1. NGÀY XỬA, NGÀY… CÒN BÉ
Từ hồi nào đến giờ, tôi chưa từng có vinh hạnh gặp bác Tô
Hoài, nhưng bác với con dế mèn của bác đã sống trong tôi từ ngày biết
đọc chữ đến bây giờ. Hồi đó tôi rất thân với anh thủ thư của nhà máy giấy
Hoàng Văn Thụ, Thái Nguyên. Anh ấy tên là Hân và có cái biệt danh là “Hân mắm
tôm”. Chả là anh ấy hay gắt gỏng, bắt bẻ người đến mượn sách của thư viện. Sau
này lớn lên tôi mới biết, anh ấy gắt gỏng là phải thôi. Anh ấy là người mê
sách. Khi chưa có ai hướng dẫn nghiệp vụ thư viện, anh ấy có cách làm riêng.
Anh lấy chữ cái của tên sách để làm bảng niêm yết hướng dẫn tìm sách. Vì thế mà
nhà văn Tàu, Tây, Việt, Ấn gì đó có thể nằm chung trong bảng hướng dẫn và nằm
chung trên một giá sách. Ví dụ như “dế mèn phiêu lưu ký” của bác
Tô Hoài, có thể nằm chung trong bảng hướng dẫn với “Đất vỡ hoang”. Hay như “Sống
mòn” của Nam Cao có thể nằm chung giá sách với “Sông Đông êm đềm”… đại loại thế.
Hồi đó lũ trẻ nghịch phá như tôi mà đến mượn sách của thư viện
anh “Hân mắm tôm” không dễ một chút nào. Cuộc thẩm vấn của anh hồi ấy còn sát
người, sát việc hơn người ta phỏng vấn tuyển người bây giờ. “Mày con nhà ai?”,
“Mày đọc sách gì?, “Mày đọc sách vào lúc nào”, “Mất sách mày lấy gì đền?”, “Mày thấy sách hay ở chỗ nào?”, “Mày có biết để có sách, nhà văn họ phải làm việc
cực khổ như thế nào không?”, “Mày nghĩ gì khi tự nhiên có một trang sách bị
người ta xé mất?”... Sau những câu hỏi là khoảng chừng cả tiếng đồng hồ anh
thuyết giảng về sách, về người viết sách, về sự tốt đẹp của sách. Và cuối cùng
là một câu: “Tóm lại, sách giúp người ta thành người, mày biết thế không, biết
tao cho mày thẻ mượn sách, không biết, đi ra”. Đứa nào ngoan ngoãn ngồi nghe thế
nào cũng được anh cấp cho một chiếc thẻ, làm bằng giấy cạc tông do nhà máy giấy
Hoàng Văn Thu sản xuất, to bằng bàn tay, đen sì và do anh viết tất cả các mục
trong đó, từ họ và tên, con nhà ai, lớp mấy… Còn đứa nào vừa nghe, vừa cục cựa
như kiến cắn đít, thì anh cho “cút” thật. Tôi giỏi trò đóng kịch,
nên khi ngồi nghe anh nói, cứ trố mắt nhìn háu háu vào miệng anh, đôi lúc còn
nhăn mặt, gật gù và reo khe khẽ nữa. Thế là tôi có một cái thẻ thư
viện của anh mà đến bây giờ tôi còn nhớ nét chữ dài và nhọn hoắt ở tất cả những
nét gấp của anh. Cũng vì thế mà tôi biết đến “Dế mèn phiêu lưu ký” của bác Tô
Hoài. Tôi mê con dế của bác đến mức nói dối bố mẹ, xin tiền mua mấy cuốn sách
khác tặng thư viện anh “Hân mắm tôm” để được quyền giữ cuốn sách của bác Tô
Hoài trong thời gian một tháng. Sách của bác hồi đó đã hiếm rồi, nên tôi mới phải
làm như vậy. Tìm mà có thì tôi mua đứt chứ làm gì phải dối cha, dối mẹ vì một
cuốn sách mình mê. Nhưng với một tháng, tôi đủ thời gian hình dung ra con đế
mèn của Tô Hoài rồi.
Cái con dế mèn của bác Tô Hoài làm tôi mê. Ngang tàng, bướng
bỉnh, kiêu ngạo nhưng oai vệ, anh hùng, xả thân vì việc nghĩa. Lúc nào tôi cũng
thấy dế mèn trước mặt và ao ước mình sẽ trở thành một “hiệp sĩ dế mèn”. Nhưng
khốn nỗi lúc đó tôi chỉ là một thằng nhóc người ta gọi tên tôi kèm với biệt
danh “ còi”, nên chẳng thể làm hiệp sĩ được. Không làm hiệp sĩ được thi chơi đá
dế. Thế là những ngày đội nắng đi cun dế. Thấy những chỗ nào có những ụn đất
còn mới, có những hạt đất đỏ au là xấn tới. Moi, móc, đổ nước. Đổ cho đến khi
con dế thò râu ra là mừng vui, la hét om xòm.
Phải chờ đến lúc vào trận chiến của những con dế mới thực sôi
động. Ban đầu tôi không mê cái trò đó. Nhưng vì mê con dế của bác Tô Hoài nên bị
ngấm. Thì thấy bạn bè xúm đông, xúm đỏ la hét thì tôi cũng xấn vào và góp thêm
tiếng hò reo. Sau đó cũng đi cun dế, ráng kiếm cho được một chú dế thật oai vệ.
Lần đầu tiên tôi vào cuộc đá dế. Hồi hộp ghê gớm, giống y như chính mình sắp
đánh nhau ấy. Tôi khum khum hai bàn tay, nâng niu con dế của tôi sau đó nhẹ
nhàng thả nó vào cái âu, nơi đã có một con dế của thằng bạn đứng thủ thế. Con dế
của tôi thả vào. Con dế kia chẳng ngó ngàng gì cả, còn khiếm nhã ngoảnh cái đít
nó về phía con dế của tôi. Cả bọn cười ré lên. Có một thằng hùng hồn tuyên bố:
“Dế thằng“ còi” là dế cái. Dế cái mà đá ai, có mà đá đít…”. Chúng xúm lại nhạo
tôi cả buổi, làm tôi tức phát khóc. Tôi đi cun dế nữa. Nhưng cái đám dế của tôi
hình như con nào con nấy yếu đuối, kém cỏi lắm thì phải. Tôi chả thắng bao giờ.
Mà có thắng hay không tôi cũng không biết, vì khi hai con dế quấn vào nhau
trong cuộc cắn, đá, đạp là tôi chẳng biết con nào của tôi, con nào của đối thủ
nữa. Bọn chúng còn bày cho tôi: muốn cho con dế hăng lên, thì kiếm một sợi tóc
của bọn con gái ấy, tròng vào cổ dế, quay cho nó mấy vòng, nó chóng mặt, thấy dế
là đá. Tôi nghe. Bữa đó tôi xin cho được một sợi tóc của con bé học cùng lớp.
Con bé xinh đáo để. Nhưng tôi đâu cần biết nó xinh hay không, chỉ thấy mái tóc
của nó dài, mượt, đen thả quá mông là tôi thích. Có được sợi tóc của nó thật là
tuyệt. Con bé đến là dễ dãi, mới hỏi một câu, nó ừ liền. Tôi phải gói sợi tóc
thật kỹ, cất trong cặp sách mấy ngày, chờ cun cho được một con dế mới. Lần này
con dế mới của tôi thật oách. Tôi chả dám tả, vì tả nó sẽ phạm thượng. Bác Tô
Hòai đã tả con dế của bác tuyệt vời như thế rồi thì tôi không thể múa bút hay
múa luỡi để khoe về con dế của tôi được. Chỉ biết là nó thật oách. Tôi nhận
ngay cuộc thách chiến với thằng bạn khác lớp. Đứa nào thua phải mua hai chiếc
bánh bơ ngòai cửa hợp tác xã ăn uống Quán Triều tặng cả bọn. Những
hai hào một chiếc, vị chi là sáu hào cả thảy nếu thua. Trước lúc vào trận, tôi
cẩn thận lấy ra sợi tóc đen, dài, mượt của cô bé cùng lớp tròng vào cổ con dế.
Hình như cô bé cũng cảm thấy sự đóng góp của mình với cuộc đấu dế này, nên cũng
lén lén chạy đến chỗ đám toàn con trai chúng tôi. Tôi đã bắt gặp ánh mắt lo âu,
sợ sệt của cô bé, nhưng vội lảng nhìn đi chỗ khác. Thế là sợi tóc của cô bé đã
cuốn quanh cổ con dế rồi. Tôi nắm hai đầu sợi tóc quay tít. Khi thấy như có vẻ
“say” rồi, tôi mới đặt nó trước mặt đối thủ của nó. Trời ơi, các bạn có biết
nó ra làm sao không? Nó xuội lơ, không thèm nhúc nhích. Tôi đỡ nó lên tay, thì,
sợi tóc xiết chặt vào cổ nó, thiếu chút nữa thì “đầu lìa khỏi cổ”, còn đá đấm
gì được nữa. Tôi mủi lòng, khóc thương con dế của tôi. Tôi vừa gạt
nước mắt vừa ra cửa hàng ăn uống, rút mấy hào lẻ mà u tôi cho để đóng góp quỹ lớp
mua bánh bơ cho bọn “chiến thắng”. Nhưng không đủ. Chỉ có bốn hào rưỡi. Đang
chẳng biết làm sao, thì cô bé cùng lớp đến bên tôi tự lúc nào. Nó dúi vào tay
tôi mấy đồng xu lẻ. Tôi nghe nó nói khẽ lắm: “Sợi tóc… tao… làm con dế mày… chết,
lấy tiền tao mua bánh…”. Tôi chưa kịp nói gì, nó đã ù té chạy mất dạng giữa phố
đông người. Vài bữa sau, tôi lại có một cuộc chiến đấu mới. Lần này có thằng bảo
tôi: trước khi vào đấu, nắm lấy hai sợ râu của dế, quay vài vòng cho nó điên đầu,
thế là nó đá như điên cho mày coi. Không biết trên đời này có thằng nào ngu dại
hơn tôi không. Tôi nghe lời, nắm hai sợi râu con dế mới của quay vài vòng.
Nhưng cái thân mũm mĩm của nó nặng nề thế thì hai sợi râu mỏng manh kia làm sao
chịu nổi. Nó đứt cái phựt. Mặc kệ, mày phải tham chiến. Tôi đặt nó trước mặt đối
thủ.
Con dế của tôi hình như chẳng mơ tưởng gì đến chuyện thành danh, nên nó cứ quay đầu đi nơi khác, đã thế nó còn nhún nhún chân coi đời như chẳng có chuyện gì xẩy ra. Tôi bực mình, túm nó lại, buộc nó phải đương đầu với trận chiến. Nhưng hỡi ôi, dế đã mất râu rồi thì còn đá với đấm gì nữa. Thuở còn thơ, có cả ngàn trò chơi con nít. Có những trò đến già còn nhớ, còn thèm được chơi lại. Đá dế là một trò như vậy.
Con dế của tôi hình như chẳng mơ tưởng gì đến chuyện thành danh, nên nó cứ quay đầu đi nơi khác, đã thế nó còn nhún nhún chân coi đời như chẳng có chuyện gì xẩy ra. Tôi bực mình, túm nó lại, buộc nó phải đương đầu với trận chiến. Nhưng hỡi ôi, dế đã mất râu rồi thì còn đá với đấm gì nữa. Thuở còn thơ, có cả ngàn trò chơi con nít. Có những trò đến già còn nhớ, còn thèm được chơi lại. Đá dế là một trò như vậy.
2. CHUYỆN KỂ LÚC… SẮP TỨ TUẦN
Mới đây tôi mua được cuốn “Dế mèn phiêu lưu ký” của bác Tô
Hoài vừa được tái bản. Rõ ràng là cho đến tận lúc bạc tóc tôi vẫn mê con dế mèn
của bác . Những trận chiến oai hùng của chú dế mèn tôi mới được tận hưởng qua
những trang viết của Tô Hoài. Chính vì thế mà tôi phục bác. Nói như người ta
thường nói là “ tâm phục, khẩu phục”. Ấy là chuyện sách, còn chuyện sau đây,
tôi kể ra nhất định bác Tô Hoài phải phục tôi. Đó là chuyện người ta ăn thịt dế.
Bác đã ăn thịt dế bao giờ chưa? Chắc là có. Nhưng chắc chỉ đôi ba con gọi là.
Chớ còn ăn thịt dế đến no, đến say, ăn tiệc dế thì nhất định bác không thế có,
mà có, với tình yêu với con dế mèn của mình, nhất định bác không dám bạo miệng
ăn đến no đâu.
Hồi đó, cách nay cũng chừng hai chục năm rồi, tôi mới chuyển
vào Tây Ninh công tác. Là một vùng có đất cát pha, đất bazan, đất có
thể trồng được nhiều loại cây công nghiệp và cũng là nơi trú ngụ của bầy đàn dế
mèn, dế cơm, dế trũi. Bầy lũ dế ở Tây Ninh nhiều đến mức cho tôi được chứng kiến
một chuyện chưa từng thấy trong đời. Tối đó vào đầu mùa gió chướng trên đất
phương Nam này. Cơ quan tôi có khách. Một đoàn khách từ miền Bắc mới
vô. Những người khách đáng trân trọng này không về khách sạn ngủ mà
quyết chí ở tại cơ quan “cùng ăn, cùng ở, cùng… nhậu” với anh em. Anh em cơ
quan tôi quyết định, đêm nay phải đãi bạn phương xa một thứ đặc sản. Nghe hai
chữ “đặc sản” các ông khách vội cản: “thôi, thôi, thôi, vài con khô là được rồi,
bày đặt làm gì.” Mấy anh em cơ quan tôi không giải thích, chỉ mỉm cười. Chập tối,
vài người ở lại chuyện vãn với khách. Tôi là người mới đến, nên cũng được xếp
vào trong số người ở nhà. Còn tất cả í ới gọi nhau giống y như gọi nhau đi chơi
hội vậy. Tôi chẳng biết họ đi đâu và cũng không tiện hỏi. Chỉ thấy cuộc ra quân
của họ rần rần rộ rộ lắm. Trên tay một người có thêm một chiếc thùng gánh nước.
Ngồi nhà chuyện vãn với khách đến là sốt ruột. Điều quan trọng
là anh em họ hẹn phải chờ họ về, họ đã một món đặc sản, không ai được đi đâu hết.
Nên cứ phải cù cưa, hết chuyện trời sang chuyện đất, hết chuyện trăng sang chuyện
sao. Cánh đàn ông, ngồi nói chuyện vã bao giờ cũng nhạt phèo. Phải có cái gì
nâng lên, hạ xuống, cái miệng cay cay, cái họng gắt gắt mới ra cuộc hội ngộ, mới
ra chuyện chiến hữu. Gần hai giờ đồng hồ ngồi đồng, mới thấy cánh anh em họ về.
Lúc đi thì áo quần đang hoàng. Lúc về, anh nào anh nấy chỉ còn cái tà lỏn. Áo
dài, quần dài vắt tất cả lên vai hoặc thắt vào bụng. Giống y như họ vừa trải một
cuộc chạy ma ra tông vậy. Khi đi đã ồn ào vui vẻ, khi về càng ồn ào vui vẻ hơn.
Chỉ mới đến cổng cơ quan đã thấy tiếng cười, tiếng nói oang oang. Được giải thoát và có cớ, tôi chạy ra đón anh em. Họ không tản ra, mà tụ lại ở tiền sảnh ngôi nhà đối diện với phòng khách. Đó là nơi các phòng nghiệp vụ của cơ quan tôi. Họ bu lại quanh chiếc thùng gánh nước. Tò mò tôi cũng chen vô. Trời đất, hai phần ba thùng gánh nước toàn là dế. Chúng chen chúc, đè xấn, đè ngửa nhau trong cái thùng chật hẹp làm cho từ đấy phát ra những tiếng rào rào như trời đang mưa. Những chú dế cơm nung núc béo. Tôi hỏi họ:
Chỉ mới đến cổng cơ quan đã thấy tiếng cười, tiếng nói oang oang. Được giải thoát và có cớ, tôi chạy ra đón anh em. Họ không tản ra, mà tụ lại ở tiền sảnh ngôi nhà đối diện với phòng khách. Đó là nơi các phòng nghiệp vụ của cơ quan tôi. Họ bu lại quanh chiếc thùng gánh nước. Tò mò tôi cũng chen vô. Trời đất, hai phần ba thùng gánh nước toàn là dế. Chúng chen chúc, đè xấn, đè ngửa nhau trong cái thùng chật hẹp làm cho từ đấy phát ra những tiếng rào rào như trời đang mưa. Những chú dế cơm nung núc béo. Tôi hỏi họ:
- Dế ở đâu mà nhiều thế, mấy cha?
- Ngoài đường chớ ở đâu. Nhóc ngoải, tha hồ bắt. Thì dưới
chân cột đèn, trên bãi cỏ… Thiếu gì, mặc sức bắt…
Số là thế này: ở những tỉnh đông Nam bộ như Tây
Ninh này hễ cứ vào lúc chuyển mùa, tối đến, côn trùng “bắt đèn” dữ lắm. Ban
ngày, chúng chui lủi trong những bờ cây, bụi cỏ. Đêm, khi ánh đèn sáng lên, là
chúng bay ra ngào trời. Có bướm đêm, có cào cào, châu chấu, có bù niễng, cà cuống,
có cánh cam, cánh quýt… Có cả những con mà các nhà côn trùng học mất bao nhiêu
công sức cũng khó tìm ra. Dưới những bóng đèn hằng hà sao số những côn trùng.
Đương nhiên, không thể thiếu những con dế. Mà khi ấy sao nhiều dế đến như thế.
Sau cái đêm mà tôi đang kể trên đây, tôi cũng đã thử ra đường để … xem dế “bắt
đèn”. Quả là nhiều thật. Chúng bay từ trong những cánh rừng cao su, những bãi
mía, những ruộng củ mì... Dân ở đây họ bảo: chúng đi tìm bạn tình, chuẩn bị cho
mùa sinh sản. Tôi không nghiên cứu côn trùng, nên chỉ biết nghe. Nhưng nếu là
ngày chúng đi kiếm bạn tình mà bị bắt nhét vào cái thùng gánh nước kia thì quả
là… tội nghiệp.
Thấy thùng dế, tôi bỗng nhớ đến con dế của bác Tô Hoài. Chỉ
có một con dế thôi mà ông có mấy trận chiến vô cùng ly kỳ, hấp dẫn. Đàng này, cả
một thùng gánh nước toàn dế. Chắc chắn là phải có một trận chiến kinh hoàng khốc
liệt với cả một sư đoàn dế. Tôi buột miệng hỏi:
- Này các cha! Ngần nay con dế thì đá làm sao? Làm sao đá hết?
Chọn vài con thôi chớ?
Một anh trong bọn phì cười:
- Nhiêu mà không hết? Ráo trọi bây giờ cho coi.
Tôi hồi hộp chờ cuộc chiến diễn ra. Bỗng nhiên, tuổi thơ sống
dậy trong tôi. Những hôm trời nắng chang chang, sách chiếc gầu con đi tìm tổ dế.
Những lúc lúp súp chạy đong từng gầu nước. Những khi mím môi, méo miệng để rót
từng chập nước vào miệng tổ dế. Rồi hồi hộp thấy hai cái râu con dế nhô dần ra
miệng tổ. Những đêm đưa đế ra sân cho nó uống sương. Những lúc rút từng cọng cỏ
non, bỏ vào tổ cho dế. Rôi khi đưa dế vào trận, hồi hộp y như hôm nay vậy. Có
điều trận chiến hôm nay không có đứa trẻ con nào, chỉ tòan người lớn, những người
đang ngả ngớn, hô hố cười chẳng có chút hồi hộp nào cả. Và trận chiến bắt đầu.
Không phải chọi dế, đá đế, mà trận chiến này thế và lực hoàn toàn chênh lệch
nhau. Một bên là người còn bên kia là những con dế đã bị nhốt trong chiếc thùng
gánh nước, chỉ có một cách tự vệ duy nhất là cuống cuồng chạy tránh những bàn
tay thô bạo của người ta. Không thấy đâu những chú dế oai phong, chỉ
còn lại là những con vật bé nhỏ, yếu đuối, tầm thường.
Những bàn tay với những ngón tay gân guốc chụp lấy những con dế. Có con bị chụp ngang lưng, có con bị chụp ngay cái đầu, con bị túm lấy mấy cái chân. Chẳng con nào còn càng. Những cái càng khỏe mạnh cứu cánh của những cuộc chạy trốn đã bị ngắt đi ngay từ khi bị chộp được ở ngoài đường rồi. Họ bảo, họ đang “làm lông” dế. Vừa làm, họ vừa thảo luận sôi nổi. Người cố sống cố chết cãi, trong con dế, cái đầu là thơm, ngon nhất. Thì cứ chiên dòn lên coi, bỏ miệng nhai rạo rạo, sướng phải biết. Người nắc nỏm tiếc hai cái càng. Càng dế là ngon số một. thịt chỗ đó vừa nhiều, vừa thơm, nướng lên thôi, cũng đã ngon rồi. Chỉ tại sợ nó nhảy mất mới bẻ đi, chớ để sao cũng tranh giành, đánh nhau vỡ đầu vì càng dế cho coi. Có một việc dễ thống nhất, đó là: phải rút ruột nó ra. Người muốn ăn cái đầu thì ngắt cái đít con dế mà rút ruột. Người không thích ăn đầu thì cầm cái đầu xóay một cái và rút nguyên lòng ruột của dế ra và ném tọet xuống đất. Những con dế mất ruột, khi ném vào cái chậu chứa xác, chúng chỉ ngoe nguẩy mấy cái chân một cách yếu đuối. Một cuộc tàn sát. Một cuộc tàn sát của con người trước những con vật nhỏ bé đáng thương. Cuộc tàn sát chấm dứt, khi trong cái thùng gánh nước chỉ còn sót lại mấy cái chân dế tự sút ra khi cuống cuồng chạy trốn.
Những bàn tay với những ngón tay gân guốc chụp lấy những con dế. Có con bị chụp ngang lưng, có con bị chụp ngay cái đầu, con bị túm lấy mấy cái chân. Chẳng con nào còn càng. Những cái càng khỏe mạnh cứu cánh của những cuộc chạy trốn đã bị ngắt đi ngay từ khi bị chộp được ở ngoài đường rồi. Họ bảo, họ đang “làm lông” dế. Vừa làm, họ vừa thảo luận sôi nổi. Người cố sống cố chết cãi, trong con dế, cái đầu là thơm, ngon nhất. Thì cứ chiên dòn lên coi, bỏ miệng nhai rạo rạo, sướng phải biết. Người nắc nỏm tiếc hai cái càng. Càng dế là ngon số một. thịt chỗ đó vừa nhiều, vừa thơm, nướng lên thôi, cũng đã ngon rồi. Chỉ tại sợ nó nhảy mất mới bẻ đi, chớ để sao cũng tranh giành, đánh nhau vỡ đầu vì càng dế cho coi. Có một việc dễ thống nhất, đó là: phải rút ruột nó ra. Người muốn ăn cái đầu thì ngắt cái đít con dế mà rút ruột. Người không thích ăn đầu thì cầm cái đầu xóay một cái và rút nguyên lòng ruột của dế ra và ném tọet xuống đất. Những con dế mất ruột, khi ném vào cái chậu chứa xác, chúng chỉ ngoe nguẩy mấy cái chân một cách yếu đuối. Một cuộc tàn sát. Một cuộc tàn sát của con người trước những con vật nhỏ bé đáng thương. Cuộc tàn sát chấm dứt, khi trong cái thùng gánh nước chỉ còn sót lại mấy cái chân dế tự sút ra khi cuống cuồng chạy trốn.
Cuộc tàn sát đã xong, bây giờ, cũng những người ấy biến thành
những đầu bếp. Nhưng họ là những đầu bếp nghiệp dư, nên những cuộc tranh luận lại
nổ ra. Người bảo, nhét vào cái bụng không còn ruột gan của con dế một hạt đậu
phọng rồi mang chiên giòn lên. Người bảo, kiếm ít bột chiên, lăn bột chiên. Người
khác đòi kiếm ít than, nhúng con dế vào mỡ nước để lên than nướng, ăn ngon tuyệt.
Nhưng lúc đó trời đã khuya, muốn gì cũng không thể có, chỉ còn cách có sao dùng
vậy. Một anh bạn hiện sống trong cơ quan chạy về phòng mình, len lén mở cửa,
không đánh động đến vợ con, lấy ra một chai mỡ nước, một gói bột ngọt và một tô
nước mắm. Công nghệ chế biến bắt đầu. Những con dế được nhúng vào nước mắm. Nước
mắm được pha chút bột ngọt, cái chậu trước đó đựng dế sống biến thành chiếc chảo.
Chậu được bắc trên mấy cục gạch. Lửa cháy lên. Bập bùng, bập bùng. Xí xèo, xí
xèo. Thịt dế chiên, bốc mùi thơm. Thơm lắm. Thơm đến nhức mũi. Cả khuôn viên cơ
quan tôi nhưng nhức thơm. Mùi thơm khiến cho những người sành ăn phải nhỏ nước
miếng. Bữa tiệc được bầy ra. Ngay trên nền gạch là những tờ báo trải rộng. Những
con dế chiên vàng đổ lên đó. Một can “nước mắt quê hương” [1] được khuân đến. Chỉ có hai chiếc ly
thủy tinh nhỏ, thứ ly xoay chừng, hai người một ly khi uống. Cuộc tiệc bắt đầu.
Những bàn tay chụp dế, làm lông dế, bây giờ thành công cụ chuyển những con dế
đã chiên vàng bỏ vào họng. Một con dế nửa ly rượu. Rượu dế, dế rượu. Ì xèo suốt
đêm. Những ông khách xem ra dễ hòa nhập. Chỉ vài phút nghi ngại trước những con
dế chiên vàng lăn lóc trên những tờ báo, sau vài lần ly rượu xoay chừng dạn
lên, cũng nói cười hỉ hả, dô, dô, dô… váng trời. Gần sáng, những con dế chiên
vàng đã chui gọn vào những cái bao tử. Can rượu cũng đã vét đến giọt cuối cùng.
Những người oanh oách làm nên trận chiến bây giờ mềm oặt vì men. Còn may, hồi
đó họ mới “dùng” đến dế cơm, nên chỉ dế cơm mới bị tàn
sát. Dế mèn, tức dế đá, vẫn còn bị chê.
Sáng hôm sau, những người mở cuộc chiến với dế cơm còn nắc nỏm:
“Công nhận, dế đầu mùa ngon thiệt, béo thiệt, ăn no mà còn muốn ăn nữa…”
Lo quá, đêm ấy mà họ làm một thùng gánh nước dế, hôm sau
thùng nữa, thùng nữa… không biết họ hàng nhà dế sinh sản sao kịp. Nhất là chúng
lại bị bắt vào lúc đi tìm bạn tình…, thì làm sao sinh sản.
3. CHUYỆN MỚI BÂY GIỜ
Tôi có một thói quen cứ lâu lâu lại ra chợ. Tôi dạo quanh chợ
một hồi sau đó mới quyết định mua cái gì để làm một bữa ăn cho vợ, cho con. Nhất
định phải là món Bắc. Khi thì bún chả. Lúc thì bún nem. Lúc thì diêu cá có nêm
thì là. Hứng chí làm cả món chả cá Hà Nội. Như con gái tôi, bé Thanh
Trúc, lâu lâu lại: bố ơi, cải bắp nhồi thịt! Ý nó là muốn ăn món nhường bắp cải
mà người Chợ Chu, Định Hóa thường làm khi có tiệc. Tính ra, tôi có thể làm được
mươi, mười lăm món ăn kiểu “Bắc kỳ”, khác với khẩu vị của xứ Tây Ninh, nhằm kiếm
điểm thưởng của vợ con vốn người quê xứ này.
Thế nên mới có một hôm tôi ra chợ phường 3, thị xã Tây Ninh.
Chợ này vốn ngày xưa là một chợ chiều. Ngày xưa hơn nữa vốn nó là một nghĩa địa.
Vậy mà hôm nay, nó là một cái chợ với mấy dãy nhà lồng và người bán người mua
lúc nào cũng chật ních. Xã hội phát triển nhanh, nhu cầu mua bán cũng tăng
nhanh. Mới có chuyện từ một cái chợ chiều, chợ chồm hổm bỗng thành một cái chợ
sung túc không thua gì chợ trung tâm thị xã trên nền một cái nghĩa địa như thế
này. Vừa len lách qua được mấy bà bán rau thì tôi gặp một dây tới mấy người ngồi
kề bên nhau bên con đường hẹp trong chợ. Trước mặt mấy bà là những cái mâm
nhôm. Trong mâm là những con dế. Con nào cũng bị bẻ càng, công cụ dành
cho những con dế có thể tháo chạy khi gặp nguy hiểm đã bị bẻ mất. Thành ra những
con dế chỉ có thể bò qua, bò lại trong cái mâm nhôm. Hễ con nào mon men ra mép
mâm là bị mấy bà vén cho lọt vào trong. Thành ra những bàn tay của mấy bà giống
như đang múa nhưng chỉ có một động tác thật dẻo đó là xoay xoay quanh cái mâm.
Mấy bà mời chào:
- Mua dế đi chú Hai…
- Dế đầu mùa béo lắm chú Hai…
- Chú coi nè, dế tơ đấy. Chưa kịp mọc lông cánh, còn tơ
nguyên nè…
Tôi tối mặt tối mày trước đám dế bò ngổn ngang kia. Cái ngày
bạn bè cơ quan đãi khách bằng dế là thứ dế đã biết đi kiếm bạn tình. Còn nay là
thứ dế “thiếu nhi”. Có nghĩa là nó chưa đủ sức làm quen với thiên nhiên. Nó
chưa đủ sức để bay ra tìm những bóng đèn sáng trong đêm. Để có được nó, người
ta phải đào, phải bới, là phá tan cái tổ của nó. Ngày xưa, vui thì đi bắt làm một
chầu nhậu. Còn bây giờ dế ra chợ. Mà dế đã ra chợ thì phải theo chợ
thôi. Nhiều người mua sẽ có nhiều người bán. Nhiều người bán sẽ nhiều người đi
đào.
- Bán sao, mấy chị? – tôi hỏi.
Mười bốn con dế làm sao đủ một dĩa mồi. Để có thế thành một
dĩa phải hai chục ngàn. Có giá lắm. Mà có giá thế này, lũ dế con chết dài dài.
Một hôm, một chú nhân viên dưới quyền tôi hình như trúng một
cái mánh gì đó mời tôi đi một cuộc lai rai. Chú ấy bảo tôi:
- Đặc sản, món lạ. Hôm nay mời anh một chầu bia tươi no mới
thôi nghen.
Thì đi. Một quán nhỏ dưới một gốc cây sứ cổ thụ vì thế chủ
quan đặt ngay cho quan cái tên “Cây Sứ”. Một chiếc bàn nhỏ được bầy ra, kèm
theo là một cái bình chứa hai lít bia tươi. Cậu nhân viên búng tay cái tách, rất
sành điệu. Người chạy bàn tới, đon đả:
- Dạ mấy anh dùng gì?
- Quán dế, còn hỏi dùng gì. - cậu nhân viên của tôi hạch- dế!
- Nhưng dế gì?
- Dế lăn bột chiên dòn. Dế rô ti. Dế chiên nước mắm. Dế nhồi
đậu phọng chiên. Dế nướng nhúng mỡ…
Thật không ngờ, con dế lại có thể làm được nhiều món như thế.
Cậu nhân viên của tôi làm như sành điệu:
- Cho hai món thôi. Một dĩa chiên dòn, một dĩa rô ti…
Sau khi phán gọi món ăn, cậu nhân viên quay sang tôi:
- Nè anh, cái món dế này bắt đầu cũ rồi đó. Bây giờ người ta
bắt đầu ăn đến bò cạp rồi.
- Bò cạp mà ăn cái nỗi gì?
- Thì thích người ta ăn. Bây giờ tiền nhiều, bò, dê, gà, cá
ăn mãi cũng chán. Phải món lạ, khác người.
- Lấy đâu ra nhiều bò cạp để mà ăn. Tớ ở trên rẫy, có khi cả
tháng mới nhìn thấy một con bò cạp…
- Anh lạc hậu rồi. Bây giờ người ta nuôi. Cái gì cũng nuôi hết.
Dế nuôi. Bò cạp cũng nuôi. Nay mai đến cả thằn lằn núi Bà Đen mình cũng phải
nuôi, không nuôi, nay mai không ai biết đến con lằn núi mà chỉ Tây Ninh mới có.
- Thiếu gì.
- Anh chủ quan quá hà. Anh có biết người ta bắt thằn lằn núi
như thế nào không? Ngày xưa, người ta câu. Họ lấy chuối chín, chét lên đá. Lũ
thằn lằn ra kiếm ăn. Người ta dùng cần câu, câu từng con một. Còn bây giờ, người
ta lấy cái sô mủ, chét chuối vào đáy sô. Bầy thằn lằn ngu, chạy ra leo lên miệng
sô, nhảy xuống đáy sô.Thế là xong. Xuống thì được, trơn tuột làm sao leo lên.
Ngày xưa, đi câu, ngày kiếm vài con là thôi, nay hả, ngày vài sô. Hết thằn lằn
núi Bà đến nơi rồi… Người vài sô một ngày, chừng năm người thôi có phải mỗi
ngày mất cả ngàn con thằn lằn núi Bà không nào. Mà sao người ta ăn thằn lằn núi
nhiều đến thế? Như dế chẳng hạn. Bây giờ anh ăn là ăn dế nuôi. Dế tự nhiên làm
gì còn. Dế cơm là thứ dế ngon nhất, bây giờ phải đi đào, đi bới mới có ăn. Ở ấp
Rạch Sơn thị trấn Gò Dầu có ông nuôi dế thịt. Là cái thứ dế mà anh sắp ăn bây
giờ nè. Nuôi dế dễ ợt. Đóng thùng, nhốt chúng trong đó với những cái vỉ cỏ ẩm.
Nhét vào đó tất cả những thứ lá, cỏ mà dế ăn được. Thế là xong. Bọn dế ngây thơ
lắm anh ơi. Nhốt trong thùng cũng gáy váng trời. Gáy cả ban ngày lẫn ban đêm,
nhức cả đầu. Ổng này đã thử nuôi dế cơm mà nuôi hoài không được.
Không bắt được dế giống thì làm sao nuôi được. Bây giờ anh ăn là ăn dế đá.
- Dế đá là dế mèn phải không?
- Đúng rồi. Dế mèn của cụ Tô Hoài đó.
Tôi gai người. Đến cả con dế đáng yêu như thế bây giờ cũng
thành món ăn mất rồi.
Một lát sau, những món mà cậu nhân viên kêu được mang lên.
Đúng là dế mèn rồi. Chúng đã được chế biến đen thui lui, nhưng còn nguyên cả
chân, cẳng và giò đá. Chỉ thiếu mấy sợi râu. Còn cái đầu bóng lưỡng, còn cả mấy
cái tua ở hậu môn. Tôi lợm giọng. Kiểu này chủ quan cho ăn luôn cả cứt dế không
chừng. Những con dế đã lăn lộn trong chảo, bây giờ nằm im lặng trong dĩa, nhưng
những chiếc càng vẫn ráng dơ lên để khoe với thiên hạ cái thời làm nhân vật của
bác Tô Hoài từng đã anh hùng, oai vệ lắm đó…
Chúng tôi gõ nhau ly đầu. Cậu nhân viên của tôi quệt ngang miệng
một cái rồi tiếp câu chuyện đang dang dở:
- Mình đi quán cóc thế này dế rẻ nhất đó anh. Anh coi nè, dĩa
dế hai chục con mà có mười ngàn. Chớ vô nhà hàng, dĩa này phải năm chục ngàn
đó.
Cậu nhân viên của tôi cứ thế thao thao bất tuyệt về những con
côn trùng đang trở thành những món ăn thịnh hành không chỉ của những
người bình dân mà của những người ăn chơi sành điệu. Nào là cái đuôi thằn lằn
núi thì dành cho những người đàn ông, để chồng ăn vợ khen. Nào là con trùng hổ
(giun đất) bây giờ người ta cũng nuôi dành để chữa bá bệnh: ung thư, huyết áp
cao, đái tháo đường. Bồ cạp ngâm rượu cũng dành cho người đàn ông bắt đầu xuống
bên kia dốc của đường tình dục. Chuyện nào của cậu ta cũng thấy ngay một cuộc
tàn sát côn trùng. Thì đó: người đến quán này uống bia kêu toàn món dế không. Mấy
chục cái bàn, mỗi bàn kêu chừng ba dĩa dế. Mỗi đĩa hai chục con. Vị chi là, vị
chi là… Thôi tính toán rồi chẳng gắp con nào thì thiệt thòi lắm. Thử coi. Ngon.
Dế chiên cũng ngon. Dế rô ti cũng ngon. Hay vì lạ… Lâu quá rồi không ăn dế. Những
ly bia tiếp tục vơi. Những bàn bên kia, những ly bia cũng tiếp tục vơi. Những
con dế biến mất trên những chiếc dĩa và ẩn vào đám bia bọt trong các bao tử của
những người ham món lạ, của lạ. Một chiều yên ả thế này mà lại trở thành một cuộc
tiêu diệt loài công trùng thân quen với bao nhiêu lớp người.
Đến hôm nay, không còn cảnh đêm đêm từng đoàn công trùng có
bướm, có bù niễng, cà cuống, cánh cam, cánh quýt… hội nhau dưới ánh đèn đường.
May chăng chỉ còn những con bồ hong, hoặc khi mưa đầu mùa, từng đàn mối bủa ra.
Tôi đã từng say mê đọc đọn văn của nhà văn Tôi Hoài tả cảnh chú dế mèn gáy
trong đêm. Có lẽ phải cảm ơn bác Tôi Hoài vì những trang viết tuyệt vời. Nếu
không, chỉ ít năm nữa thôi, người ta sẽ chẳng còn biết hình thù con dế ra sao.
Cũng sẽ không biết được dàn đồng ca của dế làm xao xuyến những đêm khuya. Với tốc
độ mở khu công nghiệp như hiện nay, và côn trùng cũng góp mặt vào thị
trường thế này, rồi sẽ có lúc người ta sẽ bắt đầu kề về con dế bằng câu: “Ngày
xửa, ngày xưa có một con vật kỳ quái, lúc đó người ta đặt tên nó là Dế”…
Không lẽ rồi đêm đêm ta sẽ không còn được nghe tiếng dế gáy
cà rích, rích… cà ri, ri, ri … nữa.
[2] Chục mười bốn: vùng nông thôn Miền Nam, chục không chỉ có
nghĩa là 10, có khi là 12, 14, có khi tới 16.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét