Một trong những tình cảm nổi bật của tập thơ “Tự sự” của Đinh
Tú Anh chính là tình quê.
Dù đi lập nghiệp nơi xa nhưng tình quê vẫn là một tình cảm gắn
bó sâu nặng với tác giả. Có nhiều bài anh viết về quê. Về quê, Quê
ơi, Vẫn nặng lòng, lắm lắm lắm, quê ơi. Anh kể về quê trong các bài
thơ Tự sự, Giao thừa viết cho con, Tôi là con của miền Trung, Về
thăm mộ mẹ, Tôi, Tản mạn tuổi thơ tôi, Nhớ quê núi, Nghe hát Hà Tĩnh
mình thương,… Những câu thơ mộc mạc mà chân thành, khi tác giả không thể về quê
trong dịp đoàn viên:
Bất chợt thương quê nhà nhiều lụt bão
Chẳng biết ông bà đang đón Tết ra sao?
(Giao thừa viết cho con)
Đầu năm mới nhớ về quê cũ mà ngậm ngùi:
Quê
nhà vẫn quê nhà xưa cũ
Hằn mặt người lam lũ sinh nhai
Đã bê
tông hóa ngõ dài
Mà con
đường chính chưa ai ngó ngàng
(Khai bút)
Tác giả bộc bạch nỗi nhớ quê bằng cách điệp liền ba lần lắm
lắm lắm trong một câu thơ kết bài:
Dù
đã qua biết bao nhiêu miền đất
Vẫn nặng
lòng, lắm lắm lắm, quê ơi!
(Vẫn nặng lòng, lắm lắm lắm, quê ơi)
Những câu thơ giản dị mang phong cách tự sự kiểu ca dao cho
thấy quê là một thường trực trong tâm trí tác giả:
Dù
đi đâu, dù ở đâu
Chữ
quê luôn ở trong đầu tôi đây
Giọng
tôi nói, người tôi gầy
Cách
tôi suy nghĩ đều đầy chất quê
(Tôi là con của miền Trung)
Một trong các nét độc đáo trong cách thể hiện là tác giả
đã dùng thể thơ Đường luật, một thể thơ được coi là “xưa cũ” khi phong trào thơ
mới ra đời. Dùng hình thức thơ xưa, lại nói về những kỉ niệm xưa, kỉ
niệm cái thời chăn trâu, hái củi, bắt cua, cắt rạ, tắm mưa, thì quả là thích hợp. Một số câu thơ đường có sáng tạo khá sinh động:
Khi nhỏ thường hay bít củi tê
Trèo lên Thiên Nhẫn trện nhiều ghê
Non cao khe mát tha hồ ngắm
Mắt thoáng giời cao, mặc sức mê
(Bít củi)
Moóc dam chuyện nớ khó chi mồ
Thấy lỗ thò tay móc móc vô
Khu chổng lên giời đầu nghía nghía
Chân ngâm xuống ruộng đít nhô nhô
(Moóc dam)
Đưa mồm phải lựa răng nhằn thóc
Đánh lưỡi làm sao trấu bật môi
Xóm dưới làng trên, già giống trẻ
Trong nhà ngoài ngõ, đứng như ngồi
(Cúp trắt)
Hơn thế nữa, cái chất quê Hà Tĩnh ấy được thấm đẫm trong các
từ “địa phương” như là một thứ đặc sản quê hương. Về lí thuyết mà nói, làm thơ
là để trao gởi tâm tình với mọi miền đất nước chứ không phải chỉ với những người
bạn “đồng hương” hàng tỉnh hay hàng huyện. Bởi vậy mà cụ Nguyễn Du xưa đã dùng
ngôn ngữ toàn dân để sáng tác Truyện Kiều. Cụ Nguyễn Công Trứ cũng không dùng
tiếng địa phương để viết thơ ngông hay hát nói. Các nhà thơ Nghệ Tĩnh khác nếu
có, thì cũng chỉ dùng đôi ba tiếng địa phương trong trường hợp thật cần thiết.
Thế nhưng Đinh Tú Anh dùng nhiều từ địa phương để viết. Từ tên bài đã “rặt” Hà
Tĩnh như: Bít củi (hái củi), bít toóc (cắt rạ), cất
rớ (cất vó), câu dam (câu cua), moóc dam (mò
cua), rèo tru (chăn trâu), đan đúa (đan rổ, thúng), cúp
trắt (cắn trắt), gánh nác (gánh nước), đi nhủi (đi bắt
tôm cá bằng nhủi), lặt phân tru (nhặt phân trâu), mở khóa troóc (mở khóa đầu), mót ló (mót lúa). Đến nội dung bài với các từ địa
phương như ni, tê, răng, mi, bay, nà, trùn, giừ, cân gấy, rành khổ,
ôi chầu,… Có thể nói những bài này từ địa phương khá đậm đặc và nó đem lại màu
sắc quê Hà Tĩnh rõ rệt. Khá thú vị. Đó là một nét ưu điểm. Thế nhưng khi “lạm dụng”,
hay có thể nói nhẹ hơn là không giữ được ngưỡng, từ địa phương làm câu thơ bị
khuôn cứng và gây cảm giác trùng lặp, nặng nề. Ấy là chưa kể về niêm luật
thơ Đường, bài thơ bị xộc xệch.Ví dụ rõ nhất là bài Chợ Gôi, một chợ vùng quê.
Có đến 5 từ “hè” trong tổng số 8 câu thơ:
Dăm
bảy lều con thấp thấp hè
Hàng
xén mươi bà trầu bỏm bẻm
Thịt
thà mấy vị tiếng vang hè
Đi xa
về lại: Mần dê nhé!
Sớm nắng
chiều mưa: bánh đúc hè
Làng
cũ không còn đan đúa cạo
Chợ
phiên mấy xã vẫn đây hè
Nhiều từ địa phương luôn cần chú thích, mà nếu không
chú ý, sẽ làm giảm cảm hứng của người đọc. Chẳng khác nào khi đọc thơ cổ luôn
luôn phải đọc chú thích về từ ngữ, về điển cố. Đó sẽ là một rào cản đối với sự
tiếp nhận của người đọc hiện nay.
Một nội
dung khác phong phú là tình yêu lứa đôi, tình cảm gia đình với cha mẹ, vợ hiền,
con gái. Người cha, người mẹ được tác giả nhớ lại:
Cha
gánh sông Ngàn Phố về đổ đầy vại nước
Trong
những ngày khô hạn nắng chang chang
Mẹ chở
nguyên núi Thiên Nhẫn về làng bằng thuyền
Nhặt hạt
sỏi, tôn nền nhà trong lũ
(Tản mạn tuổi thơ tôi)
Cha gánh sông, mẹ chở núi là hình ảnh kì vĩ của
cha mẹ trong kí ức trẻ con. Tác giả viết nhiều về cô bạn gái cùng quê,
cùng học, cùng “quần lủng áo sờn”, cùng tắm sông, cùng chơi trò bán mua hay vợ
chồng. Bạn đọc thấy nỗi niềm khắc khoải một mối tình đầu đẹp đẽ nhưng
không thành trong các bài thơ Chờ em trong hội lớp, Bến xưa,
Chuyện xưa hai đứa, Đau lắm tình xưa, Đợi về họp lớp lần sau tính, Em có
về hội lớp phải không em? Em ở đâu, em đang ở chốn nào? Em sao không về? Những
bài thơ cho thấy người viết là người chung tình, đa cảm mà cũng khí đa đoan.
Nhưng bên cạnh đó, tác giả cũng hết mình chân thành với người bạn đời bằng
một tình cảm si mê mạnh mẽ:
Mai
sau trong cõi vô cùng
Nhớ em
anh chắc lục tung thiên hà
(Gửi
em)
Cũng là một cách bày tỏ như Tú Xương trong “Thương vợ”, người
viết biết ơn người bạn đời của mình, thấy mình đáng trách:
Thần
ái tình gặp anh và bảo
Người
trao em cho anh
Bởi
trên đời không còn một phụ nữ nào
Biết
yêu anh hơn em
Biết chịu đựng những tính nết gàn dở của anh hơn em
(Anh
hiểu)
Em
yêu ơi giữa trần gian nếu thấy
Lứa
đôi nào hạnh phúc hơn hai ta
Thì ta
cùng kiểm điểm những ngày qua
Để yêu
nữa, yêu nhiều hơn hơn nữa!
(Yêu nhiều hơn hơn nữa)
Tác giả không chỉ viết về tình riêng, mà còn viết về tình
chung, tình quê hương đất nước. Những bài thơ có ấn tượng đẹp như Đêm
trung thu giữa vụng neo tàu Hòn Nét, Cẩm Phả; Ghi ở công trường; Một
chuyến thăm vịnh; Non sông một dải trời mây; Thức dậy rồi Nha Trang.
Nhìn
chung thơ của Đinh Tú Anh không chạy theo mốt thời thượng, không hiện đại hay hậu
hiện đại. Anh viết khá tự nhiên, hồn nhiên. Đó vừa là ưu điểm nhưng lại cũng
chưá sẵn nhược điểm. Vì tự nhiên, không gia công trau chuốt nên có những
từ ngữ vụng về, cách diễn đạt trở nên thô, mạch thơ có khi rời rạc.
Một đôi bài “kể chuyện” hơi dài, lan man như thể diễn ca, nhiều việc nhưng ít cảm
xúc.
Tục ngữ ta có câu “Một con, một của ai từ”. Đó là nói cái tâm
lí của người Việt mình thích đông con, thích nhiều của. Thật khó mà cưỡng lại
được cái mong muốn nhiều con, nhiều của vốn là tâm lí của dân nông nghiệp
phương Đông. Thế rồi, bây giờ chính sách dân số không khuyến khích nhiều con,
chỉ khuyên có một đến hai con để nuôi dạy cho tốt. Bây giờ có lẽ chỉ còn
ham muốn nhiều của là không ai cấm, mà cũng là mong muốn được thừa nhận
vì làm giàu được khuyến khích để cho dân giàu nước mạnh.
Tác giả Đinh Tú Anh không nói ra, nhưng coi những bài thơ là
những đứa con, đồng thời cũng coi như là của cải tinh thần cho mình và
cho các thế hệ con cháu mai sau. Bởi vậy mà thật đúng với tâm lí người Việt
được phản ánh trong câu tục ngữ xưa. Những bài thơ đó là con, là của, vì vậy mà
tác giả ham muốn có nhiều. Song chính vì nhiều con, cho nên không chăm sóc
được kĩ càng. Bởi vậy mà cảm thấy tiêng tiếc. Giá như tác giả tiết chế hơn, giá
như chọn lọc kĩ càng hơn, giá như trau chuốt hơn,…Nhưng người đọc cũng nên cảm
thông cho tác giả. Ngay cả đến nhà thơ chuyên nghiệp lừng danh như Xuân Diệu,
khi in tập thơ, vẫn bị chú bé Khoa chê là ôm đồm kia mà. Tôi biết từ bản thảo đầu
tiên tới bản in, tác giả cũng đã tiếc nuối bỏ lại ngót nghét 30 bài.
Dù sao thì cũng mừng là tác giả có nhiều con, nhiều của trong
một tập thơ nhiều nội dung, nhiều hình thức thể hiện, nhiều cung bậc nỗi niềm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét