Bất ngờ ngang qua cuộc chơi
Trần Huy
Thuận lý giải về cái tên sách của mình là mượn từ câu nói của nhà viết kịch Tào
Mạt: “Cuộc đời này chẳng qua cũng chỉ là một cuộc chơi” (thì trước tác giả bộ
chèo "Bài ca giữ nước" hàng mấy trăm năm, Banzăc cũng đã gọi cả một
trước tác đồ sộ của mình là “Tấn trò đời” rồi sao!). Nhưng Trần Huy Thuận tự
thấy mình không thể nhập được vào cuộc chơi đầy may rủi này, mà chỉ coi mình là
kẻ “đi ngang qua”. Và việc viết văn cũng chỉ là chuyện của kẻ tay ngang mà
thôi.
Trần Huy
Thuận vốn làm công tác kỹ thuật ngành xây dựng nhà xưởng, nhưng lại ham đọc và
thích láng cháng chuyện văn chương. Vốn tính hài hước, nhân có cuộc thi viết
văn thơ trào phúng ở địa phương, ông nhảy vào dự thi và ẵm luôn hai giải đầu cả
về văn và thơ từ năm 1984. Ông trở thành hội viên Hội văn học nghệ thuật Hà Nam
Ninh.
Ngoài một vài
năm công tác ở Hà Nội, hầu như suốt cuộc đời Huy Thuận sống “thúc thủ” ở Thành
Nam từ khi mới sinh cho đến khi “đầu bạc răng long”. Người ta nói
“ Nam Định nhỏ như một bàn tay con gái”, cho nên ông trở thành thổ
công, thổ địa của cái mảnh đất này cũng không có gì lạ.
Bẵng đi một
thời gian, sự viết của ông hầu như dừng lại, nhưng gần đây trên báo
mạng bắt đầu xuất hiện nhiều sáng tác của Trần Huy Thuận. Ông viết đủ các
thể loại, nhưng phần lớn là tản văn, phiếm đàm, ghi chép, hồi ký…Những bài viết
của ông nhanh chóng nhận được sự phản hồi, sẻ chia và cộng hưởng từ phía bạn
đọc.
Ông tự ý
thức, với tuổi của mình, gặp đâu viết đấy, hứng lúc nào viết lúc ấy, trăn trở
điều gì viết điều ấy. Có nghĩa là ông viết hoàn toàn không chịu một sức ép
nào từ bên ngoài, mà từ sự “trăn trở” của chính mình. Cho nên ông viết thoải
mái, thẳng tưng, nhưng có sự từng trải, sự chiêm nghiệm của cả một
đời. Nói và làm. Ăn (nợ miệng) và thở. Nghe (cái tai và văn
hóa nghe) và nói (nói thẳng và nghe nói thẳng). Đứng và đi.
Chiếc ghế (chiếc ghế và văn hóa ngồi) và chiếc thang…Rồi đạo
học và đạo làm thầy. Chuyện giáo dục và chuyện lương
lậu. Tham nhũng và chống tham nhũng. Đúng là đủ chuyện, nhưng
nếu chỉ nghe qua những cái “tít” thì có vẻ khô khan cả. Vậy mà người đọc vẫn bị
lôi cuốn vì cách bàn luận vừa “đáo để” dẫn dắt cổ kim thâm thúy, vừa đậm chất
“uy-mua” hóm hỉnh.
Cho dẫu là
“gặp đâu viết đấy”, nhưng ta cảm thấy tác giả phản ứng rất nhanh nhạy với mọi
chuyện trên đời, những bài viết có giá trị thời sự nóng hổi.
Song thực
tình mà nói, những phần viết “sốt sột” như thế chưa chinh phục được tôi mấy.
Tôi chỉ thực sự thú vị khi đọc phần “Chuyện văn- chuyện đời” của tác giả. Những
bài viết ở phần này có chiều sâu hơn, có chất văn hơn và do đó làm xúc động
lòng người hơn. Không còn là những ghi chép đơn thuần nữa, một số đề tài đã
được tác giả nâng lên thành tác phẩm văn học đích thực. Có thể kể ra một số
truyện ngắn hay và độc đáo.
“Hạt cát dưới
đáy cuộc đời”- một số phận bi đát không thể nào bi đát hơn. Một con người không
mang án mà mất hết quyền công dân, không có hộ khẩu thời bao cấp, chỉ vì bị “bỏ
quên” giữa chiến trường trước ngày chiến thắng. Nhưng đau đớn hơn còn bị chính
cha mình khước từ.
“Tội sống”
viết về một người bạn già vợ mất sớm, phải gà trống nuôi con. Nhưng cuối cùng
lại khốn khổ vì con cái. Đứa con trai mất nhân tính, cô con gái yêu
phải kẻ nghiện ngập. Ông bố già sống mà không bằng chết. Tác giả truyền cho
người đọc một sự sót thương cho những kiếp người.
Nhân vật
trong truyện “Túp nhà nhỏ đầu ngõ con ngõ hẹp” thật điển hình cho hình ảnh một
cán bộ tổ chức thời bao cấp. Chuyện thật mà cứ như sắp đặt về quy luật nhân quả
nhãn tiền. Một lời cảnh báo có sức nặng.
Cũng như vậy,
truyện “Tùng chột và những người khác” tố cáo những mánh khóe của những kẻ lạm
dụng chức quyền, chuyên bài binh bố trận hại người, nhưng cuối cùng bộ mặt thật
rơi xuống trước sự khinh khi của mọi người.
Nhưng có thể
nói, gây sốc nhất là truyện “Thằng đổ vỏ”. Những kẻ cơ hội không từ một thủ
đoạn nào bợ đỡ cấp trên để được thăng tiến, thậm chí cả những trò loạn luân bỉ
ổi. Điều kinh hãi là người đọc nhận ra đằng sau câu chuyện là sự thật trần trụi
chứ không phải là hư cấu của tác giả.
Những truyện
ngắn như thế có tính hiện thực phê phán sâu sắc, như một hồi quang của xu hướng
này một thời đậm nét trong văn học nước nhà.
Số tác phẩm
được coi là truyện ngắn không nhiều (tác giả xếp lẫn trong các thể loại khác),
nhưng cũng như các bài viết khác đều có nguyên mẫu thực ngoài đời, tác giả như
một người quan sát, một nhân chứng, nên đều có nét tự sự.
Trần Huy
Thuận dành khá nhiều trang và bài viết về bạn đồng môn, những bạn bè một
thời cùng học trường Bến Củi, cùng lớp hoặc cùng thành phố nhưng “cũng
đều biết nhau cả”. Tác giả viết về họ với sự trân trọng, thân tình và ưu ái,
sót sa, nhưng không né tránh những sự thực đáng buồn trong số phận và nhân cách
của mỗi con người. Đó là những Trần Văn Thủy, đạo diễn điện ảnh nổi tiếng với
bộ phim “Chuyện tử tế”. Vẫn thực sự là người tử tế, không kênh kiệu với bạn bè
trong hội “mày tao”.
Đó là Mai
Trang- nữ phóng viên lăn lội trong chiến trường miền Nam, quên cả tuổi trẻ
đã qua của mình. Đó là Trần Văn Bình, hiên ngang hát quốc ca trong trường ngày
Nam Định bị tạm chiếm, bị bắt giữ tù đầy, nhưng lại bị lãng quên trong khi
những kẻ cơ hội lại được vênh vang sau này. Định Mít đã có em vào chiến trường,
vẫn xung phong đi bộ đội. Gặp em trong những trận chiến đấu ác liệt, rồi tự tay
mình chôn cất em. Nhưng khi trở về chỉ là anh lính quèn, thếch thác với chiếc
ba lô con cóc, mà cảm thấy xấu hổ với gia đình. Người cháu họ tên Ánh (nhưng là
bạn học hơn tuổi tác giả) cũng là một “ca” đặc biệt. Là con cái thuộc thành
phần trên, nhưng có công nuôi giấu cán bộ cách mạng cao cấp, song cũng lại bị lãng
quên. Ánh trở thành một ông lão hát rong với cây đàn ghita và bài hát muôn thuở“ Nhà của tôi! Nhà của tôi… đâu rồi?
Còn đâu nhà của tôi!” Sẵn sàng chìa tay xin bạn bè vài tờ, nhưng vẫn với giọng “ông tướng”, rằng không thèm nhận tiền bẩn. Rồi chuyện Du Đen, chuyện Ngố, chuyện một “phó thường dân”…mỗi đứa bạn là một số phận, nhưng đều đáng trân trọng và cả đáng thương. Không như những chuyện về “Anh chàng Mốc làm quan” hay chuyện một anh chàng khác nhận vơ là bạn đồng môn khi có thể lợi dụng vào mối thân quen ấy.
Còn đâu nhà của tôi!” Sẵn sàng chìa tay xin bạn bè vài tờ, nhưng vẫn với giọng “ông tướng”, rằng không thèm nhận tiền bẩn. Rồi chuyện Du Đen, chuyện Ngố, chuyện một “phó thường dân”…mỗi đứa bạn là một số phận, nhưng đều đáng trân trọng và cả đáng thương. Không như những chuyện về “Anh chàng Mốc làm quan” hay chuyện một anh chàng khác nhận vơ là bạn đồng môn khi có thể lợi dụng vào mối thân quen ấy.
Câu chuyện
“Một nhành cây trong mùa lá rụng” viết về một người bạn gái mang âm hưởng buồn
mà trong sáng. Thì lứa tuổi bạn bè một thuở ấy nay đã vào tuổi cổ lai hy rồi,
tránh sao khỏi kẻ còn người mất. Nhưng vượt lên tất cả, tình bạn vẫn là niềm an
ủi cho nhau trong những năm tháng cuối cuộc đời.
Tác giả khép
lại tập truyện bằng hai tác phẩm châm biếm của thời mới khởi viết: “Người có
hàm răng chuột” và “ Con không giống cha-là nhà có phúc!”. Hóa ra truyện
viết từ một phần tư thế kỷ trước đến nay vẫn còn mang “tính thời sự”... Và
dường như trong hầu hết các bài viết của Trần Huy Thuận đều phảng phất một nụ
cười, một nét hài hước ngay cả trong những câu chuyện buồn! Thành Nam nhỏ bé và
yên bình, nhưng cũng có đủ mọi chuyện nhân tình thế thái để một đời Trần Huy
Thuận đi ngang qua và ghi chép lại với mong muốn gửi gắm tâm sự:
“Cuộc đời còn
mấy nữa đâu
Quăng đi mọi
gánh u sầu
Chén
xuân xin mời rót tiếp
Để tình
chuếnh choáng trong nhau”.
Nguyễn Như Mai
Nguồn: VĂN NGHỆ TRẺ số 39 ngày 27-9-2009
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét