"Bến xuân" và giai thoại về
mối tình cao thượng, dang dở
Mối tình giữa Văn Cao và cô tiểu thư Hoàng Oanh
Lắng nghe Bến Xuân, có lẽ mỗi người không thể không nhớ đến mối tình giữa Văn
Cao và cô tiểu thư Hoàng Oanh. Một chuyện tình lãng mạn, nên thơ nhưng éo le trắc
trở, khiến cho những câu ca của bài hát càng da diết, ám ảnh hơn bao giờ hết.
Những giai thoại xung quanh những tác phẩm trữ tình bao giờ cũng lãng mạn như
chính những tác phẩm tuyệt vời ấy. Với những người yêu nhạc Văn Cao, có lẽ câu
chuyện xung quanh sự ra đời của Bến Xuân sẽ còn được nhớ mãi, bởi nó đẹp và nên
thơ quá. Thêm nữa, có lẽ những điều mãi dang dở thường trở nên lung linh huyền ảo
hơn chăng?
Trong những tài liệu nói về nhạc sĩ Văn Cao thuở trước, những người sưu tầm thường
“ngại” nói ra tên thật của người thiếu nữ ẩn sau bài hát Bến Xuân. Ngay cả tên
nhạc sĩ - bạn thân của Văn Cao, người sau này trở thành chồng của cô gái ấy
cũng không mấy được đề cập đến...
Trong những năm đầu thập kỷ 40, Văn Cao có chơi rất thân với hai người bạn. Một
người là ca sĩ Kim Tiêu, người còn lại là nhạc sĩ Hoàng Quý, người thành lập ra
nhóm nhạc Đồng Vọng nổi tiếng đất Hải Phòng. Văn Cao trong một lần đến nhà Kim
Tiêu chơi tình cờ gặp cô thiếu nữ đang độ tuổi trăng tròn tên Hoàng Oanh, và gần
như ngay lập tức hai người phải lòng nhau - từ ánh mắt đầu tiên.
Sau khi Hoàng Oanh biết được Văn Cao chính là tác giả của những ca khúc lãng mạn
nổi tiếng thì lòng ngưỡng mộ của nàng dành cho Văn Cao càng tăng lên. Có lẽ ai
cũng biết tình cảm người kia dành cho mình, chỉ có điều “tình trong như đã, mặt
ngoài còn e”. Nhưng, éo le một nỗi: Văn Cao biết hai người bạn thân của mình -
Kim Tiêu và Hoàng Quý cũng đều đem lòng yêu mến Hoàng Oanh, và hai người đều
tâm sự điều này với Văn Cao.
Hoàng Oanh đến thăm Văn Cao một lần duy nhất, khi đó Văn Cao còn đang ở Hải
Phòng. Lần đến thăm đầu tiên đó đã được ông nhớ suốt đời, ông đã ghi cả vào những
câu ca mở đầu cho bài hát Bến Xuân - bài hát viết tặng riêng cho Hoàng Oanh:
Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước
Em đến tôi một lần
Câu hát "Em đến tôi một lần" sao mà hay và đi vào lòng người đến thế.
Cái ngày hôm ấy, trời nóng, Văn Cao cởi trần nằm bò ra sáng tác. Trong căn nhà
chật chội, Hoàng Oanh ngồi quạt cho chàng nhạc sĩ, và Văn Cao đã thổ lộ với cô:
"Ước gì anh có em để hằng ngày em quạt cho anh sáng tác, em vá quần thủng
cho anh, làm mẫu cho anh vẽ".
Đó là câu tỏ tình duy nhất mà Văn Cao dành cho Hoàng Oanh - giản dị mà chân
thành, nhưng ông cũng biết là hai người không thể thuộc về nhau. Là một con người
tài hoa, Văn Cao còn đề nghị Hoàng Oanh làm người mẫu cho những bức tranh của
mình, và hình bóng của nàng đi vào từng nốt nhạc lời ca trong bài hát Bến Xuân
Nhà tôi sao vẫn còn ngơ ngác
Em vắng tôi một chiều
Bến nước tiêu điều còn hằn in nét dáng yêu
Từng đôi chim trong nắng khe khẽ ru u ú ù u ú
Mối tình của Văn Cao và Hoàng Oanh không thành cũng một phần bởi Văn Cao - vốn
là một con người cao thượng - luôn nghĩ đến hai người bạn thân của mình, ông
không muốn làm “kẻ ngáng đường”. Một thời gian sau, gia đình ca sĩ Kim Tiêu
mang lễ vật đến ăn hỏi Hoàng Oanh, nhưng không thành bởi vì nhà gái thách cưới
cao quá.
Cô tiểu thư Hoàng Oanh sau đó lên xe hoa với nhạc sĩ Hoàng Quý, tuy nhiên ông
trời phũ phàng, chỉ được ít lâu thì Hoàng Quý mắc bệnh viêm phổi và qua đời.
Chuyện tình giữa Văn Cao và Hoàng Oanh có lẽ thực sự chấm dứt sau khi Văn Cao
yêu và lập gia đình với một cô tiểu thư xinh đẹp khác, cũng là con gái nhà
giàu, là nàng thiếu nữ Nghiêm Thuý Băng, và bà cũng là người vợ hiền bên ông tận
đến những ngày cuối cùng của cuộc đời.
Lắng nghe Bến Xuân, có lẽ mỗi người không thể không nhớ đến mối tình giữa Văn
Cao và cô tiểu thư Hoàng Oanh. Một chuyện tình lãng mạn, nên thơ nhưng éo le trắc
trở, khiến cho những câu ca của bài hát càng da diết, ám ảnh hơn bao giờ hết.
Bài hát Bến xuân là một trong những sáng tác của nhạc sỹ Văn Cao năm 1942 với sự
tham gia viết lời của nhạc sỹ Phạm Duy. Về sau Văn Cao đặt lời 2 cho bài hát và
lấy tên Đàn chim Việt.
Bến Xuân: Câu chuyện mối tình lãng mạn và u buồn
Kể về cảm xúc của mình khi sáng tác Bến xuân , nhạc sĩ Văn Cao tâm sự: "Tôi
yêu thầm người con gái ấy mà không dám nói ra. Nhưng người con gái ấy hiểu lòng
tôi và đến với tôi. Nên mới có câu Em đến tôi một lần."
Bến xuân
Nhạc: Văn Cao Lời: Phạm Duy
Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước
Em đến tôi một lần
Bao lũ chim rừng hợp đàn trên khắp bến xuân
Từng đôi rung cánh trắng ríu rít ca u ú ù u ú
Cành đào hoen nắng chan hòa
Chim ca thương mến, chim ngân xa u ú ù u ú
Hồn mùa ngây ngất trầm vương,
Dìu nhau theo dốc suối nơi ven đồi
Còn thấy chim ghen lời âu yếm
Tới đây chân bước cùng ngập ngừng
Mắt em như dáng thuyền soi nước
Tà áo em rung theo gió nhẹ thẹn thùng ngoài bến xuân
Sương mênh mông che lấp kín non xanh
Ôi cánh buồm nâu còn trên lớp sóng xuân
Ai tha hương nghe ríu rít oanh ca
Cánh nhạn vào mây thiết tha lưu luyến tình vừa qua
Nhà tôi sao vẫn còn ngơ ngác
Em vắng tôi một chiều
Bến nước tiêu điều còn hằn in nét đáng yêu
Từng đôi chim trong nắng khẽ ru u ú ù u ú
Lệ mùa rơi lá chan hòa
Chim reo thương nhớ, chim ngân xa u ú ù u ú
Hồn mùa ngây ngất về đâu
Người đi theo mưa gió xa muôn trùng
Lần bước phiêu du về bến cũ
Tới đây mây núi đồi chập chùng
Liễu dương hong tóc vàng trong nắng
Gột áo phong sương du khách còn ngại ngùng nhìn bến xuân
Trong dòng nhạc tiền chiến, 2 ca khúc Bến xuân (của Văn Cao) và Cô láng giềng
(của Hoàng Quý) chẳng có chút liên hệ. Tuy nhiên, hẳn ít ai biết đã có một
“bóng hồng” chen vào giữa cuộc đời của họ.
Em đến tôi một lần
Không ai có thể phủ nhận sự tài hoa của nhạc sĩ Văn Cao - cây đại thụ của nền
tân nhạc. 16 tuổi đã có sáng tác đầu tay ( Buồn tàn thu , năm 1939) và các tình
khúc tiếp theo của ông được sánh vào hàng “siêu phẩm”: Suối mơ, Thiên thai,
Cung đàn xưa, Bến xuân, Thu cô liêu, Trương Chi… Vào đầu những năm 40 của thế kỷ
trước, những bài hát của Văn Cao đã lan tỏa từ bắc chí nam. Người có công đầu
là Phạm Duy, lúc đó chưa sáng tác nhạc mà đi theo đoàn cải lương Đức Huy -
Charlie Miều lưu diễn xuyên Việt, Phạm Duy chuyên hát “phụ diễn”, bài hát ruột
là Buồn tàn thu. Tri âm đến nỗi Văn Cao đã đề tặng dưới cái tựa Buồn tàn thu
trong bản nhạc: “Tương tiến Phạm Duy, kẻ du ca đã gieo nhạc buồn của tôi đi khắp
chốn”. Còn những người hát nhạc Văn Cao ở phía bắc là ca sĩ Kim Tiêu (nam),
Thương Huyền, Thái Thanh (nữ)… Văn Cao sinh năm 1923 tại Lạch Tray (Hải Phòng)
nên tham gia vào nhóm Đồng Vọng của nhạc sĩ Hoàng Quý. Cũng chính ở thành phố
biển này, Văn Cao đã gặp một giai nhân để rồi dòng nhạc tiền chiến có thêm một
viên ngọc lấp lánh: ca khúc Bến xuân (đồng sáng tác với nhạc sĩ Phạm Duy).
Trong cuốn băng video Văn Cao - Giấc mơ đời người (đạo diễn Đinh Anh Dũng, Hãng
phim Trẻ sản xuất năm 1995, tái bản năm 2009), trong phần giới thiệu ca khúc
Đàn chim Việt (tức Bến xuân), nhạc sĩ Văn Cao tâm sự: “Ngày xưa tôi có thầm yêu
một người con gái mà không dám nói ra. Nhưng người ấy hiểu lòng tôi và đến với
tôi. Vì thế nên mới có câu hát “Em đến tôi một lần” và có bài hát này”… Người
con gái ấy chính là Hoàng Oanh, nữ ca sĩ ở Hải Phòng (sau này trong miền Nam
cũng có nữ ca sĩ Hoàng Oanh hiện ở hải ngoại, không phải Hoàng Oanh trong bài
viết). Nhưng tại sao nhạc sĩ Văn Cao yêu mà không dám nói? Là bởi con tim của
nhạc sĩ “chậm xao động” hơn hai ông bạn thân. Biết được cả Kim Tiêu lẫn Hoàng
Quý đều đem lòng yêu thương Hoàng Oanh, chàng nhạc sĩ trẻ đành nín lặng, ôm mối
tình đơn phương… Tuy thế, sau những lần gặp gỡ, qua ánh mắt, nụ cười nàng đã hiểu
tấm chân tình của chàng. Rồi một hôm, Văn Cao đang ở Hải Phòng thì nàng tìm đến.
Không chỉ thăm suông mà nàng còn ngồi làm mẫu cho chàng vẽ (Văn Cao còn là một
nhà thơ kiêm họa sĩ), rồi ân cần ngồi quạt cho chàng sáng tác nhạc… Có thể nói
ca khúc Bến xuân không chỉ là một bài hát làm xuyến xao lòng người mà còn là một
bức tranh hết sức sống động, một bài thơ với những ca từ đầy biểu cảm. Tóm lại
cả ba năng khiếu (thơ, nhạc, họa) tài hoa của Văn Cao đều dồn vào Bến xuân:
“Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước, em đến tôi một lần, bao lũ chim rừng hợp đàn
trên khắp bến xuân”.
Hình ảnh thẹn thùng, khép nép của giai nhân trong nhạc của Văn Cao sao mà đáng yêu chi lạ: “Mắt em như dáng thuyền soi nước. Tà áo em rung theo gió nhẹ thẹn thùng ngoài bến xuân”. Hôm đó có lẽ nàng cũng có hát nữa nên mới “nghe réo rắt tiếng Oanh ca”. Bản nhạc được NXB Tinh Hoa ấn hành năm 1942 với lời ghi “nhạc: Văn Cao, lời: Văn Cao - Phạm Duy” (sau này nhạc sĩ Văn Cao đặt lời 2 và đổi tựa thành Đàn chim Việt). Chẳng biết nhạc sĩ Phạm Duy “đóng góp” như thế nào trong phần lời nhưng ở đoạn cuối, rõ ràng là tâm trạng của Văn Cao: “Nhà tôi sao vẫn còn ngơ ngác. Em vắng tôi một chiều. Bến nước tiêu điều còn hằn in nét đáng yêu. Từng đôi chim trong nắng khe khẽ ru u ù u ú. Lệ mùa rơi lá chan hòa” (dùng chữ “lệ mùa rơi lá” quá hay!). Cái cảnh chàng gột áo phong sương trở về bến cũ sao mà buồn đến nao lòng: “Người đi theo mưa gió xa muôn trùng. Lần bước phiêu du về chốn cũ. Tới đây mây núi đồi chập chùng. Liễu dương tơ tóc vàng trong nắng. Gột áo phong sương du khách còn ngại ngùng nhìn bến xưa”.
Hình ảnh thẹn thùng, khép nép của giai nhân trong nhạc của Văn Cao sao mà đáng yêu chi lạ: “Mắt em như dáng thuyền soi nước. Tà áo em rung theo gió nhẹ thẹn thùng ngoài bến xuân”. Hôm đó có lẽ nàng cũng có hát nữa nên mới “nghe réo rắt tiếng Oanh ca”. Bản nhạc được NXB Tinh Hoa ấn hành năm 1942 với lời ghi “nhạc: Văn Cao, lời: Văn Cao - Phạm Duy” (sau này nhạc sĩ Văn Cao đặt lời 2 và đổi tựa thành Đàn chim Việt). Chẳng biết nhạc sĩ Phạm Duy “đóng góp” như thế nào trong phần lời nhưng ở đoạn cuối, rõ ràng là tâm trạng của Văn Cao: “Nhà tôi sao vẫn còn ngơ ngác. Em vắng tôi một chiều. Bến nước tiêu điều còn hằn in nét đáng yêu. Từng đôi chim trong nắng khe khẽ ru u ù u ú. Lệ mùa rơi lá chan hòa” (dùng chữ “lệ mùa rơi lá” quá hay!). Cái cảnh chàng gột áo phong sương trở về bến cũ sao mà buồn đến nao lòng: “Người đi theo mưa gió xa muôn trùng. Lần bước phiêu du về chốn cũ. Tới đây mây núi đồi chập chùng. Liễu dương tơ tóc vàng trong nắng. Gột áo phong sương du khách còn ngại ngùng nhìn bến xưa”.
Nàng đến thăm chàng một lần, rồi… thôi, chừng đó cũng đủ hiểu lòng nhau và đã
quá lãng mạn. Sau này gia đình ca sĩ Kim Tiêu có dạm hỏi Hoàng Oanh nhưng hôn sự
bất thành vì gia đình nhà gái thách cưới cao quá. Bản thân Kim Tiêu cũng gặp phải
nhiều sóng gió và nghe nói chết trong nghèo đói ở thềm ga Hàng Cỏ (Hà Nội). Rồi
Hoàng Oanh lên xe hoa, trở thành vợ của nhạc sĩ Hoàng Quý.
Đôi mắt đăm đăm chờ tôi về
Nhạc sĩ Hoàng Quý sinh năm 1920 (lớn hơn Văn Cao 3 tuổi) và là thủ lĩnh nhóm Đồng
Vọng ở Hải Phòng. Ông được biết tới như là một nhạc sĩ tiên phong sáng tác thể
loại nhạc hùng, hát cộng đồng (tráng ca) với các ca khúc: Bên sông Bạch Đằng,
Nước non Lam Sơn, Bóng cờ lau, Tiếng chim gọi đàn... Tuy nhiên, người ta nhớ đến
Hoàng Quý nhiều nhất bởi ông là tác giả của ca khúc Cô láng giềng bất hủ.
Thời điểm nhạc sĩ sáng tác Cô láng giềng cũng gần như cùng lúc với Văn Cao viết
ca khúc Bến xuân (khoảng năm 1942, 1943). Lúc này Hoàng Quý phải rời Hải Phòng
để lên Sơn Tây làm thư ký cho một trang trại nuôi bò. Chuyến đi khiến ông phải
chia tay với người yêu (rất có thể là Hoàng Oanh). Ở Sơn Tây, Hoàng Quý luôn nhớ
đến người yêu và mơ một ngày trở về. Đó là chất liệu để ông viết Cô láng giềng:
“Hôm nay trời xuân bao tươi thắm. Dừng bước phiêu du về thăm nhà. Chân bước
trên đường đầy hoa đào rơi, tôi đã hình dung nét ai đang cười… Tôi mơ trời xuân
đôi môi thắm. Đôi mắt nhung đen màu hạt huyền. Làn tóc mây cùng gió ngàn dâng
sóng. Xao xuyến nỗi niềm yêu… Cô láng giềng ơi! Tuy cách xa phương trời tôi
không hề. Quên bóng ai bên bờ đường quê. Đôi mắt đăm đăm chờ tôi về…”.
Năm 2002, báo chí có phỏng vấn nhạc sĩ Tô Vũ (em ruột nhạc sĩ Hoàng Quý), ông
cho biết nhạc sĩ Hoàng Quý chỉ ở Sơn Tây 6 tháng rồi về quê. Trên đường về, ông
có ghé Hà Nội thăm Tô Vũ (lúc đó còn dùng tên thật là Hoàng Phú) và đưa bản nhạc
ra khoe với người em. Ông em (Tô Vũ) rất thích giai điệu của ca khúc này, liền
xin phép đặt lời 2 cho bản nhạc. Đó là cảnh tượng và tâm trạng của chàng trai
khi về tới đầu ngõ thì nghe tiếng pháo vu quy tiễn người yêu đi lấy chồng: “Trước
ngõ vào sân vang tiếng pháo. Chân bước phân vân lòng ngập ngừng. Tai lắng nghe
tiếng người nói cười xôn xao. Tôi biết người ta đón em tưng bừng… Đành lòng nay
tôi bước chân ra đi. Giơ tay buồn hái bông hồng tường vi. Ghi chút tình em nói
chờ đợi tôi. Đừng nói đến phân ly… Cô láng giềng ơi! Nay mối duyên thơ đành lỡ
rồi. Chân bước xa xa dần miền quê. Ai biết cho bao giờ tôi về?”.
Hoàng Quý tham gia Việt Minh từ rất sớm và hoạt động tích cực trong lĩnh vực
văn hóa nghệ thuật. Tiếc rằng tài hoa yểu mệnh, ông mất năm 1946 vì bệnh lao,
khi mới 26 tuổi.
Người góa phụ trẻ Hoàng Oanh nửa đường gãy gánh không biết số phận sau này thế
nào. (Hà Đình Nguyên)
Lời 2: Đàn Chim Việt - Văn Cao
Về đây khi gió mùa thơm ngát
Ôi lũ chim giang hồ
Bao cánh đang cùng dật dờ trên khắp cố đô
Từng đôi trên đất Bắc ríu rít ca ...
Mờ mờ trong nắng ven trời
Chim reo thương nhớ chim ngân xa ...
Hồn còn vương vấn về xưa
Về nơi hoàng hôn Thái Nguyên tung hoành…
GHI CHÚ: Đại tướng Võ Nguyên Giáp phát biểu tại hội thảo do tỉnh Thái Nguyên tổ
chức ngày 12/5/1997: “Tân Trào được coi là Thủ đô khu giải phóng (Khu Giải
phóng trước Cách mạng Tháng 8/1945 gồm 6 tỉnh: Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang, Bắc
Cạn, Tuyên Quang, Thái Nguyên)”.
LỜI KẾT
Chữ Xuân định nghĩa theo danh từ là một mùa đầu tiên trong năm. Khi dùng trong
nghĩa văn chương nó là một năm. Theo tính từ Xuân là trẻ đẹp như "tuổi
xuân hoa mộng". Bến Xuân của Văn Cao chính là cảnh “Thiên thai thu nhỏ”,
như lời bài hát Thiên Thai nổi tiếng của Văn Cao:
Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng
Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc tới Đào Nguyên
Kìa đường lên tiên, kìa nguồn hương duyên
Theo gió tiếng đàn xao xuyến
Phím tơ lưu luyến, mấy cung u huyền
Mấy cung trìu mến như nước reo mạn thuyền.
Âm ba thoáng rung cánh đào rơi
Nao nao bầu sương khói phủ quanh trời …
Văn Cao nhớ về người yêu Hoàng Oanh trong bầu trời trong xanh, cỏ hoa tươi thắm
của Bến Xuân (tiểu Đào Nguyên và Thiên thai thu nhỏ):
Cành đào hoen nắng chan hòa
Chim ca thương mến, chim ngân xa u ú ù u ú
Mắt em như dáng thuyền soi nước
Tà áo em rung theo gió nhẹ thẹn thùng ngoài bến xuân
Sương mênh mông che lấp kín non xanh
Ôi cánh buồm nâu còn trên lớp sóng xuân
Ai tha hương nghe ríu rít Oanh ca (tiếng ca của người yêu (?)
Cánh nhạn vào mây thiết tha lưu luyến tình vừa qua.
Hay ông nhớ da diết mối tình nên thơ của mình cùng người yêu trong Bến Xuân - chính là cảnh “tiểu Đào Nguyên, Thiên thai thu nhỏ”với “cành đào…chim ca…thuyền
soi nước…sương mênh mông…non xanh…lớp sóng Xuân…Oanh ca…cánh nhạn…tức là Xuân
trong mơ” của riêng mình… chứ chưa hẳn một mùa Xuân cụ thể nào đó.
Tiếp nối Xuân trong mơ, năm 1976, Văn Cao sáng tác “Mùa Xuân đầu tiên” - đây mới
chính là mùa Xuân cụ thể của chính Văn Cao -ông đã “đi trước” thời đại ở cái
nhìn sâu đằng sau một chiến thắng vang dội là những gì dân tộc này đã phải đánh
đổi, hy sinh. Ở cái nhìn xa đằng sau niềm hân hoan phút chốc này là bao nỗi lo
về một cuộc đời mới, một cuộc dựng xây mới.
Mùa Xuân đầu tiên, ý chỉ mùa xuân hòa bình, độc lập đầu tiên của dân tộc nhưng
cũng chính là mùa xuân cuối cùng, một trong các bài hát cuối cùng trong sự nghiệp
sáng tác của cố nhạc sĩ Văn Cao. Như một cơ duyên, bài hát cũng phải chịu số phận
kỳ lạ, nhiều truân chuyên, trắc trở như chính cuộc đời người nhạc sĩ tài hoa ấy.
Đây là một cảm nghĩ từ tấm lòng Văn Cao về một mùa Xuân đầu tiên của Quê hương
yêu dấu của chính ông và của mọi người cùng sống trên non sông gấm vóc này!.
PHẠM VŨ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét