Hoàng Ngọc Hiến hiện nay, cũng như một vài người khác ở
ta..., khó mà phân định được là nhà gì: nhà triết, nhà phê bình, nhà dịch thuật
hay nhà văn hóa? Thời đại khai minh khiến cho một số người có thực tài nhìn đâu
cũng thấy cần phải khai quang. Họ trở thành nhà bách khoa bất đắc dĩ là vì vậy.
Nhưng thời nào cũng có những con người dao pha, đa năng đến mức thành đa di
năng.
Tôi gặp anh Hiến vào năm 1971, tại Hà Nội, trong Hội nghị Văn
học so sánh. Tuy chưa hiểu lắm những gì người ta thảo luận, nhất là ai là
ai, nhưng tôi cứ cảm tưởng rằng anh Hiến là người cả giọng (Vo
ves'golos - tên một bài thơ của Maia) trên diễn đàn. Anh như một Maia của lý luận
phê bình chăng? Nhớ lại năm 1967, những buổi tối lang thang cùng Nguyễn Đăng Mạnh
trên cánh đồng Thanh Miện, nơi khoa Nga Đại học Sư phạm Ngoại ngữ sơ tán. Anh Mạnh
thường kể cho tôi nghe về Nguyễn Tuân, và về Hoàng Ngọc Hiến, bạn anh. Chả là
năm ấy, nhân kỷ niệm 50 năm Cách mạng Tháng Mười, anh Hiến có cho in bản dịch
trường ca Tốt lắm! Anh Mạnh bảo, Hiến nó có chất Maia, ngang bướng,
thích nổi loạn. Anh còn khoe anh được anh Hiến gọi là Julien Sorel, nhân vật
chính của Đỏ đen. Kể từ khi nghe và thấy đó, anh
Hiến trong tôi mang dấp dáng một thần tượng. Bởi vậy, sau 1981, khi ra quân để
tái hòa nhập vào xã hội giao tiếp, tôi bao giờ cũng dõi theo anh. Và đặc biệt
nghĩ về anh như một ca, thậm chí một đại ca, của làng phê
bình văn học Việt Nam đương đại.
Sinh năm 1930, Hoàng Ngọc Hiến vẫn thuộc về lớp người được
đào tạo trong nhà trường Pháp - Việt (mà một số người trong đó về sau, mỗi khi
cần lên mặt với chúng tôi, vẫn thường tự khu biệt mình là Formation franỗaise).
Anh học Thiên Hựu (Providence), một trường công giáo nổi tiếng ở Huế.
Bởi thế, anh sớm có một vốn hiểu biết cơ bản về văn hóa phương Tây, đặc biệt một
đầu óc tư biện. Sau Bốn nhăm, anh học tú tài kháng chiến rồi làm giáo viên cấp
2, cấp 3. Rồi nhờ đọc một cuốn sách triết học (1) mà có đủ trình độ thuyết giảng
về triết, anh được nhấc lên dạy đại học. Thấy mình được đãi ngộ chỉ thuần vì học
thức, anh mơ hồ nhận ra rằng con người ta có thể tiến thân bằng học thuật. Việc
được gửi đi Liên Xô làm nghiên cứu sinh càng củng cố thêm cảm nhận này. Bởi thế,
sang Liên Xô, với anh, không phải để "lấy quan điểm lập trường" như số
ít bấy giờ, hoặc để "làm kinh tế" như số đông sau này, mà để học thật.
Vấn đề còn lại là xây dựng học thuật trên lớp màu Xô Viết hay cả trên nền móng
Nga cổ điển. Nghiên cứu sinh Liên Xô bấy giờ, hẳn do áp lực thời cuộc, phần lớn
đi vào văn học Nga - Xô Viết. Hoàng Ngọc Hiến cũng không ngoại lệ. Căn bản học
thuật của anh, tôi nghĩ, bập bênh trên hai nhịp mạnh: tinh thần nổi loạn của
Maia và lối tư duy kinh viện Xô Viết.
