Một truyện ngắn kỳ lạ đến ngỡ ngàng. Một bức tranh trừu tượng rất nhiều màu sắc, hình dáng, góc độ… đan vào nhau đẹp… nghẹn thở, nhưng
người xem ngơ ngác…
Bởi người xem chỉ hiểu được đúng một màu sắc, một hình dáng,
một góc độ… họ quan tâm mà thôi.
Thử nhắm mắt lại: chỉ nghe tiếng sóng biển, biển- thứ rượu
vang sóng sánh sẫm màu trong chiếc ly duy nhất - sự việc, sự vật nhòe lẫn vào
nhau không tài nào tách bạch riêng rẽ nổi, lâu chút nữa, đột nhiên
ngửi thấy mùi hương, không bằng khứu giác, mà bằng toàn bộ sự tập trung ý thức
để nhận thức, và… từ từ hiểu, hay đúng hơn: từ từ thấm linh hồn của truyện
ngắn này.
Một truyện ngắn không dễ đọc chút nào. Lạ!.
Tên truyện: Hương cô quạnh. Trạng thái cô quạnh này tôi không
nhìn thấy, hay có lẽ với Phan Nguyên cảm giác lẻ loi đi tìm ý nghĩa của đời
mình được đặt tên là sự cô quạnh? Tôi chỉ nhìn thấy một không - thời gian nhất định nào đó (bắt buộc) phải xảy ra trong một đời sống, khi nhân vật
NGƯỜI của chúng ta đột ngột dừng lại giữa con đường (bản năng) hăm hở, dừng lại, kinh ngạc… thấy đất lở dưới chân hắn.
Đứng chôn chân giữa trời, không chạy, không đi, không động đậy,
hắn chợt nhận ra vòng quay của đời mình, không những vậy, từ từ chậm chạp, hắn
nhìn thấy vòng quay này đan chéo dọc ngang với biết bao vòng quay khác, của những
kẻ xa lạ, nhìn thấy thế gian ở góc độ từ trước tới nay hắn không hề biết… Cuộc
gặp gỡ với những người khác. Mỗi người sống quanh chúng ta với những cá tính
riêng biệt, tựa hồ đại diện cho một khía cạnh nào đó của đời sống người, nhìn họ
hiểu họ, ta mới biết nhiều hơn về chính đời sống của ta?
Câu chuyện chỉ có ba nhân vật, không thể nói nhân vật nào cần
thiết hơn, hấp dẫn hơn hay cuốn hút người đọc hơn, chỉ có thể ngẫm nghĩ: tại
sao lại có nhân vật này?
Ông già Rossy là phần ký ức lưu trữ, là những mảng hoài bão bảo
tồn tình cảm, cảm xúc, rất u sầu, rất buồn bã, nhưng không thể thiếu, không thể
làm khác của đời sống người. Nhân vật này như muốn nói: con người
là một sinh vật quái gở tự ràng buộc bản thân nhiều nhất trong mọi ngóc ngách đời
sống của nó, đến nỗi chỉ cần một( khoảnh khắc) tự nó cắt đi một sợi dây ràng buộc
do chính nó giăng ra, cũng đủ tạo nên một cuộc cách mạng dữ dội khiến đời sống
nó thay đổi hẳn.
Và trong xã hội người, kẻ nọ là động lực, là chất
liệu giúp kẻ kia chuyển hóa, là một phần sống hữu cơ của kẻ kia. Ông già Rossy
đã giúp nhân vật TÔI (Phan Nguyên?) tìm lại thứ tạo ra chất liệu đời sống của
mình: TÌNH YÊU ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG, vào thời điểm nhân vật TÔI này không hề chờ đợi
mà…cứ ung dung thế thôi. Sự vô tư không hề biết trước ngày mai là ân sủng quý
báu nhất con người nhận được từ Sự Sống. Vì vô tư như vậy, nó mới cảm được tất
cả những gì nó chưa hề biết đến, cũng như chỉ đến cuối truyện người ta mới (thấp
thoáng) gặp lại bóng hình ông già Rossy từ hình ảnh nhân vật chính.
Những trang viết tả mùi hương không thể nắm bắt từ từ ẩn vào
trạng thái sống thường nhật của nhân vật TÔI là những trang viết rất tuyệt. Như
thể linh nghiệm, như thể trực giác…vô ngôn.
Nhân vật nữ trong truyện, tuyệt đẹp, được tác giả tạo dựng
hình dạng bằng chính bản chất của nhân vật này: bản chất VÔ HÌNH của TÌNH YÊU
NGƯỜI. Nàng luôn luôn tắm trong mùi hương của hoa, sống giữa hoa - cái Đẹp, đấy
là giấc mơ nâng niu ngàn đời với giấc mộng YÊU và được YÊU của con người.
Anna, người đàn bà không thể mất của HƯƠNG CÔ QUẠNH cũng là hình ảnh người đàn
bà vĩnh cửu trong những mối tình người siêu thực và cảm động. Rốt cuộc, hình
hài hiện diện cũng chỉ để con người hoàn toàn khẳng định nhận thức trong
suốt của nó về thế gian mà thôi.
Và thêm điều tuyệt diệu này nữa: đây là một”cây cọ” cầm
bút!.
Toàn bộ truyện ngắn này của Phan Nguyên hiện lên trong tâm
trí tôi cứ như một bức vẽ, một câu chuyện được kể lại dưới dạng VẼ, không kém
phần sâu đậm với những mảng màu, những hình dạng, những đặc thù họa tiết lạ lẫm.
Là một bức họa vì thời gian của câu chuyện như thể bị xóa nhòa, tình tiết của
câu chuyện như thể lồng quện vào nhau, tất cả chỉ như trên một mặt bằng, cùng xảy
ra, cùng hòa nhập lẫn nhau, không thể khác. Một bức tranh dành khả năng trừu tượng
hóa cho tất cả những kẻ nào thích ”nếm”, "ngửi” đời sống của nó bằng trí tưởng
tượng vô tận!.
Màu sắc trong từng câu văn của Phan Nguyên tạo nên một truyện
ngắn hết sức kỳ dị. Một lời khuyên cho tác giả: có lẽ anh (PN) nên viết
truyện… tâm linh. Chắc chắn thành công. Bởi những đoạn văn như thực như mơ
của anh được tẩm liệm bằng một thứ thảo dược đặc biệt tạo ra một thế gian đặc
biệt, vừa giả vừa thực, thoắt ẩn thoắt hiện, và khi chợt gợi nhắc đến cái thế
gian vô hình này, ai đột nhiên cũng hiểu ra, thậm chí lập tức nhận ra ngay mùi
hương riêng của nó, dù tất nhiên, chẳng phải ai cũng biết cách giãi bày ấn tượng
của mình về nó.
Bởi thế, không thể đọc HƯƠNG CÔ QUẠNH của Phan Nguyên có… một
lần.
Nguyễn Hồng Nhung
7/12/2015
Nhà xoay lưng về những đợt sóng vỗ nhịp từng hồi lên vách
núi, thường xanh màu rong rêu, nhưng giờ là nền đen mờ mờ bên bờ vực lởm chởm
đá, nối liền với biển sâu hút tận chân trời. Thật ra, khó mà phân biệt được trời
đất âm dương lúc không giờ một ngày hè oi bức nơi ven biển. Từ bao lơn phòng
sau nhìn xuống, không gian như khối đen lơ lửng, đặc quánh, bao trùm nuốt chửng
cả vạn vật sinh linh. Ðã bao lần tôi đứng đây căng mắt dõi vào màn đêm mênh
mông vô tận, mà cảm thấy chơi vơi một nỗi cô đơn vô cớ đến rợn người.
Trên bao lơn nhỏ như lưỡi mèo liếm vào khoảng không, tôi đứng
nghe tiếng sóng rì rào, cố hình dung ra nhan sắc thiếu nữ trọ luân phiên cùng
phòng chưa từng gặp, nhưng trước mặt, chỉ có màn đêm đang mở nụ cười tươi đỏ
chót. Gió bắt đầu lạnh. Mưa lất phất rơi. Tôi quay vào ngả lưng lên chiếc giường
nệm đơn kê sát cửa, chăn gối còn phẳng phiu, tay vẫn mân mê thỏi son nhặt được
dưới chân bàn lúc nãy và nghĩ thầm, chắc nàng còn trẻ lắm...
- Vâng. Ðộ ngoài hai mươi... Vâng, cô ta cũng lui tới cách tuần
như ông... ông thông cảm, tôi chỉ còn căn phòng ấy.
Già Rossy ngập ngừng, vẻ ái ngại như việc bất đắc dĩ phải trả
lời rồi rời ghế ngồi, lưng đổ về phía trước, lấy hộp thuốc trong túi bảo tôi
hút thử, của Hòa Lan, loại sợi thô, thơm mùi mận, hút vào êm, ngọt, không rát cổ...
Già lảng sang chuyện khác thật khéo mỗi khi tôi hỏi han những điều Già cho là rắc
rối. Mỗi sáng khi xuống cầu thang, tôi đều gặp Già Rossy ngồi lọt thỏm trong chiếc
ghế bành cũ kỹ ngay cửa sổ phòng khách, vén màn nhìn ra dốc đường bộ vắng tanh
không một bóng người. Dốc lát đá ô vuông thoai thoải dẫn đến đường cái để có xe
xuống phố. Chiều về, mở cổng vào sân, tôi vẫn thấy vầng trán nhăn nheo trên cặp
lông mày rậm bạc vắt chéo nơi khung kính, tưởng như chưa hề lay động. Chỉ có
đôi mắt Già hơi sáng lên vì một niềm vui gặp gỡ. Nhiều lần thành lệ, tôi dành
cho Già khoảng thời gian ngắn ngủi lúc đi hoặc về để nhàn tản ngồi lại với tách
cà phê, với ly rượu mạnh, cùng nhồi một tẩu thuốc nhả khói lâng lâng, và để
nghe Già kể chuyện bằng giọng đặc sệt miền nam đảo Corse. Già cũng thú chơi ống
vố như tôi nhưng vố của Già đẽo hình sọ người, xương trắng phau, cũng lạ. Già
nói để nhìn thẳng vào mặt thần chết cho quen vì bà vợ đã theo lão này cả chục
năm về trước...
- Cũng là lẽ tự nhiên thôi, tôi còn sống đến hôm nay mới
không bình thường ông ạ! Ðời sao mà lắm chuyện phản tự nhiên đến thế!
- Chuyện gì nữa hả Già?
- Ôi! thiếu gì... chuyện cá voi lao vào bãi đá chết cả đàn
năm ngoái năm kia chẳng hạn! Chuyện thiên hạ thích đi tu dưới phố! Chuyện ngừa
thai phá thai! Chuyện ông độc thân không vợ! Cả chuyện thần chết nữa... Tôi có
gặp lão ta rồi đấy, trong căn nhà này, nói chẳng ai tin!
Già nói chậm rãi, mắt nhìn mông lung, cái sọ người trên môi
Già gật lên gật xuống biểu đồng tình và tiếp tục phun khói. Tôi nổi gai ốc,
nhưng hiểu Già là người to gan can đảm, xem cái chết chẳng ra gì. Qua làn khói
bay, Già kể từ ngày vợ nhắm mắt nắm tay bảo Già đừng buồn, rồi sẽ còn gặp lại
nhau, Già không đi biển nữa, chỉ quanh quẩn đơn độc trong phòng khách, từ
đi-văng qua khung cửa sổ rồi từ cửa sổ đến ô truyền hình, ngày đêm không tắt.
Căn phòng của vợ chồng lúc trẻ cạnh phòng tôi Già cũng khoá cửa bỏ trống. Thỉnh
thoảng ra đường, là để đưa tang một người bạn tri âm tri kỷ nào đó năm xưa. Già
nhìn về phía đồng hồ quả lắc dựng đứng, to đen như hung thần giữ cửa.
- Chỉ có nó hiểu thôi! Nhân chứng của một đời người!
Tôi lắng nghe tiếng quả lắc đong đưa tích tắc đều đặn tưởng
cùng một nhịp tim đập với thời gian, và nhớ đến nhà thơ đã từng hát những lời
ai điếu cho hòn đảo xanh dương châu ngọc này. Nhà thơ ấy đã yên nghỉ nơi một
góc trời xa xôi ngập nắng. Bạn thơ ơi, vĩnh biệt.
- Thế truyện của ông đến chương nào rồi?...
Tôi trở lại với Già Rossy sau cái vẫy tay chào hướng về
phương bắc và chợt thấy giọng cực nam nước Pháp nghe cũng dễ chịu, có duyên, có
lẽ quen tai nên cảm chăng? Già cười bảo cái gì chả vậy, quen rồi cảm, cảm rồi
yêu, rồi nghiện là chuyện tự nhiên.
- Không khéo ông sẽ không rời đảo được đâu!
- Vâng, có thể lắm.
Cái ống vố của Già gật gật với tôi. Già rót thêm rượu vào ly,
đưa lên ngang mặt và ngả người theo hương bốc.
- Từ ngày ông ở đây tôi cũng đỡ trơ trọi, ngày bớt dài đêm bớt
lạnh lẽo. Tôi không đi xa và không leo dốc được nữa. Bạn bè lần lượt theo lão
thần chết cả rồi, chẳng còn ai.
- Còn cô gì...?
- Vâng... cô... Anna... Phải rồi... Phải rồi, hai người không
thể gặp nhau...
Tôi giữ im lặng. Già nhìn vào ly rượu vàng óng ánh.
- Khi ông về thì cô ta đã đi khỏi, thỏi son tôi sẽ đưa lại...
Anna còn trẻ và tốt bụng lắm, đến giúp tôi mọi việc những khi ông đi vắng, và
ngủ lại đây, cùng người làng Bonifacio cả...Cô ta còn quên gì nữa không?
Tôi lắc đầu rồi xin mượn Già hình ảnh cái ống vố kia để mai
đây đưa vào truyện.
Nhưng có một thứ không thể vay, cũng không trả được mà Anna
thường để quên, để lại trong phòng dai dẳng suốt cả tuần, đó là một mùi hoa rất
lạ. Nửa hương Quỳnh nửa Phù Dung. Cũng không hẳn là hoa mà một mùi hương mát dịu
như trăng đêm, lành lạnh như sương sớm, càng về khuya càng trong, càng đượm,
càng ngát, ru tôi vào giấc ngủ nhẹ của thiên thần. Không biết nó đến từ đâu mà
cứ thoang thoảng khắp phòng, luồn lách khắp nơi, ươm trong chăn, ủ trong gối,
miên man day dứt mãi không tan. Có điều rất lạ, ra khỏi phòng là mùi hương khựng
lại như bị dao cắt, đứt gọn như có ranh giới vô hình nào nó không vượt qua nổi
và tôi không ngửi thấy nó nữa. Không ngửi thấy nhưng nó tiếp tục ám ảnh, bám riết
lấy cân não, in đậm trong trí nhớ không tài nào quên. Ðúng như Già Rossy đã
nói. Thoạt đầu tôi bỡ ngỡ, vài ngày sau quen, vài tuần sau cảm rồi đâm nghiện,
và bây giờ, lần đầu tiên trong đời tôi biết nhớ một mùi hương... nôn nao như nhớ
một người tình. Tôi vẫn tưởng ký ức chỉ ghi nhận âm thanh, hình ảnh và màu sắc
...
Tôi đem chuyện hỏi Già Rossy vào một buổi tối mưa dầm gió bấc.
Những căn nhà mái đỏ san sát bên sườn núi đã tắt đèn, gối đầu lên nhau ngủ vùi
im lặng. Chỉ có gió rít nhẹ qua khe hở chỗ tôi ngồi, và bên ngoài hai cánh cửa
chớp bật qua tạt lại vẫy gọi từng cơn. Già đốt lò sưởi cho thêm ấm áp. Thắp ngọn
nến hồng để giữa hai ly rượu trên chiếc bàn vuông thấp, vẻ mặt tư lự.
- Thật không? Hay ông tưởng tượng, đôi khi cũng lên lầu sao
tôi không hay biết?
Tôi cam đoan với Già là không bịa và kể lại hiện tượng hương
hoa lạ lùng kia. Nó đang bị tù hãm trong căn phòng nhỏ hẹp, dứt khoát không
tan, bay toả ra ngoài, dù tôi có để cửa mở trông ra biển vẫn thế. Không lẽ chỉ
mình tôi ngửi thấy. Nhưng Già Rossy không tin. Nheo mắt nhìn tôi nghi ngờ, và hạ
thấp giọng.
- Thế ông có gặp Anna chưa?
Già bảo để hỏi Anna xem sao, trong căn nhà này mùi gì mà Già
chẳng tường tận, mùi ẩm mốc trên bốn bức tường đá ong vào mùa đông lạnh giá,
mùi dầu thông trên giường tủ bàn ghế khô cong lúc mùa hạ, mùi oải hương, mùi
bông giấy, mùi chăn mền tẩm mồ hôi trộn với khói thuốc thành thứ mùi ngai ngái
không tên, và át đi tất cả là mùi gió biển quanh năm tanh tanh mặn mặn. Chưa
bao giờ Già nghe nói đến mùi của Anna, hương hoa trong phòng có bao lơn nhìn xuống
biển, bình thường vẫn chỉ ngập mùi thời gian bụi bám. Tôi hiểu, Già nhớ mùi như
một kinh nghiệm của khứu giác, không như tôi với mùi hương của nàng. Già gõ ống
vố lên gạt tàn và châm lửa nhả ra cụm khói xanh đậm đặc. Tối nay Già không dùng
vố sọ người, thay bằng ống điếu dài khắc hình những thai nhi cuộn tròn châu đầu
nơi mồi lửa, cuống nhau chạy dài đến cuối cán dính lên môi Già rồi chui thẳng
vào mồm. Tôi chắc Già còn nhiều thứ quái đản hơn thế.
- Ông còn thấy hiện tượng gì nữa?
Tôi nhìn Già ngồi đối diện lò sưởi, ánh sáng lập loè nhảy múa
trên khuôn mặt đầy đặn hằn sâu nếp nhăn như sóng biển, tóc bạc trắng bạt ra sau
bồng bềnh gió khơi, nhưng đôi mắt Già buồn. Buồn vời vợi. Già hỏi dửng dưng
không cần câu trả lời. Và tôi, tôi vẫn ngửi thấy mùi hương nồng nàn của Anna phảng
phất đâu đây. Ngửi bằng trí nhớ. Nó không ở ngoài mà ở trong tôi, có thật, vật
chất như tim gan, nó nhập vào tôi và ... nó sống.
Tôi hỏi Già làm thế nào gặp được Anna.
- Mai tôi phải rời Bonifacio đi Florence, tuần sau sẽ về.
- Ông định gặp để làm gì?
- Ðể nhìn thấy mùi hương bằng da bằng thịt. Người đã cho tôi
thêm một khung trời.
Tôi nói với Già là tôi tỉnh táo chứ không mộng mị hay tưởng
tượng kiểu tiểu thuyết gia đang tìm hứng. Ðó là sự thật. Già vỗ vai tôi, nhỏ nhẹ.
- Vâng tôi tin ông... Chúc ông ngủ ngon.
Nhưng đêm hôm ấy Già thức rất khuya, không ngủ, lục đục mãi
và hình như có tiếng bước chân Già chậm chạp lên cầu thang, lách cách mở cửa
vào phòng đôi vợ chồng hồi còn trẻ.
Anna đã mở cho tôi một khung trời mới, nói đúng hơn, một
không gian khác thường. Không như Già Rossy nhớ mùi gió biển, mùi mồ hôi, hay
mùi khói thuốc. Tôi nhớ mùi hương của Anna như nhớ người tình, bằng cảm xúc, bằng
mộng mơ, bằng ảo giác, triền miên cả đêm lẫn ngày. Thời gian đầu, mùi hương chỉ
nhẹ nhàng phất phơ như gió thoảng, làm cho cơ thể và đầu óc thư dãn, bớt được
cơn lừ đừ mệt nhọc sau những giấc ngủ trưa. Mặt trời đổ những tia nắng chói
chang lên mái nhà Già Rossy hừng hực nóng, cảnh vật ngoài kia thẳng đứng, im
lìm chịu trận cái oi bức ngộp thở giữa trưa hè, và biển bốc hơi. Nhưng trong
phòng tôi thì vẫn mát rượi một mùi hương cực kỳ quyến rũ, nó vuốt ve mơn trớn
khắp người và cho tôi cái cảm giác lâng lâng, phe phẩy của một chiếc quạt trầm
hương. Không gì thú vị bằng. Nó lả lơi, khêu gợi, bắt tôi phải để ý đến nó, và
dụ dỗ tôi đến xiêu lòng phải thay đổi một số thói quen. Già Rossy cũng ngạc
nhiên bảo.
- Dạo này thấy ông ít ra đường, không viết lách ban đêm, lại
viết ban ngày?
Tôi nói với Già không hiểu sao tôi không thức đêm được nữa. Cứ
xâm xẩm tối là mắt mỏi rũ vì một cơn buồn ngủ kéo đến rất nhanh, không cưỡng lại
được. Già nghĩ tại tôi làm việc quá sức đó thôi. Nhưng tôi biết không phải thế.
Vì một lý do khác.
Có lần vui chơi với bạn bè, tôi đã thử một loại nha phiến gốc
Nam Mỹ, hút vào, không gian căng phồng ra với thứ ánh sáng vàng vọt lung linh của
ngọn đèn dầu lạp, mọi vật chung quanh như chuyển động quay cuồng, người dập dềnh
nhẹ tênh và cơn buồn ngủ tức thời ập đến. Ngủ mà như thức, thức thì như mơ và
sáng ra đầu nặng như đeo chì. Tôi chợt khám phá là tôi buồn ngủ vì mùi hương của
Anna trong trạng thái gần tương tự như thế, nhưng dễ chịu, sảng khoái gấp trăm
lần. Mùi hương trong căn phòng này khác với mùi hương ma tuý, nó làm tôi say
nhưng không mệt, khi thức dậy vẫn hăng hái làm việc, viết lách như mọi ngày. Từ
đó, tôi thèm những buổi hoàng hôn lúc mặt trời lặn xuống biển và nghiện những
giấc ngủ đầy khoái cảm, ấp ủ cùng mùi hương. Thời gian sau, tôi còn nghiệm được
nhiều điều rất lạ. Già Rossy hay bảo Già ngủ lúc nào... không biết. Nhưng tôi
trái lại, chỉ cần nhắm mắt mơ màng, tôi đã biết mùi hương lượn lờ đến bên cạnh,
ve vãn, kể lể, ôm ấp xác thân và óc não dần dần tê dại đi. Một luồng gió mát từng
bước xâm nhập vào người, chạy khắp châu thân từ trong huyết quản, từ đầu xuống
vai, từ vai đến bụng rồi toả rộng râm ran đến tận mười đầu ngón chân tay, và
tôi sung sướng tưởng mình có thể hoá thân thành muôn loài, thành chim thành bướm,
thành núi thành sông, thành ngàn vạn phấn hoa bay của rừng già.
Chỉ có điều đáng tiếc, Già Rossy cũng lên phòng những khi tôi
đi vắng, cũng ngủ vài đêm nhưng Già không cảm được gì. Vì Già không ngửi thấy
mùi hương của Anna. Già nghĩ ngợi nhiều, không hiểu và có vẻ buồn, một hôm Già
nói.
- Vậy là ông may mắn, hạnh phúc hơn tôi!
Từ ngày mang trong người tinh hương của loài hoa xa lạ, tôi
như được thêm đôi cánh bay bổng, thênh thang giữa đời. Nhìn đâu cũng thấy sáng
ra, màu sắc đậm hơn, tươi hơn, có khi đi giữa thành phố dầy đặc sương mù mà vẫn
nhìn tỏ mặt người. Những dốc đường quanh co khúc khuỷu, với nhà cửa thấp tầng xếp
cạnh nhau như bát úp, ở ngã ba nào đó, nay bỗng quen thuộc như đã từng đi qua,
nhưng rộng, cao, và thoáng hơn với màu gạch cua tươi rói. Hàng cây Tùng Bách
bên kia đồi uốn khúc lên tận đỉnh, trước không hề thấy, nhưng giờ cũng xanh um
màu lá mạ, thản nhiên với mây trời. Tai mắt tôi trở nên bén nhậy tinh tế lạ thường.
Có nhiều đêm, tôi nghe được hơi thở của Già phập phồng dưới nhà mặc dù rất nhẹ,
Già đã ngủ say, ở trên phòng qua mấy lần cửa kính, tôi vẫn biết táo đang rụng
ngoài sân và lá đang bay đầy ngõ. Nghe nói, thị giác cho phép con người nhìn thấy
chính mình, giống như khi xem tranh ta chỉ thấy chính ta. Nhưng trong cái nhìn
hiện tại tôi lại không thấy tôi, mà chỉ thấy Anna, một nàng hương cô quạnh và
thèm sống. Bằng một quyền lực vô hình nàng đã biến tai mắt tôi thành tai mắt của
nàng. Tôi nhìn thấy những gì nàng muốn thấy, nghe được những gì nàng muốn nghe,
và cảm được những gì nàng đang cảm.
Như lúc này, tôi biết Anna đang muốn về thăm một nơi chốn cũ.
Nàng không phải dân đảo Corse. Quê hương nàng không phải nơi đây mà tận phương
trời Ðông Bắc, quanh năm tuyết phủ ngập đường. Tôi thấy gió lạnh se sắt làn da
giữa mùa hè nắng gắt, tai nghe văng vẳng những tiếng lục lạc trên bờm ngựa phi.
Tiếng chuông nhỏ trong veo như tiếng thuỷ tinh leng keng xa dần...xa dần và
Anna bật khóc. Khóc vì một nỗi xa xôi dặm trường. Tôi buồn vui theo tâm trạng của
nàng, khi đi qua từng vùng kỷ niệm thời thơ ấu. Có ai biết nàng không thích những
buổi chiều mưa dầm dề trên thành phố biển, nhưng lại mê nhìn tuyết rơi? Tuyết
rơi phủ trắng những cánh đồng vạn dặm trên xứ sở nàng, cũng như ở đây, tuyết
bay trắng biển, trắng núi, trắng những căn nhà mái đỏ, trắng những dốc đường
quanh co, trắng tâm hồn thiếu nữ và trắng cả những cuộc đời còn son trẻ. Tôi
còn biết nàng yêu nhạc cổ điển và thích nhảy múa, những lúc ấy, trong đầu tôi lại
reo vui một vũ điệu Caucasien bập bùng ánh lửa cùng với nhịp vỗ tay rộn ràng.
Và đâu đó thấp thoáng một khuôn mặt thủy thủ phong trần, cằm vuông, lông mày xếch ngược. Nàng nói với tôi trong giấc mộng du là nàng yêu đời và muốn sống. Bao nhiêu tâm ảnh hiện ra như cuộn phim muôn màu, khi tỏ khi mờ, nhưng tôi vẫn chưa từng đối diện Anna. Không biết Anna đã lưu lạc đến đây từ bao giờ? Nàng đang ở đâu mà tôi chưa được thấy nhan sắc? Có điều chắc chắn, đeo trên thân xác tôi, mùi hương của nàng thoát được căn phòng chật hẹp ra ngoài. Và tôi đã mở cho nàng đôi cánh cửa tự do.
Và đâu đó thấp thoáng một khuôn mặt thủy thủ phong trần, cằm vuông, lông mày xếch ngược. Nàng nói với tôi trong giấc mộng du là nàng yêu đời và muốn sống. Bao nhiêu tâm ảnh hiện ra như cuộn phim muôn màu, khi tỏ khi mờ, nhưng tôi vẫn chưa từng đối diện Anna. Không biết Anna đã lưu lạc đến đây từ bao giờ? Nàng đang ở đâu mà tôi chưa được thấy nhan sắc? Có điều chắc chắn, đeo trên thân xác tôi, mùi hương của nàng thoát được căn phòng chật hẹp ra ngoài. Và tôi đã mở cho nàng đôi cánh cửa tự do.
Tuần sau tôi trở về, cố tình sớm hơn mọi lần nhưng Anna đã lại
đi mất. Trước tôi một ngày. Không hiểu sao nàng tránh gặp mặt. Hỏi Già Rossy
Già cũng không muốn trả lời. Tôi tặng Già chai rượu cùng hộp thuốc Hoà Lan, hỏi
thăm Già vài câu vội vã rồi nóng lòng muốn lên phòng. Căn phòng vẫn trông ra biển,
vẫn sạch sẽ và ngập mùi hương. Nhưng lần này tim tôi loạn lên vì trên nền gối
trắng, nằm nghiêng một nhánh hoa Vàng. Vàng Mai. Nhưng sao hoa vẫn tươi như vừa
mới cắt? Khi tôi cầm lên hoa liền đổi màu, lần lượt ngũ sắc như kính vạn hoa
thuở nhỏ lấp lánh muôn hình, biến, hiện rồi tan. Tôi biết Anna tinh nghịch và
nàng đang ở đâu đây, rất gần. Hình như có một nụ cười dịu dàng trên mặt gương gợn
sóng. Vài cánh chim mòng biển chao qua chao lại ngoài kia, cất tiếng gọi trên
cao, tha thiết lúc chiều về. Bầu trời xuống thấp và bóng tối đang lướt vào từ
ngoài khơi...
Tôi nghe bước chân Già lên cầu thang mở khoá vào phòng bên cạnh.
Có tiếng cử động sột soạt của da thịt trên mặt vải khô cứng và giọng nói chậm
rãi quen thuộc của Già.
- Cố uống bát thuốc này đi ... cho mau lại sức...
- Cố lên nào...
- Ðêm nhiều sao, chắc mai trời đẹp đấy...
Già thì thầm như vỗ về tình nhân. Ðột nhiên, nhộn nhịp những
bước chân người nện trên sàn gỗ, qua lại, hối hả, tấp nập lên xuống cầu thang,
rồi đập cửa phòng tôi thình thình vang dội. Tôi bật dậy... Nhưng hành lang
không có ai, phòng kế bên vẫn khoá cửa im ỉm và trong nhà, tuyệt nhiên vắng lặng.
Chỉ có tiếng quả lắc đong đưa tích tắc một mình với bóng đêm vì Già Rossy đã tắt
đèn yên giấc. Trăng đã lên cao. Ðồng hồ tay chỉ ba giờ rưỡi.
Những hôm sau, tôi vẫn nghe nhiều tiếng động lạ vang vang
trong giấc nửa khuya và bóng dáng Anna chập chờn ẩn hiện. Không biết tỉnh hay
mơ?... Tôi thấy một buổi chiều lang thang xuống phố, bắt gặp mùi hương lơ lửng
ngang đầu, rồi dẫn đường tôi đến một tiệm ăn nổi trôi trên mặt biển, lênh đênh
như bèo dạt giữa đại dương. Tiệm lại trang hoàng theo lối cổ kính, sang trọng,
đông khách, nhưng khi tôi bước vào mọi người đều đứng dậy bỏ đi. Còn lại một
thiếu nữ tóc nâu cắt ngắn ngồi xoay ra ánh mặt trời, lưng trần vai thon, để lộ
một nốt ruồi son với nước da trắng sữa. Tôi biết chắc chắn là Anna, vì từ thân
thể nàng ngào ngạt toả ra thứ hương thơm kỳ diệu. Chỉ ba bước nữa thì chạm được
vai nàng mà chân tôi không nhấc nổi, toàn thân như bị đóng đinh dính chặt xuống
đất. Nhưng bỗng chốc, nàng chạy ra cửa ôm chầm lấy một chàng trai, hôn môi đắm
đuối, và bóng đổ dài rơi vãi phía sau, bâng khuâng ngỡ ngàng. Tôi còn gặp Anna
thêm nhiều lần khác. Nàng ngồi trên ghế của Già nhìn mây bay vùn vụt qua cửa sổ,
những tảng mây đen cuồn cuộn đầy ắp không gian. Không bắt được dung nhan của
nàng, nhưng tôi vẫn cảm được nỗi mong chờ u uẩn trong lòng người thiếu nữ. Nàng
nói với tôi là nàng lạnh lắm. Và mới đêm qua, thấp thoáng bóng nàng đứng trên
bao lơn ngắm xuống biển, hình như có lúc, nàng đến ngồi bên đầu giường nhìn tôi
ngủ như mơ...
Tôi kể cho Già Rossy nghe những giấc mơ kỳ lạ và cố tình quên
những đoạn vô cùng ướt át, say sưa với nàng. Già rót cà phê mời tôi buổi sáng sớm
và bảo dạo này Già hay lục đục, đang dọn căn phòng hai vợ chồng thuở trước cho
Anna. Ðể khỏi phiền tôi. Già nhìn tôi đăm đăm qua làn khói thuốc, vẫn bằng đôi
mắt ướt buồn bất tận.
- Ông yêu nàng hương rồi!
- Anna là ai? - Nàng đang ở đâu? - Già làm ơn cho tôi gặp mặt!
- Vâng... ông yên tâm... để tôi bảo Anna. Tuần sau trở lại
ông sẽ gặp...
Lần cuối tôi trở về căn nhà có phòng sau nhìn xuống biển, Già
Rossy không ra đón, cũng không thấy Già ngồi nhìn ra đường như thường lệ, và
phòng khách âm u không ánh đèn. Cảnh nhà yên bình, mát lạnh, hoang vắng. Tiếng
quả lắc vẫn tích tắc đều đặn như những dấu hỏi đong đưa nghìn trùng. Bình thường
Già báo trước những khi có việc phải xuống phố, nhưng đã lâu rồi Già có đi đâu?
Linh tính báo điều không hay, tôi đảo một vòng rồi lên lầu. Trời tối đen, tiếng
sóng biển ùa vào từ cửa bao lơn mở rộng, trên bàn, tôi thấy ống vố của Già chặn
lên một mảnh giấy trắng. Vết nhăn nhúm trên nệm giường chứng tỏ có người vừa ngồi
ở đây, và nét chữ Già nắn nót viết cho tôi mấy dòng.
Anna là vợ yêu quý nhất đời tôi.
Chiếc chìa khoá này sẽ cho ông biết sự thật.
Lão thần chết đang cỡi sóng vẫy gọi ngoài kia.
Tôi đã quyết về với biển.
Tôi bước ra bao lơn nhìn xuống vực sâu thăm thẳm một màu, tay
cầm chìa khóa phòng vợ chồng Già Rossy hồi còn trẻ. Trong phòng, một bộ xương
người nằm thẳng trên mặt nệm vàng úa, và chung quanh rải đầy hoa, tràn ngập những
hoa, hoa khắp nơi, hoa trên giường, hoa dưới đất, hoa leo lên tường, hoa bám lấy
trần nhà, hoa khô, hoa héo, hoa tươi. Nhiều vô kể. Già đã ướp xác Anna bằng
trăm nghìn loài hoa đủ màu đủ sắc và hương thơm lừng.
Tôi vẫn chưa được biết dung nhan của nàng, và mãi mãi không
bao giờ biết. Tôi xuống nhà theo mùi hương bay, đến ngồi vào chiếc ghế bành
ngay cửa sổ phòng khách, vén màn nhìn ra dốc đường bộ vắng tanh và... thấy Già.
Già Rossy.
PHAN NGUYÊN
Hè 2000
7/12/2015
Nguyễn Hồng Nhung
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét