Thứ Sáu, 6 tháng 7, 2018

Chân dung Hồ Xuân Hương qua 31 bài thơ tình của Tốn Phong

Chân dung Hồ Xuân Hương 
qua 31 bài thơ tình của Tốn Phong
Tiếc rằng cách đây hai trăm năm, Hồ Xuân Hương không như nàng Tiểu Thanh nhờ một họa sĩ truyền thần vẽ lại chân dung nàng truyền lại cho đời sau. Tiếc rằng không có một nhạc sĩ yêu nàng như Fédéric Chopin mười năm yêu George Sand truyền lại cho đời những Dạ khúc, những Sonate, Préludes bất tử. Tiếc rằng phải trăm năm sau Léon Busy (Fondation Albert Kahn) năm 1915, mới mang chiếc máy ảnh chụp kính màu thô sơ, chụp giai nhân, tài tử, thắng cảnh, đời sống Hà Nội. May mắn thay có Tốn Phong đã mê Hồ Xuân Hương viết 31 bài thơ tình. Một tập thơ viết về một người đã hiếm có ngày xưa, mà lại là một người đẹp «thơ thần», «thơ quỷ, «tài cao nhả phượng thế gian kinh», «bà Chúa thơ Nôm, cả dân tộc Việt Nam khao khát tìm kiếm nàng, truyền tụng về nàng, những bậc thi hào như Nguyễn Du, danh sĩ Phạm Đình Hổ, Trần Ngọc Quán, Trần Quang Tĩnh, Trần Phúc Hiển... từng đảo điên vì nàng. Hai trăm năm qua bao bút mực, bao nhiêu tranh cải, tìm kiếm, chờ đợi, thật là một tập thơ quý giá. Thơ Tốn Phong có thể sánh với những bài thơ Đêm, Alfred de Musset đã viết cho George Sand. Một mối tình đau khổ tuyệt vọng mỗi lời thơ như một lưỡi kiếm vạch trên không trung, còn rực sáng những giọt máu long lanh. Mỗi lời thơ như con chim bồ nông rút ruột, rút máu cho con ăn, như người thi sĩ rút tinh huyết, khổ đau mình  để dọn cho người đời bữa tiệc trần thế.
Từ nay lòng khổ vì thương nhớ,
Gối lạnh phòng không nỗi đoạn trường.
(Bài 19)
Gặp lại Phi Mai còn nhớ nhỉ?
Phong trần đày đọa một tình đau.
(Bài 31)
Tập thơ Tốn Phong và bài tựa Lưu Hương Ký chép tay do học giả Trần Thanh Mại phát hiện năm 1963 tại Thư Viện Khoa Học Trung Ương Hà Nội, đóng lẫn với bài Du Hương Tích động ký của Chu Mạnh Trinh. Năm 1995 ông Bùi Hạnh Cẩn mới in lại phần chữ Hán toàn bộ thơ Tốn Phong trong tập Hồ Xuân Hương. Thơ chữ Hán chữ Nôm và giai thoại, nxb VHTT. Hà Nội 1995. Công trình ông Bùi Hạnh Cẩn thật đáng hoan nghênh, công bố không dấu diếm những gì mình có, để mọi người từ bốn phương trời có thể cùng nhau nghiên cứu, bàn bạc, không ngại ngùng bản dịch của mình có nhiều điểm còn sai. Điều này khác biệt với thái độ ông Đào Thái Tôn đã dành độc quyền bản chính Lưu Hương Ký suốt 40 năm, và còn 5 bản khác do học giả Trần Thanh Mại mướn người sao chép trước khi mất năm 1964, cũng không biết ai cất dấu nơi đâu ? May thay ông Đào Thái Tôn đã trả lại cho Viện Văn Học trước khi mất năm 2011. Nếu không thì tất cả các công trình nghiên cứu Hồ Xuân Hương qua Lưu Hương Ký cũng mơ hồ như thơ Hồ Xuân Hương truyền khẩu. Lưu Hương Ký của Hồ Xuân Hương đã thoát khỏi số phận  Hý phường phả lục của Lương Thế Vinh, người 'mượn' nó không biết là ai có thể đã mất và con cháu đã vất đi cái di sản quốc gia quý báu. Có khi vì công bố quá chậm, việc đọc văn bản trở nên khó khăn hơn. Trường hợp Hồng Hà phu nhân di văn của Đoàn Thị Điểm, bà Nguyễn Kim Hưng (phu nhân Gs Nguyễn Huệ Chi) tìm ra đã hơn 40 năm qua, vì không công bố sớm, mấy chục bài thơ trào phúng chữ Nôm cổ giờ đây, không ai đọc được, vì người đọc được là GS Hoàng Xuân Hãn  tại Pháp đã qua đời năm 1996.Từ Đoàn Thị Điểm đến Phan Huy Ích khoảng cách 60 năm, là một cuộc thống nhất đất nước sau 250 phát triển hai miền đàng trong, đàng ngoài riêng biệt. Chữ Nôm từ kinh đô Phú Xuân của Vua Gia Long, đã trở thành mẫu mực cả nước, những cách viết, cách đọc chữ Nôm đời Lê Trịnh bị chìm vào quên lãng.
A. 31 bài thơ tình Tốn Phong 
Thơ Tốn Phong gồm 31 bài thơ chữ Hán: 11 bài viết năm 1807 sau khi hỏng thi Hương trường Nghệ lần thứ nhất và 20 bài viết năm 1814  sau khi hỏng thi Hương trường Nghệ lần hai. Thơ Tốn Phong óng ả, bóng bảy trữ tình, thơ cho giai nhân thì treo giải nhất chẳng nhường cho ai, nhưng chốn trường quy, thơ để thử ý chí tài năng trị nước bình thiên hạ, thì ta hiểu vì sau chàng lận đận thi cử hai phen không đỗ. Tôi dịch thơ 31 bài này, và sau đó sắp xếp từng câu thơ theo đề mục, để tìm ra cuộc đời Hồ Xuân Hương, quang cảnh, sức khỏe, sinh hoạt cuộc sống.. Từ thi ca đến thực tế cuộc đời, những câu thơ làm đẹp cuộc sống, nhưng dù sao nó cũng phản ảnh cái nhìn của người đương thời với Hồ Xuân Hương..
Bài I. Tốn Phong viết: Từ Hồ Kim Âu trước cửa Quốc Tử Giám, tôi không phải là anh thuyền chài ở Vũ Lăng, mà cũng gặp được nàng tiên cõi Đào Nguyên. Nhà nàng nằm hướng Đông đối diện với trời xanh Hồ Tây, mưa móc điều hòa. Nàng viết những bài thơ tuyệt vời như mây khói lên, như khúc hát Bạch Tuyết của Sư Khoáng đời Chiến Quốc khó ai họa được. Tư cách nàng xuất chúng, thanh nhã không ai ví bằng. Tài văn chương nàng làm thế gian kinh ngạc, nàng là tiên nữ Ngọc Nữ được trời sai xuống trần. Tỏa ngát hương mai khi cùng nàng nâng chén rượu mừng gặp gỡ. Tôi ngờ gặp nàng vốn sẵn nhân duyên tiền định tự kiếp nào.
Trước nhà cửa Giám, hồ Âu Vàng,
Tìm đến Đào Nguyên, chẳng Vũ Lăng.
Đối mặt trời xanh mưa móc thuận,
Ngâm thơ tuyết trắng khói mây dâng.
Hơn đời phong cách ta sao ví,
Nổi tiếng văn chương tiên xuống trần.
Tỏa ngát hương mai nâng chén rượu,
Gặp nàng ngờ trước sẵn nhân duyên.
Thơ  chữ Hán Tốn Phong tặng Hồ Xuân Hương,
Nhất Uyên dịch thơ.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt
Kim Âu hồ thượng Giám môn tiền,
Phi Vũ Lăng nhân tự đắc nguyên.
Tọa đối thanh dương điều vũ lộ,
Ngâm thành bạch tuyết khởi vân yên.
Xuất quần phong cốt thanh ư ngã,
Kinh thế văn chương giáng tự thiên.
Phao khước mai hương tần cử tửu,
Đối quân nghi thị cựu hàn duyên.
Chú thích:
Kim Âu, tên hồ ở phường Bích Câu nay đã lấp, khoảng đường Cát Linh gần Văn Miếu Quốc Tử Giám.
Vũ Lăng: Trong Đào Nguyên Ký của Đào Tiềm, ông chài ở Vũ Lăng tìm ra lối vào Đào Nguyên.
Bạch Tuyết: và Dương Xuân hai khúc hát do Sư Khoáng làm ra,  theo Tống Ngọc cả nước chỉ 2, 3 người họa được.
Bài 2. Trong tao đàn đã xuất hiện vị thần thơ, là người đồng quận duyên may được quen biết nàng.
Nàng vốn dòng dõi gia đình vọng tộc quan Hoàng Giáp Hồ Sĩ Đống, họ Hồ nhiều đời làm quan đứng đầu triều đình.. Nàng xinh đẹp tuyệt vời như tiên giáng trần. Từ ngàn xưa vùng Hoan Châu vẫn nổi tiếng nhiều anh tài tuấn kiệt. Nàng là ngôi sao Khuê kết tụ của văn học mười phân vẹn mười. Nên nhớ 99 ngọn Hồng Lĩnh quê hương của nàng, nàng là tinh anh của núi sông đó. Nàng là hoa mai xinh đẹp nhất chiếm cả mùa xuân  cố kinh  thành vua Lê.

Tao đàn xuất hiện vị thơ thần,
Đồng quận duyên may được biết nàng.
Hoàng các vốn gia đình vọng tộc,
Hồng nhan tiên giới thác sinh chăng?
Châu Hoan thuần túy từ ngàn trước,
Khuê tú tinh hoa vẹn thập phần.
Chín chín đỉnh non Hồng có nhớ,
Hoa Mai xuân sắc nhất kinh thành.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt
Tao đàn đàn thượng xuất tao thần,
Đồng quận tương phùng hỉ đắc quân.
Hoàng các khấu lai chân vọng tộc,
Hồng nhan nghi thị thác sinh thân.
Hoan phong thuần túy tri thiên cổ,
Khuê tọa tinh hoa hào thập phần.
Cửu thập cửu phong tằng ức phủ,
Mai hoa độc chiếm đế thành xuân.
Chú thích: 
Tao đàn: do chữ Ly Tao, tác phẩm của Khuất Nguyên (300 năm trước Tây lịch) thời Chiến Quốc, nói lên nỗi buồn bực một trung thần nói phải, làm tốt mà vua không nghe theo, để đến nước mất nhà tan.Sau chữ tao được dùng để thay thế những từ văn nhã hay văn thơ xuất sắc, tao đàn  là đài thơ, nơi tụ họp những nhà thơ xuất sắc. 
Hoàng các: gác vàng, chỉ gia đình quyền quý, tích Đỗ Như Hối làm Tể Tướng nhà Đường ba chục năm, chăm lo cho dân cho nước. Hoàng các tam thập niên, thanh phong tiên vạn cổ. Gác vàng ba mươi năm mà bia thơm để muôn đời.. Ám chỉ họ Hồ nay có quan Hoàng Giáp Hồ Sĩ Đống từng đứng đầu triều đình để tiếng thơm đời sau. 
Hoan phong: những phong cách cao quý của người vùng Nghệ An, Hà Tĩnh. 
Sao Khuê: ngôi sao văn học.
Bài 3. Mùa xuân làng Nghi Tàm bay bay khắp mặt đất hoa tàn rụng. Đi đến Đình Mai hỏi thăm chủ nhân. Nàng hiện ra như người tiên trong mây đang múa khúc Nghê Thường trong giấc mơ Vua Đường Minh Hoàng lên chơi cung trăng. Trong bóng trăng nghe như tiếng nhạc Quân Thiều khúc nhạc trời cảnh tượng thái bình.Một bầu mây nước nhuần nhụy đóa hoa lòng. Mắt nàng sáng như các vì sao, từ vạn dậm các vì sao như mới làm long lanh đôi mắt nàng. Nhìn suốt cầu vòng mà nhớ tới nỗi niềm của Ngưu Lang, Chức Nữ. Ta đã đến gặp nàng không cần cầu vòng, như thiên hà đã phí phạm hết một dòng sông bạc.
Bay bay  ngập đất rụng hoa tàn,
Thẳng hướng đình mai hỏi chủ nhân.
Nghê Vũ người tiên mây giáng hiện,
Quân Thiều thiên khúc bóng ca trăng.
Một bầu mây nước hoa nhuần nhị,
Vạn dậm sao trời mắt sáng trong.
Nửa ánh cầu vòng Ngưu Nữ nhớ,
Thiên hà hoang phí một dòng ngân.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Phồn hoa mãn địa lục phân phân,
Khẳng hướng mai đình nhận chủ nhân.
Nghê Vũ tiên dung vân thượng kiến,
Quân Thiều thiên khúc nguyệt trung vân.
Nhất soang vân thủy tâm hoa nhận,
Vạn lý tinh hà nhãn kính tân,
Vọng đoạn hồng kiều Ngưu Nữ tứ,
Thiên hà phí tận nhất giang ngân.
Chú thích: 
Nghê Vũ: tích Vua Đường Minh Hoàng nằm mơ thấy lên chơi cung trăng, gặp các tiên nữ, mặc áo xiêm bảy sắc như cầu vòng, múa hát rất đẹp. Vua nhớ lại đặt ra khúc Nghê Thường dạy cung nữ múa hát. 
Quân Thiều: tên khúc nhạc nói lên cảnh tương thời thái bình. 
Ngưu Nữ, tích Ngưu Lang, Chức Nữ. Chức Nữ con gái Ngọc Hoàng Thượng Đế, yêu chàng chăn trâu, bị trời chia ly bắt thành Sao Hôm và Sao Mai ở hai bên bờ sông Ngân Hà, mỗi năm gặp nhau một lần vào ngày mồng 7 tháng 7 âm lịch, mùa này quạ rụng lông đầu để bắt nhịp cầu Ô Thước cho hai người gặp nhau, nước mắt rơi xuống trần gian thành mưa ngâu, sau đó lại phải xa nhau.
Bài 4. Một dòng sông bạc làm gì vô ích, vì muôn thuở Ngưu Lang thành người bất tử. Thương mày liễu xanh xanh càng thêm yêu vầng trăng. Mùi hương Mai thoang thoảng làm thêm mãi yêu mùa xuân... Hứng về cũng thấy thơ sinh quỷ, sầu đến rồi mới hay rượu có thần... Muốn hỏi nơi Cao Đường người đoán mộng cho vua Sở Trang Vương có đoán được Vua giao hoan với Thần Nữ Vu Sơn mấy lần? Phải chăng Hồ Xuân Hương đã đọc cho Tốn Phong nghe những bài thơ đùa nghịch của nàng, những bài thơ có quỷ như bài Thiếu nữ ngủ ngày, Cái Giếng... nàng không chép trong Lưu Hương Ký nên Tốn Phong uống rượu, nóng máu thấy rượu có thần, nên đùa nghịch lại với nàng.
Thiên hà hoang phí một dòng ngân,
Muôn thuở chàng Ngưu, bất tử nhân.
Mày liễu xanh xanh thêm mến nguyệt,
Hương mai thoang thoảng mãi yêu xuân.
Hứng về lai thấy thơ sinh quỷ,
Sầu đến rồi hay rượu có thần.
Ướm hỏi Cao Đường ai đoán mộng,
Gió mưa Đài Sở được bao lần?
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Thiên hà phí tận nhất giang ngân,
Chung cổ Ngưu Lang bất tử nhân.
Thanh triển liễu si thiên ái nguyệt,
Hương phiêu mai cốt tối nghi xuân.
Hứng lai dã giáo thi sinh quỷ,
Sầu khứ phương tri tửu hữu thần.
Vị vấn Cao Đường tri mộng khách,
Sở Đài phong vũ ký phiên tân.
Chú thích: 
Cao Đường còn gọi là Dương Đài nơi Vua Sở Tương Vương nằm mơ thấy giao hoan cùng thần nữ núi Vu Sơn.
Bài 5. Tốn Phong đến thăm Hồ Xuân Hương tại Cổ Nguyệt Đường. Phía Nam xa xa có dãy núi, phía Bắc là sông Hồng, một dòng sông Tô Lịch nho nhỏ chảy qua (dòng sông  chảy qua hào thành Thăng Long và ra sông Hồng cửa Hà Khẩu, Hàng Buồm, bị lấp vào đầu thế kỷ 20). Tốn Phong phải đi đò qua sông, đầu thuyền Tốn Phong còn chèo đẩy ánh trăng, đã thấy chủ nhân Cổ Nguyệt Đường, Xuân Hương Hồ Phi Mai đứng trước nhà mai nở trắng xóa. Gió sương từ xưa, nàng đã trao cho ai, còn ta còn trôi nổi như bèo nước hôm nay giờ sẽ biết ra sao? Nàng như thần hoa rất yêu mến hiếu khách, thôi thì đàn, sách đến đâu, cuộc sống ở đó.
Phương Nam núi biếc, Bắc Hồng Hà,
Một dãi sông Tô nho nhỏ qua.
Du khách đầu thuyền, trăng tỏa sáng,
Chủ nhân trước viện, trắng mai hoa.
Phong sương tự cổ xui ai đến,
Bèo nước giờ đây lại nỗi ta.
Rất quý thần hoa yêu mến khách,
Sách đàn đâu cũng áo cơm nhà.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt.
Quần sơn Nam khống, Bắc khâm hà,
Nhất mạch Tô giang tiểu tiểu qua.
Du khách trạo đầu, minh nguyệt sắc,
Chủ nhân đình thượng, bạch mai hoa.
Phong sương tự cổ giao thùy thụ,
Bình ngạnh như kim nại ngã hà.
Tuyệt ái hoa thần, thiên hiếu khách,
Cầm thư tùy xứ tức sinh nha.
Bài 6. Cây bàng đơn côi, che khuất ánh trăng chiếu sáng nhà giai nhân, nhà vắng, chén rượu nàng mời hương vị nồng ấm thanh tao. Lá ngô đồng (cây vông) rơi từ cành biếc, chim phượng múa trong sân. Lối trúc lá vàng bay, chim hoàng oanh chuyền trên cành. Man mác đêm thu gầy gốc mai lạnh, bên bờ hồ Tây đìu hiu rung rinh cành liễu. Khách thơ chợt thấy hồn mộng say sưa, từ giả nàng về còn thấy cây bàng đơn côi che khuất ánh trăng chiếu sáng nhà Hồ Phi Mai... Ông Bùi Hạnh Cẩn trong Thơ Hồ Xuân Hương Văn Học Hà Nội 1995, sđd tr 152 dịch là non côi. Cảnh Hồ Tây không có núi nào che khuất Cổ Nguyệt Đường cả, tôi cho rằng ông đã lầm chữ phong là cây bàng với phong là núi. Ánh trăng khuất sau cây bàng đơn côi chiếu sáng nhà Xuân Hương, đúng hơn. Trong bài thơ Trương Kế: Giang phong ngư hỏa đối sầu miên, cây bàng bên sông và ngọn đèn thuyền chài đối sầu trong đêm. Bài thơ cho thấy trước nhà Cổ Nguyệt Đường có cây bàng lớn, có cây vông, lối vào có trúc xanh Bến trúc Nghi Tàm, bên bờ Hồ Tây có liễu rũ, nhà nàng có nuôi đôi chim phượng hoàng đất, gọi là Cái Cắng, một giống trĩ đủ màu, từ Nghệ An một người bà con đã mang tặng nàng, trong văn bản Landes, Hồ Xuân Hương có bài thơ: cái Cắng đánh nhau.
Cội bàng trăng khuất chiếu hoa đình,
Nhà vắng hương nồng vị rượu thanh.
Biếc rụng cành ngô, sân phượng múa,
Vàng bay lối trúc ngõ chuyền oanh.
Đêm thu man mác mai gầy vóc,
Bến nước đìu hiu liễu rũ cành.
Thoáng tỉnh hồn mơ say mộng khách,
Cội bàng trăng khuất chiếu mai đình.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Cô phong ẩn nguyệt tiếu hoa đình,
Tỉnh viện hương nồng tửu vị thanh.
Ngô lạc bích chi đình vũ phượng,
Trúc phiêu hoàng diệp kính xuyên oanh.
Thu dương dạ sắc hàn mai sấu,
Ngạn lược phong điều tế liễu khinh,
Du giác mộng hồn tao khách túy,
Cô phong ẩn nguyệt tiếu mai đình.
Bài 7. Một dãi sông Tô Lịch giặt vạt áo, nàng ngồi đối mặt với trăm hoa. Tốn Phong hứng thổi sáo tiếng ngân vút như đến sao  Bắc Đẩu. Hứng nhập vào ly rượu cùng nàng bàn chuyện thơ xưa và này. Xuân Hương gảy đàn, tiếng đàn mùa thu mát viện thanh vắng. Mộng chuyền giấc mơ hóa bướm mùa xuân vào chăn. Đã chán cảnh phố xá Nam phố phồn hoa, khi lạnh khi nóng đổi thay. Nàng về Cổ Nguyệt đường có riêng một ánh trăng. Xuân Hương đã chán bán sách, nàng dẹp tiệm về lại Cổ Nguyệt Đường, trở lại nghề dạy trẻ. Nhà nàng có trồng nhiều hoa để bán như các gia đình làng Nghi Tàm, Ngọc Hà. Tốn Phong thổi sáo và Xuân Hương đàn nguyệt cầm, cây đàn được yêu chuộng thời bấy giờ. Xuân Hương được Nguyễn Du dạy đàn.( Khúc Hoàng tay Nguyệt còn chờ dạy. Thơ Hồ Xuân Hương). Tiếc rằng tiếng sáo Tốn Phong không được ký âm để truyền lại đời sao, để hiểu thế nào tiếng sáo ngân vút tận đến sao Bắc đẩu.
Một vốc sông Tô giặt áo khăn,
Nàng  đây đối mặt giữa hoa ngàn.
Thần vào sáo ngọc tung sao đẩu,
Hứng nhập ly quỳnh chuyện cổ kim.
Đàn chuyển tiếng thu vang tỉnh viện,
Mộng chuyền xuân bướm ngát thơm chăn.
Lạnh nồng ngán nỗi phồn hoa lắm.
Riêng tựa đình mai một ánh trăng.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Nhất cúc Tô giang học tẩy khâm,
Dữ quân đối tọa bách hoa thâm.
Thần lai ngọc quản phi tinh đẩu,
Hứng nhập quỳnh bôi tống cổ kim.
Cầm đệ thu thanh lương tỉnh viện,
Mộng chiền xuân điệp đáo hương khâm.
Viêm lương đệ sái phồn hoa thái,
Tuyệt tự đình mai nhất viện âm.
Bài 8. Gió mát từng cơn quét hoa đào hồng rơi rụng dưới đất, tứ buồn vương vấn hai người nhìn nhau không nói. Năm nay, nơi Cổ Nguyệt Đường còn vui tình phượng loan gặp gỡ, rồi mai đây trên bước đường thi cử công danh, như cá vượt vũ môn hóa rồng biết sẽ ra sao. Khí thiêng trời đất đôi ta cùng hát xướng, ngâm thơ. Duyên lạ mây mưa mặc cho hồn mơ mộng. Đừng nói nhớ nhau với biết nhau, chỉ thấy hôm nay lòng cùng ấm chung chén rượu nồng.
Gió mát từng cơn quét ngấn hồng,
Tứ sầu vương vấn biếng lời chung.
Năm nao nhà nguyệt vui tình phượng,
Sao biết đường mây vượt cửa rồng.
Linh khí đất trời cùng hát xướng,
Mây mưa duyên lạ gửi hồn mong.
Nhớ nhau với biết nhau đừng nói,
Chỉ thấy hồn chung chén rượu nồng .
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Thanh phong vận vận tảo hoa ngân,
Sầu tứ trù mâu lãn đối ngôn.
Nguyệt viện đương niên hài phượng lữ,
Thiên cù hà nhật hóa long môn.
Càn khôn linh khí chung ngâm phách,
Vân vũ kỳ duyên phó mộng hồn.
Mạc thuyết tương tư dữ tương thuyết,
Đồng tâm đãn giác tửu bôi ôn.
Chú thích: 
Long Môn: Cửa rồng, cá chép vượt vũ môn hóa rồng, chỉ việc thi đỗ làm quan. 
Càn khôn: trời đất.
Bài 9. Muôn tía ngàn hồng, sắc mùa xuân đã tới, u buồn việc gì mà khách sầu bi? Trong mây, ánh trăng sáng tỏa lồng cây quế, bên đình người hoa chỉ thích hoa mai. Sầu vướng đầu mày ngài gầy với tuyết, Hương theo ngọn bút nở với xuân. Lưu tên lại cho ngày tháng tìm ý thơ mới. Một nụ cười nàng cũng đủ cho lòng sướng vui. Bài thơ này cho thấy Tốn Phong si tình nặng, mùa xuân tới nàng buồn chi trong muôn sắc hoa, nàng hãy cười lên, một nụ cười nàng cũng đủ cho lòng chàng vui sướng.
Muôn tía ngàn hồng xuân sắc tới,
Việc gì buồn bã, khách sầu chi?
Trong mây nguyệt chiếu, trăng lồng quế,
Bên quán người hoa chỉ thích mai.
Sầu vướng nét mi gầy với tuyết,
Hương vào ngọn bút nở xuân tươi.
Lưu danh ngày tháng thơ tìm đến,
Một thoáng hoa cười đủ sướng vui.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Vạn tử thiên hồng xuân sắc lai,
U sầu hà sự khách tâm ai?
Vân gian nguyệt sắc tần phiêu quế,
Đình thượng hoa nhân độc hiếu mai.
Sầu nhập mi phong đương nguyệt sấu,
Hương tùy bút nhụy hướng xuân khai.
Lưu danh tha nhật cầu di án,
Nhất tiếu quần thoa diệc khoái tai.
Bài 10. Khi làm quan ở đền đài, hay sống giang hồ nay đây mai đó đều có thời. Khi thời đến thì như cánh chim Bằng bay cao vút chín tầng trời. Gặp gỡ nàng, người có con mắt xanh nhìn đời lưu lại những bài thơ mùa xuân. Hẹn hò với lòng son trong ánh nắng chiều tà. Chèo thuyền bằng gỗ quế bơi theo dấu chim hạc đen, tôi như chàng Lưu Thần từ Đào Nguyên nơi mây biếc trở về. Nơi trường đình từ biệt, chia tay nếu nàng còn nhớ, hãy ghi lấy địa chỉ tôi, phía Nam Châu Hoan Nghệ Tĩnh, huyện Thạch Hà là quê tôi.
Đền đài sông nước cũng theo thời,
Thời đến Bằng bay chín cửa trời.
Gặp gỡ mắt xanh  xuân hát khúc,
Hẹn lòng son sắc nắng vàng trôi.
Ruổi rong huyền hạc, bơi chèo quế,
Từ cõi hoa đào mây biếc trôi.
Từ biệt trường đình nàng hãy nhớ:
Hoan Nam, huyện Thạch chốn quê tôi.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt
Lăng miếu giang hồ các hữu thì,
Thì lai bằng cách cửu thiên phi.
Tao phùng thanh nhãn lưu xuân khúc,
Đề đính đan tâm đối tịch huy.
Quế trạo mỗi tòng huyền hạc tế,
Đào châu nguyên tự bích vân quy.
Trường đình biệt hậu như tương ức,
Ký thủ Hoan Nam, Thạch ẩn nhi.
Chú thích:
Thanh nhãn: mắt xanh, người có mắt suy xết việc đời. Theo Tấn Thư, Nguyễn Tịch người đời Tấn khi tiếp khách, nếu người tốt, tri kỷ mắt ông xanh, nếu là người xấu thì mắt ông trắng.
Huyền hạc: theo truyền thuyết, chim hạc sống hai nghìn năm thì lông biến thành màu xanh, lại sống nghìn năm nữa thì lông biến thành màu đen gọi là huyền hạc tượng trưng người ẩn dật. Ngày nay thì ta biết chuyện này không đúng vì Hạc có nhiều nơi trên thế giới có giống lông trắng, lông xanh, lông đen, lông hồng, lông xám, có giống pha nhiều màu.
Trường đình: đình trạm, trên đường cái quan, năm dậm thì dựng cái đình nhỏ gọi là đoản đình, mười dậm thì dựng cái đình lớn gọi là trường đình, để ngựa trạm và người công sai đưa công văn,, người đi đường dừng chân nghỉ ngơi. Trường đình Trung Quốc có từ thời Đường, có lẽ do ý kiến của Trần Huyền Trang sau khi đi Ấn Độ về kể chuyện những đình trạm thời A Dục Vương.
Bài 11. Lại viết thêm. Dịu vợi núi sông mấy dậm đường. Giữa phố phường hỏi thăm chốn đình mai (Cổ nguyệt Đường). Hoa đào tự ta không phải là không có duyên phận. Tơ liễu với ai lại rất có tình, Khách ghen chịu sao được điều oán nhỏ nhặt. Nhớ người, ngàn nụ cười làm nhẹ tấm lòng. Chị Hằng hiểu được riêng tấm lòng thương nhớ, xin tỏa ánh trăng sáng xuống Cổ Nguyệt Đường.
Dịu vợi giang sơn mấy dậm đường,
Phồn hoa thăm hỏi chốn mai đình.
Đào hoa ta cũng không duyên phận,
Tơ liễu ai kia rất có tình.
Sao để khách ghen điều nhỏ nhặt.
Ngàn nụ cười vui nhẹ tấm thân.
Hằng Nga hiểu được lòng thương nhớ,
Cổ Nguyệt Đường xin tỏa ánh trăng.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Thiều đệ giang sơn vạn lý trình,
Phồn hoa mạch thượng phong mai đình.
Đào hoa tự ngã phi vô phận,
Liễu nhứ ư nhân thái hữu tình.
Đố khách na kham quan tiểu hận,
Hoài nhân thiên tiếu nhất thân khinh.
Hằng Nga hội đắc tương tư ý,
Cổ Nguyệt đường tiền tả nhất minh.
Năm 1814. Tốn Phong sau khi thi hỏng trường Nghệ năm 1813 lại trở ra thăm Hồ Xuân Hương, viết tiếp 20 bài thơ tặng nàng. Tôi giải nghĩa, và dịch thơ đường luật theo nguyên tác.
Bài 12  Đã quen biết nhau ở Phố Nam thành Thăng Long gần 10 năm trước, nơi hiệu sách gần chùa Lý Quốc Sư Nguyễn Minh Không, thuở ấy Xuân Hương ở xa ngôi nhà nàng sinh trưởng làng Nghi Tàm. Năm nay 1814, gặp lại nàng ở Cổ Nguyệt Đường phía Bắc thành Thăng Long, tình xưa như tơ liễu vẫn còn vấn vương như sương khói. Bao năm qua nàng như cành mai phất phơ trong đông tàn tuyết lộng, đời nàng nhiều phong trần. Từ khi từ biệt lòng Tốn Phong vẫn thương nhớ như nước mênh mông liền trời. Gặp nhau đây nơi nhà nàng thắp sáng ngọn đèn bạc, cùng kể nhau nghe chuyện lưu lạc sông hồ, hò hẹn duyên nợ xa xưa.
Nam Phố mười năm xưa đã quen,
Hoa đào độ ấy cách nguồn tiên.
Năm nay gặp lại nơi thành bắc,
Tơ liễu vẫn còn sương khói vương.
Điểm nửa tình xuân mai tuyết lộng,
Muôn trùng nỗi biệt nước trời chen.
Nhà lan là lúc chong đèn bạc,
Kể chuyện giang hồ hẹn mối duyên.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Nam phố tương tri thập tải tiền,
Đào hoa do tự cách tiên nguyên.
Bắc thành tương kiến kim niên cảnh,
Liễu nhữ hoàn ưng đối dã yên.
Bán điểm xuân tình mai dục tuyết,
Vạn trùng lý tứ thủy như thiên.
Hữu thời lan thất khiêu ngân chúc,
Cộng thoại giang hồ đính túc duyên.
Chú thích: 
Nam Phố: Phố Nam thành Thăng Long. 
Lan thất: nhà lan, nơi phụ nữ ở 
Túc duyên: mối duyên xưa từ trước. 
Ngân chúc: đèn bằng bạc thắp bằng dầu lạc. Thời Hồ Xuân Hương thường dùng đèn bằng đất sét, hay đèn sứ, có bấc bằng sợi bông vải, ngâm trong dầu lạc (đậu phọng), chỉ có nhà khá giả mới dùng đèn bạc chạm khắc công phu.
Bài 13. Xuân Hương Hồ Phi Mai như mai lạnh gặp tuyết xúc động tinh thần, đối mặt với Mai càng thầy yêu nàng nhiều hơn. Thư từ không truyền đạt hết được ý, bèo mây phiêu bạt làm sao hiểu được giấc mộng trong lòng. Tình ta thăm thẳm như nước Hồ Tây sâu ngàn thước, soi gương cũ nàng có gầy hơn trước. Tốn Phong muốn hỏi nàng buồn vui thế nào, nàng vẫn vui vẻ lạc quan rằng tháng tới là tết đến.
Hàn mai như tuyết động tâm thần,
Đối mặt mai càng thương cố nhân.
Cá nhạn sao truyền, thư ngoại ý,
Bèo mây nào biết mộng trong lòng.
Đầm trong nước cả sâu ngàn thước,
Gương cũ gầy soi dáng mấy phần.
Khách đến buồn vui tha thiết hỏi,
Nàng: trong tháng tới lại sang xuân.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Hàn mai như tuyết động tinh thần,
Trùng đối mai hoa bội ái quân.
Ngư nhạn bất truyền thư ngoại ý,
Vân bình nan tín mộng trung thân.
Thanh đàm lãng thủy thâm thiên sích,
Cổ kính si nhan sấu kỷ phần.
Khách lộ bi hoan hà xứ vấn,
Kinh văn lai nguyệt thị tân xuân.
Chú thích:
Ngư nhạn: giấy viết thơ ngày xưa có in hình con cá, hay chim nhạn đầu trang. 
Hồ Tây còn gọi là Dâm đàm, vì mùa Đông đầy sương mù ngày xưa đơn vị thước đo bằng gang tay không chính xác, ngàn thước chỉ là một cách nói  Hồ Tây sâu.
Bài 14. Mai lạnh không ghen với màu trắng sương móc xa gần, Nàng đẹp yêu kiều sánh với các mỹ nhân trong sách sử. Tốn Phong cởi ngựa hay đi xe ngựa từ Nghệ Tĩnh ra, trên đầu ngựa đã thấy mùa xuân hoa nở rộ. Nghe văng vẳng như tiếng đàn Phượng Cầu Kỳ Hoàng của Tư Mã Tương Như từ giữa khóm trúc vang vang. Bạn cũ nơi chốn phồn hoa, gặp nhau lại kính e như là mới gặp, tình giao du sống chết có nhau tưởng như mới tạm quen. Nàng trịnh trọng tiếp đãi ân cần như dịp tốt không phụ lòng trời. Tình Tốn Phong như núi màu xanh gấm vóc. Lòng Phi Mai như nước thành gương bạc soi núi biếc.
Ghen chi mai lạnh trắng sương ngần,
Một vẻ yêu kiều sánh mỹ nhân.
Đầu ngựa tin xuân hoa sắc điểm,
Phượng cầm tự khóm trúc vang thanh.
Phồn hoa bạn cũ như ngày mới,
Sinh tử giao tình tưởng mới thân.
Tình trọng duyên may trời chẳng phụ,
Tình non như gấm, nước như gương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Hàn mai vô đố bạch tân phân,
Nhất dạng kiều tu bạn mỹ nhân.
Mã thủ xuân tùy hoa lý đắc,
Phượng cầm thanh tự trúc trung văn.
Phồn hoa cựu lữ kinh sơ kiến,
Sinh tử giao tình tích tạm thân.
Trịnh trọng nhai kỳ thiên bất sảng,
Tình sơn như cẩm thủy như ngân.
Chú thích: 
Phượng cầm: trai tỏ tình với gái, Tích Tư Mã Tương như tỏ tình với Trác Văn Quân gảy đàn cầm mà hát rằng: "Phượng chừ, Phượng chừ, về quê làng ngao du bốn biển tìm chim Hoàng" thường gọi khúc Phượng Cầu Kỳ Hoàng.
Bài 15. Tình Tốn Phong như núi non màu xanh gấm vóc, phản chiếu xuống lòng Hồ Phi Mai như gương bạc. Chủ nhân Cổ Nguyệt Đường tiếp đãi trịnh trọng, ân cần. Nàng như vầng trăng không thích để đêm đen tối, nàng chìu lòng khách không bỏ lững câu chuyện làm buồn ai bao giờ. Nàng như hoa trời chúa xuân đến đâu nẩy mầm xuân đến đó. Lòng Tốn Phong như khách hò hẹn chốn Đào Nguyên cùng tiên nữ, Chốn Vu Sơn vô tâm làm bài phú thần sông Lạc. Phi Mai nhắc lại chuyện cũ than thở lúc từ giả Tổng Cóc trở về Thăng Long, dời nhà ra mở hiệu sách, một mình lận đận sinh con, khốn khổ vô cùng.
Tình non như gấm nước như gương,
Tình trọng tao phùng với chủ nhân.
Trăng cũ vẫn thường soi mỗi tối,
Hoa trời khắp chốn nẩy mầm xuân.
Đào nguyên hò hẹn cùng tiên nữ,
Vu giáp nào hay hát Lạc thần.
Mai lạnh vẫn thường than nỗi khổ,
Chốn dời hoa mới nẩy thêm cành.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Tình sơn như cẩm, thủy như ngân,
Trịnh trọng tao phùng hữu chủ nhân.
Cổ nguyệt sinh thời ưng bất dạ,
Thiên hoa tùy xứ khả vi xuân.
Đào nguyên hữu ước minh tiên lữ,
Vu giáp vô tâm phú Lạc thần.
Tối thị hàn mai  tự ái khổ,
Thiên cư trùng lệnh nhất chi tân.
Chú thích: 
Vu giáp: Tống Ngọc viết bài phú Cao Đường về chuyến đi chơi đầm Vân Mộng của Sở Tương Vương, gặp Thần nữ núi Vu Sơn và giao hoan cùng nàng. Lúc từ biệt nàng nói: Thiếp xin sớm làm mây, tối làm mưa sớm tối dưới Dương Đài. 
Lạc Thần: Thần sông Lạc, con sông ở tình Hà Nam, Trung Quốc, tương truyền con gái Vua Phục Hy chết đuối nơi đây hóa thần. Tào Thực đời Ngụy (con Tào Tháo) qua đây ngủ mơ gặp cô gái thần sông Lạc, nhìn ra lại hóa hoàng hậu họ Nhân, trước vợ Viên Đàm sau lấy Tào Phi tức Ngụy Văn Đế.
Bài 16. Sông Tô Lịch có rộng là bao mà hóa  ra giải Ngân Hà. Tốn Phong đêm qua ngủ mộng thấy mình qua cầu như Ngưu Lang gặp Chức Nữ. Khách văn của nàng Hồ (Cổ Nguyệt) chỉ nhớ suông, nhưng nàng phận má hồng phải chịu nhiều cảnh long đong. Một khúc đàn nơi bến Tầm Dương thấy thương nàng nhiều. Bao năm dài Tốn Phong như Tô Vũ bị đày ngoài Ải Bắc. Nay trở về cùng nắm tay hương mai thơm đồng ngoạn cảnh, nhớ đến động Bích Đào ngày trước nay đã xa.
Sông Tô gang tấc hóa Ngân Hà,
Lòng nhớ qua cầu giấc tối qua.
Trăng cũ khách văn suông nỗi nhớ,
Hoa xuân má thắm phận sa đà.
Tầm Dương một khúc thương lòng lắm,
Ải Bắc bao năm biết nỗi ta.
Tay nắm hương mai, cùng ngoạn cảnh,
Bích Đào ngày cũ bóng mây xa.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Tô Giang chỉ sích hóa Ngân Hà,
Tạc dạ giang kiều tiểu mộng qua.
Cổ nguyệt văn nhân không phiến diểu,
Xuân hoa hồng liễm phận sa đà.
Tầm Dương nhất khúc lân khanh nhĩ,
Bắc Tái liên miên nại ngã hà.
Thủ bả hương mai đồng ngoạn cảnh,
Bích Đào tha nhật hựu vân xa.

Chú thích: 
Tô Giang: sông Tô Lịch chảy vào hào thành Thăng Long và chảy ra cửa Hà Khẩu (Hàng Buồm) 
Tầm Dương: Bài Tỳ Bà hành của Bạch Cư Dị khi trấn nhậm Hàng Châu viết trên bến Tầm Dương, Hàng Châu nơi có nhiều thanh lâu, kỹ nữ. 
Bắc Tái: tích Tô Vũ đi sứ Hồ bị bắt đi chăn dê ở Ải Bắc 18 năm. 
Bích Đào: Đào Nguyên, nơi Lưu Thần, Nguyễn Triệu gặp tiên nữ Ngọc Chân.
Bài 17. Vầng trăng đơn côi khuất nửa rèm soi hoa ngoài sân, dáng Phi Mai gầy trong gió thanh thanh. Lá cũ cây ngô đồng còn mơ hồn chim phượng, ngoài ngõ cây mận tiết  lạnh cuối đông bóng con chim oanh chuyền cành. Một cành hoa lê trắng như tuyết cắm trong bình còn hờn oán mùa thu. Khách sầu nơi quán vắng lòng nghe sương khói như nhẹ lên cành liễu. Bâng khuâng giữa mộng lệ ướt khăn, vầng trăng cô đơn nửa rèm vẫn soi bóng ngàn hoa trong sân.
Trăng lẻ nửa rèm hoa bên đình,
Mai gầy cung điệu, gió thanh thanh.
Ngô đồng lá cũ mơ hồn phượng,
Ngõ hạnh lạnh tàn chuyển bóng oanh.
Thu oán một bình lê tuyết nhạt,
Khách sầu quán vắng liễu sương dâng.
Bâng khuâng giữa mộng khăn nhòa lệ,
Trăng lẻ nửa rèm hoa bên đình.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Cô nguyệt bán liêm hoa ngoại đình,
Sấu mai cung đệ hiểu phong thanh.
Ngô đồng cựu diệp tân tường phượng,
Lý hạnh hàn dư tảo chuyển oanh.
Thu oán độc bình lê tuyết đạm,
Khách sầu không quán liễu yên kinh.
Du du mộng lý khâm tùy lệ,
Cô nguyệt bán liêm hoa ngoại đình.
Bài 18. Đến thăm nàng thời gian qua nhanh quá, vừa ngồi bên gối đó lại phải về. Trong Cổ Nguyệt Đường con đường thơ của nàng lắm gian nan gió bụi phong trần. Nàng không khỏe lắm, sức khỏe nàng như những người đẹp đào hoa từ xưa đến nay. Nàng ngồi lặng im chìm đắm trong giấc mơ. Bên trời có khách ra đi gió thổi bồng mái tóc, Canh vắng nàng có lạnh nửa chăn không? Lòng ước mơ nơi chốn Chương đài sau cơn mưa, bóng trăng lồng bóng hoa. (Tốn Phong ước mơ được ôm ấp nàng như bóng trăng lồng bóng hoa)
Vừa cùng gối khách, lại dời chân,
Viện cũ đường thơ lắm bụi trần.
Sức vóc đào tơ như tự cổ,
Mộng mơ mai ít nói làm thinh.
Cuối trời  khách gió bồng đôi tóc,
Canh vắng ai người lạnh nửa chăn.
Tiếc nỗi Chương đài mưa núi tạnh,
Trăng non còn nhớ bóng hoa lồng.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Sạ đồng khách chẩm hựu phân khâm,
Tao lộ trần dao cổ viện thâm.
Mạnh thuộc đào hoa lân tự cổ,
Mộng huyền mai thực sỉ như câm.
Thiên nhai hữu khách song bồng mấn,
Thâm dạ hà nhân bán lãnh khâm,
Thác ái Chương đài sơn vũ hậu,
Đề hồi sơ nguyệt ẩm hoa âm.
Chú thích: 
Chương đài: Kiều: Khi về hỏi liễu Chương đài, cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay. Chương Đài tên con đường ở Trường An, Đời Đường, Hàng Hoành có lấy một người kỹ nữ họ Liễu ở con đường đó. Sau Hoàng Hoành làm quan xa, Liễu Thị ở nhà bị tướng Phiên cướp mất, mãi ba năm sau mới tái hợp. Thơ Hàng Hoành viết cho Liễu Thị có câu: Chương Đài liễu. Tích nhật thanh thanh, kim tại phủ? Giả ưng phân chiết tha nhân thủ? Cây liễu Chương Đài xưa xanh xanh, nay còn không? Hay là tay khác đã bẻ mất rồi?
Bài 19: Đầu xóm chia tay nhau lệ thắm khăn, nhìn nhau lưu luyến không nói lên lời nào. Mười phần hoa sắc đến nước Nam, nàng mang lại ánh sáng mùa xuân vào cửa Bắc. Bóng trăng hồn nhiên phơi phới giữa trời cao, hồn hoa Mai đã gửi bên bờ bến nước (nàng đã yêu Tham Hiệp Yên Quảng Trần Phúc Hiển). Từ nay chỉ thấy tương tư là đau khổ, gối lạnh phòng không nhớ đứt ruột.
Đầu xóm cầm tay lệ thắm khăn,
Nhìn nhau lưu luyến lặng tình câm.
Mười phần son sắc trời Nam đến,
Quá nửa xuân quang cửa Bắc tràn.
Bóng quế trời cao thăm thẳm lộng,
Hoa mai hồn gửi bến sông trong.
Từ nay lòng khổ vì thương nhớ,
Gối lạnh phòng không nỗi đoạn trường.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Huề thủ thôn đầu thức lệ ngân,
Trù trừ tương cố cánh vô ngôn.
Thập phần hoa sắc lai Nam quốc,
Thái bán xuân quang nhập Bắc môn.
Quế ảnh hồn như thiên thượng lộng,
Mai hoa thác đắc thủy biên hồn.
Tòng kim đãn giác tương tư khổ,
Trường đoạn đông phòng chẩm vị ôn.
Bài 20. Trên bến sông Tô Lịch mùa xuân sắp đến, nay tạm chia tay khách bùi ngùi, đã rằng tài tử hay đề thơ bạch tuyết (làm những bài thơ khó hoạ) riêng bản tính Phi Mai thích người đi xa. Chớp mắt phong trần đều là mộng ảo cả, gần đây thi tứ chẳng gì vui. Đáng thương cho kẻ từ đêm đen quay đầu nhìn lại, người ta mong nhớ bây giờ nơi đâu?
Đầu bến Tô Giang xuân sắp đến,
Tạm rời ly biệt khách sầu ai .
Đã rằng tài tử hay đề tuyết,
Riêng thích chinh nhân bản tính mai.
Một thoáng phong trần cơn mộng ảo,
Gần đây thi tứ chẳng gì vui.
Thương sao đêm thẳm lòng nhung nhớ,
Mong nhớ người xa nỗi ngậm ngùi.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Tô giang giang thượng xuân tiệm lai,
Tạm thời ly hợp khách tâm ai.
Dĩ tri tài tử năng đề tuyết,
Thiên hỉ chinh nhân bản tính mai.
Thúc hốt phong trần đô thị mộng,
Nhĩ lai thi tứ vị tằng khai.
Khả lân hắc dạ dao hồi thủ,
Ngã tứ chi nhân an tại tai.
Bài 21. Chim hót, mùa xuân tươi tốt cuối tháng ba, lòng Tốn Phong như bay bổng giữa cơn mê. Từ nay nơi đầu cầu nước chảy đôi dòng chia hai, tiếng đàn xưa còn rung buổi chiều tà. Trước ngựa mùa xuân tươi đẹp ý. Mong nàng lên xe loan với người tâm đầu ý hiệp, xa nàng mong nàng gặp nhiều may mắn. Bên đình mai cùng nắm tay nhau đối diện với khóm trúc, từ nay đôi ta chỉ là bạn chân tình với nhau.
Chim hót hoa tươi cuối tháng ba,
Hồn chơi không nhớ mộng bay xa.
Đầu cầu khách biệt chia dòng nước,
Dưới gác đàn rung nửa ánh tà.
Trước ngựa theo niềm xuân đẹp ý,
Xe loan mong sớm với người xa.
Xa người càng thấy vui khi gặp,
Khóm trúc đình mai ta với ta.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Hoa sắc quyên thanh tam nguyệt thì,
Du hồn không ức mộng trung phi.
Kiều đầu khách ứ không phân thủy,
Các hạ cầm minh bán tịch huy.
Mã thủ hảo tùy xuân đắc ý,
Loan xa tảo dữ tử đồng quy.
Biệt quân tối ái phùng quân hảo,
Huề thủ mai đình đối trúc nhi.
 Bài 22. Mười bài  thơ năm 1814  vẫn chưa đủ, Tốn Phong làm tiếp mười bài nữa.  Kiếp đời trôi nổi như bèo nước, sáu năm xưa (1807) đã từng gặp gỡ nàng, Tốn Phong đã nhiều lần đến thăm Cổ Nguyệt Đường nơi nàng sinh trưởng. Gian phía trái là nơi tiếp khách, có chậu hoa nở rộ tươi mát nàng mới tưới hương còn ẩm, tiếng chim ríu rít giữa sân bên hòn non bộ, Tốn Phong tả nước trong hòn non bộ thành khói bốc lên cho thi vị chăng? Khí hậu làng Nghi Tàm có đủ lạnh để khói bốc như thế chăng, tôi ngờ rằng phía sau hòn non bộ đặt vài ông táo để nấu nước, pha trà đun cũi khói bốc lên. Hai chữ tả viện cho phép ta suy diễn: ngôi Cổ Nguyệt Đường được Tốn Phong gọi là đình, hay viện, khá lớn cất theo hình chữ khẩu (hình vuông) có tả viện nơi tiếp khách, bán giấy bút cho học trò, tất nhiên có hữu viện là phòng ngủ, khuê phòng, thư phòng, gỗ chạm khắc cho ánh sáng đủ vào. Tiền viện là gian nhà dạy học và hậu viện là nơi bàn thờ thờ phụng. Chính giữa là sân gạch có hòn non bộ, chậu kiểng, khi cần dùng có thể biến thành sân phơi thóc. Gian tả viện và tiền viện phía trong không có vách để có ánh sáng, có tấm phản cho thầy ngồi, học trò trải chiếu ngồi chung quanh. Gian tả viện có một vài bộ trường kỷ (ghế dài chạm xa cừ), có bàn đặt bình trà. Gian nhà thờ phía sau, có cửa ván, khi có giổ chạp hay tang lễ mở cửa ra. Con cháu, học trò đông đúc đứng tràn ra sân.
So với ngày trước, nàng có gầy đôi chút làm cho cốt cách nàng thanh thoát. Sắc đẹp nàng mặn mà hơn xưa, mười phân vẹn mười. Chỉ tiếc rằng sáu năm qua đi ở không viết thư cho nhau, nay gặp lại người cũ, hoa xưa lòng vui mừng xiếc bao.
Gặp gỡ bèo hoa trước sáu năm,
Nguồn đào mấy độ đã về thăm.
Hoa đơm tả viện hương còn ẩm,
Chim hót non hàn khói biếc dâng.
Thanh thoát vẻ mai gầy cốt cách,
Rỡ ràng xuân sắc vẹn mười phân.
Đã lâu đi ở không tin tức,
Người cũ hoa xưa gặp gỡ mừng.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Bình ngạnh tương phùng lục tải tiền,
Đã tằng kỷ độ phỏng đào nguyên.
Hoa khai tả viện hương do thấp.
Điểu lộng hàn sơn thủy dục yên.
Nhất dạng mai trang thanh triệt cốt
Thập phần xuân sắc hảo liên thiên.
Chỉ kim quy khứ vô tiêu tức,
Y cựu đào hoa nhận túc duyên.

Bài 23. Mùa xuân sang, biết tìm thần hoa xứ nào, mười độ xuân về chín độ nhớ thương nàng. Tiếc rằng thân phận thư sinh chưa đỗ đạt sớm gặp người tri kỷ. Dù ngàn vàng cũng không mua được tấm thân thanh xuân của nàng. Ánh hồ trong leo lẽo thấy suốt đáy, vầng trăng tròn sáng soi Cổ Nguyệt Đường. Rặng liễu nơi bờ hồ hãy vì ta mà nhắn lời rằng: hoa mai đã rực rỡ khắp núi mây ngàn
Xuân sang nào biết chốn hoa thần,
Mười độ xuân về chín nhớ thương.
Mặt trắng gặp người tri kỷ sớm,
Nghìn vàng khôn chuộc tuổi thanh xuân.
Hồ trong leo lẽo soi lòng thẳm,
Đình nguyệt tròn xoe sáng ánh rằm.
Dặm liễu hãy vì ta nhắn bến,
Hoa Mai rực rỡ núi mây ngàn.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
Xuân lai hà xứ mịch hoa thần,
Thập độ xuân lai cửu tích quân.
Bạch diện tao phùng tri kỷ khách,
Hoàng kim nan nại thiếu niên thân.
Hồ quang liễm liễm thanh vô để,
Đình nguyệt đoàn đoàn mãn thập phần,
Vị ngã truyền ngôn giang thượng liễu,
Mai hoa dĩ chiếm lĩnh đầu vân.
Chú thích: 
Bạch diện: bạch diện thư sinh, người học trò chưa thi đỗ.
Bài 24. Xuân đã về, đi dạo chơi khắp chốn kinh thành thấy hồn thơ lai láng. Một cánh hoa bay cũng làm buồn lòng người, Tốn Phong dùng chữ hoa bay ý nói tên Phi Mai làm cho chàng thương nhớ, ngoài trời bóng mây trôi như người lữ khách bao năm phiêu bạt. Sóng thông reo khúc nhạc êm đềm cho người ngồi bên bến nước lắng nghe, có nhàn rỗi tâm hồn mới yên tịnh lắng nghe những cảnh sắc đẹp. Càng giao du với nàng càng lâu càng thân thiết. Còn nhớ những đêm thanh cùng nhau xướng họa thơ nơi đình mai, một bầu trời trăng sáng ngần như bạc.
Khắp thành xuân sắc tứ thơ vương,
Một cánh hoa bay ai nhớ thương.
Thoáng bóng mây xa ngàn dậm đó,
Thông reo tiếng sóng bến bờ tương.
Việc đời mới hiểu nhàn nên tốt,
Càng đậm tình sâu biết tỏ tường.
Còn nhớ đình mai vui thuở ấy,
Trời cao một sắc trắng như gương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Mãn thành xuân sắc tứ phân phân,
Nhất phiến hoa phi não sái nhân.
Vân ảnh sạ tòng thiên ngoại khứ,
Tùng đào như hưởng thủy biên vân.
Đình tri thế sự nhàn như hảo,
Thả giác giao tình cửu cánh thân.
Thượng ức mai đình thanh dạ hứng,
Trường thiên nhất sắc bạch như ngân.
Bài 25. Trời cao một sắc trăng sáng ngần như bạc. Mỹ nhân Xuân Hương Hồ Phi Mai đã ra đón từ bến trúc. Nàng như vầng trăng xưa tỏa sáng bao ý đêm, Nàng như hoa trời nở rộ khắp đình xuân. Nàng làm những câu thơ bạch tuyết khó ngâm khó họa, thơ nàng vào bậc thánh. Môi nàng say thắm như rượu có thần. Đừng bảo xuân về xuân lại ra đi, trên cành mai lạnh mùa đông mai lại nẩy thêm cành.
Trời cao một sắc trắng như ngân,
Bến trúc mừng vui gặp mỹ nhân.
Trăng cũ tỏa ngời bao dạ ý,
Hoa trời khai nở rộ đình xuân.
Ngâm câu Bạch Tuyết thơ nên thánh,
Say đắm môi son rượu có thần.
Đừng bảo xuân về xuân lại biệt,
Hàn mai vừa nở một cành xuân.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Trường thiên nhất sắc bạch như ngân,
Trúc lý phùng nghinh đối mỹ nhân.
Cổ nguyệt chiếu lai khiêm dạ ý,
Thiên hoa khai xử mãn đình xuân.
Ngâm thành bạch tuyết thi năng thánh,
Túy đáo chu nhan tửu diệc thần.
Mạc nhạ xuân lai xuân hựu khứ,
Hàn mai di phó nhất chi tân.
Bài 26. Phía trên La Thành tiếp giáp với Thiên Hà, ngoài thành cuồng cuộn dòng sông Nhị chảy qua. Bờ liễu tháng chạp tha thiết buông lơi. Gốc mai xông lạnh tự nở hoa trời. Mười năm đọc sách luyện kiếm dùng làm chi nhỉ? Muôn dậm còn ruổi rong ta biết ra sao bây giờ. Lặng nhìn móng cầu vòng bảy sắc mà lòng thấy thú vị, lòng tưởng như hồn bay chơi tới tận chân trời.
La Thành trời rộng nối Thiên hà,
Cuồng cuộn ngoài thành sông Nhị qua.
Tháng chạp biếc xanh hồ liễu  rũ.
Tiết hàn mai tự nở ngàn hoa.
Mười năm thư kiếm dùng chi nhỉ?
Muôn dậm phiêu bồng mãi thế a!
Lặng ngắm móng trời riêng cảm khoái.
Mộng hồn tường đến bến bờ xa.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
La Thành chi thượng tiếp Thiên hà,
Thành ngoại dung dung nhị thủy qua.
Đãi lạp liễu tương thư ngạn sắc,
Xung hàn mai tự phát thiên hoa.
Thập niên thư kiếm tương an dụng?
Vạn lý trì khu thả nại hà!
Tỉnh đối tà hồng thiên giác hảo,
Mộng hồn tưởng dĩ đáo thiên nha.
Chú Thích: 
La Thành: Thành Thăng Long thời Bắc thuộc còn có tên là thành Đại La do Cao Biền xây. 
Thành Thăng Long được xây dựng vào đời Lý thế kỷ XI, khi Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Năm 1804 Vua Gia Long sai Nguyễn Văn Thành phá thành cũ xây lại thành mới nhỏ hơn.
Bài 27. Hòn non bộ chơ vơ, vầng trăng bán nguyệt soi đình mai, nhà vắng gió nhẹ thanh mát say tình đêm. Cành vông đồng biếc gầy ngoài sân, chim phượng đậu, sau cơn mưa cây lá lạnh đã nghe tiếng chim oanh chuyền cành. Vào cuối thu ánh trăng sáng soi hồn mai lạnh buốt. Nước rót vào bình thơm còn vương bóng liễu nhẹ thênh thang. Tứ thơ man mác mộng theo ý xuân, hòn non bộ đơn côi giữa sân ánh sáng trăng nửa vầng chiếu sáng.
Non trơ nửa nguyệt sáng mai đình,
Gió nhẹ nhà yên tối vắng tanh.
Cành biếc vông gầy sân phượng đậu,
Mưa tàn lá lạnh cội chuyền oanh.
Thu tròn ánh nguyệt hồn mai giá,
Nước nhỏ bình thơm bóng liễu xanh.
Man mác tứ xuân vào giữa mộng,
Non trơ nửa nguyệt sáng mai đình.
Nguyên tác  phiên âm Hán Việt:
Cô sơn bán nguyệt bạng mai đình,
Tĩnh viện lương phong ngọ dạ tình.
Ngô bích sấu chi đình hạ phượng.
Vũ dư hàn diệp thụ lưu oanh.
Thu viên nguyệt sắc mai hồn lãnh,
Thủy lựu hương bình liễu ảnh khinh.
Du tử mộng tùy xuân ý đắc,
Cô sơn bán nguyệt bạng mai đình.

Côn Sơn: có thể hiểu là núi Tam Đảo, nhưng núi Tam Đảo từ Cổ Nguyệt Đường chỉ có thể thấy khi trời quang mây tạnh. Bài Cố kinh thu nhật, Hồ Xuân Hương có viết: Tam Đảo trời quang vọng bắc xa (Tam Đảo tình quang Bắc vọng xa) do đó ban đêm trăng bán nguyệt Tốn Phong chỉ có thể thấy hòn non bộ nhà Phi Mai.
Bài 28. Từ lúc chia tay mỗi người mỗi ngã, đường đời bao chặng trải nhiều nỗi thăng trầm. Phi Mai ba lần lầy chồng (lần thứ nhất với Thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm, lần thứ nhì với Tổng Cóc Nguyễn Công Hòa, và lần thứ ba Tham Hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiển) còn khách (Tốn Phong) vẫn vậy sáu năm nay. Quen xem phong cảnh đời trôi nổi, ngán nỗi tình đời khi ấm khi lạnh. Quay lại nơi Đồng Giang, bến sông Hồng nơi chia tay nhau năm 1808, rặng liễu đìu hiu tỏa bóng râm.
Từ khi cách biệt nỗi phân ly,
Sầu cạn từng phen trải lối đi.
Mai quả đã từng ba độ kết,
Khách tình vẫn vậy sáu năm nay.
Quen xem phong cảnh: đời trôi nổi,
Ngán cõi người ta : ấm lạnh rồi.
Quay lại Đồng Giang nơi tiễn biệt,
Đìu hiu rặng liễu bóng đơn côi.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Tự tòng biệt hậu các phân khâm,
Thế lộ hành hành lịch thiển thâm.
Mai thực đã tằng tam độ kết,
Khách tình dĩ thị lục niên câm (kim)
Quán khan phù thế phong quang thái,
Đố sái thời nhân lãnh noãn khâm.
Hồi thủ Đồng Giang phân quyết xứ,
Y y dương liễu dĩ thành âm.
Chú thích: l 
Câm: Chữ kim là nay, vì tránh tên húy Nguyễn Kim ông Tổ họ Nguyễn nên đọc thành câm. 
Đồng Giang: Nguyễn Du có bài thơ Đồng giang lung.
Bài 29. Ngàn dậm ra đi nơi trường đình lau nước mắt, người ở người đi không nói năng gì, đã từng nghe non mai báo tin xuân. Mấy lần thấy sóng lớn đập vào cửa biển. Tốn Phong mấy lần đi qua cửa biển Thần Phù, sóng cao nguy hiểm đối diện với cái chết  Lênh đênh qua cửa Thần Phù, khôn tu thì nổi vụng tu thì chìm. Lòng nhớ nước cũ bao giờ tan được như hồn vua Thục hóa thành chim đỗ quyên kêu quốc quốc. Chìm sông Mịch Giang hồn Khuất Nguyên vẫn còn mãi thơ Ly Tao ai oán muôn đời. Đây là hai câu thơ duy nhất Tốn Phong nói lên tâm sự thời thế của mình. Lòng Tốn Phong còn nhớ đến nhà Lê, chúa Trịnh, tiếc rằng Vua Sở không nghe những lời ngay thẳng của Khuất Nguyên mà nước mất nhà tan. Thôi nói chi việc đời nay có rượu nên cùng say, hương vị rượu Hoàng Cúc càng uống càng thắm môi nồng nàn.
Ngàn dậm trường đình lệ thắm khăn,
Người ở người đi chẳng nói năng.
Từng thấy non mai xuân báo thiệp,
Đã quen cửa biển sóng thăng trầm
Bao năm Hồn Thục còn thương nước,
Ngàn thuở Ly Tao oán Mịch Giang.
Nay có rưọu thơm cùng thưởng nhé,
Men say Hoàng Cúc rượu nồng nàn;
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Thiên lý trường đình phất lệ ngân,
Nhân lai nhân khứ lưỡng vong ngôn.
Tằng văn mai lĩnh truyền xuân tín,
Tỷ kiến trào thanh hám hải môn.
Vọng đế hà niên tiên Thục phách,
Mịch giang chung cổ oán Tao hồn.
Như kim hữu tửu tu đồng túy,
Nhương thục Hoàng hoa vị cánh ôn.
Chú thích: 
Thục phách: Vua Thục Đế vì dâm vợ Biết Linh, nên giao ngôi lại cho Biết Linh. Sau Biết Linh làm ngặt phát lương cho ăn vất vả. Thục Đế mới buồn bỏ xứ ra đi, hóa ra chim đỗ quyên, tiếng kêu quốc quốc thảm thiết. Người đời nói vua Thục Đế tiếc nước nên tiếng kêu bi thương. Nguyễn Du, Kiều: Khúc đâu đầm ấm xuân tình, Ấy hồn Thục Đế hay mình Đỗ Quyên. Bà Huyện Thanh Quan (Nguyễn Thị Hinh): Nhớ nước đau lòng con quốc quốc, Thương nhà mỏi miệng cái gia gia. 
Mịch giang: Khuất Nguyên khuyên vua Sở không nghe đến mất nước, viết tập thơ Ly Tao để lạo cho đời và trầm mình xuống sông Mịch Giang.. 
Hoàng hoa: cúc vàng nở mùa thu.
Bài 30. Đầu thành có tiếng sáo thổi từ bên sông vọng sang, nghiêng lắng tai nghe giọng buồn thương ai oán. Nhìn những cánh nhạn đứt đàn trong sương mây, ngựa trạm rong ruổi trên đường mùa xuân như đang đùa với mai trên núi. Dạ sầu như tuyết bay đi không trở lại. Thi tứ khách giống như hoa giữ mãi nụ không nở, ngậm ngùi muốn lưu mùa xuân, xuân không dừng lại, đời người như mây nổi mờ mịt thế thôi. Năm 1814 Xuân Hương đã yêu Tham Hiệp Yên Quảng Trần Phúc Hiển, tình yêu Tốn Phong chỉ còn như tiếng sáo ai oán, tình chàng như ngựa trạm qua nhanh như đùa với mai vàng bên núi. Tình Tốn Phong sẽ mãi mãi là đóa hoa nguyên nụ không nở nữa. Xuân Hương không dừng lại trong đời chàng, mà mỗi người đi mỗi ngã, đời mờ mịt như mây trôi lang thang.
Đầu thành tiếng địch vọng bên song,
Nghiêng lắng tai nghe khúc nhạc buồn.
Mờ mịt sương lam mây khuất nhạn,
Nhởn nhơ ngựa hí nẻo mai vàng.
Sầu dài tựa tuyết bay bay mãi,
Nỗi khách như hoa chẳng thở than.
Đau xót xuân về xuân chẳng ở,
Thì thôi mây mấy độ lang thang.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Thành đầu suy địch quá giang lai,
Trắc nhĩ như văn vận vận ai .
Vọng đoạn sương mê vân tế nhạn,
Dịch trì xuân hí lũng đầu mai.
Sầu trường tự tuyết phi nan phản,
Khách tứ như hoa bão bất khai,.
Trù trướng lưu xuân xuân bất tụ,
Phù vân diểu diểu dĩ yên tai.
Bài 31. Đời người vui chơi được bao lâu, muốn ném tung lòng trần từng mảnh đi. Trước chùa một cột trên nóc chạm tương hình chim ngủ đổ soi mặt hồ. Trên hồ Bách hoa bóng nắng chiều xế tà. Chuyện Tư Mã Tương Như hát khúc Phượng Cầu Kỳ Hoàng cho Trác Văn Quân đã muộn rồi. Lòng Tốn Phong chỉ còn như Tư Mã Tương Như, đề nơi trụ cầu: «Mai đây không mặc áo cừu nhẹ, không ngồi xe ngựa thề không trở lại cầu này», không thi đỗ không làm nên sự nghiệp, thề không trở lại chốn này. Mai sau nếu gặp lại Phi Mai còn nhớ, một người tình si đã yêu Mai, lăn lóc cuộc đời gió bụi khắp trần gian này.
Những bài thơ cuối cùng của Tốn Phong buồn thảm, chấm dứt mối tình tuyệt vọng, để nàng yên tâm lên thuyền hoa về Yên Quảng. Và Tốn Phong đã trở về Nghệ Tĩnh không còn trở lại Thăng Long nữa.
Đời người vui thú được là bao,
Từng mảnh lòng trần dứt được sao?
Một Cột trước chùa chim tối ngủ,
Trăm Hoa hồ rộng bóng chiều chao.
Cầu Hoàng chuyện ấy xuân đành muộn,
Đề trụ, tay không chẳng trở vào.
Gặp lại hoa Mai còn nhớ nhỉ?
Phong trần đày đọa một tình đau.

31 bài thơ chữ Hán thơ Tốn Phong, Nhất Uyên dịch thơ Đường luật và chú thích.
Nguyên tác  phiên âm Hán Việt:
Nhân sinh hành lạc kỷ đa thì,
Phao khước trần tâm phiến phiến phi.
Nhất Trụ tự tiền thê mộ điểu,
Bách Hoa hồ thượng lạc tà huy.
Cầu Hoàng để sự xuân ưng vãn,
Đề Trụ hà nhân lão bất quy.
Trùng đối mai hoa nhược tương ức,
Phong trần mãn địa nhất tình nhi.
Chú thích: 
Nhất Trụ: Chùa Một Cột, chùa Diên Hựu, xây dựng năm 1049 dưới thời vua Lý Thái Tông. Năm 1954 chùa bị phá trước khi người Pháp rút đi, chùa mới xây dựng lại nhỏ hơn chùa củ nhiều. Theo Đại Việt Sử Ký toàn thư bàn kỷ q 3 tr 15a chép: «Mùa thu tháng 9 năm Long Phù thứ năm 1105, làm hai ngọn tháp chỏm trắng chùa Diên Hựu. Bấy giờ vua Lý Nhân Tông cho chữa lại chùa Diên Hựu đẹp hơn cũ, đào hồ ở đài hoa sen gọi là Linh Chiểu. Ngoài hồ có hành lang chạm vẽ chung quanh lại đào hồ Bích Trì đều bắt cầu vòng để đi qua. Trước sân chùa xây bào tháp. 
Bách Hoa: Trăm Hoa có bản chép là Hữu Hoa, hồ Bích Trì.
Cầu Hoàng: bản Phượng Cầu Kỳ Hoàng của Tư Mã Tương Như đàn cho Trác Văn Quân nghe.
Đề Trụ: Khi còn hàn vi Tư Mã Tương Như qua cầu sông Vị, đề chữ vào cột cầu rằng: Mai đây không mặc áo cừu nhẹ không ngồi xe ngựa thề không trở lại cầu này.
B. Chân dung Hồ Xuân Hương qua thơ Tốn Phong:
B1.Gia đình: Hoàng Các vốn gia đình vọng tộc(bài 2): Tốn Phong chú ý đến Xuân Hương Hồ Phi Mai, dòng dõi gia đình vọng tộc, có nhiều người đỗ Tiến Sĩ làm quan to. Theo gia phả chi Hồ Phi Tích lưu trử tại Thư viện Hoàng Xuân Hãn Paris. Gia phả biết đến đời Trạng Nguyên Hồ Hưng Dật thế kỷ thứ 10 làm Thái Thú Diễn Châu ngụ cư tại Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An. Đời Trần có Hồ Tông Thốc. Đời Lê có Hồ Sĩ Dương đậu Tiến sĩ là một nhà chính trị học, sử học. Riêng chi ở Quỳnh Lưu đời thứ 8, Hồ Sĩ Anh con cháu có Hồ Phi Tích (1665-1734) đậu Hoàng Giáp năm 1700 và Hồ Sĩ Đống (1744-1785) dậu Hoàng Giáp. Có chi ra Tây Sơn Bình Định, Hồ Phi Phúc đổi họ Nguyễn, sinh Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Vua Quang Trung Nguyễn Huệ, Hoàng Giáp Hồ Sĩ Đống, nữ sĩ Xuân Hương Hồ Phi Mai, Tú Tài Hồ Phi Hội cùng có một ông tổ cách 4 đời là Hồ Sĩ Anh.
Hồ Sĩ Đống quê xã Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Đỗ Tiến Sĩ năm 1772 làm Thượng Thư Bộ Binh tước Dao đình Hầu, sau thăng tước Ngọc Quận Công, năm 1777 ông sung chức Phó Sứ sang nhà Thanh, Chánh Sứ là Võ Khâm Tự. Tới Động Đình Hồ Võ Khâm Tự mất, trước khi mất có tiết lộ cùng ông việc Chúa Trịnh Sâm có làm tờ biểu riêng xin Vua Thanh phong Vương cho họ Trịnh. Ông im ẩn việc ấy, mà chú Trịnh cũng chẳng hỏi gì khi sứ bộ trở về.
Phạm Đình Hổ trong Vũ Trung Tùy Bút, bài Thể Thơ tr 164 đánh giá Hồ Sĩ Đống là một nhà thơ lớn đương thời: Trong khoảng đời Vĩnh Hựu(1735-1740) đời Vua Lê Ý Tông, Cảnh Hưng(1740-1786) đời Vua Lê Hiển Tông.: Nguyễn Tôn Khuê thực là một lãnh tụ về thời ấy, thứ hai đến Nguyễn Huy Oánh rồi đến Hồ Sĩ Đống cùng nối nhau khởi nên tự lập thành nhà thơ có tiếng. Ta thường xem thơ các bậc tiền bối, Thơ Phúc Khê Công (Nguyễn Tôn Khuê) thì tinh vi đẹp đẽ, nhưng có phần vụn vặt quá. Lai Thạch Công (Nguyễn Huy Oánh) là bậc thanh cao, nhưng vẫn có ý mô phỏng; thơ Hoàng Hậu Công (Hồ Sĩ Đống) thì chủ lấy khí phách, không thèm lấy điêu khắc vẽ vời làm khéo. Thi học đến đời ấy đã trung hưng lên được.
Trong Vũ Trung Tùy bút, bài Thần Hồ Động Đình còn chép lại bài thơ Hồ Sĩ Đống viếng Võ Khâm Tự. Tôi dịch như sau:

Hai độ hoàng hoa chánh sứ thần,
Tuổi cao đức trọng bậc công khanh.
Bang giao những tưởng như ngà ngọc,
Tiên cốt nào hay gió bụi trần.
Giọt lệ đồng châu dâng một lễ,
Tiếng danh tài bút bậc công thần.
Trăng thu thấp thoáng bên hồ rộng,
Lại chiếu quê nhà bóng cố nhân.
Thơ chữ Hán Hồ Sĩ Đống, Nhất Uyên dịch thơ.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Hoàng Hoa lưỡng độ phú tư tuân,
Uyên đức kỳ niên canh kỷ nhân.
 Cộng tiễn bang giao nhàn ngọc bạch,
Thùy tri tiên cốt lịch phong trần,
Sinh sô sái lệ đồng chu khách,
Tái bút danh qui tuẩn quốc thần.
Trù tướng thái hồ thu nguyệt sắc,
Dạ lai do chiếu ốc lương tần.
Hai câu kết: Trù tướng thái hồ thu nguyệt sắc, Dạ lai do chiếu ốc lương tần. Trăng thu thấp thoáng bên hồ rộng, lại chiếu quê nhà bóng cố nhân, thật tuyệt tác
Ngày nay chúng ta biết nhiều về Nguyễn Huy Oánh (1722-1799) người làng Lai Thạch, huyện La Sơn Hà Tĩnh, thân phụ Nguyễn Huy Tự (diễn ca Hoa Tiên). Đậu Thám Hoa năm 1748, để lại hơn 60 tác phẩm, có nhiều tập thơ lúc đi sứ Trung Quốc.  Phúc Giang Thư Viện, thư viện duy nhất được triều đình sắc phong, và  Trường Lưu học hiệu đào tạo 30 học trò đỗ Tiến Sĩ.
Về Nguyễn Tôn Khuê (1692 ?) còn gọi Phúc Khê Công hiệu Thư Hiên, người làng Phúc Khê, huyện Ngự Thiện, Trấn Sơn Nam, đậu Hoàng Giáp năm 1721 đời Bảo Thái, có tập thơ Sứ Hoa Tùng Vịnh, Việt Sử Thi Tuyển. Nguyễn Tôn Khuê là thầy của Tiến sĩ Lê Quý Đôn và  Tiến sĩ Đoàn Nguyễn Thục.
Về Hồ Sĩ Đống, anh họ Hồ Xuân Hương chúng ta không biết gì nhiều, dù có lúc ông đứng đầu triều đình, thật là đáng tiếc.
Theo Hồ Tuấn Niệm trong bài Bàn lại đôi điểm về tiểu sử Hồ Xuân Hương. TCVH số 1-1972 tr 9-31, trích dẫn Hồ tộc Hương khoa trường bản soạn bởi Tú Tài Hồ Phi Hội (1802-1872):
Hồ Phi Diễn (1703-1786) con trưởng huấn đạo Phi Da, năm 21 tuổi đậu Tam Trường, đời Bảo Thái thứ tư, khoa Quý Mão (1723). Hồ Phi Diễn dạy học ở làng Nghi Tàm lấy vợ thứ họ Hà sinh Xuân Hương Hồ Phi Mai.. Hồ Phi Diễn là một vị thầy danh tiếng làng Nghi Tàm, tên tuổi còn truyền lại đến đầu thế kỷ 20, các nhà viết văn học sử đầu tiên như Dương Quảng Hàm, Lê Dư, Trần Trọng Kim đều nhắc đến.
Việc ông Đào Thái Tôn cho rằng Xuân Hương con Hồ Sĩ Danh, cùng cha khác mẹ với Hồ Sĩ Đống chỉ là một sự phỏng đoán, do bài tựa Lưu Hương Ký, Tốn Phong viết, em ông lớn họ Hồ. Việc này không có bằng cớ, vì ngày xưa cách nhau 4 đời là rất gần, các nhà vọng tộc xưng em với nhau khi vai vế thấp hơn. Ông Cố của Hồ Sĩ Đống là Hồ Phi Quyền là anh ruột của ông Hồ Phi Cơ, ông cố của Phi Mai.
B2 Nhan sắc: Xuân Hương Hồ Phi Mai là một phụ nữ xinh đẹp, Tốn Phong chấm giải là hoa khôi xuân sắc nhất thành Thăng Long, điều này khác hẳn với một Hồ Xuân Hương xấu xí, da xù xì như trái mít trong Giai Nhân Dị Mặc của Nguyễn Hữu Tiến:
Tốn Phong đã viết:
Hồng nhan tiên giới thác sinh chăng..
Hoa Mai xuân sắc nhất kinh thành . (Bài 2)
Nghê Vũ người tiên mây giáng hiện..
Một bầu mây nước hoa nhuần nhị
Muôn dậm sao trời trong mắt xanh (Bài 3)
Mày liễu xanh xanh thêm mến nguyệt,
Hương mai thoang thoảng mãi yêu xuân (Bài 4)
Đêm thu man mác mai gầy vóc,
Bến nước đìu hiu liễu rủ cành (Bài 6)
Đào nguyên hò hẹn cùng tiên nữ. (Bài 15)
Mười phần son sắc trời Nam đến,
Quá nửa xuân quang cửa Bắc tràn (Bài 19)
Thanh thoát vẻ mai gầy cốt cách,
Rỡ ràng xuân sắc vẹn mười phân (Bài 22)
Nghìn vàng khôn chuộc tuổi thanh xuân
Hoa mai rực rỡ núi mây ngàn . (Bài 23)
Bến trúc mừng vui gặp mỹ nhân (Bài 25)
B.3  Tài thơ văn: Xuân Hương Hồ Phi Mai  làm thơ, những vần điệu khó làm như thơ Bạch Tuyết ít ai họa được, nàng là vị thần thơ trên tao đàn:
Ngâm thơ Bạch Tuyết khói mây dâng..
Nổi tiếng văn chương tiên xuống trần  (Bài 1)
Tao đàn xuất hiện vị thơ thần.
Kết tự sao Khuê vẹn thập phần (Bài 2)
Sầu vướng nét mi gầy với tuyết,
Hương vào ngọn bút nở xuân tươi. (Bài 9)
Đã rằng tài tử hay đề tuyết (Bài 20)
Ngâm câu bạch tuyết thơ nên thánh,
Say thắm môi son rượu có thần (Bài 25)
Hồ Xuân Hương có làm thơ đùa nghịch:
Hứng về lại thấy thơ sinh quỷ,
Sầu đến rồi hay rượu có thần
Ướm hỏi Cao Đường ai đoán mộng,
Gió mưa Đài Sở được bao lần ? (Bài 4)
B.4   Sức khoẻ: Sức khỏe Hồ Xuân Hương như các mỹ nhân đào hoa trong sử sách, nàng gầy như mai.
Sức vóc đào tơ như tự cổ (Bài 18)
Mai gầy cung điệu gió thanh thanh (Bài 17)
Nguyễn Du trong bài thơ Ký Mộng gửi Xuân Hương cũng đã viết: Nguyễn Du nằm mơ thấy mỹ nhân Phi Mai, gặp lại đầu tiên kể lể
Trước kể nỗi đau ốm,
Rồi than những ngày xa.
Theo thơ Tốn Phong  Hồ Xuân Hương có ba đời chồng: 
Mai quả đã từng ba độ kết (Bài 28)
và một lần sinh nở:
 Chốn dời Mai lại nẩy thêm cành (Bài 15)
 Hàn Mai vừa nở một cành xuân (Bài 25)
Điều này xác định bởi cụ Dương Văn Thâm, người Vĩnh Phú cùng làng với Tổng Cóc và có sưu tầm nhiều câu chuyện về Hồ Xuân Hương khi làm lẽ Tổng Cóc, Hồ Xuân Hương dứt tình bỏ Tổng Có đi khi mang thai 6 tháng. Xem Nguyễn Hữu Nhàn trong Hoàng Xuân, Lữ Huy Nguyên. Hồ Xuân Hương Thơ và Đời. Văn Học Hà Nội 1995
B5..Tính tình: Xuân Hương rất hiếu khách, nàng không bỏ lững câu chuyện bao giờ:
Chủ nhân trước viện trắng mai hoa,
Rất quý thần hoa yêu mến khách   (Bài 5)
Tơ liễu kìa ai rất có tình (Bài 11)
Nhà lan là lúc chong đèn bạc,
Kể chuyện giang hồ hẹn mối duyên (Bài 12)
Phồn hoa bạn cũ như ngày mới
Sinh tử giao tình tưởng mới thân.
Tình trọng duyên may trời chẳng phụ,
Tình non như gấm nước như gương. (Bài 14)
Người cũ hoa xưa gặp gỡ mừng (Bài 22)
Càng đậm tình sâu biết tỏ tường (Bài 24)
Hồ Xuân Hương tính tình lạc quan:
Lối khách buồn vui ai biết hỏi,
Rằng  trong tháng tới lại sang xuân (Bài 13)
Nay có rượu thơm cùng thưởng nhé;
Hương say Hoàng cúc rượu nồng nàn (Bài 29)
B.6 Hồ Xuân Hương biết đàn, có lẽ là cây đàn nguyệt cầm, đàn được yêu chuộng thời bấy giờ:
Đàn chuyển thu âm vang tỉnh viện (Bài 7)
và họa cùng sáo Tốn Phong: Thần vào sáo ngọc tung sao đẩu (Bài 7)
Phượng cầm tự khóm trúc vang thanh (Bài 14)
Phạm Đình Hổ trong thơ chữ Hán, bài Sở Hữu Càm đã viết về một người con gái nhỏ yêu hoa mai, biết làm thơ, theo tôi là Hồ Xuân Hương: Buông đàn cười chẳng gảy. Ngại làm ai chạnh lòng.
Người dạy đàn cho Phi Mai là Nguyễn Du. Bài Thạch Đình tặng biệt Nguyễn Du viết: Cung hoàng dịu vợi dường khôn lọt. Bài họa trong Lưu Hương Ký, Xuân Hương viết: Khúc Hoàng tay nguyệt còn chờ dạy. Nguyễn Du đã dạy Xuân Hương nhiều bài và nàng chờ đợi Nguyễn Du dạy khúc Phượng Cầu Kỳ Hoàng của Tư Mã Tương Như nói lời yêu đương.
B7. Hiệu sách và nhà: Xuân Hương từng ra phố Nam thành Thăng Long mở hiệu sách:
Nam Phố mười năm xưa đã quen
Hoa đào độ ấy cách nguồn tiên. (Bài 12).
Và Tốn Phong ở trước Văn Miếu Quốc Tử Giám cạnh Hồ Kim Âu đã nhiều lần đến thăm Cổ Nguyệt Đường, đã gặp nàng tiên chốn Đào Nguyên mà không cần là anh chài Vũ Lăng.:
Trước nhà cửa Giám, hồ Âu Vàng,
Tìm đến Đào Nguyên chẳng Vũ Lăng (Bài 1)
Nhà nàng ở Bến trúc làng Nghi Tàm, một thắng cảnh đẹp trong Tây Hồ Bát Cảnh, gần chùa Kim Liên.
Bến trúc mừng vui gặp mỹ nhân(Bài 25)
Nguyễn Du khi ở ngôi gác tía của anh Nguyễn Khản, thường ra đây câu cá với Chúa Trịnh Sâm nơi Đền Khán Xuân. Trong bài Mộng đắc thái liên gọi nàng là lân nữ, cô hàng xóm. Đền Khán Xuân và  Gác Tía nay nằm trong khu đình làng Nghi Tàm, không xa bến trúc và chùa Kim Liên, nơi thờ bà Chúa Tằm. Đời Lý vua trả tự do cho các cung nữ ra đây dệt lụa nuôi tằm.
Cổ Nguyệt Đường là một ngôi nhà gạch lớn xây theo hình chữ khẩu, hình vuông, có tả viện, Hoa đơm tả viện hương còn ẩm (bài 22), có hữu viện, tiền viện và hậu viện, chính giữa là sân gạch bát tràng có hòn non bộ và chậu kiểng. Tốn Phong gọi nhà Xuân Hương là đình hay viện. Có một cây bàng lớn trước nhà: Cội bàng trăng khuất chiếu mai đình (Bài 6). Chung quanh có trồng nhiều cây mai. Chủ nhân trước viện trắng hoa mai (Bài 5). Và nhà có trồng rất nhiều hoa, như bao nhà khác ở Nghi Tàm: Nàng ngồi đối diện với  hoa ngàn. (Bài 7).
Có thời gian 13,14 tuổi Xuân Hương được cha gửi về Quỳnh Lưu, Hà Tĩnh. Thời gian này ứng với thời gian cụ Hồ Phi Diễn 80 tuổi. Theo phong tục ngày xưa, để mừng lễ thượng thọ 80 tuổi cho thầy, học trò lớn bé, đỗ đạt, thành danh chung góp công sức xây nhà mới cho thầy, do việc xây cất bề bộn Xuân Hương được gửi về quê cha., năm đó là năm 1783.. Năm 1786 cha mất thọ 83 tuổi. Hoàng giáp Hồ Sĩ Đống cũng mất trước đó một năm 1785 hưởng dương 46 tuổi.
Hồ Xuân Hương có nuôi đôi chim phượng hoàng đất, Nghệ Tĩnh gọi là Cái Cắng, có lẽ Xuân Hương mang từ chuyến đi Quỳnh Lưu về, trong văn bản Landes, Xuân Hương có bài Cái Cắng đánh nhau. Và Tốn Phong viết: Biếc rụng cành ngô sân phượng múa.(Bài 6) Ngô đồng lá cũ mơ hồn phượng (Bài 17) Cành biếc vông gầy sân phượng đậu (Bài 27)
Chuyện tình Xuân Hương với Tốn Phong năm 1814. Xuân Hương đã yêu Tham Hiệp Yên Quảng và Tốn Phong chúc nàng: Xe loan mong sớm với người xa và đã biết tình duyên lỡ làng: Cầu Hoàng chuyện ấy xuân đành muộn. Và chàng thề không trở lại Thăng Long nữa nếu không làm nên công danh sự nghiệp. Đề trụ thề không bước trở vào.
Trong 31 bài thơ Tốn Phong 30 lần nhắc đến tên Mai, Hoa Mai, Hàn Mai, Phi Mai... 22 lần tên Nguyệt, 6 lần Cổ Nguyệt chiết tự họ Hồ và 31 lần chữ Xuân.  Điều đó đưa ta đến kết luận Xuân Hương tên thật là Mai: Hồ Phi Mai, Hồ Thị Mai, hay Hồ Hàn Mai, Hồ Hoa Mai. Cha Xuân Hương là Hồ Phi Diễn truyền đến tên nàng là Hồ Phi Mai. 

Phạm Trọng Chánh
Theo http://chimvie3.free.fr/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

"Nhớ sông" của Huỳnh Văn Quốc: Bởi chính mình và cho chính mình

"Nhớ sông" của Huỳnh Văn Quốc: Bởi chính mình và cho chính mình Tôi đọc tập thơ Nhớ sông của Huỳnh Văn Quốc lần thứ nhất ở nơi l...