Như vậy, có thể nói, Hoàng Ngọc Hiến là người được đào tạo một
cách chính quy, bài bản để trở thành trí thức hàn lâm. Đến đây tôi bỗng hiểu
vì sao, trong lời bạt cho Tuyển tập Nguyễn Đăng Mạnh, anh lại gọi bạn
mình là trí thức bình dân, không hề có ý khinh thị, mà chủ yếu muốn chỉ ra
một hiện tượng xã hội học của trí thức Việt Nam, mà anh Mạnh là một gương mặt
khá tiêu biểu. Đó là những người có xuất phát điểm thấp, nhưng bằng ý chí và
nghị lực, vẫn chinh phục được những chuẩn nào đó trong đời sống và nghề nghiệp,
như học vị, học hàm và danh hiệu các loại. Còn việc anh Hiến gọi anh Mạnh là
Julien Sorel hẳn vì quý cái ham muốn chinh phục đó ở bạn mình, và ở kiểu trí thức
này.
Lịch sử văn hóa Việt Nam đã từng có những loại hình trí thức
như trí thức Phật học, trí thức Nho học, trí thức Tây học. Và giờ đây là trí
thức cán bộ. Không theo sự phân loại này, anh Hiến đề xuất khái niệm trí thức
bình dân trong sự đối lập với trí thức hàn lâm. Với học vấn phổ cập, với văn
hóa quần chúng, với nghệ thuật phong trào thì nhân vật chính của thời đại
chúng ta (tên tiểu thuyết của Lermontov) ắt phải là người trí thức bình
dân. Có điều, anh Mạnh hơn người khác không phải ở chỗ anh đạt được hầu hết các
danh vọng, mà biết mình là trí thức bình dân, nên luôn nỗ lực "vượt khung
trí thức bình dân". Điều này hẳn là lý do sâu xa, thậm chí vô thức, khiến
anh Mạnh, dù tính cách khác hẳn anh Hiến, vẫn thân thiết với anh Hiến đến như vậy.
Nhưng cũng có điều hẳn cả anh Hiến lẫn anh Mạnh không ngờ là trong cảnh ngộ bao
cấp tư tưởng, kể cả tư tưởng học thuật, thì người tự đào tạo, kẻ bên lề chính
quy, có thể do vòng kim cô lỏng hơn, lại dễ có thành công học thuật. Từ cạnh
khía này mà nói, anh Hiến, vốn là người rất mả trong việc nắm bắt tinh thần thời
cuộc, lại đang vận động về phía trí thức bình dân. Và, cái cách thành công của
anh rõ ràng không phải là cách của trí thức hàn lâm.
Tuy nhiên, biết bao người được học hành tử tế như, thậm chí
hơn, Hoàng Ngọc Hiến, nhưng không trở thành một người như anh. Hẳn họ thiếu một
tố chất quan trọng, chất Hoàng Ngọc Hiến. Cần cù và có tính mục đích cao thì đó
là sản phẩm chung của thổ người xứ Nghệ. Liệu có phải đặc trưng riêng của Hoàng
Ngọc Hiến là chủ nghĩa độc đáo? Hay lỳ lợm? Có lẽ người làm phê bình ở Việt Nam
ít nhiều cũng buộc phải lỳ lợm? Nếu không làm sao trụ nổi? Anh Hiến hẳn là một
người lỳ được đánh số. Một thứ lỳ dựa trên sự thông minh, sắc sảo, cần cù và
gàn bướng.
Sau vụ "văn học phải đạo", Hoàng Ngọc Hiến rơi vào
một vùng khí áp thấp. Hàng ngày anh phải trốn đến Thư viện Quốc gia. Tòa cổ thư
ngày ấy còn chưa có nạn sinh viên đến chiếm chỗ học nhờ, nên hoàn toàn vắng lặng.
Ngồi trước trang chữ, bên chiếc bàn lim trăm tuổi, cách sự ồn ào phường phố cả
một sân bàng cổ thụ, đây có lẽ là nơi ẩn náu lý tưởng. Đọc sách, với anh, vừa
là để củng cố một phong cảnh nội tâm sau bão, vừa là để dịch (và lược) thuật kiếm
tiền. Trước anh, những Trần Đức Thảo, Trần Dần, Lê Đạt... cũng đều đến đây để
kiếm sống, và để qua chữ ngoại được tiếp xúc với thế giới ngoại chữ.
Ngày nào cũng vậy, suốt mười năm trời, anh Hiến đi thư viện từ
8 giờ sáng đến 9 giờ tối. Chị Nga, vợ anh, ở nhà phải buôn bán thêm giấy vụn, rồi
đi giao thuốc tây để nuôi hai cháu ăn học. Trong cảnh ấy, người đàn bà nào mà
chẳng ỉ eo. Anh Hiến mặc. Anh cứ lẳng lặng làm việc của anh, như một triết gia,
không biết gì đến đời sống "trần tục" của những người thân xung
quanh. Anh buộc mọi người phải chấp nhận anh như đã là, đang là, và sẽ là. Có
điều, may cho anh, chị Nga, không như những người đàn bà khác, phàn nàn thì
phàn nàn vậy thôi, hoặc phàn nàn để đánh tiếng cho người ta biết mình đang khổ
nạn, chứ chắc chẳng bao giờ chịu buông cây thành giá mà mình đang cõng trên
lưng.
Con đường học thuật của Hoàng Ngọc Hiến có thể chia thành 3
giai đoạn: kỳ đầu nghiên cứu và giảng dạy văn học Nga - Xô Viết ở Đại học Sư phạm
Vinh; kỳ giữa làm phê bình văn học Việt Nam ở Trường Viết văn Nguyễn Du; kỳ cuối,
khi đã nghỉ hưu, dịch và giới thiệu minh triết phương Đông. Dĩ nhiên, đường
biên của các giai đoạn này không rạch ròi một cách hành chính, mà xen canh gối
vụ. Đó cũng không phải là một phương án sống quen thuộc, trẻ Nho già Lão, của
các cụ đồ ta, mà là những bước chân có ý thức của một người trí thức đương đại.
Chọn Maia làm đối tượng nghiên cứu, một mặt phù hợp với tư chất
Hoàng Ngọc Hiến, mặt khác cũng là theo dòng tư tưởng bấy giờ. Ai cũng biết,
Maia đã từng là tấm gương tư tưởng và nghệ thuật, là ví dụ tuyệt vời cho sự hợp
nhất của cách mạng xã hội và cách mạng thơ ca, của các nhà thơ Trần Dần, Lê Đạt.
Dịch thơ và viết sách về cuộc đời và sự nghiệp Maia dường như Hoàng Ngọc Hiến
muốn tiếp tục con đường dang dở của các nhà Nhân văn. Tuy thời buổi bây giờ đã
khác, nhưng Maia vẫn còn phù trợ được cho những người sùng mộ ông. Bởi lẽ, dù
ngoài Đảng, Maia vẫn là người Cộng sản, một kiểu cộng sản ngoài đảng như
nhà thơ tự nhận. Thế rồi, chính tính nhị phân này, ở Maia và ở cả người sùng
bái ông, đã chỉ ra giới hạn của nhận thức bấy giờ. Dễ hiểu khi thấy sự đổi mới
vào thời Đổi mới của anh Hiến chỉ dừng lại ở Bến bờ của Boldarev (2).
Nhưng chỉ bấy nhiêu thôi dường như cũng đủ cho sự nhận diện
văn học Việt Nam đương đại và thổi một luồng gió mới cho những cây bút trẻ thời
tiền Đổi mới. Hoàng Ngọc Hiến bắt chết hiện trạng văn học bao cấp này bằng những
định ngữ thần tình như chủ nghĩa hiện thực phải đạo, nền văn
học dương tính... Người đọc bấy giờ đang sống trong bầu khí khô hạn đón nhận
ngay lập tức cơn mưa kịp thời (cập thời vũ) này. Hoàng Ngọc Hiến, quả
thực, cũng là một thứ Tống Giang cho những bút mới như Nguyễn Huy Thiệp, Bảo
Ninh, Tạ Duy Anh.
Tuy nhiên, khi văn học đã bước qua lời nguyền, thì
ngọn bút phê bình Hoàng Ngọc Hiến dường như cũng trễ nải. Anh quay sang dịch, tổ
chức dịch và viết giới thiệu những cuốn sách triết học ứng dụng của Franỗois
Julien, một giáo sư người Pháp giảng dạy triết học Trung Hoa. Anh đã biến
Julien thành một "hiện tượng" trong sinh hoạt trí thức ở Việt Nam.
Làm thời thượng hóa vấn đề minh triết. Thậm chí, một trung tâm nghiên cứu văn
hóa Việt Nam cũng lấy tên là Minh triết Việt. Như vậy, từ một người yêu thích
lý luận phương Tây, anh Hiến chuyển sang ca ngợi Hoài Thanh như một nhà phê
bình siêu lý luận, rồi ngưỡng mộ Julien như một người phương Tây có
công phát hiện lại cho dân chúng Việt Nam về minh triết phương Đông.
Đến đây, nhìn lại hành trình học thuật của Hoàng Ngọc Hiến,
ta thấy anh có sự vận động, đổi thay, thậm chí đổi ngược. Từ Liên Xô về Việt
Nam, từ Tây sang Đông, từ lý luận về tiền/ siêu lý luận. Có lần, biện luận cho
chủ trương "xê dịch" học thuật của mình, anh Hiến đã mượn lời
B.Brecht nói rằng con người không nên bén rễ, mọc rễ, cắm rễ ở một chỗ, mà phải
luôn di chuyển vì nó có hai bàn chân (3). Có thể, còn phải đi nhiều nước, qua
nhiều miền văn hóa nữa. Nghĩa là phải thay đổi; thay đổi để khỏi mọc rễ; thay đổi
là sống. Nhưng dù thay đổi thế nào đi nữa, thì ở anh Hiến vẫn có một cốt lõi
không thay đổi. Nó trở thành sợi chỉ đỏ xâu chuỗi các công việc khác nhau của
anh, cái bất biến để lý giải cái vạn biến: đó là hoạt động học thuật của Hoàng
Ngọc Hiến, xét cho cùng, chủ yếu là sự truyền bá tri thức, tức học để thuật. Có
điều, anh ít khi thuật một cách đủ đầy, có tính hệ thống, kể nội dung, mà
thường chỉ tóm lấy một luận điểm nào đó, ấn tượng nhất, đẩy đến cùng cực, rồi
diễn giải nó, phần nhiều theo ý mình, bằng các ví dụ bản thổ. Nhưng chính sự chống
lại lược thuật một cách hệ thống, chống lại lối tư duy kinh viện con tằm
ăn lá dâu rồi nhả ra tơ... này lại tạo ra sự độc đáo Hoàng Ngọc Hiến.
Làm học (và) thuật, dường như anh Hiến đã phản bội lại thiên
tư lý luận của mình. Có thể, ở Việt Nam, dù trong bất kỳ lĩnh vực nào, làm lý
luận thực sự là rất khó, cả ở điều kiện "tiên thiên" (người Việt
không thích hoặc không có khả năng lý thuyết), lẫn "hậu thiên" (lĩnh
vực lý thuyết luôn được coi như một đặc quyền của quyền uy chính trị). Hơn nữa,
làm lý luận đòi hỏi sự dài hơi, dám trồng cây lâu niên. Liệu có thể vì thế mà
anh chuyển sang công việc ngắn hạn hơn, phục vụ nhu cầu trước mắt, mang tính
khai minh cho sinh viên và bạn đọc số đông. Nhưng ở vào thời buổi cũng đang cần
đến những nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống, những chuyên gia cắm rễ vào một
lĩnh vực, mà không phải ai cũng làm được, thì đó là sự phao phí. Có thể, đấy là
sự hy sinh của anh, như mọi nhà khai minh khác bắt đầu từ Trương Vĩnh Ký. Cũng
có thể đơn giản chỉ do óc thực tế, tùy thời của anh. Hẳn vì thế mà các sách dịch,
hoặc sách lược thuật của Hoàng Ngọc Hiến thường là các sách loại hai, hoặc sách
đọc ở cấp độ hai. Tức không phải sách của những nhà lập thuyết như Bakhtin,
Lotman, Foucault, mà những người diễn giải họ, hoặc những nhà nghiên cứu tầm
trung khác. Tác phẩm của họ dễ với hơn với con người Việt Nam tầm thước. Vấn đề
nội dung, kể cả khi tả nội dung, đã rơi vào tình trạng "thường
thường bậc trung" như vậy, thì tâm lực anh Hiến dồn cả vào hình thức diễn
đạt.
viết, và trong viết văn quan trọng nhất là đặt
câu. Ở phương Tây, thời gian gần đây, nói đến văn học (litérature), người ta
thường nhấn mạnh đến phương diện "viết văn" (écriture). Trường Viết
văn Nguyễn Du được thành lập có sự mô phỏng Học viện Văn học Gorki (của Liên Xô
trước đây). Rất may là chúng ta không bắt chước cách đặt tên, chúng ta không gọi
là trường văn học..., mà đặt tên là trường viết văn... và đặt
câu. Những nhận xét của ông thầy tôi về bản thảo luận án chung quy lại là đánh
giá câu: câu này tốt, câu này hay, câu này kém, câu này bẹt, câu này trẹo
lôgích, câu này lười biếng".
Câu văn anh Hiến, quả thực, không hề lười biếng, ăn sẵn. Nó
găm vào óc người ta, làm tổ ở đấy mà sinh sôi nảy nở. Nó đẩy một ý tưởng nào đó
đến cực hạn, trở thành vô lý. Nó được thể hiện bằng những từ ngữ ấn tượng,
khiêu khích, thậm chí gây hấn. Nó xây nên hình ảnh một người phát ngôn thông
thái, độc đáo và khả tín. Hãy xem, anh phân biệt hai loại người bằng từ có và là: "Mâu
thuẫn trong "cõi người ta" là mâu thuẫn giữa "có" và
"là". Có thể có vợ nhưng không là một người chồng,
có thể có con nhưng không là một người cha, có thể có học
hàm nhưng không là một người thầy, có thể có học vị nhưng
không là một trí thức... có thể có tất cả nhưng không là gì
cả". Thực ra, những lời có cánh, những câu điểm huyệt như trên của Hoàng
Ngọc Hiến không chỉ là hình thức diễn đạt nữa, nó còn là nội dung, một nội dung
rộng, được cảm nhận thật sâu, trở thành nhức nhối, cho đến khi nó bật ra, thốt
lên với một hình thức sẵn có như vậy. Bởi thế, nó được cả xã hội nồng nhiệt đón
nhận.
Xã hội Việt Nam, cho đến tận giờ, chưa bao giờ trút bỏ được
tâm thức huyền thoại. Hẳn do sự tồn tại quá đát của các cộng đồng làng xã, của
một xã hội đóng kín. Lịch sử Việt Nam, vì thế, luôn trở thành huyền thoại, còn
huyền thoại Việt Nam thì lại sẵn sàng trở thành lịch sử. Có điều ngày nay,
trong xã hội hiện đại, sự huyền thoại hóa sự thật và sự thật hóa huyền thoại đó
thường tồn tại dưới dạng giai thoại. Vì thế, ở ta, bất kỳ một nhân vật nổi tiếng
nào bao giờ cũng nổi lên trước hết bằng giai thoại. Và, anh ta tạo ra giai thoại
bao nhiêu thì giai thoại cũng tạo ra anh ta bấy nhiêu. Anh Hiến đã từng rất nổi
tiếng với câu nói: "Dắt một con bò sang Liên Xô nó cũng đỗ phó tiến
sĩ", hoặc giai thoại anh dám tranh cãi với Timôphiev, tác giả bộ kinh văn Những
nguyên lý lý luận văn học, quyền uy một thời cả ở Liên Xô lẫn Việt Nam, và
nhất là Việt Nam. Với tâm thức này thì rồi có khi mọi tác phẩm sẽ qua đi chỉ những
giai thoại quanh tác phẩm còn ở lại. Ít người biết Trần Đức Thảo viết gì, nhưng
dường như ai cũng biết ông đã từng tranh luận với Sartre (4).
Hoàng Ngọc Hiến, dường như một cách vô thức, nắm bắt rất giỏi
cái tâm thức này và khai thác nó một cách triệt để. Những câu điểm nhãn trước
đây của anh như "hiện thực phải đạo", "văn học dương tính",
"văn học bước qua lời nguyền", "kể nội dung và tả nội
dung"... sẽ dễ dàng chinh phục số đông, và bằng con đường truyền khẩu nó cầm
chắc thọ hơn những cuốn sách dày cộp. Còn bây giờ, khi đề cao minh triết phương
Đông, anh đã đánh trúng tâm lý những người đương chán những lý thuyết duy lý và
duy ý chí cực đoan, xơ cứng, và đáng lẽ đi tìm một lý thuyết khác nhu thuận
hơn, thì lại muốn thoái lùi về tình trạng tiền lý thuyết.
Câu nói của anh Hiến: "Cái nước mình nó thế!" là một
câu nói đầy minh triết. Ai cũng thấy nó đúng mà không cần phải chứng minh, giải
thích gì cả. Người ta vận dụng nó một cách tự nhiên nhi nhiên vào mọi trường hợp
của đời sống. Giữa đường gặp sự bất bình, người ta tặc lưỡi: "Cái nước
mình nó thế!". Đứng trước một hiện tượng phi lý, đáng lẽ phải tìm hiểu, lý
giải và tìm cách thay đổi nó, thì người ta lại thốt lên: "Cái nước mình nó
thế!". Câu nói này nhanh chóng trở thành cửa miệng. Nói ra là giải quyết
xong mọi vấn đề, lương tâm lại ngủ yên. Thứ túi khôn dân gian này, tôi nghĩ, ở
ta hơi bị thừa, còn các lý thuyết đúng đắn thì lại thiếu.
Với hai bàn chân của mình, anh Hiến đã di chuyển
nhiều trong cả không gian địa lý lẫn không gian học thuật. Tuy nhiên, ít nhất với
tôi, mảnh đất anh để lại nhiều dấu chân đậm và to hơn cả là
phê bình văn học. Không phải chỉ để lại "một vài chữ" như anh thường
nói với niềm tự hào không thèm giấu, mà quan trọng hơn, lại cũng là ít nhất với
tôi, một lối phê bình nổi loạn, tuy xét kỹ nó vẫn thuộc phạm trù phê
bình ấn tượng. Trong nội bộ hệ hình phê bình bị quy định bởi lề lối tư duy kinh
viện Xô Viết thì phê bình Hoàng Ngọc Hiến là yếu tố nổi loạn nhất, có vẻ như chống
lại hệ thống, nhưng do bản chất ấn tượng (phát biểu, nhận định, điểm nhãn, siêu
lý luận) của nó, cho nên dù bao giờ cũng ở mép rìa của hệ thống, cũng
không bao giờ thắng được sức hút của nó, để văng ra ngoài, gia nhập một hệ thống
khác, tạo ra cuộc cách mạng hệ hình.
1. "Đây là cuốn sách giáo khoa triết học dùng cho học
sinh Pháp ban tú tài triết, tác giả là linh mục Lahr". Hoàng Ngọc Hiến cho
biết, và anh tâm sự thêm: "Một kinh nghiệm tâm đắc của tôi là trên đường học
tập nghiên cứu may mà "vớ" được một cuốn sách hay thì đọc thật kỹ,
không tiếc công sức. Căn cốt của học thuật một người tóm lại là những cuốn sách
hay được đọc kỹ" ("Con người không có rễ, nó có hai bàn chân", Ngày
nay, số 11-2005.).
2. Nhà văn Nga - Xô Viết, thuộc giai đoạn văn học sám hối,
các tác phẩm Bến bờ, Trò chơi, Tuyết bỏng được dịch ra tiếng Việt và
được bạn đọc bấy giờ đón nhận. Hoàng Ngọc Hiến đã gặp Boldarev và viết giới thiệu
nhà văn này rất nồng nhiệt.
3. Xin xem tlđd ở chú thích 1.
4. Theo tài liệu tự thuật của Trần Đức Thảo (Cao Việt Dũng dịch
từ tiếng Pháp) thì J.P.Sartre gặp ông chỉ để trao đổi chứ không hề có tranh luận.
Nhưng, có lẽ, "mặc cảm thuộc địa" hoặc "mặc cảm nhược tiểu"
đã nâng nó lên thành tranh luận triết học. Các giai thoại về "đối
đáp" giữa sứ ta với người Tàu, hoặc huyền thoại về "lưỡng quốc trạng
nguyên, "lưỡng quốc tiến sĩ" hẳn cũng nằm trong dòng tâm lý này.
Đỗ Lai Thúy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét