưng quà cáp thì không nhận mảy
may, dù chỉ vài ký trái cây. Chức vụ của chú Ủy không phải thấp, nhưng đồng
lương khiêm tốn; vợ chồng con gái Ngọc Cầu - Tôn Thất Kiên công tác tại Quy
Nhơn, thường xuyên thăm viếng lo lắng và giúp đỡ, vì các em của Ngọc Cầu còn tuổi
đi học. Cho tới ngày về hưu, chú Ủy vẫn không tạo lập được cho riêng mình một
ngôi nhà!
Với gia đình ông chú Lê
Khắc Ủy thì Văn Trí may mắn có nhiều cơ hội đồng cảm gắn bó. Mặc dù Trí sinh
sau đẻ muộn, và mãi sau ba chục năm tha phương lênh đênh, tới tháng 7-1975 mới
hạnh ngộ diện kiến ông chú tại Sài Gòn.
Dịp ấy, Trí vào thăm anh
chị Trần Văn Kinh, Lê Khắc Bích Hà, nhà số 284/28 Trương Minh Giảng, quận Ba. Ở
liền kề giáp vách chung tường, số 284/26, chính là tư gia chú Lê Khắc Ủy - ngôi
nhà hai tầng trong hẻm do các con của chú thím tạo dựng.
Văn Trí hớn hở đi cùng anh Kinh
chị Hà, mở cánh cửa ngách giữa hai nhà 26 và 28, sang chào chú thím, sung sướng
pha chút tò mò ngắm nhìn ông chú hiền hậu nho nhã đúng như cái tên Lê Khắc Ủy,
sánh cùng bà thím dịu dàng, đằm thắm Tôn Nữ Cẩm Dung. Ngày xa Huế 1946, Trí mới
lên 9, nên vào thời khắc đoàn tụ đại tộc này, cố mường tượng mối tình thơ mộng
của đôi trai thanh gái lịch đất thần kinh hơn bốn mươi năm trước, có phải y
như câu thơ lãng mạn ngày xưa: Cô Tôn Nữ Huế cười trong nón/ Chàng trai Lê
Khắc mộng đuốc hoa …
Và rồi may mắn không ngờ, Trí
đã được đọc thiên hồi ký “Nàng Tôn nữ tuyệt vời” của tác giả Lê Khắc Ủy. Những dòng tươi rói như làm sống
lại cái thuở ban đầu lưu luyến ấy.
“… Chúng tôi, những
chàng trai vừa tốt nghiệp ở Hà Nội vào nhậm chức ở tòa Khâm Sứ, cứ thắc mắc hỏi
nhau sao mà hiếm thấy bóng giai nhân Huế trên đường phố. Không lẽ con gái Huế
suốt ngày ru rú trong khuê phòng, cung cấm?
Cho tới ngày ấy, tôi dạo thăm Chợ
phiên tọa lạc bên hữu ngạn Hương giang: “Huế, phiên chợ
mừng xuân”. Những dãy hàng phô bày tinh hoa Huế lôi kéo
khách tham quan. Này là gian hàng bánh mứt đủ màu đủ kiểu. Này là gian hàng
sách bày biện khéo léo. Lại nữa, khu chợ hoa, hoa thật, hoa vải đua chen sắc
màu rực rỡ. Song, cuốn hút nhất đối với những chàng công chức trai trẻ chúng
tôi là các thiếu nữ xinh tươi e lệ bên các quầy hàng.
Lần bước theo tiếng nhạc, đến
gian hàng nằm giữa khuôn viên: “Vườn hoa Tôn Nữ”. Ôi chao là khâm phục những tác phẩm thủ công. Đủ loài hoa
được tỉa bằng trái đu đủ. Hoa hồng phơn phớt vàng cam, vàng tươi, tím ngát, như
tỏa hương vị ngây ngất. Chùm hoa bưởi trắng tinh khiết nổi bật đài
hoa màu lục nâng niu nhụy hoa vàng nhạt nom như thật. Đóa thược dược màu cánh
sen mảnh mai sinh động như hoa thật. Rồi thủy tiên, ngọc lan…,
hoa nào cũng đẹp. Mà tất cả đều là mứt!
Kế đó là là các loại bánh lạ mắt:
bánh kê vàng mỏng, bánh rơm thơm mùi khoai được thái nhỏ cuốn thành những vòng
tròn dễ thương với những hạt đường tí xíu lấm tấm.
Lại một mâm quả sắp theo hình lưỡng
long chầu nguyệt và phụng loan hòa hợp. Những con rồng uốn khúc, con phượng xòe
cánh khéo léo kết bằng các thứ trái cây bốn mùa xứ Huế.
Bước lên nữa là tới gian hàng đan
thêu: áo gối, khăn bàn…Đặc biệt nhất là một bức tranh lớn,
thêu tỉ mỉ hoạt cảnh đám cưới cổ truyền…
- Thưa, tất cả làm bằng tay…
Giọng thiếu nữ nhẹ như gió thoảng. Tôi vội
đáp:
- Dạ, cám ơn.
Chỉ nhìn nhau một thoáng…Một thoáng bối rối. Bắt gặp ánh mắt của tôi, nàng e ấp nhìn
sang phía khác. Tôi bồi hồi…Từ giây phút ấy, tôi không
quan tâm ngắm nghía đặc sản trưng bày nữa, mà loay hoay rối rít tìm cách dò bằng
được tên tuổi cùng nơi ở của nàng.
Thật may, dòng Nguyễn Khoa bên
mẹ tôi có người làm dâu bên phủ Tuy Lý Vương. Tôi tìm cách thuyết phục mẹ tôi
nhờ người mai mối. Lo lắng trằn trọc nhiều đêm. Không biết cậu “phán quèn” tòa Khâm là tôi có địch nổi
bao ông “tham”, ông “huyện” đang vây vo ngấp nghé bên nhà
nàng? Nàng có để ý tôi không, chàng trai có đôi mắt dại khờ, đắm đuối giữa chợ
phiên? Tôi đâu có gì xuất sắc để lọt vào mắt xanh, để có diễm phúc làm chủ đóa
hoa sắc hương trọn vẹn?
… Căn nhà bên
xóm Ngự Viên đã trở thành tổ ấm của chúng tôi. Nàng có tất cả những điều tôi ao
ước: đức tính hiền từ đôn hậu đảm đang, cái nhìn âu yếm hút hồn, bữa cơm ấm
cúng, chiếc áo gối thêu hoa xinh xắn. Rồi đứa con gái đầu lòng, Ngọc Quỳnh,
chào đời năm 1937. Rồi cứ hai năm chúng tôi lại đón thêm một gương mặt dễ
thương bụ bẫm: Ngọc Cầu, Quyền, Ngọc Túy, Huy, Bình, Ngọc Diệp.
…
Thời kỳ 1945-1946 biến động… Những ngày tản cư thiếu thốn
gian nan, lúc Niêm Phò, khi Mỹ Xá. Tôi đi công tác theo cơ quan kháng chiến,
nàng phải lo toan tất cả. Có lúc hiểm nguy mạng sống ngàn cân treo sợi tóc…”
Giây phút hiểm nghèo ấy, sau
này được Lê Khắc Ngọc Cầu ghi lại:
“… Giữa năm 1946, một hôm
Ba tôi đi làm về, báo cho biết là Ba phải theo cơ quan đi làm việc ở Quảng Trị, không về nhà thường xuyên được. Đến cuối năm ấy gia đình tôi phải tản cư về Mỹ
Xá là làng của một người Dì bà con. Me tôi có đem theo một người giúp việc là
O Cháu , người cao lớn khỏe mạnh để giữ em tôi. Một hôm, mấy người ngoài Đình
làng chạy vào la lớn: ”Tây tới! Tây tới!” Phải chạy trốn qua làng bên. Mẹ tôi hoảng hồn, chỉ kịp gọi
đủ chúng tôi và bỏ áo quần vào mấy xách tay nhỏ cho O Cháu, bảo O dẫn em Túy, rồi
Mẹ tôi một tay bồng em Huy (mới gần đầy năm), tay kia cầm xách áo quần.
Chúng tôi nhanh chân chạy theo! Đến một khúc sông, thấy xa xa người bơi bì bõm.
Mẹ tôi liền bước xuống, và …tõm. Không còn thấy Mẹ và
em tôi đâu cả! Chỉ thấy cái mũ của em trôi bồng bềnh! Chị Quỳnh với tôi chỉ biết
khóc la, kêu cứu. Nhưng mọi người đang táo tác chạy giặc…
Vài phút trôi qua, chúng tôi hồn vía lên mây thì thấy Ba tôi mặc bộ áo dài
lương đen phăm phăm chạy tới. Chúng tôi la khóc, chỉ tay xuống sông, kêu líu lưỡi:
“ Me!!”. Lập tức, Ba tôi nhảy
ngay xuống sông và bơi ra giữa dòng, bồng được em tôi ném ngay lên bờ cỏ cho
chúng tôi, rồi bồng tiếp Mẹ tôi lên! Trời ơi! Chúng tôi hú hồn, nước mắt chảy
xuống miệng cười. Ba tôi bồng ngược Me và em tôi để xốc nước ra…
Xách tay đựng quần áo đã trôi theo
dòng nước … nên đành lấy áo đầm của em gái mặc cho em
trai tôi! Lúc bấy giờ cả nhà mới hoàn hồn hỏi tại sao Ba tôi có mặt ngay thời
điểm đó. Ba tôi cho biết là Nhà nước cho về mấy ngày đưa vợ con đi tản cư. Đúng
lúc Me tôi gặp nạn thì Ba tôi kịp chạy đến! Tôi nghĩ: Trời Phật, Tổ Tiên đã chỉ
đường cho Ba tôi mới có sự trùng hợp ngẫu nhiên như thế!...”
... Niên khóa 1950-1951,
Trung học Đồng Khánh, trường Nữ lớn nhất miền Trung, chỉ mở ba lớp Đệ Thất (lớp
6), học sinh ở Huế cùng các tỉnh miền Trung dự thi rất đông nên tuyển chọn khó
lắm. Thế mà cả Ngọc Quỳnh (1937) và Ngọc Cầu (1939) cùng trúng tuyển! Chú thím Ủy
rất vui, đặt may hai bộ áo dài lụa trắng, cho “hai
ả tố nga đầu lòng” vào năm học mới.
Năm
1957, hai chị em cùng đậu Tú Tài II.
Thời điểm ấy tại Huế mới mở vài
phân khoa Đại học. Những năm học đệ nhị cấp tại Quốc Học Huế, Ngọc Cầu theo ban
Khoa học, sở thích là Toán-Lý Hóa, mơ ước theo ngành đại học Dược. Nhưng khó
thay Huế không mở phân khoa này. Nên Ngọc Cầu ghi danh phân khoa Luật, ngành học
có sự hấp dẫn đặc biệt bởi các giáo sư Luật nức tiếng dạy giỏi. Thêm vào đó, vị
hôn phu của Ngọc Cầu là thầy cử nhân Luật Tôn Thất Kiên!
Lễ thành hôn của Lê Khắc Ngọc Cầu
- Tôn Thất Kiên được tổ chức đầu năm 1958 và cuối năm đó trưởng nam Tôn Thất Thịnh
chào đời! Làm vợ rồi làm mẹ, ắt không thể tiếp tục làm sinh viên Luật! Ngọc Cầu
xin vào dạy ở trường Đồng Khánh, rồi đầu niên khóa 1959-60 chuyển vào dạy trường
Cường Để và trường Nữ học Quy Nhơn, bởi phải “tòng phu”. Quy Nhơn là nơi luật sư Tôn Thất Kiên hành nghề, đã giỏi
làm “thầy cãi”, lại thương người,
sẵn lòng cãi miễn phí cho dân nghèo, lại còn nhận lời mời làm hiệu trưởng trường
Bồ Đề kiêm giáo sư phụ trách môn Công dân Trung học Bồ Đề..
Năm 1965, Luật sư Kiên được điều
vào Sài Gòn làm ở sở Pháp chế thuộc Bộ Giáo dục. Cô giáo Ngọc Cầu lại lẽo đẽo
theo chồng, vào dạy trường Võ Trường Toản từ 1965. Đến 1976, chuyển qua dạy ở
trường Trần Văn Ơn và nghỉ hưu năm 1995. Như thế, ngoài 8 năm dạy ở miền Trung,
Ngọc Cầu liên tục giảng dạy 30 năm ở Sài Gòn. Vừa làm tròn bổn phận nhà giáo vừa
nuôi dạy đàn con 2 trai 4 gái.
Trong 6 người con ấy, trưởng
nam Tôn Thất Thịnh phải gánh vác nghĩa vụ xã hội sớm nhất. Tốt nghiệp Phổ thông
Trung học năm 1976 nhưng Thịnh rớt Đại học vì có cha “đi
học tập”. Năm 1978, Thịnh thi hành nghĩa vụ quân sự, huấn
luyện tại Quang Trung 3 tháng, rồi sang chiến đấu ở Căm-pu-chia. Biền biệt hơn
nửa năm, gia đình vừa nhận được thư Thịnh báo đang đóng quân tại Mimốt thì đùng
một cái, đồng đội tới tận nhà báo tin Thịnh đã mất tích tại chiến trường!
Ngọc Cầu kể lại:
“… Anh Kiên nhờ bạn
bè đưa lên biên giới Tây Ninh tìm con. Đáy bể mò kim. Mà mò được! Tình cờ may mắn,
gặp Đồn trưởng công an ở đối diện nhà anh Kiên tạm trú chỉ một đêm, cho biết
đàn em của ông cứu được Thịnh đang bất tỉnh tại miền núi Campuchia và đã trả về
Sư đoàn, hiện nằm tại bệnh xá biên giới Lộc Ninh. Đang có giao tranh ác liệt,
không được qua thăm thương bệnh binh. Anh Kiên đành ra về.
Đầu tháng 01-1979, nhận
được thư Thịnh vỏn vẹn mấy dòng: “Con hiện ở bệnh xá
biên giới Lộc Ninh, Ba Me tìm cách lên thăm”. Hồi ấy,
muốn mua vé đi xa, phải ra bến xe sắp hàng từ 2,3 giờ khuya! Vợ chồng tôi lại
còn 5 con nhỏ nên phải chọn phương tiện đi Lộc Ninh bằng xe Honda. Tôi ngồi sau
xe chỉ biết niệm Phật và thỉnh thoảng nhắc chồng đi chậm. Đến Lộc Ninh, người
dân cho biết Bệnh xá xây dựng trên đồi…Vào đến cửa Bệnh
xá, thấy nhiều thương bệnh binh mặt mày xanh xao, đi đứng không vững! Một đồng
đội của Thịnh đưa vợ chồng tôi vào lều vải, vừa nhìn ra dáng con, tôi đứng sững
không thể ngờ Thịnh gầy yếu đến thế. Lúc lên xe đi nghĩa vụ, con tôi khỏe mạnh
cân gần 60 kg; lúc này khoảng chưa được 40 kg, mặt mày hốc hác thảm thương! Thịnh
bị sốt rét, phù thủng, nhưng chỉ được cấp mỗi ngày 3 viên APC! Tôi soạn thức ăn
mang theo. Thịnh nét mặt rạng rỡ, ôm mọi thứ trên tay, nhưng lúc nếm vài miếng,
kể cả gà rôti, món ăn con tôi thích nhất, cũng đều ném xuống với vẻ thất vọng
vì thấy món nào cũng đắng chát! Hỏi ra mới biết đã hơn 3 tháng nay, bạn bè đem
cho thứ gì thì ăn thứ ấy trong lúc đang đau nên chẳng thấy mùi vị gì! Con tôi gọi
đồng đội vào mời ăn hết! Tôi chỉ để lại vài đòn bánh tét, ít lạp xưởng, vài ổ
bánh mì… hy vọng mai mốt Thịnh khỏe, có thể ăn được. Rồi
moi gói tiền trao cho con. Dịp ấy nhà trường có phân phối cho giáo viên một quần
satin đen, tôi bán được 55 đồng, để ở nhà 5 đồng, và đem 50 đồng cho con. Cầm xấp
tiền trên tay, Thịnh sướng run lên vì thấy quá nhiều! Chưa bao giờ con tôi có
được số tiền lớn như thế!
Thời gian sau có đợt giải
ngũ, chúng tôi xin cho con được hưởng quy chế ấy…”
… Sự ngẫu
nhiên may mắn trời cho ở thời chiến 1946 đã không lặp lại với gia đình chú Lê
Khắc Ủy sau biến cố 1975.
Trong
thời khắc hội ngộ tháng 7-1975, Văn Trí nào có biết chú thím mình đang cháy ruột
cháy gan lo cho 5 người con. Chú Ủy có 3 con trai là giáo sư Trung học Lê Khắc
Quyền, giáo sư Đại học Lê Khắc Huy, bác sĩ Lê Khắc Bình, và 2 chàng rể là giám
đốc Bưu điện Sài Gòn Đỗ Kỳ Quang, luật sư thanh tra Tiếp vận Tôn Thất Kiên, thì
cả 5 người đều bị tập trung cải tạo từ đầu tháng 5-1975! Ba con trai ở ba trại
khác nhau, còn hai con rể thì chung một trại. Chú thím ngày ngày đi ra đi vào đợi
chờ...và an ủi nhau… Một thời gian sau, được gửi quà
cho người học tập. Cả 5 người con đều gởi thư về! Con út, bác sĩ Lê Khắc Bình,
3 tháng sau được về hẳn ở nhà. Chú thím sung sướng và hy vọng. Qua chuyến thư
thứ hai thì lạ quá, trưởng nam Lê Khắc Quyền không hồi âm, mặc dầu trại học tập
Trảng Lớn không xa mấy. Lo lắng, lòng như lửa đốt. Nhờ người quen quản trại dò
tin. Vẫn bặt tăm! Cho tới 8 tháng sau, mới được thư người bà con cùng học một
trại báo cho biết Quyền đã mất vì bệnh sốt rét ác tính, ngày giỗ đầu của Quyền
là 21-11-1976! Trời ơi! Đau thương không kể xiết. Nhìn vợ Quyền và đứa con tuổi
thôi nôi, xót xa quá chừng… Thím Ủy và các
con được khóc nên phần nào vơi bớt khổ đau. Riêng chú Ủy nuốt nước mắt vào
trong, ngày ngày đứng trước di ảnh trưởng nam, thở dài não nuột.
Sau 7 tháng, chàng
rể Tôn Thất Kiên được về đoàn tụ gia đình. Năm 1977, đến lượt chàng rể Đỗ Kỳ
Quang, chồng Lê Khắc Ngọc Quỳnh. Và về sau cùng là thứ nam Lê Khắc Huy. Nhìn vẻ
mặt mọi người vừa mừng rỡ vừa đau đớn, Huy linh cảm…
Phấp phỏng bước lên lầu. Và phát hiện bàn thờ anh cả Lê Khắc Quyền. Lau
nước mắt, an ủi nhau để sống.
Năm 1980, Huy đi định
cư tại Hoa Kỳ. Chú Ủy lúc này do đau buồn đã yếu nhiều. Tới 1982 thì suy sụp.
Con trai út Lê Khắc Bình lại mắc vòng lao lý, mà không ai dám nói cho chú biết.
Lúc nằm ở nhà, khi đi bệnh viện, chú Ủy hỏi “Bình đâu
không vào thăm Ba” thì cứ phải bảo Bình đi công tác.
Thím Ủy túc trực ngày đêm. Mấy chị em Ngọc Quỳnh, Ngọc Cầu, Ngọc Túy, Ngọc Diệp
ngoài giờ đi dạy cũng thay phiên chăm sóc thân phụ. Nghe lời Thầy ở chùa Văn
Thánh Thị Nghè, vợ chồng Ngọc Cầu mời một vị Sư đến nhà đọc kinh và xin phóng
sanh. Chú Ủy nằm ở phòng sau nghe kinh cũng đọc theo. Thím Ủy bèn xin Thầy chùa
Hải Quang cho chú Ủy Pháp danh là Nguyên Chơn. Ngày Chín tháng Tám năm Mậu Tuất
(25/9/1982), chú Lê Khắc Ủy qua đời! Con trai không còn ai ở nhà, nên cháu ngoại,
Tôn Thất Hưng, thứ nam của Ngọc Cầu, phải thay thế các cậu trong tang lễ.
Sau 100 ngày của chú Ủy,
Bình mới được về. Cuối năm 1989, Lê Khắc Huy bảo lãnh cho vợ con sang Hoa Kỳ.
Năm 1990, thím Ủy và các con được bảo lãnh đi tiếp. Chỉ có gia đình Ngọc Cầu ở
lại Sài Gòn vì không cùng hộ khẩu với thiếm Ủy. Cô gái cả Ngọc Quỳnh cùng chồng
con sang Canada định cư.
Lê Khắc Ngọc Quỳnh là cô
giáo được mến mộ từ hồi còn dạy văn ở Trung học Phan Châu Trinh, Đà Nẵng. “Lê Khắc Ngọc Quỳnh hiền như dòng sông Hương/ Cắt mái
tóc mây một sớm đến trường/ Thành người lớn để làm cô giáo/ Có gói tóc về để nhớ
thương?”…“Phan Châu Trinh thuở tơ vương/ Những người
xưa ấy dễ thương tới giờ…”,“Yêu
thương không tuổi tình thắm mãi/ Áo trắng không màu nên chẳng phai…”. Bộ sách Giáo khoa Việt văn bậc Trung học do giáo sư
Ngọc Quỳnh biên soạn năm 1970 là “cẩm nang” đắc dụng của nhiều thế hệ thầy trò. Xuất ngoại, Ngọc Quỳnh
trở thành cây bút quen thuộc của người Việt ở Bắc Mỹ. Các tập truyện ngắn “Nét chân tâm” (220 trang, Canada 1995),
“Nét phong lan” (246 trang,
Canada 2005) và tập thơ “Hương quê mẹ”
(2001) là những trang giãi bày tâm tưởng Y La Lê Khắc Ngọc Quỳnh. Đúng như một
tờ báo của cộng đồng người Việt ở Toronto đã bình phẩm:
“… Là một người sống
xa quê hương, chị Ngọc Quỳnh đề cao những nếp sống đẹp, những nét văn hóa cao
quí của Đông Phương nói chung và Việt Nam nói riêng như những nhắc nhở và kêu gọi
, nhất là kêu gọi nữ giới trẻ, thành đạt trong xã hội vật chất văn minh tột bực,
đừng quên cái gốc và nét đẹp của văn hóa Việt Nam mà tiêu biểu là tấm lòng
thương yêu gia đình vô hạn, quên cái tôi để sống cho niềm vui và hạnh phúc của
gia đình - gia đình không chỉ đóng khung trong nghĩa hạn hẹp vợ chồng con cái
mà bao hàm cả tứ thân phụ mẫu, ông bà, tổ tiên. Đại gia đình tựa như bóng mát của
cây cổ thụ tỏa ra cho con người nương náu giữa sa mạc và bão tố cuộc đời lắm nỗi
gian nan…”
Và đây, những dòng
nghẹn ngào do chính Ngọc Quỳnh ghi về ngày vui sum họp muộn màng, đón mẫu thân
trong mùa xuân quê người:
“… Sau bao năm xa cách nhớ
nhung, Mẹ đã mang không khí Tết đoàn tụ giữa miền tuyết trắng bao la. Như một
bà tiên, Mẹ hiện diện và mùa xuân đã trở về. Cành mai Canada thêm vàng tươi,
làm sáng cả căn nhà. Mẹ bảo em tôi chặt một cành hoa fosythia bắt đầu có nụ
ngoài vườn đem vào nhà, đốt nhẹ dưới cành để nhựa cây vẫn còn đủ nuôi cành và
làm nở hoa vào đúng ngày tết Việt Nam. Càng ngạc nhiên hơn khi Mẹ biến một
cành hoa quincy thành một cành đào với những cánh hồng tươi nở tròn, tràn đầy sức
sống. Bàn thờ cũng bày đủ lễ vật, đèn nến sáng choang. Mẹ đợi cả nhà đi làm về
cùng lễ tổ tiên. Một cái tết ấm cúng như trên quê hương ngày nào. Vui rộn rã, cả
nhà quên tuyết giá và gió lạnh ngoài trời. Quây quần, mà mắt Mẹ rưng rưng. Mọi
thứ ở đây đầy đủ quá…Chạnh nhớ quê xưa…Nhớ
thuở nào các con còn thơ dại, bên lò than hồng đêm trừ tịch, Ba các con đọc
truyện cho cả nhà nghe. Nay Ba không còn, quê hương quá xa, lòng người day dứt
nhớ thương…”
Niềm tôn kính người
mẹ dòng dõi hoàng phái đã được Ngọc Quỳnh biến thành lời thơ “Mẹ
hiền” cho cậu em út nhạc sĩ Lê Khắc Bình phổ nhạc:
… Mẹ
vòng tay ấm áp
Mẹ trăng sáng ngàn đêm
Mẹ bình minh ấm êm…
Mẹ trăng sáng ngàn đêm
Mẹ bình minh ấm êm…
Thuở nào con khôn lớn
Mẹ, bài ca thiết tha
Mẹ, lời thơ không dứt…
Mẹ, bài ca thiết tha
Mẹ, lời thơ không dứt…
Tám mươi mùa mưa nắng
Mẹ vẫn đây mẹ hiền…
Mẹ, vòng tay ấm áp…
Mẹ vẫn đây mẹ hiền…
Mẹ, vòng tay ấm áp…
Vòng tay ấm áp của
người mẹ Tôn Nữ ấy không chỉ âu yếm chở che những đứa con máu huyết của chồng,
mà còn bao dung ôm trọn dòng họ Lê Khắc nhà chồng. Bối cảnh mất mát thương đau,
khổ nạn sinh ly tử biệt không làm phai nhạt nghĩa tình gia tộc
thiêng liêng. Qua bao va đập bi khốc, bào giũa gian truân, bản chất lòng nhân
thêm sáng. Tuy bà thím Cẩm Dung sống xa đất nước, nhưng trong những văn bản hồ
sơ gia tộc mà Văn Trí trân trọng lưu giữ, bao giờ trên những dòng đầu tiên cũng
sáng lên hai chữ “Thím Ủy”. Những
năm đầu thập niên 1990, trong sổ vàng vinh danh bà con gần xa cúng góp xây lăng
mộ, sửa nhà thờ, “Thím Ủy” luôn
dẫn đầu. Sau này, khi Thím qua đời, thì thay vào tên “Thím
Ủy” là các cái tên thân thương: Ngọc Quỳnh, Ngọc Cầu, Ngọc
Túy, Lê Khắc Huy, Lê Khắc Bình, Ngọc Diệp. Và bao giờ số tiền cúng góp cũng thuộc
hàng “tốp”.
Tháng 7-1998, dường như
biết trước vận số, bà thím Cẩm Dung từ nửa bên kia trái đất làm một chuyến trở
về lần cuối thăm đất nước, quê hương, con cháu. Mạnh khỏe và vui tươi. Nước mắt
ngày gặp lại cũng là những giọt vui. Bà già tuổi 83 đĩnh đạc ngồi xe hơi đường
trường xuyên Việt, Nha Trang, Đà Nẵng, Huế, Hà Nội. Thăm quê nội, quê ngoại,
cúng quảy Nhà thờ, Lăng mộ tổ tiên. Ở Sài Gòn, ở Huế đều tổ chức họp mặt đông đủ
bà con nội ngoại, thăm hỏi ân cần từng đứa cháu, không quên gửi chút quà kỷ niệm.
Mấy tháng sau chuyến
hồi hương nghĩa tình trọn vẹn ấy, ngày 10-12-1998, bà Cẩm Dung qua đời ở Hoa Kỳ.
Con cháu quay quắt trong nỗi đau không cùng. Từ Sài Gòn, Ngọc Cầu không nén được
tiếng kêu:
Me ơi! Me ơi! Tai nạn lớn
nhất đời con đã xảy ra.
…Vẫn biết Me đi thật nhẹ
nhàng/ Đau đớn quá con làm sao nén được!
Nhớ câu thơ xưa:
“Dẫu bạc đầu
vẫn là con của Mẹ/ Dẫu là vua, mất Mẹ vẫn mồ côi”.
Bà Tôn Nữ Cẩm Dung khuất
núi, nhưng nguyên vẹn còn đó hình mẫu sống về lòng nhân ái. Đức tính hiếu thảo
như mạch nước ngọt lành từ người mẹ người bà đã lan tỏa thấm sâu vào con cháu.
Lê Khắc Ngọc Cầu ở lại quê hương, không chỉ làm trung tâm liên lạc trong nước với
nước ngoài, mà còn theo gương mẹ dẫn dắt đàn con Tôn Thất của mình làm việc gia
tộc Lê Khắc!
Ngọc Cầu tâm sự:
“… Những năm từ
1975 đến 1985 gia đình tôi thật khó khăn…Hạnh phúc gia
đình chợt đến rồi đi vì những buồn lo từ đâu đưa đến! Các con tôi đều đã khôn lớn,
nhưng không nghĩ đến việc lập gia đình vì tưởng sẽ ra đi xa quê hương. Bây giờ
tôi quyết định ở lại và khuyên các cháu nghĩ đến quy luật trai gái trưởng thành
phải có gia đình riêng để nối dõi… Những lúc rối lòng,
tôi thắp hương cầu xin Trời Phật, Tổ tiên phù hộ cho tôi đủ sức sống
để lo cho chồng con, đưa các con tôi hội nhập với xã hội mới. Và tự nhủ chính
người mẹ phải gương mẫu! Hằng ngày đến lớp, gặp học sinh, tôi hết lòng dạy bảo
và tại đây, lòng tôi thấy thoải mái. Những kỷ niệm tốt đẹp với học sinh là niềm
vui giúp tôi vững lòng. Tôi sung sướng cảm nhận tình cảm thương quí
của các thế hệ học trò. Từ năm 1995, tuy tôi đã nghỉ hưu, nhưng học sinh dù ở
rất xa vẫn thường xuyên thăm hỏi, cô trò cùng ôn lại bao kỷ niệm vui buồn ở 4
mái trường tôi từng gắn bó…”
Luật sư Tôn Thất
Kiên với nghề tay trái là dạy học, lúc tuổi đã cao lại nhận được một phần thưởng
tinh thần vô giá là tình cảm quý mến của cựu môn sinh. Số là, hồi giữa thế kỷ
20, theo học ngành Luật tại Hà Nội, khóa 1949-1954, sinh viên Tôn Thất Kiên có
dạy trường Trung học Nguyễn Bỉnh Khiêm Hải Dương. Sau gần 60 năm, khi Thầy mừng
thọ bát tuần (không hiểu sao học trò nhớ đúng?), các học trò cũ mà đại diện là
cháu ngoại của hai vợ chồng cựu môn sinh là ông bà Thu - Hải đem từ Hà Nội vào
tận nhà Thầy trân trọng trao tặng bức trướng lụa đỏ thêu chữ vàng:
KÍNH
MỪNG THƯỢNG THỌ
Thầy
giáo Tôn Thất Kiên
Tuổi
Thầy đã tám chục
Luyện
Đức rèn Tài nghĩa cao siêu
Trò
cũ kể hàng ngàn
Tạc
dạ ghi lòng công ơn giáo dục!
ĐỒNG
MÔN TRUNG HỌC HẢI DƯƠNG 49-54
Rồi sau đó, đích thân đôi
vợ chồng cựu môn sinh 78, 79 tuổi ấy đưa nhau hành phương Nam thăm
người thầy cũ 80 tuổi!
Nghỉ hưu, Lê Khắc Ngọc Cầu
càng hăng hái làm công quả hiếu nghĩa. Không chỉ là trung tâm liên lạc trong nước
với nước ngoài, mà còn theo gương thân mẫu Cẩm Dung dẫn dắt đàn con Tôn Thất của
mình gánh vác việc gia tộc. Mà Ngọc Cầu đâu có ít con. Tròn mâm cỗ 6 người: Tôn
Thất Thịnh, Tôn Thất Hưng, Tôn Nữ Ngọc Bảo, Tôn Nữ Kim Bảo, Tôn Nữ Nguyên Bảo,
Tôn Nữ Châu Bảo. “Niên liễm”
không khi nào đóng chậm. Hễ dòng tộc có đợt vận động, gửi văn bản đi thì y như
rằng trước tiên được nghe qua điện thoại tiếng reo trong trẻo của Ngọc Cầu: anh
Trí ơi, nhà em thu được hai trăm năm mươi đô rồi, anh ghi sổ dùm em.
Mười lăm năm Ngọc Cầu làm nòng cốt tập họp vận động bà con Lê Khắc ở Sài Gòn.
Và khi Thế 11 hoàn toàn chuyển giao trọng trách cho Thế 12 thì con cả của Ngọc
Cầu là Tôn Thất Thịnh thay mẹ đảm đương việc Họ. Thịnh phụ trách Trang web lekhacvanxa kiêm
Phó trưởng ban đại diện gia tộc Lê Khắc ở Sài Gòn. Trong Ban đại diện ấy, bên cạnh
Phó trưởng ban Tôn Thất Thịnh, còn có các Phó trưởng ban Bảo Thạnh và Tôn Thất
Lẫm. Tức là có 3 người dòng Tôn Thất hoàng phái. Theo quan niệm cổ xưa, đối với
dòng họ Lê Khắc Văn Xá thì 3 thành viên cốt cán này được coi là… ngoại tộc!
Chương 16: Đôi cánh thảo hiền từ bầu trời ngoại
tộc
Bà Tứ Nguyễn Khoa Thị Liên có 5
người con gái: Lê Thị Uyển (1898-1957), Lê Thị Cẩn (1901-1988) Lê Thị Đương
(1905-1968), Lê Khắc Ngọc Đại (1916-2002) và Lê Khắc Ngọc Luyện (1918-1996).
O Lê Thị Cẩn, người con
gái thứ hai, năm 40 tuổi mới thành hôn với dượng Tôn Thất Chước
(1895-1947). O Cẩn Dượng Chước chỉ sinh hạ được một người con, là Tôn
Thất Lan.
Dòng họ Tôn Thất Lan 4 đời
độc đinh. Cưng quý cậu con trai cầu tự lắm lắm nên Dượng Chước và O Cẩn âu
yếm đặt cho quý tử nối dõi tông đường cái tên Lan. Kiểu tên con gái. Phải chăng
do Lan tính nết dịu hiền? Không có đâu nha! Thuở bé tí tẹo, được mẹ và bà nội
cưng chiều rất mực nên Lan nhõng nhẽo quậy phá tới số. Mấy “bà
em” con cô con cậu (hơn tuổi) Lan tới nay đều ngoại 70
mà còn thi nhau kể tội “anh Lan thuở nhỏ nghịch
như quỷ, trêu chòng khắp lượt, hễ đi qua cô em nào là thò tay nhéo, khoèo chân
đạp một cái cho la toáng lên mới thôi!”“Anh Lan thời
nhóc tì sao ghét dễ sợ, bọn em thi nhau ghét, đồng lòng ghét. Nhưng bởi bọn
cháu gái sợ uy quyền Bà Nội nên nhịn quách cho yên. Rứa mà lạ ghê, anh Lan lớn
lên đổi tính đổi nết, dễ thương hết xẩy, con gái con trai họ nhà mình ai nấy đều
bảo thương quý nhất anh Lan!”
Văn Trí tán thành ngay: thương
quý nhất Tôn Thất Lan!
Tạ ơn trời đất sinh ra người em
hào hoa phong nhã Tôn Thất Lan để đặt vào vị thế “phó
ban liên lạc” sát cánh kề vai với ông anh Văn Trí khẳng
kheo nhàu nhĩ. Ngõ hầu hợp thành một cặp, vẻ ngoài dường như tương phản cọc cạch,
song tâm tính bên trong là tương thích hài hòa, bổ khuyết cho nhau làm việc Hiếu.
Nếu như Văn Trí được cái đầu óc
mẹo mực sắp đặt liên kết thì Tôn Thất Lan chính là chất keo đặc hiệu gắn bó bảy
bè chín nhóm thành viên đồng tộc nhưng khác thứ bậc, khác cả tâm tư. Nào gia
đình anh “phía bên nớ”, gia
đình em “phía bên ni”. Nào chị ở
“phòng kế thất”, tôi là “phòng thứ thất”. Nào chi trưởng
ngành trên, chi thứ nhánh dưới…
Giữa bộn bề ngổn ngang trăm mối,
Tôn Thất Lan, bằng tấm lòng chân chất thơm thảo, bằng tình thương máu mủ ruột
rà, đã là tố chất hiệu nghiệm gắn kết dòng tộc mau lẹ mà vững bền.
Buổi Giỗ Ông năm ấy đặt tại nhà
anh Lê Khắc Điềm, căn biệt thự kiểu Pháp xinh xắn ở phố Nguyễn Đình Chiểu. Xong
phần cúng lễ, bà con lục tục xếp mâm ăn giỗ thì đột ngột Tôn Thất Lan đứng dậy,
lật cái mũ mềm cầm ngửa trên tay, lần lượt tới từng bàn, vận động quyên tiền
giúp cho hai người con gái độc thân của chú Lê Khắc Mân ở Đà Nẵng đang cơn túng
quẫn. Trí không được hội ý trước việc quyên góp này nên lúng túng một thoáng mới
rút ví. Số đông bà con cũng ngỡ ngàng. Rồi ai nấy hiểu ra, thông cảm rất nhanh.
Mở lòng, người vài ba chục, kẻ một hai trăm. Cứ thế, mặc kệ chung quanh ăn uống
cười nói ríu ran, Tôn Thất Lan hí húi đếm đếm ghi ghi. Vẻ mặt tươi hơn hớn. Lan
là thế.
Việc gia tộc, bao cuộc họp,
bao thỏa ước, thư từ gửi đi, điện thoại réo về…, chung
quy xoay quanh tình nghĩa và tiền bạc. Ai cũng biết chuyện đi xin cho được đồng
tiền liền khúc ruột là cực khó, cực khổ. Cái gánh “cực” ấy, Lan ghé vai không ngần ngại. Không biết tới mấy trăm lần,
Lan và Trí gọi điện thoại ngược xuôi năn nỉ ôn tồn giải trình, thuyết phục, cả
nịnh nọt nữa! Nhận được lời hứa “từ xa”,
chính Lan lại phải tìm tận nhà bà con, nhận tiền tại chỗ, rồi phóng tới nộp
ngay cho thủ quỹ, cưỡi xe máy vòng vèo khắp mấy quận Sài Gòn. Mát tính, mát
tay, nên tiền cúng góp việc hiếu nghĩa, bao giờ Tôn Thất Lan cũng thu được nhiều
nhất cho gia tộc.
Cứ thế, Lan xông xáo hành thiện
một cách hào hứng, hồn nhiên, Có khi quá hồn
- Em nghe nói nhà anh Trí rộng rãi còn thừa
một phòng bỏ không?
- Ừ có, phòng xép chứa đồ thô, trên lầu ba,
chỉ 12 mét vuông.
- Nhỏ thì nhỏ, cứ cho em xem qua…
Xem loáng cái, Lan gật gù hài
lòng. Rồi đề xuất ngon lành: cho mượn phòng này ít lâu nghe! Có một người bà
con Lê Khắc hứng chịu tai họa dồn dập, vừa bị tai biến tim mạch, lại bị xiết
nhà. Gia đình 5 khẩu, nhét vào căn phòng xép này của anh Trí thì chật đấy,
nhưng còn hơn nằm ngoài đường. Trí nghe Lan như nghe tiếng bom! Bởi gia đình
Trí vừa mới đây thôi đã đồng thuận “ra nghị quyết” không để khách khứa ngủ lại trong nhà. Bạn bè, bà con của
cha mẹ con cái tới thì tiếp chuyện ở phòng khách, mời dùng bữa ở phòng ăn. Ai
có nhu cầu ngủ lại thì nhà mình thu xếp chu đáo bằng cách đứng ra thuê bao một
phòng trọ đủ tiện nghi ở mấy khách sạn liền kề. Họ hàng nội ngoại từ miền
Trung, miền Bắc vào hay miền tây Nam bộ lên cũng tuân theo quy định “khắt khe bất nhơn” ấy. Là vừa mới sửa
sai cực đoan từ uyển chuyển thành cứng nhắc! Trong vòng mươi năm nay, hai ba chục
cháu chắt ngoài bắc từng lần lượt kéo vào vui vầy ăn ở quanh năm suốt tháng
trong nhà Văn Trí. Cho tới khi xảy sự cố. Một đứa cháu ở nhờ trong căn phòng
xép ấy, 5 giờ sáng mở cửa đi làm trong khi cả nhà còn say giấc. Mọi ngày nó nhớ
khóa cửa, bữa ấy hới hớp vội vàng quên bẵng. Kẻ trộm rình sẵn đâu đó, lập tức lẻn
vào nẫng gọn cái xe Dream Thái. Từ ngày “mất bò”, cả nhà bàn tính đặt nội quy nghiêm ngặt gia cố cái “chuồng” 5 tầng mặt tiền đại lộ.
Tôn Thất Lan ở hiền gặp
lành, chưa bao giờ như Trí cay đắng nếm mùi đạo chích viếng. Căn nhà hai tầng
khiêm tốn của Lan nằm khuất nẻo trong “hẻm xe đạp” Nhiêu Tứ phường 7 Phú Nhuận luôn là nơi đón tiếp ân cần chu
đáo nhất hàng chục gia đình bà con nội ngoại từ Huế, Đà Nẵng vào. Thậm chí, có
người em họ ở Văn Xá lần đầu thăm Sài Gòn, xin “ở nhờ một
hôm để tìm người quen”, bị Lan nạt cho: mi chê anh chị
nghèo hay sao? Mi không được ở một hai ngày, mà phải chơi đây hai ba tuần trở
lên! Cậu em ở chơi, thoải mái quá, một tháng chưa muốn về, cho tới ngày vợ nó
réo điện thoại đường dài đòi chồng như nặc nô đòi nợ.
Thật may, Lan hiểu ngay
chỗ khó của Trí! “Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh”. Vả chăng, chính Trí tuần trước biên thư riêng gửi mấy “Mạnh thường quân” trong họ nhờ “giúp nóng” cho trường hợp đặc biệt
này, và Trí cùng Lan sốt sắng “hưởng ứng” trước tiên! Nên Lan vui vẻ quay đi bươn bả tìm chỗ khác cho
gia đình ngộ nạn tá túc. Tất nhiên là tìm được. Tôn Thất Lan là thế, không nề tốn
kém khó khăn, vô tư nhận về mình phần nhọc nhằn thua thiệt.
“Có đức
mặc sức mà ăn”…, tiền nhân dạy không sai. Dường
như Lan luôn có quý nhân phù trợ trong bao chặng đời lận đận.
Gia tộc Lan, tuy là hoàng phái,
nhưng “ba đời không giàu”. Tổ
phụ từng ngồi phủ đường làm quan phụ mẫu, nhưng gia cảnh tùng tiệm, đón thân hữu
từ xa viếng thăm có khi phải sang hàng xóm mượn chút tiền hay con gà chi đó về
đãi khách. Thân phụ cũng làm quan, Hường lô tự khanh, nhưng sống đời bình dị,
sau buổi làm ở sở có khi tạt qua chợ mua con cá xách về. Năm Lan lên 7 thì mồ
côi cha (1947). Được mẹ tảo tần nuôi ăn học tới đậu tú tài 2, vừa hay Huế mở đại
học sư phạm. Chưa ý thức gì về nghề giáo, nhưng ngó cái học bổng sư phạm mà
ham. Mỗi tháng 1.500 đồng lận! Trong khi mỗi lượng vàng 250 đồng. Chi tiêu ăn ở
hàng tháng mỗi suất chỉ cần 500 đồng là tươm. Học bổng ngần ấy đủ nuôi hai mẹ
con ung dung. Lan liền làm đơn thi vào sư phạm khoa tiếng Pháp. Mang đơn tới
trường, như trời phật sắp đặt, Lan hạnh ngộ cơ hội ngàn vàng xoay chuyển cuộc đời!
Đi qua hành lang, gặp đúng ông cậu Lê Đình Trân, thư ký học vụ đại học (cậu
Trân là con ngài Lê Doãn Thăng em ruột ông ngoại Lê Từ). Cậu Trân dừng lại ân cần
hỏi chuyện, ngay sau đó cho Lan lời khuyên: “Đừng học
khoa Pháp, không tài nào theo kịp lứa bạn chuyên Pháp 7 năm đâu. Cháu chuyển
sang tiếng Anh đi, sẽ lợi lâu dài…” Lan vâng lời cậu, về
làm lại đơn. Thế là thi đậu vào khoa Anh. Cố sức liền 3 năm, khi thi tốt nghiệp
lọt vào tốp 4 sinh viên dẫn đầu với điểm 14/20. Tiếng Anh từ buổi ấy nâng cậu học
trò nghèo Tôn Thất Lan cất cánh vào đời. Cho tới hôm nay tuổi ngoài 70 vẫn là
giảng viên Anh văn tên tuổi xứ Sài thành.
Trong “cuộc
bay” nửa thế kỷ bão dông, song song với “cánh bay” tiếng Anh là “cánh bay” tiếng hát, hợp thành
đôi cánh đời Lan. Đây, trên trang bìa 4 các ấn phẩm văn thơ nhạc họa của Tôn Thất
Lan, thường có lời hóm hỉnh trích ngang lý lịch: “… Cất tiếng
hát chào đời tháng 01 năm 1940!”
Tài hoa cầm kỳ thi họa Tôn Thất Lan
có nguồn cơn từ nết đất, tính trời. Núi Ngự sông Hương trăm năm là miền thơ nhạc.
Dượng Chước đàn ngọt, O Cẩn hò hay. Lan chỉ tiếc là không giữ được giọng hò của
mẹ trong băng đĩa. Mẹ sắm cho Lan cây đàn “măn-đô” từ hồi bé tí, do anh Lê Xuân Điềm con của dì Biên để lại. Đến
trường, hạnh ngộ thầy Ngô Ganh, thầy Nguyễn Hữu Ba, được các thầy dạy dỗ mớm
cho tình yêu nghệ thuật. Tuổi 15 đã độc tấu đàn mandoline được xuýt xoa tán thưởng.
Hàng tuần cùng ban hợp ca Thanh Bình trình diễn tại Thương Bạc do Ty Thông tin
tổ chức. Có khi diễn ở rạp chiếu bóng. Không còn nhớ được nhận thù lao nhiều ít
bao nhiêu. Chỉ đọng lại niềm tự hào của nghệ sĩ được thính giả chấp nhận. Nhớ
mãi buổi biểu diễn đặc biệt ở trường Quốc Học có cả Ngô Tổng thống long trọng dự
khán, Lan hồi hộp tham gia công diễn khúc hợp xướng của nhạc sĩ Lê Hữu Mục ca
ngợi… thân phụ Tổng thống là (cố) thượng thư Ngô Đình
Khả!
Lớn thêm chút, với cây
đàn guitare cũ trên tay, Tôn Thất Lan mày mò học nhạc lý và mon men viết ca khúc.
Tập tành sáng tác trước hết bằng cách “nghiên cứu” chép lại các nhạc phẩm mua của nhà xuất bản Tinh Hoa và mượn
của bạn bè - trước sau chép tới ngàn bài! Vào Sư phạm mới trình làng ca khúc đầu
tay Còn như thuở ban đầu hơi hướm tình ca Đoàn Chuẩn - Từ Linh! Nhận
biết là mình có khiếu âm nhạc, biểu diễn cũng như sáng tác, Lan miệt mài viết
và xem đó là bài tập. Cứ ráng viết cho hay, coi thử loại bài như thế mình làm
được không. Suốt đời say mê đàn hát và sáng tác, nhưng không bao giờ coi mình
là dân chuyên nghiệp, nhạc sĩ, nhạc công hay ca sĩ. Lan tự nhận là “nhiều nhà” lắm nhưng chỉ là “nhà thuê”!
Nhớ lại khoảng 1963,
phong trào sinh viên nổi dậy chống chính quyền đàn áp Phật giáo, chiếm được đài
phát thanh. Ban đại diện mời thầy giáo Anh văn Tôn Thất Lan tới đài tham gia
đàn hát. Không ngờ chỉ được ít lâu, chính quyền kiểm soát trở lại, đàn áp. Thị
trưởng triệu tới hạch hỏi, và Lan cuối cùng phải chấp nhận biện pháp trừng phạt
là… “bắt lính” (lẽ ra Lan là
con một thì được miễn đi lính).
Vào Thủ Đức, ở đại đội 13 sinh
viên sĩ quan, Lan được chọn cử làm quản ca. Liền sáng tác “Hành
khúc Đại đội 13” được coi là…
bài ca chính thức của đơn vị! Từ Thủ Đức chuyển thẳng về trường sinh ngữ quân đội,
dạy tiếng Anh cho các hạ sĩ quan đi học làm thông dịch viên. Sang Hoa Kỳ bổ túc
nghiệp vụ (tiếng Anh), Lan “mê”
và kết với cây kèn trompette. Tất nhiên là vẫn tiếp tục sáng tác để phục vụ kịp
thời cho những kỳ họp mặt. Có cả những bài hát song ngữ Việt Anh do Lan biên soạn
lời Anh hoặc chuyển ngữ tiếng Anh cho bài hát Việt. Về nước, trở lại trường
quân đội thấy lạc lõng lơ ngơ, tiếc thời gian hoang phí. Tình cờ gặp nhạc sĩ Phạm
Duy, ổng thương thằng em nhỏ bơ vơ, bèn biên thư nhờ một viên tướng có thế lực
giúp đỡ. Nhờ thế, Lan được về lại trường Phan Châu Trinh, đi dạy, với danh
nghĩa sĩ quan biệt phái.
Ròng rã 1966-1970, tính ra chỉ một mớ
“thâm niên” ít ỏi vài năm quân
ngũ! Thế mà sau biến cố 1975, thầy giáo Tôn Thất Lan lại phải tiếp tục “cất cao tiếng Anh và tiếng hát”
trong… trại học tập cải tạo của chính quyền mới! Tốt
tính như Lan, đa tài như Lan, ai mà không thương, dại chi không dùng? Ở trại,
Lan được ưu đãi cho phụ trách thư viện, sinh hoạt tập thể, ca hát. Kết quả cải
tạo (đầu óc có sai trái chi mô mà cải tạo?) rất khả quan nên Lan chỉ “thụ hình” không đầy một năm.
Ra trại, trả về thành phố Đà Nẵng. Nhưng ai
cho dạy trường cũ Phan Châu Trinh!
Vậy một mẹ già trên 70 và hai con nhỏ lấy gì mà sống đây? Thì
làm “thợ đụng”. Có hai tuần,
theo lệnh chính quyền địa phương đi gỡ mìn. Nghe rợn tóc gáy. Tiếng là từng ở
quân trường Thủ Đức, nhưng Lan có hiểu chi đâu về vũ khí. Kỳ thi kỹ thuật quân
sự, Lan phải tháo ráp cây súng lục. Loay hoay, lóng ngóng, lò xo vụt thăng
thiên.Viên trung úy chấm thi cười: anh yếu quá. Lan nhân dịp tiếp luôn: dạ, tôi
đau yếu luôn. Tất cả cười xòa. Thế là… dư điểm tốt nghiệp.
Bàn tay thư sinh thôi cầm phấn,
cầm đàn, chuyển sang cầm cuốc cầm xẻng đào đất thuê. Nhưng yếu quá, năng suất
thấp nên công ty không thuê nữa. Thất nghiệp bơ vơ. Thì âm nhạc lại cứu. Lan
xin được vào đoàn cải lương Sông Hàn, thổi kèn trompette trong ban tân nhạc -
hòa tấu mua vui 30 phút trước giờ mở màn và khi đóng màn thì chào biệt khán giả
bằng khúc nhạc “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại
thắng”… Lênh đênh theo đoàn Sông Hàn ra tận Hà Nội,
Hải Phòng rồi lưu diễn trở về từng chặng ở miền Trung, gặp mùa mưa dầm Bình Trị
Thiên treo niêu vài tuần. Một thân hữu, bằng vần tứ tuyệt, đã phác đôi nét về
những năm sầu đời trôi nổi:
Tôn
Thất Lan điệu slow buồn thổn thức
Tiếng
kèn đồng chới với gọi chiêm bao
Đêm
hát tuồng nghe ngựa hí quân reo
Tiếng
sênh phách nhịp nhàng ru nỗi nhớ
Bước đường cùng! Năm 1984, nhà
giáo Tôn Thất Lan phải cùng vợ là Vũ Thị Cẩm Thúy bỏ nghề thầy thuốc, dắt díu mẹ già con dại chuyển cư vào Sài Gòn.
Vào Sài Gòn là tới với Miền Hào Hiệp!
Nơi ấy, người tứ xứ quây quần hội tụ gắn bó làm bạn với nhau, sẻ gan sẻ ruột
yêu thương nhau. Đó là thành phố có các tòa báo đóng vai trung tâm thiện nguyện,
mỗi ngày bạn đọc góp giúp người khốn khó tới tiền tỷ! Đó là nơi xuất phát trăm
ngàn chuyến xe chở hàng cứu trợ bão lụt, mang tiền xây cầu, cất nhà tình nghĩa
vùng xa vùng sâu, tặng lương thực thuốc men cho người già neo đơn, trao học bổng
tiếp bước trò nghèo hiếu học tới trường. Đó là nơi mỗi ngày có nhiều ngàn suất
cơm từ thiện, mỗi mùa thi có nhiều ngàn chỗ trọ miễn phí.
Sài Gòn hào phóng lại luôn đi
trước, hăng hái đổi mới, giao thương cởi mở, sản xuất kinh doanh năng động táo
bạo, học hành, văn nghệ, và cả ăn chơi, đều sôi nổi! Giữa thập niên 1980, đã bắt
đầu thời kỳ ngàn vạn con người may mắn sở hữu bàn tay vàng, cây bút vàng, đôi
chân vàng, giọng ca vàng… từ khắp Bắc Trung Nam đua
nhau “hành miền hào hiệp”.
Trong số đó có người trai dòng Tôn Thất - Lê Khắc hào hoa đa tài mà thất cơ lỡ
vận!
Lan vào Sài Gòn, vừa hay gặp thời
tiếng Anh đắc dụng. Nhà nhà, người người học tiếng Anh. Các trung tâm dạy Anh
văn mọc lên như nấm. Nhưng mà…
“Cái học tiếng Anh thật rộn ràng
Mười
người theo học sáu thôi ngang
Thế
mà cứ tưởng là ngon béo
Liệu
sớm lui ngay kẻo lỡ làng!
Ấy là Lan nhại Tú Xương, mô tả
phong trào học tiếng Anh có vẻ rầm rộ mà thành tựu quá èo uột, lãng phí sức lực,
tiền của. Hài hước vui chút để cảnh báo thực trạng rồi ngay sau đó Lan tự nhận
trách nhiệm góp phần bổ cứu. Lan tổng kết kinh nghiệm 15 năm giảng dạy tiếng
Anh ở trường Phan Châu Trinh và trường sinh ngữ quân đội, biên soạn công trình “Phương thức học tiếng Anh hữu hiệu” bao
gồm những nội dung hết sức cụ thể về đặc điểm tiếng Anh, bốn kỹ năng, bốn tiêu
chuẩn, phương pháp bổ sung bằng phân tích, đối chiếu, bắt chước, phương pháp thực
hành… Ngắn gọn chừng 4 ngàn từ thôi, nhưng là cẩm nang
quý báu cho người học tiếng Anh. Tất nhiên, Lan có thể “thị
phạm thực thi thành thạo” hệ thống lý thuyết của mình.
Cho nên trong 28 năm ở Sài Gòn (1984-2012), Tôn Thất Lan là giảng viên Anh văn
nổi tiếng ở các trung tâm ngoại ngữ của Hội trí thức yêu nước, của Sở ngoại vụ
(Cefalt), ở các trường Đại học tổng hợp, Đại học sư phạm, Đại học Văn Lang. Giờ
dạy của Lan còn cuốn hút nhờ các cải tiến sáng tạo. Học viên có thể học tiếng
Anh qua các cuốn sách song ngữ Việt Anh do Lan chọn dịch như Slices of
life - Những mảnh đời (Tuyển tập văn xuôi, gồm 15 tác phẩm, trong đó có 14
“truyện rất ngắn” của tạp chí Thế
Giới Mới). Lại có thể học qua hàng chục tuyển tập ca khúc song ngữ do Lan chuyển
ngữ hoặc đặt lời hát tiếng Anh, như tập dân ca Hát hội trăng rằm – The full-Moon Festival gồm 14 khúc dân ca đặc sắc của
3 miền Bắc Trung Nam: Qua cầu gió bay, Lý con sáo, Ru con…
Cứ khoảng vài ba tháng một lần
Trí được Lan tới tận nhà “trao quà văn nghệ”. Đó là giấy mời dự “Chương
trình điểm hẹn ngày chủ nhật thưởng thức nhạc phẩm và giao lưu với nhạc sĩ Tôn
Thất Lan”. Đó là các ấn phẩm “cây
nhà lá vườn” vừa ra lò, các tập truyện ngắn như “Những tâm hồn lạc”, “Thà trễ còn hơn không”, “Cung bậc tình yêu”…; các tuyển ca
khúc như Huế vẫn ngàn năm, Ghé lại bên đời, Gọi đàn…,
do chính “tác giả Tôn Thất Lan trình bày và vẽ minh họa”… Văn Trí phải trầm trồ: ông em của tớ thật đa tài, đủ mùi Cầm
Kỳ Thi Họa. Lan liền “cải chính”:
chưa đủ cả bốn mùi đâu anh ơi! Ờ thì có chút mùi đàn địch hát hò. Có chút mùi
thơ phú văn chương. Có cả mùi vẽ vời sắc màu hình khối. Nhưng em Lan của anh
còn thiếu mùi “cờ”, không cờ tướng,
không cờ vua, không cờ… bạc! Nên em xin thay chữ Kỳ bằng
chữ Cười, đổi thành Tôn Thất Lan Cầm Cười Thi Họa!
Chí lý! Xem kỹ thì thấy, trang
văn bài thơ nào của Lan cũng thấp thoáng đó đây nụ cười thâm thúy dí dỏm. Còn
ca khúc thì khỏi nói. Bên cạnh vài trăm tình khúc thì Lan có cả mấy chục “tếu ca” đã in ra và nhiều bài đã
trình diễn. Lời nói đầu “20 tếu k”
như sau: “Tếu không thể thiếu trong cuộc sống. Có
khóc phải có cười. Như âm dương trong vũ trụ. Cười tự trào cái dở của mình. Cười
phê phán thói hư tật xấu của người đời. Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ, tội
chi bỏ phí. Cái “tếu” nếu như
đi kèm với chuyện đời thường mà thiên hạ cho rằng “tục” thì cũng là đương nhiên…”
Đã là “tếu
khúc”, ắt nét nhạc phải nhún nhảy, cục cựa để hợp với
ca từ tinh nghịch quậy phá. Ông lái đò là ông lò “ấy”. Ơ sao ông kia ăn mặc hớ hênh. Người tưởng ông say người bảo
ông điên. Vì ông lái đò là ông ló “đài”… Hôm qua đi cúng làng bên/ lim dim tụng suốt ngày đêm/ cúng
cho bà góa chết chồng/ Khi về chỉ nhớ mắm với cà, chỉ nhớ má với cằm…
Thế nên hễ gặp Lan là vui, mâm
ăn nhóm họp nào có mặt Lan là rộ lên từng tràng cười sảng khoái. Lan “thanh minh”: “Máu
khôi hài ở em chắc là do “di truyền”.
Các cụ xưa bản tính nghiêm nghị mà cũng hay diễu cợt và có khi “ngẳng” hết biết. Như ông nội của em,
có lần đi chơi về khuya, khi đang ở rể nhà cụ Trương Quảng Ngãi (Gia tộc cụ
Trương Đăng Quế), quẹt diêm đốt cả một đống rơm “sáng
cho thấy đường đi!”. Chuyện ấy tưởng như chỉ có trong
ca dao xưa: Ngồi buồn đốt một đống rơm/ Khói bay nghi ngút chẳng thơm tí nào/
Khói bay lên tận Thiên tào/ Ngọc Hoàng phán hỏi: đứa nào đốt rơm! Cậu (cha) em
thì có lần uống rượu say hơi hơi, đã múc một muổng canh “để
cậu chan canh cho con nghe”, nói thế nhưng không chan
lên bát cơm mà đổ cả muổng canh vào trong cổ áo của em! Cậu em mất lúc
em mới 7 tuổi, nên không còn nhớ nhiều về Cậu. Em nhớ dạo tháng
8-1945, có cuộc tấn công của Việt Minh vào lực lượng đồn trú của Tây Nhật tại
thành phố Huế. Điện tắt hết. Nhà nhà đóng cửa cài then. Cậu em cứ chạy ra
ngoài, lát sau trở vào lau nước mắt mừng rỡ nói với vợ con: Mình thắng rồi! Về
sau này em được anh Lê Khắc Huề, con cậu Hường Thái kể chuyện, nhận xét: Dượng
Chước là người rất thoáng. Em nghe mà nhớ Cậu. Em thừa hưởng cái đức tính rộng
rãi trong cuộc sống và trong nghệ thuật là từ Cậu em. Và cả khiếu hài
hước, hóm hỉnh gây vui cười…”
Tiếng cười thể hiện tính lạc
quan.
Tôn Thất Lan quan niệm: “Đời vui hay buồn, sướng hay khổ là tùy ở mỗi người cảm nhận.
Nhưng vui buồn, sướng khổ thường song hành bên nhau, đó là âm dương của vũ trụ
này. Điều con người có thể làm được là biến cái buồn thành cái ít-buồn, làm cái
khổ thành bớt-khổ. Hoặc giả nhân cái sướng cho to hơn, cái vui cho lớn hơn nhiều
lần…Đó là chưa nói đến việc làm cho cái khổ thành sướng,
buồn hóa vui. Khả năng này có hay không là tùy ở mỗi người, ở tâm tính, cảm
quan, kinh nghiệm và suy ngẫm… Khi muốn tránh điều gì đấy
mà không tránh được thì chỉ có cách là chấp nhận thôi. Và vui vẻ!”
Trong mọi tình huống, Tôn
Thất Lan đều nhìn từ góc độ tích cực. Đời người ai mà tránh khỏi tai nạn rủi ro
lúc này lúc khác? Hãy hóa giải bằng tính lạc quan. Lỡ xảy ra chuyện xấu, thì
hãy nghĩ là may mà chỉ xấu mức đó! Năm 1986, một bữa Lan đang dạy học ở Hội trí
thức yêu nước, thì giám thị dẫn vào một chú nhóc kêu to hốt hoảng: “Thưa bác, con bác té gãy tay!” Vẻ mặt
ông giám thị trở nên nghiêm trọng cảm thông tình cảnh nhà giáo nghèo. Không chỉ
tình thương con cái, mà có cả mối lo chạy chữa. Thời buổi khốn khó thiếu thốn
trăm bề này, tin xấu đó quả là đại họa. Cả lớp im phắc chờ thầy phản ứng. Lan
không hề cao giọng, hỏi lại:
- Thế con bác nó bị gãy một tay hay hai tay
hở cháu?
Thằng bé chưng hửng, ấp úng:
- Dạ, gãy có một tay thôi ạ.
- Thế thì may. Cảm ơn cháu!
Rồi sau đó Lan cũng tìm
được vị bác sĩ quen thân và bệnh viện tốt bụng ra tay cứu chữa cho thằng bé nghịch
ngợm không may cha mẹ phận hèn nhập cư chưa xoay xở nổi hộ khẩu thành phố. Với
Lan, con té gãy tay rõ ràng là chuyện xấu, nhưng dù sao, không phải xấu nhất!
Thậm chí cũng không việc gì phải sầu
não về “nghiệp chướng tưởng chừng độc đinh” của dòng họ, tới đời thứ tư cũng chỉ có nhõn một gã trai
Tôn Thất Lan. Thì có sao đâu nhỉ? Cùng tắc biến, biến tắc thông. Thì đó, vợ chồng
Thúy Lan tới nay đã có hai anh con trai Tôn Thất Lẫm và Tôn Thất Long đang tuổi
làm ăn, sung sức sinh sôi, và đã có hai cháu nội trai, một cháu nội gái! Vẫn
máu khôi hài, lúc đẻ con trai, Lan thêm thắt hỗn danh cho hai cậu nhóc: anh là “cu cứng”, em là “cu
cong”. Tự trào mà cũng là tự hào. Cu-cứng-cu-cong, một
phần thể hiện thành công phá thế độc đinh của dòng họ, phần còn lại hẳn là tự
hào về… “bản lĩnh đàn ông”!
Trong cuộc họp Họ mở đầu
thế kỷ 21, Văn Trí lấy nê bận nhiều việc công tư, xin thôi trưởng ban liên lạc,
đề nghị bà con tìm người thay. Lập tức ba bốn bà nhanh nhẩu đề xuất: cử Tôn Thất
Lan! Nhưng rồi một bậc trưởng thượng phát biểu dè dặt:
- Tôi thấy mọi việc ông Lan phụ trách
đều kết quả tốt, chỉ có điều phân vân trưởng dòng Lê Khắc là một ông Tôn Thất
ngoại tộc, ngó bộ không giống ai!
Trí cố dàn xếp:
- Ngoại tộc có cái hay của ngoại tộc.
Dòng họ ta đặc biệt - Trí giở ngay tộc phả - Đây này. Danh sách đầy đủ họ tên, ở
Sài Gòn có hơn 300 người, trong đó khoảng 100 là dâu rể (hôn phối). Đích thực hậu
duệ nội ngoại của ngài Bồ Nam là 200. Trong số đó, tôi đếm được không
tới trăm người họ Lê Khắc. Còn trên trăm người thuộc hàng chục họ: Nguyễn, Trần,
Hồ, Tôn Thất, Phan, Đỗ, Lưu, Hoàng, Đặng, Lý, Phạm, Bùi, Đoàn, Võ… Ờ thì gọi là ngoại tộc. Nhưng ngoại tộc chiếm số đông, thì
cử một người trong số đó làm trưởng cũng được chứ sao!
Cử tọa ồ lên, nhao nhao. Lạ,
bàn kỹ thì rốt cuộc ý kiến thiểu số ban đầu thắng thế. Đại để là tuy Tôn Thất
Lan hoàn toàn đủ tín nhiệm làm trưởng ban, nhưng dù sao chúng ta chọn người nội
tộc vẫn hay hơn. Vậy thì Văn Trí không được phép “hưu”. Lan sướng quá, cười, vỗ tay bồm bộp.
Khi mọi người về gần hết,
Trí bá vai Lan: nào, hai ta tiếp tục. Mình từ Bắc vô, hòa nhập với phương Nam,
thấy tình cảm họ ngoại thân thương chi lạ. Ngoài phố, trong chợ, cứ kêu nhau bằng
“dì hai ơi, cậu hai ơi, ngoại ơi”
nghe như chung một gia đình. Chứ kêu bằng “nội”, “chú”, “cô”… coi tuồng nhạt nhẽo! Cứ ngẫm
câu tục ngữ “sẩy cha còn chú, sẩy mẹ ấp vú dì”; đứa bé mồ côi tá túc nhà chú đằng nội với lý lẽ tính đếm
khô khan, còn đằng ngoại, nhà dì thì chan chứa yêu thương ôm ấp đứa cháu máu mủ
ruột rà!
Có lẽ tâm thức hiếu nghĩa tốt
lành thấm sâu vào Tôn Thất Lan từ những ngày bé tí sinh hoạt Phật tử Hướng Thiện.
Từ bi hỉ xả, vị tha. Ở trường Phan Châu Trinh, ở quân trường, ở trại cải tạo, ở
trung tâm ngoại ngữ, ở Ban liên lạc đồng hương Huế, dòng tộc Lê Khắc…, hễ việc gì có lợi cho cộng đồng là Lan không tiếc sức.
Không kể công, không vụ lợi. Dí dỏm “tuyên ngôn” qua bài ca “Cộng đồng tôi”: Không ai làm thì tôi làm! Không ai ăn thì tôi ăn (ê,
những gì ăn được thôi nghe!) nên cộng đồng tôi luôn sạch sẽ gọn gàng, thấy
chưa, mình vui cả làng!
“Cộng đồng
tôi” của Lan nào có ít ỏi nhỏ hẹp cho cam! Tuổi 70, Tôn
Thất Lan vẫn dạy mỗi tuần ba bốn chục tiết Anh văn. Việc chung to nhỏ ai nấy đều
muốn trông cậy vào Lan. Chủ nhiệm Câu lạc bộ ca Huế; cố vấn văn nghệ Hội đồng
hương. Chăm sóc từ đường và lăng mộ bên nội Tôn Thất ở Huế (độc đinh nên phải
gánh vác tất tật!). Rồi cũng từng ấy trọng trách bên họ vợ ở Đà Nẵng. Lan đi
như con thoi, như không biết mệt. Được cái, ngày nào cũng nẩy sinh đôi niềm vui
nho nhỏ, tới đâu cũng thu hút những nụ cười bè bạn.
Tiếng Anh và Tiếng hát, Hiếu thuận và
Thảo hiền như đôi cánh đời Lan, động lực vượt qua hiểm trở, hòa hợp thiết cốt với
gia tộc và cộng đồng.
Đức
năng thắng số. Đời Lan bao lần gặp rắc rối nguy hiểm nhưng lại may mắn thoát khỏi.
Như phép lạ hóa giải hoạn nạn truân chuyên. Ngộ biến, thoát hiểm nhờ bạn hữu.
Vượt khó, ổn định cuộc sống cũng nhờ bạn hữu. Lan bộc bạch: “Con
cháu của em bây giờ có đủ cơm áo cũng nhờ tổ phúc hai bên nội ngoại. Nhà ông
ngoại các cháu (ngài Văn Xuyên Lê Từ) sẵn lòng giúp thóc gạo cho hàng xóm qua
cơn đói kém, có người thiếu thốn quá không trả nổi, Ông cũng không đòi. Các con thắc
mắc sao không thấy họ trả thì Ông cười: Có chứ, bây giờ họ chưa trả cho Thầy
thì sau này sẽ có người trả cho các con!” Lan
ngẫm lại, y như rằng, linh nghiệm! Chẳng hạn chuyện Lan xây nhà. Thầy giáo
nghèo thất thế sa cơ lỡ vận chỉ biết dạy học kiếm tiền nuôi mẹ già, con dại, mà
vẫn mơ tưởng một cái túp nhỏ nhoi khả dĩ che nắng mưa. Đau đáu nghĩ tới một mái
nhà, bởi kiếp ở nhờ và thuê phòng trọ sao mà khốn khổ. 8 năm trời 6 lần dọn
nhà. Dọn thì rất gọn, chỉ một xích-lô chở mền gối và soong nồi chén bát. (thêm
sách vở và hai cây đàn mandoline và guitare). Nhưng ở đâu cũng khổ. Hoặc chủ
nhà gây khó dễ. Hoặc cảnh sát khu vực đe nẹt thiếu giấy tờ. Gieo neo không kể
xiết. Nào “bồi bổ ngũ quan” bằng
“dưỡng chất” là trăm thứ rác rưởi
cống rãnh muỗi mòng giữa lòng chợ Bà Chiểu. Nào luyện rèn sức vóc bằng cầu
thang ọp ẹp dốc đứng, mỗi nhân mạng góp vào vài cú té ngã - trừ bà mẹ 80 được
cõng lên gác gỗ…
“… Nhớ lại mà thắt
lòng thương Mẹ tôi cả đời cá chuối đắm đuối vì con. Về với Cậu 10 năm, Mợ mới
sinh được tôi, khi bà đã 40 tuổi. Rứa mà 7 năm sau đã thành góa phụ. Tôi nhớ
lúc Cậu bệnh, người thầy thuốc tận tâm cứu chữa là bác sĩ Tây y nổi tiếng Lê Khắc
Quyến. Bệnh Cậu trở nặng, Mợ cho mời, bác sĩ Quyến đến lật đật chạy vào phòng,
chích ngay ống thuốc cuối cùng - thuốc hồi dương, và buồn rầu nói: dượng đi rồi,
o ơi! Mẹ tôi lăn lộn gào thét. Cây đàn nguyệt treo nơi bàn thờ rồi cũng đem cho
vì “thấy lại buồn quá!”. Sau
đám tang Cậu, Mợ dẫn tôi tới trường Thượng Tứ xin học. Trường chưa
có lớp 5 (lớp 1 bây giờ), nên đành vào lớp 4 (lớp 2). Cứ thế mà “lết” cho hết bậc tiểu học.
Mẹ tôi thuộc loại “lý sự”, nói lý không chịu thua ai.
Đã có lần Mợ “cãi bay” ông thầy
dạy tôi lớp 3. Số là tôi vì một chuyện không đâu mà bị thầy đuổi học, giữa buổi
ôm vở về khóc như mưa. Mợ liền dẫn tôi đến trường, xin gặp thầy hỏi cho ra lẽ.
Tôi bị khép tội là xô ngã một học sinh khác gây thương tích khi cả bọn ùa ra cổng
trường chạy theo chiếc lambretta phát thanh quảng cáo buổi diễn kịch tối đó. Thực
tình tôi không xô ai hết, mà không hiểu thầy nghe ai đó bảo tội ở tôi! Mẹ tôi
liền vặn hỏi: thầy có chứng kiến không?”Không, tôi đang
họp chỗ khác.”. “Thế sao biết
con tôi xô ngã bạn?”. “Thì nghe
học trò nói!”.. “Thưa thầy, thế
nếu nó đổ thừa cho con tôi để che giấu cho bạn khác thì sao?”
Rồi Mợ chảy nước mắt, than vãn mẹ góa con côi… Cuối
cùng thầy cười xòa, cho trò Lan “trắng án”!
Có một điều lớn nhất mà tôi không thể
làm vừa lòng Mợ là không theo học ngành Y để thành bác sĩ. Với Mẹ tôi thì làm
bác sĩ còn hơn cả… làm vua! Nhưng tôi học Y sao nổi, một
khi các môn khoa học tự nhiên đều trầy trật, tính toán nhân chia ấp úng, suốt
ngày, rồi suốt đời ca hát lêu nghêu…
Khi đã trên 80, Mẹ tôi yếu dần.
Vợ chồng tôi gần gụi săn sóc, nhưng gia cảnh bần hàn, đâu có nhiều thuốc thang
tẩm bổ. Năm 1988, Mợ được cõng lên căn gác gỗ trong căn nhà thuê ở
chợ Bà Chiểu, rồi chỉ xuống một lần cuối nhờ xe hơi đón thẳng lên chùa Trúc Lâm
nằm mấy hôm trước lúc qua đời. Tôi chỉ mong được sư thầy cho để quan tài bên hè
Chùa, ai dè thầy phát nguyện cho đưa vào để chánh điện thờ luôn. Thực là phúc lớn
không ngờ. Em bạn dì Nguyễn Văn Phước (con dì Lê Thị Mai Kha) đứng ra lo chuyện
hậu sự cho Mẹ tôi. Và cũng đúng lúc đó tôi vừa được hộ khẩu để mua đất chôn cất
Mợ…”
… Khổ
như thế, cho nên Lan nghĩ ngay tới chuyện mua nhà khi ký được hợp đồng dạy tiếng
Anh cho các cô giáo tại Trung tâm nuôi dưỡng trẻ khuyết tật do tổ chức từ thiện
Hà Lan tài trợ với mức thù lao mỗi tháng 300 đô. Có người chỉ mối, một mảnh đất
tối tăm, dơ dáy. Lan tới xem, thấy vừa… túi tiền, ưng ý
ngay. Người xem đất trước đó đã trả giá hai cây vàng. Lan không muốn ép giá,
nên tự mình lượng định và trả luôn: ba cây rưỡi! Chủ nhà “hoảng”, ban đầu tưởng nghe lầm, nhưng khi biết đúng là người mua
trả như thế, liền “tội chi không nài thêm”, xin một chỉ nữa để làm giấy tờ. Lan gật ngay. Nhà chủ đâm
choáng. Làm chi có người tính tình dễ dãi vậy? Đâm ra “cảnh
giác khéo không bị lừa”! Nhưng rồi cuối cùng đôi bên hỉ
hả thuận mua vừa bán trót lọt chóng vánh.
Có đất, tính cất nhà luôn. Vay
mượn bạn hữu người một vài chỉ. Có người đưa luôn năm chỉ. Năm năm sau mới trả
hết nợ, có ân nhân như Phạm Phú Ngọc Trai, giám đốc công ty nước ngọt Pepsi-Cocacola,
còn xua tay: thôi trả làm gì! Nhưng Lan đã mượn thì phải trả chứ.
Sư thầy trụ trì chùa Trúc Lâm,
thân thiết từ ngày tang lễ mẹ, lại nhận giúp trông nom thợ xây. Hôm cúng tân
gia, bè bạn ngỡ ngàng: tao thấy đúng số nhà 152/3 Nhiêu Tứ rồi mà cứ tưởng đi lộn.
Bởi có ai ngờ nhà giáo nghèo như Tôn Thất Lan mà xây được căn nhà đàng hoàng!
Hôm đó có đông đủ bạn bè ân nghĩa mang tới những món quà ý nghĩa. Hơn thế, là
những kỷ niệm không quên, những biểu tượng sâu xa. Này là anh Huỳnh Bá Thành họa
sĩ Ớt ngày xưa, phó tổng biên tập báo Công an thành phố hôm nay, yêu quý thầy
giáo cũ Tôn Thất Lan, năm nào đã thu xếp cho cả nhà nhập khẩu, nhờ vậy mà Thúy
và Lan có đủ thủ tục làm đám tang thân mẫu, xếp được chỗ học cho hai thằng con,
và đủ tư cách công dân Sài thành làm chủ căn nhà này. Này là nhạc sĩ lão thành
Châu Kỳ thân quen mang tới âm hưởng cổ nhạc miền trung qua các ca khúc“Từ giã kinh thành”, “Đón xuân này nhớ xuân xưa”… Này
là nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương với bài thất ngôn tứ tuyệt trứ danh sâu đẫm triết
lý nhà Phật:
Còn
gặp nhau thì hãy cứ vui
Chuyện
đời như nước chảy hoa trôi
Lợi
danh như bóng mây chìm nổi
Chỉ
có tình thương để lại đời…
Chính tình thương bạn bè thiết
cốt ấy đã tạo dựng nên nếp nhà đầm ấm hôm nay, như bốn câu bạn thơ Huỳnh Quang
Gia đề tặng:
Vốn
đã huy hoàng hiên lãm Thúy
Càng
thêm đầm ấm nếp nhà Lan
Nhạc
thơ thắm đượm tình tri kỷ
Đời
mãi vui tươi với tiếng đàn
Nghe thơ, thấm
thía, bất chợt ngước nhìn một món quà vô giá ngự trên tường, là bức ảnh rước về
từ phần mộ đại thi hào Nguyễn Du tận chân núi Hồng Lĩnh Nghi Xuân Hà Tĩnh. Bức ảnh
kỳ công chụp nguyên vẹn một chữ TÂM viết kiểu thư pháp. Như trịnh trọng
lập ngôn. Như nhắc nhớ câu thơ tiên hiền hai trăm năm trước thần tình tiên
đoán, lột tả thần thái phẩm cách, và cũng là bộc bạch gửi gắm tâm niệm trọn đời
của đôi vợ chồng Lan Thúy chủ mái ấm tân gia hôm nay:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét