Tiểu thuyết phương Tây đã tiến rất xa trên hành trình gần 10
thế kỷ của mình qua những biến đổi về kỹ thuật tự sự của nó, trong đó có vấn đề
cấu trúc. Sartre nói: "Chúng ta đang sống trong thời đại của sự suy tư và
tiểu thuyết bắt đầu suy ngẫm về bản thân nó". Nói cách khác: nhà văn bắt đầu
suy ngẫm về tiểu thuyết trong thời đại suy tư.
1. Tiểu thuyết có phải là một truyện kể dài?
Đã có định nghĩa cho số trang của một truyện ngắn là từ vài dòng đến vài chục trang; tiểu thuyết rất khó dừng lại ở con số đó. Tiểu thuyết thường nhiều hơn về số trang là điều dễ hiểu, bởi chỉ có ở trong thân xác to lớn, nó mới mang chứa được nhiều vấn đề, "phủ sóng" được một diện rộng lớn của đời sống. Nhận định dưới đây của Paul Bourget, nhà văn và nhà phê bình Pháp thế kỷ 20, có thể cho thấy bản chất của hai thể loại trên, qua đó cũng giải thích phần nào về sự chênh lệnh số trang của chúng: "Phong cách của truyện ngắn và của tiểu thuyết rất khác nhau. Phong cách của truyện ngắn là thuộc về tình tiết. Cái tình tiết mà truyện ngắn dự định diễn tả, truyện ngắn đã tách nó ra, làm cô lập nó lại. Các tình tiết mà cả dãy đã làm nên đối tượng của tiểu thuyết, tiểu thuyết đã làm ngưng kết chúng, nối chúng lại với nhau. Tiểu thuyết tiến hành thông qua các triển khai, còn truyện ngắn thông qua sự tập trung... Truyện ngắn là độc tấu. Tiểu thuyết là giao hưởng".
Đã có định nghĩa cho số trang của một truyện ngắn là từ vài dòng đến vài chục trang; tiểu thuyết rất khó dừng lại ở con số đó. Tiểu thuyết thường nhiều hơn về số trang là điều dễ hiểu, bởi chỉ có ở trong thân xác to lớn, nó mới mang chứa được nhiều vấn đề, "phủ sóng" được một diện rộng lớn của đời sống. Nhận định dưới đây của Paul Bourget, nhà văn và nhà phê bình Pháp thế kỷ 20, có thể cho thấy bản chất của hai thể loại trên, qua đó cũng giải thích phần nào về sự chênh lệnh số trang của chúng: "Phong cách của truyện ngắn và của tiểu thuyết rất khác nhau. Phong cách của truyện ngắn là thuộc về tình tiết. Cái tình tiết mà truyện ngắn dự định diễn tả, truyện ngắn đã tách nó ra, làm cô lập nó lại. Các tình tiết mà cả dãy đã làm nên đối tượng của tiểu thuyết, tiểu thuyết đã làm ngưng kết chúng, nối chúng lại với nhau. Tiểu thuyết tiến hành thông qua các triển khai, còn truyện ngắn thông qua sự tập trung... Truyện ngắn là độc tấu. Tiểu thuyết là giao hưởng".
Tiểu thuyết tổ chức một số lượng lớn nhân vật tập hợp lại hoặc
chống đối nhau, trải ra trong một thời gian, không gian rộng lớn và uyển chuyển:
Tiểu thuyết Giáo dục tình cảm của Flaubert trải ra trong 17 năm đã
đưa độc giả đến rất nhiều nơi chốn ở Paris gặp gỡ với thế giới nghệ sĩ, những
người phụ nữ đa tình, những người lịch sự, những nhà cách mạng... Trong Đi
tìm thời gian đã mất (có thời gian cốt truyện khoảng 40 năm), Proust đã để
cho nhân vật trung tâm của ông phải đương đầu với biết bao cản trở, bị xô đẩy
giữa nhiều cám dỗ (nhục cảm, sự lười biến...) để đến tận sau ba nghìn trang mới
tìm ra chìa khóa cho khuynh hướng viết văn của mình, cũng có nghĩa là cho cuốn
tiểu thuyết tương lai: đây là cuốn tiểu thuyết hoàn thành viết về cuốn tiểu
thuyết đang trở thành. Và Proust đã kịp đặt bốn chữ Hết cho kiệt tác
của mình. Tuy nhiên có nhà phê bình hâm mộ Proust (và cả một chút đùa bỡn) đã
coi bộ Đi tìm thời gian đã mất chỉ là lời nói đầu cho cuốn tiểu thuyết
tương lai. Ngược lại, truyện ngắn hết sức hạn chế về số lượng nhân vật cũng như
thời gian, không gian: 24 giờ để kể về Nhà chứa Tellier của
Maupassant; Lời phán quyết của Kafka chỉ xảy ra trong vài tiếng, sau
khi viết bức thư cho một người bạn, nhân vật trở lại phòng của người cha.
Từ những nhận định về bản chất khác nhau của truyện ngắn so với
tiểu thuyết cũng như một vài dẫn chứng vừa nêu đã cho thấy số trang cần thiết
và bắt buộc của tiểu thuyết là không thể quá ngắn để dung chứa một hàm lượng nội
dung xã hội, con người mà nó định diễn tả. Trước đây vào nửa đầu thế kỷ 20 trở
về trước, con người bình tĩnh hơn với những Chiến tranh và hòa bình, Tấn
trò đời, Gia đình Rougon-Macquart, Gia đình Thibault hay Đi tìm thời
gian đã mất... Ngày nay, số trang trung bình của tiểu thuyết Pháp, lớn bù bé là
khoảng trên dưới 250 trang. Cuốn sách được giải Goncourt năm 2002, Những
bóng tối lang thang, chưa đến 200 trang. Có lẽ điều đó phù hợp với nhịp sống
bận rộn của thời hiện đại với những kỹ thuật mới, sự căng thẳng của công việc,
thời gian eo hẹp, những trò giải trí muôn vẻ chăng?
Như vậy, thông thường tiểu thuyết phải dài hơn truyện ngắn.
Song có phải bất cứ một tác phẩm dày nào cũng là tiểu thuyết, hay mới chỉ dừng
lại ở một truyện ngắn dài? Vấn đề dài hay ngắn đến đây lại chỉ còn là tương đối.
Phần quan trọng để được gọi là tiểu thuyết còn ở cấu trúc của nó.
2. Cấu trúc của tiểu thuyết hiện đại
Tadié, nhà phê bình, chuyên gia về Proust hiện nay của Pháp,
cho rằng: "Nói về một văn bản (nghệ thuật), chính là đã đang chỉ ra cấu
trúc". Không có nhà văn viết tiểu thuyết nào lại không lập sơ đồ hoặc sửa
chữa trong quá trình in ấn. Sang thế kỷ 20, các nhà văn phương Tây đặc biệt chú
ý đến cấu trúc tiểu thuyết. Trong tiểu thuyết từng có những cuộc tranh luận về
cấu trúc đóng và cấu trúc mở. Dưới đây là những quan niệm của nhà Tadié về hai
loại cấu trúc này.
Cấu trúc đóng: Một tác phẩm khép lại chính nó, cái kết thúc gặp
gỡ cái mở đầu, cũng mới chỉ là một cách hiểu về kiểu đóng. "Một truyện kể,
được kết thúc bởi tác giả của nó, có một kết luận rõ ràng, thì cấu trúc của nó
là đóng".
Trong loại cấu trúc này, Tadié nghiên cứu 3 kiểu mẫu: Tiểu
thuyết về cá nhân, về gia đình và về tập thể. Ngay từ cái tên truyện có tên
nhân vật đã chỉ ra sự hình thành của một cá nhân, hành trình và cả những khủng
hoảng lớn của nó (Tonio Kroger, Felix Krull của Thomas Mann;Cái chết
của Virgile của Broch; Ada của Nabokov...), hoặc những tiêu đề
mang tính tượng trưng: Đôi cánh của bồ câu, Tháp ngà (James), Con
đường tối (Conrad) hay những tiêu đề chỉ không gian: Núi kỳ ảo (T.
Mann); Trên những vách đá cẩm thạch (Junger); Cuộc dạo chơi dưới
ngọn hải đăng (V.Woolf); không gian xác định đó là địa điểm chính nơi diễn
ra hành động, nhân vật đến và vượt qua những giới hạn của nó, như Lâu đài của
Kafka, nơi mà nhân vật hy vọng đến nhưng chẳng bao giờ tới được. Một số nhà văn
đã đặt tên cho tác phẩm của mình theo kiểu trừu tượng cho lịch sử cuộc đời của
nhân vật: Đi tìm thời gian đã mất, Thân phận con người, Niềm vui, Buồn
nôn... Proust, Malraux, Bernanos, Sartre đều khép lại tác phẩm về các nhân
vật trung tâm của họ xung quanh một đề tài lớn, chỉ ra một ý nghĩa triết học ẩn
giấu.
Chính những thủ pháp của việc kể chuyện, như việc kể theo trục
tuyến tính của thời gian, theo đó là trật tự trước sau của các biến cố, trình
bày nhân vật một cách rõ ràng, các nơi chốn cụ thể của cuộc phiêu lưu, là những
mẫu mực cho kiểu cấu trúc đóng. Ngay cả khi nhà văn sử dụng những thủ pháp khác
như đảo lộn thời gian, hay những phối cảnh mâu thuẫn nhau cũng vậy: Đi tìm
thời gian đã mất là một cấu trúc đóng, mở đầu và kết đều bằng một từ thời
gian kể về hành trình của nhân vật từ trẻ đến già, về sự hình thành dần thiên
hướng viết văn.
Cấu trúc mở: Umberto Eco viết: "Mọi các tác phẩm nghệ
thuật, ngay cả khi nó là một hình thức đã hoàn tất về tổ chức đã được định cỡ một
cách chính xác, đều là mở, ít ra là trong những gì mà nó có thể được diễn giải
từ những cách khác nhau...".
Nói một cách dễ hiểu: tác phẩm mở là một hệ thống những ký hiệu có thể được diễn dịch ra đến vô tận. Nhưng đối với Tadié, ông không đề cập đến sự mở về nghĩa, về các ý nghĩa, mà là cấu trúc. Không phải là những tác phẩm trong sự hoàn tất của nó mà trong sự hình thành của nó: bởi vậy, Tadié nói, sự chú ý của phê bình mang tính khoa học về các bản thảo của Flaubert, Proust, Joyce là có tính chất hiện đại. Việc làm đó không phải là đi tìm lại một ý nghĩa duy nhất, mà hơn thế là tìm lại cái bất ngờ, sự lóe ra mang tính chất nguyên lai, cái tự do.
Nói một cách dễ hiểu: tác phẩm mở là một hệ thống những ký hiệu có thể được diễn dịch ra đến vô tận. Nhưng đối với Tadié, ông không đề cập đến sự mở về nghĩa, về các ý nghĩa, mà là cấu trúc. Không phải là những tác phẩm trong sự hoàn tất của nó mà trong sự hình thành của nó: bởi vậy, Tadié nói, sự chú ý của phê bình mang tính khoa học về các bản thảo của Flaubert, Proust, Joyce là có tính chất hiện đại. Việc làm đó không phải là đi tìm lại một ý nghĩa duy nhất, mà hơn thế là tìm lại cái bất ngờ, sự lóe ra mang tính chất nguyên lai, cái tự do.
Như vậy ta thấy quan niệm về đóng, mở của hai người có khác
nhau do xuất phát từ hai hướng nghiên cứu khác nhau. Umberto Eco quan niệm về
"tác phẩm đóng" theo nghĩa không còn diễn giải gì được nữa về ý nghĩa
trong tác phẩm, mọi thứ đã được nhà tiểu thuyết nói trắng ra hết rồi; còn
"Tác phẩm mở" (cũng là tên một tác phẩm của Eco) là mở ra vô tận về ý
nghĩa. Ngược lại, Tadié như chúng ta vừa thấy, ông đi tìm cấu trúc mở theo nghĩa
đi tìm hình thù nguyên lai trong sự sáng tạo của nhà văn. Tadié coi những tác
phẩm có cấu trúc mở là những tác phẩm được sắp xếp theo kiểu số học này đã
thông báo rằng đó là một tác phẩm mở, bởi những tính toán của nó rất thường khi
bị giấu đi và ý nghĩa của nó mang tính tượng trưng. Tác phẩm mở còn nằm ở những
cấu trúc mẩu đoạn hoặc cấu trúc cắt dán, lắp ghép, bấp bênh, cấu trúc chưa hoàn
tất.
Tiểu thuyết phương Tây đã tiến rất xa trên hành trình gần 10
thế kỷ của mình qua những biến đổi về kỹ thuật tự sự của nó, trong đó có vấn đề
cấu trúc. Sartre nói: "Chúng ta đang sống trong thời đại của sự suy tư và
tiểu thuyết bắt đầu suy ngẫm về bản thân nó". Nói cách khác: nhà văn bắt đầu
suy ngẫm về tiểu thuyết trong thời đại suy tư.
Từ đó nội dung cuộc sống cũng được kể theo một kiểu khác: "Một cuốn tiểu thuyết trình bày một cốt truyện có đầu có cuối không phải thuộc về sáng tạo của thể loại. Một số tiểu thuyết đương đại chẳng hề kể gì cả. Tuy nhiên, tiểu thuyết thường xuyên phải mang lại - nếu không đã không phải là tiểu thuyết - một ý thức về thời lượng mà ở bên trong nó có vô vàn những biến cố để chiếm chỗ" (Pierre Louis Rey). Cái vô vàn những biến cố đó là nội dung xã hội, lịch sử, hòa bình, chiến tranh, yêu ghét, cưới xin, tang ma... cả những suy tư về chính tiểu thuyết đã đến chiếm chỗ trong những thời lượng của Đi tìm thời gian đã mất hay trong bất kỳ cuốn tiểu thuyết nào đó được gọi là đích thực.
Từ đó nội dung cuộc sống cũng được kể theo một kiểu khác: "Một cuốn tiểu thuyết trình bày một cốt truyện có đầu có cuối không phải thuộc về sáng tạo của thể loại. Một số tiểu thuyết đương đại chẳng hề kể gì cả. Tuy nhiên, tiểu thuyết thường xuyên phải mang lại - nếu không đã không phải là tiểu thuyết - một ý thức về thời lượng mà ở bên trong nó có vô vàn những biến cố để chiếm chỗ" (Pierre Louis Rey). Cái vô vàn những biến cố đó là nội dung xã hội, lịch sử, hòa bình, chiến tranh, yêu ghét, cưới xin, tang ma... cả những suy tư về chính tiểu thuyết đã đến chiếm chỗ trong những thời lượng của Đi tìm thời gian đã mất hay trong bất kỳ cuốn tiểu thuyết nào đó được gọi là đích thực.
Đào Duy Hiệp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét