Âm hưởng văn học dân gian
Tú Xương phần lớn sử dụng thứ ngôn ngữ “nôm na” thông dụng,
bình dân, ít dùng từ Hán. Đặc biệt, nhà thơ đã sử dụng rất nhiều “thi liệu, văn
liệu” từ văn học dân gian.
Ca dao - dân ca, tục ngữ, thành ngữ là tinh hoa văn hóa có
chiều sâu hàng ngàn năm. Thi liệu, văn liệu văn học dân gian là viên ngọc lấp
lánh trí tuệ và muôn màu kinh nghiệm của nhân dân. Như một quyển sách không có
trang cuối, mỗi thế hệ người Việt đều được thừa hưởng di sản tinh thần vô giá ấy
để làm phong phú cho đời sống ngôn ngữ của cá nhân.
Đến lượt mình, mỗi cá nhân khi sử dụng ca dao, tục ngữ, thành
ngữ là mở rộng biên độ ngữ nghĩa, sáng tạo thêm hoàn cảnh sử dụng và những nét
nghĩa mới cho ngôn ngữ dân gian. Các chủ đề trong thơ Tú Xương đa dạng và phong
phú đi sát vào hiện thực đời sống. Nội dung khái quát của nó thật rộng lớn, những
nội dung ấy cũng cần những hình thức diễn đạt đa dạng không kém.
Ca dao, tục ngữ, thành ngữ đi vào thơ Tú Xương rất đa dạng,
có khi được tác giả sử dụng gần như nguyên bản, có khi bẻ ra vài từ, chêm xen từ
ngữ hoặc mượn ý của văn học dân gian mà diễn đạt. Nguyễn Đình Chú nhận định:
“Trước Tú Xương, Hồ Xuân Hương cũng đã từng đưa ngôn ngữ thông dụng vào trong
thơ nhưng với Hồ Xuân Hương mới chỉ là một phần hạn chế nhất định của đời sống.
Cho đến Tú Xương thì gần như toàn bộ đời sống xã hội đã đột nhập vào trong
thơ”.
Trong số 134 thi phẩm của Tú Xương có 34 lần tác giả sử dụng
thi liệu văn học dân gian. Trong đó, tục ngữ và thành ngữ là 27, ca dao là 7 lần.
Phương thức sử dụng các thi liệu dân gian của nhà thơ cũng rất đa dạng.
Sử dụng nguyên thể hoặc gần nguyên thể: Bài Than cùng:
“Ai trói voi bỏ rọ” - Trói voi bỏ rọ. (Thành ngữ); bài Bực
mình: “Được voi tấp tểnh lại đòi tiên” - Được voi đòi tiên. (Thành
ngữ); bài Mừng ông Cử lấy vợ bé: “Chim khôn sao khéo đỗ nhà quan” - Chim
khôn đậu nóc nhà quan/ Trai khôn tìm vợ, gái ngoan tìm chồng (Ca dao).
Sử dụng bộ phận: Bài Tự trào: “Lúc túng toan lên bán cả
trời” - Bán trời không văn tự. (Thành ngữ); bài Không vay mà trả: “Kìa
người ăn ốc đà khôn chửa” - Kẻ ăn ốc người đổ vỏ. (Tục ngữ);
bài Tự vịnh: “Rượu chè trai gái đủ tam khoanh” - Tam khoanh tứ đốm. (Thành
ngữ); bài Thương vợ: “Lặn lội thân cò khi quãng vắng”- Cái
cò lặn lội bờ sông/ Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non. (Ca dao);
bài Cô hầu gửi quan lớn: “Cái cóc bôi vôi khéo hại mình” - Cóc
bôi vôi (Tích cổ dân gian).
Mượn ý, phỏng ý: Bài Đĩ rạc đi tu: “Nghĩ mình phận
gái hạt mưa” -Thân em như hạt mưa sa/ Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày. (Ca
dao); bài Đêm buồn: “Trời không chớp bể chẳng mưa nguồn/ Đêm nảo đêm nao tớ
cũng buồn” - Đêm nay chớp bể mưa nguồn/ Hỏi người tri kỷ có buồn hay
chăng/ Cá buồn cá lội tung tăng/ Người buồn người biết đãi đằng cùng ai (Ca
dao).
Sự phong phú trong cách diễn đạt tạo ra những hình tượng nghệ
thuật gần gũi với đời sống, các thi liệu văn học dân gian được vận dụng một
cách sáng tạo, uyển chuyển giúp câu thơ mềm mại, bay bổng. Nhiều bài thơ, câu
thơ chẳng còn ranh giới phân biệt giữa thơ văn bình dân và bác học nữa. Như
trong bài thơ Thương vợ:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
“Thân cò” là một hình ảnh biểu tượng giàu sức gợi từng xuất
hiện rất nhiều trong ca dao, đi cùng với nó là những thành ngữ: “Một duyên hai
nợ”, “năm nắng mười mưa”, “lặn lội thân cò”, giúp ta hình dung ra hình ảnh tảo
tần của bà Tú. Với việc sử dụng chất liệu dân gian, những câu thơ của Tú Xương
trở nên bình dị, ngọt ngào, sâu lắng, đi vào lòng người nhẹ nhàng như lời ru của
mẹ về cánh cò.
Ông bám làm chi đứa trọc đầu,
Đầu không có tóc bám vào đâu.
(Vay sư không được)
Tú Xương mượn lối nói của câu tục ngữ “bám thằng có tóc, ai
bám thằng trọc đầu”. Nếu như câu tục ngữ là sự đúc rút kinh nghiệm “bám thằng
có tóc” làm gì cũng phải có cơ sở, phải chắc chắn nắm đằng chuôi thì Tú Xương
cũng dựa vào ý đó mà thêm giễu cợt, đả kích.
Ở nhiều bài thơ, Tú Xương dùng các đại từ nhân xưng “anh, em,
mình, ta, người, ai” ngọt ngào êm dịu như những câu ca dao:
Ước gì anh hóa ra dưa,
Để cho em tắm nước mưa chậu đồng.
Ước gì anh hóa dưa hồng,
Để cho em bế em bồng trên tay.
(Hóa ra dưa)
Ai ơi còn nhớ ai không,
Trời mưa một mảnh áo bông che đầu.…
Non non, nước nước, tình tình,
Vì ai ngơ ngẩn cho mình ngẩn ngơ.
(Áo bông che đầu)
Âm hưởng thi liệu của văn học dân gian trong thơ Tú Xương rất
rõ nét. Nếu ở khía cạnh trào phúng thì làm cho chất châm biếm đả kích trở nên
trí tuệ, hóm hỉnh hơn và phần nhiều Tú Xương học tập từ tục ngữ, thành ngữ thì ở
góc độ trữ tình, âm điệu ca dao - dân ca là chủ yếu tạo nên sự đằm thắm thiết
tha trong những biểu hiện cảm xúc lãng mạn.
VŨ VĂN TUẤN
Nguồn: Báo Giáo dục & Thời đại
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét