10 khoa học gia cổ đại có những khám phá
Cách đây hàng nghìn năm, các nhà hiền triết Ấn Độ thời cổ đại
đã nổi tiếng với những khám phá về lực hấp dẫn, máy bay, tên lửa, lý thuyết
nguyên tử, y học, thiên văn học, vũ trụ học…
Nhiều người cho rằng trong thế kỷ 20 và 21 mới là thời kỳ
bùng nổ nhiều phát minh công nghệ hiện đại, nhưng thực ra nhiều phát minh quan
trọng trong thời kỳ này của chúng ta lại được tổ tiên chúng ta khám phá ra trước
đó cả vài nghìn năm. Nhiều kiến thức khoa học ngày nay coi là trọng yếu thì đều
có thể được tìm thấy trong các văn tự Ấn Độ thời cổ đại.
Bhaskaracharya nghĩ ra Luật
hấp dẫn trước Newton hơn 5 thế kỷ.
Khi nói về Lực hấp dẫn, chúng ta nghĩ ngay đến cái tên “Isaac
Newton”. Tất cả chúng ta đều được nghe kể câu chuyện trong sách giáo khoa, về
cách Newton được truyền cảm hứng để cho ra đời “Luật Hấp dẫn” khi ông quan sát
một quả táo rơi xuống từ một cái cây.
Ngày nay, lịch sử khoa học thời cận đại vẫn ghi nhận Newton
là người đầu tiên khám phá ra các khái niệm lực hấp dẫn. Nhưng hẳn bạn sẽ ngạc
nhiên khi biết rằng Thuyết hấp dẫn đã được nhà toán học người Ấn Độ
Bhaskaracharya. nghĩ ra trước thời đại Newton hơn 5 thế kỷ.
Ông là một trong những nhà thiên văn học, nhà toán học nổi tiếng
nhất của thế kỷ 12. Ông viết “Siddhānta Śiromaṇī” – một tác phẩm Toán học ở tuổi
36 vào năm 1150. Bhaskaracharya đã tuyên bố các định luật hấp dẫn trong cuốn
sách này như sau: “Các vật thể rơi xuống đất do lực hút bởi Trái đất. Do
đó, Trái đất, Hành tinh, Chòm sao, Mặt trăng và Mặt trời được giữ trong quỹ đạo
do sự hấp dẫn này”.
Những hiểu biết của ông về thiên văn đã đi trước thời đại
chúng ta khá lâu. Ông cũng đề cập đến hình dạng của Trái đất trong khi trả
lời câu hỏi của cô con gái bé bỏng của mình. Bhaskaracharya nói rằng, những gì
chúng ta nhìn thấy không phải là thực tế, Trái Đất có thể trông phẳng nhưng thực
ra nó có hình cầu.
Ông giải thích thuyết này bằng cách nói rõ: “Nếu bạn vẽ
một vòng tròn rất lớn và nhìn vào một phần tư chu vi của nó, bạn sẽ thấy nó như
một đường thẳng. Nhưng đúng nghĩa thì đó là một vòng tròn. Trái Đất tương
tự có dạng hình cầu”.
Maharshi Bhardwaj đã đề cập đến
phương tiện hàng không cách
đây 2.500 năm.
“Máy bay đã tồn tại ở Ấn Độ 2.500 năm trước và họ đi từ nước
này sang nước khác và từ hành tinh này sang hành tinh khác”, đây là tuyên bố của
Hiệp hội Khoa học Ấn Độ trong một hội nghị chuyên đề về ‘Khoa học cổ đại thông
qua tiếng Phạn’. Đây là tổ chức khoa học hàng đầu của Ấn Độ có hơn 30.000
nhà khoa học thành viên.
Chúng ta biết rằng, anh em nhà Wright là người đầu tiên chế tạo
ra máy bay và cất cánh bay “đúng nghĩa” vào năm 1904. Nhưng dựa trên các bản
văn tự Vedic cổ đại, người xưa hé lộ rằng công nghệ hàng không ở Ấn Độ cổ đại ở
Rigveda vô cùng phát triển cách đây… hơn 2.500 năm.
Maharshi Bhardwaj là một trong những nhà đại hiền triết Hindu
vĩ đại nhất của Ấn Độ cổ đại. Trong cuốn sách Vimana Samhita của mình, ông
đã chỉ ra rằng máy bay đã được sử dụng rộng rãi trong thời Sử thi Ramayana
và Mahabharata, cho thấy rằng hàng không là một nhánh phát triển khá “sôi động”
vào thời điểm đó.
Ông đã đề cập đến việc sử dụng nhiều loại hợp kim khác nhau để
chế tạo ra một chiếc máy bay. Ông cũng nói về những chiếc máy bay “khổng lồ”
bay ở Ấn Độ cổ đại, có cấu trúc cơ bản là 60 x 60 feet và trong một số trường hợp
là trên 200 feet với 40 động cơ nhỏ.
Hệ thống radar Ấn Độ cổ đại được gọi là ‘rooparkanrahasya’.
Ngoài ra, cuốn sách của Bharadwaj còn đề cập vải trang phục của phi công được
chiết suất từ thảm thực vật dưới nước và chế độ dinh dưỡng của các “phi công” gồm
sữa trâu, bò và cừu. Sách Vimana Samhita cũng đề cập cách thức di chuyển của
máy bay: “Đi từ hành tinh này sang hành tinh khác”.
Garga Muni khai sáng ngành
chiêm tinh học vào thế kỷ thứ nhất.
Garga Muni là một nhà chiêm tinh học thời vua Prithu. Tương
truyền rằng, Garga Muni có niềm đam mê quan sát và nghiên cứu các chòm sao. Một
số văn tự Jyotisha thời cổ đại đề cập đến thiên văn học được cho là của Garga
Muni. `
Cuốn Garga Samhita, một bản văn tự bằng tiếng Phạn của ông có
niên đại từ khoảng thế kỷ thứ nhất, tổng hợp sáu chương về khoa học chiêm tinh
thời cổ đại. Còn văn tự Garga Purana của ông thì đặt ra các quy tắc của chiêm
tinh học một cách chi tiết.
Học thuyết ông hé lộ Trái đất và Mặt trăng đều là hình
cầu,ông cũng nghiên cứu nắm được quỹ đạo của Mặt Trăng và tính được các kỳ
trăng tròn và trăng khuyết. Ông còn phần biệt được 5 hành tinh Kim, Hỏa,
Mộc, Thủy, Thổ, biết được một số chòm sao và sự vận hành của các ngôi sao
chính.
Hàng ngàn năm trước, Vishwamitra đã sáng chế ra một thứ
vũ
khí có hình thức vận hành như tên lửa hiện đại ngày nay.
Trước khi trở thành là một trong những nhà hiền triết được
kính trọng nhất ở Ấn Độ thời cổ đại, Vishwamitra là một vị vua anh minh và đồng
thời cũng là một chiến binh dũng cảm.
Hàng ngàn năm trước, để bảo vệ thành trì của mình, ông đã
phát minh ra tên lửa hay một điều gì đó tương tự như hệ thống tên lửa đẩy hiện
đại ngày nay .Là một chiến binh, ông đã sử dụng những vũ khí này và hướng dẫn
cho các chiến binh cách thức hoạt động của tên lửa trong văn tự cổ Rigveda.
Văn tự ghi chép như sau: “Những tên lửa đó sáng rực và khá kỳ
lạ. Một số giống như lửa, một số giống như khói, và một số giống như Mặt Trăng
và một số giống như Mặt Trời”. Mãi đến đầu thế kỷ 20, các nhà khoa học mới phát
minh ra tên lửa đẩy
Sushruta là danh y nổi bật nhất về Khoa học
Phẫu thuật trong
khoảng thời gian 1200-600 TCN.
Sushruta là một danh y phẫu thuật người Ấn Độ cổ đại và là
tác giả của luận thuyết Sushruta Samhita. Ông được mệnh danh là “cha đẻ của
ngành phẫu thuật” và được coi là một trong những danh y nổi bật nhất về Khoa học
Phẫu thuật trong khoảng thời gian 1200-600 TCN.
Một trong những văn tự đầu tiên về y học là Bower (thế kỷ thứ
4 hoặc thứ 5 trước CN). Trong những văn tự này hé lộ rằng ông đã học phẫu thuật
để chữa bệnh tại Varanasi từ bậc thầy Dhanvantari, một thần y trong thần thoại
Hindu.
Sushruta vừa là thầy thuốc vừa là thầy giáo dạy về y học và để
lại một cuốn ghi chép về phương pháp khám và trị bệnh, trong đó ông mô tả rất
chi tiết về các môn giải phẫu, sản khoa… Mặc dù bị các tu sĩ Bà la môn phản đối,
ông chủ trương phải mổ tử thi để thực nghiệm. Chính ông là người đầu tiên đã lấy
một mảnh da trên cơ thể người để đắp vào vành tai bị đứt lìa mà ngày nay y học
hiện đại gọi là Phẫu thuật thẩm mỹ. .
Acharya Charak là một danh y
da liễu nổi tiếng vào thế kỷ thứ
2
Acharya Charak là một danh y nổi tiếng vào thế kỷ thứ 2,
là ngự y của vua Canisca thuộc vương triều Cusan, đồng thời cũng là một
“chuyên gia” về da liễu. Acharya Charakđã nghiên cứu về cơ thể, về tử cung và
các loại thảo dược. Những loại thuốc dành cho các bệnh phổ biến nhất ngày
nay như bệnh tiểu đường, bệnh tim… được ông phát hiện cả nghìn năm trước.
Tác phẩm “Charak Samhita” của ông là một cuốn y học đã sớm có
từ buổi đầu bình minh thuở hồng hoang, đã được dịch ra tiếng Ảrập, sau đó
được dịch ra nhiều thứ tiếng khác trên thế giới và cho đến nay vẫn có giá trị để
tham khảo. Nó cũng được coi là tác phẩm dược học cổ nhất, trong đó mô tả chi tiết
công dụng và tính năng chữa bệnh của hơn 100.000 loại thảo mộc.
Ông đã chứng minh sự tương quan giữa tâm linh và thể chất có ảnh
hưởng rất lớn đến việc chẩn đoán và chữa bệnh. Ông cũng đã quy định và đề ra những
điều lệ đạo đức cho những người hoạt động trong ngành y vào thế kỷ thứ hai, nhiều
năm trước khi “Lời thề Hippocrate” ra đời tại Hy Lạp. Trong đó, ông
xác định bổn phận của người thầy thuốc là trị bệnh thì không nghĩ đến danh lợi,
mà là cứu nhân độ thế.
Patanjali là một nhà hiền triết Ấn Độ cách đây
5000 năm và đề
ra Kinh Yoga (Yoga sutra)
Patanjali là một nhà hiền triết Ấn Độ cách đây 5000 năm và đã
đề ra Kinh Yoga (Yoga sutra). Kinh Yoga của Patanjali là kinh điển quan trọng
nhất trong hệ thống Yoga, nói về Raja Yoga (Yoga vua), là khoa học Yoga cao cấp
nhất và được coi là nền tảng căn bản của các nhánh kỹ thuật yoga trong thời đại
ngày nay.
Từ Yoga mà nhà hiền triết Patanjali đề ra bắt nguồn từ tiếng
Sankrist cổ, có nghĩa là Sự hợp nhất (Union). Tức là sự hợp nhất, kết nối giữa
linh hồn và thần thánh, hay là sự kết hợp giữa bản thể và vũ trụ. Yoga không những
chỉ có nghĩa là diễn tả trạng thái kết hợp mà còn có nghĩa là đạt được trạng
thái kết hợp ấy
Khoảng 2.600 năm trước, Acharya Kanad đã phát triển
khái niệm
mà ngày nay chúng ta gọi là lý thuyết nguyên tử.
Trong thời hiện đại, nhà vật lý và hóa học người Anh John
Dalton được ghi nhận là người đặt nền móng cho lý thuyết nguyên tử vào thế kỷ
19. Tuy nhiên, ông không phải là người đầu tiên khám phá ra các khái niệm về
nguyên tử.
Cách đây khoảng 2.600 năm, Acharya Kanad, một nhà triết học
và là nhà tư tưởng học vĩ đại người Ấn Độ đã có những khám phá vượt xa thời đại
của ông, đã phát triển khái niệm mà ngày nay chúng ta gọi là lý thuyết nguyên tử.
Acharya Kanad là người đầu tiên trên thế giới thảo luận về
nguyên tử và phân tử. Ông nói rằng “Mọi đối tượng trong quá trình của sự sáng tạo
đều được tạo ra từ các nguyên tử, rồi các nguyên tử tổ hợp với nhau để tạo
thành các phân tử.”
Ông phát hiện ra rằng vũ trụ được tạo thành từ “kana” có
nghĩa là các nguyên tử. Ông đã nghiên cứu lý thuyết nguyên tử và tìm ra cách
các nguyên tử di chuyển và phản ứng với nhau.
Acharya Kapil sinh thời vào khoảng năm
3000 TCN có những khám
phá về vũ trụ
Acharya Kapil sinh thời vào khoảng năm 3000 Trước Công
nguyên, cùng thời với hai nhà hiền triết Kardam và Devhuti. Ông đã để lại cho
nhân loại một văn tự cổ vô giá là cuốn Sankhya. Công trình tiên phong của ông
đã rọi ánh sáng cho sự hiểu biết của con người về nguồn gốc và nguyên tắc của
Linh hồn tối thượng (Purusha), về vật chất nguyên thủy (Prakruti) và sự sáng tạo
của Đấng Tối cao.
Ông khẳng định rằng, vũ trụ được tạo nên bởi vật chất nguyên
thủy năng lượng và Đấng tối cao sáng tạo vũ trụ.
Chanakya được coi là người tiên phong trong
lĩnh vực kinh tế
và khoa học chính trị từ thế kỷ 4 TCN.
Chanakya hay còn gọi là Vishnu Gupta là một nhà thông thái dưới
triều đại Hoàng đế Maurya. Sử sách cổ đại ghi chép rằng, đây là vị hoàng
đế đầu tiên cai trị Tiểu lục địa Ấn Độ thống nhất.
Chanakya được coi là người tiên phong trong lĩnh vực kinh tế
và khoa học chính trị. Những công trình nghiên cứu của ông được coi là tiền
thân quan trọng của nền kinh tế thời cổ đại. Ông là tác giả của cuốn luận văn
chính trị Ấn Độ cổ, gọi là văn tự Arthasastra.
Tác phẩm này của Chanakya ra đời trước thời của Bernardo dei
Machiavelli khoảng 1.800 năm. Machiavelli (1469-1527) được xem là một trong những
người sáng tổ ra nền khoa học chính trị hiện đại và là nhân vật trọng yếu của bộ
máy chính trị nước Ý thời Phục Hưng thế kỷ 16.
Xuân Trường
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét