Truyện ngắn Thạch Lam 3
Gió lạnh đầu mùa
Buổi sáng hôm nay, mùa đông đột nhiên đến, không báo trước. Vừa
mới ngày hôm qua giời hãy còn nắng ấm và hanh, cái nắng về cuối tháng mười làm
nứt nẻ đất ruộng, và làm ròn khô những chiếc lá rơi. Sơn và chị chơi cỏ gà ở
ngoài cánh đồng còn thấy nóng bứt, chảy mồ hôi.
Thế mà qua một đêm mưa rào, trời bỗng đổi ra gió bấc, rồi cái
lạnh ở đâu đến làm cho người ta tưởng đang ở giữa mùa đông rét mướt. Sơn tung
chăn tỉnh dậy, nhưng không bước xuống giường ngay như mọi khi, còn ngồi thu tay
vào trong bọc, bên cạnh đứa em bévẫn nắm tay ngủ kỹ. Chị Sơn và mẹ Sơn đã trở dậy,
đang ngồi quạt hỏa lò để pha nước chè uống. Sơn nhìn thấy mọi người đã mặc áo
rét cả rồi.
Nhìn ra ngoài sân, Sơn thấy đất khô trắng, luôn luôn cơn gió
vi vu làm bốc lên những màn bụi nhỏ, thổi lăn những cái lá khô lạo xạo. Trời
không u ám, toàn một màu trắng đục. Những cây lan trông chậu, lá rung động và
hình như sắc lại vì rét.
Sơn cũng thấy lạnh, vội vơ lấy cái chăn trùm lên đầu rồi cất
tiếng gọi chị. Mẹ Sơn nghe thấy, đặt chén nước chè xuống, bảo chị Lan:
- Con vào buồng lấy thúng áo ra mẹ mặc cho em, đi.
Rồi quay lại bảo Sơn:
- Con sang đây mà ngồi cho ấm. Bước khéo để cho em bé ngủ.
Sơn kéo chăn lên đắp cho em, ngồi xếp bằng bên khay nước. Mẹ
Sơn rót cho một chén, Sơn cầm lấy chén chè nóng ấp vào mặt, vào má cho ấm, rồi
để mặt vào miệng chén cho hơi bốc lên. Bà Sơn thường vẫn bảo làm thế cho tỉnh mắt.
Người vú già xù xù cái áo bông cánh rách, xách siêu nước từ
dưới nhà lên, vừa xuýt xoa vừa nói:
- Rét quá! Múc nước cóng cả tay.
Vú giơ tay hơ trên hỏa lò. Mẹ Sơn hỏi:
- Năm nay rét sớm hơn mọi năm vú nhỉ?
Người vú già ra vẻ nhớ lại, đáp:
- Cũng chả bằng cái năm mợ đi cân gạo bên Sông. Gớm, mới rét
làm sao! Sáng tôi dậy, bà sai đi chợ, cứ run lên cầm cập.
Sơn cũng nhớ cái rét năm ấy rõ rệt lắm, như mới đây thôi. Buổi
sớm hôm ấy, mẹ Sơn cũng ngồi uống nước chè như sáng hôm nay và cũng lấy áo rét
ra mặc.
Chị Lan từ trong buồng đi ra, khệ nệ ôm cái thúng quần áo đặt
lên đầu phản. Mẹ Sơn đặt cái vỉ buồm lục đống quần áo rét. Sơn nhận ra cũng những
cái áo Sơn đã mặc năm ngoái, năm kia: một cái áo vệ sinh màu nâu sẫm với một cái
áo dạ khâu chỉ đỏ. Sơn cầm giơ những cái áo lên, thấy mát lạnh cả tay. Từ bộ quần
áo thoảng ra hơi mốc của vải gấp lâu trong hòm, làm Sơn nhớ lại những buổi đầu
mùa rét từ bao giờ, lâu lắm, ngày Sơn còn nhỏ.
Mẹ Sơn giơ lên một cái áo bông cánh đã cũ nhưng còn lành lặn,
nói:
- Đây là áo của cô Duyên đây.
Duyên là đứa em gái bé của Sơn, chết từ năm lên bốn tuổi. Mẹ
Sơn nhắc đến làm Sơn nhớ em, cảm động và thương em quá. Vú già là người đã nuôi
Duyên từ lúc mới đẻ, với lấy cái áo lật đi lật lại ngắm nghía,tay mân mê các đường
chỉ:
- Giá bây giờ em nó có còn cũng chả mặc được.
Mẹ Sơn yên lặng không nói gì. Nhưng đến lúc nói với Sơn lại để
mặc áo, Sơn thấy mẹhơi rơm rớm nước mắt.
Sơn đã mặc xong áo ấm áp: cả cái áo dạ chỉ đỏ lẫn áo vệ sinh,
ngoài lại mặc phủ cái áo vải thâm dài. Sơn đứng trên giường trước mặt mẹ, đã
quay đi quay lại ba, bốn lần để mẹ Sơn ngắm áo. Sau cùng, mẹ Sơn vuốt các tà áo
cho phẳng phiu, rồi đẩy Sơn ra, bảo:
- Thôi, con đi chơi.
Sơn xúng xính rủ chị ra chợ chơi. Nhà Sơn ở quay lưng vào chợ,
cạnh một dãy nhà lá của những người nghèo khổ mà Sơn quen biết cả vì họ vẫn vào
vay mượn ở nhà Sơn. Sơn biết lũ trẻ con các gia đình ấy chắc bây giờ đương đợi
mình ở cuối chợ để đánh khăng, đánh đáo.
Không phải ngày phiên, nên chợ vắng không. Mấy cái quán chơ
vơ lộng gió, rác bẩn rải rác lẫn với lá rụng của cây đề. Gió thổi mạnh làm Sơn
thấy lạnh, và cay mắt. Nhưng chân trời trong hơn mọi hôm, những làng ở xa Sơn
thấy rõ như ở gần. Mặt đất răn lại, và nức nẻ những đường nho nhỏ, kêu vang lên
lanh tanh dưới nhịp guốc của hai chị em.
Đến cuối chợ đã thấy lũ trẻ đang quây quần chơi nghịch. Chúng
nó thấy chị em Sơn đến đều lộ vẻ vui mừng, nhưng chúng vẫn đứng xa, không dám vồ
vập. chúng như biết cái phận nghèo hèn của chúng vậy, tuy Sơn và chị vẫn thân mật
chơi đùa với, chứ không kiêu kỳ và khinh khỉnh như các em họ của Sơn.
Thằng Cúc, con Xuân, con Tý, con Túc sán gần giương đôi mắt
ngắm bộ quần áo mới của Sơn. Sơn nhận thấy chúng ăn mặc không khác ngày thường,
vẫn những bộ quần áo nâu bạc đã rách vá nhiều chỗ. Nhưng hôm nay, môi chúng nó
tím lại, và qua những chỗ áo rách, da thịt thâm đi. Mỗi cơn gió đến, chúng lại
run lên, hàm răng đập vào nhau.
Thằng Xuân đến mó vào chiếc áo của Sơn, nó chưa thấy cái áo
như thế bao giờ. Sơn lật vạt áo thâm, chìa áo vệ sinh và áo dạ cho cả bọn xem.
Một đứa tắc lưỡi, nói:
- Cái áo này mặc thì nóng lắm. Chắc mua phải đến một đồng bạc
chứ không ít, chúng mày nhỉ.
Đứa khác nói:
- Ngày trước thầy tao cũng có một cái áo như thế, về sau bán
cho ông lý mất.
Con Túc ngây ngô giương đôi mắt lên hỏi Sơn:
- Cái này cậu mua tận Hà Nội phải không?
Sơn ưỡn ngực đáp:
- Ở Hà Nội, chứ ở đây làm gì có. Mẹ tôi còn hẹn mua cho tôi một
cái áo len nhiều tiền hơn nữa kia.
Chị Lan bỗng giơ tay vẫy một con bé, từ nãy vẫn đứng dựa vào
cột quán, gọi:
- Sao không lại đây, Hiên? Lại đây chơi với tôi.
Hiên là đứa con gái bên hàng xóm, bạn với Lan và Duyên. Sơn
thấy chị gọi nó không lại, bước gần đến trông thấy con bé co ro đứng bên cột
quán, chỉ mặc có manh áo rách tả tơi, hở cả lưng và tay. Chị Lan cũng đến hỏi:
- Sao áo của mày rách thế Hiên, áo lành đâu không mặc? Con bé
bịu xịu nói:
- Hết áo rồi, chỉ còn cái này.
- Sao không bảo u mày may cho?
Sơn bây giờ mới chợt nhớ ra là mẹ cái Hiên rất nghèo, chỉ có
nghề đi mò cua bắt ốc thì còn lấy đâu ra tiền mà sắm áo cho con nữa. Sơn thấy động
lòng thương, cũng như ban sáng Sơn đã nhớ thương đến em Duyên ngày trước vẫn
cùng nói với Hiên đùa nghịch ở vườn nhà. Một ý nghĩ tốt bỗng thoáng qua trong
trí, Sơn lại gần chị thì thầm:
- Hay là chúng ta đem cho nó cái áo bông cũ, chị ạ.
- Ừ, phải đấy. Để chị về lấy.
Với lòng ngây thơ của tuổi trẻ, chị Lan hăm hở chạy về nhà lấy
áo. Sơn đứng lặng yên đợi, trong lòng tự nhiên thấy ấm áp vui vui.
Nhưng cái vui của Sơn không được bao lâu. Bữa cơm về tới nhà,
Sơn không thấy mẹ đâu cả, hỏi vú già:
- Mợ tôi đi đâu hở vú?
- Chị Lan và cậu cứ ăn cơm trước đi. Mợ còn đi ăn giỗ đến
trưa mới về.
Rồi vú già nhìn rõ vào mặt Sơn, hỏi:
- Có phải cậu đem cho con Hiên cái áo bông cũ phải không?
Sơn ngạc nhiên đáp:
- Phải. Nhưng sao vú biết?
- Con Sinh nó nói với tôi đấy-Sinh là đứa em họ của Sơn, vẫn
hay nói hỗn với vú già, nên vú ấy ghét - Nó lại còn bảo hễ mợ về nó sẽ sang mách
với mợ cho cậu phải đòn.
Sơn lo quá, sắp ăn, bỏ đũa đứng dậy, van:
- Thế bây giờ làm thế nào, hở vú? Mợ tôi biết thì chết.
- Ai bảo cậu dại dột đem cho áo nó? Bây giờ cậu sang bảo cái
Hiên trả lại thì không việc gì.
Sơn vội vàng ra chợ tìm cái Hiên nhưng không thấy con bé ở
đó. Đến nhà cũng không thấy ai, mẹ nó cũng không có nhà. Hai chị em lo sợ, đi
ra cánh đồng tìm cũng không gặp. Gần đến buổi chiều, Sơn và chị chưa đòi được
áo. Lan trách em:
- Sao em lại nghĩ đem cho nó cái áo ấy, có phải bây giờ me mắng
chết không.
- Ai bảo chị về lấy? Nếu chị không về lấy thì em biết đâu.
Chị Lan đấu dịu:
- Thôi, bây giờ phải về nhà vậy chứ biết làm thế nào.
- Nhưng mà em sợ lắm.
Chị Lan thở dài, nắm chặt lấy tay em, an ủi:
- Đằng nào cũng phải về cơ mà. May ra có lẽ me không mắng
đâu.
Hai chị em lo lắng dắt nhau lẻn về nhà. Đến cửa, Sơn nghe thấy
tiếng mẹ nói ở trong với tiếng một người đàn bà khác nữa, nghe quen quen. Lan dắt
tay Sơn khép nép bước vào, hai chị em ngạc nhiên đứng sững ra khi thấy mẹ con
Hiên đang ngồi ở cái ghế con trên đất trước mặt mẹ, tay cầm cái áo bông cũ.
Thấy hai con về, mẹ Sơn ngửng lên nhìn rồi nghiêm nghị bảo:
- Kìa, hai cô cậu đã về kia. Thế áo bông của tôi đâu mà tự tiện
đem cho đấy?
Sơn sợ hãi, cúi đầu lặng im, nép vào sau lưng chị. Bác Hiên vừa
cười vừa nói:
- Tôi về thấy cháu nó mặc cái áo bông tôi hỏi ngay. Nó bảo của
cậu Sơn cho nó. Tôi biết cậu ở đây đùa, nên tôi phải vội vàng đem lại đây trả mợ.
Thôi, bây giờ, xin phép mợ tôi về.
Mẹ Sơn hỏi:
- Con Hiên không có cái áo à?
- Bẩm nhà cháu độ này khổ lắm, Chẳng để dành được đồng nào
may áo cho con cả. Thành thử vẫn cái áo từ năm ngoái nó mặc mãi.
Mẹ Sơn với cái âu đồng, lấy tiền đưa cho bác Hiên:
- Đây, tôi cho mượn năm hào cầm về mà may áo cho con.
Khi bác Hiên bước ra khỏi cửa, mẹ Sơn vẫy hai con lại gần, rồi
âu yếm ôm vào lòng mà bảo :
- Hai con tôi quý quá, dám tự do lấy áo đem cho người ta
không sợ mẹ mắng ư?
Buổi sáng hôm nay, mùa đông đột nhiên đến, không báo trước. Vừa
mới ngày hôm qua giời hãy còn nắng ấm và hanh, cái nắng về cuối tháng mười làm
nứt nẻ đất ruộng, và làm ròn khô những chiếc lá rơi. Sơn và chị chơi cỏ gà ở
ngoài cánh đồng còn thấy nóng bứt, chảy mồ hôi.
Thế mà qua một đêm mưa rào, trời bỗng đổi ra gió bấc, rồi cái
lạnh ở đâu đến làm cho người ta tưởng đang ở giữa mùa đông rét mướt. Sơn tung
chăn tỉnh dậy, nhưng khôg bước xuống giường ngay như mọi khi, còn ngồi thu tay
vào trong bọc, bên cạnh đứa em bévẫn nắm tay ngủ kỹ. Chị Sơn và mẹ Sơn đã trở dậy,
đang ngồi quạt hỏa lò để pha nước chè uống. Sơn nhìn thấy mọi người đã mặc áo
rét cả rồi.
Nhìn ra ngoài sân, Sơn thấy đất khô trắng, luôn luôn cơn gió
vi vu làm bốc lên những màn bụi nhỏ, thổi lăn những cái lá khô lạo xạo. Trời
không u ám, toàn một màu trắng đục. Những cây lan trông chậu, lá rung động và
hình như sắc lại vì rét.
Sơn cũng thấy lạnh, vội vơ lấy cái chăn trùm lên đầu rồi cất
tiếng gọi chị. Mẹ Sơn nghe thấy, đặt chén nước chè xuống, bảo chị Lan:
- Con vào buồng lấy thúng áo ra mẹ mặc cho em, đi.
Rồi quay lại bảo Sơn:
- Con sang đây mà ngồi cho ấm. Bước khéo để cho em bé ngủ.
Sơn kéo chăn lên đắp cho em, ngồi xếp bằng bên khay nước. Mẹ
Sơn rót cho một chén, Sơn cầm lấy chén chè nóng ấp vào mặt, vào má cho ấm, rồi
để mặt vào miệng chén cho hơi bốc lên. Bà Sơn thường vẫn bảo làm thế cho tỉnh mắt.
Người vú già xù xù cái áo bông cánh rách, xách siêu nước từ
dưới nhà lên, vừa xuýt xoa vừa nói:
- Rét quá! Múc nước cóng cả tay.
Vú giơ tay hơ trên hỏa lò. Mẹ Sơn hỏi:
- Năm nay rét sớm hơn mọi năm vú nhỉ?
Người vú già ra vẻ nhớ lại, đáp:
- Cũng chả bằng cái năm mợ đi cân gạo bên Sông. Gớm, mới rét
làm sao! Sáng tôi dậy, bà sai đi chợ, cứ run lên cầm cập.
Sơn cũng nhớ cái rét năm ấy rõ rệt lắm, như mới đây thôi. Buổi
sớm hôm ấy, mẹ Sơn cũng ngồi uống nước chè như sáng hôm nay và cũng lấy áo rét
ra mặc.
Chị Lan từ trong buồng đi ra, khệ nệ ôm cái thúng quần áo đặt
lên đầu phản. Mẹ Sơn đặt cái vỉ buồm lục đống quần áo rét. Sơn nhận ra cũng những
cái áo Sơn đã mặc năm ngoái, năm kia: một cái áo vệ sinh màu nâu sẫm với một
cái áo dạ khâu chỉ đỏ. Sơn cầm giơ những cái áo lên, thấy mát lạnh cả tay. Từ bộ
quần áo thoảng ra hơi mốc của vải gấp lâu trong hòm, làm Sơn nhớ lại những buổi
đầu mùa rét từ bao giờ, lâu lắm, ngày Sơn còn nhỏ.
Mẹ Sơn giơ lên một cái áo bông cánh đã cũ nhưng còn lành lặn,
nói:
- Đây là áo của cô Duyên đây.
Duyên là đứa em gái bé của Sơn, chết từ năm lên bốn tuổi. Mẹ
Sơn nhắc đến làm Sơn nhớ em, cảm động và thương em quá. Vú già là người đã nuôi
Duyên từ lúc mới đẻ, với lấy cái áo lật đi lật lại ngắm nghía,tay mân mê các đường
chỉ:
- Giá bây giờ em nó có còn cũng chả mặc được.
Mẹ Sơn yên lặng không nói gì. Nhưng đến lúc nói với Sơn lại để
mặc áo, Sơn thấy mẹhơi rơm rớm nước mắt.
Sơn đã mặc xong áo ấm áp: cả cái áo dạ chỉ đỏ lẫn áo vệ sinh,
ngoài lại mặc phủ cái áo vải thâm dài. Sơn đứng trên giường trước mặt mẹ, đã
quay đi quay lại ba, bốn lần để mẹ Sơn ngắm áo. Sau cùng, mẹ Sơn vuốt các tà áo
cho phẳng phiu, rồi đẩy Sơn ra, bảo:
- Thôi, con đi chơi.
Sơn xúng xính rủ chị ra chợ chơi. Nhà Sơn ở quay lưng vào chợ,
cạnh một dãy nhà lá của những người nghèo khổ mà Sơn quen biết cả vì họ vẫn vào
vay mượn ở nhà Sơn. Sơn biết lũ trẻ con các gia đình ấy chắc bây giờ đương đợi
mình ở cuối chợ để đánh khăng, đánh đáo.
Không phải ngày phiên, nên chợ vắng không. Mấy cái quán chơ
vơ lộng gió, rác bẩn rải rác lẫn với lá rụng của cây đề. Gió thổi mạnh làm Sơn
thấy lạnh, và cay mắt. Nhưng chân trời trong hơn mọi hôm, những làng ở xa Sơn
thấy rõ như ở gần. Mặt đất răn lại, và nức nẻ những đường nho nhỏ, kêu vang lên
lanh tanh dưới nhịp guốc của hai chị em.
Đến cuối chợ đã thấy lũ trẻ đang quây quần chơi nghịch. Chúng
nó thấy chị em Sơn đến đều lộ vẻ vui mừng, nhưng chúng vẫn đứng xa, không dám vồ
vập. chúng như biết cái phận nghèo hèn của chúng vậy, tuy Sơn và chị vẫn thân mật
chơi đùa với, chứ không kiêu kỳ và khinh khỉnh như các em họ của Sơn.
Thằng Cúc, con Xuân, con Tý, con Túc sán gần giương đôi mắt
ngắm bộ quần áo mới của Sơn. Sơn nhận thấy chúng ăn mặc không khác ngày thường,
vẫn những bộ quần áo nâu bạc đã rách vá nhiều chỗ. Nhưng hôm nay, môi chúng nó
tím lại, và qua những chỗ áo rách, da thịt thâm đi. Mỗi cơn gió đến, chúng lại
run lên, hàm răng đập vào nhau.
Thằng Xuân đến mó vào chiếc áo của Sơn, nó chưa thấy cái áo
như thế bao giờ. Sơn lật vạt áo thâm, chìa áo vệ sinh và áo dạ cho cả bọn xem.
Một đứa tắc lưỡi, nói:
- Cái áo này mặc thì nóng lắm. Chắc mua phải đến một đồng bạc
chứ không ít, chúng mày nhỉ.
Đứa khác nói:
- Ngày trước thầy tao cũng có một cái áo như thế, về sau bán
cho ông lý mất.
Con Túc ngây ngô giương đôi mắt lên hỏi Sơn:
- Cái này cậu mua tận Hà Nội phải không?
Sơn ưỡn ngực đáp:
- Ở Hà Nội, chứ ở đây làm gì có. Mẹ tôi còn hẹn mua cho tôi một
cái áo len nhiều tiền hơn nữa kia.
Chị Lan bỗng giơ tay vẫy một con bé, từ nãy vẫn đứng dựa vào
cột quán, gọi:
- Sao không lại đây, Hiên? Lại đây chơi với tôi.
Hiên là đứa con gái bên hàng xóm, bạn với Lan và Duyên. Sơn
thấy chị gọi nó không lại, bước gần đến trông thấy con bé co ro đứng bên cột
quán, chỉ mặc có manh áo rách tả tơi, hở cả lưng và tay. Chị Lan cũng đến hỏi:
- Sao áo của mày rách thế Hiên, áo lành đâu không mặc? Con bé
bịu xịu nói:
- Hết áo rồi, chỉ còn cái này.
- Sao không bảo u mày may cho?
Sơn bây giờ mới chợt nhớ ra là mẹ cái Hiên rất nghèo, chỉ có
nghề đi mò cua bắt ốc thì còn lấy đâu ra tiền mà sắm áo cho con nữa. Sơn thấy động
lòng thương, cũng như ban sáng Sơn đã nhớ thương đến em Duyên ngày trước vẫn
cùng nói với Hiên đùa nghịch ở vườn nhà. Một ý nghĩ tốt bỗng thoáng qua trong
trí, Sơn lại gần chị thì thầm:
- Hay là chúng ta đem cho nó cái áo bông cũ, chị ạ.
- Ừ, phải đấy. Để chị về lấy.
Với lòng ngây thơ của tuổi trẻ, chị Lan hăm hở chạy về nhà lấy
áo. Sơn đứng lặng yên đợi, trong lòng tự nhiên thấy ấm áp vui vui.
Nhưng cái vui của Sơn không được bao lâu. Bữa cơm về tới nhà,
Sơn không thấy mẹ đâu cả, hỏi vú già:
- Mợ tôi đi đâu hở vú?
- Chị Lan và cậu cứ ăn cơm trước đi. Mợ còn đi ăn giỗ đến
trưa mới về.
Rồi vú già nhìn rõ vào mặt Sơn, hỏi:
- Có phải cậu đem cho con Hiên cái áo bông cũ phải không?
Sơn ngạc nhiên đáp:
- Phải. Nhưng sao vú biết?
- Con Sinh nó nói với tôi đấy-Sinh là đứa em họ của Sơn, vẫn
hay nói hỗn với vú già, nên vú ấy ghét-Nó lại còn bảo hễ mợ về nó sẽ sang mách
với mợ cho cậu phải đòn.
Sơn lo quá, sắp ăn, bỏ đũa đứng dậy, van:
- Thế bây giờ làm thế nào, hở vú? Mợ tôi biết thì chết.
Sơn vội vàng ra chợ tìm cái Hiên nhưng không thấy con bé ở
đó. Đến nhà cũng không thấy ai, mẹ nó cũng không có nhà. Hai chị em lo sợ, đi
ra cánh đồng tìm cũng không gặp. Gần đến buổi chiều, Sơn và chị chưa đòi được
áo. Lan trách em:
- Sao em lại nghĩ đem cho nó cái áo ấy, có phải bây giờ me mắng
chết không.
- Ai bảo chị về lấy? Nếu chị không về lấy thì em biết đâu.
Chị Lan đấu dịu:
- Thôi, bây giờ phải về nhà vậy chứ biết làm thế nào.
- Nhưng mà em sợ lắm.
Chị Lan thở dài, nắm chặt lấy tay em, an ủi:
- Đằng nào cũng phải về cơ mà. May r a có lẽ me không mắng
đâu.
Hai chị em lo lắng dắt nhau lẻn về nhà. Đến cửa, Sơn nghe thấy
tiếng mẹ nói ở trong với tiếng một người đàn bà khác nữa, nghe quen quen. Lan dắt
tay Sơn khép nép bước vào, hai chị em ngạc nhiên đứng sững ra khi thấy mẹ con
Hiên đang ngồi ở cái ghế con trên đất trước mặt mẹ, tay cầm cái áo bông cũ.
Thấy hai con về, mẹ Sơn ngửng lên nhìn rồi nghiêm nghị bảo:
- Kìa, hai cô cậu đã về kia. Thế áo bông của tôi đâu mà tự tiện
đem cho đấy?
Sơn sợ hãi, cúi đầu lặng im, nép vào sau lưng chị. Bác Hiên vừa
cười vừa nói:
- Tôi về thấy cháu nó mặc cái áo bông tôi hỏi ngay. Nó bảo của
cậu Sơn cho nó. Tôi biết cậu ở đây đùa, nên tôi phải vội vàng đem lại đây trả mợ.
Thôi, bây giờ, xin phép mợ tôi về.
Mẹ Sơn hỏi:
- Con Hiên không có cái áo à?
- Bẩm nhà cháu độ này khổ lắm, Chẳng để dành được đồng nào
may áo cho con cả. Thành thử vẫn cái áo từ năm ngoái nó mặc mãi.
Mẹ Sơn với cái âu đồng, lấy tiền đưa cho bác Hiên:
- Đây, tôi cho mượn năm hào cầm về mà may áo cho con.
Khi bác Hiên bước ra khỏi cửa, mẹ Sơn vẫy hai con lại gần, rồi
âu yếm ôm vào lòng mà bảo :
- Hai con tôi quý quá, dám tự do lấy áo đem cho người ta
không sợ mẹ mắng ư?.
Kẻ bại trận
Tôi với Khanh người bạn duyên nợ trăm năm đang ngồi cùng bàn
câu chuyện làm ăn, ấm nước chè giải khát pha đã hầu nhạt. Chuông đồng hồ điểm
11 giơ, ngọn đèn lụt dần dầu hỏa trong bầu do một tay rót có điều độ chỉ chạy
được đến thế là hết. Cảnh tịch mịch một đêm khuya ở tỉnh nhỏ thật buồn bã, khiến
tôi lại nhớ đến những đêm náo nhiệt, đầy ánh sáng ở Hà Nội.
Khanh sửa soạn sắp ẵm con đi nghỉ, thì bỗng có tiếng gõ cửa rồi
vú già vào.
- Thưa cậu, có người đàn bà nào hỏi cậu.
Tôi thất ý bảo:
- Sao vú không nói tôi đi vắng, bảo người ta lúc khác hãy đến
có được không?
- Thưa, người ấy nói có việc cần, con không dám tự ý.
Tôi ngạc nhiên ngửng lên nhìn vợ, thì Khanh cũng đang ngạc
nhiên nhìn tôi, đôi lông mày lá liễu đã bắt đầu díu lại. Tôi bảo vú già.
- Vú ra hỏi ai đã.
Người vú vừa quay đi thì Khanh quay mặt lại, lườm tôi mà nói
rằng:
- Đàn bà, con gái, nửa đêm mà hỏi với han gì? Sao cậu không
sai vú già tống khứ đi cho rồi.
Ngay lúc ấy, người vú trở vào:
- Thưa, cô Lệ Minh đấy, cậu ạ.
Tôi ngẩn người ra. Lệ Minh, người bạn đồng chí gặp gỡ ở Hà
thành ba năm về trước, sao nay cô lại về đây? Cô đến bí mật thực. Không biết cô
đến tìm tôi có việc gì trong lúc đêm khuya khoắt này? Đến nhà tránh nạn chăng?
Trong một buổi mà tâm lòng nhiệt huyết còn sôi nổi, tôi đã hứa lúc nào cũng sẵn
lòng giúp cô trong bước khó khăn. Lời hứa đó, và cái kỷ niệm một thời thiếu
niên hăng hái thoáng qua trí nhớ, khiến tôi băn khoăn: một mối lo ngại bỗng
nhiên đến ám ảnh tâm trí, làm tan nát cái yên tĩnh tôi đã giữ gìn trong mấy năm
nay.
Vú già vẫn đứng đợi. Tôi bảo Khanh:
-Mợ vào trông em ngủ trước. Tôi phải ra có việc.
Rồi vội bước để tránh câu bấc chì mà tôi có thể đoán được,
tôi ra gian ngoài tiếp khách. Trông khách mà kinh ngạc, không biết có phải là Lệ
Minh người cũ không. Áo sa trùm ngoài áo cánh trắng càng làm rõ cảnh nghèo khổ ẩn
ở trong: hai túi nhét đầy những thứ lạ gì, há hốc miệng như kêu đói, một giải
lưng lụa đã xám màu sơ xác thoáng qua sợi sa thưa. Tôi lại nhớ đến Lệ Minh ngày
xưa, óng ả biết bao trong chiếc áo vải rồng, đi đâu cũng cổ động dùng nội hóa
mà chính cô hiến cái gương diễm lệ.
Ngay đến dung nhan cô xét cũng khác xưa, đôi mắt tinh nhanh
buổi trước bây giờ lờ đờ như bị ám sau cái màn lo nghĩ; đôi gò má hây hây mà tù
tội cũng không làm núng, nay không biết vì tuổi hay vì phiền não ở đời, đôi má
kia đã thành ra hóp lại, hai gò má nổi cao, phải chăng như để tiêu biểu cho kẻ
số phận vất vả long đong. Tôi ngại ngùng, lâu chưa nói được câu hỏi han, cô
cũng ra vẻ sượng sùng, e lệ: một lát, cô khẽ nói:
- Mạnh Quân chắc thấy em khác trước lắm.
Nào tôi có trách gì cô! Trong một phút nhìn sự thực, tôi hiểu
chính tôi thay đổi nhiều lắm, mà tự thẹn với nữ đồng chí. Cái thân trưởng giả nửa
mùa vì qua buổi thanh niên hăng hái thường cùng ai bàn những chuyện ái quần ai
quốc tôi nay đã nghiễm nhiên thành một người tòng sự công sở, họa chăng có lo lắng
cho vợ con đủ ấm no là mãn nguyện. Cái đời nghĩa hiệp lãng mạn đã thuộc về thời
quá khứ, cô đến đây thật là tiếng sét trong quãng bình minh. Rồi không biết tự
nhủ mình hay nhủ ai, tôi đáp:
- Vâng, người đời ta mỗi lúc một khác.
Lệ Minh như không để ý đến câu triết lý ngớ ngẩn ấy:
- Em đến đây muốn phiền ông anh một việc, chả biết ông anh có
sẵn lòng không?
Tôi hơi chột dạ. Không hiểu nhà nữ đồng chí này lại muốn bày
ra chuyện gì. Song cũng gượng đáp:
- Việc gì, cô cứ cho biết.
Lệ Minh bắt đầu thuật lai quãng đời vừa qua.
- Anh em bây giờ tan tác mỗi người một nơi, người nào lo phận
người ấy. Còn em thế cô, một thân lang thang nay đây mai đó, chẳng làm được việc
gì, rồi buồn chán nản, yếu hèn, em đã đem thân gửi một nhà lái buôn.
Nghe thấy cô có chồng, tôi như đỡ được một gánh nặng, dằn
lòng nghe nốt câu chuyện. Chuyện cô cũng giống như chuyện trăm nghìn gia đình
éo le khác. Gã lái buôn đã dối cô: gã đã có vợ cả. Cả lẽ ghen tuông, cô vốn người
học thức, không chịu được phận tôi đòi, một hôm cô ẵm con lên đường tìm phương
tự lập. Cô đến nhờ tôi tìm cho một chỗ dạy tư, nhất được nhà nào chịu nuôi thầy
dạy con ở nhà thì càng hay, vì cô chỉ mong được một chỗ "yên thân" là
quý.
Cô nói xong cúi nhìn chỗ khác, như tự lấy làm xấu hổ vì cái
điều mình mỏi tầm thường ấy. Yên thân! Bây giờ chúng tôi chỉ cầu có thế thôi ư?
Tự nhiên tôi thấy khó chịu trong bộ quần áo lụa, trong căn phòng của tôi bày biện
nào đỉnh đồng, tủ chè, sập gụ, những thứ đồ đạc làm nảy vẻ thèm muốn trong con
mắt những người đồng sự ở cái tỉnh nhỏ này. Tôi không giấu được cái mối thẹn
thùng đưa lên làm nóng mặt. Tôi quay lại phía Lệ Minh vừa gặp lúc nàng cũng đưa
mắt nhìn tôi. Hai chúng tôi nhìn nhau ngượng nghịu.
Cô khẩn khỏan thêm:
- Thế nào anh cũng cố giúp hộ tôi nhé.
Tôi nhận lời cho qua chuyện. Song tôi cũng thừa hiểu, trước
cái hoạn nạn không xứng đáng kia, một lời hứa xoàng chẳng cũng quá ư nhạt nhẽo.
Không tìm được phương cứu giúp cô một cách kiến hiệu hơn, tôi tự thấy mình hèn
nhát. Nhưng biết làm thế nào? Mời cô ở lại đây ư? Tôi nghĩ đến cái giận dữ của
Khanh mà sợ: nàng chẳng sẽ làm tan hoang nhà cửa ra mất?
- Hỏi thế này thì không phải, cô sao không đến chơi sớm hơn một
chút?
Lệ Minh như mới hiểu mình đến giờ vô lý. Cô bối rối xin lỗi:
- Em chỉ còn nhớ chỗ ở ngõ huynh biên cho trước. Đến hỏi từ
sáu giờ tối, họ chỉ quanh quẩn, và em không thuộc phố tỉnh này thành ra cứ đi
vơ vẫn mãi. Và khi còn ở trên Hà Nội anh hay thức khuya lắm cơ mà. Anh vẫn thường
nói đêm là ngày của bọn trí thức, em vẫn tưởng thế, nên mới dám đường đột đến
đây.
Tìm công việc hộ cô, giới thiệu một thiếu nữ như cô vào một
gia đình nề nếp cũ, tôi cho là khó khăn, mà nghĩ không có can đảm làm, giúp cô
cái vốn nhỏ để cô tìm cách tự lập, tôi vẫn cho là phận sự của tôi. Song mợ cháu
giữ chìa khóa, mà Khanh đâu có phải là người có thể lấy nghĩa khí mà chuyển được
lòng. Muốn tìm câu khuyên giải cô, song tôi thấy chính cần phải khuyên giải cho
tôi nhiều hơn, nên tắt cổ không nói được nên lời.
Đồng hồ đánh mười hai tiếng lanh lảnh trong đêm khuya. Tôi giật
mình nhìn Lệ Minh lo sợ. Đã một giờ ở nhà ngoài rồi, chắc Khanh ngờ vực, mà từ
nãy giờ tôi chắc đã lẩm bẩm chán.
Tôi mở cửa tiễn cô ra ngoài. Trông cô đi khuất vào bóng tối,
tôi lại nhớ đến những ngày nào hồi còn trẻ vẫn cùng nhau hội họp khuya trong một
căn phố tối tăm ở ngoại ô Hà Nội.
Tôi đóng cửa trở vào thấy Khanh vẫn còn giong đèn ẵm con ngồi
đợi trên ghế. Tôi vào, nàng kể lể lôi thôi, trách móc nào là không biết thương
vợ thương con, nào là đã ngần ấy tuổi - (tuổi mới có ba mươi!) - mà còn toan
tính những ai. Giọng Khanh tấm tức như bị điều gì khổ sở lắm, rồi nàng cúi mặt
tỉ tê khóc. Tôi phải liệu nhời khuyên giải mãi, nàng mới nín.
Khi nàng đã ẵm con vào màn đi nghỉ, khi cái yên lặng tịch mịch
của đêm khuya đã trở lại trong phòng, ttoi cúi đầu suy nghĩ.
Từ cái dĩ vãng xa xôi, thăm thẳm, tôi thấy hiện lên một hình ảnh
rõ ràng, hình ảnh tôi trong lúc còn niên thiếu, một thanh niên hăng hái, nhiệt
thành, bồng bột những điều hay, sự đẹp, lúc nào cũng mơ màng những việc thành
công to tát, một thanh niên chưa biết đến cái sự chua chát của cuộc đời.
Tôi lại nghĩ đến cái thân thế tôi bây giờ: một viên chức ở tỉnh
nhỏ, sống cái đời yên lặng, trưởng giả, một đời ăn no mặc ấm, không phải lo lắng
cái gì. Tôi hình như cảm thấy mmọt sự hợp hơn.
Rồi tôi băn khoăn tự hỏi xem trong hai cái hình ảnh ấy, hình ảnh
người thiếu niên hăng hái và hình ảnh người trưởng giả an nhàn, cái hình ảnh
nào thật là của tôi?
Tôi không dám trả lời.
Đêm sáng trăng
Ngày chưa tắt hẳn, mặt trăng đã lên rồi. Mặt trăng tròn, to
và đỏ từ từ lên ở chân trời, sau rặng tre đen của làng xa. Mấy sợi mây còn vắt
ngang qua, mỗi lúc một mảnh dần, rồi đứt hẳn. Trên quãng đồng rộng, cơn gió nhẹ
hiu hiu đưa lại, thoang thoảng dâng hương thơm ngát.
Sau tiếng chuông của ngôi chùa độ một giờ, thì thật là sáng
trăng hẳn: trời bấy giờ trong thăm thẳm và cao; mặt trăng đã nhỏ lại, sáng vằng
vặc, du như sáo diều; ánh trăng trong chảy khắp cả trên ngành cây, kẽ lá, tràn
ngập trên con đường trắng xóa.
Trong cái vườn nhỏ bên bờ ao, Tuân nằm trên chiếc chõng kê
vào bóng tối, ngửa mặt lên trời. Chàng nhìn trăng qua cành lá tre, cành lá sắc
và đen như mực vắt qua mặt trăng, như một bức tranh Tàu. Rêu ở tấm đá bờ ao gần
đó bốc lên hơi lạnh. Bức tường hoa giữa vườn sáng trắng lên, và lá lựu dày và
nhỏ lấp lánh như thủy tinh.
Bóng cây râm mát quá, thân mật và kín đáo. Tim chàng đập mạnh
lên. Tuân với tay, và lắng tai nghe: như có tiếng lá động, tiếng chân đi nhẹ
nhàng và nhỏ nhắn. Một cành cây cong xuống rồi vụt lên, lá rung động lấp lánh
ánh trăng như ánh nước.
Khóm hoa đơn rẽ ra, một bóng trắng mơ hồ tiến lại. Tuân giơ
tay ôm lấy, cảm động thì thầm:
- Em...
Nàng không trả lời, yên lặng ngả vào lòng chàng.
Tuân cúi mặt vào đống tóc thơm, ngạt ngào một mùi hương quen
mến. Tay ôm chặt lấy nhau, quấn quít. Chàng tìm đôi môi xinh đẹp của nàng, hé
ra, hai hàm răng chạm vào nhau trong một cái hôn say mê và đau đớn.
Hồi lâu, hai người buông nhau ra. Mai gỡ tay vuốt lại mái tóc
rối, những sợi tóc tung ra vuốt buồn trên da mặt chàng, vì hai người vẫn gần
nhau quá. Họ nhìn nhau không chán. Tuân thấy trong bóng tối của vành khăn, hai
con mắt Mai long lanh yêu mến. Chàng lại đỡ lấy nàng, ưỡn xuống để ánh trăng
soi tỏ mắt. Không còn bóng tối bí mật và thân yêu nữa; mặt nàng đều đặn, cái cằm
nhỏ, cái cổ tròn và trắng như sữa: đẹp quá, xinh quá, khiến chàng say sưa ngây
ngất cả người. Mai nằm yên trên tay chàng; Tuân cúi xuống như cúi gần một bông
hoa quí.
Hai người gặp nhau trong căn vườn nhỏ này mới từ độ có trăng.
Những ngày đầu, còn là cuộc gặp gỡ ngắn ngủi, từ chập tối có bóng trăng đến lúc
trăng lặn. Dần dần trăng ở trên trời càng lâu, cuộc gặp gỡ càng dài, và ái tình
đôi bên càng đằm thắm, mạnh mẽ. Tuân và Mai yêu nhau với tất cả hăng hái say mê
của tuổi trẻ, chàng mười tám, nàng mười sáu, như hai cái mầm non mạnh mới lên.
Hai nhà, vốn ở cạnh nhau. Thủa nhỏ, Mai và Tuân vẫn cùng nhau
chơi đùa trước cổng; buổi tối, Mai lách rào chui sang vườn nhà Tuân, rủ nhau ngồi
thầm thì trong bóng tối như hai đứa trẻ phạm tội. Đến khi tiếng mẹ nàng gọi vọng
bên kia, Mai mới bỏ tay Tuân lách hàng rào chạy về.
Năm mười ba tuổi - nàng mười một -, Tuân theo bác lên tỉnh học.
Chàng quên dần cô bạn bé bên láng giềng, và Mai có quên chàng không, cái đó
Tuân không biết. Thỉnh thoảng về thăm nhà, Tuân đứng trong vườn bên này, thấy
thấp thoáng bóng Mai bên kia. Có khi nghe tiếng nàng nói lanh lảnh, hay tiếng
cười trong khuya lắm, những lúc nàng nói chuyện với các người làm công đập thóc
ngày mùa.
Một hôm, Tuân ra cánh đồng trở về gặp Mai trước cổng nhà. Thấy
Tuân, Mai e lệ, má đỏ bừng, nghiêng chiếc nón che ngang mặt. Tuân dừng lại,
không biết nói gì. Một lát yên lặng. Rồi Mai quay đi. Tuân nhìn theo nàng bước
trong ánh nắng, trong lòng xúc động bao nhiêu kỷ niệm ngày xưa. Chiều ấy Tuân
ra vườn ngồi trên bực đá bên bờ ao, nhìn cái lối đi cũ của Mai qua hàng rào,
bây giờ cây đã lấp cao rồi.
Hết nghỉ, Tuân lại ra tỉnh học, lần này chàng không có dịp về
thăm nhà luôn nữa. Một năm, hai năm, rồi ba năm, Tuân không biết Mai bây giờ trở
nên thế nào. Người con gái nghiêng nón che cái miệng cười chỉ còn để trong tâm
trí Tuân một hình ảnh mờ mờ, xa xôi như làng mạc thôn quê ở chân trời sau sương
chiều.
Gần qua kỳ nghỉ hè, Tuân sửa soạn vào Sầm Sơn tắm bể với vài
người bạn, cả mấy cô bạn gái xinh đẹp và táo bạo cùng học một trường với chàng.
Hôm sắp đi, mẹ Tuân ra tỉnh thăm con. Bà cụ kể lể việc nhà:
- Cô Mai bên hàng xóm, con có nhớ không? Năm nay sắp về nhà
chồng.
Tuân dừng tay thu xếp đồ đạc, lặng người như nghĩ ngợi sự gì.
Lúc sắp về, bà cụ hỏi:
- Con không đi Sầm Sơn nữa?
- Không; con về quê với mẹ.
Chiều hôm ấy, Tuân ra vườn. Ngày đầu tháng, trăng mới lên, mảnh
trăng còn khuyết lặng lẽ đi ở góc trời. Nhìn sang bên kia, Tuân thấy bóng Mai mặc
áo trắng thấp thoáng ngoài sân. Lòng chàng tự nhiên cảm động và hồi hộp, như đợi
chờ một sự sung sướng không bờ bến. Đêm ấy, Tuân chưa dám lên tiếng; chàng tha
thẩn ngoài vườn mãi tới khi sương lạnh xuống.
Trăng mỗi đêm mỗi tỏ, mỗi khuya hơn. Từ chiều gió thơm nhẹ đã
thoang thoảng tới: bông hồng nhung thẫm tan vào đêm tối, còn bông hồng trắng
càng trắng mát thêm. Tuân ngồi trên bức tường hoa trong vườn, lòng đầy một sự
hân hoan mới lạ. Không biết từ đâu, chàng chắc rằng đêm nay, chỉ đêm nay, Mai sẽ
yêu chàng. Hình như Mai, cũng như chàng, đang đợi chờ cái giờ yêu mến say sưa
mà hai người ao ước bao lâu.
Tuân cúi xuống với một bông hồng thơm ngát đưa lên miệng.
Cánh hồng nhung đen sẫm như đêm tối lấm tấm nhị vàng, đậm một mùi hương nồng và
ân ái. Khi trăng lên qua ngọn cây, Tuân đi ra cổng; trong bóng tối, Mai đã chờ
sẵn đấy rồi. Chàng giơ tay đón nàng vào lòng: Tuân thấy trên ngực chàng tiếng đập
mạnh của quả tim bé nhỏ, hơi thở ấm của nàng bên mái tóc. Lời nói đầu của đôi
trẻ là một cái hôn đằm thắm và yên lặng.
Khi nàng gỡ tay ra, Tuân thấy trên má chàng ướt những giọt lệ
nóng của nàng. Ngọt ngào, chàng hỏi:
- Em khóc đấy ư?
Mai không đủ sức trả lời, gục đầu vào vai chàng. Tiếng khóc nức
nở làm rung động tấm thân nhỏ bé của nàng. Tuân thấy trong lòng bỗng cảm thương
Mai vô hạn.
ái tình của hai người lẫn đắng cay và nước mắt. Họ yêu nhau
tha thiết và say mê. Trong bóng tối, nàng nói cho Tuân nghe những nỗi nhớ mong
của nàng. Tuy Tuân không biết, nhưng Mai đã yêu từ thuở nhỏ, nhớ mong chàng những
ngày Tuân lên tỉnh. Chàng sung sướng khi biết cái tình yêu ấy; nhưng sao bây giờ
mới biết? nay mai nàng đã sắp phải đi lấy chồng.
Từ đó, khi trăng lên, hai người lại gặp nhau trong vườn, ngồi
trên bục đá nói chuyện ái ân, và yêu nhau như thời khắc không bao giờ hết.
Tối hôm nay là tối cuối cùng.
Tuân và Mai ngồi chờ trên bục đá; mãi tới khuya trăng mới
lên, lạnh lẽo và có sương mù. Yên lặng, hai người nghe tiếng lá khô rơi trên
cành cây; dưới ao, một con cá đớp động chân bèo, làm mặt nước vòng ra ánh trăng
lấp lánh. Mai tựa người vào Tuân, nghẹn ngào hỏi một câu mà nàng đã nhắc không
biết bao nhiêu lần:
Nàng ứa nước mắt không nói được nữa. Tuân nắm chặt lấy tay
người yêu, không biết trả lời thế nào. Chàng muốn nói an ủi Mai, nhưng lại
thôi. Lòng chàng còn trẻ quá, chàng không tưởng được có sự tuyệt vọng không
cùng. Chàng không tưởng được rồi sẽ phải cùng với Mai xa nhau mãi mãi.
Nỗi buồn không xua đuổi được tình yêu. Mai và Tuân bàng hoàng
như người trong mộng. Nàng vòng tay qua cổ Tuân kéo chàng cúi xuống nàng hòa hợp
trong một cái hôn lặng lẽ. Đôi môi nàng chảy máu và đau đớn; Mai sung sướng chịu
đau, gửi thác trong cánh tay Tuân tất cả thân thể và tâm hồn trong sạch của
nàng.
Tuân đi đã ba ngày rồi.
Trong những ngày ấy, Mai không nhớ gì nữa. Hình như bao nhiêu
tâm trí của nàng đã đi theo Tuân tận đâu đâu. Nàng thẫn thờ ngồi lặng hàng giờ,
mắt khô vì nàng đã khóc nhiều quá rồi.
Sáng nay, họ nhà trai mang đồ lễ đến. Mẹ nàng vui vẻ ra tiếp
chuyện. Người chồng sắp cưới của nàng xúng xính trong bộ quần áo mới, ngượng
nghịu và hoan hỷ. Mai ngồi yên trong buồng nghe tiếng cười nói ở nhà ngoài.
Tối đến, lúc cả nhà yên nghỉ, Mai lặng lẽ lách rào sang bên
vườn. Nàng đến ngồi trên bục đá bên bờ ao, chỗ vẫn ngồi với Tuân. Nhưng đêm nay
trăng lên muộn. Nàng ngồi mãi, sương xuống lạnh thấm vào da nàng. Bóng tối thêm
dày cả góc vườn. Trong cụm hồng phảng phất có bông hoa nở, hương thơm dịu
thoang thoảng bốc lên khiến Mai lại nhớ lại lần đầu ngả mình trong tay chàng.
Khuya lắm, gần về sáng trăng mới lên: một mảnh trăng buồn rầu
ảm đạm, mờ mờ sau rặng cây cuối vườn. Khi ánh trăng lên tới mình nàng, Mai gục
đầu trên tay khóc nức nở: lòng tan nát nàng khóc cho tình yêu và cho cuộc đời
nàng.
Sáng hôm sau cha mẹ Tuân thấy nàng nằm chết dưới vệ ao, mái
tóc xổ ra vương lẫn với cánh bèo.
Nắng trong vườn
Gần hết mùa hè năm... tôi không rời bỏ Hà Nội một cách đột
nhiên. Buổi sớm kia, khi trở dậy trong căn phòng nhà trọ, tôi thấy ánh nắng rực
rỡ xuyên qua các khe lá đến nhẩy múa trên mặt tường. Trời trong và gió mát quá,
khiến tôi chợt nhớ đến cánh đồi, ruộng ở chỗ ông Ba ở mà đã lâu năm tôi chưa về
thăm.
Một vài bộ quần áo với mấy quyển sách đem theo, tôi hớn hở ra
ga, sung sướng được xa lánh cái náo nhiệt của thành phố, và nhất là được quên
những bài học khô khan và vô ích ở nhà trường.
Tất cả tâm hồn tôi nẩy nở dưới cơn gió từ quãng không đưa lại.
Trên tầu, tôi mải mê ngắm dẫy đồi núi xanh xanh ở tận chân trời; chỗ tôi sắp đến
cũng có những đồi núi như thế. Ông Ba, bạn thân với cha tôi hồi trước, có một
cái đồn điền rộng, trồng toàn sắn và trè. Hồi nhỏ, tôi đã nhiều lần đến chơi
nhà ông, nhưng từ khi ra học Hà Nội, tôi không có dịp về nữa.
Xuống ga, một cái ga nhỏ gần tỉnh P., không có ai ra đón tôi
cả. Tôi biết trước, vì khi đi tôi cũng không gửi giấy báo cho ông Ba biết. Tôi
muốn đến một cách bất thình lình.
Chiếc cập cắp ở nách, tôi thong thả theo con sông Cống, chạy
khuất khúc lên giữa các đồi. Một cái cầu gỗ mong manh bắc qua sông. Hai rặng
thông từ trên đỉnh đồi chạy xuôi xuống tận gần bờ, giữa luồng gió thoảng, và
cái tiếng rì rào như nhớ nhung của lá thông trái gió nhắc tôi nghĩ đến những cảnh
rộng rãi bao la.
Buổi chiều rất êm ả. Về phía tây, mây trời rực rỡ những mầu
sáng lạn và ánh nắng chiều loàng một khúc sông, trông như một giải vàng nổi lên
giữa đồi ruộng đã bắt đầu tím lại. Một đàn chim đi ăn về vút bay qua ngang đầu,
tiếng cánh vỗ rào rào như trận mưa; tôi ngửng lên nhìn theo đến khi cái vết đen
linh động của đàn chim lặn hẳn với chân mây.
Tôi theo con đường nhỏ ở ven đồi, qua hai dẫy phố, một cái chợ
nhỏ, rồi rẽ về bên phải. Nhà ông Ba ở ngay chân đồi, trông xuống chợ, một cái
nhà gạch cũ, tường phủ rêu xanh. Tôi không lưỡng lự, bước đến đẩy cổng vào.
Qua cửa, lên mấy bực vườn trè, tôi gặp ngay hai ông bà đang
ngồi hóng mát ở giữa sân. Ông Ba thấy tôi reo to:
- A, cậu Bình đã lên. Từ lúc gửi giấy về, chúng tôi mong cậu
mãi.
Bà Ba cũng ân cần hỏi:
- Sao cậu không đánh giây thép lên cho biết trước để ra đón?
Tôi ngả mũ chào, đáp lại lời hỏi thăm vồn vã của bà Ba, bà là
bạn thân với mẹ tôi, hồi mẹ tôi còn buôn bán ở trên này.
Ông Ba là một người nhà quê đứng tuổi và khoẻ mạnh. Trông khe
áo cánh hở ngực, tôi thấy người ông nở nang, da xám và hồng hào, nước da của những
người làm lụng ở ngoài trời và ánh nắng.
Ông đứng dậy nắm tay tôi, đẩy một đứa bé con lại gần, bảo:
- Ðây, cậu Bình đây, con chào đi.
Rồi quay lại phía tôi, ông cười nói:
- Nó cứ nhắc đến cậu luôn và cứ đòi lên Hà Nội.
Tôi xoa đầu cậu bé xinh xánh, độ lên bẩy, tám tuổi. Song, ông
Ba rủ tôi đi xem vườn và phố chợ.
Nhà ông chung quanh là vườn cả, từng đợt cao, thấp lên đến đỉnh
đồi. Hai bên giồng toàn trè và sắn. Giữa có một lối đi, xếp từng bực đá, những
hòn đá mầu xám tím, chơn chu và từng chỗ có rêu xanh bám phủ đầy. Thỉnh thoảng,
một cây bứa tươi tốt mọc ở bên, những cành thấp xiên ngang ra khiến chúng tôi
phải cúi mình chui qua.
Xuống đến chân đồi, tôi bỗng nghe thấy tiến gcười nói trong
cây lá, và qua mấy rặng trè, tôi thấy thoáng có bóng người. Ông Ba nhìn tôi bảo:
- Hai em đây, cậu còn nhớ không?
Tôi gật đầu yên lặng tuy không có hình ảnh nào nổi lên trong
trí nhớ cả.
Phố chợ ở ngay đầu cầu. Con sông Cống uốn éo trong dẫy đồi,
khuất đi, rồi lại loáng loáng đằng xa, chạy giữa những giải ruộng eo hẹp. Bấy
giờ sương đã xuống, dặng núi ở chân trời đã bị che lấp. Chúng tôi dạo qua một
lượt ở phố, hay dẩy nhà lá nhỏ bé, nhưng ngăn nắp và sạch sẽ, trông rất vui mắt.
Sẩm tối, ông Ba cùng tôi về, một mâm cỗ đầy đã thấy bầy trên
chiếc bàn ở giữa sân, bà Ba đang chạy loăng quăng sửa soạn các thức ăn. Thấy
tôi, bà vội vã mời:
- Cậu về ăn cơm. Có bữa ăn xoàng, xin cậu ăn thực bụng nhé.
Tôi mỉm cười, rồi ngồi vào bàn, tuy trong người mệt mỏi và
không thấy đói mà cũng phải cố ăn để vui lòng bà chủ. Ông Ba thì vui vẻ lắm,
như rất thích được có người đến chơi, nhất người ấy lại là tôi. Ông uống từng
chén rượu lớn, cười nói vang lên. Bà Ba ngồi yên lặng bên cạnh, luôn luôn gắp
thức ăn vào bát, ép tôi ăn. Bà cũng hình như vui vẻ lắm vì thấy chồng vui vẻ.
Tôi đưa mắt nhìn vào trong nhà rồi hỏi:
- Thưa bác, các em đâu, bác không bảo ra ăn cơm một thể.
Bà Ba đáp:
- Cậu cứ ăn đi. Các em nó đã ăn cơm cả rồi.
Ngừng một lát, bà mỉm cười nói thêm:
- Chúng nó thẹn không dám ra.
Ông Ca cười to, đáp:
- Ồ, cậu Bình đấy, chứ ai đâu mà thẹn. Chúng nó không nhớ lúc
bé vẫn bám theo cậu ấy xin quà à?
Tôi cố nhớ lại buổi cuối cùng lên chơi đây, đã lâu lắm. Hình
như độ ấy có hai cô gái bé con để chỏm và mới cắp sách đi học.
Tôi không thể ngờ được lại là hai cô thiếu nữ mà tôi mới
thoáng trông thấy ở trong vườn.
Bữa cơm xong, ông Ba bắc ghế ra ngoài sân cùng tôi ngồi nói
chuyện. Ngọn đèn dầu có cái chao lụa xanh xinh xắn - chắc hẳn là một công trình
của hai cô thiếu nữ - để trên chiếc bàn con, chiếu ra một vùng ánh sáng, làm nổi
trắng mấy gốc trè cằn cổi. Chiều đã tối hẳn, trên trời cao, hàng ngàn ngôi sao
thi nhau lấp lánh qua không khí trong và mát. Ðêm của vùng đồi bao bọc lấy tôi,
đầy những hương thơm lạ theo cơn gió từ đâu đưa lại. Muôn tiếng đều khe khẽ làm
cho cái yên lặng vang động như tiếng đàn; những con bướm nhỏ vụt từ bóng tối
ra, đến chập chờn ở trước ngọn đèn, rồi lại lẩn vào bóng tối, như những sự gia
lẹ làng của cảnh rừng nói chung quanh.
Tôi thấy vui sướng và thư thái trong lòng. Lần đầu, đêm tối
và cảnh vật đối với tôi thân mật như một người bạn, khác với khi ở Hà Nội, đêm
chỉ là những cuộc vui chơi mệt mỏi và nặng nề.
Sáng sớm hôm sau, tiếng chim kêu ríu rít trong vườn đã đánh
thức tôi dậy. Mặt trời còn khuất sau quả đồi, ánh một vùng hồn lên nền trời
xanh biếc. Bên kia sông, rừng cây từng lớp nhiều mầu còn mờ lẩn trong màn sương
trắng.
Dưới chân đồi, những mảnh ruộng mạ non như nhung, những thửa
ruộng nước sáng lên như tấm gưong. Con đường đất đỏ ngòng nghoèo qua cánh đồng,
người đi chợ trộng nhỏ bé như một đàn kiến. Tất cả trời đất trên cao nhìn xuống
như cùng cả một bài ca vui vẻ và ham sống, khiến tôi thấy náo nức trong lòng.
Tôi trèo lên đỉnh đồi, ngồi trên những tảng đá quay nhìn khắp
bốn phương. Khi nắng bắt đầu gay gắt, và cỏ đã mềm nóng dưới gót chân, tôi
thong thả xuống, đi len lỏi vào các vườn trè, sầu, rồi đến bờ sông Cống, tìm một
chổ bóng mát nghỉ ngơi. Tôi ngả người trên cỏ nằm mơ mộng, đếm tiếng kêu của
chim gáy ở tận đâu xa xa. Tất cả buổi, tôi chỉ quanh quẩn ở ngoài đồi, trông và
nghe không biết mỏi.
Chiều đến, tôi lặng nghe luồng gió thì thào trong gành đá,
hay đứng trên đồi nhìn sương mù từ từ bốc trên mặt sông. Tôi lần theo những con
đường cỏ ướt đỏ lịm trong bờ rậu cái điểm sáng của con sâu đêm. Tôi ngửng nhìn
những vì sao lấp lánh trên không giải ngân hà mờ sáng và tìm ông Thần Nông đội
mũ đỏ.
Khi đi chơi thơ thẩn đã chán, tôi ngồi tiếp chuyện ông Ba
trên bộ trường kỷ kê ngoài hiên. Ông Ba trước có ra mở cửa hàng buôn bán, nên
ông kể chuyện lại những công việc làm ăn ngoài ấy. Tôi nghe chuyện ông mà chán.
Nhưng nhiều khi, đang câu chuyện, tôi ngững lại vì thấy đằng sau ông Ba, đôi mắt
mở to của cô Hậu – con gái cả ông Ba – nhìn tôi một cách chăm chú. Tôi trông
lên thì cô ta lại quay mặt đi. Nhưng trong lúc đó, tôi vẫn có cái cảm giác rằng
đôi mắt cô đang nhìn tôi.
Hôm sau, tôi để ý đến Hậu. Cô ta rất trẻ, mới độ mười lăm, mười
sáu tuổi. Người mảnh rẻ và uyển chuyển như một cành non, khuôn mặt xinh xắn và
tươi. Tuy vậy, tôi cũng không chú ý lâu đến cô, chỉ coi cô như một nữ sinh còn
nhỏ tuổi, ngây thơ và trẻ dại.
Nhưng thỉnh thoảng những lúc tôi thơ thẩn đi chơi, hình ảnh
cô ta lại thoáng hiện qua trong trí. Ở chỗ này, tôi chỉ nhận thấy những người
đàn bà nhà quê cục mịch và ngượng nghịu. Cô Hậu là biểu hiệu sự tươi tắn, và
thanh nhã. Từ hôm tôi về đây, một đôi khi cũng cùng cô nói chuyện, và nhờ cô những
công việc vặt như khâu vá quần áo. Thỉnh thoảng tôi cho cô mượn các tờ báo cũ,
và mấy quyển tiểu thuyết tôi đem theo.
Những cơn gió mạnh của đồng nội, mùi thơm mát của hoa cỏ, và
vẻ rộng rãi của khoảng trời mây chiếm cả linh hồn tôi. Những cuộc đi chơi lâu
trong các vườn trè nương sắn, hay trên sườn đồi làm cho người tôi bồng bột, hoạt
động hơn lên. Những lúc ấy, tôi muốn có một người con gái đi bên cạnh, để chia
sẻ bao nhiêu cảm giác say sưa ấy.
Nhưng tôi còn ham muốn những cái thú mà một cô thiếu nữ không
đem đến được. Tôi còn thích ngắm cảnh rừng đồi, thích vượt qua những nơi cỏ và
lau sậy sắc làm sây sát cả chân tay. Những buổi trưa nắng, tôi tìm chỏ có bóng
mát, phanh áo nằm trên cỏ thiu thiu ngủ. Những mộng đẹp đến ám ảnh tôi, những mộng
mà trong ấy tôi mơ màng khoác tay một cô gái cùng đi len lỏi trong vườn trè. Rồi
dần dần hình dáng cô gái đó rõ rệt là hình dáng cô thiếu nữ con ông Ba.
Tôi vùng tỉnh dậy, bước đi nhanh như để tránh xa sự ám ảnh ấy.
Tôi lên đồi cao để gió mát thổi vào trán, để mớ tóc bay phất phơ theo chiều gió
mạnh.
Tuy vậy, mỗi ngày tôi lại chú ý đến cô ta hơn lên. Mà cô cũng
hình như tìm hết cách để làm tôi chú ý đến cô. Trong lúc tôi xem sách hay ngồi
nghỉ ngơi, hể cứ ngửng đầu lên là tôi lại thấy cô đăm đăm nhìn tôi, hai mắt
nhung như cành hoa tím ướt; cô vội quay mặt đi, nhưng cũng không kịp để giấu
tôithấy cái vẻ e lệ làm ửng đỏ hai gò má.
Đôi khi, trên cái bàn làm việc trong phòng tôi bổng thấy mấy
bông hoa cắm trong bình, hay một bông lớn để trên chồng sách. Một buổi sáng tôi
đã tỉnh dậy, nhưng vẫn nằm trên giường nhìn ánh nắng qua khe lá; tôi thấy cô Hậu
bước vào, ôm một bó hoa sen trắng mới hái ngoài hồ. Cô sếp hoa trong bình, rồi
quay về phía tôi nở một nụ cười:
- Anh có thích hoa sen trắng không?
Tôi ngồi dậy nhìn cô, khẽ cảm ơn. Tôi thấy mắt cô sáng lên
trong lúc xếp hoa, toàn thân cô như xuất hiện cái vui sướng. Cô với một bông
hoa, hít mạnh hương thơm rồi đi trở ra. Tôi đưa mắt trông theo, tự nhiên để ý đến
dáng điệu uyển chuyển của Hậu, đến tấm thân mảnh rẻ và thon thon của cô, rồi
tôi thấy một cái ham muốn đến rung động khắp cả trong người.
Tôi trở dậy ra tựa cửa phòng, thấy Hậu đứng bên cái bệ ngoài
sân, đang với gáo múc nước rửa tay. Người cô nổi trên nền lá xanh như một bông
hoa trong sáng sớm. Tà áo trắng của cô theo chiều gió bay phất phới, và tất cả
ánh nắng, lá cây, bóng mát cũng hình như đang từng bừng rởn múa chung quanh người
thiếu nữ tươi tắn ấy. Một lát, tiếng nước rội kêu lanh tanh trên hòn đá nhẳn, rồi
từng giọt qua cái nức che, thánh thót rơi vài bể. Hậu rửa mãi hai bàn tay xinh
xắn, ngắm nghía mãi các ngón tay hồng hào. Rôì tôi thấy cô nghiêng người trên mặt
bể, soi bóng mình dưới nước, tay đưa lên sửa lại mái tóc. Khi ngửng lên, vô
tình nhìn thấy tôi, Hậu e thẹn vội vàng đi lẩn vào trong vườn.
Từ hồm ấy, lúc nào tôi cũng cảm thấy bóng dáng Hậu quanh
mình. Nhũung sách vở tôi xem đều được xếp đặt rất có thứ tự, những bút mực trên
bàn cất rất ngăn nắp, cho đến cả quần áo của tôi cũng được tay Hậu chải chuốt rất
sạch sẽ. Tôi đoán cô ta muốn biết về tôi lắm; những sách viết cũ của tôinhiều lần
thấy mở tung, và một đôi khi, một làn hương thoang thoảng đưa ra, như có một
bàn tay ướp nước hoa đã lần giở đến.
Nhiều bận đi trong vườn, tôi bỗng thấy Hậu, như đột nhiên gặp
tôi, cô e lệ nép vào bên nhường lối cho tôi hay nở một nụ cười trên đôi môi thắm.
Có khi đứng trên đồi, tôi thấy cô đi men bờ cỏ, tìm kiếm những bông hoa đồng, để
làm một bó hoa mộc mặc hương vị cảnh quê, mà sau này tôi chắc sẽ thấy mắc trong
bình trên bàn học.
Dần dần, tôi quen nói chuyện với Hậu. Khi gặp hai chị em hái
trè trong vườn, tôi dừng lại hỏi một hai câu, để thấy đôimá nàng hồng lên trong
khoảng lá xanh, và đôi mắt đen của nàng long lanh sáng. Tôi nhận thấy Hậu thơ
ngây như bông hoa cỏ, tâm hồn dản dị như các người quê. Cô giở hết các áo đẹp
ra mặc, nhưng áo kiểu mới sáng mầu và tha thướt, làm nổi vẻ đều đặn của thân
hình; mái tóc cô lúc nào cũng chải chuốt rất mượt, anh ánh như cỏ. Cô muốn làm
vừa lòng tôi biết bao nhiêu! Cô giáng buộc chung quanh tôi một vẻ mềm yếu uyển
chuyển, một ý thân thiết đậm đà. Còn tôi, tôi cũng thấy vui vẻ mỗi khi đến gần
cô.
Chúng tôi dần trở nên thân mật như một đôi bạn quen. Những cuộc
đi chơi của tôi đều có cô ở bên cạnh. Cô đi sát vào tôi, có khi tư lự như nghĩ
ngợi một sự gì, có khi náo nức như một đứa trẻ. Những khi len lỏi qua các vườn
trè, nhiều khi tôi giơ tay đỡ cô bước qua một khe đá hay một bụi cây; cô nắm chặt
lấy tay tôi, đưa người lên vai tôi, sung sướng và tin cậy.
Hậu bây giờ đã khác hẳn cô thiếu nữ rụt rè và e lệ ngày tôi mới
đến. Hậu đã trở nên một cô gái hay làm dáng, mơ màng và buồn rầu, đầy sức mạnh
của tuổi trẻ.
Mỗi ngày, Hậu lại tỏ cho tôi biết cái tình yêu của nàng; một
đuôi con mắt, một nụ cười, một dáng điệu mà tôi hiểu. Thân thể trẻ con của cô
rung động dưới mắt tôi nhìn, tất cả người cô nở ra trước tình yêu như một cái mầm
non trong ánh nắng. Về phần tôi, tôi cũng săn sóc đến Hậu như một người tình
nhân, riêng với cô, tôi kể những chuyện trên Hà Thành, chỗ tôi ăn học. Cô hỏi
tôi về những thiếu nữ xinh đẹp ở tỉnh, những quần áo và trang điểm mới, những
cuộc giao du của tôi với bạn gái cùng học một trường. Nghe tôi nói, cô yên lặng,
mơ màng, rồi có khi khi cô vùng nắm chặt lấy tay tôi, rồi hỏi:
- Anh, em có xinh đẹp như các cô ấy không? Em có trang điểm
khéo hơn không?
Tôi chân thật đáp:
- Có, Hậu đẹp hơn nhiều, các cô ấy không sánh kịp.
Hậu lắc đầu; nhình tôi bảo:
- Sang năm em cũng lên tỉnh học với các cô đó. Rồi anh xem,
em sẽ đẹp thế nào.
Hậu ngồi lại sát bên, tôi nghe thấy hơi thở của cô rồn rập.
Buổi sớm, cô mặc cái áo lụa mỏng màu đỏ, càng tươi bên nước da trắng muốt của Hậu.
Tôi đoán thấy cái thân hình mềm mại, hai cánh tay chắc rắn, đôi vúi nhỏ và
tròn. người Hậu như thoảng ra một thứ hương thơm ngát và say sưa.
Những buổi trưa, tôi rủ Hậu ra bờ sông Cống. Chúng tôi bỏ giầy
ngồi trên cổ ẩm, dưới bóng mát của một cày tràm cành lá um tùm. Trước mặt chúng
tôi, giẫy đồi đất tím lòe trong ánh nắng, trời xanh thẳm và sáng như tấm gương.
Một vài đám mây trắng thong thả đi ngang trên đỉnh đồi. Chúng tôi nghe ngóng
cái yên lặng của buổi trưa, hình như theo giòng nước chói ánh nắng đi xa. Thỉnh thoảng, một bóng cá nổi trong cành lau sậy, lờ dờ lên gần mặt nước như nhìn trộm
hai chúng tôi, rồi lại vùng quẫy đuôi chìm mất.
Hậu sung sướng đùa nghịch như một đứa trẻ con. Cô ngồi trên bờ,
bỏ thõng hai chân xuống khuấy nước. Nước mát và trong, da chân Hậu trắng xanh
bên lá cỏ. rồi chúng tôi tìm một cây si ven bờ, trèo lên cành lá trên mặt sông,
chúm đầu vào nhau nhìn bóng chúng tôi cùng in xuống nước với trời xanh. Có khi
Hậu và tôi cùng ngả mình dưới bóng cây, nằm thiêm thiếp trong cái nắng của buổi
trưa. Một con chim ở đâu đến khẽ hót trong bụi, tiếng ríu rít như vướng vào
cành lá, hòa một bản đàn rực rỡ để ru hai chúng tôi trong những giấc mộng êm đềm.
Hậu chiếm đoạt hết cả ý nghĩ của tôi. Mỗi khi tôi không muốn
nhìn trời mây, cảnh vật, lôi tôi lại trở lại với nàng. Chúng tôi mang sách ra
cùng ngồi đọc ở ngoài vườn, tôi giảng cho Hậu nghe những chuyện đẹp đẽ trong
sách và thỉnh thoảng tôi thấy nàng có vẻ mơ màng.
Một buổi sáng, chúng tôi đi sâu vào mấy nương trè bên sườn đồi.
Hôm ấy tôi kể nốt cho Hậu một chuyện nàng vẫn thích. Bỗng tôi dừng lại, vì có cảm
giác Hậu không nghe tôi nữa. Cô nhìn tôi, yên lặng, đôi môi hơi hé nở trên hàm
răng trắng, hai mắt nhung ướt long lanh. Tôi bỏ quyển sách xuống, nhìn lại Hậu,
tự nhiên hồi hộp, yếu mềm trong lòng. Hậu đưa tay nắm lấy tay tôi, lần lên vai
rồi kéu tôi lại gần mình. Mái tóc chúng tôi vướng vào nhau, tôi thấy trước môi
tôi cái miệng xinh thắm của nàng. Chúng tôi lặng lẽ ôm lấy nhau, say sưa trong
cái hồn đầu tiên đắm đuối của linh hồn.
Hồi lâu Hậu buông tôi ra, thân nàng hãy còn rung động trên
cánh tay tôi. Chúng tôi nhìn chung quanh: cây cối bao bọc như một hàng rào xanh
kín đáo; chỉ có hai chúng tôi nhu xa lánh hẳng cuộc đời, xa lánh hẳn mọi người,
quên cảnh vật trong say sưa, trong cái đầm thắm của tình yêu tuổi trẻ.
Càng ngày Hậu càng đẹp thêm ra. Tình yêu để lại phảng phất
trên khuôn mặt nàng một vẻ sung sướng hồn nhiên. Mắt Hậu sáng hơn lên, dáng điệu
uyển chuyển thêm; nét môi của Hậu rõ rệt, càng thắm như bông hồng đỏ, và lúc
nào cũng như sẵn sàng hé nở đợi chờ cái hôn ân ái. Hậu thành điềm đạm, băn
khoăn hơn trước, với những lúc bồng bột, những lúc tin yêu. Tôi cũng bắt đầu
yêu Hậu; tình yêu của nàng vừa làm tôi say sưa vừa lạm tôi kỳ dị, như người đầu
tiên bước vào một mảnh vườn đầy hoa cỏ lạ. Những cái hôn tha thiết và vụng về của
Hậu có một hương vị mới mà tôi chưa từng được hưởng, hương vị đượm ngát của một
bông hoa dại. Vì Hậu, tuy đã đi học ở trường tỉnh, vẫn hãy còn ngây thơ; nhưng
nàng không chất phác như một cô gái quê, không mộc mạc những người quanh nàng. Tôi
thấy trong Hậu những của quý vô ngần của một tâm hồn vừa trong sách vừa mê mải.
Một buổi chiều hôm rằm, chúng tôi đi xem hội bắt cá ở làng vị,
phía trên; cả ông bà Ba với cô em gái cùng đi. Chúng tôi xuống một chiếc thuyền
nan ông Ba đã thuê sẵn, ngược giòng sông Cống đi lên, giữa hai đợt đồi trùng điẹp.
Mặt trời chiếu rực rỡ giải sông, một buổi chiều êm ả và bao la. Giờ khắc thật rất
hợp cho những lời tình tứ, nhưng trong đám người, tôi và Hậu chỉ ngồi lặng, thỉnh
thoảng nhìn nhau. Chúng tôi không nói, nhưng hai quả tim cùng hồi hộp, mong muốn
được xa cách bọn người kia, khao khát những câu thỏ thẻ bên tai, nhũung cái
nâng niu âu yếm. Suốt buổi hội, Hậu đăm đăm như chờ đợi, không để ý đến một cuộc
vui gì. Một sự may bất ngờ làm cho chúng tôi sung sướng; ông bà Ba và cô em có
người anh họ giữ lại xem hội đêm, riêng chỉ Hậu được phép về coi nhà. Tôi cũng
tìm cớ thoái thoác xin về.
Thế là chỉ có hai chúng tôi xuống thuyền. Bấy giờ trời đã tối,
trăng bắt đầu lên, một mặt trăng vàng đỏ, to như một cái nìa, từ từ nhô lên sau
rặng thông ở trên đồi. Tôi đỡ Hậu xuống thuyền, rồi chúng tôi cởi giầy, để mặc
thuyền theo giòng suối. Trên mặt sông, một cơn gió mát hiu hiu thổi, tiếng sông
róc rách vỗ vào mạn thuyền như một thứ nhạc vui. Phong cảnh lúc ấy thật là tuyệt
đẹp; hai bên bờ sông, ruộng mạ non phớt theo chiều gió, nương trè sắn thắm ở
ven đồi, mờ dần đằng xa sau một làn sương nhẹ.
Vừa xuống thuyền, Hậu đã ôm quàng lấy vai tôi, kê đầu vào má
tôi, ngập ngừng nói những lời ân ái. Tôi thấy tấm thân trẻ và dẻo dang của Hậu
quấn lấy tôi như một giây leo. Chúng tôi hoà hơi thở với nhau, tóc nàng bỗng
buông sõa trên người tôi, thoảng ra một thứ hương ngát dịu và đầm ấm.
Khi tiếng trống hội làng Vị đã nghe không rõ, Hậu ngồi dậy ở
đầu thuyền, một tay dúng xuống sông. Nàng nghịch tung những hạt nước long lanh
sáng như hạt ngọc. Trời đả hết mây, quang đãng một vùng rộng. Mặt trăng tròn nhỏ
lại và trong hơn, chiếu vằng vặc trên cánh đồi.
Hậu bỗng nhiên cất tiếng hát khẽ khẽ những câu hát phong tình
ở nhà quê mà lần đầu nàng hiểu cái thi vị, bởi vì ca ngợi cái tình yêu đang réo
rắt trong lòng nàng. Hậu có giọng hát hay, tiếng ngàng ngân dài trên mặt sông
theio dịp sóng. Rồi khi nàng ngừng lại, cả cái yên lặng của quãng không bao bọc
lấy chúng tôi như nghe ngóng. Một tiếng vạc đi ăn đêm buông lanh lảnh ở đâu
đâu.
Hậu tựa vào tôi trên mui thuyền, không nói gì. Còn thuyền cứ
từ từ theo giòng nước trôi đi.
Mùa hè đã hết.
Một buổi sáng dậy tôi thấy cây mẫu đơn đầu vườn đã đâm bông,
những cái nụ con chớm đỏ sắp nở trên các cành. Ông Ba bảo tôi:
- Cây đơn này có hoa muộn. Mọi khi đầu tháng Bẩy, hoa đã nở rồi.
Tôi yên lặng không trả lời, nghĩ đến kỳ nghỉ hè của tôi đã sắp
hết, tôi sắp phải rời bỏ cái vườn này lên tỉnh học. Một cảm giác dịu buồn thấm
vào lòng; nhưng một đằng tôi cũng ao ước được chóng lên Hà Nội, để thấy căn buồng
học cũ ở nhà trọ, những anh em, chị em bạn thân ở nhà trường. Cánh đồi ruộng đối
với tôi bây giờ đã mất cái vẻ thú vị mới mẻ khi xưa, tôi muốn nói chuyện với những
ngưòoi khác, nhìn những phong cảnh khác.
Nhưng nắng càng bớt rực rỡ bao nhiêu thì Hậu càng buồn rầu bấy
nhiêu. Nàng không thể tự an ủi được vì sắp phải xa tôi. Một ít chua chát đã lần
vào những cái hôn của chúng tôi, những câu tình tứ đã nhiễm cái buồn của những
giờ vui sắp hết.
Hậu muốn cùng tôi đi thăm lại những chỗ chúng tôi đã dừng lại
trước. Một bụi cây, một hàng cỏ, một phiến đá trong vườn, là những kỷ niệm của
tình yêu, nhắc cho hậu nhớ lại cái thời kỳ say mến. Chúng tôi lại đến dưới cây
tràm ở bờ sông Cống, chỗ cỏ mượt và dầy mà chúng tôi vẫn nằm. Hậu nhắc lại những
cử chỉ đã quen, nói những câu mà tôi không còn nhớ hương vị ái ân nữa. nàng ngồi
lặng nhìn tôi, thở dài:
- Sắp hết hè rồi. Mai kia anh đã lên Hà Nội.
Tôi dỗ dành nàng:
- Ðến tết tôi lại về đây với Hậu.
Nhưng nàng lắc đầu, bảo:
- Không, anh sẽ quên em, anh sẽ không nhớ đến em nữa đâu.
Hậu cúi xuống khóc, không nghe những lời tôi an ủi, vẻ tươi của
nàng mất đi. Hậu trở nên thẫn thờ. Chúng tôi lẳng lặng đứng dậy trở về. Cỏ bên
đường đã ướt sương buổi chiều. Giòng sông Cống không sáng lạng như trước, nước
trông âm u và sâu hơn, chẩy lẫn vào chỗ mờ mờ ở chân trời. Gió hơi lạnh hắt hịu
đưa đến, khiến cho lòng chúng tôi se lại.
Tuy vậy, khi nghĩ đến lúc trở về Hà Nội, đến những cuộc vui
chơi cùng bè bạn, đến những buổi đêm đầy ánh sáng, tôi lại thấy náo nức và nóng
ruột. Tôi nghĩ đến những cô gái lộng lẫy và đài các ở Hà Thành, như những bông
hoa quý. Trong tâm can tôi đầy những ham muốn, nhớ tiếc, và tôi bắt đầu thấy hận
mình vì một cô gái còn non mà những lời âu yếm đối với tôi bỗng trở nên xa lạ.
Tháng tám đã đến, kỳ nghỉ hè của tôi sắp hết.
Tôi phải chiều những ý muốn ngây thơ của Hậu. Mỗi lời nói, mỗi
cử chỉ, đối với nàng là một cớ để mà nhớ lại. Những cuộc đi chơi thơ thẩn của
hai chúng tôi, những lúc chạy len lỏi trong nương sắn vườn trè, buổi đi xem hội
ở làng Vị, lúc nào nàng cũng nhắc tới, nói đến, như để sống lại những thời khắc
đã qua ấy. Tôi, tôi không nhớ rõ như nàng. Tâm trí tôi đã quay đi đến những cuộc
tình duyên mới lạ khác ở tỉnh thành. Những ngày cuối cùng của tôi ở mảnh vườn
này, tôi vừa bâng khuâng vừa mong đợi vẩn vơ, trong lòng không còn chờ tình âu
yếm nữa. Thỉnh thoảng, một nét mặt buồn của hậu, một cái nhìn đắm đuối của
nàng, làm tôi hối hận và chú ý đến nàng hơn. Nhưng chỉ thoáng qua, rồi tuổi trẻ,
sự ham vui, lại đêm đến cho tôi những ý nghĩ khác.
Hậu càng ngày trở nên kỳ dị. Nàng ở bên cạnh tôi, yên lặng và
đăm đăm, có khi hàng giờ không hé răng nói một câu, chỉ một đôi khi khẽ thở
dài. Rồi bỗng đột nhiên, Hậu ôm chầm lấy tôi, áp má vào ngực tôi, cắn lấy môi
tôi đến chảy máu. Những cái hôn của hai chúng tôi pha lẫn đầy nước mắt và nức nở.
Ngày tôi phải đi đã đến.
Sau bữa cơm trưa, Hậu và tôi cùng đi chơi một lần cuối cùng.
Trời đầy mây u ám, dồn đuổi nhau ở ven đồi. Một cơn gió lạnh lùa trong lá tre
kêu sào sạc. Một ngày buồn rầu, ảm đạm, để cho người ta biệt ly. Chúng tôi cầm
tay nhau đi, yên lặng, không vội vàng. Ngày mai đây, tôi với Hậu đã cách xa
nhau, một nơi; nàng ở lại mảnh vườn đầy hoa cỏ, tôi lẫn lộn vào đám những người
tuổi trẻ ở Hà thành.
Chúng tôi trèo lên quả đồi cao nhất trong vùng, ngồi trên phiến
đá nhìn xuống dưới. Cánh đồng kẻ ngang kẻ dọc những ô ruộng khác mầu, phẳng tới
tận rặng núi ở chân trời; giòng sông Cống biêng biếc quanh co khuất khúc như giải
lụa mềm. Tiếng thông reo trơ vơ bên tảng đá làm rung động. Hậu và tôi một mối
buồn man mác.
Bỗng một làn khói trắng toả sau bụi cây ở xa, rồi một chiếc
xe hoả đi ra, trông nhỏ bé như một thứ đồ chơi của con trẻ. Chính là chuyến tầu
mà mai tôi sẽ đi. Còi tầu lanh lảnh kéo dài đưa đến, vang động trên cánh đồng,
khiến tôi nhớ đến một thế giới khác mà tôi vui vẻ sắp được thấy.
Lúc trở xuống, Hậu muốn men bờ sông Cống đi vòng về. Qua những
khu vườn xinh xắn trên sườn đồi, trông thấp thoáng qua lá tre những mái nhà gọn
ghẽ, Hậu nắm chặt tay tôi thì thầm:
- Anh Bình, ước gì chúng ta được sống trong gian nhà kia,
không lo láng nghĩ ngợi sự gì, chỉ yêu nhau... anh.
Nàng buồn rầu nhìn con sông Cống, giòng nước chẩy đi cũng như
thời khắc cuối cùng của tôi với nàng. Nhẹ nhàng, tôi kéo Hậu lại gần tôi, dổ
dành an ủi nàng hứa sẽ luôn luôn về thăm.
Ngày hôm sau, Hậu cùng với ông bà Ba và cậu con tiễn tôi ra
ga. Nàng mắt đỏ lên như mới khóc, tha thiết nhìn tôi, như muốn cùng tôi khoác
tay âu yếm. Nhưng có ông bà Ba cùng đi, nên hai chúng tôi chỉ yên lặng ngậm
ngùi. Ðến một chỗ rẽ khuất sau bụi rưới, tôi thong thả đi lùi lại. Nhanh nhẹ, Hậu
ôm vội lấy tôi, kê miệng đến môi tôi, hôn một cái hôn cuối cùng, thất vọng và
chứa đầy những lệ.
Ðến ga, trong đám người tấp nập, Hậu buồn rầu đứng yên. Tôi
thấy trong đôi mắt cái vẻ đắm đuối của nàng. Tôi hứa với nàng sẻ gửi thư về
luôn, sẽ nhóo đến nàng. Nhưng trong thâm tâm, tôi thấy bồng bột, vui tươi. Còn
Hậu thì đứng lặng, tê tái và ủ rũ, khoé mi rớm nước mắt, lòng thắt lại bởi thất
vọng và nhớ thương.
Tiếng còi vang lên, bọn hành khách xô đẩy tranh dành; tầu đến.
Tôi cúi chào ông bà Ba, ẵm cậu bé lên hôn, rồi đưa mắt nhìn nàng. Lúc lên tầu,
quay lại tôi thấy bóng dáng Hậu lẫn vào đám người nhà vẫn đứng yên trên sân ga
vắng. Một bụi cây, chỗ rẽ, rồi cánh đồi che lấy cái ga nhỏ bên đường.
Hơn ba năm đã qua.
Tôi đã không giữ lời hứa. Từ hôm về đến Hà Nội, tôi không viết
lá thư nào cho nàng. Nhiều bận tôi đã lấy giấy mực ra định viết, nhưng lại
thôi. Cái kỷ niệm tôi giữ được của vườn trè và người thiếu nữ dần mờ đi trong
trí nhớ, nhường chổ cho một hình ảnh mơ màng, một hình ảnh lung linh, dịu dàng
và xa xôi, khiến lắm lúc tôi nghĩ tưởng đến một chuyện tình ái ngây thơ, tôi đã
mơ thấy trong một mãnh vườn dưới ánh nắng mùa hè.
Năm sau nữa, một cái thiếp mời màu hồng gửi đến làm tươi tắn
hình ảnh Hậu; tôi lặng nghĩ một lát đến cô thiếu nữ mê mải ấy đã yêu tôi với những
ham muốn trong sáng và tha thiết. Nhưng tôi không muốn về dự tiệc cưới nàng, và
từ đấy tôi không được tin tức gì về Hậu nữa. Tôi sống cái đời hoạt động ở Hà
Thành, với những tình yêu khác, những người thiếu nữ khác, mà sự nẩy nở của tâm
hồn trong yêu mến mỗi lần làm cho tôi say sưa. Hình ảnh Hậu dần mờ hẳn trong
trí nhớ tôi.
Tôi quên hẳn nàng đi cho đến khi một sự tình cờ lại khiến tôi
gặp Hậu ở nhà một người bạn quen. Tôi đến nhà người này dự một tiệc vui mừng. Ðến
nơi, bạn tôi chỉ một người đàn ông còn trẻ tuổi, giới thiệu:
- Ông M... rể ông Ba trên tỉnh P. đấy anh có biết không?
Tôi gật đầu, chào lại, rồi chú ý nhìn một cách tò mò người
khách mới. Chồng Hậu là một người có vẻ thông minh và rụt rè, hơi ốm yếu. Chúng
tôi ngồi thong thả nói dăm ba câu chuyện rời rạc, không có cảm tình gì.
Rồi cửa phòng bỗng mở rộng, tiếng nói ríu rít làm tôi quay
ra; Hậu ở ngoài bước vào tay giắt một đứa bé. Nhận thấy tôi Hậu e thẹn, hai má ửng
đỏ; nàng vội cúi mặt xuống, ôm lấy con, tôi cũng bối rối đứng dậy đưa mắt nhìn
nàng. Hậu bây giờ trông đẹp hơn trước, môi thắm hơn, người nở nang hơn cô gái
trẻ năm xưa. Toàn người nàng có một vẻ đáng yêu mĩ miều và đằm thắm, như bông
hoa nở đã vừa độ. Tôi ngây người nhìn ngắm nàng trong trí nhớ bỗng vụt nổi lên
những kỷ niệm đã lắng sâu, những hình ảnh rực rỡ của cánh vười đồi. Ðứng gần Hậu,
tôi thấy cảm động mến yêu như lần đầu tôi yêu nàng.
Nhưng Hậu bây giờ đã có chồng rồi. Khi tôi quay lại nhìn chồng
nàng, tôi thấy rõ cái lạnh đạm của người đàn ông ấy, bên cái vẻ đẹp lộng lẫy
đáng yêu của Hậu. Nàng có sung sướng không? Nàng có nhớ đến tôi không? Ngậm
ngùi, tôi nghĩ đến cuộc ái ân ngắn ngủi của Hậu với tôi trong mấy thàng hè; cái
tình yêu ấy biết đâu không vẫn còn để lại trong lòng một vẻ rực rỡ như ánh nắng
trong vườn.
Cuốn sách bỏ quên
Thành đi lại trên sân ga, thong thả và lơ đãng. Gió mạnh dán
chặt quần áo vào người chàng, khiến cái lạnh thêm thấm thía và ẩm ướt. Tuy trời
không mưa, nhưng Thành tựa như thấy trong lòng mưa bụi, buồn rầu và chán nản, một
mối buồn không sâu sắc, nhưng êm êm làm tê liệt cả tâm hồn.
Chàng không muốn nhớ lại, hình như muốn để quên đi với nỗi thất
vọng ấy. Câu trả lời của ông Xuân, nhà xuất bản, vẫn nhắc lại bên tai Thành một
nhịp trầm và khó chịu:
- Sách của ông không được ai hoan nghênh cả.
Thành mím môi lại, giữ vẻ tự nhiên, điềm đạm như người đã thường
nghĩ đến điều ấy rồi. Chàng để tay lên bản thảo cuốn "Mơ xưa", vuốt
cong đầu giấy lại, không trả lời. Ông Xuân nói tiếp:
- Thật vậy. Hai nghìn cuốn "Người bạn" in ra mà bây
giờ chưa bán được hai trăm. ấy là không kể gửi đi biếu các báo đã mất non dăm
chục rồi. Tôi chưa in ra cuốn sách nào khó bán như thế.
Ông chép miệng nhìn Thành, có ý bảo chàng hiểu rằng cái vốn
hai trăm bạc ông bỏ ra chưa thâu được hết. Tuy vậy, Thành cứ cố; chàng run run
tay cầm bản thảo cuốn "Mơ xưa" lên; xốc lại hai đầu định sắp sửa cho
vào cặp, khẽ hỏi:
- Thế còn cuốn này, ông...
Câu trả lời đón trước đến ngay, quả quyết không có gì lay
chuyển nổi:
- ồ, ông còn định xuất bản quyển này nữa hay sao? Tôi xin chịu,
ông có các vàng tôi cũng không dám in ra nữa.
Thành không hiểu tại sao chàng lại mỉm cười tuy chàng không
muốn. Chính chàng cũng khó mà nói rõ được cái ý nghĩa của cái cười đó. Chàng cầm
mũ với cặp, đứng dậy, nắm cái bàn tay mềm và uể oải của ông chủ rồi đi ra.
Đến ngoài đường, lúc bấy giờ Thành mới nhận thấy nỗi thất vọng
của mình, và để nó tràn lên cả tâm hồn, không chống cự. Chàng có cái cảm giác bị
hụt chân chết ngập trong mối buồn và thấy một nỗi thương thấm thía vô hạn cho
chính mình.
Trong những đêm không ngủ ở nhà quê, chàng vẫn mơ tưởng một sự
thành công rực rỡ xứng đáng với tài năng. Những lúc đó, Thành sung sướng như nhấp
chén rượu mạnh mà hơi men làm say sưa dần dần. Chàng tưởng sách của chàng đã được
thiên hạ hoan nghênh nhiệt liệt, các báo đua nhau tán thưởng, và bán chạy hết
ngay trong tháng xuất bản. Ông Xuân sẽ để một tập bạc trên bàn, tiếp chàng niềm
nở và nói nịnh:
- Sách của ông bán chạy quá. Thật, tôi chưa từng thấy nhà văn
nào được hoan nghênh như ông.
Thành sẽ cười nhã nhặn và kín đáo, nhận lời khen ấy như một
người không quan tâm đến sự nhỏ mọn về danh vọng ấy. Chàng sẽ đưa trình cuốn
"Mơ xưa", sẽ được ông Xuân trân trọng đỡ lấy và vui vẻ nhận xuất bản
ngay.
Nhưng sự thực... Môi Thành sẽ nhếch hơi chua chát, và chàng tự
hỏi không biết có nên chế giễu mình không. Chàng không nghĩ đến đi chơi trong
Hà Nội nữa, thuê ngay xe ra ga lấy vé. Thành muốn rời bỏ ngay cái tỉnh lãnh đạm
này, mong lại thấy căn phòng nhỏ ấm áp của chàng, cái bàn viết có bóng cây
trong vườn lung lay trên mặt, mỗi khi ánh nắng chiếu ngang.
Thành ngửng nhìn đồng hồ: ba giờ... chuyến tàu dễ không bao
giờ đến chắc! Con đường sắt về Nam song song thẳng tắp dưới trời u ám, như làm
xa vắng rộng rãi thêm nỗi buồn. Tất cả những mơ ước tha thiết của tuổi trẻ, của
tâm hồn nghệ sĩ, những mộng đẹp xây lên trong lúc say văn, tất cả đều theo gió
lạnh tan dần. Tâm hồn Thành trơ trọi như một cánh đồng thấp mà lúa đã gặt rồi.
Khi tàu đến, chàng chỉ còn là một kẻ chán nản bước lên xe.
Chàng đi xuống hạng ba, mở cửa toa bước vào. Thành dễ chịu khi thấy trong toa vắng
không có ai, ngoài một người gác tàu ngồi thu hình trong một xó, không buồn ngửng
lên trong khi chàng đi qua. Thành cũng gieo mình trên chiếc ghế, kéo cổ áo lên
che gáy - cái lạnh thấm thía quá! - rồi lặng yên để cho tiếng rộn rịp của chuyến
tàu ru mình.
Ngoài xa, cánh đồng chuyển lần sau làng mạc. Dòng tư tưởng của
Thành cũng chảy xuôi, một sự yên tĩnh đến thay chỗ cho nỗi buồn, Thành lại thấy
mình thiết tha và hy vọng. Thật ra, sách không bán chạy chưa phải chứng tỏ rằng
chàng không có tài; nhiều nhà văn nổi tiếng khắp hoàn cầu lúc mới đầu chẳng bị
thiên hạ bỏ quên và hững hờ là gì. Sự lãnh đạm của công chúng nhiều khi là cái
dấu hiệu của một tài năng xuất chúng, không được người ta hiểu, vì vượt ra
ngoài khuôn sáo thường. Thành tự an ủi khi nghĩ mình có thể là một tài năng ấy.
Chàng ôn lại những quãng sách đã đọc qua, trong đó nhiều nhà văn lão luyện đã
khuyên nhủ: người nghệ sĩ phải không cần đến sự hoan nghênh của công chúng, bởi
tự mình đã được hưởng cái thú thần tiên của sự sáng tác; được hoan nghênh nhiều
khi chỉ làm hại cho nghệ sĩ, vì khiến cho nghệ sĩ tự mãn và nô lệ cái sở thích
của người đọc.
Thành thấy những tư tưởng ấy đúng là thâm thúy. Không có thứ
nào say sưa và chìm đắm bằng cái thú của chàng cảm thấy mỗi khi cầm bút diễn tả
lòng mình, thấy các nhân vật chàng đặt ra trở nên linh hoạt trên trang giấy.
Chàng đã có sự rung cảm ấy, đã có trời mây, ánh nắng và hoa cỏ, tất cả vạn vật
đang sống chung quanh. Những đám mây thấp bay trên cánh đồng lúa xanh kia là một
bài thơ bất tuyệt và đằm thắm. Thành cúi nhìn ra ngoài xe, mê mải ngắm phong cảnh
qua làn khói trắng mà gió đánh tạt về bên đường. Lòng chàng dịu dần, và cảnh vật
trước mắt lại thấy tươi vui, tuy lúc đó trời bắt đầu mưa bụi. Thành đứng hẳn dậy,
cúi mình nhìn qua cửa kính, để gió lạnh lùa vào mái tóc và táp vào da.
Xe đỗ. Một cái ga nhỏ, bên mấy nếp nhà tranh chơ vơ. Tiếng
người lên xuống ồn ào vang động. Thành thoáng thấy bóng một thiếu nữ bước lên
xe. Tự nhiên chàng quay lại: người thiếu nữ vừa lách cửa toa, một luồng gió ùa
vào, manh áo dài bay lên để lộ cái áo len màu đỏ. Thiếu nữ đưa mắt nhìn khắp lượt,
thấy trong xe chỗ nào cũng đã chật, hơi lưỡng lự một chút, rồi đến ngay chiếc
ghế trước mặt Thành để hành lý xuống: mấy gói bọc giấy và một cái va li nhỏ bằng
nan mây. Thành mỉm cười vì có sự gần gũi ấy; chàng chăm chú nhìn thiếu nữ: một
khuôn mặt trái xoan, một vẻ đẹp thường thường. Quần áo ra lối nửa tỉnh, nửa
quê. Học sinh? Buôn bán? Thành không thể đoán rõ được.
Thiếu nữ cũng ngửng mặt lên nhìn chàng, rồi cúi đầu xuống,
hai bàn tay xinh xẻo lần mở va li với một chiếc khóa con kền sáng. Thành không
rời mắt, chàng có cái cảm giác thú vị sắp được đi vào trong đời thân mật của
thiếu nữ. Nắp va li hé mở. Thành thoáng thấy mấy nếp quần áo xếp gọn ghẽ, cái
khăn mặt bông trắng và bánh xà phòng thơm mới nguyên. Bỗng chàng rung động từ đầu
đến chân như có luồng điện chạy; thiếu nữ vừa mới lấy ra một cuốn sách, chính
là cuốn "Người bạn" của chàng. Quyển sách còn mới nguyên, hình như vừa
mua chưa xem đến. Thành thấy màu xanh của bìa sách, dòng chữ tên sách và tên
tác giả - chính là tên chàng - nhảy múa trước mắt khi thiếu nữ để sách trên
đùi, lấy con dao con cẩn thận rọc từng trang một.
Thành không thể nói rõ cái cảm giác của chàng lúc ấy thế nào.
Chàng bàng hoàng, nửa như e sợ, nửa như sung sướng. Thiếu nữ đã giơ sách lên
trước mặt, dựa người vào thành ghế chăm chú xem. Thành ngắm nhìn cái bàn tay
xinh xắn cầm lấy sách, chàng chăm chú nghe tiếng giấy mới sột soạt mỗi lần một
trang giấy giở. Thành thấy như thiếu nữ một lần giở trang giấy của tâm hồn mình,
gần gũi và thân mật hơn. Chàng hồi hộp nhận xét trên nét mặt người đọc, ảnh hưởng
của văn chàng, tựa như thiếu nữ đang đọc những ý nghĩ sâu xa của chàng vậy. Mà
chàng không có cách nào giảng giải nói thêm! Thành muốn kêu lên chính chàng là
Văn Sơn, là tác giả. Chàng ước ao giá bây giờ có người bạn nào đến gặp chàng,
người bạn vỗ vai hỏi: "Kìa anh Văn Sơn? Thế nào, cuốn "Người bạn"
của anh có bán chạy không?". Thành tưởng tượng sẽ nhũn nhặn trả lời: cũng
khá, và thiếu nữ, ngạc nhiên, sẽ hạ quyển truyện xuống, mở to mắt nhìn chàng
kính phục và sung sướng. Chàng sẽ thấy thiếu nữ ấp úng, má hơi đỏ, kiều mị, khẽ
thưa: "Em xin lỗi vì sự đường đột, nhưng có phải ông là Văn Sơn không ạ?".
ồ may quá! Rồi nàng xin chữ ký của chàng đề trên cuốn sách, sẽ
vụng về lúng túng một cách đáng yêu, khen chàng là nhà văn... có tài.
Nhưng mà... không có người bạn nào cả, ngoài thiếu nữ với
chàng; thiếu nữ vẫn chăm chú xem, và chàng thì nóng nảy, bứt rứt, xoay xỏa trên
ghế. Chỉ một người đọc văn mình cũng đủ làm cho chàng cảm động thế ư? Thiếu nữ
bỗng trở nên có duyên lạ, môi đỏ thắm, đôi mắt dưới làn mi cong và dài, theo từng
dòng chữ, êm nhẹ như nhung, như vuốt ve trên lòng chàng. Bao nhiêu nỗi buồn bực
thất vọng của Thành vì những lời nói của ông chủ nhà xuất bản đều tiêu tan mất
cả. Trong cái lạnh lẽo của tâm hồn chàng, thiếu nữ kia đã đem lại sự đầm ấm,
nâng niu, ít ra cũng đã có một người hiểu chàng. Thành đoán chắc thiếu nữ này,
khi ở thôn quê, dưới bóng đèn, hay buổi chiều dưới rặng hoa lý, đã từng mơ màng
những chuyện nàng đọc, và trái tim nàng đã từng rung động vì thân thế của người
trong truyện.
Thiếu nữ hạ quyển sách xuống, hơi nhếch mắt nhìn ra ngoài.
Dãy nhà ngoại ô tỉnh Nam đã trông thấy đằng xa. Thiếu nữ lại hé mở va li thử lại
ổ khóa và sửa soạn hành lý khác. Chàng thở dài: chàng biết thiếu nữ sẽ xuống ga
này, còn chàng, chàng phải đi vài ga nữa mới về tới nhà. Hồi hộp, Thành thấy từ
nãy đến giờ chàng chưa tìm được cách nào cho thiếu nữ biết tên, hay làm quen với
nàng. Nhiều lúc, chàng muốn gợi chuyện với thiếu nữ, nhưng không hiểu tại sao,
mỗi lần chàng ngượng nghịu lại thôi. Những câu nói định sẵn không muốn nói ra
khỏi miệng khiến chàng bực tức cho mình. Thành đứng lên, ngồi xuống, băn khoăn;
thiếu nữ đưa mắt nhìn Thành, một tay để trên va li, một tay vén lại tà áo cho gọn
ghẽ.
Tầu bắt đầu đi chậm, vào ga. Thành luống cuống đứng dậy ra đầu
toa tựa vào bên cửa nhìn xuống, như chú ý lắm đến cảnh tấp nập ở dưới đường.
Khi thiếu nữ khệ nệ xách va li đi qua trước mặt, Thành nép người vào bên. Mái
tóc người thiếu nữ khẽ phớt qua ngực chàng, mái tóc đen che vành tai hồng và
cái cổ tròn xinh. Chàng cúi xuống nữa, ra hẳn ngoài tầu, nhìn theo thiếu nữ đi
lẫn vào đám đông người. Lâu chàng còn nhận thấy đôi vai mảnh và thon của thiếu
nữ trong đám hành khách cho đến khi thiếu nữ khuất vào ga.
Thành có cảm tưởng như đã mất một người bạn thân yêu quá.
Chàng buồn nản thong thả trở về chỗ cũ. Bỗng nhiên Thành đứng
lại, và mắt chàng mở to ra: trên ghế, chỗ thiếu nữ ngồi, cuốn "Người bạn"
của nàng vừa mở nằm yên. Thành cầm vội lấy, cúi nhìn ra ngoài. Chàng tưởng còn
kịp gửi trả người thiếu nữ. Nhưng tầu đã chạy rồi. Gió lạnh bắt đầu thổi mạnh
lên. Thành gieo mình xuống ghế, tay mân mê cuốn sách, giở đi giở lại các trang:
hình như còn một chút đầm ấm gì của người thiếu nữ ấy vương lại trong trang giấy.
Nhưng đột nhiên, như có mũi kim xuyên thẳng vào tim chàng: ngộ không phải là
thiếu nữ bỏ quên chăng? Biết đâu nàng chẳng bỏ lại vì cuốn truyện tồi khiến
nàng không vừa lòng? Biết đâu nàng không rõ chính chàng là tác giả và cố ý bỏ
sách lại để tỏ sự nhạt nhẽo của nàng?
Thành khẽ thở dài. Những ý nghĩ ngờ vực đó xôn xao trong óc
chàng. Thành mân mê cuốn sách tựa như có thể tìm được trong ấy câu trả lời. Rồi
thẫn thờ, chàng để sách xuống lòng, áp trán vào cửa kính nhìn ra ngoài. Mưa bụi
đã tạnh từ lâu và nền mây xám tách ra, để lọt một tia nắng vàng dịu lướt nhẹ
trên ruộng mạ xanh non, trong trẻo và mong manh quá như sắp tắt. Thành thấy cái
vui trong lòng chàng cũng trong sáng và mong manh như thế, chỉ một chút nghi ngờ,
một chút lạnh lẽo cũng đủ làm cho tan đi. Thành không muốn nghĩ nữa; chàng khe
khẽ khép cuốn sách lại, và ngồi yên lặng như mơ màng.
Hai đứa trẻ
Tiếng trống thu không [1] trên cái chợ của huyện nhỏ; từng
tiếng một vang xa để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những
đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt
hình rơ rệt trên nền trời.
Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch
nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi
đã bắt đầu vo ve. Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị
bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây
thơ của chị: Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ
khắc của ngày tàn.
- Em thắp đèn lên chị Liên nhé?
Nghe tiếng An, Liên đứng dậy trả lời:
- Hẵng thong thả một lát nữa cũng được. Em ra ngồi đây với chị
kẻo trong muỗi.
An bỏ bao diêm xuống bàn cùng chị ra ngoài chỏng ngồi; chiếc
chỏng nan lún xuống và kêu cót két.
- Cái chỏng này sắp gãy rồi chị nhỉ?
Hai chị em gượng nhẹ ngồi yên nhìn ra phố. Các nhà đã lên đèn
cả rồi, đèn treo trong nhà bác phở Mĩ, đèn Hoa Kỳ leo lét trong nhà ông Cửu, và
đèn dây sáng xanh trong hiệu khách...
Những nguồn ánh sáng đều chiếu ra ngoài phố khiến cát lấp
lánh từng chỗ và đường mấp mô thêm vì những hòn đá nhỏ một bên sáng một bên tối.
Chợ họp giữa phố văn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng
mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía. Một mùi âm ẩm
bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em
Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này. Một vài người bán hàng về
muộn đang thu xếp hàng hóa, đ̣n gánh đã xỏ sẵn vào quang rồi, họ còn đứng nói
chuyện với nhau ít câu nữa.
Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất
đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, hay bất cứ cái gì có thể
dùng được của các người bán hàng để lại, Liên trông thấy động lòng thương nhưng
chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó.
Trời nhá nhem tối, bây giờ chị em Liên mới thấy thằng cu bé
xách điếu đóm và khiêng hai cái ghế trên lưng ở trong ngơ đi ra; chị Tí, mẹ nó,
theo sau, đội cái chỏng trên đầu và tay mang không biết bao nhiêu là đồ đạc: tất
cả cái cửa hàng của chị.
- Sao hôm nay chị dọn hàng muộn thế?
Chị Tí để chỏng xuống đất, bày biện các bát uống nước mãi rồi
mới chép miệng trả lời Liên:
- Ối chao, sớm với muộn mà có ăn thua gì.
Ngày, chị đi mò cua bắt tép; tối đến chị mới dọn cái hàng nước
này dưới gốc cây bàng, bên cạnh cái mốc gạch. Để bán cho ai? Mấy người phu gạo
hay phu xe, thỉnh thoảng có mấy chú lính lệ [2] trong huyện hay người nhà
thầy thừa [3] đi gọi chân tổ tôm, cao hứng vào hàng chị uống bát nước chè
tươi và hút điếu thuốc lào. Chị Tí chả kiếm được bao nhiêu, nhưng chiều nào chị
cũng dọn hàng, từ chập tối cho đến đêm.
Chị kê xong chỏng ghế, dịch ngọn đèn Hoa Kì lại để ngồi têm
trầu, còn thằng cu thì loay hoay nhóm lửa để nấu nồi nước chè. Lúc bấy giờ chị
mới ngẩng lên nói chuyện với Liên:
- Còn cô chưa dọn hàng à?
Liên giật mình, kêu khẽ: Chết chửa! Rồi đứng dậy giục em:
- Vào đóng cửa hàng thôi, không mẹ mắng chết.
An đáp:
- Hôm nay chưa chắc mẹ có ra không, chị ạ. Mẹ còn bận làm gạo
cơ mà.
Ngày nào, cứ chập tối, mẹ Liên tạt ra thăm hàng một lần, và
bà dặn hễ cứ trống thu không là phải đóng cửa hàng lại. Thế mà Liên mải ngồi
nhìn phố quên mất! Bây giờ Liên vội vàng vào thắp đèn, xếp những quả[4] sơn
đen lại, trong lúc An đi tìm then để cài cửa cho chắc chắn. Cái cửa hàng hai chị
em trông coi - là một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, mẹ Liên dọn ngay từ khi cả nhà
bỏ Hà Nội về quê ở, vì thầy Liên mất việc. Một gian hàng bé thuê lại của bà lão
móm ngăn ra bằng một tấm phên nứa dán giấy nhật trình [5]. Mẹ Liên giao cho Liên
trông coi - bà còn bận làm hàng xáo [6] - và buổi tối thì hai chị em cùng
ngủ đây để trông hàng.
Liên đếm lại những phong thuốc lào, xếp vào hòm các bánh xà
phòng còn lại, vừa lẩm nhẩm tính tiền hàng. Hôm nay ngày phiên mà bán cũng chẳng
ăn thua gì.
- Có phải buổi trưa em bán cho bà Lực hai bánh xà phòng
không?
An ngẫm nghĩ rồi đáp:
- Vâng, bà ta mua hai bánh, còn cụ Chi lấy chịu nửa bánh nữa.
Liên với cái bàn tính để cộng số tiền. Nhưng trong hàng nóng
và muỗi quá, chị ngần ngại rồi xếp hết cả tiền vào tráp không tính nữa:
- Thôi, để mai tính một thể.
An nhìn chị, chỉ đợi lúc ấy. Hai chị em cùng vội muốn đóng cửa
hàng để lại ra ngoài kia, ngồi trên chỏng ngắm nhìn phong cảnh ngoài phố. Liên
khóa vội tráp tiền với
một chiếc chìa khóa chị đeo vào cái dây xà tích bạc [7] ở
thắt lưng, chiếc xà tích và cái khóa chị quý mến và hãnh diện, vì nó tỏ ra chị
là người con gái lớn và đảm đang.
- A, cô bé làm gì thế?
Nghe câu nói tiếp theo một tiếng cười khanh khách, chị em
Liên không cần ngoảnh mặt ra cũng biết là ai đã vào hàng. Đó là cụ Thi, một bà
già hơi điên, vẫn mua rượu ở hàng Liên. Liên đã biết tính bà, chị lẳng lặng rót
một cút rượu ti [8] đầy đưa cho cụ; chị không dám nhìn mặt cụ, và trong
lòng hơi run sợ, chị mong cho cụ chóng đi. Cụ cầm cút rượu soi lên rồi cười giòn
giã nói:
- A, em Liên thảo nhỉ. Hôm nay lại rót đầy cho chị đây.
Cụ ngửa cổ ra đằng sau, uống một hơi cạn sạch, rồi vừa chép
miệng vừa lần ruột tượng trả tiền - Cụ để ba đồng xu vào tay Liên, xoa đầu chị
một cái rồi lảo đảo bước ra ngoài. Hai chị em Liên đứng sững nhìn theo cụ đi lần
vào bóng tối, tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía làng.
Trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng
qua gió mát. Đường phố và các ngơ con dần dần chứa đầy bóng tối. Các nhà đã
đóng im ỉm, trừ một vài cửa hàng còn thức, nhưng cửa chỉ để hé ra một khe ánh
sáng. Trẻ con tụ họp nhau ở thềm hè, tiếng cười nói vui vẻ, khiến An thèm muốn
nhập bọn với chúng để nô đùa, nhưng sợ trái lời mẹ dặn phải coi hàng, nên hai
chị em đành ngồi yên trên chỏng, đưa mắt theo dơi những bóng người về muộn, từ
từ đi trong đêm.
Ṿm trời hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp
lánh, lẫn với vệt sáng của những con đom đóm bay là trên mặt đất hay leo vào
cành cây. An và Liên lặng ngước mắt lên nhìn các vì sao để tìm sông Ngân Hà và
con vịt theo sau ông Thần Nông. Vũ trụ thăm thẳm bao la đối với tâm hồn hai đứa
trẻ như đầy bí mật và xa lạ và làm mỏi trí nghĩ, nên chỉ một lát hai chị em lại
chúi nhìn về mặt đất, về quầng sáng thân mật chung quanh ngọn đèn lay động trên
chỏng hàng của chị Tí. Về phía huyện, một chấm lửa khác nhỏ và vàng lơ lửng đi
trong đêm tối, mất đi, rồi lại hiện ra... An trỏ tay bảo chị:
- Kìa, hàng phở của bác Siêu đã đến kia rồi.
Tiếng đòn gánh kĩu kịt nghe rơ rệt, khói theo gió tạt lại chỗ
hai chị em: bác Siêu đã tới gần, đặt gánh phở xuống đường. Bác cúi xuống, nhóm
lại lửa, thổi vào cái nứa con. Bóng bác mênh mang ngả xuống đất một vùng và kéo
dài đến tận hàng rào hai bên ngơ. An là Liên ngửi thấy mùi phở thơm, nhưng ở
cái huyện nhỏ này, quà bác Siêu bán là một thứ quà xa xỉ, nhiều tiền, hai chị
em không bao giờ mua được. Liên nhớ lại khi ở Hà Nội chỉ được hưởng những thức
quà ngon, lạ - bấy giờ mẹ Liên nhiều tiền - được đi chơi bờ hồ uống những cốc
nước lạnh xanh đỏ. Ngoài ra, kỷ niệm nhớ lại không rơ rệt, chỉ là một vùng sáng
rực và lấp lánh. Hà Nội nhiều đèn quá! Từ khi nhà Liên dọn về đây, từ khi có
cái cửa hàng này, đêm nào Liên và em cũng phải ngồi trên chiếc chỏng tre dưới gốc
bàng với cái tối của quang cảnh phố chung quanh.
Đêm tối đối với Liên quen lắm, chị không sợ nó nữa. Tối hết cả,
con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngơ vào làng lại sẫm
đen hơn nữa. Giờ chỉ còn ngọn đèn con của chị Tí, và cái bếp lửa của bác Siêu
chiếu sáng một vùng đất cát; trong cửa hàng, ngọn đèn của Liên, ngọn đèn vặn nhỏ,
thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa. Tất cả phố xá trong huyện bây giờ thu
nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí. Thêm được một gia đình bác xẩm ngồi trên manh
chiếu, cái thau sắt trắng để trước mặt, nhưng bác chưa hát vì chưa có khách
nghe.
Chị Tí phe phẩy cành chuối khô đuổi ruồi bò trên mấy thức
hàng, chậm rãi nói:
- Giờ muộn thế này mà họ chưa ra nhỉ?
Chị muốn nói mấy chú lính trong huyện, mấy người nhà của cụ
thừa, cụ lục[9] là những khách hàng quen của chị. Bác Siêu đáp vẩn vơ.
- Hôm nay trong ông giáo cũng có tổ tôm. Dễ họ không phải đi
gọi đâu.
Vợ chồng bác xẩm góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bần bật
trong yên lặng. Thằng con bò ra đất, ngoài manh chiếu, nghịch nhặt những rác bẩn
vùi trong cát bên đường. Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi
sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ.
An và Liên đã buồn ngủ ríu cả mắt. Tuy vậy hai chị em vẫn cố
gượng để thức khuya chút nữa, trước khi vào hàng đóng cửa đi ngủ. Mẹ vẫn dặn phải
thức đến khi tàu xuống - Ðường sắt đi ngang qua ngay trước mặt phố - để bán
hàng, may ra còn có một vài người mua. Nhưng cũng như mọi đêm, Liên không trông
mong còn ai đến mua nữa. Với lại đêm họ chỉ mua bao diêm, hai gói thuốc là
cùng. Liên và em cố thức là vì cớ khác, vì muốn được nhìn chuyến tàu. Chín giờ
có chuyến tàu ở Hà Nội đi qua huyện. Đó là sự hoạt động cuối cùng của đêm
khuya.
An đã nằm xuống gối đầu lên đùi chị, mí mắt sắp sửa rơi xuống,
còn dặn với:
- Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé.
Liên khẽ quạt cho An, vuốt lại mái tóc tơ. Đầu em bé nặng dần
trên người Liên; chị ngồi yên không động đậy. Qua khe lá của cành bàng ngàn sao
vẫn lấp lánh; một con đom đóm bám vào dưới mặt lá, vùng sáng nhỏ xanh nhấp nháy
rồi hoa bàng rụng xuống vai Liên khe khẽ, thỉnh thoảng từng loạt một. Tâm hồn
Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu.
Trống cầm canh[10] ở huyện đánh tung lên một tiếng ngắn,
khô khan, không vang động ra xa, rồi chìm ngay vào bóng tối. Người vắng mãi,
trên hàng ghế chị Tí mới có hai ba bác phu ngồi uống nước và hút thuốc lào.
Nhưng một lát từ phố huyện đi ra, hai ba người cầm đèn lồng lung lay các bóng
dài: mấy người làm công ở hiệu khách đi đón bà chủ ở tỉnh về. Bác Siêu nghển cổ
nhìn ra phía ga, lên tiếng:
- Đèn ghi đã ra kia rồi.
Liên cũng trông thấy ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất, như ma
trơi. Rồi tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo gió
xa xôi. Liên đánh thức em:
- Dậy đi, An. Tàu đến rồi.
An nhỏm dậy, lấy tay dụi mắt cho tỉnh hẳn. Hai chị em nghe thấy
tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi. Một làn khói bừng sáng trắng lên đằng
xa, tiếp đến tiếng hành khách ồn ào khe khẽ. Mấy năm nay buôn bán kém nên người
lên xuống ít, có khi hai chị em đợi chờ chẳng thấy ai. Trước kia, ở sân ga, có
mấy hàng cơm mở đón khách, đèn sáng cho đến nửa đêm. Nhưng bây giờ họ đóng cửa
cả rồi, cũng im lặng tối đen như ngoài phố.
Hai chị em chờ không lâu. Tiếng còi đã rít lên, và tàu rầm rộ
đi tới. Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua, các toa đèn sáng trưng,
chiếu ánh cả xuống đường. Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang
trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng. Rồi chiếc
tàu đi vào đêm tối, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt. Hai chị
em còn nhìn theo cái chấm đỏ của chiếc đèn xanh trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi
khuất sau rặng tre.
- Tàu hôm nay không đông nhỉ, chị nhỉ.
Liên cầm tay em không đáp. Chuyến tàu đêm nay không đông như
mọi khi, thưa vắng người và hình khư kém sáng hơn. Nhưng họ ở Hà Nội về! Liên lặng
theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu như
đã đem một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác
hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu. Đêm tối vẫn bao
bọc chung quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và yên lặng.
- Thôi đi ngủ đi chị.
Liên vỗ vai em ngồi xuống chỏng. An cũng ngồi xuống và ngả đầu
vào vai Liên. Tiếng vang động của xe hỏa đã nhỏ dần, và mất dần trong bóng tối,
lắng tai cũng không nghe thấy nữa. Sao trên trời vẫn lấp lánh. Cả phố huyện bây
giờ mới thật là hết náo động, chỉ còn đêm khuya, tiếng trống cầm canh và tiếng
chó cắn. Từ phía ga, bóng đêm lồng với bóng người đi về; chị Tí đương sửa soạn
đồ đạc và bác Siêu đã gánh hàng đi vào trong làng, còn vợ chồng bác xẩm ngủ gục
trên manh chiếu tự bao giờ.
Liên quay lại nhìn em thấy An cũng đã ngủ say, tay nắm chặt
tà áo chị và đầu vẫn dựa vào vai. Liên nhìn quanh đêm tối, gió đã thoáng lạnh
và đom đóm không còn nữa. Chị cúi xuống vực em vào trong hàng, mắt cũng đã ríu
lại. Chị gài cửa cẩn thận và vặn nhỏ đèn đặt trên cái quả thuốc sơn đen. Rồi
Liên đến bên em nằm xuống. Chị gối đầu lên tay nhắm mắt lại. Những cảm giác ban
ngày lắng đi trong tâm hồn Liên và hình ảnh của thế giới quanh mình mờ đi trong
mắt chị. Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn
con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ. Nhưng Liên không nghĩ được lâu;
mắt chị nặng dần, rồi sau Liên ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như
đêm ở trong phố, tịch mịch và đầy bóng tối.
Người đầm
Hôm ấy ngày thứ hai, nên ít người đi xem, trước cửa rạp chớp
bóng Pathé chỉ lơ thơ có dăm bẩy cậu học sinh đứng nghếch đầu nhìn mấy cái quảng
cáo lộn xộn dán trên tường. Một hai người lính Tây đi vơ vẩn, miệng ngậm thuốc
lá, tay đút túi quần, điệu bộ lơ đễnh và buồn tẻ, hình như họ không có cuộc đi
chơi gì nữa, nên bất đắc dĩ phải đến xem chớp bóng vậy.
Khi tôi bước vào trong rạp, giờ hãy còn sớm. Tuy vậy hàng ghế
"lô" và hạng nhất cũng đã đông người ngồi, toàn là người Pháp. Tôi đi
vào dãy hạng nhì, chọn một chiếc ghế ở giữa. Tất cả độ hơn một chục người ngồi
rải rác cùng một hàng với tôi.
Lập tức, tôi sửng sốt chú ý đến một người đầm ngồi cách tôi mấy
ghế, đang quay sang phía bên nói chuyện với một cô gái nhỏ. Cái cảm tưởng tôi
có trước nhất là sự ngạc nhiên. Một người Pháp, mà lại là một người đàn bà, ngồi
ở hạng nhì lẫn với mọi người! Tôi tự hỏi tại sao người đầm ấy lại không lấy vé
lô, hay ít ra vé hạng nhất, để ngồi chung với những người Pháp sang trọng mà
tôi thấy bệ vệ và mãn nguyện trên các dãy ghế kia? Từ xưa đến nay, chúng ta
quen nhìn thấy người Pháp ngồi ở hạng trên, đến nỗi tôi không thể tưởng tượng
được rằng họ có thể ngồi ở các hạng dưới. Cũng không một lúc nào tôi có cái ý
nghĩ rằng người đầm kia không có đủ tiền để trả cái vé hạng nhất.
Tôi nhận thấy, cũng như tôi, những người khác ngồi chung
quanh tò mò nhìn vào người đầm. Nhưng họ nhìn một cách sống sượng và chăm chú
quá; trong những con mắt đó, đôi khi lại thoáng qua một tia lãnh đạm và ác cảm
nữa.
Người đàn bà Pháp hình như cũng nhận thấy thế, nên bà ta cố
thu hình cho nhỏ bé lại, và luôn luôn cúi mặt xuống tờ chương trình để trên
lòng. Cô bé quỳ ở trên ghế bên cạnh, quay lưng lại màn ảnh, chơi đùa với cái mũ
da của mẹ. Cô thỉnh thoảng cất tiếng cười và huýt sáo miệng; lúc ấy bà mẹ vội
vàng đưa mắt nhìn quanh, rồi ra hiệu bảo con im. Và cái nhìn của bà ta rụt rè e
lệ quá, khiến tự nhiên tôi ái ngại và cảm động.
Đột nhiên tôi tin chắc người đàn bà đó, và đứa con, mới ở
Pháp sang bên này. Nhiều cử chỉ của bà ta đã để tôi đoán như thế. Bà ta có cái
vẻ lạ lùng bỡ ngỡ của người mới bước chân đến một nơi xa lạ, ngồi vào chung
quanh những người khác giống không hiểu mình, và bà có cái vẻ rụt rè, nhũn nhặn
mà ta không thấy ở nhiều người đầm đã sống lâu bên này.
Tôi ngắm nhìn bà ta với một cảm tình chân thật mà tôi không
ngăn cấm được. Bà ăn mặc rất giản dị, toàn một màu đen. Có lẽ bà để tang. Tang
cha mẹ, người thân thích hay chồng? Không biết tại sao, tôi chắc chồng bà đã mất,
để lại cho bà cô gái bé kia. Mỗi khi cô bé quay lại phía bên này, tôi lại nhận
thấy hai người - hai mẹ con - giống nhau quá; cũng cái khuôn mặt trái soan,
cũng mớ tóc vàng, và nhất là đôi con mắt to, đưa chậm chạp, lúc nào cũng như
nhìn ra ngoài xa.
Một vẻ buồn lặng lẽ và trầm mặc phảng phất trên nét mặt người
đàn bà đó. Thỉnh thoảng bà ôm lấy con ghì chặt vào lòng như se lại trước cái ác
cảm bà đoán thấy ở chung quanh. Hai mẹ con thủ thỉ với nhau những câu tôi không
nghe rõ, nhưng tôi chắc là những câu đầy vẻ yêu đương đằm thắm.
Khi trong rạp tối đi, tôi cũng không nghĩ đến xem phim nữa.
Bao nhiêu chú ý của tôi đều đặt vào người đàn bà đó. Trí tôi tưởng tượng cái đời
của bà ta, một người đàn bà hạng trung lưu bên Pháp, một người làm công có lẽ,
vì chồng chết nên chán nản sang thuộc địa để xa mà quên đi. Tôi cảm thấy bà ta
trơ trọi quá, bỡ ngỡ quá ở nơi xứ sở này. Tôi hiểu cái buồn và cái lạnh lẽo của
bà, lúc này có lẽ bà đang mơ màng nghĩ đến quê hương ở tận bên kia phương tây,
cái làng nhỏ ở sườn đồi, cái chuông nhà thờ cao lên trên rặng cây, cánh đồng cỏ,
mấy con bò đủng đỉnh trên cái suối trong mà bọn chị em bạn cùng làng đang quay
đập quần áo trên bàn giặt. Tôi đã đọc nhiều tiểu thuyết của người Pháp quá, nên
có thể tưởng tượng được rõ rệt cái đời của người ấy. Cho nên tôi hiểu cái nỗi nhớ
thương quê hương của bà.
Có lẽ bà quen như ở bên Pháp, nên mới lấy vé hạng nhì. Có lẽ
bên ấy giá vé hạng nhì đối với bà là to rồi. Bởi thế, bà không biết ở xứ này, một
người đàn bà Pháp không bao giờ lấy vé hạng ấy.
Khi đèn bật sáng trong giờ nghỉ, bà dắt con đứng dậy, lách
khe ghế đi ra. Đến trước mặt tôi, bà nhìn tôi một cách dịu dàng, và rất lễ
phép:
- Xin lỗi ông.
Giọng nói của bà ngọt ngào, không có chút gì kiêu ngạo. Tôi
ít khi được nghe một người đầm nói với mình lễ phép như thế. Tôi chợt nghĩ đến
cái lễ độ nhã nhặn của người Pháp, của những người Pháp thật, những người chưa
bị cái hoàn cảnh bên này làm xấu đi. Tôi nghĩ đến cái lòng nhân từ rộng rãi,
cái tình cảm dồi dào của người đàn bà Pháp, lúc nào cũng sẵn sàng tha thứ và
cúi mình trên những đau khổ của người ngoài. Và tôi thấy cái ý muốn được thân
thiện hiểu biết những người đàn bà ấy.
Tôi theo ra ngoài rạp, thấy hai mẹ con bà đứng ở đầu hè, nhìn
mặt nước hồ Hoàn Kiếm phẳng lặng như tấm gương. Trong đám người đi xem không ai
để ý đến bà ta cả.
Một đứa bé bán kẹo, lấm lét nhìn quanh để trông cảnh sát, chạy
đến gần bà, giơ hộp kẹo trước mặt cô bé. Tôi nghe thấy tiếng cô bé đòi mua, rồi
bà ta chọn mấy cái kẹo trong hộp đưa cho con. Vừa mở ví lấy tiền bà vừa hỏi thằng
bé bán kẹo:
Đứa bé giơ ba ngón tay ra hiệu, miệng cười sung sướng:
- Ba xu, bà đầm!
Nghe câu trả lời của đứa bé, tôi thấy bà ta mỉm cười, lấy tay
xoa đầu nó và hỏi bằng tiếng Pháp:
- Mày không lạnh ư, con?
Đứa bé nhe răng cười, lắc đầu vì không hiểu gì, rồi vội chạy vào
chỗ tối bởi nó đã thấy bóng thầy cảnh sát ở đằng xa. Bà ta hơi ngạc nhiên nhìn
theo, và nét mặt trở nên buồn như cũ.
Tôi tự nhiên đem lòng thương mến người đàn bà Pháp ấy. Cái vẻ
buồn âm thầm của bà làm cho tôi cũng buồn lây. Tôi mơ màng ao ước người Pháp
nào cũng tốt như bà; chúng ta sẽ yêu mến nước Pháp đẹp đẽ và rộng lượng kia bao
nhiêu, và hai giống người khác nhau trên mảnh đất này sẽ hiểu biết nhau, coi
nhau thân như anh em một nhà.
Lúc chớp bóng tan, trời bắt đầu mưa bụi và gió lạnh. Thấy hai
mẹ con bà lủi thủi đi trên con đường vắng tôi chỉ muốn chạy theo nói cho bà biết
cái cảm tình đằm thắm của tôi, lòng kính trọng của tôi trước sự đau đớn, lòng mến
yêu của tôi đối với một kẻ nhân từ. Nhưng mà tôi chỉ đứng lặng yên, đứng nhìn
theo đến khi hai người khuất vào bóng tối, rồi tôi thong thả trở về, trong lòng
thấy băn khoăn, bực tức không duyên cớ.
Từ đó, tôi không bao giờ được gặp bà ta nữa. Về sau, nhiều lần
đi xem chớp bóng, tôi để ý tìm nhưng không thấy bóng hai mẹ con bà ấy đâu cả.
Có lẽ bà ta đã đi tỉnh khác rồi chăng?
Và mỗi khi đêm khuya ở rạp chớp bóng ra về, tôi hay đi vòng bờ
hồ để nhớ lại hình ảnh dịu dàng của người đàn bà đó. Bây giờ chắc bà ta đã có
công việc làm rồi.
Trong bóng tối buổi chiều
Diên đứng nép mình vào cửa hàng nước, nhìn sang bên kia phố:
một đám thợ chen nhau trong cổng nhà máy đi ra, người nào cũng có dáng mỏi mệt;
cái ánh sáng buổi trưa mùa đông tuy mờ sạm cũng đủ làm cho họ nhấp nháy mắt và
đưa tay lên che, như những người vừa bước trong bóng tối ra.
Diên nhận kỹ từng người, đưa mắt theo bọn thợ đàn bà vừa đi vừa
chuyện trò vui vẻ và nghịch ngợm. Chàng không thấy có Mai trong đám ấy. Diên đợi
một lát; đến khi thấy hai cánh cửa nặng nề của nhà máy khép lại, Diên mới quay
đi rảo bước theo các người thợ. Trên nét mặt chàng hiện ra vẻ băn khoăn:
- Không biết Mai đâu? Hay là đã ra từ trước mà ta không thấy?
Diên muốn nắm lấy một người thợ đàn bà mà hỏi, nhưng lại
không dám. Vả lại. Diên sợ hỏi người ta thế, Mai biết sẽ không bằng lòng. Diên
vừa đi vừa nghĩ ngợi. Chàng nhớ hết lại các cử chỉ của Mai đối với chàng gần
đây. Lần này không phải là lần đầu chàng đi đón Mai gấp. Trước kia không bao giờ
thế, vì Mai đã biết thế nào Diên cũng đến đón nàng.
Vậy ra Mai đã có ý lẩn tránh, Diên hỏi đoán ra nguyên cớ tại
sao và một mối hờn giận nổi dậy trong lòng; chàng nghiến chặt răng lại và nện
bước mạnh trên hè phố.
Diên nhớ lại những ngày sung sướng khi còn ở quê nhà, khi
chàng và Mai len lỏi đùa nghịch nhau trong những vườn sắn trên sườn đồi. Mai là
một cô gái tinh nghịch và lanh lợi, hay cười nói luôn miệng. Còn Diên là một
anh trai ít nói và nhút nhát, trước mặt con gái hay ấp úng và ngượng nghịu. Hai
người yêu mến nhau từ thuở nhỏ với mối tình yêu mộc mạc và đằm thắm của những
người nhà quê.
Rồi đến ngày cả hai gia đình nghèo. Diên và Mai theo cha mẹ
ra tỉnh tìm việc. Mai được làm thợ con gái trong nhà máy, còn chàng thì học việc
ở một hiệu buôn. Hai người kiếm chỉ đủ tiền sống một cuộc đời thiếu thốn và tồi
tàn ở tỉnh thành. Cái tình của đôi bên, tuy vậy, vẫn không thay đổi và cứ mỗi
buổi xong việc làm, Diên lại đến nhà máy đón Mai cũng về một xóm ở ngoại ô.
Diên thở dài. Bởi chàng nhận thấy ít lâu nay Mai không hay
chuyện trò với chàng nữa, và hình như có ý muốn tránh mặt chàng.
Ít lâu nay, ngày nào Mai cũng đi chơi với mấy người bạn gái
trong sở, mấy cô gái lẳng lơ và hay làm đỏm mà xưa kia Mai vẫn tỏ ý ghét. Trước
sự thân thiết ấy, Diên một hôm đã ghen tức, nói mỉa bạn, thì Mai trả lời:
- Bọn họ cũng như tôi, có gì mà anh ghét?
Diên giận lắm, nói:
- Thế cô không biết tại sao mà họ có nhiều tiền tiêu ư?
Mai lặng yên không trả lời. Diên muốn cho Mai hiểu rằng những
cô bạn đó trước cũng chỉ là những thợ "con gái" như mọi người thợ
khác, nhưng nay được vừa mắt ông chủ, nên mới có nhiều tiền tiêu. Diên toan nói
nhiều nữa nhưng lại thôi, sợ làm mất lòng Mai và chàng chắc rằng Mai cũng biết
thừa sự ấy.
Một hôm, Diên bắt gặp Mai đang ngắm nghía vật gì trong bàn
tay. Chàng vừa đến gần thì Mai vội giấu ra sau lưng. Diên giằng ra xem, thấy một
cái nhẫn mặt nhỏ bằng vàng. Chàng ngạc nhiên hỏi:
- Cô mua nhẫn đấy à? Tiền đâu thế?
Mai ấp úng, ngượng nghịu không trả lời. Diên hỏi gặng mãi,
Mai nói là của một người bạn gái cho mượn. Nhưng nhìn vào đôi mắt trong của
Mai, Diên biết rằng Mai không nói thật.
Nghĩ đến đây, Diên thấy nao nao trong lòng; một điều lo sợ thấm
dần vào tâm can chàng, cùng một lúc với sự chán nản. Một ý nghĩ muốn rời bỏ cái
đời bụi bậm ở chốn tỉnh thành này, trở về với công việc ở thôn quê.
Đột nhiên, Diên đứng dừng ngay lại; chàng vừa thoáng thấy
bóng Mai qua cửa kính một hiệu cao lâu nhỏ ở đầu phố. Diên rón rén đứng ngoài
cái màn treo, nhìn vào. Chàng thấy Mai ngồi với mấy bạn gái, đương cười đùa vui
vẻ và cuối bàn có một người thợ đàn ông đang ghé tai thì thầm với một cô trong
bọn.
Khi trông thấy người ấy, quả tim Diên bỗng đập mạnh như một
con chim sợ hãi. Mắt chàng hoa lên và chàng lảo đảo tựa vào bức tường cho khỏi
ngã.
Diên mới nhận ra người đàn ông ngồi đó là một người thợ cùng
làm ở nhà máy với Mai, mà tất cả mọi người đều gọi là "bà mối". Hắn
ta chỉ có một công việc làm trong xưởng, là dẫn dụ các cô gái nào mà ông chủ để
ý đến. Người thợ con gái được hắn vời đến tất sẽ trở nên một bà chủ con trong
xưởng, quyền hành nắm trong tay và nhất là được tiền để sắm sửa ăn mặc. Rồi một
hai tháng, khi ông chủ đã chán, lại nhường chân cho kẻ khác.
Nghĩ đến Mai cũng như những cô gái ấy, Diên thấy lòng thắt lại
như trước một tai nạn gì ghê gớm. Diên thấy choáng váng cả người, chàng nghiến
răng, khẽ lẩm bẩm: "Con khốn nạn!".
Chàng muốn nhảy ngay vào phía trong lôi ngay Mai ra mắng cho
bõ ghét. Hai tay chàng nắm lại; nhưng cái bản tính nhút nhát vẫn thắng; chàng
lưỡng lự một lát rồi lại lẳng lặng cúi mình rảo bước đi mau.
Về đến nhà, Diên nằm vật xuống giường, chán nản. Căn phòng chật
hẹp, tối tăm làm chàng khó thở. Diên nhớ lại cái quang cảnh u ám buổi trưa: những
thợ thuyền đầy bụi bậm, những bộ quần áo bẩn thỉu, cả căn phố đen với vết than
và nhất là cái nhà máy sừng sững dưới các bức tường loang lổ. Diên lại nghĩ đến
cánh đồng ruộng ở quê hương, đến những rặng cây mà ánh sáng buổi ban mai làm
rung động đến cái hình dáng đáng yêu của Mai khi đi bên mình chàng.
Nghĩ đến những ngày sung sướng ấy, và sự nghèo hèn của mình
bây giờ Diên thấy tủi thân, rơm rớm nước mắt khóc.
Buổi chiều. Diên sang nhà Mai, thấy nàng vừa mới đi làm về.
Chàng đến gần Mai, không dám nhìn nàng, chỉ bảo:
- Cô Mai, cô ra đây tôi có câu chuyện muốn nói.
Mai bước theo sau. Hai người lặng yên đi trên con đường đất
ra bãi cỏ sau nhà, chỗ mà mọi khi hai người vẫn gặp nhau nói chuyện.
Đến nơi, Mai ngồi xuống vệ hè, chờ đợi. Diên đứng yên bên cạnh
không biết nói gì. Cái thương yêu mà giận dỗi rối loạn trong lòng chàng, và những
câu muốn nói ngập ngừng như không ra khỏi miệng. Mai thì cứ cúi mặt xuống vân
vê dải yếm. Mãi Diên mới cất tiếng hỏi ấp úng:
- Em Mai, sao độ này em cứ trốn tránh anh? Em không yêu anh nữa
hay sao?...
Rồi Diên không rõ mình nói gì nữa: tất cả những sự uất ức,
thương yêu chàng nói ra cả.
Diên nhắc lại những ngày đầm ấm ở thôn quê, đến cái tình thân
thiết của đôi bên. Tự nhiên Diên thốt được những câu để bày tỏ nỗi lòng. Lời
chàng dịu dàng và tha thiết như lời van xin của một người đau khổ.
Bỗng nhiên Diên ngừng lại. Mai, hai tay úp mặt xuống khóc.
Diên thấy hai vai nàng nức lên. Cảm động, Diên cúi xuống để an ủi người yêu,
chàng giơ tay để khẽ lên cánh tay Mai. Nhưng chàng lại đứng ngay dậy, mở mắt to
ngơ ngác như người điên. Diên vừa mới nhận cách ăn mặc và trang điểm của Mai,
nhẫn ở ngón tay và hoa tai lấp lánh dưới mái tóc, sang trọng như các bà giàu
có.
Và Mai đánh phấn! Đôi môi có vết son của cô gái trước kia quê
mùa mộc mạc làm chàng rùng mình nghĩ đến những bộ mặt trát phấn, những đôi môi
đẫm son như thấm máu mà chàng thường trông trước cửa những chỗ ăn chơi.
Diên bàng hoàng và lạnh lẽo cả người; chàng hình như thấy một
cái sức mạnh vô cùng đến chia rẽ Mai với chàng. Một nỗi đau đớn nghẹn ngào đưa
lên chẹn ngang cổ họng, Diên nấc lên một tiếng rồi cúi đầu chạy trốn trong bóng
tối của buổi chiều vừa xuống.
Những ngày mới
Những bông lúa vàng mới cắt xong đều xếp rải rác từng hàng
trên bờ ruộng, trong đám cỏ xanh mọc dầy. Mỗi khi gặt được vài lượm lúa người
thợ hái ôm sát bó lúa thơm vào người, đem ra xếp vào chỗ lúa trước. Rồi họ lại
trở vào ruộng, đứng theo hàng những người bạn gặt. Tiếng hái đưa vào gốc lúa
xoàn xoạt như tiếng trâu bò ăn cỏ.
Chăm chú vào công việc làm, Tân không để ý gì đến cảnh vật
chung quanh. Chàng cũng không thấy mệt nữa, tuy ánh nắng chiếu trên lưng nóng
rát, và mồ hôi từng giọt rỏ ở trên trán xuống. Tân chú ý đưa cái hái cho nhanh
nhẹn, mỗi lần bông lúa rung động chạm vào mặt, vào người, mùi lúa chín thơm lại
phản phất lẫn với mùi rạ ướt mới cắt. Mùi thơm đó làm cho chàng say sưa như men
rượu. Tân lại cố hết sức gặt, chỉ lo không theo kịp hàng những người thợ khác.
Buổi sáng khi Tân ngỏ ý cầm hái xuống gặt, bọn thợ hái chàng
mượn đã mấy hôm nay đều trông chàng mà cười. Một cô gái trong bọn, cặp mắt đen
nhí nhảnh dưới vành khăn vuông che kín đầu, nói đùa:
- Ông để mặc chúng tôi, bộ ông thế kia thì gặt được độ ba nẹn
lúa.
Mọi người vui vẻ cười làm Tân cũng cười theo.
Người già nhất trong bọn, một ông cụ râu tóc đã bạc, nhưng da
xém đen và khỏe mạnh, lẳng lặng đem một cây hái ra mài trên bờ ruộng. Khi mọi
người sửa soạn xong, ông cụ đưa cho Tân cây hái, lưỡi sáng loáng nói:
- Lưỡi sắc thế này thì cắt cứ ngọt như cắt cỏ.
Cắt được mấy lượm lúa, Tân thấy cánh tay mỏi rã rời. Chàng tưởng
không thể nào gặt được nữa. Tuy vậy, cố hết sức chàng cũng chưa theo kịp bọn thợ
gặt. Nhưng được vài bước, Tân lại phải dừng lại để thở. Chàng nhận thấy cô gái
ban nãy, tuy tay đưa hái thoăn thoắt nhưng vẫn để ý nhìn chàng. Còn ông cụ già
cứ điềm đạm gặt, bên cạnh ông ta, những bông lúa đã xếp thành đống. Tân lại cúi
xuống làm việc. Dần dần mềm dẻo, Tân thấy dễ chịu. Chàng luôn đưa lưỡi hái, vui
vẻ khi thấy những bông lúa chắc, vàng ngả sát vào người. Tân thấy tâm hồn khoan
khoái như không bận một ý nghĩ gì.
Từ bờ ruộng đằng xa đi lại, một người đàn bà gánh hai gánh đầy.
Ông cụ già thẳng người đứng lên nói với các bạn gặt:
- Thôi, hãy nghỉ tay ăn quà đi.
Tân cũng ngừng tay lại. Chàng đương thích làm việc, nói:
"Đã nghỉ rồi cơ à? Sao chóng thế". Chàng quên rằng bọn thợ đã gặt
luôn bốn giờ đồng hồ chưa nghỉ, họ làm việc từ buổi sáng sớm, trong lúc chàng
còn ngủ.
Bọn thợ gặt tìm chỗ có bóng mát ở chân đồi nghỉ. Chung quanh
đấy, ở các ruộng khác, những thợ hái cũng đều nghỉ cả, mỗi người chọn một chỗ
dưới gốc cây, tay cầm bát cơm nếp ăn rất ngon lành. Đấy là bữa quà buổi trưa,
vì sáng sớm trước khi ra đồng, người nào cũng ăn cơm cả rồi.
Mấy người thợ Tân mượn nhìn chàng ra dáng cám ơn lắm vì Tân rộng
rãi, bữa cơm sáng đã cho họ ăn một ít cá vụn mà em chàng mua của bọn đánh dậm.
Đến lúc đổi đồng, chàng lại cho phép họ được đem lúa đổi lấy một ít chả để ăn với
xôi và bao diêm, gói thuốc cho mọi người. Bởi vậy, họ rất sung sướng vì ngày
công tám xu của họ còn nguyên không phải tiêu dùng đến.
Thấy Tân dễ dãi vui tính, họ cũng vui vẻ trò chuyện trước mặt
chàng, không còn ngượng nghịu hay giữ gìn gì nữa. Ông cụ già gọi chàng đến bên
cạnh mời hút thuốc lào và uống nước. Cụ rót trong cái vò sành ra một bát nước đỏ
thẫm ra đưa cho Tân:
- Cậu thử uống bát nụ vối này mà xem. Không có thứ nước nào
ngon hơn nữa.
Thật đúng như vậy, Tân chưa uống bát nước nào ngon hơn bát nước
vối của ông cụ. Chàng nghĩ đến khi còn ở Hà Nội, uống rượu bia và nước chanh
ngâm đá, nhưng chưa thấy bao giờ khoan khoái như bây giờ.
Ăn xong, trên ven đồi, bọn thợ gặt nằm dài trên cỏ ngủ. Các
thợ đàn bà họp nhau lại một chỗ ăn trầu và nói chuyện mùa màng còn ông cụ thì
loay hoay buộc lại mấy cái hái để dùng đến buổi gặt chiều.
Cánh đồng lúa chín lóe vàng dưới mặt trời buổi trưa. Từng chỗ,
ở thửa ruộng nào đã gặt rồi, gốc rạ lấp lánh như dát bạc. Phía xa, làng mạc ở
chân trời rung động trong ánh nắng.
Tân nằm trên thảm cỏ, nhìn lên. Qua khe lá lung lay, chàng thấy
trời xanh trong và mát. Mùi cỏ và mùi lúa thơm bốc lên xung quanh, Tân cảm thấy
cái sung sương của một người làm xong công việc. Chàng thấy vui vẻ, một mối
tình nảy nở giữa tâm hồn Tân với những người thợ gặt giản dị và mộc mạc chung
quanh chàng.
Họ làm việc xong cũng vui vẻ, sung sướng tuy những lúa gặt
không phải là của họ. Tân cũng vậy, chàng biết rằng những bó lúa kia đem bán đi
thì có lẽ không đủ tiền trả công người làm. Song những bông lúa ấy đối với Tân
quý lắm và như có một ý nghĩa thiêng liêng, đấy là kết quả của cả một năm làm lụng
khó nhọc và vất vả.
Tân nhìn xuống đồi, ngắm nghía những dải mây trắng lững thững
ở phía xa. Từ khi trở về quê, chàng quen nhìn xét những đám mây mà trước kia ở
tỉnh chàng không bao giờ để ý đến. Tân nhớ lại tất cả quãng đời niên thiếu của
mình đã qua ở tỉnh thành. Ngay từ khi còn nhỏ tuổi, cha mẹ chàng đã gởi chàng ở
nhà ông chú làm việc trên Hà Nội. Nhà chàng cũng không lấy gì làm giàu có,
nhưng cũng vào bậc nhất nhì trong làng. Quanh năm cày cấy mươi mẫu ruộng ở ven
đồi và chăm bón mấy nương chè, sắn, cũng thừa đủ chi dụng trong nhà.
Cũng như tất cả những nhà giàu khác ở trong làng, cái hy vọng
của cha mẹ Tân là cho chàng đi học để trở nên thầy thông hay thầy ký... Mà lúc
bấy giờ, chí nguyện của Tân cũng chỉ có thế, chàng hết sức chăm học nên năm mười
tám tuổi đã đạt được cái hy vọng của gia đình.
Tân mỉm cười khi nghỉ đến cái tâm trạng của mình lúc mơi đi
làm; nghĩ đến cái anh chàng lúc nào cũng ăn bận chải chuốt như một cô gái, lúc
nào cũng nghĩ đến cái quan trọng của mình. Hình như mỗi cử chỉ của thầy ký trẻ
tuổi đều có ảnh hưởng đến mọi người.
Khi có nạn kinh tế, chàng mất việc. Cái chán nản của Tân và của
cha mẹ chàng lúc bấy giờ thực đến cực điểm. Cha chàng buồn rầu từ trần. Còn
chàng cứ lang thang ở Hà Nội mấy tháng trời, sống cái đời vất vưởng của anh thất
nghiệp. Chàng đã biết cái thất vọng của những lúc đợi chờ, cái khổ sở của những
đêm không có chỗ trọ, vì trong lúc ấy ở nhà quê có mình bà mẹ trông nom ruộng
nương không xuể, và giá thóc hơn, nên không có tiền gửi cho chàng.
Nhưng một hôm rét mướt, một ý nghĩ bỗng nảy ra trong trí, nếu
ở đây không đủ sống, tại sao không trở về quê sống cái đời giản dị của người
làm ruộng?
Thế là hôm sau, Tân xách khăn gói về. Rồi từ đấy chàng hoàn
toàn là một người nhà quê dễ dãi. Mới đầu Tân cũng thấy nhiều sự thiếu thốn khổ
sở. Nhưng dần dần chàng nghiệm ra rằng những cái thiếu thốn đó, không phải là
những cái cần dùng cho cuộc đời, mà là những cái thừa. Sự cần dùng là ăn với mặc,
chàng đã có đủ. Dần dần chàng mới thấy cái đời chàng sống trước ở tỉnh thành là
một cuộc đời phức tạp và vô vị, không có nghĩa lý gì. Chỉ việc có ăn ở theo mọi
người, nghĩ ngợi theo mọi người, và đi tìm cái vui chốc lát trong những cuộc
hành lạc để mua lấy cái chán nản về sau.
Tân tiếc hồi thủa nhỏ không sống ở thôn quê để được gần gũi với
cảnh vật. Chàng thích sống bên cạnh những người nhà quê chất phác và mộc mạc. Bấy
giờ chàng mới biết đến trời đất, đến thời tiết, đến sự thay đổi của mùa nọ sang
mùa kia. Một cơn gió hay một cái mầm cỏ non, đối với chàng đều có ý nghĩa
riêng.
Tân không dửng dưng như trước với những cái chung quanh mình.
Tâm hồn chàng có liên lạc và rung động cùng với cảnh vật. Chàng có cái cảm giác
rằng mình sống...
Buổi chiều, thửa ruộng của Tân đã gặt xong. Cả một cánh đồng
chỉ còn trơ cuống rạ. Bọn thợ gặt đều thu xếp liềm hái để trở về. Trên con đường
vào làng, các lực điền gánh những gánh lúa vàng nặng trĩu. Mặt trời đã xế phía
bên kia đồi. Ở dưới thung lũng, sương mù lạnh trắng xóa lan ra lẫn với làn khói
tỏa ở xung quanh các làng. Cỏ bên đường đi đã ướt. "Về phía xa, có ngọn lửa
của ai đốt trên sườn rặng núi mờ ở chân trời. Tân với bọn thợ bước đều trở về
nhà, ai nấy yên lặng không nói gì,như cùng kính trọng cái thời khắc của một
ngày tàn. Trong cái thời khắc này, Tân như thấy cảnh vật đều có một tâm hồn, mà
lớp sương mù kia là tâm hồn của đất màu, đã nuôi hạt thóc cần cho sự sống của
loài người.
Khi vào đến con đường khuất khúc trong làng, trời nhá nhem tối.
Qua hàng rào cây, Tân thấy lấp lánh đèn ở sân các nhà, tiếng néo đập lúa trên cối
đá, tiếng hạt thóc bắn vào nia cót như mưa rào. Đâu đâu cũng thấy tiếng cười
nói vui vẻ, cảnh đêm trong làng thôn quê vẫn yên lặng âm thầm thì chiều nay hoạt
động vô cùng. Mùi lúa thơm vương lại trong các bụi cây hòa lẫn với mùi đầm ấm của
phân cỏ, bốc lên khắp cả.
Về đến sân nhà, mọi người ăn xong lại bắt đầu làm việc. Đàn
bà vừa đập lúa vừa hát, còn bọn thợ hái ngồi quây quần bên chiếc đèn con nói
chuyện. Ai cũng cười đùa tự nhiên. Họ đã tận tâm làm việc suốt ngày. Những lượm
lúa vàng sẫm đem đến cho họ cái vui của ngày được mùa, cái hình ảnh của sự no ấm
trong đời.
Tân thấy mình cũng sung sướng như họ, chàng thấy tấm lòng
mình rộng rãi ra, tâm hồn thân thiết, và yêu mến với cả mọi người.
Sau khi hẹn thưởng cho bọn thợ nồi cơm nếp mới, Tân bước ra
ngõ, nhìn xuống dưới đồi. Trên trời, ngàn sao lấp lánh. Gió dưới ruộng đưa lên
mùi rạ ướt và hơi sương lạnh. Cả một vùng đêm rộng rãi và bình tĩnh trên cánh đồng
yên lặng.
Tân chợt thấy ở chân phía trời xa, cái khoảng ánh sáng mờ của
tỉnh thành Hà Nội...
Chàng sung sướng nghĩ đến những ngày đầy đủ của mình ở chốn
thôn quê này. Một cuộc đời mới đương chờ đợi chàng...
Tối ba mươi
Đến cửa buồng số 12, Liên chuyển những đồ lề sang bên trái,
cúi cằm xuống giữ cho chặt, còn tay phải vặn quả nắm. Những gói giấy chỉ chực
tròng trành rơi. Liên cất tiếng khàn khàn gọi:
- Huệ ơi! Huệ!
Nàng tưởng sẽ thấy nét mặt vui vẻ của Huệ thò ra đón, vớ lấy
các thức mua và hỏi "Sao mày về chậm thế?" nhưng trong phòng vẫn yên
lặng. Liên mở cửa bước vào: Huệ đương cuộn chăn nằm ngủ trên giường, tóc xõa ra
cả trên gối trắng. Vẻ lạnh lẽo của căn phòng đến ngay bao bọc lấy Liên, khiến
cái vui trong lòng nàng mong manh sắp tắt. Liên để các gói xuống bàn, giũ bụi
mưa trên áo rồi vội vàng đánh thức bạn:
- Dậy đi, Huệ!
Huệ ậm ự mở mắt lờ đờ nhìn, rồi lại định quay mặt vào trong
ngủ. Bực mình Liên tung chăn ra bên, vừa xốc Huệ lên vừa nói:
- Gớm, ngủ cả ngày không biết chán.
Huệ đã tỉnh hẳn, vươn vai ngáp rồi ngồi dậy, kéo chăn trùm
lên vai:
- Mày bảo chả ngủ thì làm gì?
Rồi nàng rùng mình:
- Lạnh quá! Kìa cô ả, vào không khép cửa lại; mà sao đi lâu
thế?
Liên ra đóng cửa phòng, quay trở vào:
- Tao phải chạy vội khắp các phố đấy. Các hiệu đã sắp đóng cửa
cả. Giá cứ nghe mày thì chả kịp mua bán gì, đành là nhịn đói ăn Tết.
- Thì đã chết chưa. Không ăn, ngủ cũng được.
Liên nhận thấy nét mặt mỏi mệt của bạn. Nàng nhìn quanh căn
phòng bẩn thỉu. Dưới ánh ngọn đèn mờ, lổng chổng các đồ đạc quen thuộc: cái giường
Hồng Kông cũ, đồng han và gỉ xạm, cái bàn gỗ ẩm ướt ở góc tường, hai cái ghế
long chân. Liên nghĩ đến sự trơ trọi của đời mình. Tết đến nơi rồi. Tết đến thăm
nàng ở đây, trong cái buồng nhà "săm" này cũng như đến những nơi thơm
tho đầm ấm.
Nàng không muốn nghĩ vơ vẩn nữa. Cái buồn ghê gớm chỉ chực
kéo đến giày vò nàng, Liên vội cười lên. Nàng đến cạnh bàn giở các gói bọc giấy
nhật trình buộc bằng dây cói: những thức ăn rẻ tiền mua hấp tấp ở các hiệu
khách trước giờ đóng cửa đêm ba mươi.
- Nào, xem mày mua những gì nào.
Huệ cũng trở dậy đến bên giúp Liên giở các gói và để thức ăn
ra ngoài.
- Lạp xường này, bánh chưng này, giò lụa, lại cả gan kho nữa
cơ à? Oai nhỉ! Còn gói gì thế này? À... cam. Tuyệt! Cam này thì phải biết!
Mấy quả cam đỏ lăn ra bàn. Huệ cầm một quả toan bóc. Liên giằng
lấy:
- Con khỉ! Ăn trước à? Còn để cúng đã chứ.
- Ừ thì để mà cúng! Nhưng vàng hương đâu?
Liên đáp:
- Chỉ có hương thôi. Còn vàng không cần. Tiềm tiệm thôi cũng
được.
Huệ lặng im, tự dưng thoáng nghĩ đến thân thế lưu lạc của hai
chị em và lòng se lại. Huệ nhìn bạn, âu yếm. Giờ chỉ còn Liên là người thân thiết
với nàng.
Xếp các giấy gói sang một bên, Liên quay lại bảo Huệ:
- Chúng mình bầy cỗ cúng đi chứ?
- Bầy làm quái gì vội. Bây giờ mấy giờ rồi?
- Không biết. Dễ gần mười một giờ rồi đấy. Sửa soạn đi thì vừa.
Huệ không đáp, đi đến cửa sổ, tì trán vào cửa kính nhìn xuống
đường. Mưa bụi vẫn bay tơi tả, hình như ở bóng tối khắp nơi dồn lại quãng phố hẹp
này. Trên hè ướt át và nhớp nháp bùn, không một bóng người qua lại. Cái vắng lạnh
như mênh mông ra tận đâu đâu ở khắp cả các phố Hà Nội đêm nay. Huệ tưởng đến những
căn nhà ấm cúng và sáng đèn, then cửa cài chặt, mọi người trong nhà đang tấp nập
sửa soạn đón năm mới trong sự thân mật của gia đình. Chỉ có hai chị em nàng xa
cửa, xa nhà. Nhưng nàng còn nhà đâu nữa mà về? Mẹ chết rồi, cha đi lấy vợ khác
không biết ở đâu. Đã bẩy, tám năm nay, nàng không về đến làng. Những người quen
thuộc còn ai không? Huệ nghĩ đến lại thương hại cho Liên, em họ nàng. Liên còn
cha mẹ, nhưng Liên không dám về. Hai người sống cái đời trụy lạc ở Hà Nội từ
lúc bỏ nhà ra đi. Hôm nay, ngày cuối năm sum họp hai người ở căn buồng này,
trong một cảnh ăn Tết lạnh lẽo.
Huệ nhắm mắt lại. Vì trông mưa bụi hay vì nàng khóc thật?
Hình như có chút nước mắt vừa rơm rớm ở mi nàng. Huệ chớp khẽ rồi nhớ đến cuộc
đời mình, lúc trẻ thơ, lúc còn con gái, ở nhà quê. Một buổi sáng mồng một Tết,-
nàng không nhớ rõ là tết năm nào, nhưng đã lâu lắm rồi thì phải - nàng mặc áo mới
đứng trên thềm nhìn mấy bông hoa đào nở ở trước vườn. Tại sao nàng lại chỉ nhớ
rõ có cái cảnh ấy? Huệ không biết, nàng chỉ mang máng cảm giác một sự gì trong
mát, tươi non... Khác hẳn bây giờ. Tâm hồn Huệ u ám và nặng trĩu xuống.
Bỗng Huệ giật mình quay lại; Liên vỗ vai nàng, cười:
- Nghĩ gì mà thần người ra thế? Phải vui vẻ lên một tí chứ! Sắp
giao thừa rồi đây này.
Huệ theo Liên đi vào và gật đầu.
- Thôi, cúng đi. Chị sửa soạn xong chưa?
Trên chiếc bàn rửa mặt đầy vết bẩn, Liên đã đặt đĩa cam quít,
cái bánh chưng và thếp vàng. Mấy gói lạp xường và giò cũng để ngay bên. Các đồ
cúng nghèo nàn bỗng bầy lộ ra trước mắt hai người. Huệ tìm lấy thẻ hương. Nàng
quay lại hỏi Liên:
- Chị có mua gạo không?
- Có, gạo đây. Nhưng đổ vào cái gì bây giờ?
Hai chị em nhìn quanh gian buồng, nghĩ ngợi. Liên bỗng reo
lên:
- Đổ vào cái cốc này này. Phải đấy, rất là...
Nàng im bặt dừng lại. Hình ảnh ô uế vừa đến trí nàng. Cái cốc
bẩn ở góc tường, mà cả đến những khách làng chơi cũng không thèm dùng đến, nàng
định dùng làm bát hương cúng tổ tiên! Liên cúi mặt xuống, rồi đưa mắt lên trông
Huệ; hai người thoáng nhìn nhau. Liên biết rằng những ý nghĩ ấy cũng vừa mới đến
trong trí bạn.
Huệ cất tiếng nói trước, thản nhiên như không có gì:
- Hay cắm trên cái chai này... Không! Cắm trên tường này cũng
được, mày nhỉ.
Liên không dám trả lời, sẽ gật đầu.
Nàng đến cạnh giường lật đệm lên lấy bao diêm.
Nhưng giật mình nàng quay lại: có tiếng người gõ cửa buồng.
- Ai đấy?
- Tôi. Cô mở cửa cho tôi với.
Hai chị em luống cuống nhìn các đồ cúng trên bàn. Hai người
muốn cất dọn hết, nhưng chắc không kịp. Nhanh trí, Huệ đứng dựa bên bàn che khuất
đi, trong lúc Liên ra mở cửa. Người bồi "săm" ngó đầu vào.
- À, bác Tâm. Hỏi gì thế?
- Tôi gửi cô giữ hộ chiếc chìa khóa.
- Bác về đằng nhà bây giờ à?
Anh bồi "săm" tươi cười:
- Vâng, phải về ăn Tết chứ. Thôi, cô làm ơn trông hộ nhà nhé.
Giờ này cũng chẳng có ai đến nữa mà sợ.
Liên thấy đằng sau, tiếng Huệ đáp:
- Đêm nay thì còn ma nào đến. Bác cứ về.
Người bồi sắp bước đi, lại quay lại:
- À chút nữa quên, tôi xin chúc mừng trước hai cô nhé! Chúc
hai cô sang năm mới được... được...
Người bồi ấp úng, không biết nói thêm gì. Liên vội đỡ lời,
cám ơn, rồi đóng cửa buồng lại. Một lát, tiếng cánh cổng sắt dưới nhà rít lên
trong yên lặng lạnh lùng.
Giờ chỉ còn hai chị em trong căn nhà. Gian buồng bỗng trở nên
rộng rãi quá chừng: một cái lạnh thấm thía đến tâm hồn. Ngoài đường trời hẳn
còn mưa, mưa buồn rầu và âm thầm trong tối. Trong gian buồng, ẩm ướt tăng thêm.
Liên và Huệ đưa mắt nhìn mọi vật chung quanh. Cái giường sắt lạnh, đệm và gối
hoen bẩn, cái thau gỉ, cái bô, và cái bàn rửa mặt gỗ đã mọt... Đó là khung cảnh
của cuộc đời trụy lạc đã từ lâu... Huệ đứng dậy hỏi bạn để cho tan sự yên lặng:
- Chị đã thắp hương chưa?
Liên cũng tự nhiên gọi Huệ là chị:
- Chưa. Chị thắp đi. Bao diêm ở bên cạnh đĩa ấy.
Khói hương lên thẳng rồi tỏa ra mùi thơm ngát đem lại cho hai
nàng kỷ niệm những ngày cúng giỗ ở nhà, khi hai chị em còn là những cô gái
trong sạch và ngây thơ.
- Có lẽ đến rồi. Năm mới!
Huệ đặt lại các đĩa trên bàn, xếp vàng cho ngay ngắn. Nàng
quay lại bảo Liên:
- Chị ra khấn đi.
Liên tiến đến trước bàn thờ, đứng yên.
- Em biết khấn làm sao bây giờ?
Nàng bỗng nấc lên, rung động cả vai rồi gục xuống ghế, tay ấp
mặt. Những giọt nước mắt nóng chảy tràn mi mắt, nàng không giữ được; Liên cảm
thấy một nỗi tủi cực mênh mang tràn ngập cả người, một nỗi thương tiếc vô hạn;
tất cả thân thể nàng lướt hiện qua trước mắt với những ước mong tuổi trẻ, những
thất vọng chán chường.
Huệ nhìn Liên rồi nhẹ nhàng đến gần, buồn rầu vỗ vai bạn:
- Liên, khóc làm gì nữa, buồn lắm.
Tiếng nàng cũng cảm động nghẹn ngào. Dưới bàn tay thân mật của
bạn, Liên càng nức nở. Hai chị em giờ này cảm thấy trơ trọi quá. Liên ngửng mặt
lên nhìn Huệ, cố gượng một nụ cười héo hắt:
- Chị cũng khóc đấy ư?
Huệ gục xuống vai bạn, không trả lời. Nước mắt cũng ứ lên rồi
lặng lẽ dào ra má. Nàng quàng tay ôm hết sức chặt lấy Liên.
Tiếng pháo giao thừa bỗng nổi vang gần đấy rồi từ nhà nọ sang
nhà kia lan rộng mãi vào đêm tối. Liên nói sẽ như thì thầm:
- Giao thừa.
Huệ không trả lời. Hai chị em nép vào nhau, yên lặng.
Tình xưa
Ngày theo học trường tỉnh Thái Bình, tôi ở trọ nhà ông Cả
Vinh, một nơi quen biết của thầy mẹ tôi. Ông Cả cũng có người con trạc tuổi
chúng tôi đi học, bởi vậy ông cho học trò đến ở, lấy cớ rằng để anh Hòe, con
ông, được vui anh vui em. Thực ra, ông bà Cả muốn chứa trọ để kiếm lời. Nhà ông
nghèo lại đông con, và số tiền tháng của ba chúng tôi cũng đủ giúp cho bà Vinh
một cái vốn nhỏ để buôn bán.
Ông Cả ở một lớp nhà cổ, một cái nhà ngói năm gian chạy dài mặt
phố và một căn nhà lá rộng, đầy những hàng hóa của bà Cả, rồi đến nhà dưới và bếp.
Đằng sau nhà có một miếng đất trồng cây cối, ngăn với bãi cỏ hoang của tỉnh bằng
một hàng rào râm bụt thấp. Ngay trước nhà gạch trông ra, có một cái sân vuông
và hẹp, có bể nước lớn. Cái sân đó là giang sơn riêng của ông Cả: một cái núi
non bộ nhỏ trong cái bể con bằng xi măng và hai dẫy chậu trồng đủ các thứ lan. Cũng
như nhiều người rỗi khác, ông Cả có cái ham mê những công việc tỉ mỉ. Sớm chiều
lúc nào tôi cũng thấy ông lom khom ở ngoài sân, cúi mình tỉa xén các chậu lan
hay sửa sang non bộ. Thật là một dịp trọng vọng nếu chậu lan có chúm một dò
hoa. Phải nhìn vẻ vui sướng trên mặt ông lúc bấy giờ mới hiểu. Ông gọi chúng
tôi ra xem hoa, với cái tự kiêu của một chủ nhân ông khéo léo; rồi hàng giờ ông
đứng lặng ngắm chậu lan, dường như để đợi chờ bông hoa nở.
Sân gạch ngay chỗ cửa sổ buồng học chúng tôi trông ra, và lúc
nào ngửng lên trên sách, chúng tôi cũng thấy bóng ông. Sự chăm chút âu yếm và cẩn
trọng của ông làm chúng tôi buồn cười. Nếu không có anh Hòe cùng ngồi đấy,
chúng tôi đã bàn định tinh nghịch đùa ông một chuyến.
Bữa cơm họp đông đủ cả nhà: chúng tôi, anh Hòe và ông Cả ngồi
ăn cơm nhà trên, còn bà Cả với hai cô con gái và đứa em nhỏ ăn riêng dưới bếp.
Hai mâm cơm khác nhau: bữa cơm chúng tôi ăn ngày nào cũng có thịt cá, còn bữa
cơm ở dưới nhà chỉ toàn rau muống và đậu phụ. Không bao giờ chúng tôi thấy có
món ăn khác, và có lúc chúng tôi thầm phàn nàn cho sự kham khổ của bà Cả và hai
cô con gái. Vẻ xanh xao của Lan và Huệ không làm chúng tôi ngạc nhiên. Đó là
hai thiếu nữ lặng lẽ và kín tiếng, không lúc nào cười nói to.
Bởi vậy tuy hai cô cũng trạc tuổi với chúng tôi, tôi cũng
không để ý đến. Ở trong buồng học trông ra, thỉnh thoảng tôi thấy bóng Lan đi
qua sân xuống nhà dưới hay với tay múc nước trong bể. Nhưng cách đi đứng khép
nép và cách phục sức nhã nhặn của cô không gợi ý chúng tôi bao giờ.
Chúng tôi ở trọ nhà ông Cả đã được ngót hai năm. Tôi thích ở
đấy, giữa những người giản dị, và riêng đối với tôi, ông Cả rất có cảm tình.
Anh Hòe là một cậu học trò rất đần và dốt, chậm trí khôn;
cùng vào học mà tôi lên lớp nhất, anh mới học lớp nhì. Bởi vậy ông Cả nhờ tôi
rèn cặp cho anh ta, và bảo ban thêm. Tôi gắng làm công việc đó một cách chu
đáo, nên ông Cả tỏ ý biết ơn. Những lúc nào anh Hòe chậm hiểu bài hay làm tính
hỏng, ông Cả thường gắt bảo:
- Mày không xem cậu Bình đấy mà bắt chước. Cậu ấy học sáng
bao nhiêu, mà lại chịu khó nữa. Tôi lặng yên và tìm cớ lánh ra ngoài để anh Hòe
khỏi ngượng.
Từ đấy, tôi được gia đình ông Cả trọng vọng và yêu quý. Số tiền
trọ trả sòng phẳng, và những quà cáp mà mẹ tôi không bao giờ quên mang đến biếu
ông Cả mỗi khi lên thăm con, khiến bà Cả có ý biệt đãi tôi. Tiếng bà dịu đi và
trở nên êm ái mỗi khi nói với tôi; khi nào về muộn, bà dành phần riêng cho tôi
những món ăn ngon và một mâm cơm tươm tất. Hai bạn tôi ganh tị, thường nói mát:
- Thôi, sắp làm rể bà Cả đi thì vừa. Cho chúng tao ăn cỗ cưới
với nhé!
Tôi mỉm cười không trả lời, vừa nghĩ đến cô gái cả bà chủ trọ:
cô thiếu nữ ấy không làm tôi có chút ý gì. Mà thật ra, tôi cũng không biết mặt
mũi cô ta thế nào cả: tôi chưa bao giờ nhìn kỹ cô ta.
Về cuối tháng tám năm ấy, sau ngày nhập trường ít lâu, một việc
xảy đến làm náo loạn các học trò: một thiếu nữ, cô Bích, vào học lớp nhất lẫn với
bọn con trai. ở Thái bấy giờ trường con gái chưa có lớp trên, mà cô này đã học
hai năm liền ở lớp nhì rồi. Cha mẹ cô không thể gửi cô lên Hà Nội, bèn xin cho
cô vào học trường con giai. Sau khi đắn đo mãi, ông đốc trường bằng lòng để cô
học lớp nhất. Ngày đầu cô đến trường, bọn học trò thầm thì bàn tán và chỉ tay về
phía cô. Ngay thày giáo chúng tôi cũng có vẻ ngượng nghịu. Nhưng chỉ bọn học
trò chúng tôi là xôn xao nhất. Chúng tôi không thể quên được có một người con
gái lẫn vào trong lớp. Cô Bích lại đẹp và rất có duyên. Tất cả lớp ra công cố sức
để bắt chim cô. Những bức thư tình gửi đi như bươm bướm. Chính tôi, tôi cũng
yêu thầm nhớ vụng cô ta. Và vì thế mà tôi bắt đầu để ý đến các cô thiếu nữ.
Rất lâu, việc cô Bích vào học là đầu đề câu chuyện trong bữa
ăn của chúng tôi. Chúng tôi thuật lại cho nhau nghe những cử chỉ của cô và của
những anh mê cô. Anh Hòe cục mịch quá, không biết nói gì về chuyện ấy, nhưng
ông Cả, tuy ngày thường rất đạo mạo, cũng thỉnh thoảng tự cho phép một câu nói
đùa hóm hỉnh. Ông vuốt hai bên mép râu và nhìn chúng tôi cười một cách tự đắc.
Tiếng ồn ào của chúng tôi đến tai bà Cả ở gian bên, và bà cũng chen vào một câu
nói:
- Cô ta ở đấy thì học với hành gì được. Không khéo lại tằng tịu
với anh nào thôi.
Ngưng một lát, bà lại hỏi đùa:
- Sao cậu Bình không nhân ngãi phăng với cô ta có được không?
Tôi chưa kịp trả lời, hai anh bạn tôi đã nhao nhao lên đáp:
- Có, có đấy ạ. Cô ấy để ý đến anh Bình lắm ạ, vì anh ấy học
giỏi nhất lớp.
Tôi toan cãi, nhưng lại thôi, lòng cũng hơi thích vì lời nói ấy.
Một lát yên lặng theo sau câu chuyện. Rồi có tiếng thanh và nhỏ của con gái bên
kia. Cô Lan nói chuyện với mẹ; tôi lắng tai chú ý, nhưng tiếng nói khẽ quá,
không nghe rõ gì cả.
Một hôm giờ ra chơi, anh Ngạc, người bẻm mép và láu chuyện nhất
lớp, bỗng tự dưng vỗ vào vai tôi, bảo:
- Sáng nay nhân tình mày ra phố mua sắm cho mày ăn phải
không?
Tôi ngơ ngác chưa hiểu Ngạc nói gì, thì anh đã nhìn tôi nháy
một bên mắt rất ý nghĩa, tiếp:
- Lại còn vờ mãi. Cô Lan con ông Cả chứ gì!
Rồi hắn quay lưng bỏ đi, để tôi đứng sững người, yên lặng;
tôi chưa kịp cãi lại điều gì.
Về đến nhà, tôi thấy trong buồng học, ngay trên bàn về phía
tôi ngồi, một đĩa sắn gọt sẵn để đấy. Câu nói của Ngạc trở lại trí nhớ tôi, làm
cho tôi ngạc nhiên. Làm sao hắn ta biết được cô Lan mua sắn, và để phần cho
tôi? Vừa lúc ấy, anh Chi đi học về, chạy vào. Thấy đĩa quà, anh kêu lên:
- Á sắn! Trông ngon quá.
Không lưỡng lự, anh cầm lấy ăn liền. Cử chỉ ấy khiến tôi khó
chịu.
- Anh biết sắn của ai đấy mà cũng ăn?
Chi cầm miếng sắn cắn dở, quay lại phía tôi:
- Không phải sắn của anh à?
- Không. Tôi không biết của ai để đấy.
Nghe thấy tiếng chúng tôi nói, bà Cả ở ngoài sân bước vào:
- Các cậu cứ ăn đi. Sắn của em nó mua phần các cậu đấy.
Khi bà Cả ra rồi, Chi nhìn tôi với một vẻ trêu nghịch, vừa cầm
miếng sắn nữa trên đĩa:
- Cô ấy phần riêng anh đấy, chúng tôi ăn có được không?
Bực mình, tôi không trả lời, yên lặng ngồi xuống ghế. Chi
không nhìn tôi nữa, và anh cúi mình ăn sắn với một vẻ khoan khoái rất rõ rệt.
Tôi nhìn trộm anh ta. Tự nhiên tôi nghi cho Chi và Hoạt đã đặt điều thêu dệt về
tôi với các bạn ở trường. Hai anh đều là những người lém và hay bịa chuyện lắm.
Từ hôm ấy có những cái săn sóc nho nhỏ tỏ rằng cô Lan chăm
chú đến tôi. Đi học về, bao giờ tôi cũng thấy một vài thứ quà dành sẵn, để ngay
trên bàn chỗ tôi vẫn ngồi. Có khi một bó hoa tươi cắm trong ống bút. Sách vở
ngăn nắp và sạch sẽ khiến cho tôi biết cô Lan có vào buồng học lúc chúng tôi đi
vắng. Tuy vậy, tôi cũng không dám chắc hẳn rằng Lan để ý đến tôi; tôi cũng
không bao giờ cố ý giáp mặt nàng.
Một buổi chiều, chúng tôi ra vườn đằng sau nhà. Bấy giờ đầu
tháng chín, hai cây hồng ở góc vườn trĩu những quả. Anh chị em Lan đang cầm
quèo trẩy. Chúng tôi bước lại gần. Anh Chi nói:
Lan lặng yên cầm quèo với một cành cao. Thân thể trẻ tươi và
dẻo dang của nàng vươn cong dưới bóng cây, và tấm áo mảnh căng sát để phô hẳn
những đường mềm mại. Khi nàng hái chùm quả xuống, Chi và Hoạt xúm lại cướp ngay
trên tay nàng những quả ngon. Tôi vẫn đứng riêng ra, và thèm muốn cái vẻ tự
nhiên của hai người bạn. Nhưng sau cùng, Lan đến gần bên, đưa cho tôi một quả
ngon nhất mà nàng đã giấu trong lúc các bạn tôi tranh. Tôi giơ tay đón lấy và
ngón tay tôi chạm vào ngón tay nàng. Lan nói khẽ:
- Anh cầm lấy.
Đôi mắt nàng nhìn tôi, tôi bỗng rung động cả người; đôi mắt
nàng phản chiếu một tình yêu mãnh liệt và tha thiết quá. Tôi hiểu ngay rằng
nàng yêu tôi. Tự nhiên, một sự cảm động tràn lấn vào người; tôi cũng nhìn lại
nàng. Nét mặt của Lan lúc bấy giờ tôi mới biết rõ. Nàng không đẹp, nhưng khuôn
mặt dễ coi, và lúc này nàng có một vẻ xinh xắn đáng yêu, một cái duyên tươi thắm
và kín đáo. Trước tôi, nàng cúi mặt xuống; một nỗi e thẹn làm ửng hồng hai gò
má. Khi nàng quay đi, tôi nhìn theo khen phục cái dáng điệu uyển chuyển của
nàng.
Sau buổi ấy, tôi biết chắc chắn ý tứ của nàng đối với tôi.
Lan tìm hết cách làm cho tôi vừa lòng. Những sự chăm nom săn sóc riêng của nàng
làm tôi tự kiêu. Đôi khi, nàng cố ý tìm cách gặp tôi. Những lúc tôi đi học về,
tôi thấy nàng như tình cờ ra đứng ở ngõ. Khi tôi đi qua, nàng khép nép vào bên
tường và nhìn tôi mỉm một nụ cười sung sướng. Tôi cũng mỉm cười trả lại nàng;
tôi còn trẻ và tình yêu của một cô con gái khiến tôi tự đắc.
Một đêm giữa tháng, tôi ngồi buồn trong buồng học, không biết
làm gì. Cả nhà đã đi ngủ, và anh Chi với anh Hoạt đi xem tuồng vắng. Tôi ngồi gần
bên cửa sổ trông ra sân. Ở ngoài, trăng rằm vằng vặc, tường vôi sáng trắng lên
chói lọi. Hai dãy chậu lan cắt bóng xuống mặt sân, và các lá lan đen sẫm lấp
lánh ánh trăng cong. Thời khắc rất êm dịu và thú vị. Tôi lặng yên hưởng luồng
gió mát của ban đêm.
Bỗng nhiên một bóng người len vào các chậu cây, rồi tôi nghe
thấy tiếng nước khẽ rớt xuống. Cô Lan tưới hoa. Tôi nhớ mỗi khi chậu lan có dò
hoa nở, ông Cả lại bắt nàng tưới ban đêm. Có khi, khuya lắm, chúng tôi hãy còn
nghe thấy tiếng cô ở ngoài vườn. Một ý ham muốn bỗng đến chiếm lấy tâm hồn tôi.
Mùi thơm nhẹ và sắc của hoa lan thoang thoảng ở ngoài. Lan vẫn cúi mình trên chậu
cây, dường như không biết có tôi bên cạnh. Tuy vậy, tôi đoán rõ sự cảm động của
nàng. Tôi đến bên cạnh nàng khẽ gọi:
- Lan, em Lan...
Tôi để tay lên tay nàng. Lan rung động cả người, toàn thân
nàng mềm lại. Nàng ngả người trên vai tôi... Tôi biết rằng từ đây Lan sẽ là một
vật của tôi, và tôi muốn làm gì nàng cũng được.
Sau độ ấy, tính nết nàng hình như đổi hẳn, hay bây giờ nàng mới
biểu lộ cái tính nết thực của nàng ra. Nàng không còn là cô gái lặng lẽ và kín
đáo trước kia nữa. Lan nói năng luôn miệng và tiếng cười của nàng vang lên
trong nhà; mắt nàng sáng lên, và hơi một chút việc cũng làm cho nàng vui sướng.
Bà Cả lấy làm lạ về con và nhiều khi bà định ngăn cản cái vui tràn lan ấy:
- Ôi! Con Lan độ này làm sao ấy. Không biết có gì mà vui vẻ
thế.
Hai bạn tôi hình như hiểu biết. Họ thường nhìn tôi với một vẻ
trêu nghịch và cười với nhau một cách tùng đảng. Tôi làm lơ như không biết gì.
Ái tình đã khiến Lan thành một người khác. Tâm hồn nàng phô
bày ra rõ rệt. Nàng thành ra con trẻ và ngây thơ quá. Nàng tưởng làm tôi vừa
lòng bằng những cử chỉ săn sóc âu yếm. Những thức quà liên tiếp nhau trên bàn học,
khiến chúng tôi ăn no bỏ cả cơm. (Chỉ béo cho hai anh bạn tôi, họ được hưởng tự
nhiên và lại còn có chuyện để chế giễu tôi nữa). Lúc nào nàng cũng nghĩ cách để
chiều ý tôi. Những cử chỉ vụng về của nàng khiến tôi vừa cảm động lại vừa ngượng
với anh em. Nhưng Lan hình như không nhận thấy.
Một buổi chủ nhật, mấy người bạn đến rủ chúng tôi đi chơi. Vừa
đi qua chợ ở đầu phố, bỗng thấy Lan tất tả chạy theo, gọi. Tôi dừng lại, cau
mày, không bằng lòng. Nàng trông lên, và lúc bấy giờ hình như mới biết tôi
không đi một mình. Hai má đỏ bừng vì thẹn. Lan lúng túng:
- Anh... anh cầm lấy cái này mà ăn.
Nàng giở trong bọc áo mấy bẹ ngô nướng vừa mua ở chợ.
Tiếng cười của các bạn tôi vang lên. Bực mình, tôi đâm gắt:
- Ai bảo cô cho tôi? Tôi không dùng cái của ấy.
Lan sững người, đứng lặng nhìn. Tôi biết tôi đã làm phật ý
nàng, nhưng ai lại đem cho quà giữa phố như thế. Anh Chi hỏi lỡm:
- Sao, của chị ấy mua cho mà anh lại chê à?
Họ cười với nhau, rồi Hoạt giới thiệu với mấy người bạn:
- Nhân tình đẹp của anh tôi đấy.
Tôi không trả lời, khó chịu. Lúc về, tôi cố ý tránh nàng, và
giữ vẻ mặt giận. Nhưng Lan vẫn trẻ con và vô lý như cũ.
Ngày mồng năm tháng năm, không biết nghĩ thế nào, Lan đưa tặng
tôi một bộ bùa bằng vóc nhiễu xanh đỏ. Đó là công trình tỉ mỉ mà nàng đã thức
suốt đêm để khâu. Trông thấy vật ấy rõ ràng để trên tập sách của tôi, anh Chi
và Hoạt rũ ra mà cười. Họ chuyền tay nhau xem quả đào và quả ớt sặc sỡ ấy, và
những câu mỉa mai lại gấp đôi lên. Xấu hổ, tôi giằng lấy và vứt ra ngoài cửa sổ.
Cái bùa túi rơi ngay vào rãnh nước.
Chiều đến, khi gặp Lan, tôi thấy nàng nhìn tôi có vẻ âm thầm
oán trách. Vừa bực mình cho tôi lại vừa bực mình cho nàng, tôi lặng yên giả vờ
lãnh đạm rồi tránh mặt ra chỗ khác.
Ông bà Cả đã bắt đầu nghi ngờ một sự gì. Điều ấy khiến tôi lo
ngại. Tôi đã nhiều lần bảo nhỏ Lan phải kín đáo. Nhưng mặc những điều khuyên nhủ
cẩn thận của tôi, Lan hình như không thể giữ gìn được. Nàng có một tâm hồn giản
dị và quê mùa trong tình yêu. Lan làm quà cho tôi những thức rất buồn cười và
vô lý, và tỏ vẻ ngạc nhiên khi thấy tôi không bằng lòng:
- Những thứ ấy em biếu anh, anh không thích ư?
Biết không thể làm nàng hiểu được, tôi chỉ trả lời:
- Tôi không thích cô cho tôi cái gì cả.
Sự yêu mến của tôi với nàng có lẽ Hoạt và Chi đã kể cho nhiều
người nghe rồi. Ở trường các bạn học nhiều lần đã nói bóng gió xa xôi đến. Câu
chuyện cái bùa túi ngày mồng năm họ đã biết. Ngạc, một hôm, tự dưng đến thò tay
vạch áo tôi ra, bảo:
- Nào, xem cái bùa túi của mày đâu nào...
Tôi giận dữ gạt hắn ra, quay đi. Ngạc chế với:
- Ê, ê, nhớn thế kia mà còn đeo bùa túi kia!
Những lời chế giễu ấy làm tôi bực tức đến cực điểm. Tôi thầm
trách Lan đã gây cho tôi những nỗi khó chịu ấy. Tình yêu mộc mạc của nàng bắt đầu
đè nén tôi. Những cách yêu mến săn sóc của nàng chỉ làm tôi bận bịu.
Tôi bắt đầu tìm cớ tránh nàng. Lan, trái lại, càng quấn quýt
lấy tôi. Lòng ham mê khiến nàng quên hết cả giữ gìn. Hễ gặp tôi chỗ khuất là
nàng nhẩy đến ôm lấy, và tôi khó khăn mới gỡ được ra. Chúng tôi như thế đã suýt
bị ông bà Cả bắt gặp mấy lần.
... Những vẻ chế giễu của các bạn học và những câu mỉa mai lại
thoáng qua trong trí. Tôi không còn cái yên tâm để sẵn sàng hưởng tình yêu nữa.
Tôi vội xa nàng. Lan không hiểu, và những câu trách móc, tuy rất kín đáo, với
những giọt nước mắt của Lan mỗi khi thấy tôi thờ ơ, chỉ càng khiến tôi khó chịu
thêm.
Một buổi chiều, cả nhà đi ăn cỗ vắng, Hoạt và Chi sang Nam Định
chơi. Tôi ở ngoài về thấy mâm cơm chờ sẵn ở nhà với hai đôi đũa và hai cái bát.
Lan đứng khuất một chỗ khúc khích cười. Rồi, như con chim non, nhảy nhót chạy
ra nắm lấy tay tôi mắng:
- Hôm nay cậu về muộn quá! Cơm nước nguội cả rồi!
Câu trách cợt đùa, nàng cố lấy giọng đứng đắn để giống như lời
người vợ trách chồng. Tôi buồn cười, nhưng cau mày không đáp.
Lan nhìn tôi như đứa trẻ dò ý người lớn:
- Gớm, làm gì mà lầm lầm cái mặt thế? Thôi, tôi xin cậu đi.
Nàng bưng miệng cười, mở lồng bàn, rình sự bằng lòng của tôi
trước những món ăn khéo làm mà nàng biết là tôi vẫn thích.
Nhưng tôi vẫn không nói. Tôi uể oải vào buồng bên, ngồi sau
bàn học giở sách ra coi. Biết nàng đang tiến lại gần, tôi cũng không quay lại.
- Anh Bình sang xơi cơm.
Tôi không đáp, nàng lại mời:
- Mời cậu Bình đi xơi cơm... Xin mời cậu Bình đi xơi cơm ạ!
Tiếng cười nàng giòn giã reo lên sau câu nói ấy. Nàng chạy đến
bên định kéo tôi dậy, nhưng nét mặt nghiêm nghị của tôi bắt nàng ngừng im.
Vẻ sững sờ của nàng và sự oán trách buồn rầu ứa trên đôi mắt
khiến tôi có ý ái ngại cho nàng, song tôi cũng nói:
- Được, cô cứ để mặc tôi, tôi chưa muốn ăn.
- Không, chốc nữa tôi ăn cũng được.
Nàng toan nói, nhưng sau cúi đầu im lặng, nhìn tôi một lần nữa
rồi quay ra.
Tôi ăn cơm một mình, ăn rất nhanh, và không để ý đến sự giận
dỗi của Lan; xong bữa tôi đi chơi tức khắc.
Ở ngoài phố, tôi gặp Chi và Hoạt bên Nam về, Chi làm bộ ngạc
nhiên:
- Kìa sao không ở nhà tự tình?
Hoạt thêm một câu:
- Ông bà đã giận nhau chứ gì?
Rồi cả hai nấc lên cười. Tôi cau mày để đáp lại.
Đêm hôm đó tôi bực mình và trằn trọc không ngủ được. Nghĩ đến
tình yêu của Lan đối với tôi, nghĩ đến bữa cơm chiều, tôi hơi lấy làm hối hận,
và bởi thế lại càng thấy bực mình thêm.
Sáng hôm sau tôi nghe thấy bà Cả hỏi:
- Lan, mày mệt đấy à?
Tiếng Lan đáp:
- Thưa đẻ không ạ.
Khi Lan ở dưới nhà đi qua sân, tôi thấy nàng mặt rầu rầu, hai
mắt quầng thâm, dáng điệu lặng lẽ và chán ngán. Nàng xách cái thùng tưới đến để
bên bể nước và hình như cố tình giữ lại trong lòng những tiếng thở dài.
Tôi thấy lòng nao nao vừa bực vừa buồn, như thấy một sự gì êm
đẹp đang mất đi mà không còn can đảm giữ lại được nữa.
Từ hôm ấy, Lan lại yên lặng như trước. Nàng ít nói và cũng
không hay gặp mặt tôi. Nàng tỏ ra một thái độ đúng mực, lãnh đạm và lúc nào
cũng buồn rầu. Sự đó để cho tôi được bình yên, nhưng cũng làm cho tôi phật ý.
Tôi tưởng nàng chỉ thế trong ít bữa, chắc có buổi nàng không gan được nữa, sẽ
phải tìm đến tôi, sẽ phải hỏi han tôi, và sự chờ đợi cái lúc nàng làm lành với
tôi lại càng khiến tôi tức bực trong sự kiêu hãnh.
Cùng ở một nhà, chúng tôi như người xa lạ, và lâu dần, nghĩ đến
nàng, tôi thấy lòng dửng dưng. Hơn một tháng trời thỉnh thoảng mới trông thấy
nhau, Lan với tôi thản nhiên hỏi nhau hay trả lời những câu không giấu một ý tứ
gì thân mật hay hờn giận.
Tôi cũng không để mắt đến dung nhan nàng nữa, và đôi khi tưởng
tượng đến chuyện cũ, tôi ngạc nhiên như tìm thấy một tính tình dị kỳ.
Rồi mùa thi tới nơi. Chi, Hoạt và tôi chăm chỉ luyện tập. Sự
ganh đua sốt sắng cuối năm là điều quan tâm hoàn toàn của người đi học. Ở nhà
ông Cả trong những bữa cơm, chỉ nói đến chuyện thi cử và bàn bạc đến những đầu
bài khó hay dễ sẽ ra trong kỳ thi này.
Lan bị xóa bỏ hẳn trong đời tôi. Không bao giờ sự lãng quên lại
mau chóng như trong tâm trí tôi hồi bấy giờ, và không bao giờ cuộc tình duyên của
tuổi thanh niên lại đơn bạc đến như thế. Giữa cô con gái ông chủ nhà cùng với
người ở trọ học, hình như không có một tình nghĩa nào cả và cái đêm trăng ân ái
trước đây dăm ba tháng chỉ là hình ảnh hờ hững của một giấc mộng thoáng qua.
Hồi ấy kỳ thi cơ thủy chưa mở ở Thái Bình. Tôi cùng các bạn hữu
phải sang trường Nam và ở luôn đó bốn ngày để chờ đợi kết quả. Ngày thứ năm tôi
trở về Thái với cái mừng được trúng tuyển và tức khắc nghĩ đến sự thu xếp về
quê. Anh Hòe, con ông Cả, cũng may mắn như tôi, và hai anh Chi và Hoạt. Tôi để
cả tâm trí vào sự vui vẻ của mọi người. Vợ chồng ông chủ làm một bữa cơm sang
trọng như bữa tiệc để khao chúng tôi. Cả nhà ngồi ăn trừ cô Lan khó ở từ mấy
hôm trước. Tôi hỏi thăm qua quýt lấy lệ và cười nói giảo hoạt nhất nhà. Chi thỉnh
thoảng trêu tôi bằng một câu ranh mãnh khác. Một lần, khi rượu ngà ngà say, và
nhân thấy Chi đứng làm mối xin cô Lan cho tôi, ông Cả cười thích chí:
- Cái gì chứ cái đó thì được. Nhưng ai lấy con gái tôi thì phải
ở gửi rể ba năm.
Tôi "xin vâng" và cười một cách rõ ràng tỏ ra tính
cách đùa cợt của câu chuyện.
Tôi không kịp có thì giờ hối hận cho sự tàn ác vô tình có thể
thấy trong câu đùa cợt. Tôi cũng không muốn nghĩ rằng Lan lúc đó có thể đau
lòng vì tôi. Lan không còn liên lạc với tôi nữa.
Hôm sau tôi từ giã nhà ông chủ, lòng hớn hở tưởng đến sự mừng
rỡ của mẹ tôi lúc thấy tôi về. Trong cái thì giờ đi xe từ Thái đến bến Tân Đệ
và đợi tầu ở Nam qua, tôi mải nghĩ chuyện nghỉ hè, chuyện lên Hà Nội học ban
Thành chung, không một lúc nào có một ý mến tiếc cô thiếu nữ con gái ông Cả.
Khi tàu Nam tới tôi đáp thuyền lên, chọn chỗ cất hành lý và
vui vẻ ngó đầu ra trông một lần cuối cái bến tôi vẫn đi về trong mấy năm qua.
Hai dãy nhà lá bồng bềnh ở hai con đường quạnh quẽ đang thong thả lùi lại và nhỏ
dần. Một sự bâng khuâng nhẹ nhàng dìu tâm hồn người đến những tình cảm man mác,
tôi bỗng thấy cả người xúc động vì nhận ra trong bọn người lác đác ở bến một
cái xe đỗ vội, và trên xe bước xuống một người con gái ngơ ngác nhìn về phía
tôi.
Tầu đã xa hẳn mạn sông. Mặt người trên bến không nhìn rõ. Tuy
vậy, tôi không thể lầm được, người thiếu nữ kia chính là con người tội nghiệp
đã hờn giận tôi và thương tôi.
Chỉ một lát, bến đò Tân Đệ đã khuất hẳn ven sông. Từ đó, tôi
không gặp Lan lần nào nữa.
Sợi tóc
Anh Thành nhỏm dậy, nghiêng mình chống khuỷu tay xuống giường
rồi bắt đầu nói với một giọng trầm và thong thả khiến người nghe hiểu được hết
các ý tứ của câu chuyện:
Tôi có một người anh họ rất giầu và rất ngốc (có lẽ mình cho
anh ta là ngốc, bởi vì hắn không xử sự như mình, không có những quan niệm về cuộc
đời như mình; nhưng thật ra biết đâu cách ăn ở của anh ta lại không khôn ngoan
hơn, bởi vì anh ta đã giầu và sung sướng?). Tên anh ta là Bản, Bản rất phục
tôi, coi tôi là một người sành sỏi, thạo đời và nhất là thạo các ngón ăn chơi.
Bởi vậy, động có việc gì, hoặc là muốn mua bán cái gì, anh ta đều không quên đến
hỏi tôi trước.
Hôm ấy, Bân đến rủ tôi cùng đi mua một cái đồng hồ. Anh ta muốn
mua hạng thật tốt, và nhờ tôi xem hộ. Hai chúng tôi đến hiệu Chabot ở phố Tràng
Tiền. Đồng hồ ở hãng này thì không còn phải nói gì nữa: Thật là những đồng hồ
các hiệu có tiếng, có bảo hành chắc chắn và cố nhiên là giá đắt. Tôi chọn cho hắn
ta cái đồng hồ đeo tay hiệu Movado, xuống nước hay vùi cát cũng không hề gì.
Chiếc đồng hồ trông rất đẹp. Tôi thấy anh ta mân mê cầm lên ngắm nghía, xem chừng
cũng muốn mua lắm. Nhưng cái tính hà tiện của anh ta lại thắng cái thích, nên rồi
lưỡng lự một lát, anh ta trả lại nhà hàng, kéo tôi đi ra và bảo:
- Đẹp thì đẹp thật, nhưng mà đắt quá, anh ạ. Thôi, chúng ta lại
các hiệu khách mà mua thì hơn.
Tôi yên lặng gật đầu, và theo đi, cũng chả muốn nói gì. Trong
bụng nghĩ anh chàng này thật là ngốc, có tiền mà không biết chơi đồng hồ tốt. Lại
kiệt nữa. Không biết hắn để tiền làm cái gì?
Vào một hiệu ở Hàng Ngang, sau khi mặc cả ráo riết từng hào,
anh ta bằng lòng mua một cái đồng hồ hiệu không mấy ai biết tiếng. Hắn có hỏi ý
kiến tôi, song tôi cũng ừ hữ bảo dùng được cho xong chuyện, vì hắn có mua được
thứ tốt hay không, bấy giờ tôi thực không thấy quan hệ mấy.
Lúc trả tiền, tôi thấy hắn giở ra một cái ví da lớn, phồng chặt.
Hắn đếm giấy bạc thong thả và cẩn thận. Thoáng nhìn qua, tôi cũng biết trong ví
nhiều tiền lắm: ngoài số tiền bạc lẻ hắn mang ra trả, tôi còn thấy gấp ở ngăn
trên đến năm, sáu cái giấy bạc một trăm nữa, những giấy bạc mới, màu còn tươi
nguyên - "Quái, thằng cha này làm gì mà lắm tiền thế? Mình thì chả bao giờ
có đến được một trăm bạc bỏ túi!" Tôi nghĩ thầm và so sánh thế.
Mua xong đồng hồ. Bân rủ tôi đi ăn:
- Ta lên hiệu chén, rồi lát nữa làm một chầu chứ, - hắn vỗ
vào túi - tôi có đủ tiền đây!
Chúng tôi vào hiệu. Bân ăn vui vẻ lắm, có lẽ hắn vừa ý vì cái
đồng hồ mua rẻ. Tôi thì trong óc cứ vơ vẩn cái ý nghĩ sao một thằng ngốc như hắn
- tôi thấy hắn càng ngốc - lại có lắm tiền thế, còn mình...
Tuy vậy, ý nghĩ cũng không làm tôi ăn mất ngon. Tôi tỏ mặt
sành, gọi những thức ăn quý và đắt tiền, và hai chúng tôi uống rượu say sưa.
Cơm xong, Bân đưa tôi xuống Vạn Thái, vào nhà một người nhân
tình của hắn. Hình như đã lâu không được đi hát, nên hắn có vẻ tha thiết và
sung sướng đến đáng ghét. Về phần tôi, không thấy hứng lắm, - đi chơi với một
anh có nhiều tiền mà mình lại khinh là ngốc, không có thú vị mấy - nhưng chẳng
lẽ lại bỏ hắn nửa chừng. Tôi định bụng ở chơi qua quýt đến nửa đêm thì về.
Nhà hát, ngoài cô nhân tình của Bân, các con em khác trông
cũng khá. Tôi nằm bên bàn đèn nói vài câu chuyện tầm phơ. Còn Bân, hắn không
nghe hát hiếc gì cả. Ngồi nói chuyện với tôi một lát lấy lệ, rồi hắn cùng với
cô nhân tình vào buồng trong đi nằm một chỗ. Hắn không quên - tính cẩn thận của
anh kiệt! - đem cả cái áo tây trong có ví tiền vào chỗ nằm, vất trên thành đầu
giường.
Một mình tôi ở ngoài đâm chán. Nằm một lát rồi tôi cũng đứng
dậy sửa soạn ra về; Bân vẫn ở trong màn, nói vọng ra giữ lại:
- Anh hãy ở chơi đã, về làm gì vội. Ngày mai chủ nhật cơ mà.
- Thôi, tôi phải về. Sáng mai còn có việc.
Vừa nói tôi vừa với cái áo tây của tôi treo trên mắc. Bỗng
nhiên có cái gì chuyển mạnh qua tim: tay tôi yên hẳn lại; tôi vừa mới nhận ra rằng
cái áo tôi đương cầm không phải là áo của tôi. Thì ra lúc mang áo vào giường nằm,
Bân đã mang nhầm áo. Hai chúng tôi cùng mặc thứ hàng len giống màu, như vậy dễ
lẫn lắm. Tôi ghé nhìn vào phía trong áo thấy cái ví tiền ở túi thò ra ngoài một
ít. Cái ví tiền... mấy tờ giấy bạc...
- Ở chơi đã anh. Ở chơi sáng sớm mai về với tôi một thể.
- Ờ... ờ...
Tôi điềm nhiên treo cái áo vào chỗ cũ, quay ra. Mấy chị em
cũng phụ họa vào lời mời của Bân, nài nỉ:
- Tội gì mà về bây giờ anh, khuya và lạnh chết.
Tôi chỉ thoáng nghe thấy, trong trí như còn bận sự gì. Bâng
khuâng tôi lại gần giường; một chị nâng chén mời:
- Anh uống chén nước nóng. Rồi nằm xuống đây có hơn không?
- Ờ thì hẵng nằm một lát đã.
Tiếng Bân trong màn đưa ra:
- Phải đấy, đến mai hẵng về. Tôi bảo chị Lan phải làm thế nào
giữ anh ấy lại thì làm...
- Không... thể nào tôi cũng phải về, anh ạ...
Những lời đối đáp ấy cứ tự nhiên buột miệng ra, tôi không để
ý đến. Trước mắt tôi, mấy tờ giấy bạc một trăm gấp trong ngăn ví, hiện ra rất
rõ rệt. Lấy mấy tờ, độ hai tờ - tại sao lại hai? Tôi không biết - thật dễ dàng
quá. Tôi cứ việc điềm nhiên với lấy áo, mở ví rút ra hai tờ, rồi khoác áo ở
trên vai, ra ý sắp sửa về. Rồi chọn lúc mọi người vô ý - mà dẫu có ý cũng không
ai biết được - tôi đổi lấy áo của tôi vắt ở đầu giường Bân... Thế là xong, và gọn.
Mai dậy Bân biết mất chắc chẳng bao giờ dám nghi ngờ cho tôi. Mà nghi ngờ thế
nào được?
Tôi về từ đêm cơ mà! Vả lại cái áo đựng tiền hắn đã cẩn thận
mang vào giường ngay từ chập tối, vậy nếu có người lấy, thì chỉ có người nhà cô
đầu mà thôi. Mà người nhà thì cũng khó lòng đến đấy lấy được, họa chăng có ngay
cô nằm với Bân. ừ, có lẽ Bân sẽ nghi cho nhân tình của hắn lấy... Chắc thế. Tôi
mỉm cười: Bân sẽ không dám nói gì đâu; biết nhân tình lấy, hắn sẽ im lặng, sợ
làm cho nhân tình xấu hổ, và sợ làm tai tiếng chủ nhà. Hắn vốn tính nhát, với lại
hai trăm đối với hắn chắc chả là bao.
Tất cả những cách xếp đặt ấy diễn qua rất nhanh trong trí
tôi. Chỉ một thoáng thôi, tôi đủ tưởng trước được các việc xảy ra như thế, êm
thấm và yên lặng, và trôi chảy... dễ dàng quá, mà không còn sợ cái gì cả...
- Mời anh xơi thuốc.
Tôi giật mình đỡ lấy dọc tẩu. Cô Lan đã tiêm xong điếu thuốc
từ bao giờ, quay dọc sang mời. Mắt cô nhìn tôi âu yếm. Tôi đưa mắt nhìn xuống,
cầm lấy dọc hút. Điếu thuốc kêu vo vo, tiếng như ở đâu đưa lại. Qua làn khói trắng
tỏa ra, tôi tưởng nhìn thấy tập giấy bạc một trăm, còn mới nguyên gấp trong
ngăn ví. Hắn làm gì mà có lắm tiền thế? Lại mang để trong ví làm gì? Rõ anh
chàng ngốc không biết dùng đồng tiền, tiền ở trong tay hắn cũng uổng. Ngộ có đứa
lấy đi thì sao? Để thế có bữa mất thật...
- Anh nghĩ gì mà thần người ra thế? Say thuốc có phải không?
Lan để tay nhẹ nhàng lên người tôi, lẳng lơ đưa mắt hỏi. Tôi
giả vờ cười không đáp, rồi xoay nằm ngửa, nhìn lên trần nhà. Trong người bứt rứt
không yên... Lắng nghe thấy tiếng Bân thì thào và tiếng cười khúc khích của
nhân tình hắn trong màn. Chiếc áo vắt ở đầu giường - chiếc áo của tôi - chắc vẫn
còn y nguyên ở đấy.
Tôi tưởng tượng khi có hai trăm trong túi rồi, lên xe về điềm
tĩnh đi nằm ngủ. Sớm mai mất tiền, thế nào hắn chả về qua nhà mình. Hắn gọi cửa
vào, đánh thức mình dậy và bơ phờ bảo:
- Tôi mất hai trăm bạc tối hôm qua rồi, anh ạ...
Tôi thấy trước bộ mặt ngạc nhiên của tôi lúc bấy giờ - một vẻ
mặt rất tự nhiên, - và tôi hỏi: "Chết chửa, mất bao giờ? Ở đâu?" - Hắn
sẽ thuật lại buổi tối hôm nay, lúc mang áo vào giường, đến lúc thấy mất:
"Chỉ có con nhân tình tôi nó lấy thôi, anh ạ. Chả còn ai vào đấy nữa..."
- Thế giấy bạc của anh có biên số không?
Nếu hắn không biên số thì mình cứ việc tiêu tự nhiên! Vạn nhất
hắn có biên số rồi, thì bảo hắn đi trình cẩm. Nhưng mình sẽ tiêu ngay hôm ấy...
Một người như mình cầm tờ giấy trăm vào Gô Đa mua hàng, ai dám nghi ngờ?...
Tôi nhớ lúc ấy tuy vẫn nói chuyện với mấy cô em, tôi xếp đặt
đâu vào đấy rất chu đáo, phòng ngừa đủ mọi việc xảy ra. Chỉ còn việc lấy, và đổi
áo nữa là xong. Rất dễ.
- Ấy kìa, anh đi đâu đấy?
- Tôi đi về đây, mai có việc bận, không thể ở lại được.
Tôi đã nhổm dậy đến bên mắc, với áo, chiếc áo của Bân. Qua lần
vải tôi thấy chiếc ví kềnh kệnh răn rắn. Khoác áo lên một bên vai, tôi đi lại
trong nhà, bồn chồn nóng ruột. Một cô đầu lê guốc ra hé cửa, nhìn ra ngoài trời:
- Tối lắm. Phải vạ gì mà đi bây giờ anh ạ.
- Đâu xem nào...
Tôi cũng đến bên cửa nghiêng nhìn ra ngoài. Tay tôi đưa vào
trong áo, luồn vào khe ví, sờ vào mấy tấm giấy bạc. Tôi rùng mình. Mấy ngón tay
mân mê đầu tấm giấy, một cái, hai cái...
- Thôi, vào không gió, anh ạ. Vào nằm cho ấm...
Tôi bỏ tay ra - thong thả, không vội gì, - theo vào, cái áo vẫn
đè trĩu trên vai. Tôi ngồi ghé xuống cạnh giường, cầm chén nước lên nhấp, rồi lại
đặt xuống.
Tiếng Bân trong nhà cất lên:
- Ông ấy về rồi à?
Tôi đáp:
- Không, đã về đâu. Tí nữa.
Bân nói câu gì sau, tôi cũng không nghe thấy. Tâm hồn tôi lúc
bấy giờ thế nào, tôi không biết rõ. Tôi đứng lên, ngồi xuống, như một cái máy.
Tôi chỉ băn khoăn, bứt rứt, và thời giờ qua... tôi cảm thấy đi qua tâm hồn tôi
từ bên này sang bên kia... như thế không biết trong bao nhiêu lâu... Tôi khẽ thở
dài, đứng lên lần này thì nhất định.
- Về thôi. Không mai đi sớm lại nhọc chết.
Bân hỏi vọng ra:
- Ồ, anh về à? Mấy giờ rồi đấy nhỉ?
- Gần một giờ rồi. Anh cứ ở đây. Cả mấy cô này nữa, đi ngủ đi
cho béo mắt. Bận sau tôi ở lâu nhé.
Tôi đưa tay vuốt mái tóc một cô sán đến gần, hai tay để lên
vai tôi, mắt nhìn ra vẻ âu yếm. Hai cô khác ngồi yên trên giường, cũng đưa mắt
nhìn tôi như chờ đợi.
- Thôi đi ngủ đi.
Tôi gạt tay cô ấy ra, gấp cái áo tây trên cánh tay, rồi đi
vào phía giường Bân nằm. Tôi cúi xuống, tì vào thành giường - cố ý tì vào chỗ vắt
cái áo - nhìn vào trong, qua màn.
- Anh ở lại nhé - tôi mỉm cười - tri kỷ hết đêm nay cho nó sướng...
Cô nhân tình khúc khích trong chăn. Và Bân ngửa đầu trông
lên, tay với vào tấm màn:
- Mai nhé.
- Oui, à demain.
Nhưng tôi chưa quay ra. Tôi vẫn cứ tì mình trên thành giường,
lưỡng lự, một lát bấy giờ sao lâu thế. Rồi, không biết tại sao, bỗng nhiên:
- Áo anh đây này, đây là áo của tôi.
Và nói thêm bằng tiếng Pháp:
- Anh đếm lại tiền đi. Và để cẩn thận vào trong ấy.
Bân nhỏm nửa người dậy, cầm lấy áo:
- Merci, được rồi.
Tôi bước một bước lùi ra. Thế là hết. Bây giờ thì không sao đụng
đến ví được nữa. Tôi bần thần ngơ ngẩn, mặc lấy chiếc áo của tôi, và đội mũ...
Vừa gài khuy, tôi vừa nói mấy câu bông đùa vô vị với cô ả đứng ở chân giường sắp
tiễn tôi về. Tôi trùng trình uống nước và hút thuốc, muốn cái thời khắc này cứ
kéo dài ra mãi.
Đến khi ngồi trên xe về qua những phố khuya vắng vẻ, tâm trí
tôi mới dần bình tĩnh lại. Gió lạnh thổi mát trên vừng trán nóng, và cái cảm
giác mát ấy khiến tôi dễ chịu. Tôi nghĩ lại đến những cử chỉ và dự định của tôi
lúc nãy, thật vừa như một người khôn khéo lại như một người mất hồn. Tất cả những
cái đó bây giờ xa quá. Tâm trí tôi giãn ra, như một cây tre uốn cong trở lại
cái thẳng thắn lúc thường. Tôi cảm thấy một cái thú khoái lạc kỳ dị, khe khẽ và
thầm lặng rung động trong người, có lẽ là cái khoái lạc bị cám dỗ, mà cũng có lẽ
cái khoái lạc đã đè nén được sự cám dỗ. Và một mối tiếc ngấm ngầm, tôi không tự
thú cho tôi biết và cũng cố ý không nghĩ đến, khiến cho cái cảm giác ấy của tâm
hồn tôi thêm một vẻ rờn rợn và sâu sắc.
Sáng hôm sau tỉnh dậy ở nhà, tôi ngẩn ngơ nghĩ lại các việc tối
hôm trước, y như trong một giấc mộng, chứ không phải việc đã xảy ra... Tôi ngạc
nhiên tự hỏi sao mình hãy còn là người lương thiện, không phải là kẻ ăn cắp. Mà
tôi thú thực rằng nếu bây giờ tôi đã là kẻ ăn cắp, cái đó cũng không khiến tôi
lấy làm ngạc nhiên hơn. Mà còn là người lương thiện, tôi tự thấy cũng chẳng có
gì là đáng khen. Tôi nhớ rõ lúc đó không có một ý nghĩ nào về danh dự, về điều
phải, điều trái ngăn cản tôi, và khiến tôi đi vào con đường ngay, như người ta
vẫn nói. Không, không có một chút gì như thế. Cái gì đã giữ tôi lại? Tôi không
biết... Có lẽ chỉ một lời nói không đâu, một cử chỉ nào đấy, về phía này hay
phía kia, đã khiến tôi có ăn cắp hay không ăn cắp. Chỉ một sợi tóc nhỏ, một
chút gì đó, chia địa giới của hai bên... Tôi có tiếc đã không lấy hay không,
hay bằng lòng mình vì đã chống giữ lại cái ý xấu? Tôi cũng không tìm biết rõ
hơn. Hình như ý nghĩ ham muốn hay trù trừ tối ấy không phải là của tôi, hình
như của ai ấy, của một người nào khác lạ, khác với cái người thường của tôi bây
giờ...
Chúng tôi đều yên lặng. Anh Thành nói xong, với cái điếu hút
một hơi thuốc lào rất kêu. Rồi anh thở ra thong thả, mắt lờ mờ nhìn dõi theo
làn khói đi.
Người bạn cũ
Tôi với Khanh - người bạn duyên nợ trăm năm - đang ngồi cùng
bàn câu chuyện làm ăn, ấm nước chè giải khát pha đã hầu nhạt. Chuông đồng hồ điểm
mười một giờ; ngọn đèn lụt dần, dầu hỏa trong bầu do một tay rót có điều độ chỉ
cháy được đến thế là hết. Cảnh tịch mịch một đêm khuya ở tỉnh nhỏ thật buồn bã,
khiến tôi lại nhớ đến những đêm náo nhiệt, đầy ánh sáng ở Hà Nội.
Khanh sửa soạn sắp ẵm con đi nghỉ, thì bỗng có tiếng gõ cửa rồi
vú già vào.
- Thưa cậu, có người đàn bà nào hỏi cậu.
Tôi thất ý bảo:
- Sao vú không nói tôi vắng, bảo người ta lúc khác hãy đến có
được không?
- Thưa, người ấy có việc cần, con không dám tự ý.
Tôi ngạc nhiên ngửng lên nhìn vợ, thì Khanh cũng đang ngạc
nhiên nhìn tôi, đôi lông mày lá liễu đã bắt đầu díu lại. Tôi bảo vú già:
- Vú ra hỏi ai đã.
Người vú vừa quay đi thì Khanh đã sầm ngay mặt lại lườm tôi
mà rằng:
- Đàn bà, con gái, nửa đêm còn hỏi với han gì? Sao cậu không
sai vú già tống khứ đi cho rồi.
Ngay lúc ấy, người vú trở vào:
- Thưa cô Lệ Minh đấy, cậu ạ.
Tôi ngẩn người ra. Lệ Minh, người bạn đồng chí gặp gỡ ở Hà
thành ba năm về trước, sao nay cô lại về đây? Cô đến bí mật thực. Không biết cô
đến tìm tôi có việc gì trong lúc đêm khuya khoắt này? Đến nhà tránh nạn chăng?
Trong một buổi mà tấm lòng nhiệt huyết còn sôi nổi, tôi đã hứa lúc nào cũng sẵn
lòng giúp cô trong bước khó khăn. Lời hứa đó, và cái kỷ niệm một thời thiếu
niên hăng hái thoáng qua trí nhớ khiến tôi băn khoăn; một mối lo ngại bỗng
nhiên đến ám ảnh tâm trí làm tan nát cái yên tĩnh tôi đã giữ gìn trong mấy năm
này.
Vú già vẫn đứng đợi. Tôi bảo Khanh:
- Mợ vào trông em nó ngủ trước. Tôi phải ra có việc.
Rồi vội bước để tránh câu bấc chì mà tôi có thể đoán được,
tôi ra ngoài tiếp khách. Trông khách mà kinh ngạc, không biết có phải Lệ Minh
người cũ không. áo sa chùm ngoài áo cánh trắng càng làm rõ cảnh nghèo khổ ẩn ở
trong; hai túi nhét đầy những thứ lạ gì, há hốc miệng như kêu đói; một giải
lưng lụa đã ám màu xơ xác thoáng qua sợi sa thưa.
Tôi lại nhớ đến Lệ Minh ngày xưa, óng ả biết bao trong chiếc
áo vải rồng, đi đâu cũng cổ động dùng nội hóa mà chính cô hiến cái gương diễm lệ.
Ngay đến dung nhan cô xét cũng khác xưa, đôi mắt tinh nhanh
buổi trước bây giờ lờ đờ như bị ám sau cái màn lo nghĩ; đôi gò má hây hây nay
không biết vì tuổi hay vì phiền não ở đời, đôi má kia đã thành ra hóp lại, hai
gò má nổi cao, phải chăng như để tiêu biểu cho kẻ số phận vất vả long đong. Tôi
ngại ngùng, lâu chưa nói được câu hỏi han, cô cũng ra vẻ sượng sùng, e lệ; một
lát, cô khẽ nói:
- Mạnh quân chắc thấy em khác trước lắm.
Nào tôi có trách gì cô! Trong một phút nhìn sự thực, tôi hiểu
chính tôi thay đổi nhiều lắm, mà tự ghen với người nữ đồng chí. Cái thân trưởng
giả nửa mùa tôi nay đã nghiễm nhiên thành một người tòng sự công sở, họa chăng
có lo lắng cho vợ con đủ ấm no là mãn nguyện. Cái đời nghĩa hiệp lãng mạn đã
thuộc về thời quá khứ, cô đến đây thật là tiếng sét trong quãng bình minh. Rồi
không biết tự nhủ mình hay nhủ ai, tôi đáp:
- Vâng, người đời ta mỗi lúc một khác.
Lệ Minh như không để ý đến câu triết lý ngớ ngẩn ấy:
- Em đến đây muốn phiền ông anh một việc, chả biết ông anh có
sẵn lòng không?
Tôi hơi chột dạ. Không hiểu nhà nữ đồng chí này lại muốn bày
ra chuyện gì. Song cũng gượng đáp:
- Việc gì, cô cứ cho biết.
Lệ Minh bắt đầu thuật lại quãng đời vừa qua.
- Anh em bây giờ mỗi người một nơi, người nào lo phận người ấy.
Còn em thế cô, một thân lang thang nay đây mai đó, chẳng làm được việc gì, rồi
một buổi chán nản, yếu hèn, em đã đem thân gửi một nhà lái buôn.
Nghe thấy cô có chồng tôi như đỡ được một gánh nặng, dằn lòng
nghe nốt câu chuyện. Chuyện cô cũng giống như chuyện trăm nghìn gia đình éo le
khác. Gã lái buôn đã dối cô: gã đã có vợ cả. Cả, lẽ ghen tuông, cô vốn người học
thức, không chịu được phận tôi đòi, một hôm cô ẵm con lên đường tìm phương tự lập.
Cô đến nhờ tôi tìm cho một chỗ dạy tư, nhất được nhà nào chịu nuôi thày dạy con
ở nhà thì càng hay, vì cô chỉ mong được một chỗ "yên thân" là quí.
Cô nói xong, cúi nhìn đi chỗ khác, như tự lấy làm xấu hổ vì
cái điều mong mỏi tầm thường ấy. Yên thân! Bây giờ chúng tôi chỉ cầu có thế
thôi ư? Tự nhiên tôi thấy khó chịu trong bộ quần áo lụa, trong căn phòng của
tôi bày biện nào đỉnh đồng, tủ chè, sập gụ, những thứ đồ đạc làm nẩy vẻ thèm muốn
trong con mắt những người đồng sự ở cái tỉnh nhỏ này. Tôi không giấu được cái mối
thẹn thùng đưa lên làm nóng mặt. Tôi quay lại phía Lệ Minh vừa gặp lúc nàng
cũng đưa mắt nhìn tôi. Hai chúng tôi nhìn nhau ngượng nghịu.
Cô khẩn khoản thêm:
Tôi nhận lời cho qua chuyện. Song tôi cũng thừa hiểu, trước
cái hoạn nạn không xứng đáng kia, một lời hứa xoàng chẳng cũng quá ư nhạt nhẽo.
Không tìm được phương cứu giúp cô một cách kiến hiệu hơn, tôi tự thấy mình hèn
nhát. Nhưng biết làm thế nào? Mời cô ở lại đây ư? Tôi nghĩ đến cái giận dữ của
Khanh mà sợ: nàng chẳng sẽ làm tan hoang nhà cửa ra mất?
- Hỏi thế này khí không phải, cô sao không đến chơi sớm hơn một
chút?
Lệ Minh như mới hiểu mình đến giờ vô lý. Cô bối rối xin lỗi:
- Em chỉ còn nhớ chỗ ở ngõ huynh biên cho trước. Đến hỏi từ
sáu giờ tối, họ chỉ quanh quẩn, và em không thuộc phố tỉnh này thành ra cứ đi
vơ vẩn mãi. Và khi còn ở trên Hà Nội anh hay thức khuya lắm cơ mà. Anh thường vẫn
nói, đêm là ngày của bọn trí thức, em vẫn tưởng thế nên mới dám đường đột đến
đây.
Tìm công việc hộ cô, giới thiệu một thiếu nữ như cô vào một
gia đình nền nếp cũ, tôi cho là khó khăn, mà nghĩ không có can đảm làm. Giúp cô
cái vốn nhỏ để cô tìm cách tự lập, tôi vẫn cho là phận sự của tôi. Song mợ cháu
giữ chìa khóa, mà Khanh đâu có phải là người có thể lấy nghĩa khí mà chuyển được
lòng. Muốn tìm câu khuyên giải cô, song tôi thấy chính cần phải khuyên giải cho
tôi nhiều hơn, nên tắc cổ không nói được nên lời.
Đồng hồ đánh mười hai tiếng lanh lảnh trong đêm khuya. Tôi giật
mình nhìn Lệ Minh, lo sợ. Đã một giờ đồng hồ ở nhà ngoài rồi, chắc Khanh ngờ vực,
mà từ nãy đến giờ tôi chắc đã lẩm bẩm chán.
Lệ Minh như biết ý, đứng dậy xin cáo từ.
Tôi mở cửa tiễn cô ra ngoài. Trông cô đi khuất vào bóng tối,
tôi lại nhớ đến những ngày nào hồi còn trẻ vẫn cùng nhau hội họp khuya trong một
căn phố tối tăm ở ngoại ô Hà Nội.
Tôi đóng cửa trở vào, thấy Khanh vẫn còn giong đèn ẵm con ngồi
đợi trên ghế. Tôi vào, nàng kể lể lôi thôi, trách móc nào là không biết thương
vợ thương con, nào là đã ngần ấy tuổi - (tuổi mới có ba mươi!) - mà còn toan tính
những ai. Giọng Khanh tấm tức như bị điều gì khổ sở lắm, rồi nàng cúi mặt tỉ tê
khóc. Tôi phải liệu nhời khuyên giải mãi, nàng mới nín.
Khi nàng đã ẵm con vào màn đi nghỉ, khi cái yên lặng tịch mịch
của đêm khuya đã trở lại trong phòng, tôi cúi đầu suy nghĩ.
Từ cái dĩ vãng xa xôi thăm thẳm, tôi thấy hiện lên một hình ảnh
rõ ràng, hình ảnh tôi trong lúc còn niên thiếu, một thanh niên hăng hái, nhiệt
thành, bồng bột những điều hay, sự đẹp, lúc nào cũng mơ màng những việc thành
công to tát, một thanh niên chưa biết đến cái sự thực chua chát của cuộc đời.
Tôi lại nghĩ đến cái thân thế tôi bây giờ, một viên chức ở tỉnh
nhỏ, sống cái đời yên lặng, trưởng giả, một đời ăn no mặc ấm, không phải lo lắng
cái gì. Tôi hình như cảm thấy một sự ý hợp hơn.
Rồi tôi băn khoăn tự hỏi xem trong hai cái hình ảnh ấy, hình ảnh
người thiếu niên hăng hái và hình ảnh người trưởng giả an nhàn, cái hình ảnh
nào thật của tôi?
Tôi không dám trả lời.
Tập truyện ngắn "Gió đầu mùa"
Nxb Đời nay, Hà Nội 1937
Thạch Lam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét