Đại Lải vui buồn cùng thi nhân
Tập thơ: “Gió làng ta xanh ngát” - NXB Hội Nhà văn,
2012 của nhà thơ Trần Nhương gồm nhiều mảng đề tài. Người đọc day dứt, xót xa
cùng tác giả với những chiêm nghiệm, cảm thông về phận người, về nhân tình thế
thái. Có lẽ khi nhà thơ đã trải qua lửa đạn chiến tranh, đã qua cái tuổi: “Thất
thập cổ lai hy”, trải bao bĩ cực nên càng thấm hơn cái đã có cùng tương lai của
con người sống trên mảnh đất yêu thương và gian khổ. Ngay ở chùm thơ viết về Đại
Lải, những tưởng cảnh đẹp sơn thủy hữu tình nơi đây sẽ làm tác giả nguôi ngoai
đi phần nào những nỗi buồn nhân thế. Nhưng không, đằng sau vẻ thơ mộng kia lại
là nỗi buồn sâu lắng của một con người biết trân trọng, giữ gìn cái đẹp và luôn
mong một ngày mai tươi sáng hơn.
Tập thơ có năm bài viết về Đại Lải, đó là: “Mùa thu lên Đại Lải” -
trang 5; “Mùa thu này Đại Lải một mình anh” - trang 59; “Mưa Đại
Lải” - trang 63; “Đêm Đại Lải” - trang 86; “Khúc yêu” -
trang 104. Mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, mang một nỗi niềm, một tiếng
lòng của tác giả. Đại Lải chỉ là cái cớ để nhà thơ gửi gắm nỗi lòng với con người
và quê hương đất nước.
Bài “Mùa thu lên Đại Lải” tự nhiên như hơi thở, tự
nhiên trong lập tứ lập ngôn cùng những thủ pháp nghệ thuật so sánh, ẩn dụ cứ
như hòa vào nhau để nâng tầm của bài thơ lên sau mỗi khổ:
“Mùa thu lên Đại Lải
Nắng sang cầu Thăng Long
Gặp Xuân Hòa em gái
Nắng tròn vào lưng ong”
Ý thơ trong trẻo quá. Đất, trời, con người như những người bạn
tri âm đã đợi từ lâu. Tác giả rất tài hoa sau mỗi đoạn miêu tả lại “hạ” một
câu đầy chất suy tư mà không gò ép:
“Chợ chiều chừng sắp vãn
Có một chút xót xa cho phận người ở vùng đất thơ mộng và
nghèo khó này chăng. Nhưng cái xa xót ấy không khỏa lấp được cảm xúc của tác giả
trước một vùng đất, một vùng người đầy tình nghĩa: “Quả mùa thu viên mãn”
kia không nhắc nhở người đọc đã sắp sang đông mà “Thơm tho như một người”, một
người trong nhiều người.
Cũng vẫn trong mạch cảm xúc ấy, nhà thơ để tình mình theo bước
chân sơn nữ:
“Gái Sán Dìu xinh thế
Mắt nhìn ríu cả chân
Anh thành người được thể
Gom mùa thu vào xuân”
Hình ảnh “nhìn ríu cả chân” thật là độc đáo, đấy
không phải là cái nhìn đơn thuần, mà còn gói cả cái tình tinh quái và thật bất
ngờ khi nhà thơ mượn cái bối rối ấy để: “Gom thu vào mùa xuân” một
cách điệu nghệ. Thì ra xuân lòng đâu có mùa. Nhà thơ như gặp quê hương yêu dấu
của mình, Đại Lải trở nên thân thương quá đỗi trong hồn người
“Anh đi trong hương ổi
Ngỡ mình đang vườn nhà”
Để rồi khi “em” rẽ lối, tác giả thảng thốt: “Anh
trời trồng ngã ba”.
Giữa trời chiều Đại Lải thơ mộng đầy âm thanh, sắc mầu và chan
chứa tình ấy, nhà thơ như kẻ mộng du, kể cả khi “nắng đã về bên ngoại” vẫn: “Tương
tư tràn suốt thu”. Bài thơ trong trẻo, ăm ắp tình người, dẫu có chút se buồn
man mác.
Ở bài “Mùa thu này Đại Lải một mình anh” lại sâu lắng
một nỗi buồn cô đơn đến lạnh lòng. Thời gian trôi nhanh quá, nếu con người
không nắm bắt được cái đẹp của đất trời và con người mà tận hưởng thì tất cả sẽ
trôi qua trong tiếc nuối: “Em vừa đấy đã thành hôm trước”, dẫu:
“Nắng vẫn nắng như cầm thấy được
Đường rơm phơi thơm gió dậy thì”
“Gió dậy thì” ấy phải chăng như một lời nhắc nhủ đầy
tính nhân bản. Đất trời vẫn thế, theo quy luật của muôn đời, chỉ có lòng người...
Nhà thơ cô đơn giữa không gian và thời gian khi:
“Người đông thế mà toàn xa lạ
Lối ven hồ sỏi đợi bước chân quen”
Vâng khi cuộc sống còn nhiều kẻ thờ ơ với phận người, thơ ơ với
tương lai của quê hương, “xa lạ” với nhân dân thì những nhà thơ chân
chính còn xót xa đau cùng nhân thế và phải chăng hình ảnh “Lối ven hồ sỏi đợi
bước chân quen” kia như tấm lòng của bao người đợi một tiếng lòng chân
chính, đợi một ngày mới tươi sáng hơn.
Bài “Ngày mưa Đại Lải”, ngay từ dòng thơ đầu tiên,
nhà thơ đã khéo léo xử dụng những thanh bằng và thanh không để diễn tả nỗi buồn
sâu lắng:
“Ngày mưa Đại Lải buồn ngang trưa”
Hai hình ảnh đối lập giữa một đôi trai gái yêu nhau nhắn tin
cho nhau và một “lão già đầu bạc”, “uống đến tàn đêm chẳng ngớt sầu” thật
đắc dụng. Dẫu người đọc có thoáng mỉm cười trước sự hóm hỉnh của tác giả
khi đọc những dòng tin nhắn không dấu làm cho người đọc có thể phát triển suy
nghĩ theo hướng khác đi nữa thì rồi lại lặng buồn xót xa cùng tác giả.
Bài: “Đêm Đại Lải” lại mở ra một không gian thật độc
đáo:
“Đêm nay Đại Lải một mình
Hồ im tịnh sóng cây thinh lặng cành
Chỉ còn trăng ngan ngát xanh
Ngậm sương cây cỏ bỗng thành thủy tinh
Vườn khuya cây cỏ một mình
Tiếng kêu gọi bạn xô vành trăng nghiêng”
Hình ảnh: “Ngậm sương cây cỏ bỗng thành thủy tinh” thật
đắc địa, thi sĩ đang đắm mình trong vẻ đẹp lung linh huyền diệu của thiên nhiên
về đêm mà cảm nhận mà suy tư để xuất thần có những câu thơ tài hoa. Cái giá lạnh
của cỏ cây thấm vào hồn người hay cái lạnh của hồn người thấm cả vào cây cỏ?
Bài “Khúc yêu” có cấu trúc lạ, đây là bài thơ văn
xuôi khá hay. Xuyên suốt bài thơ là tình yêu của nhà thơ với Đại Lải, niềm hạnh
phúc khi: “Hồ dâng nước, nước tràn lên bát ngát, biết làm đầy cho những
khát khao”. Đây là khao khát không phải chỉ của riêng nhà thơ, cho và nhận,
dâng hiến hết mình để “làm đầy cho những khát khao” thì còn gì hơn thế.
Trước mênh mông của trời mây non nước, nhà thơ không giấu lòng mình:“Không thể
nói điều gi khác được, anh yêu em như định mệnh, như sắp đặt thiên duyên”. Vâng
tình yêu chân chính vốn như thế đấy, nó bất chấp mọi nghiệt ngã của số phận, vượt
lên tất cả, đơm hoa kết trái dưới ánh mặt trời. Nhà thơ yêu và được yêu, câu
thơ chứa lửa ở bên trong làm người đọc say men tình cùng tác giả: “Anh rạo
rực và em rạo rực, đốt chiều thu Đại Lải cuồng si”.
Nhà thơ lặng đi trong
niềm hạnh phúc ngọt ngào: “Không thể nói gì, anh nhận lấy mùa xuân từng
hơi thở” và không thể không nói lời tri ân với cuộc đời:“Anh cảm ơn người
đã cho anh tất cả, để anh yêu như tuổi đôi mươi” đó là một ngày cuối thu chín mọng
những dấu yêu không thể cầm lòng. Dẫu nhà thơ hiểu rất rõ thực tại với
bao “chớp bể mưa nguồn”, những “vui buồn kiếp người bản thể” dẫu
biết rằng “em đang xuân mà anh đã sang thu”… nhưng tình yêu lớn dành cho Đại
lải, cho “em” mãi tràn đầy: “Anh chỉ biết yêu em đến khi không
thể, nhưng suốt đời anh một nửa là em”.
Mùa thu được tác giả sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật chuyển
tải dụng ý của tác giả, vương chút se buồn, thấp thoáng phận người hữu hạn
trong dòng đời bất tận, làm cho bài thơ ý tại ngôn ngoại và vươn lên tầm phổ
quát.
Năm bài thơ, mỗi bài một cung bậc cảm xúc như rỏ xuống hồn
người sự cảm thông, chia sẻ với những phận người và cất lên ngang trời một khát
khao khát sống, khát yêu và hạnh phúc.
Tháng 1/2013
Trần Vân Hạc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét