1/ Giai đoạn mở đầu của chữ quốc ngữ
Làm nên chữ quốc ngữ từ mẫu tự Latin là một kỳ công khi tiếng
Việt từ lâu được ký âm bằng chữ Hán và tiếp theo là chữ Hán Nôm. Vấn đề chờ
trông các nhà nghiên cứu xác định: ai là người có công đầu, đâu là nơi ở nước
ta mở ra sự hình thành chữ quốc ngữ, một ngày kỷ niệm chữ quốc ngữ mỗi năm vốn
đang được nhiều người đặt ra...
Nơi đặt bia di tích cư sở Nước Mặn (xã Phước Quang,
huyện
Tuy Phước, Bình Định). Cư sở này được giáo sĩ
Francesco Buzomi xây dựng năm
1618 - Ảnh: H.V.M.
Từ nhu cầu cần thiết cho công việc, các giáo sĩ dòng Tên của
Công giáo từ phương Tây sang nước ta truyền đạo hồi đầu thế kỷ 17 đã nghĩ đến
việc dùng mẫu tự Latin ký âm tiếng Việt để tiện cho đôi bên học hỏi ngôn ngữ của
nhau. Phác lại bước đầu của việc sáng chế chữ quốc ngữ - mà lâu nay được gọi là
chữ Việt - quả là lý thú và cảm động...
Kiên trì mò mẫm
Theo linh mục Đỗ Quang Chính, S.J. - tác giả sách Lịch sử chữ
quốc ngữ (1620-1659), từ đầu thế kỷ thứ 17 các giáo sĩ dòng Tên đến Nhật Bản
truyền đạo đã thành công trong việc dùng mẫu tự Latin để ký âm và làm nên chữ
Nhật mới romaji - chữ Nhật Latin hóa - hồi cuối thế kỷ 16. Bởi vậy, khi đến Việt
Nam, các giáo sĩ dòng Tên đã vận dụng cách làm này để ký âm tiếng Việt và làm
nên chữ Việt mới để thuận lợi cho sứ vụ truyền giáo của mình.
Nhưng các giáo sĩ đến đây dù tất cả đều am hiểu một số ngôn
ngữ châu Âu, với họ lúc đầu tiếng Việt quả là rất khó học vì đã đơn âm lại có
thanh điệu, rất khó trong việc phát âm, một âm chỉ cần đọc nặng - nhẹ một tí là
sẽ có nghĩa hoàn toàn khác nhau. “Khi vừa đến Đàng Trong, nghe người Việt nói
chuyện với nhau, nhất là giữa nữ giới, tôi có cảm tưởng như mình nghe chim hót
và tôi đâm thất vọng vì nghĩ rằng không bao giờ học được tiếng Việt” - giáo sĩ
Alexandre de Rhodes (gọi tắt là Đắc Lộ), người đến Hội An, Quảng Nam và ở lại
cư sở Thanh Chiêm (cách cảng thị Hội An chừng 7km về hướng tây) vào cuối năm
1624 để truyền đạo, kể lại.
Nghe cũng như nói trọn một câu tiếng Việt có nhiều từ hẳn là
khó, nhưng với câu chỉ vài từ vẫn không dễ vì cách phát âm theo đúng thanh điệu
rất tế nhị. Vẫn giáo sĩ Đắc Lộ kể: một giáo sĩ ở cùng với ông đã nhờ người giúp
việc đi chợ mua cá về dùng bữa, nhưng vì cách phát âm của vị giáo sĩ không chuẩn,
bà giúp việc thay vì mua cá lại mua về một thúng cà. Biết mình đã nói sai từ
“cá” thành “cà”, vị giáo sĩ liền xin lỗi người giúp việc. Còn một vị giáo sĩ
khác thì lại làm đám trẻ trong nhà mình hoảng sợ và bỏ chạy tán loạn khi ông nhờ
người trong nhà mình đi chém (chặt, đốn) tre nhưng ông lại đọc là đi “chém trẻ”!
Nhưng, vượt qua khó khăn bước đầu, rồi khám phá ra sự “du
dương hòa điệu”, “giống như bản nhạc liên hồi” của tiếng Việt - như các giáo sĩ
Cristophoro Borri và Đắc Lộ nhận xét, ai có khiếu âm nhạc thì việc học tiếng Việt
không khó. Nhờ vậy, qua miệt mài học hỏi, luyện tập, nhiều giáo sĩ - trong đó
có Francisco de Pina (người Bồ Đào Nha), C. Borri (người Ý) và Đắc Lộ (người
Pháp) - đã nhanh học được tiếng Việt.
Những giai đoạn mở đầu
Vạn sự khởi đầu nan. Và sự khởi đầu của một công trình, một
cuộc cách mạng ngôn ngữ càng rất khó khăn. Linh mục Đỗ Quang Chính đã trân trọng
chia lịch sử buổi đầu của việc hình thành chữ quốc ngữ từ năm 1620-1648 thành
hai giai đoạn: 1620-1626 và 1631-1648.
Quả là khá nhanh và sớm khi từ năm 1620-1626, nền móng “ngôi
nhà” quốc ngữ đã đặt được những viên đá tảng cơ bản, bởi các giáo sĩ dòng Tên
chỉ mới đặt chân đến đất Quảng Nam (thuộc xứ Đàng Trong) vào đầu năm 1615, trải
qua nhiều lao đao trong việc lập cư sở truyền đạo. Từ cư sở Hội An - 1615, rồi
đến các cư sở Nước Mặn (tỉnh Bình Định) -1618 và cư sở Thanh Chiêm (Quảng Nam)
- 1623, với nỗ lực học tiếng Việt bền bỉ, các giáo sĩ ở đây đã từng bước Latin
hóa được một số từ tiếng Việt về tên đất, tên người cùng những danh từ bản xứ với
chiều hướng ngày càng tiến bộ.
Bằng chứng của tiến trình này được rút ra từ những báo cáo
thường niên của các giáo sĩ ở các cư sở Hội An, Nước Mặn, Thanh Chiêm gửi về vị
giám mục bề trên cả dòng Tên ở La Mã, hiện còn lưu giữ ở các thư viện, văn khố
các nước châu Âu. Đọc qua các từ quốc ngữ được linh mục Đỗ Quang Chính rút ra từ
bảy bản báo cáo thường niên (1620-1626), thật xúc động trước công lao khó nhọc
của những người tiên phong làm ra loại chữ cực kỳ thông dụng và khoa học này.
Annam (An Nam), Sinoa, Sinuua (Xứ Hóa/tức Thuận Hóa), Cacham,
Cacciam (Ca Chàm/tức Kẻ Chàm hay Thanh Chiêm), Unsai (ông sãi), Ungue, Ungué
(ông nghè), Ontrũ (ông trùm), Oundelin (ông đề lĩnh), Banco, Bancô, Bancò (Bàn
Cổ), Nuocman (Nước Mặn), Ainam (Hải Nam), Quanghia, Quamnguya (Quảng Nghĩa),
Quignhin (Qui Nhơn), Bafu (Bà Phủ/tức vợ quan phủ)... - những địa danh, những
danh từ Việt được Latin hóa tiên khởi ở những năm 1620-1621. Dễ nhận thấy là
các từ luôn được viết liền, hầu hết không có dấu thanh, thi thoảng các dấu
thanh huyền, sắc, ngã, ô được sử dụng.
Bìa cuốn
Tường trình về khu truyền giáo Đàng Trong
được viết năm 1621-1622 bằng tiếng Ý,
trong đó
có một số từ quốc ngữ được viết rời - Ảnh tư liệu
Bắt đầu viết rời các từ
Cũng ở những năm tháng xây nền đặt móng này, việc viết rời
các từ đã lác đác xuất hiện. Sayc Kim (sách kinh), Sayc Chiu (sách chữ); Da,
an, nua (đã ăn nửa), Da, an, het (đã ăn hết) - nói về hiện tượng nguyện thực;
scin mocaij (xin một cái); Dàdèn, Lùt, Dàdèn Lùt (đã đến lụt), Tuijciam, Biet
(tui/tôi chẳng biết), Onsaij di Lay (ông sãi đi lại/tức đi đi lại lại); Muon
bau dau christiam chiam (muốn vào đạo Christiang chăng?) được giáo sĩ C. Borri
viết trong bản tường trình về khu truyền giáo Đàng Trong (1621-1622) đệ lên đức
giáo hoàng Urbanô VII là những bước tiến quan trọng trong tạo lập chữ quốc ngữ,
bởi đây là bước khởi đầu việc viết rời các từ.
Từ tiến bộ này, ở giai đoạn hai (1631-1648) trong các bản văn
và sách của mình, giáo sĩ Đắc Lộ đã viết rời các từ và nhóm từ Việt, phần lớn vẫn
chưa có dấu, nhưng thi thoảng ông lại cũng viết liền các từ về địa danh, nhân
danh cũng như đánh dấu thanh cho một vài từ. Đáng nói là việc đưa các dấu thanh
Hi Lạp (huyền, sắc, ngã) vào để tạo dần sự hoàn chỉnh âm vận cũng như thêm chữ
“đ” vào bộ mẫu tự Latin cho quốc ngữ của giáo sĩ Gaspar d’Amaral (người Bồ Đào
Nha).
Đàng tlaõ (Đàng Trong), Đàng ngoày (Đàng Ngoài), Đàng tlên
(Đàng Trên), nhà thượng đày (nhà thượng đài), nhà huỵen (nhà huyện), oũ Khỏũ
(ông Khổng/Khổng Tử), đức vương (đức vương), tế kỳ đạo (tế kỳ đạo), chuá tũ,
chuá dũ, chuá quành (chúa Tung, chúa Dũng, chúa Quỳnh/tên các chúa Trịnh ở Đàng
Ngoài), Thíc ca (Thích Ca), chợ thũi (chợ Thủy), Sãy (sãi/sư sãi), thầy (thầy/thầy
giảng), đôủ thành (Đông Thành/tên một tu sinh)... Một ít trong số những từ được
linh mục Đỗ Quang Chính trích từ các tường trình về hoạt động truyền giáo ở
Đàng Ngoài của giáo sĩ G. d’Amaral viết vào những năm 1632, 1637 cho thấy vị
giáo sĩ này đã đưa việc chế tác chữ quốc ngữ tiến một bước rất dài chỉ trong thời
gian rất ngắn.
2/ Hai bức thư và tập lịch sử nước An Nam
Người Việt Nam sử dụng được chữ quốc ngữ sớm nhất ở thời điểm
nào? Thật không dễ có đáp án chính xác cho câu hỏi có vẻ đơn giản này nếu không
có những bản văn viết tay của hai người Việt được lưu lại đến ngày nay.
Trang cuối lá thư của Igesico Văn Tín
viết ngày 12-9-1659 bằng
chữ quốc ngữ - Ảnh tư liệu
Đây được coi là những sản phẩm đầu tiên mà người Việt gieo trồng
và thu hoạch được trên cánh đồng quốc ngữ vừa được khai mở...
Hai bức thư
Trong bài viết “Một vài văn kiện bằng quốc âm tàng trữ ở Âu
châu” đăng ở tập san Đại Học số 10, tháng 7-1959 tại Sài Gòn, giáo sư Hoàng
Xuân Hãn đã viết về việc Viện bảo tàng dòng Tên ở La Mã (Ý) còn giữ được những
tư liệu quan trọng. Đó là bức thư và tập lịch sử của Bentô Thiện gửi cho giáo
sĩ G. Philippo de Marini đề ngày 25-10-1659 và bức thư của Igesico Văn Tín cũng
gửi cho vị giáo sĩ này, đề ngày “mươy hay thánh chính D.C.J. ra đờy một nghìn
sáu tram nam muoy chinh” (mười hai tháng chín Đức Chúa Jesus ra đời một nghìn
sáu trăm năm mươi chín).
Trong sách Lịch sử chữ quốc ngữ (1620-1659), linh mục Đỗ
Quang Chính, S.J. - người tiếp cận nhiều tư liệu gốc cho việc nghiên cứu sự
hình thành chữ quốc ngữ ngay tại các bảo tàng và văn khố ở châu Âu - đã chép lại
toàn văn các văn bản của Igesico Văn Tín và Bentô Thiện để người đọc có thể thấy
chữ quốc ngữ ở thời khởi nguyên được viết thế nào.
Có thể nói những người học và sử dụng chữ quốc ngữ sớm nhất ở
nước ta là những tân tòng - người mới theo đạo (Công giáo) - trẻ tuổi và ham học
hỏi bởi họ gần gũi, tiếp xúc thường xuyên với các vị giáo sĩ truyền đạo vốn là
những người đang sử dụng chữ quốc ngữ buổi đầu. Igesico Văn Tín và Bentô Thiện
đều là tân tòng rồi dần trở thành thầy giảng (đạo). Bức thư của Igesico Văn Tín
được viết ở vùng Kẻ Vó (Đàng Ngoài/tức miền Bắc). Còn bức thư của Bentô Thiện
được viết tại Kẻ Chợ (tức Thăng Long, cũng thuộc Đàng Ngoài).
Bức thư của Igesico Văn Tín gồm hai trang, trang đầu viết
trong khổ 17x25cm, có 27 dòng chữ cỡ trung bình, trang hai trong khổ 16x9cm có
11 dòng. Thư của Bentô Thiện cũng gồm hai trang, cỡ chữ nhỏ, viết trong khổ
21x31cm. Cả hai bức thư đều là những lời thăm hỏi, kể về tình hình của những
tân tòng, công việc truyền đạo trong vùng cũng như bày tỏ lòng tôn kính, nhớ
mong của họ với giáo sĩ Marini.
“Ơn đức Chúa Blờy blả’ caõ cho thầi đờy đờy. Bấi nhieu mlờy
tôy chép tháng mươy ĩ Igreja mà thư nầi thi ngài Lễ Bà Thánh Daria cũ õn Thánh
Chrisanto tử vì đạo, tôy lại ơn thầi là cha vì thương đến con cũ tôy xin cha chớ
quên làm chi. Từ Đức Chúa Jesu ra đờy cho đến rài một nghìn sáu trăm năm mươy
chín năm. Bentô Thiên tôy tá nhà Thầi (Ơn đức Chúa Trời trả công cho thầy đời đời.
Bấy nhiêu lời tôi chép tháng mười Igreja, mà thư này thì ngày lễ bà thánh Daria
cùng ông thánh Chrisanto tử vì đạo. Tôi lạy ơn thầy là cha thì thương đến con
cùng. Tôi xin cha chớ quên làm chi. Từ Đức Chúa Jêsu ra đời cho đến rày một
nghìn sáu trăm năm mươi chín năm. Bentô Thiện tôi tá nhà thầy) - những câu cuối
thư của Bentô Thiện. Và câu cuối thư của Igesico Văn Tín “D. C. Blờy blả’ cõn
cho Thài đờy nài và đờy sau (Đức Chúa Trời trả công cho thầy đời này và đời
sau). Cả hai cho thấy phần nào cách dùng từ, văn phong và cách viết quốc ngữ ở
giai đoạn tiên khởi.
Bìa quyển Tự điển An Nam-Bồ Đào Nha-Latin
của giáo sĩ Đắc Lộ
được in ở La Mã năm 1651 - Ảnh tư liệu
Và tập lịch sử nước An Nam
Ngoài bức thư gửi giáo sĩ G. P. de Marini, thầy giảng Bentô
Thiện còn viết một tập Lịch sử nước An Nam (LSNAN) gửi cho vị giáo sĩ này. (Tác
giả Bentô Thiện không đặt tên cho tập tư liệu lịch sử của mình, nhưng căn cứ
vào nội dung tập tư liệu của ông, linh mục Đỗ Quang Chính đã đặt tên là Lịch sử
nước An Nam).
Qua lời trong thư của Bentô Thiện gửi giáo sĩ Marini, rõ là tập
LSNAN được Bentô Thiện viết gửi cho giáo sĩ Marini theo đề xuất của vị giáo sĩ
này. Căn cứ từ những dữ liệu xác tín, linh mục Đỗ Quang Chính khẳng định tập tư
liệu này được Bentô Thiện viết ở khoảng đầu năm hoặc giữa năm 1659. Nhờ đích
thân Bentô Thiện viết cho một tư liệu lịch sử, giáo sĩ Marini không chỉ nhắm đến
năng lực chữ quốc ngữ mà còn ở vốn kiến thức của người thầy giảng mà giáo sĩ từng
biết qua thời gian truyền đạo ở vùng Kẻ Vó.
Với sáu tờ giấy viết chữ cỡ nhỏ ở hai mặt, tức 12 trang, phần
nhiều được viết trong khổ 20x29cm, có thể nói tập LSNAN là văn bản quốc ngữ
“dài hơi” đầu tiên của người Việt được lưu lại. Nhận thức rằng đây là “công
trình” có giá trị với người nước ngoài, mà cụ thể là với vị giáo sĩ mình yêu
kính, Bentô Thiện đã viết thành hai bản để gửi đến giáo sĩ Marini qua hai chuyến
tàu, mỗi chuyến tàu một bản, để phòng rủi bị thất lạc ở chuyến tàu này thì còn
có bản gửi ở chuyến tàu kia. Bản gửi theo chuyến tàu thứ nhất được tác giả ghi ở
đầu thư là 1a via, còn bản gửi theo chuyến tàu thứ hai được ghi là 2a via. Và
may mắn cho bảo tàng chữ quốc ngữ, cả hai bản sử lược này đều đến tay giáo sĩ
Marini, tất cả đều còn được lưu giữ trọn vẹn ở văn khố dòng Tên tại La Mã.
Chỉ với 12 trang viết, LSNAN được viết hết sức đại lược. Tuy
vậy những sự kiện chính yếu diễn ra ở các triều đại đều được tác giả kể ra, cả
các chuyện Sơn Tinh - Thủy Tinh, Trọng Thủy - Mỵ Châu, Thánh Gióng cũng được
ghi lại với những tình tiết hấp dẫn. Ngoài phần lược sử các triều đại, cây bút
“viết quốc sử bằng chữ quốc ngữ đầu tiên” này còn dành phần nói về văn hóa:
phong tục tập quán, việc hành chính, địa lý, điểm qua một số chùa chiền, nhà thờ...
“Họ nhà Mạc thì trốn lên Cao Bằng hết, còn có ai ở đâu thì
Chúa (tức Chúa Trịnh) lại bắt. Nước Annam đã an hết về làm một nhà Lê mà thôi.
Còn ông Đoan là cha ông Thụy ở trong Hóa xưa, thì Chúa Tiên đòi ra ở làm tôi,
mà ông ấy thấy chúa chẳng yêu đãi cho đủ bao nhiêu, thì ông ấy lại trốn vào ở
Quảng, thì Đức Chúa ngờ là về Thanh Hóa; chẳng ngờ ông ấy đã vào Hóa, thì Đức
Chúa theo. Song le chẳng theo kịp, thì lại trở ra Kẻ Chợ mà trị cho đến con
cháu bây giờ. Rày lại đánh nhau cùng Kẻ Quảng. Song le chửa biết đời trị loạn,
thì chửa có tra vào sách” (trích).
Trong thời hoàng kim của chữ Việt - quốc ngữ hôm nay, đọc hai
bức thư của hai thầy giảng Igesico Văn Tín và Bentô Thiện, nhất là bản LSNAN, sẽ
giúp chúng ta thấy được phần nào tiến trình cùng tài năng, công sức lao nhọc của
những người dựng xây ngôi nhà quốc ngữ buổi đầu.
Hai sách quốc ngữ đầu tiên
Hai sách chữ quốc ngữ đầu tiên được xuất bản là Tự điển An
Nam - Bồ Đào Nha - Latin và Phép giảng tám ngày. Được in và xuất bản tại La Mã
năm 1651, Tự điển Việt-Bồ-La và Phép giảng tám ngày, theo linh mục Đỗ Quang
Chính, được giáo sĩ Đắc Lộ viết ở Áo Môn khoảng từ năm 1637-1645.
Nhận thấy ý nghĩa và giá trị của hai quyển này, Tòa thánh La
Mã đã cho phép Bộ Truyền giáo - vốn mới được thành lập từ giữa năm 1622 - in ấn
và xuất bản ngay. In ấn sách chữ Việt lần đầu là một việc làm tốn nhiều công sức.
Với các thanh điệu mới, cách ghép vần khác hẳn với chữ viết của các nước dùng mẫu
tự Latin trong vùng vốn đã quen thuộc, để có thể in được chữ quốc ngữ, xưởng in
của Bộ Truyền giáo đã phải đúc khuôn chữ in mới.
Với gần 500 trang, Tự điển Việt-Bồ-La, lúc đầu giáo sĩ Đắc Lộ
chỉ soạn bằng hai loại chữ quốc ngữ và Bồ Đào Nha. Về sau, theo ý các vị bề
trên ở La Mã, ông soạn thêm phần chữ Latin vào để tiện cho người Việt học tiếng
Latin.
Phép giảng tám ngày - công trình về giảng dạy giáo lý - được
Đắc Lộ viết bằng hai thứ chữ quốc ngữ - Latin. Theo nhà nghiên cứu Võ Long Tê dẫn
theo linh mục Nguyễn Khắc Xuyên, quyển sách nổi danh về truyền dạy giáo lý này
được Đắc Lộ biên soạn hay khởi thảo từ những năm 1627-1629.
3/ Ai có công đầu với chữ quốc ngữ?
Đây là vấn đề được đặt ra từ vài chục năm nay bởi một số nhà
nghiên cứu cùng những người quan tâm đến lịch sử buổi đầu chữ quốc ngữ. Những
ai đã tiên khởi mở ra việc tạo lập chữ quốc ngữ?
Giáo sĩ Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) Ảnh tư liệu
Alexandre de Rhodes hay Francisco De Pina?
Với hai quyển sách Tự điển An Nam - Bồ Đào Nha - Latin (gọi tắt
Tự điển Việt - Bồ - La) và Phép giảng tám ngày bằng quốc ngữ được tòa thánh La
Mã cho xuất bản năm 1651, giáo sĩ Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) từ lâu được coi
là người có công lớn trong việc chế tác ra chữ quốc ngữ.
Để tưởng nhớ công lao của Đắc Lộ, năm 1941 một bia kỷ niệm khắc
tên ông đã được dựng bên hồ Hoàn Kiếm ở Hà Nội; và ở Sài Gòn vào năm 1955 người
ta đã lấy tên Alexandre de Rhodes đặt cho một con đường ngay trung tâm thành phố
này, còn mãi đến nay.
Nhà nghiên cứu Võ Long Tê nhận xét: “Đành rằng giáo sĩ
Alexandre de Rhodes không phải là người duy nhất đã sáng chế và làm cho chữ quốc
ngữ trở nên hoàn hảo, nhưng lịch sử vẫn xem vị giáo sĩ này là thủy tổ chữ quốc
ngữ vì đã có công thử thách chữ quốc ngữ trong các lĩnh vực soạn sách tự điển,
văn phạm, giáo lý, và nhất là phổ biến rộng rãi chữ quốc ngữ bằng những tác phẩm
ấn loát tại nhà in của Thánh bộ Truyền giáo tại La Mã”.
Đó là những quyển sách được coi là công cụ bước đầu trong việc
phổ truyền việc dạy và học chữ Việt, mở ra sự xuất hiện chữ Việt trên bản đồ chữ
viết của thế giới. Thủy tổ chữ quốc ngữ là cụm từ do nhà nghiên cứu Phạm Đình
Khiêm dành cho giáo sĩ Đắc Lộ, trong đó có một số luận chứng giống như tác giả
Võ Long Tê đã trích dẫn.
Quan điểm cho rằng giáo sĩ Đắc Lộ là người có công đầu, có
công nhiều nhất trong việc làm ra chữ quốc ngữ cũng đã được nhà nghiên cứu
Hoàng Tiến nhắc lại trong đề tài nghiên cứu Chữ quốc ngữ và cuộc cách mạng chữ
viết đầu thế kỷ 20 của mình được xuất bản năm 1994:
“... Và nhất là cha cố người Pháp Alexandre de Rhodes là một
nhà bác học rất giỏi về khoa ngôn ngữ đã tới Việt Nam và giảng đạo bằng tiếng
Việt. Tất nhiên việc này có công sức đóng góp của nhiều người, nhưng ông là đại
diện và giữ công đầu”.
Tuy nhiên, mãi đến gần đây nhà nghiên cứu Nguyễn Phước Tương
đã phản bác quan điểm tồn tại lâu nay, ông cho rằng Đắc Lộ không phải là người
có công đầu trong việc tạo tác chữ quốc ngữ.
Trong tham luận “Hội An - Thanh Chiêm và sự ra đời chữ quốc
ngữ” tại tọa đàm khoa học “Danh xưng Quảng Nam” ở Tam Kỳ hồi tháng 9-2001, tác
giả Nguyễn Phước Tương nhấn mạnh rằng Francisco de Pina mới là nhà tiên phong
sáng tạo chữ quốc ngữ.
Luận cứ mang tính khẳng định của nhà nghiên cứu Nguyễn Phước
Tương trước hết dựa vào tự bạch của giáo sĩ Đắc Lộ trong “Lời nói đầu” ở Tự điển
Việt - Bồ - La rằng ông học tiếng Việt lúc đầu với giáo sĩ F. de Pina, rằng ông
đã sử dụng các công trình tự điển viết tay An Nam - Bồ, Bồ - An Nam của các
giáo sĩ Gaspar d’Amaral và Antonio Barbosa - những điều mà bất cứ ai tiếp cận Tự
điển Việt - Bồ - La đều biết rõ.
Bên cạnh một số luận cứ khác nữa, đặc biệt, nhà nghiên cứu
này còn dựa vào phát hiện mới về công trình chữ quốc ngữ của F. de Pina của nhà
ngôn ngữ học Pháp Roland Jacques.
Đó là bức thư viết dở dài bảy trang cùng cuốn Nhập môn tiếng
Đàng Ngoài dài 22 trang dạy cho người mới học tiếng Việt của giáo sĩ F. de Pina
được R. Jacques tìm thấy ở Thư viện Quốc gia tại Lisbon (Bồ Đào Nha).
Từ những tư liệu mới tìm thấy này, R. Jacques đã viết chuyên
luận Công trình của một số nhà tiên phong Bồ Đào Nha trong lĩnh vực ngôn ngữ học
Việt Nam được ấn hành tại Paris năm 1995.
Tác giả này viết: “Qua sự so sánh có hệ thống việc mô tả bộ
chữ cái Việt Nam thực hiện bởi văn bản này và văn bản kia, như vậy sẽ trở nên
có thể nhận định được rõ ràng hơn rằng Alexandre de Rhodes đã chịu ơn các vị tiền
bối của mình và ngược lại, có sự đóng góp tài năng của bản thân ông”.
Nhà in Làng Sông được thành lập năm 1872 tại
huyện Tuy Phước,
Bình Định - một trong
những nhà in chữ quốc ngữ đầu tiên - Ảnh: H.V.M
Công lao tập thể và vai trò của người Việt
Trong khi đó, một quan điểm phổ quát hơn, từng được nhiều nhà
nghiên cứu cùng chấp nhận hơn là: chữ quốc ngữ được hình thành bước đầu từ công
lao của một số giáo sĩ dòng Tên.
Năm 1955, trong cuốn sách về Công trạng của nước Pháp ở Đông
Dương của mình, tác giả Pháp Georges Taboulet cũng đã đưa luận điểm như trên
khi ông viết: “Việc phiên âm tiếng Việt bằng chữ Latin điểm thêm các dấu quy ước,
là một công lao tập thể mà sự đóng góp chủ yếu của các linh mục Francisco de
Pina, Cristophoro Borri, Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa, còn linh mục
Alexandre de Rhodes thì có công hệ thống hóa, chỉnh lý và phổ biến văn tự
này...”.
Tác giả Võ Long Tê cũng cho rằng: “...Căn cứ vào những sử liệu
chắc chắn và những suy luận hợp lý, chúng ta có thể quyết đoán rằng công cuộc
sáng chế chữ quốc ngữ là một công trình tập thể, nằm trong một khuôn khổ những
nỗ lực phiên âm các thứ tiếng có chữ tượng hình ở Viễn Đông do các thừa sai
châu Âu khởi xướng từ thế kỷ thứ 16”.
Cũng nhắm vào công lao tập thể trong việc tạo lập chữ quốc ngữ,
linh mục Đỗ Quang Chính đã dùng từ “những ông tổ” để chỉ những giáo sĩ có công
trong việc Latin hóa tiếng Việt buổi đầu.
Dẫu vậy, vị linh mục sớm đi vào nghiên cứu lịch sử chữ quốc
ngữ này cho rằng “ai là người có công nhất trong việc sáng tác chữ quốc ngữ?” vẫn
còn là điều thắc mắc cần được làm sáng tỏ.
Về đóng góp của người Việt, theo nhà nghiên cứu Võ Ngọc Liễn,
có lẽ vì đặt nặng vai trò chủ động của các giáo sĩ dòng Tên trong việc tạo tác
nên chữ Việt mới từ mẫu tự Latin do họ “mang tới” vốn hoàn toàn xa lạ với người
Việt, các nhà nghiên cứu có phần chậm trễ khi nói đến vai trò của người Việt.
Trong một số tác phẩm được xuất bản từ những năm 1960-1970 của
mình, các tác giả Đỗ Quang Chính, Võ Long Tê đều đã đề cập sự đóng góp của người
Việt cho sự ra đời của chữ quốc ngữ.
Đó là những nho sĩ, những sư sãi, những tân tòng - người mới
theo đạo (Công giáo) mà đặc biệt là những tân tòng trở thành thầy giảng (đạo).
Nhưng tiếc rằng đó đều là những đóng góp lặng thầm, chìm khuất,
ít được các giáo sĩ thời đó nêu danh tính hay ghi lại cụ thể, ngoại trừ những
ghi chép của các giáo sĩ F. de Pina, Đắc Lộ, C. Borri về công lao của người Việt
trong việc bày vẽ cho họ học tiếng bản xứ.
“Các thầy giảng Igesico Văn Tín, Bentô Thiện với những tác phẩm
quốc ngữ xuất sắc được lưu lại từ năm 1659, đương nhiên họ đã cùng với các vị
giáo sĩ ở cư sở của mình cùng nhau miệt mài luyện tập chữ quốc ngữ cũng như học
hỏi ngôn ngữ của nhau” - nhiều nhà nghiên cứu đã nói.
Và, ngoài tên tuổi của một ít các thầy giảng người Việt được
nói đến, chắc chắn còn nhiều người Việt khác đã cộng tác đắc lực với các linh mục
dòng Tên trong công cuộc kiến tạo chữ quốc ngữ buổi đầu.
4/ Đâu là “chiếc nôi” chữ quốc ngữ?
Hiện một số nhà nghiên cứu cũng như các bậc nhân sĩ, thức giả
đã đặt vấn đề về nơi khai sinh ra loại chữ viết này.
Những luận cứ khác nhau bước đầu đã được đưa ra, nhưng câu trả
lời xác đáng vẫn còn ở phía trước...
Hội An - Thanh Chiêm?
"Từ
những năm 1960-1970, khi nghĩ về di tích Nước Mặn với việc hình thành chữ quốc
ngữ, một số nhân sĩ, trí thức ở Bình Định chúng tôi đã nghĩ việc làm sao để
đánh động nhà chức trách tổ chức ngày cả nước kỷ niệm chữ quốc ngữ hằng năm,
nhưng vẫn chưa làm được vì chiến tranh. Mình sở hữu được loại chữ viết vô cùng
tiện dụng, khoa học như vậy mà không có ngày quốc ngữ thì thấy thiếu sót quá,
đáng tiếc quá..."
Ông TRẦN
ĐÌNH TRẮC
Người mạnh dạn cho rằng Hội An và Thanh Chiêm là nơi ra đời của
chữ quốc ngữ là nhà nghiên cứu Nguyễn Phước Tương. Bản tham luận mang tên “Hội
An - Thanh Chiêm và sự ra đời của chữ quốc ngữ” của ông ở tọa đàm khoa học về
danh xưng Quảng Nam hồi năm 2001 mặc nhiên nói lên điều đó.
Với luận cứ rằng giáo sĩ Francisco de Pina là người mở đầu việc
Latin hóa tiếng Việt tại hai cư sở Hội An (thành lập năm 1615) và Thanh Chiêm
(1623), nhà nghiên cứu này đã cho rằng đây chính là nơi chữ quốc ngữ được làm
ra. Giáo sĩ F. de Pina đến Đàng Trong - mà cụ thể là Hội An - vào năm 1617, rồi
đến Thanh Chiêm năm 1623, nhưng vẫn thường đi lại giữa hai nơi bởi hai cư sở
này cách nhau chỉ mươi cây số, theo tác giả Nguyễn Phước Tương, đây là những
nơi có nhiều thuận lợi để học hỏi, nghiên cứu tiếng Việt cho các nhà truyền
giáo lúc ấy. Ông dẫn lời của giáo sĩ F. de Pina trong bức thư viết dở của mình:
“Đối với tôi, việc nghiên cứu tiếng nói Kẻ Chiêm (tức Thanh Chiêm) vẫn là nơi tốt
nhất với tư cách là trung tâm của triều đình: ở đây người ta nói rất hay, có sự
đổ dồn những người trẻ tuổi đến mà họ là những cống sinh và bên cạnh họ, những
ai bắt đầu học tiếng có thể tìm thấy sự giúp đỡ”.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Thiếu Dũng lại đặt nặng vai trò của
Thanh Chiêm trong sự ra đời của chữ quốc ngữ bởi đây là đô lỵ của dinh trấn Quảng
Nam thời đó. “Đây là nơi hội đủ điều kiện để các giáo sĩ học hỏi ngôn ngữ bản xứ,
văn hóa bản xứ, tâm lý người bản xứ để từ đó sáng chế ra chữ quốc ngữ theo mẫu
tự Latin... Chính F. de Pina, bậc tiên khởi có công khai sinh chữ quốc ngữ, đã
cho biết vì sao ông chọn Thanh Chiêm là nơi nghiên cứu chữ quốc ngữ chỉ vì một
lý do đơn giản ở đây quy tụ nhiều văn nhân thức giả có thể giúp ông nhiều hơn ở
nơi khác, đô thành thì bao giờ cũng có người học thức hơn là nơi thị tứ chỉ có
thương nhân...” - nhà nghiên cứu Nguyễn Thiếu Dũng viết.
Và tác giả Nguyễn Phước Tương đúc kết: “Rõ ràng ở nước ta trước
hết là cảng thị Hội An rồi tiếp đến dinh trấn Thanh Chiêm là cái nôi ra đời sớm
nhất và quan trọng nhất của chữ quốc ngữ so với Nước Mặn - Quy Nhơn và một địa
điểm nào đó ở Nghệ An mà đến nay chưa được xác định cụ thể... Đã đến lúc cần tổ
chức một cuộc hội thảo khoa học về lịch sử ra đời chữ quốc ngữ để trả lại sự
công bằng cho Francisco de Pina như là nhà tiên phong sáng tạo chữ quốc ngữ chứ
không phải giáo sĩ Pháp Alexandre de Rhodes như lâu nay chúng ta vẫn lầm tưởng...”.
Với người Bình Định, có lẽ ý niệm về “chiếc nôi” của chữ quốc
ngữ đến với họ sớm hơn. Cũng căn cứ vào những dữ liệu được họ coi là xác tín từ
các thư tịch, những báo cáo mang tính biên niên của các giáo sĩ dòng Tên ở Đàng
Trong vào giai đoạn sơ khai đầy ấn tượng của chữ quốc ngữ, từ những năm
1969-1970 một số nhân sĩ, trí thức ở Bình Định đã nghĩ đến việc “làm cái gì đó”
để ghi dấu việc chữ quốc ngữ được khai sinh ở di chỉ Nước Mặn (nay thuộc thôn
An Hòa, xã Phước Quang, huyện Tuy Phước) của tỉnh nhà.
“Làm cái gì đó” - thầy Trần Đình Trắc, cựu giáo viên Trường
Sư phạm Quy Nhơn (trước năm 1975), hiện ở tại TP Quy Nhơn - kể năm 1972, qua
bàn bạc, nhóm nhân sĩ, trí thức ở Bình Định, trong đó có thầy Trắc, đã chọn
phương án dựng tượng Alexandre de Rhodes ở ngã ba Phú Tài bên quốc lộ 1. “Hồ sơ
về vai trò của Nước Mặn trong việc mở đầu chữ quốc ngữ, về công lao giáo sĩ Đắc
Lộ chúng tôi nhờ các nhà nghiên cứu ở Sài Gòn làm để trình hội đồng cố vấn giáo
dục của chính phủ (Sài Gòn) duyệt. Về kinh phí để giải tỏa 29 gia đình ở ngã ba
Phú Tài đã được tỉnh Bình Định chuẩn duyệt, nhưng rồi vì tình hình xã hội bất ổn
kéo dài nên chúng tôi chưa thể làm kịp...”, thầy Trắc nhớ lại.
Nhà nghiên cứu Võ Ngọc Liễn cho rằng bởi vào năm 1617 chúa
Nguyễn trục xuất các giáo sĩ ở cư sở Hội An, họ buộc phải quay về Áo Môn. Vì
tàu gặp gió ngược, giáo sĩ Francesco Buzomi không đi được phải quay vào nương
náu ở bãi biển, lại lâm bệnh. Cũng vào năm 1617, F. de Pina vừa từ Bồ Đào Nha đến
Hội An lần đầu, phải liều lẩn trốn ở nhà các Nhật kiều tại đây. May nhờ gặp được
quan khám lý Trần Đức Hòa - tri phủ Hoài Nhơn, nhân chuyến ra kinh đô Đàng
Trong, gặp giáo sĩ Buzomi bị nạn, trên đường trở về Quy Nhơn đã rước các giáo
sĩ F. Buzomi, F. de Pina, Cristophoro Borri và thầy giảng António Dias đưa vào
bên cảng thị Nước Mặn, giúp đỡ mọi điều để lập ngay cư sở ở đây vào năm 1618.
“Cũng nhờ được quan khám lý Trần Đức Hòa ưu đãi, các giáo sĩ được có cơ hội tiếp
xúc với các nho sĩ địa phương, với những người mới vào đạo nhanh nhạy, giỏi
giang nên Pina đã sớm học được tiếng Việt tại đây...”, nhà nghiên cứu Võ Ngọc
Liễn giải thích.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Nhân cũng nhấn mạnh về vai trò
“chiếc nôi” quốc ngữ của cư sở Nước Mặn: “Nước Mặn, với tư cách là cảng thị, lại
có cư sở của các giáo sĩ dòng Tên, thuở phồn vinh không chỉ là một trung tâm
thương mại, trung tâm tôn giáo, trung tâm thiên văn mà còn là một trung tâm dạy
tiếng Việt cho người nước ngoài. Và cũng là nơi Latin hóa tiếng Việt”.
Trích dẫn từ các tư liệu có được, linh mục Gioan Võ Đình Đệ -
hiện ở tại tòa giám mục Quy Nhơn - cho rằng cư sở Nước Mặn của các thừa sai
dòng Tên chẳng những là một trung tâm truyền giáo mà còn là nơi các thừa sai
dòng Tên nghiên cứu và sáng chế chữ quốc ngữ trong giai đoạn thô sơ nhất. “Theo
linh mục Joaõ Roiz, năm 1620 đã có hai thừa sai nói thạo tiếng Việt đó là cha
Francisco de Pina và cha Cristophoro Borri. Trong đó cha Borri chỉ làm việc tại
Nước Mặn từ năm 1618 đến khi ra khỏi Đàng Trong vào năm 1622. Cha Pina đến Hội
An năm 1617 trong thời kỳ bị trục xuất, phải lén lút, cha chỉ tiếp xúc được với
người Việt khi làm việc tự do tại Nước Mặn từ năm 1618-1620. Trong khoảng thời
gian từ 1620-1623 cha Pina đi về giữa Nước Mặn và Hội An, rồi năm 1623 cha lập
cư sở tại Thanh Chiêm. Ngoài ra, cư sở Nước Mặn cũng là “trường quốc ngữ” đầu
tiên cho các thừa sai đến sau như linh mục Emmanuel Borges -1622, linh mục
Gaspar Luis, linh mục Girolamo Majorica -1624...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét