Biển trong văn chương
1/ Phạm Hầu đi tìm biển để ký thác mối tình sầu:
Phạm Hầu là một thi sĩ thời tiền chiến, sinh năm 1920 tại Quảng
Nam, và mất năm 1944. Ông chỉ có một bài thơ hay lưu lại hậu thế, nhưng đó lại
là bài thơ gây những ấn tượng khó quên cho độc giả. Bài thơ "Vọng Hải Ðài"
đã trở thành biểu tượng cho sự cô đơn, trơ trọi, chơ vơ như chính cuộc đời ông
rong chơi thoáng qua trong văn học. Ðó là hình tượng một ngọn hải đăng, một đèn
biển soi cho đêm đại dương, báo hiệu tàu đi biển đừng đến gần vùng ghềnh đá,
hãy tránh xa nơi có ánh đèn thăm thẳm quét ra. Tác giả hóa thân thành ngọn hải
đăng cô đơn. Du khách nào có ghé thăm, một lần đến rồi sẽ đi không trở lại, vì
ngọn hải đăng thường ở những nơi hẻo lánh. Du khách phù du thoáng đến thoáng
đi, nhưng hải đăng thì vẫn tháng ngày tiếp tục nhiệm vụ vẫy gọi xa khơi, vẫy gọi
cho những con tàu lặng lẽ bỏ đi. Vọng-hải-đài chính là con tim cô đơn của thi
sĩ, du khách phù du chính là hình bóng một giai nhân đến với đời ông bằng một mối
tình kiêu:
Chẳng biết trong lòng ghé những ai
Thềm son từ dội gót vân hài
Hỡi ôi! người chỉ là du khách
Giây phút dừng chân Vọng hải đài.
Cơn gió nào lên có một chiều
Ai ngờ thổi lại mối tình kiêu
Tháng ngày đi rước tương tư lại
Làm rã chân thành sắp sửa xiêu.
Thềm son từ dội gót vân hài
Hỡi ôi! người chỉ là du khách
Giây phút dừng chân Vọng hải đài.
Cơn gió nào lên có một chiều
Ai ngờ thổi lại mối tình kiêu
Tháng ngày đi rước tương tư lại
Làm rã chân thành sắp sửa xiêu.
Ta đang ở vùng Los Angeles hay San Jose, có dịp nào hãy đến
thăm ngọn hải đăng gần nhất, để dễ thông cảm với với nỗi niềm trơ trọi hiu quạnh
của thi sĩ Phạm Hầu. Chỉ cách Long Beach khoảng năm dặm có vọng hải đài
"Point Vincente", và chỉ cách San Jose khoảng mười dặm có
"Pigeon Point Lighthouse". Hãy đến vào ban đêm để thấy trời biển rộng,
ngọn hải đăng buồn và lặng lẽ với nhiệm vụ. Những con tàu đến từ bao bến bờ của
năm châu lục, thoáng thấy ánh đèn xanh ngời của vọng hải đài thì kéo hồi còi
"cám ơn" rồi tránh xa. Vọng hải đài thức trọn đêm, chứng kiến những bỏ
đi. Một sắc không bờ của trùng dương buổi sáng hôm sau chính là sa mạc trong
lòng thi sĩ:
Trống trải trên đài du khách qua
Mây ngày vơ vẩn, gió đêm là
Muôn đời e hãy còn vương vấn
Một sắc không bờ trên biển xa.
Lòng xiêu xiêu hồn nức hương mai
Rạng đông về thức giấc hoa nhài
Ðưa tay ta vẫy ngoài vô tận
Chẳng biết xa lòng có những ai?
Mây ngày vơ vẩn, gió đêm là
Muôn đời e hãy còn vương vấn
Một sắc không bờ trên biển xa.
Lòng xiêu xiêu hồn nức hương mai
Rạng đông về thức giấc hoa nhài
Ðưa tay ta vẫy ngoài vô tận
Chẳng biết xa lòng có những ai?
Hàn Mặc Tử trong một câu thơ, tự hỏi có tính cách hướng nội,
vì biết từ lòng mình là vậy mà không rõ người khác có như thế hay không: "Ai
biết tình ai có đậm đà!" Còn câu hỏi của Phạm Hầu có tính hướng ngoại
gần như trách móc: "Chẳng biết xa lòng có những ai?". Ai xa mặt
rồi cách lòng, nhưng thi sĩ hay vọng-hải-đài thì vẫn ngàn năm vẫy gọi những bỏ
đi không hy vọng quay về.
2/ Mai Thảo đi tìm biển để xa lánh phiền não:
Trong một bài thơ, nhà văn Mai Thảo gợi cho ta nhớ đến cuộc nổi
loạn của tàu Bounty vào năm 1787 do trung úy Fletcher cầm đầu, tại vùng Nam
Thái Bình Dương. Tàu Bounty, thuộc hải quân đế quốc Anh, có nhiệm vụ đi lấy cây
giống của trái Breadfruit (trái bánh mì, ta gọi là trái sa-kê), thực phẩm chính
của dân các hải đảo thuộc tộc người Polynesean. Nổi loạn cướp tàu giữa biển, họ
bức bách thuyền trưởng William Bligh xuống một ca-nô nhỏ, cùng vài người trung
thành, cùng đồ ăn thức uống đầy đủ có thể sống trong vòng một tuần lễ, phó thác
may rủi cho đám người đó trên đại dương bao la. Với tài ba và kinh nghiệm, vị
thuyền trưởng hà-khắc này đã lèo lái chiếc ca-nô mong manh mấy ngày đêm, may gặp
chiến thuyền Anh, và sau cùng họ cũng về tới Anh. Chính vị thuyền trưởng Bligh
về sau chỉ huy chiến thuyền trở lại Nam Thái Bình Dương để lùng kiếm đám thủy
thủ nổi loạn.
Còn về đám người theo trung úy Fletcher, mà nguyên nhân họ nổi loạn một phần vì sự hà khắc của thuyền trưởng, một phần vì "phải lòng" những cô gái mỹ miều mạnh khoẻ của đảo Tahiti, một phần vì thấy đời sống nơi hải đảo quá tuyệt vời, họ không thể từ biệt để về lại Anh Quốc. Sau khi cướp tàu, Fletcher với tám người đồng bọn dẫn theo một số người Polynesean trên đảo, dong tàu đến một nơi bí mật, và biến dạng trong đại dương bao la. Rất lâu sau này, người ta mới biết nơi đó là đảo Pitcairn xa xôi chưa có dấu chân người, phía Tây Nam Tahiti vài trăm hải lý. Họ đốt tàu để tuyệt lộ đường về, sống hạnh phúc với thiên nhiên và tình yêu mà họ lựa chọn ở với người Polynesean. Hải quân Anh đã hoài công truy lùng để đưa họ về Anh lãnh án tử hình do tội cướp tàu theo luật Hải quân Anh. Họ đã có con cháu nhiều thế hệ, một thế kỷ tìm chốn bồng lai đã trải qua trên đảo Pitcairn. Họ cắt đứt mọi liên hệ với xã hội Anh tại chính quốc, kể cả các đảo thuộc địa Anh trong Thái Bình Dương. Xa lánh mọi dòm ngó, họ giống như loài voi chôn giấu tông tích: chúng đi tìm giấc ngủ ngàn thu nơi đáy rừng sâu thẳm (vì vậy người ta hiếm khi khám phá thấy mộ địa của loài voi). Từ sự kiện lịch sử đó, và cùng muốn đi tìm chốn an nhiên xa thế gian, nhà văn Mai Thảo đã gói ghém vào một đoạn thơ trong bài "Chờ Ðợi Nghìn Năm":
Còn về đám người theo trung úy Fletcher, mà nguyên nhân họ nổi loạn một phần vì sự hà khắc của thuyền trưởng, một phần vì "phải lòng" những cô gái mỹ miều mạnh khoẻ của đảo Tahiti, một phần vì thấy đời sống nơi hải đảo quá tuyệt vời, họ không thể từ biệt để về lại Anh Quốc. Sau khi cướp tàu, Fletcher với tám người đồng bọn dẫn theo một số người Polynesean trên đảo, dong tàu đến một nơi bí mật, và biến dạng trong đại dương bao la. Rất lâu sau này, người ta mới biết nơi đó là đảo Pitcairn xa xôi chưa có dấu chân người, phía Tây Nam Tahiti vài trăm hải lý. Họ đốt tàu để tuyệt lộ đường về, sống hạnh phúc với thiên nhiên và tình yêu mà họ lựa chọn ở với người Polynesean. Hải quân Anh đã hoài công truy lùng để đưa họ về Anh lãnh án tử hình do tội cướp tàu theo luật Hải quân Anh. Họ đã có con cháu nhiều thế hệ, một thế kỷ tìm chốn bồng lai đã trải qua trên đảo Pitcairn. Họ cắt đứt mọi liên hệ với xã hội Anh tại chính quốc, kể cả các đảo thuộc địa Anh trong Thái Bình Dương. Xa lánh mọi dòm ngó, họ giống như loài voi chôn giấu tông tích: chúng đi tìm giấc ngủ ngàn thu nơi đáy rừng sâu thẳm (vì vậy người ta hiếm khi khám phá thấy mộ địa của loài voi). Từ sự kiện lịch sử đó, và cùng muốn đi tìm chốn an nhiên xa thế gian, nhà văn Mai Thảo đã gói ghém vào một đoạn thơ trong bài "Chờ Ðợi Nghìn Năm":
Ta cúi đầu đi khỏi bãi đời
Như vì sao mỏi muốn lìa ngôi
Như thuyền xa bến vào muôn biển
Tới đáy rừng chôn giấc ngủ voi.
Như vì sao mỏi muốn lìa ngôi
Như thuyền xa bến vào muôn biển
Tới đáy rừng chôn giấc ngủ voi.
Sở dĩ xa lánh cõi đời vì xã hội đó gây phiền não. "Ðịa
ngục là những kẻ khác", lời của triết gia Jean Paul Sartre mà thời Văn Học
Miền Nam người ta hay trích dẫn, và nhà văn Mai Thảo cũng nghiệm ra như vậy
trong câu thơ: "Ðịa ngục ngươi là, kẻ khác ơi". Nhà văn Mai Thảo
không cô đơn trong tình bè bạn, nhưng chỉ vài phê phán hay dèm pha (mà sống ở đời
ai cũng nếm phải), điều đó đủ làm cho ông muốn lìa nhân gian để đi tới cuối trời:
Tối sáng không phân nhọ mặt người
Là giờ xuất hiện của loài dơi
Rợp trời những cánh bay hôi hám
Trên lối ta đi tới cuối trời.
(Trích bài: Chờ Ðợi Nghìn Năm)
Là giờ xuất hiện của loài dơi
Rợp trời những cánh bay hôi hám
Trên lối ta đi tới cuối trời.
(Trích bài: Chờ Ðợi Nghìn Năm)
Trong đám người nổi loạn trên tàu Bounty, chắc có người muốn
đào ngũ ra khỏi những ràng buộc mà họ trót đăng lính vào Hải quân Hoàng gia
Anh. Và đa số vì những hệ lụy tình cảm. Vậy không phải họ muốn xa lánh đời sống
văn minh một cách triết lý. Còn nhà văn Mai Thảo, theo như nội dung bài thơ
trên, thì cũng không do tư tưởng Xuất thế hay đi vào Tịch lặng. Suy ra, ông là
con người nhập thế với nghiệp dĩ làm báo, sống giữa chợ đời, có nhiều bè bạn,
nhưng đôi khi gặp những va chạm dị nghị làm ông chán ngán xã hội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét