Truyện ngắn Thạch Lam 2
Bên kia sông
Huyện lỵ nơi quê tôi là một huyện miền hạ du, cũng giống những
huyện lỵ khác của nước ta, không có gì là đặc biệt. Huyện không to lắm, nhưng rất
sầm uất và đông đúc. Nhờ có con đường xe hỏa đi qua, và một con sông nhỏ, nhánh
của sông Nhị hà, nên sự buôn bán đâm ra thịnh vượng. Phố huyện có một giẫy -
bên này là đường xe hỏa, một giẫy nhà lá trát vách hay tường gỗ, những cửa hàng
nho nhỏ của người trong làng mở bán các thức lặt vặt. Trừ hai cái nhà gạch hai
tầng và khá rộng: hai hiệu của người khách đến lập nghiệp ở đây không biết từ
bao giờ, hai hiệu buôn to nắm hết cả quyền lợi buôn bán ở trong huyện. Sau quầy
hàng bằng gỗ, lúc nào cũng thấy một hai chú Khách ngồi gảy bàn tính, và ông chủ
hiệu, người béo tốt, hồng hào, đầu bóng như hòn bi, ngồi bệ vệ trong ghế bành,
luôn tay châm mồi lửa vào cái điếu thuốc lào. Những người khách chú ấy, và cái
cửa hàng đồ sộ của họ, là những người vật lần đầu gây cho tôi hình ảnh của sự
giàu có, bởi làm cho tôi đoán thấy một nước lạ ở đâu đâu, nước kỳ dị mà họ ở đấy
đến đây; thường ngày, có khi hàng giờ, tôi dừng lại đứng ngắm họ, nhìn nhận các
cử chỉ của họ, và nghe tiếng họ nói líu lo, khiến tôi nghĩ đến một thế giới
khác lạ lùng.
Hồi ấy, tôi mới mười ba tuổi. Thầy mẹ tôi ở Hà Nội vì buôn
bán thua lỗ nên mới dọn hàng về huyện này - chỗ quê của thầy tôi - đã được hai
năm. Chúng tôi ở một căn nhà nhỏ ba gian ngay giữa phố, mặt trước nhìn ra đường
xe hỏa, mặt sau trông ra cảnh đồng ruộng. Mẹ tôi dọn một cửa hàng tạp hóa nhỏ để
bán cho những người nhà quê quanh vùng đấy họ lên huyện những ngày phiên. Vì chợ
họp ngay ở giữa phố, những hàng quà bánh, hàng gạo, hàng cà, quang gánh ngổn
ngang và thúng mủng xếp hàng hai dẫy đối diện nhau. Dưới trời, tiếng ồn ào của
người họp chợ, một tiếng ồn ào đặc biệt, vang động và sang sảng, từ đám đông ấy
bốc lên như ngọn lửa, bao trùm lấy cả huyện; một đám đông hoạt động, và vui vẻ,
rực rỡ nhiều màu, đầy ánh sáng và tiếng cười, lẫn những câu chửi rủa lanh lảnh
như kim qua không khí.
Đó là tất cả nơi quê tôi, tất cả quang cảnh cái huyện Văn
Dương miền hạ du, mà một người trong họ tôi sính làm thơ đã vịnh trong bốn câu
tuyệt tác này:
Văn Dương xuân sắc cớ sao buồn,
Đủ mặt ta, tàu khắp bán buôn.
Dưới bến thuyền buôn chen chúc đậu.
Trên đường xe hỏa lại qua luôn!
Tôi qua ở đấy tất cả cái tuổi niên thiếu của tôi, sung sướng
và nhảy nhót như một con chim giữa cuộc sống hoạt động kia bao bọc lấy tôi, để
hết cả mắt mà trông, cả tai mà nghe, cả mũi mà ngửi cái mùi cát, mùi đất, lẫn
mùi khói rác người ta đốt ở đầu làng buổi chiều, theo gió với sương mà tràn vào
trong phố.
Tất cả chợ huyện, những kẽ ngách hay bãi không, đối với tôi đều
quen thuộc, thân mật như một vật cũ trong nhà. Nhưng, bên kia sông, ở về phía
huyện nha, cách chợ độ nửa cây số, có một nơi đối với tôi như một xứ bí mật, xa
lạ. Nơi ấy, người trong phố vẫn gọi là bến Sen, và con sông đi qua chỗ ấy được
gọi tên là sông Sen. Bến Sen là một túm nhà độ hơn mười nóc, lấp vào cây cối
xanh um, ở hai bên vệ một con đường giải đá đi tăm tắp không biết về đâu. Phía
sau, là một cánh đồng hoang, đầy bãi tha ma và bụi dứa; bên này, một con đê nhỏ
và một rặng cây; bên kia, một cái quán cột đá, đứng cạnh con đường nhỏ ngoằn
ngoèo đi vào làng có cây đa tiên, một cây đa cổ không biết mấy trăm năm, rễ thẳng
xuống đất to mấy người ôm, khiến không ai có thể phân biệt được đâu là gốc, đâu
là rễ. Gần đấy, có một cái phần mộ xây đá bỏ hoang, một vài tượng đá mốc rêu lẫn
trong cỏ rậm, dưới hai gốc thông cao vút, chội lên cả một vùng.
Một cái cầu gỗ lung lay sắp đổ, một cái cầu nhà nước đã bỏ, bắc
qua sông, nối liền bến Sen với chợ huyện bên này. Trong những dịp rất hiếm mà
tôi được sang bên ấy, không lần nào tôi đi qua chiếc cầu đó mà không ghê sợ;
các ván cầu cũ đã mọt rung động dưới bước đi, và qua khe hở, tôi trông thấy
dòng sông thăm thẳm chảy. Nhưng những dịp sang chơi bến Sen rất ít, vì người ở
bên này không hay giao thiệp với người bên ấy. Bến Sen ăn về tỉnh khác, tỉnh Bắc;
những bọn cướp nhiều lần vào cướp ở phố huyện rồi lùi sang đó để trốn tránh sự
tầm nã, lại càng làm cho vùng đó đối với dân huyện, đối với tôi, thành một vùng
hay nhộn và đáng sợ. Người trong phố thường thì thầm kể với nhau những chuyện xảy
ra bên ấy; và mỗi khi có người ở bến Sen sang, ai ai cũng chăm chú nhìn như một
người ở chốn xa lạ nào đến.
Có lần, một ông cụ già râu bạc đến chơi nhà tôi, cùng thầy
tôi uống rượu và ngâm thơ phú. Khi biết ông ta ở bên Sen, tôi nhìn ông ta khâm
phục lắm, mẹ tôi lại bảo ông ta là một ông đồ rất hay chữ, ở cái làng ven sông
phía bên kia, một làng nổi tiếng vì ngày xưa, đã có một thời mười tám ông tiến
sĩ. Khi ông cụ ra về, tôi đưa ra đến đầu cầu, tôi dừng lại nhìn ông giương ô đi
qua cánh đồng, đến khi ông nhỏ lấp ở chân trời.
Vùng bên Sen cứ luôn luôn ám ảnh trí tưởng tượng non nớt của
tôi. Nhiều lần, tôi lẻn ra đằng sau nhà, đứng lên một mô đất nhìn sang bên kia
sông, nhìn khu nhà nấp bên cây cối, cái quán trơ vơ và rặng cây trên bờ đê, bên
con đường đi không biết về đâu, về những chốn xa xăm nào tận bên kia giải đồi
núi lờ mờ xanh ở chân trời; với tôi, sinh trưởng ở chốn đồng bằng bùn lầy nước
đọng, đồi núi quyến rũ như một tiếng gọi lạ lùng. Trong giải núi ấy, có một quả
đồi mà những buổi chiều nắng trong, tôi thấy nổi đỏ lên trời xanh. Trên đỉnh đồi,
người ta thấy rõ một chùm cây, mẹ tôi bảo đó là chùa Thiên Thai. Thiên Thai!
cái tên huyền ảo thần tiên ấy khiến tôi nghĩ đến những chốn bồng lai xinh đẹp,
chốn vui chơi của những tiên ông mà thầy tôi vẫn đọc đến tên trong các truyện
và kể cho tôi nghe. Rồi tôi thơ thẩn cho đến buổi chiều, đến lúc mặt trời thấp
xuống, để được trông cả vùng bên kia sông chói lòa, rực rỡ tia ánh nắng; rồi tối
hơn nữa, lúc chỉ còn ráng chiều chiếu các nền mây, được trông dẫy nhà mờ đi và
thấp xuống, lẫn vào mặt đất, và hai gốc thông cao lên, nổi đen trên da trời.
Dần dần, tôi được có nhiều dịp sang chơi bên Sen. Sự đó là nhờ
ở anh Tiến, bạn tôi. Tôi đang học ở lớp ba trong trường, gần hết năm, thì Tiến
xin vào học. Tôi yêu mến anh ta ngay; Tiến là một đứa trẻ mảnh dẻ và xinh xắn,
mắt to và da trắng, tóc mềm như sợi tơ. Tôi yêu Tiến như yêu một cô con gái, Tiến
thùy mị, hiền lành và hết lòng với bạn. Nhưng ngoài những nết tốt ấy, Tiến khiến
tôi gần gụi và quyến rũ tôi là vì anh ở bên kia sông. Một cái đó đã khiến cho
anh ta đối với tôi trở nên một đứa trẻ kỳ dị khác thường. Tôi kết bạn với Tiến
rất là thân thiết, và chiều nào tan học, tôi cũng tiễn anh ta đến tận đầu cầu rồi
mới trở về.
Một hôm chủ nhật, Tiến rủ tôi sang chơi nhà. Tôi sung sướng
như một người sắp được đi phiêu lưu mạo hiểm, vì lần ấy là lần đầu tôi được
sang bên kia sông. Tôi với Tiến cùng đi qua cầu; chúng tôi dừng lại tựa vào
thành cầu nhìn xuống sông; mấy con thuyền của các người buôn bán chen nhau đậu
bên bờ, trên có mấy đứa trẻ chơi đùa và con chó nằm cuộn tròn trên mui thuyền
ngủ. Đó chính là những chiếc thuyền từ tỉnh Bắc về, chở những thứ hàng lạ. Tiến
giơ tay chỉ vào đám thuyền bảo tôi:
- Ngày trên Bắc về đây, chúng tôi cũng đi một chiếc thuyền
như thế này.
Tôi nhìn Tiến muốn hỏi anh ta về tỉnh Bắc xa xôi ấy, nhưng lại
thôi. Tiến đã giắt tay tôi qua cầu đi đến phố Sen. Nhà Tiến ở cuối phố, sát
ngay cánh đồng. Tôi thấy một cửa hàng tạp hóa cũng giống như cửa hàng của mẹ
tôi, nhưng nhỏ hơn. Trên tấm phản, sau mấy ngăn hàng, một bà cụ già tóc bạc
phơ, vẻ mặt nhân từ, đang ngồi tính tiền. Thấy tôi và Tiến bước vào, bà cụ tươi
nét mặt hỏi:
- Cháu đi đâu về thế?
Tiến vừa lấy vạt áo lau mồ hôi, vừa đáp:
- Thưa bà, con sang chợ chơi ạ.
Bà cụ nhìn vào tôi, đứng nấp sau lưng Tiến, bảo:
- Cháu về mà uống nước. Cả cậu nữa, cậu vào chơi. Trời nắng
thế này mà đi có nhọc không?
Tiếng bà cụ êm dịu và ngọt ngào, khiến tôi thấy dễ chịu và
vui vẻ.
Tiến mời tôi vào trong nhà, bầy biện rất sơ sài, những đồ đạc
rẻ tiền và cũ kỹ. Chúng tôi vừa ngồi thì bỗng trong nhà bước ra một người con
gái độ mười lăm tuổi. Tôi biết ngay là chị Tiến, vì giống Tiến như hệt, cũng nước
da trắng, hai mắt to. Trông thấy em, chị Thúy nở một nụ cười trên đôi môi thắm,
một nụ cười tươi và duyên sắc như trong đời tôi chưa từng thấy bao giờ.
- Em đã về đấy à?
Tiếng nói cũng êm dịu như tiếng bà cụ, nhưng trong hơn. Thúy
lại gần chúng tôi, săn sóc hỏi em. Tôi ngây người trước cái sắc đẹp của nàng,
trong lòng tự nhiên cảm động; tuy còn trẻ nhưng tôi cũng biết là tôi đương đứng
bên một sự gì quý báu và hiếm có, một sự gì mong manh rồi sẽ không còn nữa.
- Em cùng học một lớp với Tiến à?
- Vâng ạ.
Thúy vuốt sẽ qua tóc tôi, bảo:
- Em ngoan ngoãn quá.
Nàng tiếp:
- ở đây chơi với em Tiến rồi ăn bánh nhé. Tiến, chị có để phần
bánh trên bàn kia kìa.
Thúy không ăn, chỉ ngồi nhìn chúng tôi; tôi thấy nàng nhìn Tiến
rất thương yêu khiến tôi ghen với bạn đã có người chị xinh đẹp và ân cần như thế.
Nhưng nàng cũng hỏi chuyện tôi luôn, tôi trả lời hoạt bát và vui vẻ, không phải
cốt nói, nhưng cốt được nghe cái tiếng trong trẻo và êm ái của nàng.
Ăn xong, Tiến rủ tôi ra chơi ngoài bãi tha ma đằng sau nhà. Lần
đầu, tôi được đứng giữa cái vùng bí mật, được nhìn gần hai gốc thông với mấy tượng
đá giấu trong cỏ. Tiếng thông reo rì rào như một tiếng đàn xa lạ, trầm như ở một
cõi khác nào đưa lại, và cái quán cột đá lộng gió giữa cánh đồng hình như đang
đợi chờ những người ở thời nào, lâu lắm, đến nghỉ chân.
Từ hôm ấy, thường thường tôi vẫn sang bên Sen luôn. Tôi muốn
gần gụi cây cỏ bên vùng ấy, đối với tôi vẫn có một vẻ riêng khác hẳn cây cối
bên này. Tôi muốn được luôn luôn trông thấy Thúy, được nghe tiếng nói của nàng,
được nhìn cái miệng xinh tươi của nàng hé trên hàm răng đen nhánh. Cả bà cụ
cũng khiến tôi yêu mến. Tôi không biết rõ gì về gia đình của Tiến, nhưng trên mặt
các người trong nhà ấy, lúc nào tôi cũng thấy phảng phất một vẻ trầm mặc, một
nét thoáng buồn, càng khiến họ đáng yêu. Tôi đoán trước khi đến buôn bán ở đây,
họ đã có một cuộc đời lạ lùng và phong phú, mà vết tích còn lại là những đồ vật
kỳ dị, như thanh gươm, cái khánh đồng, con rùa ngọc, để trong một cái tủ kính
mà gỗ đã long sơn. Với lại họ khác những người vui vẻ, thô sơ bên này thế; chị
Thúy và Tiến đều có nước da trắng xanh, chân tay nhỏ nhắn, những dáng điệu
thanh nhã, tiếng nói nhẹ, không như các người hồng hào vì cục mịch ở trước nhà
tôi. Hồi ấy, tôi cho là vì họ ở cái vùng bí mật ấy, hay là vì họ là những người
khác thường nên mới dám đến ở đó.
Tôi chơi với Tiến càng ngày càng thân mật; tôi được coi như một
người con của gia đình ấy. Chị Thúy coi tôi như em, cũng săn sóc và âu yếm tôi
như Tiến. Nhiều khi chị để tôi ngả đầu xuống bên lòng, xoa tóc tôi, hỏi những
câu chuyện ân cần. Đến bây giờ trải qua bao nhiêu lâu, tôi vẫn còn nhớ, lúc
nhìn lên, đôi mắt trong và cái miệng xinh thắm của nàng cúi xuống tôi, bàn tay
nhỏ nhắn của nàng đặt trên trán tôi nóng vì chạy nhảy ngoài cánh đồng. Tôi còn
nhớ mãi hình ảnh người con gái yểu điệu và tươi đẹp ấy, nổi lên trong thời niên
thiếu của tôi như một nàng tiên hiền hậu, giữa một vùng cây cỏ lạ.
Nhưng không bao lâu, tôi phải từ giã người bạn nhỏ của tôi;
thầy mẹ tôi dọn nhà lên Hà Nội, tôi cũng phải đi theo. Buổi cuối cùng của tôi với
Tiến bên sông Sen vào một ngày mùa đông u ám và rét lạnh. Chúng tôi cùng nhau
đi thăm một lần cuối cùng mấy ông tượng đá vẫn ngồi yên trong cỏ; giờ xa nhau gần
đến, có lẽ không bao giờ còn gặp nhau nữa, song chúng tôi còn trẻ quá không biết
buồn. Đến lúc Thúy đặt tay lên vai tôi, êm ái bảo:
- Bao giờ chị mới lại được gặp em?
Tôi bỗng thổn thức cả người, nước mắt tràn ra khóe mắt, tôi gục
đầu vào vai Thúy khóc.
Câu chuyện phải có lúc hết. Mười năm sau tôi mới lại có dịp
trở về Văn Dương. Quang cảnh khác xưa, phố chợ bây giờ sầm uất hơn, nhà ngói
san sát. Những người cũ ngồi bán hàng đều già, râu tóc bạc, và những trẻ cùng học
với tôi trước kia bây giờ đã ngồi thay vào đấy, thành những người lớn trông lạ
hẳn đi.
Tôi sang bên kia sông; cái cầu sắt không còn nữa: một đêm gió
to, cầu bị sập và người ta cũng không sửa chữa vì con đường sang Bắc ít người
qua lại. Bây giờ qua sông phải dùng đò. Tôi qua đò lúc buổi chiều, lúc sương đã
bắt đầu xuống lẫn với khói trong mấy chiếc thuyền chài đậu ở bến đưa ra. Một cảnh
hoang tàn đợi tôi: bên kia sông, giờ chỉ còn là miếng đất bỏ hoang, cỏ mọc trên
những thềm nền nhà cũ. Một cái quán nước siêu vẹo trống không bên một gốc đa cằn.
Cả một dẫy phố đã mất đi, những cây cối lơ thơ và xơ xác dưới gió chiều: chỉ giặng
cây bên đê vẫn còn, vẫn như cũ, bên con đường xa thẳm không biết về đâu, con đường
sắp đầy ánh tối mênh mông, tận chân trời không có một bóng người nào.
Tôi không dám đi xa nữa; buồn rầu, tôi trở lại đò, qua dòng
sông đã xám dưới sương mù. Tôi không hỏi người lái đò xem những người trước ở
đây bây giờ đâu, tôi chắc anh ta cũng không biết. Thấy chân cầu gạch đen rêu phủ,
tôi nhớ lại người bạn nhỏ của tôi, nhớ đến Thúy, dáng điệu thùy mị đáng yêu của
nàng, cái vẻ buồn lúc nào cũng phảng phất trên mặt nàng, bây giờ tôi đoán biết
đã che kín bao nhiêu sự đổi thay đau đớn. Đôi mắt nàng như vừng trời trong thẳm
tôi đã được soi thấy cái dư vị của cuộc đời.
Lên bờ, tôi còn quay lại lần cuối nữa, nhìn rặng cây, cái
quán, với làng mạc xa xa dưới chân giải núi tận đâu kia; vùng bên kia sông đối
với tôi không còn bí mật nữa, chỉ còn cho tôi trông thấy cái buồn thảm của đất
nghèo.
Bóng người xưa
Trong lò sưởi, trên một đám than hồng; ngọn lửa nhẩy múa reo
cái vui lách tách của củi khô, mặc bên ngoài gió lạnh và mưa bụi của mùa đông.
Một hơi nóng tỏa ra, thấm dần vào mọi vật trong căn phòng nhỏ. ấm cúng quá!
Không còn gì thú hơn được ngồi bên lò sưởi mà nghĩ những chuyện vẩn vơ.
Vân vừa xoa tay tren ngọn lửa vừa hưởng thong thả như thấm
thía cái thú ssơn sơ ấy. Chàng để người lọt sâu vào chiếc ghế bành; ngoảnh đầu
ra nhìn Mai ngồi trên phản gần đấy, bên ngọn đèn, đang thái mấy thứ rau trên thớt.
Nàng làm việc chăm chú và cẩn thận, như xưa nay nàng vẫn làm. Ngày mai là ngày
sinh nhật đứa bé con đầy tuổi; hai vợ chồng Vân đã bàn định làm một bữa tiệc nhỏ
để mừng, nên tối nay vợ chàng sửa soạn sẵn các thức ăn.
Thấy lò sưởi ấm cứng, Vân cất tiếng bảo vợ:
- Ra đây mà ngồi cho đỡ lạnh.
Vợ Vân không ngừng tay đáp:
- Ðể em thái nốt chổ này đã.
- Thì mang lại đây mà làm có hơn không, ngồi đấy rét chết.
Chiều ý chồng, nàng đứng lên lấy một cái chiếu giải trước lò
sưởi, rồi mang chiếc đèn đến.
Vân rụt chân lại để nhường chổ. Mai thu xếp đồ làm, bỏ giầy
bước vào chiếu rồi vén áo cúi quỳ xuống bên chồng, vừa nhìn chàng hỏi:
- Em ngồi đây nhé?
Vân gật đầu, rồi chàng vội bảo vì thấy nàng sắp sửa đổi dáng
ngồi để quay về phía đèn:
- Không, không cứ ngồi yên như thế...
Nàng nhìn Vân ngạc nhiên hỏi:
- Làm sao?
Vâm mỉm cười, trả lời thong thả:
- Không làm sao cả, anh bải em cứ ngồi như thế.
Mai ngồi trước ngọn đèn chiếu qua mái tóc, làm nổi một vùng
ánh sáng chung quanh khuôn mặt đều đặn của nàng. Dưới ánh lửa yếu của than hồng
trong lò sưởi, trong bóng tối mờ, Mai trông khác hẳng; Vân không thấy trước mắt
mình nét mặt hàng ngày của vợ nữa, chàng chỉ thấy một người vợ trẻ hơn, đẹp
hơn. Những vết răn của người đàn bà luống tuổi đã mất đi trong bóng tối; khuôn
mặt trở nên đều đặn, cái miệng hơi trề trên hàm răng nhỏ muốt, đôi mắt loan thấy
long lanh sáng. Hình ảnh đó làm Vân nhớ lại Mai lúc trước, Mai ngày mới gặp
chàng, ngày là một thiếu nữ mà vẻ xinh đẹp đã làm chàng cảm động.
Vân lặng yên cả người, nhìn vợ vẩn thản nhiên như thường,
chăm chú vào công việc trong trí chàng, cả một dĩ vãng nổi lên với rõ rệt một
hình ảnh xinh tươi của Mai còn trẻ; ấy là tất cả cái lịch sử tình yêu của
chàng. trời, chàng đã yêu mến biết bao nhiêu người thiếu nữ ấy? Dáng điệu và vẻ
đẹp của Mai lúc bấy giờ đã khiến cho lòng chàng bao lần rung động; chàng đã yêu
đắm đuối thiết tha, mà Mai cũng yêu chàng như thế. Nhưng vì sự nghiêm khắc của
gia đình, mai không lấy được chàng mà về tay người khác. Vân bỏ ra đi, và sự
đau đớn của chàng sâu xa đến nổi bây giờ nghĩ lại Vân còn thấy nỗi đau giẫy giụa
trong lòng.
Năm năm sau chàng trở về thì Mai đã góa chồng. Hôm gặp nhau,
hai người cùng khóc; nhưng Mai bây giờ không còn đâu vẻ xinh tươi nữa, năm năm
héo hon bên người chồng ác nghiệt đã đổi thay nàng. Những sự đau khổ đã in vết
răn trên trán, hai mắt nàng mất vẻ sáng tươi, và đôi môi chỉ còn nở một nụ cười
an phận và buồn rầu, hình bóng của nét cười duyên thắm mà chàng đã yêu mến ngày
xưa.
Lòng thương Mai đến khiến Vân lại lấy nàng. Hai vợ chồng bây
giờ được một đứa con. Nhưng trước kia, một vài tháng sau khi lấy nhau, Vân
thành ra hối hận đã lấy Mai. Một sự chua chát thấm vào tâm hồn chàng. Vân trở
nên lãnh đạm, rồi ghen ghét. Chàng thành ra tàn ác đối với vợ; nhiều khi, trong
lúc giận dữ, chàng đã thốt ra những lời cay đắng mỉa mai, chàng hưởng cái thú lạ
lùng làm đau xót người công còn gì chống đở được cho mình. Có lần chàng đã bảo:
- Mày tưởng mày còn quý hóa lắm đấy. Tao lấy mày nghĩ mà dại,
lấy cái của thừa!
Mai chỉ khóc Vân nhìn mà không thương; chàng để cho cái giận
chiếm lấy lòng, cho rằng lấy Mai là đã làm ơn huệ cho nàng lắm rồi.
Mai chịu hết những tủi nhục như thế; nàng không hề oán trách
chàng. Dần dần Mai nhẫn nại sống bên cạnh chồng, sợ hãi và trung thành như một
đứa ở, sẵn sàng cúi đầu trước những lời chửi mắng. Ðứa con ra đời làm Vân trở
nên dịu dàng và tử tế hơn đối với nàng, nhưng lòng chàng thì vẫn hờ hững dửng
dưng.
Nhớ lại những việc đã qua, lần này Vân thấy xúc động trong
lòng. Chàng cúi xuống nhìn Mai, nhìn nét mặt hiền từ và hơi buồn bã trước ánh lửa.
Chàng bỗng thấy như vẻ buồn ấy là một sự trách móc cái tàn ác của chàng bấy lâu
nay. Một tấm tình thương rung động và nẩy nở trong thâm tâm chàng. Vân dịu dàng
đặt tay lên vai vợ, nói khẽ. Tiếng chàng run, và lạ hẳn đi đối với tai chàng:
- Khuya rồi đấy, thôi em đi nghỉ đi, để mai làm.
Lần thứ hai, Mai trả lời:
- Ðể em thái nốt chỗ nầy đã cho xong một thể.
- Không, em cứ cất đi. Lúc nào làm chả được vội gì.
Mai ngừng tay, thu dọn. Nàng thôi vì quen nghe lời chồng xưa
nay, và không dám trái ý. Nhưng đến khi ngửng lên nhìn Vân, nàng thấy trong mắt
chàng một vẻ âu yếm khác thường. Một nụ cười nở trên môi, nàng vui vẻ nói:
- Ừ nhỉ, thôi em cất đi nhé.
Vân cho thêm củi vào lò sưởi, khỏi cho ngọn lửa sáng lên.
Chàng bảo:
- Xong em vào ngồi đây cho ấm.
Mai ngồi xích lại bên chân chồng, tựa vào thành ghế. Hai người
yên lặng ngồi nhìn ngọn lửa reo; ánh hồng trong lò tỏa ra làm xinh đẹp khuôn mặt
của nàng.
- Em bé bây giờ chắc đương ngũ kỹ đây.
- Mai nó dậy thấy ngựa anh mua chắc nó sung sướng lắm anh nhỉ?
Vân gật đầu, yên lặng – Dĩ vãng lại xâm chiếm ý nghĩ của
chàng. Vân nhớ đến Mai ngày còn xinh và trẻ tuổi, đến cái tình yêu mến của lòng
chàng. Nếu không có sự ngáo trở sẩy ra chàng đã lấy cô thiếu nữ thơ ngây và
trong sáng là Mai, trước khi nàng biết nững sự đau khổ vì chồng. Chàng sẽ âu yếm
giắt nàng cùng đi trong cuộc đời... Lòng nhớ tiếc những ngày sung sướng có thể
có ấy rồn đến chàng như một lớp sống vào bờ. Nhửng kỷ niệm cứ hiện lên trong
trí nhớ của chàng rõ rệ. Vân ngập ngừng cuí xuống Mai:
- Em còn nhớ trước ngày em về hà chồng không? Cũng rét như
hôm nay, chả khác gì. Có phải hôm ấy em bận chiếc áo nhung đen không?
Mai khẽ lắc đầu:
- Lâu nay em cũng không còn nhớ nữa.
Nàng ngạc nhiên: từ khi lấy nhau, nàng không thấy chồng nhắc
đến những chuyện cũ về trước bao giờ.
- Thấm thoát thế mà đã bẩy, tám năm rồi, chóng quá em nhỉ. Ðộ
ấy, chúng ta khỏ biết bao nhiêu; anh trông em khóc anh buồn quá. Có phải thế
không, em Mai.
Mai yên lặng nhìn ngọn lửa chập chờn, nàng thấy hiện dần ra
trong ấy những hình ảnh nàng tưởng đã mờ. Tiếng nói âu yếm của Vân xúc động đến
những mối đau khổ của nàng... dần dần, những ngày qua sống lại, đè nén trên tâm
can. Nàng thấy bàn tay Vân lần xuống nắm chặt lấy tay nàng; âu yếm, Mai ngả người
dựa hẳn vào chân chồng. Vân tưởng như sống lại bao nhiêu năm về trước, chàng tưởng
ngồi dưới chân chàng chính là Mai khi xưa, lòng chàng lại thiết tha yêu mến.
Cái kỷ niệm êm đềm ấy đến lần với những buổi đau khổ của Mai,
những lúc chàng hành hạ, tàn ác với chàng. Vân thấy mủi lòng, nước mắt bỗng
nhiên ứa lên cổ khiến chàng nghẹn ngào thương xót. Chàng kéo Mai vào lòng thổn
thức:
- Em tha lỗi cho anh nhé.
Mai lặng lẽ ngước mắt nhìn chồng. Khóe mắt nàng đẫm lệ; bao
nhiêu nỗi buồn trong lòng nàng tan đi, chìm đắm trong tình yêu mến.
Nàng giờ tay quàng lên vai Vân, gục đầu vào ngực chồng, Vân sẽ
hôn trên vừng trán đã răn của nàng, nhưng chàng tưởng ôm Mai khi xưa.
Hai người đều yên lặng không nói, cùng nhìn ngọn lửa reo hồng
trong bóng tối, Vân thấy sung sướng như vừa mới yêu, và từ dĩ vãng xa xăm bóng
người xưa lại trở lại bên chàng, tươi tắn và xinh đẹp như buổi gặp gỡ ban đầu.
Chàng bỗng thấy một ý muốn khêu gợi tro tàn, cái quá vãng của
Mai từ khi đi lấy chồng, chưa bao giờ Vân hỏi đến. Hai người cùng lặng lẽ và đồng
ý mà không nhắc đến chuyện cũ. Nhưng tối nay Vân muốn biết. Chàng bắt Mai kể lại
cuộc đời của nàng bên người chồng trước, những nỗi đau khổ, lo nghĩ nàng đã trải
qua, Mai vâng lời, thuật lại với một giọng nói trầm buồn bã, một giọng nói khẽ,
như nàng sợ làm trở dậy trong thâm tâm những vang động đã lặng yên.
Vân thấy một cảm giác lạ. Chàng tưởng như có mũi lạnh trích
vào tim mỗi khi Mai kể đến một hành vi tử tế hay âu yếm của người chồng cũ;
không xót thượng, chàng đợi nghe những cái tỉ mỉ, rõ rệt vẽ lại trong trí dáng
điệu thân ái của hai người. Lòng chàng đau đớn như chảy máu; chàng nắm chặt lấy
Mai ghì nàng sát vào người. Mai kể những nổi tủi nhục, những lúc bị đánh đập,
Vân thấy khổ sở như chính chàng bị hành hạ; Vân lại nghĩ đến những lúc, chính
chàng đã hành hạ, tàn ác với Mai. Chàng rùng mình cho sự tàn ác ấy, tự giận
mình đã ích kỷ và tự ái nhiều.
Khi Mai đứng nói, Vân ôm đầu nàng quay lại trước mắt mình,
chàng nhìn vợ qua nước mắt, hôn vào má nàng:
- Anh thương em quá.
Rồi muốn ghi nhớ một sự thay đổi từ đây, Vân âu yếm nhắc:
- Ngày mai em bé được đúng một tuổi rồi.
Mai không đáp, tin cẩn nép vào người chồng. Ngọn lửa trong lò
bừng sáng và rởn múa trên thân hồng, củi khô lách tách nổ như vui cùng với cái
vui của vợ chồng.
Buổi sớm
Cả đêm Bính trằn trọc không ngủ được, tuy chàng đi chơi về
khuya. Trên tấm gối đẫm mồ hôi, Bính áp má nằm nghiêng cổ nhắm mắt. Nhưng hể chập
chờn một ít lâu, những mơ mộng kỳ dị, không liên lạc, lại đến ám ảnh chàng.
Bính mở mắt, ngơ ngác nhìn lên đỉnh màn rồi lại nhìn nếp màn lặng rũ yên trong
bóng sáng lờ mờ của ngọn đèn con vặn nhỏ. Chàng nghe chiếc đồng hồ treo trên tường
buồn bã đánh hết giờ nọ sang giờ kia, và cái tiếng tích tắc đều đều kêu se sẽ
cái sống ban đêm của giây cót thép. Bính thấy mệt mõi vô cùng hơn bao giờ hết,
đè nặng trên đầu các tay chân và thấm vào thớ thịt rời ra: tất cả những cuộc
chơi trác táng từ trước đến nay như cùng dồn cái mệt đến người Bính trong lúc
này.
Một tiếng gà gáy đầu tiên êm từ xa đưa lại. Ðêm tàn, buổi sớm
bắt đầu; ánh sáng mờ và yếu ớt len vào khe cửa và khe hở của lá gói lợp nhà mà
cái nóng ban ngày đã làm hé tách ra - một thứ ánh sáng lạnh và biêng biếc như
thiếc mới.
Bính tung màn ngồi dậy. Không khí trong căn nhà tranh ẩm ướt
qua một đêm đã trở nên u uất và nặng nề, đè nén trên mí mắt chàng. Bính toan nằm
lại, như mọi khi; nhưng về sau, không hiểu tại sao, chàng bước xuống đứng dậy hẳn.
Ðất lạnh dưới bàn chân cho chàng một cảm giác mát và dễ chịu; chàng để chân đi
đến mở cửa buồng, và một lát sau, chàng đã ở ngoài sân.
Bính ngồi trên thểm gạch, bên gốc cau. Thật là lạ lùng, ban sớm
yên tĩnh mà mát quá, một cái yên tĩnh mát hay một cái mát yên tĩnh chàng cũng
không biết nữa. Nước trong bễ nhỏ lắng trong và mát lạnh, sương ở trong bể nhỏ
lắng trong và mát mát, đất sân cũng mát khô và sạch sẽ (nước giữ cái mát của
đêm trên mặt, và cây hồng giữ cái mát của đêm trong kẽ lá). Bính bắt đầu thấy
cái mệt mõi trong người tan dân, máu bắt đầu chảy mạnh như xô nhau đi đón khí
trời trong.
Ðã lâu lắm, chàng không dậy sớm. Chàng đã quên không biết buổi
sáng thế nào. Bao nhiêu năm nay miệt mài trong những cuộc hành lạc của đêm,
chàng trở về nhà trong đêm khuya khi người ta bắt đầu đi bán hàng. Nhiều lần nằm
mệt mỏi trên chiếc xe, mắt díu vì buồn ngủ, chàng gặp những người đàn bà gánh
hàng rau lên chợ bán ; những gánh rau mới hái, tươi xanh và ướt nước, khác
hẳn cái thân hình rời rã và khan ráo của chàng lúc ấy. Ba, bốn giờ đêm! Giờ Hà
Nội đang ngủ yên trong các căn nhà đóng kín, giờ mà ở ngoài, giẫy đàn điện chiếu
sáng những con đường dài vắng, yên lặng và trống trải, chỉ có lá khô rơi. Lúc ấy
chàng mới ở những ngõ hẻm tối tăm đi ra, mũ đội sụp, hai tay bỏ túi và bước
chân nặng trên hè gạch. Cái chấm đỏ thắm như màu mệt, của một ngọn đèn lục lộ
treo giữa lối, lặng chiếu từ đầu xa, tận đầu đàng phố kia.
Chàng đã sống như thế, bao nhiêu lâu nay rồi ? Bính cũng
không nhớ nữa. Lâu lắm, trước ngày vì hết tiền, mất việc, chàng phải về ở căn
nhà cũ này, cái dinh cơ nghèo nàn độc nhất còn lại của nhà chàng.
Bính đưa mắt nhìn mảnh vườn nhỏ trước mắt, cái sân đất khô
hãy còn vết chổi quét của mẹ chàng chiều hôm trước. Cảnh vật quen thuộc này đối
với chàng thành lạ, vì đã lâu chàng không nhìn thấy trong buổi sớm bao giờ. Cái
núi non bộ nhỏ mà thầy chàng, khi còn sống, vẫn hay đứng lặng ngắm hàng giờ;
cái bể con rêu phủ,hai thân cau mốc trắng, luống rau mà mẹ chàng vun xới, cây hồng
nhung nảy hoa cùng buổi sớm, tất cả những vật đó bây giờ trở lại dần thân mật
như ngày xưa.
Cái mát và rộng thoáng của buổi mai khiến Bính nhớ lại ngày
tuổi trẻ. Ðộ ấy, chàng dậy sớm cũng như mọi người, khỏe mạnh và tỉnh táo như mọi
người. Chàng lấy thau múc nước trong bể ra rửa mặt, nước mưa lạnh thấm mát vào
da. Buổi sớm bấy giờ chàng thích lắm. Chàng ưa nhìn trời cao và trong xanh, những
lá cây ngoài vườn tươi và mướt với một vẻ riêng, hình như chúng cũng mới tỉnh dậy
như người. Qua giậu thưa, thấp thoáng những người đi chợ sớm, tiếng cười nói
vang lần với tiếng đòn gánh kĩu kịt vì những bì gạo nặng. Rồi vùa học ôn lại
bài nhà trường bên chiếc án thư đầu nhà, chàng vừa lặng nghe những tiếng gù gù
của bầy chim bồ câu trong chuồng bên xóm.
Không bao giờ Bính nhớ lại những ngày tươi trẻ ấy. Chàng vẫn
quên đi, và đêm tối sau mệt mỏi làm mất cái quá vãng đã xa xăm ấy. Giấc ngủ nặng
nề không để chỗ cho những nhớ lại mong manh, còn lúc tỉnh chàng đắm đuối dẫn
mình vào những cuộc vui chơi chán nản.
Bính không muốn nghĩ đến cái cớ tại sao chàng trụy lạc. Từ
khi thầy chàng mất đi Bính đâm ra ăn chơi mà mệt. Ðêm quyến rũ chàng như ngọn lửa
quyến rũ con thiêu thân. Ðêm và ánh sáng rực của đèn, ánh sáng làm đẹp mịn má hồng
và làm thắm cặp môi của những gái đàng điếm lẳng lơ : rượu sánh trong cốc,
với gói thuốc phiện thơm càng làm trí chàng say sưa. Bao nhiêu lần chàng đã giằng
tay mẹ già níu giữ con trước cửa, bước vội ra để không nghe tiếng nức nở ở lại
trong bóng tối. Chàng chơi mãi cho của cải hết, nhà cửa bán dần, và sức khỏe của
chàng ngày một mất đi. Một sự chua chát thấm vào tâm hồn chàng, một sự chán nản
cho mình và cho người khác. Có lẽ mối thất vọng trước sự tan vỡ của những mộng
tưởng cao quý và đẹp đẽ trong đời chàng đã đẩy Bính xuống vực sâu. Trong thâm
tâm, chàng mơ hồ cảm thấy như một bóng lửa sáng chiếu ngoài đêm tối, đáng lẽ
chàng theo mà chàng đã không theo.
Nhưng hôm nay, cái mát của buổi mai làm tươi lại những cảm
giác trong sạch, thanh cao ngày nhỏ. Tiếng gù gù của chim bồ câu bên hàng xóm
không còn nữa, nhưng tiếng cười nói của những người đi chợ sớm vẫn vang lên bên
giậu thưa. Nước mưa trong bể vẫn mát như ngày còn trẻ; trên cao, trời xanh thẵm
không một gỡn mây, trời lát nữa sẽ rực rỡ những ánh hồng của nắng.
Bính đứng dậy bước đến bên bụi hồng nhung cạnh bể. Chàng cúi
xuống ngắt một bông hoa. Như ngày xưa, chàng ngắt để trên đĩa xứ sớm mai ;
bông hoa vừa hé nở, cánh nhỏ còn khép giữ một giọt sương long lanh trong như ngọc.
Tự đóa hoa bốc lên một mùi hương quen mến, mùi hương mộc mạc và đầm ấm của hồng
nhà; Bính tưởng mùi hương dịu dàng và cao quý cũng như tình yêu của mẹ
chàng đối với chàng.
Lòng thương mẹ rung động khẽ trong tâm Bính. Chàng muốn sớm
nay, khi trở dậy, bà mẹ già đã nhiều lần khóc vì con lại thấy trên đĩa sứ mấy
bông hoa hái trong sương sớm như ngày xưa. Ðây là thức dâng của buổi sớm mai, của
cái mát thanh cao giữ trong khe lá và trên mặt nước mưa. Bính thấy tâm hồn cũng
trở nên mát rợi và yên tĩnh. Chàng thấy mình, lại như ngày trẻ, đang cúi người
nhìn sương đọng trên chùm lá tươi non. Và tiếng buổi sớm, tiếng gù của đôi chim
bồ câu đôi bên hàng xóm từ những ngày đã qua trọng thời niên thiếu, lại hình
như vang vang ở đây.
Chàng đứng dậy ; gió mát từ ngoài đồng rộng quanh nhà nhẹ
nhàng đưa lại mùi cỏ ướt. Trời đã đổi mầu xanh ra mầu hồng phơi phới, trên cao.
Bình minh của ngày rực rỡ bắt đầu tươi sáng ở phía xa.
Trong nhà, bà mẹ đã trở dậy, vén màn, ngồi lần tràng hạt, cụ
niệm trăm câu kinh Phật. Tiếng mẹ chàng còn trong và nhẹ như xưa.
Bính rón rén đi vào ; không dám động mạnh. Chàng đến bên
bàn thờ đặt hoa trên đĩa, thay nước mưa trong chiếc bát cổ. Và khi đặt tràng hạt
xuống, mẹ chàng hỏi như ngày xưa, dịu dàng và âu yếm, như khi chàng còn nhỏ:
- Sao dậy sớm thế, con?...
Cái chân què
Cuộc đời có nhiều cái chế riễu đắng cay và đau đớn làm cho
chúng ta đột nhiên hiểu cái ý nghĩa chua chát và sâu xa. Tôi sẽ kể câu chuyện
dưới đây làm chứng cho sự ấy.
Tôi có một người bạn tên là Minh. Anh ta là một thiếu niên
linh lợi, đảm đang và rất có nghị lực. Nhà anh vốn nghèo. Cũng vì cái nghèo ấy,
mà từ thuở nhỏ, anh Minh đã phải chịu bao nhiêu nỗi khổ sở, thiếu thốn, không kể
những nỗi bị ức hiếp mà những người nghèo ở thời nào cũng phải chịu. Vì vậy,
khi lớn lên, Minh chỉ có một chủ đích: làm giàu. Anh ta vẫn thường nói với tôi:
"Đời bây giờ, chỉ có một sức mạnh, là đồng tiền. Nếu anh có tiền, anh làm
gì cũng được". Tôi mỉm cười hoài nghi trả lời rằng sự đó không chắc lắm, rằng
tuy đồng tiền là một sức mạnh đáng quý thật vì ai dám chê bai nó? Nhưng không
phải là mục đích cốt yếu ở đời vì đồng tiền không đem lại cho ta sự sung sướng
bao giờ cả. Minh nhún vai, cho tôi là một anh thi sĩ viển vông, chỉ biết mơ
màng hão mà không biết đến những sự thiết thực khác cần hơn nữa.
Nhưng anh Minh hình như bị cái không may nó ám ảnh. Những
công việc anh hăng hái làm đều bị thất bại cả. Những lúc anh tưởng được thành
công, tưởng sẽ nắm trong tay được món tiền, thì lại là những lúc anh sắp được
tin công việc hỏng. Cái không may ấy làm cho anh trở nên một người tấm tức, và
ngày càng đồng tiền lại càng là cái ám ảnh độc nhất của trí não anh, cho đến một
ngày cái không may lớn lên nữa đến làm anh khổ sở.
Hôm ấy, anh ta đương đi trong phố thì bị một cái ô tô tự
nhiên bỏ đường nhảy lên hè cán phải. Minh chỉ kịp thoáng nghĩ đến cái sự không
may ấy nữa, rồi anh ta đau quá ngất đi.
Khi tỉnh dậy, Minh thấy mình nằm trên một chiếc giường trong
nhà thương. Anh chỉ mang máng nhớ lại hình như sau tai nạn, họ có mang anh lên
bàn mổ, vì lúc bấy giờ anh thoáng ngửi thấy mùi thuốc mê. Nhưng rồi sau Minh mê
đi không biết gì nữa.
Anh khe khẽ cử động chân tay, thì biết chân bên phải như bị
tê liệt. Chợt nghĩ đến sự cưa chân, Minh toát mồ hôi trán, quả tim đập mạnh.
Vừa lúc ấy, một người khán hộ bước vào phòng, tay cầm một
chai thuốc. Cái câu Minh muốn hỏi người này, không ra khỏi được miệng anh ta.
Minh sợ sự thực, sợ cái đã rồi, không bao giờ chữa được... Nhưng anh muốn biết.
Người khán hộ đặt chai thuốc lên bàn, nói vơi Minh:
- Cứ hai giờ ông lại uống một thìa. Đây là thuốc cầm máu.
Minh hỏi lảng:
- Tôi ngất đi có lâu không, ông?
- Lúc mang vào đây thì ông mê man không biết gì cả. Có lúc
lên bàn mổ thì ông hơi tỉnh lại một chút. Nhưng mà lại bị đánh thuốc mê ngay. Minh
hồi hộp đưa lưỡi liếm đôi môi khô ráo, ấp úng hỏi:
- Thế... thế... mổ có... lâu không?
Thầy khán hộ không phải là người biết tâm lý. Thầy ta đáng lẽ
phải trông thấy đôi mắt của Minh sáng lên, và cái vẻ lo sợ của Minh hiện ra
trên nét mặt. Thầy ta trả lời:
- Chỉ độ mười phút. Cưa soẹt một cái là xong.
Và thầy ta đưa ngón tay trỏ vụt qua bàn tay trái, với một
dáng điệu rất rõ rệt. Minh ngất đi.
Minh sống những ngày chán nản ghê gớm trên giường bệnh. Cụt
chân! Bây giờ anh đã cụt chân thì còn làm gì được nữa. Nghĩ đến lúc phải lê cái
chân gỗ như những người què anh thường vẫn gặp, Minh thấy rùng mình lạnh giá. Một
người tàn tật như anh thì còn bao giờ mong đạt được cái chủ đích anh vẫn đeo đuổi
xưa nay nữa. Còn mong gì có tiền! Đến mong cái chân lại lành như cũ không thể
nào được rồi. Minh chỉ muốn tự tử.
Nhưng bốn tháng sau, khi ra khỏi nhà thương, Minh cũng quen dần
với số phận của mình. Anh đành chịu vậy với một chân què. Đấy là một sự an phận
buồn rầu và khổ não, tràn lấp hết cả những hy vọng, những sở ước của đời anh.
Nhưng, đó là một cái may hay cái không may? Minh lại hy vọng
khi người thầy kiện của anh đến bảo cho anh biết có thể kiện hãng ô tô để xin một
số tiền bồi thường rất lớn được. Anh ta, từ đấy, hồi hộp mong đợi từng ngày cái
kết quả của vụ kiện trên tòa án. Anh nghĩ đến số tiền mà anh sẽ có, nghĩ đến
cái sức mạnh mà tiền sẽ mang đến cho anh. Tôi thấy anh ta lại vui vẻ, huýt sáo
miệng, và toan tính thực hành những cái mộng tưởng mà anh ta theo đuổi bấy lâu
nay.
Quả nhiên anh được kiện. Ngày lĩnh tiền, Minh rủ tôi cùng đi.
Anh mân mê những tờ giấy bạc một vạn bạc một cách thiết tha và khoan khoái. Mắt
anh sáng lên, nhưng lần này vì vui mừng, anh giữ chặt vào ngực tập giấy bạc yêu
quý, như ôm một người tình nhân.
Tuy vậy, lúc cùng đi xe trở về nhà, một mối buồn lại đến ám
ánh ảnh anh. Minh buồn rầu,chỉ vào cái thân gỗ của anh, nói:
- Giá không què chân mà được số bạc này có phải sướng biết
bao không!
Được ít lâu, tôi gặp Minh luôn luôn ở những chốn ăn chơi
trong thành phố. Đồng tiền làm cho anh đạt được mọi ý muốn. Anh lấy tiền bù đắp
vào cái chỗ chân què của anh, cái sức mạnh đồng tiền làm cho anh say sưa. Muốn
tận hưởng những cái khoái lạc cũng như người khác, Minh vun tiền ra không tiếc.
Tôi đã có lần khuyên anh nên dè dặt, thì Minh có vẻ tấm tức
trả lời:
- Anh bảo tội gì mà không tiêu cho sướng? mà tôi còn giữ tiền
làm gì cơ chứ?
Anh trầm ngâm một lát rồi nói tiếp:
- Anh không biết, tôi chơi bời để khuây khỏa nỗi buồn và để
quên đi.
Tôi đưa mắt nhìn cái chân gỗ của anh không trả lời.
Mà thực, trong những hành động của Minh, người ta nhận thấy
như một cái chua chát, một nỗi căm hờn... Có lẽ anh Minh không tha thứ cho số mệnh
đã oái oăm với anh như thế, cho anh có tiền sau khi anh đã cụt một chân. Những
cuộc chơi bời của anh kịch liệt như một sự phản động, mà chán nản như một vụ tự
tử.
Hai năm sau. Điều mà người ta có thể đoán trước được đã đến.
Phung phí trong hai năm, số tiền một vạn của anh Minh không còn một xu nhỏ. Anh
lại trở lại với cái nghèo nàn như cũ, với những cái thiếu thốn của kẻ không tiền.
Nhưng tâm anh đã rướm máu bị thương, lòng anh bây giờ không như trước nữa. Bây
giờ trong lòng anh đầy những sự chua chát và chán nản. Cái chán nản sau những
cuộc chơi bời, cái chua chát khi nhận thấy sự thay đổi của lòng người đối với kẻ
có tiền và không có tiền.
Tôi đến tìm anh Minh trong một căn nhà ở ngoại ô. Ôn lại chuyện
cũ, tôi hỏi anh một cách thân mật:
- Thế mà, bây giờ anh đã quên chưa?
Minh buồn rầu, giơ cái chân cụt ra ánh sáng, thong thả trả lời:
- Không, nó ở đây, không quên được.
Anh nói cả vết thương ở ngoài hình thể và trong tâm hồn.
Cô áo lụa hồng
Hiệp đi thong thả trong phố, mũ đội lệch, miệng ngậm thuốc
lá. Chàng vừa đi vừa nhìn đám người qua lại tấp nập dưới bóng nắng ấm của sáng
mùa thu. Thỉnh thoảng, Hiệp đứng dừng lại trước một cửa hiệu bán đồ trang sức,
anh ta sung sướng ngắm nghía những cái mũ phớt mềm mại, những dây lưng đẹp đẽ
và những cà vát lụa nhiều màu rực rỡ. Tuy không có tiền để mua những thứ đó,
nhưng trông ngắm không cũng đủ cho Hiệp hưởng mấy cái vui thú của những cuộc đi
chơi phiếm.
Nhất là những cuộc đi chơi của Hiệp lại còn có một mục đích
khác nữa. Cứ mỗi buổi sáng chủ nhật, anh ta thắng bộ, nói là đi chơi mát, nhưng
chính thực ra chỉ cố để trông ngắm các thiếu nữ Hà thành. Sự kinh nghiệm đã bảo
cho chàng biết rằng chủ nhật là cái buổi ở trong phố có lắm các tiểu thư nhất.
Giờ các cô đi sắm sửa quần áo và phấn sáp, nước hoa, một công việc mà Hiệp cho
là hợp với tính cách người thiếu nữ hơn cả. Chính cái sung sướng của Hiệp là được
trông thấy một cô thiếu nữ xinh xắn đứng chọn các hàng mẫu để may áo kiểu mới,
hay là chọn các thứ phấn và nước hoa đựng trong những cái hộp đẹp đẽ.
Có khi chàng đứng lặng hàng giờ, hay suốt cả buổi sáng trước
một cửa hiệu bán tơ lụa để nhìn các cô thiếu nữ mua hàng. Chàng nhìn những mái
tóc đen nhánh che lấp vành tai hồng hồng và xinh xắn, những sợ tóc mai lơ thơ
trên má phơn phớt, những tấm thân mềm mại hay những tà áo màu tha thướt. Nếu có
một cô nào tươi đẹp đi ra là Hiệp đi theo liền...Đi theo xa xa thôi, mà đi theo
một cách kín đáo, không cho thiếu nữ biết. Có khi cứ như thế đi hết phố nọ sang
phố kia, rồi đến khi thiếu nữ vào nhà, Hiệp ta còn đứng tẩn ngẩn ở ngoài hè...
Nhưng rồi anh ta cũng thấy cái vô vị của sự đứng như thế không có lợi gì. Vì
thiếu nữ có biết anh ta theo đâu, mà dầu có biết nữa, chắc cô ta cũng không để
ý.
Nhiều lần, theo sau một co âthiếu nữ xinh xắn một thôi đường
cũng khá mỏi chân, Hiệp chỉ muốn tiến lên tìm cách làm quen hay nói chuyện với
thiếu nữ. Nhưng cái tính rụt rè làm cho Hiệp, khi sắp sửa nói, lại ngượng nghịu,
tự thấy câu mình sắp nói không có ý nghĩa gì hết. Thành thử, dưới đôi con mắt
ngạc nhiên của thiếu nữ, Hiệp lúng túng rồi lại lùi xuống giữ cái địa vị đi
theo như cũ.
Đã nhiều lần Hiệp tự tức mình về cái tính rụt rè ấy. Chàng thấy
những anh bạn tự nhiên gợi chuyện với một thiếu nữ chưa từng quen biết ở ngoài
phố một cách rất dễ dàng: chàng lẩm bẩm tự cho mình là hèn, nhát, và nhất định
lần sau thì sẽ can đảm và mạnh bạo hơn nữa.
Nghĩ như vậy, Hiệp thổi sáo ở giữa phố để lấy cái vẻ dung dị,
không cần gì ai, mà chàng thấy các anh em bạn vẫn có, rồi rảo bước đi mạnh về
phía bờ hồ. Chợt chàng đứng dừng ngay lại: một thiếu nữ rẽ đầu xuống phố hàng
Gai ra, vừa gặp Hiệp đưa mắt lên nhìn. Một luồng điện như truyền khắp từ đầu đến
chân, Hiệp không nhìn thấy gì nữa, chỉ thấy đôi mắt đen nhánh của thiếu nữ và
cái màu hồng của tấm áo. Thật chưa bao giờ Hiệp thấy một cô thiếu nữ xinh đẹp
như thế! Anh ta cứ bàng hoàng đứng ngẩn người ra như phỗng, quên mất cả cái lễ
phép tránh sang một bên để nhường lối cho thiếu nữ đi. Đến khi cô kia đưa cặp mắt
ngạc nhiên nhìn anh ta lần nữa, mỉm cười như có ý chế nhạo rồi quay đi, Hiệp mới
hoàn hồn, bước theo sau thiếu nữ.
Tấm áo lụa hồng phấp phới bay theo chiều gió, thiếu nữ có một
cái dáng điệu mềm mại, khiến Hiệp lấy làm sung sướng rằng đã được gặp một người
đẹp. Chàng nhất đinh lần này không để lỡ mất dịp tốt, vừa theo vừa nghĩ kế làm
quen với thiếu nữ.
Có lẽ thiếu nữ cũng biết anh ta theo, nên thỉnh thỏang nàng
quay lại nhìn Hiệp mỉm cười. Qua phố hàng Ngang, hàng Đường, chợ Đồng Xuân...
thiếu nữ rẽ qua hàng Lược, rồi đứng dừng lại trên hè, ngơ ngác nhìn hai dãy phố
như người tìm số nhà.
Cố thu hết can đảm trong người, Hiệp bước rảo đến trước mặt
thiếu nữ. Chàng ngả mũ chào rất lễ phép:
- Thưa cô... thưa cô...
Thiếu nữ ngẩng lên nhìn Hiệp, lặng yên đứng đợi.
- Thưa cô... thưa cô...
Tự nhiên cái can đảm của Hiệp đi đâu mất ca, Hiệp thấy bối rối,
mặt nóng bừng, quên mất không nói câu gì nữa...
Thấy cái vẻ lúng túng của Hiệp, thiếu nữ như có ý thương hại.
Đột ngột nàng hỏi :
- Anh Tân đấy à?
Hiệp đứng ngây người ra một lát. Nhưng một ý nghĩ thoáng qua
trong óc Hiệp, một cách có thể thoát khỏi cái thời khắc ngượng nghịu, Hiệp liền
liều trả lời :
- Vâng... chính tôi...
Thiếu nữ bỗng có vẻ vồn vã, ân cần, bước lại gần Hiệp,
nói :
- Chết chửa! Thế mà tôi không nhận ra đấy. Trông bây giờ anh
khác hẳn trước kia, nhớn hơn nhiều...
Rồi nàng chúm chím đôi môi đỏ :
- Mà từ độ ấy đến bây giờ, làm gì anh chẳng nhớn...thưa anh,
hai cụ nhà ta vẫn được mạnh giỏi đấy chứ?
Đã chót thì phải chét, Hiệp ngập ngừng trả lời:
- Vâng cám ơn cô, thầy mẹ tôi vẫn được bình thường...
Hiệp hơi lo, chỉ sợ cô ta biết là nhầm không phải, thì thật
là bẽn. Nhưng thiếu nữ như không để ý đến cái vẻ lúng túng của Hiệp, cứ điềm
nhiên nói tiếp :
- Từ độ anh thôi học trở về, bà tôi vẫn có ý nhớ, thường nhắc
đến anh luôn và cứ mong anh ra chơi. Chắc anh ở nhà quê cũng bận lắm đấy nhỉ?
Lần này Hiệp không còn lo nữa. Anh đoán già rằng chắc cậu Tân
nào đó trước có ở trọ học nhà cô này, rồi về quê nghỉ, mà nghỉ cũng lâu nên bây
giờ cô ta mới nhận nhầm được. Chàng vững dạ, mỉm một nụ cười rất xinh rồi
nói :
- Vâng, khi ở nhà quê tôi cũng bận công việc lắm, chẳng đi đến
đâu được. Nhớ bà và nhớ... cô quá, lắm lúc muốn ra hỏi thăm nhưng không sao mà
rứt ra được...
Thiếu nữ đưa đôi mắt đen lánh nhìn Hiệp rồi thân mật
trách :
- Anh thật tệ quá! Lên Hà Nội mà cũng không đến thăm em. Anh
không nhớ đến em sao? Hay anh quên em rồi?
Thiếu nữ cúi xuống mỉm cười. Hiệp cảm động trong lòng, âu yếm
và lấy giọng dịu dàng :
- Không, tôi không quên em...à, quên cô đâu... không bao giờ
tôi quên được...
Chàng cảm động thật, cảm động vì đôi mắt trong của thiếu nữ,
đôi mắt tình tứ ngây thơ. Càng trông Hiệp càng thấy thiếu nữ đẹp, nhất là cái
miệng xinh xắn, có duyên, chúm chím như tinh nghịch.
Hai người vừa đi vừa nói chuyện. Câu chuyện mỗi lúc thêm thân
mật, như hai người bạn cũ gặp nhau. Hiệp đóng vai anh Tân nào đó thật là hoàn
toàn, trả lời một cách kín đáo... Có khi Hiệp cũng ngập ngừng về một câu nói,
nhưng thiếu nữ hình như vui mừng gặp người cũ, không để ý đến gì cả.
Đến lúc chia tay, anh ta đã biết rõ thiếu nữ là Lan, lưu học
sinh trường nữ sư phạm. Anh ta lại biết cả số nhà ở hàng Lược và lại được cô hẹn
đến chủ nhật sau đến cửa trường học đón cô đi chơi.
Lúc trở về, Hiệp thấy bước chân nhẹ nhàng như người bay. Anh
sung sướng tự khen mình đã bỏ được cái tính rụt rè và cảm ơn thầm cái anh Tân
nào đó đã cho anh cái dịp làm quen với một thiếu nữ xinh đẹp như thế.
Nhưng Hiệp vẫn có một điều lo: chàng chỉ sợ Lan biết chàng
không phải là Tân thì thật rầy rà, chàng lo sợ nghĩ đến lúc Lan mời đến nhà
chơi, tuy trong những lúc nói chuyện, Hiệp không thấy Lan đả động gì đến việc ấy
cả.
Tuy vậy, Hiệp cũng nhất định nói thật cho Lan biết, một phần
vì chàng biết trước không giấu được mãi, một phần vì chàng chắc rằng Lan đối với
chàng cũng sẽ tha thứ cho cái sự giả dối bất đắc dĩ ấy.
Hôm ấy gặp Lan, Hiệp cảm động, hồi hộp, cầm tay Lan rồi lưỡng
lự nói:
- Em Lan, anh có câu chuyện muốn nói với em...
Lan nhìn Hiệp, chớp mắt nhanh, như nghĩ ngợi một chút, rồi mỉm
cười cũng nói:
- Anh Tân, em cũng có câu chuyên muốn nói với anh...
- Chuyện gì, em cứ nói đi.
- Không, anh nói trước.
Hiệp lại ngập ngừng:
- Câu chuyện của anh... em tha thứ cho nhé. Hôm ấy, anh đã
nói dối em, vì anh...không phải là Tân!
Lan cười ròn vui vẻ, đáp:
- Em cũng không phải là Lan!
Thấy Hiệp mở to đôi mắt, ra dáng không hiểu, nàng tiếp thêm:
- Em không phải là Lan của anh Tân, mà của anh cơ! Nghĩa
là... em biết anh không phải là Tân.
- Em biết?
- Vâng.
Hiệp ngơ ngác; chàng hỏi :
- Thế là làm sao? Anh không hiểu.
Lan lấy tay che miệng, giảng :
- Có gì đâu. Hôm ấy em thấy anh cứ lúng túng mãi, nên em mới
giả vờ hỏi thế cho anh đỡ ngượng, chứ có anh Tân, anh Tiếc nào đâu. Hiệp chợt
hiểu, vui vẻ cười.
Một lát, Hiệp sung sướng hỏi :
- Thế em biết anh? Em yêu anh?
- Lan đưa đôi mắt đen láy, ngây thơ nhìn Hiệp :
- Không, em chỉ biết anh theo em, chứ không quen biết anh bao
giờ, nhưng em thấy anh cứ ấp úng mãi không nói được câu gì, em thương hại.
Cô hàng xén
Cô Tâm bớt mệt hẳn đi khi nhìn thấy cây đa và cái quán gạch lộ
ra trong sương mù. Cùng một lúc, dãy tre đầu làng gần hẳn lại, cành tre nghiêng
ngả dưới gió thổi và nghe thấy tiếng lá rào rào và tiếng thân tre cót két. Cô sắp
về đến nhà rồi, gánh hàng trên vai nhẹ đi, và những cái uốn cong của đòn gánh
bây giờ nhịp với chân cô bước mau. Cô thấy chắc dạ và ấm cúng trong lòng, bỏ hẳn
nỗi lo sợ từ nãy vẫn quanh quẩn trong trí khi cô qua quãng đồng rộng, trơ gốc rạ
dưới gió bấc vi vút từng cơn.
Qua cái cổng gạch cũ, cô vào hẳn trong làng. Ngõ tối hơn, đất
mấp mô vì trâu bước, nhưng cô thuộc đường lối lắm. Chân cô dẫm lên lá tre khô
và tai nghe tiếng xao xác đã quen; mùi bèo ở dưới ao và mùi rạ ướt đưa lên ẩm ướt.
Ði ngang các nhà quen, cô thấy ánh sáng đèn chiếu qua rào, và tiếng những người
quen thuộc ở trong đưa ra.
-- "À, bác cả Sĩ đã về rồi". Lần nào hàng bác cũng
bán hết sớm, bác cũng ra về trước vì nhà có con mọn. Còn cô, cô cũng có thể về
sớm được vì chợ chiều cũng vắng người mua. Nhưng cô còn cứ vui chị vui em, lần
khần ở lại. "Chỉ tại con Liên nó cứ giữ mình để về một thể. Bây giờ nó đã
về đến nhà chưa ?"
Cô Tâm lại nghĩ đến mình, mẹ già đang mong đợi và các em đang
nóng ruột vì quà. Gói kẹo bỏng cô đã gói cẩn thận để ở dưới thúng, mỗi đứa sẽ
được hai cái. Chắc hẳn chúng sẽ vui mừng lắm.
Tâm vội vã bước mau. Trước đình, sân gạch rộng đầy bóng tối
và yên lặng; con sấu đá vẫn phục yên trên bệ ở ngoài, hình dáng quen thuôc quá.
Bỗng cô dừng lại; cô suýt va phải một người ở ngõ rẽ ra. Người kia cũng tránh
sang bên, sát vào hàng rào. Nhưng Tâm nhận ra ngay:
-- Bác Mỹ đấy ư ? Ði đâu mà tối thế ?
Người kia tiến một bước, nhìn tận mặt: "Ai ? A, cô
Tâm, cô đi chợ về."
Tâm đã bước xa rồi, hàng tre vi vút thêm, trời lại lấm tấm
mưa lạnh rơi xuống mặt. Cô đi qua nhà bà cụ Nhiêu rồi về đến ngõ. Cánh cửa gỗ
chưa đóng. Cô xoay đầu đòn gánh đẩy cửa rồi bước vào. Tất cả cái tối tăm rét mướt,
và cánh đồng hoang vắng cô để lại ở ngoài. Ðây là nhà rồi. Mùi phân trâu nồng ấm
sặc ngay vào cổ; thoáng qua, cô nghe tiếng chân trâu đập trong chuồng. Con vá
thấy động sủa lên, rồi chạy lại vấp vào chân quấn quít. Trong nhà mấy đứa em
reo:
-- A, á. Chị Tâm đã về.
Tâm đặt gánh ở trên thềm. Ánh đèn chiếu ra, cô thấy quần áo lấm
tấm ướt vì mưa bụi. Thằng Lân chạy ra trước nhất, xuýt nữa vấp vào cửa bực bàn.
Rồi thằng Ái, con Bé cũng theo ra.
-- Quà của chúng em đâu, chị ?
Nó cúi xuống định lục vào gánh hàng, Tâm vội bảo em:
-- Ấy chớ, để chị lấy cho, không khéo vỡ cả kính.
Cô nhìn xuống ô hàng; mưa chỉ hơi phớt trên kính, chưa việc
gì. Hàng không có cái gì ướt.
-- Kẹo đây, mỗi đứa hai chiếc.
Chúng nó xúm cả chung quanh chị.
-- Em bé ngoan ngoãn quá, đây phần riêng chị dành em đây này.
Bỗng tiếng dịu dàng của bà Tú ở dưới nhà đưa lên:
-- Tâm con đã về đấy ư ?
-- Thưa u, vâng ạ.
Bà Tú đến dắt lũ con, khẽ bảo:
-- Chúng mày háu ăn quá, không để cho chị vào đến nhà nữạ Rồi
quay lại Tâm:
-- Con rửa chân tay rồi đi ăn cơm kẻo đói. Sao về muộn thế,
con ?
-- Thưa u, hôm nay con ngồi chợ Son ạ. Con Gái từ nãy ở dưới
bếp lên cứ đứng mải góp chuyện ở trên thềm. Bà Tú quay ra bảo:
-- Kia không cất hàng vào cho cô, còn đứng làm gì ở đấy ?
Trong nhà ấm cúng, khác hẳn ở ngoài. Ngọn đèn thân mật chiếu
trên án thư, những nét vàng đã cũ của câu đối hoành phi lờ mờ ánh trong bóng tối.
Mâm cơm đậy lồng bàn còn để ở giữa phản.
-- Con ngồi đây rồi ăn cơm. Trời rét thế này thì mai nghỉ chọ
thôi con ạ. Di làm gì cho nó khổ ?
Em bé nói theo:
-- Chị ở nhà với chúng em chị ạ. Mai chủ nhật chúng em được
nghỉ.
Tâm mỉm cười xoa đầu em. Cô sung sướng vì thấy mẹ săn sóc,
các em mến yêu. Bao nhiêu nỗi mệt nhọc cô thấy tiêu tán cả. Những lúc này khiến
cô quên hết cả bao nhiêu nỗi e ngại khó khăn. Cô thấy vui vẻ và nẩy nở trong
thâm tâm những ý muốn tốt đẹp cho gia đình. Bà Tú lại âu yếm giục:
-- Con ăn cơm đi, không đói. Thôi, hãy để đấy rồi bảo con sen
nó cất cho có được không.
Tâm đáp: "vâng"; nhưng cô vẫn chưa lại ngồi ăn
ngay. Cô còn thu xếp hàng đã; hai cái hộp gỗ vuông đựng các thức hàng, và những
gói buộc kỹ trong thúng. Tất cả vốn liếng quý báu, bởi nhờ nó, cô kiếm lời nuôi
các em, giúp đỡ cha mẹ từ ngày trong nhà sút đi và ông Tú ở trên tỉnh dọn về đã
ba bốn năm nay rồi. Ruộng nương chỉ còn hơn mẫu, cấy đủ thóc ăn, và căn nhà gạch
cũ này là nhà thờ, chung cả họ. Ông Tú độ mắt kém cũng thôi không dạy học nữa.
Tâm hỏi mẹ:
-- Thầy con chưa về cơ, u ?
Bà Tú chậm rãi đáp lời con, an phận:
-Thầy sang chơi bên ông chánh từ hôm qua, dễ thường còn ở vài
ngày mới về.
Hai mẹ con biết rằng, có về nhà ông Tú cũng buồn chả biết làm
gì, rồi lại đến đi chơi quanh quẩn các người trong làng.
Bữa cơm ngon lành quá, Tâm ngồi ăn dưới con mắt hiền từ và
thương mến của mẹ. Các em cô quây quần cả chung quanh, hỏi chuyện chợ búa của
chị. Tâm ngắm nghía các nét mặt xinh xẻo, những con mắt ngây thơ lóng lánh dưới
mái tóc tơ của các em: cô thấy lòng đầm ấm và tự kiêu, lòng người chị chịu khó
nhọc để kiếm tiền nuôi các em ăn học. Cô hỏi han sách vở của thằng Lân và thằng
Ái, học lớp ba ở trường làng. Ngày trước, thời còn sung túc, cô cũng đã cắp
sách đi học và về nhà lại được ông Tú dạy thêm chữ nho. Nhưng đã lâu, cô rời bỏ
quyển sách, để bước chân vào cuộc đời rộng rãi hơn, khó khăn và chặt chẽ. Buôn
bán bây giờ mỗi ngày một chật vật, bởi cô vốn ít. Tất cả gánh hàng của Tâm chỉ
đáng giá hai chục bạc. Giá nàng có nhiều tiền để buôn vải bán các chợ như Liên.
-- Thôi, các em đi ngủ đi, mai còn dậy sớm mà đi học chứ.
-- Mai chủ nhật cơ mà, chị quên rồi à ? Tối nay em thức
rõ khuya để nói chuyện với chị.
Nhưng một lát sau, trong căn nhà yên tĩnh, chỉ còn Tâm và bà
Tú ngồi trên phản: cô kiểm điểm và xếp đặt lại các thức hàng để mai đi phiên chợ
Bằng chính. Những thứ hàng nho nhỏ, khác nhau và xinh xắn: cuộn chỉ, bao kim, hộp
bút, cúc áo, giấy lơ, một trăm thức lặt vặt qua lại trên ngón tay nhỏ của thiếu
nữ, vừa quý báu lại vừa ít ỏi. Mỗi thứ đối với Tâm có một linh hồn riêng, và cô
hàng lờ mờ đoán hiểu trong thâm tâm những khó nhọc và công của đã làm thành
chúng. Tâm đã thêm vào vài thức hàng mới bắt đầu bán được ở chợ: phấn xoa mặt,
dầu bôi tóc và son thoa môi. Cô ngắm nghía trên tay cái ống sáp con bằng đồng,
hào rưỡi một cái -- đựng một chất đỏ thơm làm thắm tươi môi các thiếu nữ ở trên
tỉnh. Ðôi khi trong buổi chợ Tâm đã được thấy một vài cô gái tỉnh về quê, da trắng,
môi đỏ, lịch sự và sang trọng. Có lần, một đêm khuya, Tâm đã lấy sáp bôi lên
môi mình và ngắm trộm bóng trong chiếc gương tròn nhỏ. Cô Ba. Cô hơi thẹn thấy
bóng mình trong đó, với đôi môi đỏ như sẫm máu...
-- Ðộ này, hàng có bán được không con ?
-- Thưa u, cũng khá ạ.
Chị Liên bán vải cũng chẳng đẹp bằng. Tâm biết mình xinh nhất
chợ. Bọn con trai cứ hay quanh quẩn chỗ cô ngồi và buông lời tròng ghẹo. Nhưng
cô không để ý: Tâm thấy vững vàng ở giá trị và lòng cao quý của mình.
Nàng đã đảm đang nuôi cả một nhà, với lại, trừ phi là cô gái
hư không kể, còn ai ở địa vị nàng cũng phải tảo tần buôn bán như thế. Làm việc,
đối với Tâm, là lệ chung của người ta. Cô thấy chung quanh toàn những đàn bà chịu
khó làm ăn vất vả để nuôi chồng, nuôi con. Không bao giờ Tâm nghĩ cho mình, cho
cuộc đời riêng của cô.
Nhưng Tâm cũng không khỏi thắc mắc vẩn vơ cho thân thế; Tâm
ngửng lên nhìn nét mặt hiền từ của bà Tú, rồi quay đi, hơi e thẹn. Vì nàng có
tâm sự kín riêng. Hình ảnh một người con trai lanh lợi, miệng tươi như hoa, ăn
nói mềm mỏng dễ nghe. Những ngày phiên chợ Bằng, Tâm thường thấy người ấy ra
hàng Tâm mua kim chỉ. Nàng mặt xuống hàng thấy cái nhìn âu yếm của người con
trai ấy đè nặng trên người. Má Tâm phơn phớt đỏ. Câu chuyện ngượng nghịu và
gióng một nhưng nàng thấy tâm hồn say sưa như nhấp rượu.
Người ta bảo đó là cậu giáo trường làng. Vẻ người đúng đắn,
có tư cách, chứ không chớt nhả như những anh trai làng khác. Nhưng nhìn cái áo
lương cũ, Tâm cũng đoán là cậu giáo nghèo thì phải. Cũng như nàng.
Lúc lên giường nằm, dưới tấm chăn mỏng và lạnh. Tâm còn tơ tưởng
mãi đến con người xinh trai ấy. Trong nhà đã ngủ yên tĩnh cả rồi. Trên án thư,
bên ngọn đèn hoa kỳ, chồng sách và cái ống bút của Lân, Ái che khuất ánh sáng.
Các em nàng -- những đứa em thông minh và ngoan ngoãn quá -- không biết nàng có
tảo tần mãi được để kiếm tiền mua giấy bút cho chúng ăn học không ? Tâm mơ
màng nghĩ đến sự thành công của các em sau này: đỗ đạt rồi làm trên tỉnh giúp
thầy mẹ. Nhà nàng lại sung túc và mát mặt như xưa.
Người chị mộc mạc và âu yếm ấy nghĩ ngợi trong đêm yên lặng.
Tiếng trống cầm canh đã qua nửa đêm, nàng mới khẽ thở dài, nhắm mắt ngủ.
Tất cả những nỗi lo lắng lui đi và tâm hồn giản dị của thiếu
nữ được nghỉ yên tĩnh.
Sáng sớm hôm sau, trong gió bấc lạnh, Tâm đã mở cổng gánh
hàng lên chợ. Sương trắng còn đầy ở các ngõ trong làng; mùi rơm rác và cỏ ướt
thoang thoảng bốc lên, mùi quen của quê hương và của đất mầu khiến Tâm thấy dễ
chịu và thêm can đảm. Nàng rảo bước cho mau chóng đến chợ.
Cái đòn gánh cong xuống vì hàng nặng, kĩu kịt trên mảnh vai
nhỏ bé theo nhịp điệu của bước đi. Chịu khó, chịu khó từng tí một, hết bước nọ
sang bước kia, cứ thế mà đi không nghĩ ngợi. Tâm thấy ngày nay cũng như mọi
ngày, ngày mai cũng thế nữa; tất cả cuộc đời nàng lúc nào cũng chịu khó và hết
sức, như tấm vải thô dệt đều nhau. Có phải đâu chỉ một mình cô; trong những lũy
tre xanh kia, bao nhiêu người cũng như cô, cũng phải chịu khó và nhọc nhằn, để
kiếm tiền nuôi chồng, nuôi con, nuôi các em. Tâm không chán nản cũng không tự
kiêu, chỉ thấy yên tâm chắc chắn, như nhiều người khác cũng làm việc, cũng sống
như nàng.
Tâm cứ bước đều chân và đến chợ vẫn còn sớm. Nàng bày hàng
trên khoảng đất nàng vẫn ngồi xưa nay. Ánh sáng đầu tiên của mặt trời lấp lánh
trên mặt kính các ô hàng. Các màu đua nhau thắm tươi dưới ngón tay xinh xắn của
Tâm: những cuộn chỉ mượt, những cái cúc xà cừ, những gương lược sáng loáng. Cái
gì cũng sạch sẽ ngăn nắp, nhỏ nhắn như công việc, như ý nghĩ của cô hàng xén.
Không khí giá và trong của buổi sáng làm hồng da dẻ và khiến
máu chạy mạnh. Tâm thấy vui vẻ nhanh nhẹn trong người. Chị Liên với thằng nhỏ
gánh vải cũng đã đến rồi. Hai chị em cười nói chuyện trò như đôi chim sẻ:
-- Hôm qua mày bán được bao nhiêu ? Tao ngồi mãi chỉ bán
cho bà lý có một tấm lụa.
Tâm đáp:
-- Thế còn gì nữa; bằng cả ngày lãi của tao kiếm.
Chợ mỗi lúc một ồn ào. Ngưòi đến họp đã đông. Cái đông đúc và
ồn ào ấy khiến cho Tâm như lịm đi. Tiếng nói, tiếng cười đùa, chửi rủa tràn đầy
cả mấy gian hàng. Sự hoạt động rực rỡ và nhiều màu. Các hàng quà bánh, các thức
hàng rẻ tiền và vụn vặt ở thôn quê, những hoa quả chua chát hái xanh trong vườn
nhà, và bên kia đường, mùi thơm nồi cháo nóng của chị Tư bay ra ngào ngạt.
Tâm không nghĩ ngợi, lo lắng gì nữa. Sự buôn bán, mặc cả bao
bọc lấy nàng như một hơi gió nóng.
Tất cả hàng tổng trong buổi phiên này. Từ những người đàn bà
nghèo ăn mặc rách rưới, cho đến các bà tổng, bà lý, váy sồi, thắt lưng đũi và
áo bông mềm, túi nặng những tiền. Một hai cô trên tỉnh, chừng con gái ông thừa
hay ông chủ ty ở huyện, vui đùa đi lại trong chợ, răng trắng và môi đỏ. Tâm thấy
họ hình như vô tâm và sung sướng lắm thì phải: các cô bá vai nhau mua hết thức
này, thức nọ không tiếc tiền, ngây thơ như con trẻ. Tâm và Liên nhìn nhau mỉm
cười.
Gần trưa, cậu giáo ra. Vẫn con người mảnh rẻ và nho nhã trong
chiếc áo lương cũ. Bốn mắt nhìn nhau: Tâm má đỏ bừng, tay không biết làm gì. Cậu
giáo ngượng nghịu, nửa muốn ngồi xuống bên hàng, nửa không dám. Chỉ có Liên là
tinh nghịch, sống sượng lại hay nói đùa:
-- Kìa ông giáo, mời ông mua hàng của em nó đi.
Rồi cô ngả đầu ra sau cười ngặt nghẽo, trong lúc Tâm đưa mắt
trách và cậu giáo khẽ mỉm cười.
Vụ gặt hái xong, cậu giáo Bài nhờ người mối lái đến hỏi Tâm.
Bà mối là người cô trong họ như bà Tú. Sai khi khen ngợi cậu giáo là người chí
thú nết na, bà mối bảo:
-- Tôi cũng vì tình chị em nói giúp cho cháu nó nên vợ chồng.
Cậu giáo tuy nghèo nhưng là con nhà thế gia, ông cụ trước cũng có đi dạy học.
Cháu Tâm nó mà về làm dâu nhà ấy thì không còn phải quản ngại điều gì nữa.
Bà Tú cảm ơn và đáp:
-- Vâng, bà để cho rồi tôi hỏi cháu xem thế nào đã.
Bà mối cười, vừa đứng dậy vừa trả lời:
- Ðược nơi xứng đáng, mình bằng lòng thì gả, chứ còn cần gì
phải hỏi nó nữa.
Sau khi bà mối về, bà Tú đem câu chuyện hỏi ông Tú; ông bảo:
-- Bà xem chỗ nào nên gả thì gả, không phải hỏi tôi làm gì.
Rồi ông lại xách ô đi chơi sang làng khác. Bà nhìn theo ông,
thở dài. Từ ngày trong nhà kém sút đến giờ, ông Tú như người mất hồn, chẳng còn
để ý đến công việc gì nữa. Việc trong nhà ông để bà trông nom. Bà nghĩ đến Tâm
âu yếm, Nếu không có nó sớm hôm buôn bán thì bà cũng không biết xoay sở vào
đâu. Nhà năm, sáu miệng ăn, lại hai con đi học, hơn mẫu ruộng cấy chỉ đủ thóc
dùng. Bà lại chợt nghĩ: nếu Tâm đi lấy chồng thì làm thế nào?
Tuy vậy, buổi chiều hôm ấy bà gọi Tâm vào buồng và nói cho
Tâm biết. Tâm yên lặng nghe, rồi thưa:
-- Con mà đi lấy chồng thì ai kiếm tiền cho các em ăn học?
Thôi u cứ để con ở nhà buôn bán và trông nom nhà cửa cho thầy u.
Bà Tú nhìn con, thương mến:
-- Không được, con gái đến tuổi phải đi lấy chồng, chứ con ở
nhà mãi hay sao? U sẽ làm hàng sáo để kiếm thêm chi tiêu trong nhà. Con cứ
nghe u đi.
Bà thêm:
-- Với lại không đám nào hơn đám này nữa. Bà cụ đằng ấy cũng
hiền lành và cậu Bài là người nết hạnh đứng đắn. Con về nhà ấy thì u mừng lắm.
Tâm cúi mặt thẹn đỏ hai gò má; nàng tưởng đến cậu giáo, con
người xinh trai và nhã nhặn, mà mới buổi gặp lần đầu, nàng đã mến yêu ngay.
Nhưng bỏ nhà đi lấy chồng? Thằng Lân và thằng Ái lấy tiền đâu mà mua sách
vở học ? Nghĩ đến mẹ già phải làm lụng vất vả lòng Tâm lại không nỡ. Nàng
khóc nói:
-- Thôi, u cứ để con ở nhà hầu hạ thầy và săn sóc các em.
Chúng nó còn bé dại cả, nếu con đi thì ai là người trông nom nhà cửa.
Nhưng thương con, bà Tú không ngần ngại chút nào. Bà bằng
lòng cho Tâm và nhắn tin cho bà mối biết. Bên nhà trai xin cưới ngay trước Tết.
Ngày về nhà chồng, Tâm buồn rầu không thiết gì trang điểm.
Nàng gọi các em vào trong buồng để từ biệt: Lân và Ái níu lấy cổ Tâm quấn quít,
không muốn rời ra. Nàng âu yếm dặn dò:
-- Các em ở nhà chịu khó ăn, học nhé đừng để cho thầy u phải
phiền lòng. Rồi tháng tháng chị sẽ gửi tiền về cho các em tiêu.
Tâm ngừng lại, ứa nước mắt không nói được nữa. Nàng xốc em bé
lên hôn rồi ra ngoài lễ tạ cha mẹ.
Ðám rước dâu theo con đường nhỏ trong làng đi ra cánh đồng.
Hai bên ngõ, người trong làng đứng xem cô dâu và chú rể mới.
Buổi chiều hôm ấy, trong nhà bà Tú trở nên lạnh lẽo và vắng
không. Bữa cơm chỉ có mấy mẹ con ngồi ăn. Lúc thắp đèn, bà tú gọi con sen lên
bàn nói chuyện về Tâm cho đỡ buồn. Thằng Lân và Ái cũng ngẩn ngơ nhớ chị. Không
còn những buổi tối chờ đợi chị Tâm gánh hàng về, nghe tiếng cười nói vui vẻ của
chị và mong đợi chia quà nữa. Chúng ngồi nghe chuyện bà tú mãi tới khuya rồi gục
trên sách ngủ.
Về nhà chồng được vài hôm, Tâm lại phải đi bán hàng ngay để
khỏi mất mấy phiên chợ Tết. Nhà chồng nàng cũng nghèo, nhà cửa không có gì. Cậu
Bài dạy học trong làng được dăm bẩy bồng bạc lương. Bao nhiêu việc chi tiêu
trong nhà lại trông cả vào mình nàng.
Bây giờ gánh hàng trở nên nặng quá trên đôi vai nhỏ bé. Chiếc
đòn gánh càng cong xuống và rên rỉ. Ngoài giang sơn nhà chồng nàng phải gánh
vác, Tâm lại còn lo sao kiếm được đủ tiền để thêm cho cho các em ăn học. Trong
sương muối sớm rét và giá lạnh, nàng đã phải bước ra ngõ để đi chợ rồi. Trên con
đường mấp mô và đất rắn, Tâm bước những bước nhỏ và mau. Ðời nàng lại khó nhọc
và cố sức kế tiếp nhau. Có khi Tâm tưởng nàng vẫn còn ở nhà, vẫn còn con gái và
buổi chiều nàng sẽ gánh hàng về căn nhà cũ, thấy các em ra đón và nghe tiếng mẹ
nàng dịu dàng săn hỏi. Nhưng không, bây giờ nàng không được về nhà mẹ luôn nữa.
Gia đình của chồng là gia đình của nàng: nàng phải lo tiền cho chồng vụ thuế.
Những lúc giỗ Tết, phải may vá cho Bài: chiếc áo lương mới chàng sắm ngày cưới
bây giờ đã bắt đầu bạc và rách rồi.
Ngày phiên chợ đối với nàng cũng kém vui. Má nàng hồng hơn,
môi nàng thắm thêm, người ta bảo nàng bây giờ đẹp ra hơn trước. Nhưng nàng cần
gì những cái đó nữa. Bọn trai làng không còn chòng ghẹo nàng, và trong lòng
nàng cũng không còn cái thời con gái duyên thắm và chờ mong đã hết rồi. Nàng chỉ
còn là một người đàn bà tảo tần hôm sớm để nuôi chồng. Buổi phiên chợ Bằng,
Liên ngồi cạnh nàng nhí nhảnh khoe:
-- Này Tâm xem, tôi mới sắm được cái này đẹp lắm.
Liên đưa ra một đôi khuyên vàng cô mới gửi đánh ở trên tỉnh.
Tâm cầm lấy ngắm nghía trên tay. Mắt nàng sáng lên, Tâm nghĩ đến những buổi nói
chuyện với Liên khi nàng chưa lấy chồng. Hai chị em bàn về những đồ trang sức,
và đôi khuyên là cái ước vọng tuyệt đích của hai cô gái quê. Hai người buổi vào
cũng nhắc đến, và cùng hẹn nhau dành dụm để sắm một đôi đeo Tết.
-- Ðẹp quá nhỉ. Chị mua hết bao nhiêu ?
Nàng ngẩn ngơ đưa trả lại Liên, yên lặng nhìn bạn mắc vào
tai. Tâm nghĩ không bao giờ nàng có thứ ấy nữa. Làm sao dành dụm được chừng ấy
tiền, mà nếu có số tiền ấy nữa nàng cũng còn phải để tiêu việc nhà, hay gửi cho
các em. Lân đã lên học trường tỉnh, sự tốn kém lại tăng thêm. Dạo hè năm ngoái
nó đã lấy của nàng hơn chục bạc. Hôm qua, bà Tú lại nhắn người bảo gửi thêm cho
nó để nộp giấy đi thi. Nàng lo quá. Những số tiền nàng cho em là tiền dành dụm
riêng của nàng; Tâm phải đưa giấu, sợ mẹ chồng và chồng nàng biết. Nhiều lần
Bài đã gắt với nàng, vì Tâm không còn tiền đưa. Và những lời của mẹ chồng nàng
đã bắt đầu có vẻ đay nghiến và nghi ngờ.
Hai năm sau, Tâm đẻ đứa con trai. Ở cữ được nửa tháng, nàng
phải để con cho mẹ chồng trông nom, rồi lại gánh hàng đi chợ. Mấy năm khó nhọc
đã thay hẳn người nàng. Tâm bây giờ không còn là cô gái xinh xắn hồi trước.
Nàng già đi nhiều lắm. Ðã lâu nàng không còn chú ý đến sắc đẹp của mình và cũng
không biết nó tàn lúc nào. Sắc đẹp cũng vô ích cho nàng khi đã có chồng rồi.
Tâm thấy mình già và yên tâm trong sự đứng tuổi. Những ngày chợ phiên, nàng
nhìn các cô gái với ý nghĩ an phận của người đã qua tuổi trẻ rồi. Bây giờ nàng
còn thì giờ đâu trang điểm nữa. Cái cô hàng xén xinh đẹp trước kia nổi tiếng cả
một vùng, bây giờ không còn ai nhớ đến nữa. Ðã có những cô con gái khác mới lớn
lên, rực rỡ và tươi tắn, cười nói có duyên với những cậu con trai khác. Nhiều
khi nhìn vẻ hân hoan sung sướng của họ, Tâm lại nghĩ đến ngày trước kia, hình
như đã lâu lắm, nàng còn là cô hàng xén má hồng môi đỏ, e lệ cúi mặt dưới cái
nhìn âu yếm của cậu giáo Bài nho nhã và đứng đắn trong tấm áo lương. Thời ấy
bây giờ đâu ? Chị Liên may mắn đã lấy được chồng giàu, lên buôn trên tỉnh,
chị ấy vẫn trẻ đẹp chư xưa. Tâm khẽ thở dài, bây giờ các chị em bạn cũ không
còn ai ở lại để cùng chia sẻ những nỗi khó nhọc với nàng.
Tâm rảo bước đi qua cánh đồng nghĩ ngợi. Ðã lâu, nàng không
có dịp sang thăm nhà vì bận con mọn và buôn bán. Chiều nay Lân ở trên tỉnh về,
nên nàng đến để gặp em và hỏi thăm ông tú, mệt đã mấy tháng nay.
Cây đa cỗi và cái quán gạch vẫn đứng đợi nàng ở đầu làng. Ðường
ngõ vẫn lồi lõm vì trâu đi, hai bên vệ vẫn mùi bèo và mùi rạ ướt. Trong làng chẳng
có gì thay đổi.
Khi nghe thấy tiếng bà Tú âu yếm đón hỏi trên thềm, tiếng thằng
Ái và em bé reo mừng chị, lòng Tâm dịu lại như ngày nàng còn gánh hàng về. Tâm
bước vào ngồi trên phản bên cạnh mẹ; căn nhà đối với nàng hình như rộng rãi và
lặng lẽ hơn trước nhiều.
-- Em Lân đâu ?
Nó vừa mới chạy đâu sang hàng xóm. Chả biết cần gì mà nó còn
đợi con để xin tiền.
Tâm thở dài:
-- Con chả có đồng nào để ra cả.
Bà Tú nhìn con ái ngại:
-- Cậu giáo lại thôi dạy học, thì nhà con túng thiếu thật.
Hai mẹ con yên lặng không nói nữa. Tâm thấy mẹ già đi quá,
hai mái tóc đã bạc phơ. Bỗng nhiên, nàng đau xót trong lòng, thương mẹ và buồn
cho cảnh nhà nghèo.
-- Kia, chị đã đến. Em chờ chị mãi từ sáng đến giờ.
Lân ở ngoài bước vào, nhanh nhẹn. Cậu lớn hẳn lên, dáng điệu
mạnh mẻ và hơi xấc lấc, rõ ra một cậu học trò lanh lợi trên trường tỉnh. Tâm
nhìn em mừng rỡ. Mắt nàng sáng lên vì kiêu hãnh có người em như thế:
-- Em chơi đâu về ? Bao giờ lại lên tỉnh học ?
Nàng ân cần săn sóc, hỏi em. Lân trả lời chị qua loa, hơi bực
mình về những câu hỏi lẩn thẩn của chị. Cậu nói ngay đến chuyện cần:
-- Em xin chị một chục bạc để mua sách học.
Tâm hoảng sợ:
-Sao nhiều thế, chị lấy đâu ra. Ðộ này buôn bán khó khău lắm,
một ngày vài hào chỉ lãi, em bảo chị làm thế nào được ?
Thấy Lân có vẻ không bằng lòng, Tâm vội đáp:
-- Hãy để thong thả chị lo rồi gửi chị Liên cho em.
-- Thế thì lấy tiền đâu mà nộp đơn và mua sách bây giờ ?
Không có thà rằng ở nhà cho xong.
Lân vùng vằng đứng gậy bước ra ngoài thềm. Bà Tú ngước mắt
trông theo, rồi vội vã bước ra gọi em lại. Nàng dịu giọng ngọt ngào:
-- Gớm, chưa chi em đã giận. Có phải chị tiếc em đâu, vì chị
chưa có thật.
Lân yên lặng rồi không nói gì, quay mặt đi chỗ khác. Lòng chị
lại không nỡ thấy em buồn:
-Thì đây, chị có chục bạc này là tiền lấy hộ cho anh ấy đây.
Em cầm lấy rồi chị liệu vay sau cũng được.
Tâm lần ruột tượng lấy ra gói bạc giấy cuộn tròn. Số tiền
nàng vừa lấy định trang trải các công nợ và lo sưu thuế cho Bài. Nhưng thấy vẻ
mặt vui mừng của em, nàng quên mất cả những nỗi lo sợ đang chờ nàng.
Lúc Tâm ra về, trời đã tối. Nàng vội vã bước mau để về cho
con bú. Sương mù xuống phủ cả cánh đồng, và gió lạnh nổi lên: Tâm thu vạt áo lại
cho đỡ rét, lần theo bờ cỏ đi. Lòng nàng mệt nhọc và e ngại: lấy đâu mà bù vào
chỗ tiền đưa cho em ? Tâm nhớ lại những lời dằn của mẹ chồng và những câu
giận dữ của Bài mỗi khi hỏi nàng không có tiền. Nàng nghĩ đến những ngày buôn
bán được, ngày không, Tâm dấn bước. Cái vòng đen của rặng tre làng Bàng bỗng vụt
hiện lên trước mặt, tối tăm và dầy đặc. Tâm buồn rầu nhìn thấu cả cuộc đời
nàng, cuộc đời cô hàng xén từ tuổi trẻ đến tuổi già toàn khó nhọc và lo sợ,
ngày kia như tấm vải thô sơ. Nàng cúi đầu đi mau nào trong ngõ tối.
Dưới bóng hoàng lan
Thanh lách cánh cửa gỗ để khép, nhẹ nhàng bước vào. Chàng thấy
mát hẳn cả người; trên con đường lát gạch bát tràng rêu phủ, những vòng ánh
sáng lọt qua vòm cây xuống nhẩy múa theo chiều gió. Một mùi lá tươi non phảng
phất trong không khí. Thanh rút khăn lau mồ hôi trên trán - bên ngoài trời nắng
gắt - rồi thong thả đi bên bức tường hoa thấp chạy thẳng đến đầu nhà. Yên tĩnh
quá, không một tiếng động nhỏ trong căn vườn, tựa như bao nhiêu sự ồn ào ở
ngoài kia đều ngừng lại trên bậc cửa.
Thanh bước lên thềm, đặt vali trên chiếc trường kỷ, rồi ngó đầu
nhìn vào trong nhà: bóng tối dịu và man mát loáng qua những màu sắc rực rỡ
chàng đem ở ngoài trời vào; Thanh chưa nhìn rõ thấy gì cả; một lát, quen bóng tối,
chàng mới nhận thấy cảnh tượng gian nhà cũ không có gì thay đổi, cũng y nguyên
như ngày chàng đi xưa. Sự yên lặng trầm tịch đến nỗi Thanh trở nên nghẹn họng;
mãi mãi chàng mới cất được tiếng lên gọi khẽ:
- Bà ơi!
Một cái bóng lẹ làng từ trong vụt ra, rơi xuống mặt bàn;
Thanh định rõ nhìn: con mèo của bà chàng, con mèo già vẫn chơi đùa với chàng
ngày trước. Con vật nép chân vào mình khẽ phe phẩy cái đuôi, rồi hai mắt ngọc
thạch xanh dương lên nhìn người. Thanh mỉm cười lại gần vuốt ve con mãn:
- Bà mày đâu?
Thanh bước xuống giàn thiên lý. Có tiếng người đi, rồi bà
chàng, mái tóc bạc phơ, chống gậy trúc, ở ngoài vườn vào. Thanh cảm động và mững
rỡ, chạy lại gần.
- Cháu đã về đấy ư?
Bà cụ thôi nhai trầu, đôi mắt hiền từ dưới làn tóc trắng đưa
lên nhìn cháu, âu yếm và mến thương.
- Ði vào trong nhà không nắng cháu.
Thanh đi bên bà, người thẳng, mạnh, cạnh bà cụ gầy còng. Tuy
vậy chàng cảm thấy chính bà che chở cho chàng, cũng như những ngày chàng còn nhỏ.
- Nhà không có ai ư bà?
- Vẫn có thằng Nhân, hôm nay nó đi đong thóc bên kia xóm. D-
chốc nó về. Con đã ăn cơm chưa?
- Dạ chưa. Con ở tàu về đây ngay. Nhưng con không thấy đói.
Bà nhìn cháu, giục:
- Con rửa mặt đi, rồi đi nghỉ không mệt. Trời nắng thế này mà
con không đi xe ư?
Thanh cười:
- Có một tý đường đất, cần gì phải xe. Con đi bộ hàng ngày
cũng được.
Nhưng Thanh cũng vẫn theo lời bà. Chàng đến bên bể múc nước
vào thau rửa mặt. Nước mát rợi và Thanh cúi nhìn bóng chàng lay động trong lòng
bể với những mảnh trời xanh tan tác.
Tất cả những ngày thuở nhỏ trở lại với chàng. Thanh vắng nhà
đã gần hai năm nay, vậy mà chàng có cảm giác như vẫn ở nhà tự bao giờ. Phong cảnh
vẫn y nguyên, gian nhà vẫn tịch mịch và bà chàng vẫn tóc bạc phơ và hiền từ.
Trên trường kỷ, ngọn đèn con và cái điếu cũ kỹ. Con mèo già
tròn mình nằm bên cạnh, mắt lim dim trong sự bình yên và nhàn nhã. Thanh trông
thấy cảnh ấy đã nhiều lần. Lần nào trở về với bà chàng, Thanh cũng thấy bình
yên và thong thả như thế. Căn nhà với thửa vườn này đối với chàng như một nơi
mát mẻ và hiền lành, ở đấy bà chàng lúc nào cũng sẵn sàng chờ đợi để mến yêu
chàng.
- ấy, bà làm gì thế? Bà để mặc cháu.
Bà cụ vẫn không thôi phẩy chiếc phất trần lên đầu giường:
- Ðã lâu không có ai nằm nên bụi bám đầy khắp cả.
Thanh phải để mặc cho bà sửa chiếu và xếp lại gối. Chàng thấy
mình bé quá.
- Cháu đi nghỉ chẳng mệt. Ðể bà hái mấy lá rau nấu canh ăn
cho mát.
Bà cụ đi ra. Thanh bỗng thấy mệt mỏi. Chàng lặng nằm xuống
giường, ruỗi chân tay, khoan khoái. Ngoài khung cửa sổ, trời xanh ngắt ánh
sáng; lá cây rung động dưới làn gió nhẹ. Một thân cây vút cao lên trước mặt.
Cùng một lúc, chàng lẩm bẩm: "cây hoàng lan!", mùi hương thơm thoang
thoảng đưa vào. Thanh nhắm mắt ngửi hương thơm và nhớ đến cái cây ấy chàng thường
hay chơi dưới gốc nhặt hoa. Ðã từ lâu lắm, ngày mới có căn nhà này, ngày cha mẹ
chàng hãy còn. Rồi đến ngày một bà một cháu quấn quít nhau. Thanh ra tỉnh làm rồi
đi về hàng năm, các ngày nghỉ. Bây giờ cây đã lớn.
Thanh thấy tâm hồn nhẹ nhõm tươi mát như vừa tắm ở suối.
Chàng tắm trong cái không khí tươi mát này. Những ngày bận rộn ở tỉnh giờ xa
quá. Khu vườn với các cây quen đã nhận biết chàng rồi.
Nghe tiếng bà đi vào. Thanh nằm yên giả vờ ngủ. Bà lại gần
săn sóc buông màn, nhìn cháu và xua đuổi muỗi. Gió quạt đưa nhẹ trên mái tóc
chàng. Thanh vẫn nằm yên, nhắm mắt nhưng biết bà ở bên mình. Chàng không dám động
đậy, yên lặng chờ cho bà lại đi ra. Bà xuống bếp làm cơm hẳn. Tiếng dép nhỏ dần.
Chàng cảm động gần ứa nước mắt. Bà yêu thương cháu quá, giờ
chỉ có mình cháu, với mình bà. Mà bà làm bếp có một mình thôi ư? Không, hình
như có tiếng người khác nữa, tiếng trong và mau hơn. Thanh lắng nghe: một tiếng
cười sẽ đưa lên. Tiếng ai? Nghe quen quá mà Thanh không nhớ được.
Chàng lẳng lặng ngồi dậy, tỳ trên cửa sổ, cúi mình nhìn ra
phía ao. Bóng cây hoàng lan lay động cả một vùng. Chàng chợt nhớ, chạy vùng xuống
nhà ngang, gọi vui vẻ:
- Cô Nga...
Người thiếu nữ đương nhặt rau nghe tiếng gọi vội ngửng đầu: một
nụ cười, đôi mắt trong sáng lên; rồi tiếng nhẹ nhàng:
- Anh Thanh! Anh đã về đấy à?
Thanh đứng tựa bên cột, chưa trả lời. Chàng nhìn cô thiếu nữ
xinh xắn trong tà áo trắng, mái tóc đen lánh buông trên cổ nhỏ, bên cạnh mái
tóc bạc trắng của bà chàng. Cô Nga, cô bé hàng xóm vẫn sang chơi với chàng
trong vườn, và mỗi lần về, chàng lại gặp ở nhà như một người thân mật.
Một lát cô Nga nói:
- Anh Thanh độ này khác hẳn trước. Anh chóng nhớn quá.
- Tôi vẫn thế đấy chứ.
Bà cụ cúi trên rổ rau, không nhìn cháu đáp:
- Cô trông em có phải gầy đi không. Không bằng độ còn ở nhà.
Nga ngửng nhìn Thanh, cười:
- Ðấy em có nói sai đâu. Anh trông lại đen đi nữa.
Lá rau tươi xanh ngắt bên bàn tay trắng hồng nhỏ nhắn. Thanh
cũng ngồi ghé xuống. Thế là lại như lúc còn ở nhà, ngày ngày chàng cũng vẫn với
Nga xuống bếp xem bà làm cơm. Câu chuyện vẫn vui vẻ và vẫn đậm, có lúc chàng lầm
tưởng Nga chính là em gái ruột của mình.
Lúc Nga bưng cơm đặt lên bàn, bà cụ bảo cô thiếu nữ:
- ở đây ăn cơm một thể, cháu ạ.
Thanh nhìn lên:
- Ăn cho vui, cô Nga.
- Xin phép cụ và anh thôi, em vừa mới ăn cơm xong ở nhà. Em đứng
đây cũng được chứ gì.
Thanh ra vẻ không bằng lòng:
- Không, cô phải ngồi ăn cơ. Cô làm khách mãi.
Nga sợ, vén áo ngồi bên cạnh bà cụ, nhưng nàng chỉ ăn nhỏ nhẻ,
cầm chừng, và buông đũa luôn để xới cơm cho Thanh. Bữa cơm vui quá. Thanh ăn rất
ngon miệng, lòng thư thái và sung sướng. Thỉnh thoảng chàng nhìn đôi môi thắm của
Nga, hai má hồng. Và nụ cười tươi nở, nàng nhìn lại Thanh, một chút thôi, nhưng
bao nhiêu âu yếm.
Ngoài vười, trời vẫn nắng. Giàn thiên lý pha xanh một bên tà
áo trắng của Nga. Những búp hoa lý non và thơm rủ liền trong giàn, lẫn vào đám
lá. Gạch mát và phủ rêu khiến Thanh nhớ lại hai bàn chân xinh xắn của Nga, ngày
nào, đi trên đó. Hai bàn chân nhỏ, lấm tấm cát, để dấu tự ngoài ao trở về...
Chàng đột nhiên mỉm cười, rồi hỏi:
- Cô Nga có còn hay đi nhặt hoàng lan rơi nữa không?
Nga cũng cười hơi thẹn:
- Vẫn nhặt đấy. Nhưng không có ai tranh nữa.
Nàng nhìn Thanh, nắng như tụ lại những hình ảnh tự bao giờ,
và sẽ vuốt mấy sợi tóc mai ra một bên. Thanh thấy quả tim đập nhẹ nhàng.
Bà cụ thì mải nhìn cháu. Bác Nhân khoanh tay đứng dựa bên cột
nghe; bác cũng vui mừng vì thấy cậu về, vẫn khỏe mạnh và xinh trai như ngày trước.
Còn cô Nga vẫn tươi đẹp và vui vẻ như thế. Có cô nhà cũng đỡ vắng, và bà cậu
cũng đỡ buồn; hàng ngày cô chạy sang chơi giúp đỡ bà cụ giã cối trầu và nói
chuyện đến người đi vắng ở trên tỉnh đã lâu không về thăm nhà.
Bữa ăn xong. Thanh với Nga đã trở lại thân mật như khi còn nhỏ.
Thanh dắt nàng đi thăm vườn; cây hoàng lan cao vút, cành lá rủ xuống như chào
đón hai người. Có lúc gần nhau, Thanh thấy mái tóc Nga thoang thoảng thơm như
có giắt hoàng lan. Nhưng hoa lan chưa rụng, vẫn còn tươi xanh ở trên cành, Nga
bảo Thanh:
- Những ngày em đến đây hái hoa, em nhớ anh quá.
Thanh chẳng biết nói gì; chàng vít một cành lan xuống giữ ở
trong tay để Nga tìm hoa, rồi nhẹ nhàng buông ra cho cành lại cong lên. Nắng
soi vào vai hai người, nhưng dưới chân đất vẫn mát như xưa.
- Ngày mai thôi. Kỳ này được nghỉ ít. Nhưng mai kia, tôi sẽ về
ở đây lâu hơn.
Lòng Thanh dịu lại. Nga đến bên bể múc nước rửa hoa, rồi xếp
bầy lên trên quả trầu. Bà cụ nhìn cô, âu yếm:
- Hoa hãy còn non lắm, sao hái sớm thế, con?
Nga thưa:
- "Anh con hái đấy ạ" và nàng nhìn Thanh mỉm cười.
Ðêm ấy, một bà, một cháu với một cô láng giềng chuyện trò dưới
bóng đèn mãi tới khuya, khi trăng lên. Qua vườn, Thanh ti-n Nga ra đến cổng, đi
qua hai bên bờ lá đã ướt sương. Mùi hoàng lan thoang thoảng bay trong gió ngát.
Không lưỡng lự, Thanh cầm lấy tay Nga, để yên trong tay mình, Nga cũng đứng yên
lặng. Lâu lâu, Nga rút tay sẽ nói:
- Thôi em về.
Thanh đi trở vào rất thong thả. Có cái gì dịu ngọt chăng tơ ở
đâu đây, khiến chàng vương phải. Chàng đến trường kỷ ngồi ở bên đèn.
Sáng hôm sau, Thanh đã phải lên tỉnh. Chiếc vali chàng nặng
những thức quà bà chàng đã ban cho. Thanh cầm mũ đứng nghe lời khuyên bảo ân cần
của bà dưới giàn hoa lý. Chàng vẫn bé quá và lại đi xa.
Tới cổng, Thanh còn đứng lại nhìn cây hoàng lan và các cây
khác trong vườn. Bác Nhân nhanh nhảu cầm đỡ vali cho chàng, Thanh dặn khẽ:
- Bảo tôi có nhời chào cô Nga nhé.
Rồi chàng bước ra đi nửa buồn mà lại nửa vui. Thanh nghĩ đến
căn nhà như một nơi mát mẻ và sung sướng để chàng thường về nghỉ sau việc làm.
Và Thanh biết rằng Nga sẽ vẫn đợi chàng, vẫn nhớ mong chàng như ngày trước. Mỗi
mùa cô lại giắt hoàng lan trong mái tóc để tưởng nhớ mùi hương.
Đói
Một cơn gió lọt vào làm Sinh tỉnh giấc. Anh ta thấy cái hơi lạnh
của mùa đông thấm qua lần chăn mỏng, và thấy người mệt mỏi vì suốt đêm đã co quắp
trên chiếc phản gỗ cứng.
Sinh cuốn chăn ngồi dậy. Thế là, cũng như những buổi sáng
khác, một cái buồn rầu chán nản, nặng nề ở đâu đến đè nén lấy tâm hồn.
Những đồ vật quanh mình ẩn hiện trong bóng tối lờ mờ khiến
Sinh lại nghĩ đến cái cảnh nghèo nàn khốn khó của chàng. Một cái bàn con xiêu vẹo
bên góc tường, một cái chõng tre đã gẫy dăm ba nan, một cái ấm tích mất bông và
mấy cái chén mẻ, nước cáu vàng... Trong cùng, một cái hòm da, dấu vết còn lại,
của cái đời phong lưu độ trước...
Tất cả đồ đạc trong căn phòng chỉ có thế. Mà đã lâu lắm,
quanh mình Sinh vẫn chỉ có những thứ đồ tồi tàn ấy, đã lâu lắm chàng đến ở cái
căn phòng tối tăm, ẩm thấp này. Những ngày đói rét không thể đếm được nữa. Tiếng
gió vi vút qua khe cửa ban đêm chàng nghe đã quen, cả đến cái mệt mỏi lả đi vì
đói, chàng cũng đã chịu qua nhiều lần rồi.
Sinh thở dài. Chàng nhớ lại cái ngày bị thải ở sở chàng làm,
cái giọng nói quả quyết và lạnh lùng của ông chủ, cái nét mặt chán nản, thất vọng
của mấy người anh em cùng một cảnh ngộ với chàng... Từ lúc đó, bắt đầu những sự
thiếu thốn, khổ sở, cho đến bây giờ...
Một tiếng guốc ngoài hè làm cho Sinh ngẩn lên trông ra phía cửa:
vợ chàng về. Nàng vén cái màn đỏ treo ở cửa bước vào. Sinh thoáng trông cái
thân hình của vợ in rõ trên nền sáng, một cái thân thể mảnh giẻ, gầy gò trong
chiếc áo the mỏng phong phanh. Cảnh tượng ấy làm cho chàng xót thương...
Vợ chàng đi lại cạnh giường, yên lặnh nhìn Sinh không nói gì.
Sinh vơi lấy tay nàng kéo xuống bên mình, âu yếm hỏi :
- Em đi đâu mà sớm thế?
- Em lại đằng bà Ba ở cuối phố vay tiền.
Thế có được không?
Vơ Sinh nhìn chồng, thở dài lắc đầu :
- Ai cho chúng mình vay bây giờ. Bà ấy còn nhớ đâu đến khi
trước vẫn nhờ vả mình.
Sinh buồn rầu, nói một cách chán nản:
- Thói đời vẫn thế, trách làm gì. Nhưng bây giờ làm thế nào?
Chàng nghĩ đến cái thạp gạo đã hết, mà trong túi không còn được
một đồng xu nhỏ... Đã hai hôm nay, chàng và vợ chàng thổi ăn bữa gạo cuối cùng,
đã hai hôm, cái đói làm cho chàng khốn khổ...
- Làm thế nào?
Vợ chàng nhắc lại câu hỏi ấy, rồi cúi mặt khóc. Một mối tình
thương tràn ngập vào trái tim chàng như một làn sóng mạnh. Sinh nắm chặt lấy
tay vợ ôm vào lòng, đắm đuối, thiết tha. Chàng chỉ muốn chết ngay lúc bấy giờ để
tránh khỏi cái nghèo khốn khó, nặng nề quá, đè ở trên vai...
Buổi chiều đến đem theo những cơn gió lạnh lùng. Sinh bắc ghế
ra cái hiên nhỏ trước cửa phòng, tựa vào bao lơn nhìn xuống nhà... Chỗ chàng
thuê ở là một căn nhà hẹp và dài, chia làm nhiều phòng. Mỗi gian phòng là một
gia đình che chúc ở, toàn là những người nghèo buôn bán ở các nơi.
Giờ này là giờ họ làm cơm. Trong thấy họ tấp nập làm lụng,
Sinh lại nghĩ đến cái bếp nhà mình bây giờ vẫn còn tro lạnh, chàng lại lo không
biết vợ đi từ sáng đến giờ sao mãi không thấy về, mà về không biết có đem cái
gì không, hay lại chỉ một mối thất vọng như nhiều lần...
Nghĩ đến, Sinh lại đem long thương, thương người đàn bà xưa
nay vẫn quen thói đài điếm phong lưu, mà bây giờ phải chịu khổ vì chàng... Hai
bên gặp gỡ nhau trong một tiệc rượu dưới xóm cô đầu. Hồi ấy, chàng còn là một
người có việc làm, còn là một người có lắm tiền. Quen biết nhau, rồi yêu mến
nhau, chàng đã chẳng quản sự ngăn trở của nhà lấy nàng về. Đôi vợ chồng đã cùng
nhau sống những ngày sung sướng, ái ân, những ngày còn để lại trong trí chàng một
kỷ niệm êm đềm, mà mỗi khi nghĩ tới, chàng không khỏi bồi hồi. Rồi sự nghèo nàn
đến, đem theo những cái nhọc nhằn, khổ sở, đem theo những ngày đói rét.
Tuy vậy, sự khổ sở chàng nhận thấy không làm cho vợ chàng bớt
tình yêu đối với chàng. Cũng vẫn nồng nàn, đằm thắm như xưa, cái ái tình của
đôi bên chỉ có thêm màu cay đắng vì xót thương nhau.
Cái hình ảnh một thân thể yếu đuối, mảnh giẻ in trên nền trời
sáng buổi sớm mai lại thoáng hiện ra trước mắt Sinh. Chàng nhớ lại cái thất vọng
không vay được tiền, đôi con mắt buồn rầu, đắm đuối nhìn chàng như ngụ biết bao
nhiêu âu yếm, bao nhiêu hy sinh.
Một cơn gió đến làm cho Sinh thấy lạnh buốt tới xương. Chàng
thấy đói, một sự đói vô cùng như trong đời chàng chưa thấy bao giờ. Đói như cào
ruột, làm người chàng mệt lả đi, mắt hoa lên, trong vật gì cũng lờ mờ như lay động.
Khi còn đủ ăn, đủ mặc, chàng không hề để ý đến cái đói, không
bao giờ nghĩ đến. Bây giờ chàng mới được hiểu biết cái đói như thế nào. Chàng
rùng mình khi nghĩ đến trước cái mãnh liệt của sự đói, chàng cảm thấy sự cần
dùng của thân thể tràn áp đuợc hết cả những lệ luật của tinh thần.
Mùi xào nấu đồ ăn ở dưới sân nhà đưa lên làm cho chàng khó chịu
vô cùng. Sinh cúi đầu trên bao lơn nhìn xuống xem họ làm bữa cơm chiều. Các thức
ăn tuy tầm thường, nhưng Sinh lấy làm lạ rằng chàng chưa bao giờ thèm muốn những
cái đó như chàng thèm muốn bây giờ. Mấy miếng đậu vàng trong chảo mỡ phồng dần
trên ngọn lửa, mấy con cá rán bắt đầu cong lại làm cho chàng ao ước đến rung động
cả người...
Không bao giờ chàng thèm muốn như bây giờ cái miếng ăn kia.
Trước kia, khi nghe chuyện người ta tranh giành nhau vì miếng
ăn, chàng vẫn mỉm cười khinh bỉ. Chàng cho rằng miếng ăn là một sự không đáng kể,
chỉ có cái thanh cao trong sạch của linh hồn mới là cần. Nhưng bây giờ, trong
cái phút đói này, chàng mới thấy rõ cái cần mạnh mẽ của miếng ăn là thế nào.
Và chàng, trước kia phong lưu trưởng giả, trước kia khi đi
qua đám bình dân bẩn thỉu và nghèo nàn này, chàng vẫn khinh và tự hỏi không biết
họ sống để làm gì, sống để mà khổ sở, để mà đói rét, không biết sống đối vơi họ
có ý nghĩa gì mà còn ham mê quyến luyến. Bây giờ chàng lại ao ước được một miếng
ăn như họ để sống qua cái rét mướt bây giờ...
Một bàn tay nhẹ nhàng để lên trên vai Sinh quay lại, vợ chàng
tươi cười, giơ ra trước mặt mấy cái gói giấy bóng, gọn gàng, sạch sẽ, mà chàng
thoáng trông, Sinh cũng nhận biết ngay là những thức ăn được, mà rất ngon, ở
các hiệu tây mới có. Mùi thịt ướp và mùi giò thoang thoảng đưa qua. Sinh rung động
cả tay khi lần cởi những giây buộc chung quanh. Chàng sung sướng hỏi:
- Ồ! Ở đâu thế này? Em Mai lấy tiền đâu mà mua thế?
- Anh cứ ăn đi đã! Ăn cho đỡ đói, rồi em kể chuyện cho anh
nghe. Thật là may quá, mà cái bà ấy thực phúc đức quá, anh ạ...
- Ai thế? Kể đi cho anh nghe.
Mai âu yếm nhìn chồng:
- Không, anh cứ ăn đi đã kia. Vừa ăn, em sẽ vừa nói chuyện...
Rồi nàng nhanh nhẹn đặt mấy cái gói giấy lên bàn, mở những tờ
giấy bọc ngoài. Sinh nhìn thấy mấy miếng thịt ướp hồng hào, mỡ trắng và trong
như thủy tinh, mấy khoanh giò nạc mịn màng, mấy cái bánh tây vàng đỏ...
Mai cất tiếng vui vẻ:
- Thế này nhé, em ở nhà đi cũng là đi liều chứ thật không biết
đến nhờ vả ai được. Anh còn lạ gì các bạn hữu bây giờ: họ thấy mình nghèo khổ,
thì ai người ta giúp, vì có mong gì mình trả lại người ta được. Vì thế em mới
lang thang ngoài phố, nghĩ lúc bấy giờ cực thân quá, anh ạ, chỉ muốn đâm đầu xuống
sông cho rảnh...May quá, vừa lúc ấy, lại gặp ngay bà Hiếu, một người quen biết
từ trước. Bà trông thấy em, vồn vã hỏi han như người bắt được của...
Mai nói nhanh, liếng thoắng:
- Bà tử tế quá... Cho em vay tiền, lại còn hứa giúp vốn để em
buôn bán nữa. Rồi nay mai, em đi buôn cau, anh nhé. Thật không ngờ có bà biết
thương người đến như thế...
Sinh sung sướng:
- Nếu không thì chúng ta đành nhịn đói ngày hôm nay. Nhưng
sao em mua hoang thế này?
Mai cúi đầu cười, hai má đỏ hồng, mấy sợ tóc rối tung trên
trán càng tăng thêm vẻ kiều mỵ của nàng.
Nàng thò tay vào trong túi áo, rút ra một tập giấy bạc, vứt
ra trước mặt Sinh rồi nhanh nhẹn vui vẻ bước vào trong nhà.
- Anh đợi em một lát, em đi lấy dao cắt bánh.
Nàng quay lưng đi, Sinh chợt trông thấy trên mặt đất một mảnh
giấy gấp rơi xuống đất. Chàng vô tình cúi xuống nhặt lên mở ra đọc:
Em Mai,
Đây, anh đưa em số tiền anh đã hẹn. Em muốn lấy nữa, anh sẽ
cho em nốt, nhưng thế nào tối nay em cũng phải đúng hẹn đến đấy, anh đợi...
Tờ giấy trên tay Sinh rơi lúc nào chàng cũng không biết. Một
cái sức nặng nề như đè nén lấy quả tim, làm cho chàng ngừng thở. Hình như một
giây phút, bao nhiêu cái hy vọng sung sướng của đời chàng tan đi mất.
Sinh tưởng có thể chết ngay trong lúc ấy. Cái đau đớn chàng cảm
thấy thấm thía, và sâu xa quá.
Còn mong gì đó là một sự không thật, một giấc mộng nữa. Không
còn phải ngờ vực gì, cái số tiền kia chính là cái số tiền bên trong thư này. Ai
cho vay mới được chứ! Sinh nhớ lại những ngày đi hỏi tiền, những buổi trở về thất
vọng và buồn rầu, những lời tha thiết và oán hờn của vợ chàng kể lại, về cái
lãnh đạm, hững hờ của những người nàng quen biết. Bà Hiếu là bà nào! Chẳng qua
là một sự bịa đặt ra để che mắt chàng.
Sinh thấy cơn giận dữ nổi lên mãnh liệt trong lòng; đôi môi
chàng tự nhiên nhách lên một cách khinh bỉ, chàng run người lên, khẽ rằn từng
tiếng:
- Đồ khốn nạn.
Quả tim buốt như có kim đâm. Sinh nắm chặt lấy thành ghế,
nhìn cuốn bạc giấy để trên bàn, nhìn gói đồ ăn đang mở dở rồi cúi mình xuống nhặt
tờ giấy gấp lên.
Một lát, yên lặng. Rồi Sinh nghe rõ tiếng tấm màn vải ở cửa vắt
lên trước gió, tiếng dép đi nhẹ nhàng, gần đến bên chàng... Sinh cố hết sức cắn
môi để đè nén cơn giận dữ đang sôi nổi trong lòng, nắm chặt tay hơn nữa cho khỏi
rung động cả người.
Tay vuốt nhẹ trên tóc Sinh, vợ chàng đưng sát hẳn ngay bên
người. Nàng giở giấy ra, lấy dao cắt bánh, vui vẻ:
- Anh xem bánh này có ngon không? Em mua ở hàng Trống kia đấy.
Miếng thịt ướp này là hạng ngon nhất, em đã phải trả đến năm hào đấy, anh ạ. Để
em cắt cho anh nhé. Hinh như anh đói lắm thì phải. Em cũng thế. Thôi chúng ta
hãy ăn cho no đã, rồi sẽ liệu sau...
Nàng cắt xong miếng thịt ướp, xếp lên đĩa, tươi cười nói tiếp:
- Kìa, anh ăn đi chứ? Thật là may cho chúng mình quá. Nếu hôm
nay em không gặp bà Hiếu thì không biết chúng ta làm thế nào nhỉ?
Nàng vỗ vào vai Sinh, lay chồng:
- Làm thế nào? Lại nhịn như mọi hôm, chứ còn làm thế nào nữa,
anh Sinh nhỉ! Anh nên cám ơn bà ta đi. Bà thật là một người tốt, hiền hậu biết
thương người. Em vừa mở miệng hỏi, thì bà đã lần ruột tượng đưa ngay cho em 15
đồng tất cả đấy, anh ạ...Cuốn giấy bạc anh chưa đếm à? Em không nói dối anh
đâu.
Cái giận của Sinh lên đến cực điểm: chàng không nén nổi nữa.
Cái tên bà Hiếu làm chàng uất ức, vì chàng rõ những nhời giả dối của vợ chàng,
giả dối một cách khôn khéo, tự nhiên như thật vậy...Mai lại đến nỗi như thế ư?
Đôi mắt trong, cái khuôn mặt hiền hậu như thế kia không ngờ lạicó thể giấu được
những sự tối tăm như bây giờ...
Vùng mạnh cánh tay, Sinh hất Mai ra xa như người ta hất một
con vật đáng ghê sợ. Mai lảo đảo lùi lại sau ngã dúi vào tường, vành khăn tung,
tóc xổ. Nàng giương to con mắt ngạc nhiên nhìn chồng:
- Ô hay! Anh làm sao thế?
Sinh cất tiếng cười, hai hàm răng rít lên, cái tiếng cười ghê
gớm như tiếng cười của một người điên:
- Làm sao à? Cô lại còn hỏi tôi tại làm sao nữa...Thôi, đừng
vờ đi, đừng giả dối nữa...
Sinh mở bàn tay giơ ra tờ giấy gấp đã nát nhàu:
- Thế cái giấy gì đây mới được chứ?
Mai trông thấy mặt xám đi, hai tay ôm lấy đầu, người run lẩy
bẩy. Giọng nói của Sinh càng thêm vẻ chế riễu, mỉa mai, chua chát:
- Bà Hiếu tử tế đấy! Úi chà! Nào là bà ấy tử tế, nào là thương
người, nào là hiền hậu... Sao không nói, bà ấy hẹn đến đêm nay lại đến nữa.
Mai cúi đầu ôm mặt khóc nức nở. Cái tiếng khóc ấy không làm
cho Sinh bớt giận, lại chỉ làm tăng thêm lên như ngọn lửa đổ thêm dầu. Càng nói
Sinh lại càng thấy cái giận như sôi nổi, bồng bột trong lòng. Mai sợ hãi nép
vào tường, thổn thức, ngập ngừng, khẽ gọi:
- Anh Sinh...Anh...
Sinh như không nghe thấy tiếng, nói luôn:
- Cô còn khóc làm gì nữa... Cô đi ngay đi, đi ra khỏi cái nhà
này, tôi không muốn thấy mặt cô một phút nào nữa. Cô cầm lấy cái này...
Sinh giơ tay vơ cuốn giấy bạc trên bàn ném mạnh vào người
Mai; giấy bạc tung ra rơi lả tả trên thềm. Chàng hất cả mấy gói đồ ăn xuống đất,
những mẫu bánh, miếng thịt bắn tung tóe dưới bàn...
- Không ai thèm ăn những thứ khốn nạn này!
Rồi chàng mệt nhọc ngả người trên ghế, hai tay dây mỡ ôm lấy
trán, không để ý đến Mai đang sợ hãi giơ tay về phía chàng cầu khẩn, van xin. Rồi
nàng nấc lên khóc, kéo vạt áo che mặt, đi ra phía ngoài.
Sinh cúi đầu ngẫm nghĩ; cái giận dữ đã tan đi, đểlại một nỗi
buồn rầu chán nản vô cùng. Sinh thấy trong lòng nguội lạnh, một cảm giác lạnh
lùng như thắt lấy ruột gan. Nghĩ đến những ngày đói rét khổ sở đã qua, đến mấy
năm sống trong cảnh nghèo nàn, Sinh uất ức căm giận cho cái số phận của mình.
Nhưng tại sao lại có thêm một sự đau đớn nữa? Tại sao Mai trước kia đã từng bao
phen khổ sở cùng chàng, đến bây giờ đem thân bán đi lấy một vài đồng bạc, tại
sao Mai lại làm sự khốn nạn như giờ...
Bao nhiêu đau đớn trong tâm can làm Sinh thổ thức, nghẹn
ngào. Quả tim không đủ chứa nổi nỗi đau thương, Sinh gục xuống bàn.
Một cơn gió hắt hiu thổi đến làm cho chàng rùng mình. Bỗng
nhiên tất cả người chàng chuyển động: chàng vừa thoáng ngửi thấy cái mùi thơm
và béo của những miếng thịt ướp mỡ còn dính ở tay.
Cơn đói lại sôi nổi dậy như cào ruột, xé gan, mãnh liệt, ác hẳn
cả nỗi buồn. Chàng muốn chống cự lại, muốn quên đi, nhưng không được, cái cảm
giác đói đã lan ra cả khắp người như nước triều tràn lên bãi cát. Mỗi lần cơn
gió, mỗi lần chàng ngửi thấy mùi ngậy béo của miếng thịt ướp, mùi thơm của chiếc
bánh vàng, mũi Sinh tự nhiên nở ra, hít mạnh vào, cái mùi thơm thấu tận ruột,
gan, như thấm nhuần vào xương tủy.
Sinh cúi xuống nhìn gói đồ ăn tung tóe dưới bàn, chàng lắm
lét đưa mắt nhìn quanh, không thấy Mai đứng đấy nữa... Khẽ đưa tay như ngập ngừng,
sợ hãi, Sinh vớ lấy miếng thịt hồng hào.
Sinh ăn vội vàng, không kịp nhai, kịp nuốt. Chàng nắm chặt
miéng thịt trong tay, nhây nhớp mỡ, không nghĩ ngợi gì, luôn luôn đưa vào miệng...
Trong gói giấy, đồ ăn đã hết, chỉ còn những cái vụn nhỏ dính
trên mặt giấy bóng mỡ. Sinh thấy nóng ran trong bụng. Chàng ưỡn người ra đằng
sau khoan khoái thở dài. Nhưng chàng nhớ lại bức thư, cuốn giấy bạc, nhớ lại tiếng
khóc thổn thức của Mai nép bên tường, nhớ lại những lời khinh bỉ, mỉa mai, chua
xót. Chàng nhớ lại nỗi uất ức, đau đớn của mình...
Một cái chán nản mênh mông tràn ngập cả người. Sinh lấy hai
tay ôm mặt, cúi đầu khóc nức nở.
Chị Sen cúi mình dưới gánh nước nặng trĩu, lách cửa bước vào
những bước khó nhọc và chậm chạp. Cái đòn gánh cong xuống và rên rỉ trên vai,
nước trong thùng sánh tóe ra mỗi bước đi. Chị cố hết sức lên khỏi mấy bậc thềm,
đặt gánh nước trên đất, rồi lấy vạt áo lau mồ hôi rỏ giọt trên trán.
- Trời chiều rồi mà chị còn gánh nước cơ à?
Chị Sen thong thả một lát rồi mới trả lời:
- Con phải gánh nước nữa cho ông tắm chứ đã thôi đâu. Từ sáng
đến giờ hơn mười gánh nước rồi.
Tôi ái ngại nhìn chị. Sông ở xa, từ nhà ra đến sông phải đi một
quãng đường dài. Bà Cả hà tiện không chịu mua một trinh một gánh nước của người
ngoài chợ chở vào bán, bà bắt chị Sen phải gánh suốt ngày. Tôi trông chị mà
thương hại; người chị bé nhỏ da sạm nắng. Chân tay đã bị những công việc nặng nhọc
làm thành xấu xí và cằn cỗi.
Tôi sắp nói với chị một câu an ủi, thì bỗng có tiếng the thé,
- tiếng bà Cả - ở trên nhà đưa xuống:
- Không đi mà gánh nước cho ông tắm đi còn đứng đấy mà chầu
chuyện. Gần tối rồi còn gì nữa.
Tôi ngoảnh lại thấy bà Cả đứng ở trên thềm, mặt cau có và giận
dữ. Chị Sen sợ hãi, lẳng lặng tra đòn gánh vào quang, đi ra cửa. Tôi nghe thấy
chị khẽ thở dài.
Chị đi rồi, tôi cũng quay về, sau lưng mang nặng cái nhìn của
bà Cả; chắc bà ta không bằng lòng tôi chút nào, nhưng vì tôi là con cháu nên bà
không dám nói đấy thôi.
Chúng tôi, và tất cả mọi người trong họ không ai ưa gì bà Cả,
mà còn ghét nữa. Không biết trong cái ghét ấy có lẫn chút ganh tị không, vì bà
Cả giàu lắm, - nhưng hễ nói đến tên bà mọi người ai cũng bĩu môi khinh bỉ. Hai
vợ chồng ông Cả trước kia cũng nghèo hèn. Sau nhờ cho vay lãi, lãi rất nặng mà
trở nên giàu có. Nhưng bà kiệt ác lắm. Một tay bà Cả đã tịch ký không biết bao
nhiêu ruộng nương của người ở trong vùng. Những người vay nợ, bà bắt phải biếu
xén, nên trong nhà bà lúc nào cũng có gà vịt, gạo hay chân giò. Nhưng hai ông
bà hà tiện không dám ăn gà vịt, đem bán ở chợ còn chân giò phơi khô để dành. Bữa
cơm chỉ có một ít vừng rang thật mặn, một ít thịt kho rim và một đĩa rau. Hai
ông bà thường kêu rằng khó ở, luôn luôn không ăn được. Chị Sen biết nhiều về những
bữa cơm ấy vì chị phải ăn cơm với muối là thường. Nhiều khi sang chơi, tôi thấy
chị ngồi trước mâm cơm chỉ có đĩa không, với bát nước mắm. Chị ăn uể oải và
thong thả như người không ăn được, tuy chị đói. Chị bảo rằng, cơm với muối khó
ăn lắm, nuốt vào nó nghẹn ở cổ.
Chị Sen là con một người làng có nợ ông bà Cả. Nghe đâu thầy
chị vì chạy cái Nhiêu, phải lên lạy van bà Cả vay ba chục. Ngày mùa đã trả được
một nửa và ít lãi, còn một nửa chưa trả được, phải đem chị Sen gán làm đứa ở
không công. Nhưng mẹ chị Sen nói mãi, bà Cả rộng lượng hẹn một năm cho hai áo
cánh, một cái áo nâu dài và hai cái quần sồi. Mẹ chị Sen cám ơn lòng tử tế cao
cả của người chủ nợ. Bà dặn con ở lại hầu hạ ông bà Cả chu đáo, rồi về.
Từ đấy chị Sen quán xuyến hết cả công việc trong nhà. Nào
gánh nước, bổ củi, làm cơm, đầu tắt mặt tối suốt ngày, mà vẫn bị mắng chửi. Vì
bà Cả là người to tiếng và lắm điều lắm. Không lúc nào hàng xóm không nghe tiếng
bà the thé và rít lên, chửi chó, mắng mèo, hay bới móc chị Sen. Vô phúc cho chị
mà hé răng nói lại. Tức thì bà Cả nhảy lên, hai hàm răng nghiến vào nhau, thét:
- Cái con chết băm chết vằm kia! Mày ăn hại cơm của bà mà
không làm việc cho bà à! Bố mày định ăn không ăn hỏng của bà, thì bà mới phải
nuôi báo cô mày chứ!
Chị Sen lẩm bẩm: "Thầy con chưa lo được trả bà chứ có phải
định quịt nợ đâu mà bà chửi", nhưng chỉ lẩm bẩm trong miệng thôi, chứ
không dám nói.
Những lúc ấy, các người hàng xóm nghe tiếng bà, lại thì thầm
bảo nhau: "Gớm ác nghiệt thế chả trách được không có con. Trời nào cho con
những người như thế", và họ thấy hể hả trong lòng như một sự báo thù. Ông
bà Cả không có con. Đó là sự phiền muộn nhất. Hai ông bà bây giờ đã có tuổi,
không còn mong mỏi gì nữa. Trước kia bà Cả đã chạy thầy chạy thuốc chán, lễ hết
đền kia phủ nọ để cầu lấy mụn con; nhưng ông càng ngày càng yếu mà bà thì cứ cằn
cỗi héo hắt lại như mấy cây khô, chẳng sinh nở gì cả. Người trong họ ghét bà
thường bảo: "Không biết kiệt như thế rồi giữ của để cho ai?" Những lời
thị phi ấy đến tai bà Cả, có lẽ khiến cho bà tức tím ruột gan. Bà càng ghét họ
hàng, và không ưa con cháu đến chơi, tuy chúng tôi đến, bà không dám ghét ra mặt.
Bà đối với chúng tôi vẫn ngọt nhạt, vẫn dịu dàng. Thấy chúng tôi ăn mặc rách rưới,
bà hay hỏi kháy:
- "Sao mẹ không may quần áo lành cho các cháu mặc, để
rách rưới thế này?", và quay lại bảo chồng: "Ăn tiêu lắm vào rồi để
con tồi tệ thế kia!" Rồi bà đem ra những thức của người ta biếu phân phát
cho chúng tôi mỗi đứa một vài cái kẹo, còn nhiều khi phải vứt đi vì không ăn được.
Chị Sen ở với bà Cả được ngót một năm. Bữa hôm ấy, thấy tiếng
bà Cả quát tháo đã lâu, tôi chạy sang. Chị Sen đang cúi đầu vào đống rơm khóc.
Tôi hỏi tại sao, chị nức nở đáp:
- Tôi lỡ tay đánh vỡ một cái chén, bà ấy đánh tôi đau quá.
Chị Sen thâm tím cả mình mẩy, một vết roi ấy qua môi làm rướm
máu. Chị vừa xoa bóp vừa than thở:
- Bởi thầy u tôi mắc nợ nên tôi mới phải chịu khổ thế này.
- Thế chị xin về có được không?
Chị Sen sẽ lắc đầu thở dài, không nói. Có lẽ chị nghĩ đến món
nợ còn thiếu, nếu chưa trả được nhà cửa sẽ bị tịch ký.
Cách đó ít lâu, mẹ chị Sen hay lên vào hầu chuyện bà Cả. Người
ta nói chị Sen sắp xin về đi lấy chồng. Nhưng hễ có ai hỏi là bà Cả trả lời:
- Cái đồ cơm toi ấy thì ai lấy mà chồng với con.
Rồi chúng tôi thấy chị Sen càng phải chửi và phải đòn hơn trước.
Hơi một tí là bà Cả nhắc đến món tiền nợ để nhiếc móc chị, nói nay đuổi đi, mai
đuổi đi, không nuôi chị "cái con trương xác chỉ hay ăn" ấy nữa. Chúng
tôi thấy chị khóc luôn; sang lúc nào cũng thấy chị mắt đỏ hoe, hay đang lấy muối
và nước nóng đắp vào những vết thương bởi roi ông Cả.
Đầu tháng tám, tôi thấy thày chị Sen lên hầu bà Cả lễ mễ mang
một cái bu, trong có hai con gà và một con vịt; u chị Sen thì mang một nải chuối
và một buồng cau nói là lấy ở vườn nhà.
Gặp ở ngõ, người vú già của tôi hỏi:
- Hai bác đi đâu mà nhiều lễ vật thế?
Thầy u chị Sen đáp:
- Chúng tôi lên xin cho con cháu nó về để lấy chồng.
Tôi chạy sang xem. Hai thầy u chị Sen hầu chuyện rất lâu ông
bà Cả; chị Sen ngồi cắn rơm ở thềm nhà dưới, bên cạnh cái bu gà vịt. Mấy cái quần
áo cũ vá rách chị đã gói ghém trong cái khăn vuông, cùng với cái lược con ba
xu, một cái gương tròn nhỏ và một hộp sáp cô Ba, đó là tất cả những thứ chị có.
Đến quá trưa, thầy u chị Sen đưa chị sang chào bà tôi. Chị ôm
cái gói con bên nách, vẫn mặc cái áo nâu vá hàng ngày, mà khói bếp và mồ hôi đã
làm đen đi từng chỗ. Tôi nhận thấy thầy u chị vẻ mặt không được tươi như lúc đến;
bấy giờ hai tay bỏ không, - lễ vật chắc đã được bà Cả nhận cho rồi - bộ dạng buồn
rầu và thất vọng.
Bà tôi chúc mừng chị Sen vài câu lấy lệ, rồi hỏi:
- Bà Cả cho được bao nhiêu làm vốn?
U chị Sen đáp:
- Bẩm, chẳng được đồng nào cả. Nhà con phải vật nài mãi mà bà
Cả mới thôi không đòi lãi tháng này.
Thầy chị Sen nói thêm:
- Bây giờ còn chạy tiền lo cho cháu, có đâu mà trả được. Bà
tôi lại hỏi:
- Thế còn quần áo mới của nó đâu?
- Bẩm, bà Cả không cho, bảo rằng chưa ở được đúng một năm.
Giọng u chị Sen tấm tức, rồi nghẹn ngào trong nước mắt. Còn
chị Sen từ nãy vẫn cứ lặng yên đứng ở góc nhà, tay ôm chặt cái gói quần áo cũ.
Một lát sau, chị lẳng lặng theo thầy u đi ra, dáng đi chậm chạp và khó nhọc,
như còn đang gánh gánh nước ở trên vai.
Mãi hai năm sau tôi lại mới được thấy chị Sen. Hôm ấy, thầy u
chị lại lễ mễ buồng chuối và cái bu gà lên tết ông bà Cả, vì món nợ chưa trả hết.
Chị Sen đi theo sau, nhưng lần này tay chị bồng đứa con trai, đứa con của chị.
Ba người vào lúc ông bà Cả đang ăn cơm.
Thầy chị Sen để bu gà và buồng chuối xuống đất, chắp tay vái:
- Lạy ông bà ạ.
Chị Sen nấp sau bố mẹ, cũng cất tiếng khẽ chào theo. Bà Cả
buông đũa, gật đầu đáp lại "tôi không dám"; rồi bảo vợ chồng bác
Nhiêu:
Trông thấy chị Sen đứng lẩn vào xó tối, bà Cả hỏi:
- Chị Sen đây à?
Tiếng "vâng" sẽ của chị bị câu nói của bác Nhiêu lấp
đi:
- Bẩm vâng. Cháu nó xin lên chào ông bà đấy ạ.
- Có con rồi kia à? Mau nhỉ. Nào, đem cháu lại đây tôi xem
nào...
Chị Sen rụt rè, sợ hãi, bế con lại gần. Bà Cả giơ tay đón đứa
bé, vừa hỏi:
- Nó lên mấy?
- Bẩm, cháu mới được mười bốn tháng ạ.
Bà Cả xốc đứa bé trên tay rồi nhìn ông Cả, bảo: "Này, thằng
bé nặng quá". Bà quay mặt đứa bé lại, nhìn nó và "tặc âu" với nó
mấy tiếng. Rồi bỗng bà vòng tay ghì chặt đứa bé vào cái sườn cằn cỗi của bà,
khiến tấm áo lụa căng thẳng trên ngực lép và đôi vú héo hon. Đứa bé sợ khóc
thét lên, ngửa cổ ra đằng sau. Bà Cả dỗ:
- Ngoan ngoan bà cho cái này.
Bà gắp một miếng đậu trong mâm đưa lên miệng đứa bé. Nhưng nó
càng khóc già và giẫy giụa để nhoài ra với mẹ. Chị Sen lại gần:
- Thưa bà để con bế.
Bà Cả ngẩn ngơ nâng đứa bé trả lại mẹ.
Tôi thấy trong mắt bà sáng lên một tia sáng thèm muốn và ao ước.
Bà còn nói với:
- Đứa bé trông kháu khỉnh quá nhỉ.
Chị Sen sung sướng thẹn đỏ mặt, ẵm con lên tay hôn hít, chị
nhìn đứa bé với tất cả tình âu yếm và tự kiêu của người mẹ, rồi thưa:
- Bẩm, cháu nó năm ngoái bị sài, cứ quặt quẹo mãi; đến bây giờ
mới đỡ.
Bà chép miệng nói khéo:
- Nhà thì túng, một đồng, một chữ không có, mà cứ phải lo thuốc
cho con thật đến khổ.
Nhưng bà Cả hình như không nghe thấy gì nữa. Mắt bà đờ ra như
đang theo đuổi một ước vọng xa xôi; bà đang nghĩ rằng không bao giờ bà được biết
những nỗi lo sợ ấy, bởi không bao giờ bà được bồng đứa con trên tay, được nâng
niu ấp ủ một cái mầm sống trong lòng. Không bao giờ... Giá bà đánh đổi tất cả của
cải để lấy đứa con!
Tôi thấy người bà rung động, một tiếng thở dài sẽ thoát ra
môi rồi đôi mắt ráo của bà bỗng mờ đi như ướt lệ. Bà lặng nhìn đứa bé đang rúc
bú đôi vú căng sữa trong yếm mẹ.
Lúc ấy u chị Sen xin phép về, bà Cả nhất định không lấy lễ;
bác Nhiêu sợ quá, khẩn khoản vật nài mãi, bà cũng không nghe, bắt phải mang về,
và ôn tồn nói bà có lễ nhiều rồi, không cần lấy của hai vợ chồng nghèo bác nữa.
Rồi muốn tỏ cho bác biết rằng không phải bà giận, bà Cả mở tủ lấy hai đồng bạc
mới đưa cho chị Sen, bảo:
- Đây, tôi cho chị cầm về may áo cho con mặc. Rồi đến Tết bế
nó lên chơi nhé!
Chị Sen e lệ đút hai đồng bạc vào ruột tượng; chị cảm động
quá không cám ơn bà Cả được.
Một lát sau, hai vợ chồng bác Nhiêu hớn hở xách bu gà và buồng
chuối ra về, chị Sen vui vẻ theo sau, vừa đi vừa mừng con rối rít.
Đứa con đầu lòng
Tân nhớ lại một cách rõ ràng những giờ chàng chờ đợi trong
căn phòng ở hộ sinh viện. Thì giờ lúc ấy sao hình như đi chậm thế! Tân tưởng
cái buổi ấy kéo dài r a mãi không bao giờ hết. Chàng nóng ruột như lửa đốt, đi
đi lại lại trong phòng, ngồi xuống chiếc ghế ở bên tường một lát rồi lại đứng dậy.
Chàng đưa mắt nhìn qua những bàn ghế giản dị và sơn trắng, xếp đặt một cách gọn
ghẽ. Rồi chàng chăm chú nhìn cái cánh cửa đóng ở góc phòng. Bên kia cánh cửa, vợ
chàng đang chờ đợi cái bí mật lạ lùng của sự sinh nở. Thỉnh thỏang cửa phòng hé
mở, một cô đỡ mặc áo trắng rón rén bước ra. Tân thoáng nghe thấy những tiếng
kêu khẽ và đau đớn. Chàng để ý dò xét nét mặt của cô đỡ nhưng vẫn thấy cô ta
bình tĩnh như thường, nhẹ nhàng đi ra ngoài lấy chai nước hay cái khăn mặt.
Rồi cuộc chờ đợi khó chịu ấy hết. Tân nghe thấy mấy tiếng kêu
thét trong phòng bên đưa sang, tiếp đến tiếng trẻ con khóc. Một lát, cánh cửa
phòng mở rộng, một cô đỡ ghé đầu ra ngoài mỉm cười:
- Mời ông vào. Xong cả rồi.
Tân theo cô ta bước vào trong phòng. Chàng thấy mấy cô đỡ xúm
xít chung quanh cái nôi mây và thoáng nhìn thấy giữa đống vải trắng một vật gì
đỏ nõn đang động đậy. Tân đến gần bên giường. Vợ chàng nằm ngả đầu trên gối trắng,
nét mặt xanh xao và mệt nhọc. Nhưng hai con mắt sáng lên như vui mừng nhận thấy
chàng.
Trong gian phòng yên lặng vẫn phảng phất cái không khí của một
sự bí mật gì quan trọng. Các cô đỡ nói với nhau khe khẽ. Tân ngồi xuống cái ghế
đầu giường, cầm lấy tay vợ. Chàng thấy bàn tay lạnh và ướt đẫm mồ hôi.
Bà đỡ chính đã lót xong tã cho đứa bé, đưa đến trước mặt Tân,
vui vẻ nói :
- Ông xem cô bé có khỏe không? Được hơn ba cân rưỡi đấy.
Trong khi vợ chàng giơ tay ra đón lấy đứa con một cách âu yếm
và nâng niu, Tân tò mò ngắm nhìn cái đầu bé phủ tóc đen và mượt. Chàng thấy một
cảm tưởng lạ, không rõ rệt, nẩy nở trong lòng. Nhưng cái rúm thịt động đậy, cái
mầm sống nhỏ mọn và yếu ớt kia hình như không có một chút liên lạc gì với chàng
cả. Tân không thấy cảm động như chàng tưởng, và cũng không thấy có một cảm tình
gì đối với đứa con mới đẻ.
Một tuần lễ sau ở nhà, Tân thấy vợ và vú em bận rộn rối rít
như mỗi khi sắp đến ngày giỗ. Hai người suốt cả buổi chỉ ngồi cắt và khâu những
cái áo con con, đan những đôi tất xinh xinh và sửa soạn cái nôi mây. Những công
việc đó, Tân thấy hay hay, nhưng chàng không để tâm đến. Thỉnh thỏang chàng mới
thoáng chú ý một chút đến đứa bé mà chàng thấy lúc nào cũng quấn kín trong miếng
vải trắng và nhắm mắt ngủ kỹ.
Một buổi sáng, khi sắp sửa đi làm, Tân thấy vợ gọi:
- Này cậu, lại mà xem, hay quá.
Tân cúi xuống giường vợ chàng đương ngồi, và hai tay giữ chân
đứa bé đặt nằm trước mặt. Hai bàn tay nhỏ nhắn của đứa bé đang cọ quậy, giơ lên
giơ xuống, hai con mắt bé lờ đờ, như hơi gạc nhiên nhìn.
Vợ chàng sung sướng hỏi:
- Có phải nó nhớn hơn hôm nọ nhiều không?
Nàng giơ ngón tay cho đứa bé nắm rồi tiếp:
- Này, cậu xem nó nắm chặt chưa này!
Tân cũng cầm lấy tay đứa bé, đáp:
- Ừ...Nhưng sao cái đầu nó dài thế nhỉ. Tôi trông nó thế nào ấy.
- Nó còn bé thì nó thế chứ sao.
- Mà hình như một mắt to, một mắt nhỏ.
Vợ Tân ra ý không bằng lòng, cãi lại:
- Không, hai mắt nó bằng nhau đấy chứ. Cậu chỉ hay chê nó
thôi.
Rồi nàng bế đứa con lên lòng, âu yếm cho bú.
Dần dần Tân cũng quen với đứa trẻ lặng lẽ sống bên mình. Mỗi
lần đi về, Tân lại đến cạnh cái nôi, vén tấm màn trắng lên và nhìn một lát đứa
bé nằm trong đó vẫn hai tay cọ quậy và con mắt lờ đờ nhìn mọi vật. Tuy vậy, Tân
không nhận thấy rõ rệt cái liên lạc gì với đứa trẻ. Vả lại chàng cũng không
nghĩ sâu xa gì về sự đó, chỉ thoáng qua trong trí mà thôi.
Một lần, chàng đang ngồi làm việc ở bàn giấy thì nghe tiếng vợ
tắm cho đứa bé ở trong buồng. Vợ chàng gọi:
- Cậu vào đây hộ tôi một tý.
Tân quay mặt vào phía buồng, đáp:
- Con sen đâu, sao không gọi nó?
- Nó còn bận giặt ngoài kia. Thì cậu vào hộ tôi một tí có làm
sao. Giữ hộ tôi cái đầu để tôi tắm cho nó thôi mà.
Tân ngần ngại bỏ dở công việc:
- Nào thì vào!
Rồi chàng vào trong buồng ngồi xuống bên cái chậu, hai tay giữ
lấy đầu đứa bé. Vợ chàng nói lấy lòng:
- Cậu chỉ cầm một tý thôi. Tôi tắm cho nó xong ngay bây giờ
đây.
Tân nhìn đứa bé, không thích một chút nào. Cái thân hình ngắn
ngủi và chân tay khẳng khiu của nó làm chàng khó chịu không muốn để ý đến.
Chàng càu nhàu mắng đứa bé:
- Nằm im! Mày cứ cọ quậy bắn cả nước lên tao đây này.
- Thôi, giữ lấy nó, tôi mỏi tay lắm rồi.
Vợ chàng hơi gắt:
- Hãy giữ một chút nữa. Mới có một tí thế đã kêu mỏi!
Cái giọng nói ấy làm cho Tân không bằng lòng. Chàng buông đứa
trẻ, đứng dậy trả lời xa:
- Không phải công việc của tôi. Với lại tôi trông nó khó chịu
lắm.
Tân không nhận thấy nét mặt ngạc nhiên và buồn rầu của vợ, bước
ra ngoài. Một chút hối hận, đến cửa, làm chàng quay mặt lại: vợ chàng đang ôm đầu
đứa bé trong lòng khóc nức nở.
Ra ngoài, Tân mới nhận thấy cái cử chỉ vô lý của mình. Một
tình thương nảy nở trong lòng chàng. Tân muốn trở vào an ủi vợ, xin lỗi nàng vì
đã làm nàng phải buồn rầu. Chàng đứng lại, định quay vào, nhưng không biết cái
gì vẫn giữ chàng lại. Tân đến ngồi bên bàn, nghĩ ngợi.
Từ khi hai vợ chồng lấy nhau, những cuộc cãi cọ nhỏ mọn,
không có nghĩa lý gì, vẫn thường xảy ra luôn. Vì một câu nói, vì một cớ không
đâu, hai vợ chồng lại giận nhau. Mà cũng như lần này, Tân cảm thấy chàng chỉ
nói một lời dịu ngọt, êm ái, là đủ cho hai bên hòa hợp lại như cũ. Nhưng những
câu ấy tan đi trên miệng trước khi nói ra lời. Một ý xấu khiến chàng yên lặng,
và xui chàng giận dữ thêm lên để lấy phần phải về mình.
Khi Tân trở lại phòng, chàng thấy vợ đang ngồi cho con bú. Đứa
bé tắm rửa sạch sẽ trông hồng hào như đánh phấn. Cái bàn tay mập mạp xinh xắn của
nó nắm chặt lấy tay mẹ như để cầu sự âu yếm và che chở. Thỉnh thoảng nó ầm ừ
trong miệng có vẻ rất bằng lòng.
Tân lại gần cúi nhìn đứa bé. Chàng thấy trong lòng một mối cảm
động êm đềm và phiền phức. Nhìn đứa trẻ ngây thơ nằm trong lòng mẹ, Tân cảm thấy
lần đầu cái thiêng liêng sâu xa của sự sống, và nhận thấy chính cái bé nhỏ, hèn
mọn hàng ngày phá hoại cuộc đời.
Từ đấy, đứa con như cái dây giữ sự hòa hợp trong hai vợ chồng.
Tân và vợ chàng không cãi nhau nữa. Mà nếu có xảy ra cuộc hờn giận, hai người
chỉ cùng trông đứa trẻ mũm mỉm là lại hòa hợp như cũ.
Thỉnh thỏang vợ chồng bồng con đưa đến trước mặt Tân, chỉ cho
chàng biết những cái thay đổi trong đứa bé.
- Này cậu trông, cái thóp bây giờ đã nhỏ đi rồi đấy.
Tân cũng chăm chú xem, rồi nói chuyện với con. Lúc chàng ngẩng
lên nhìn, chàng thấy vợ ngượng nghịu muốn giấu sự vui mừng làm ửng hồng đôi gò
má. Tân cũng thấy trong tâm can một sự vui vẻ khác thường.
Buổi sáng nay, vừa bước chân vào trong nhà, Tân đã hỏi vợ:
- Em đâu?
- Nó ngủ, cái gì thế?
- Tôi có cái này hay lắm.
Tân giơ lên cho vợ xem một đôi bít tất len trắng xinh đẹp.
Chàng bước lại bên cạnh cái nôi rủ màn trắng sạch sẽ.
Vợ chàng vội nói:
- Ấy, khẽ chứ cậu, để nó ngủ. Tôi vừa mới đặt xong.
Tân rón rén, khe khẽ giở tấm màn tuyn, nhìn thấy đứa trẻ nằm
gọn trong vải trắng. Chàng cúi mình xuống, yên lặng đợi trên cặp môi nhỏ bé một
nụ cười.
Và Tân thấy trong lòng rung động khẽ như cánh bướm non, một
tình cảm sâu xa và mới mẻ chàng chưa từng thấy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét