Nhìn nhận đóng góp của báo chí thời kỳ đầu “Đổi mới“ chính
là ở chỗ nó đã khơi dậy, cổ vũ văn nghệ sĩ dám từ bỏ lối mòn, dám nói tiếng
nói thật của lòng mình, kích thích sáng tạo. Có thể nói điều đó đã góp phần
sinh thành nên những tác giả, tác phẩm được dư luận chú ý trong những năm về
sau.
Tháng 4
năm 1987, tại Hội thảo “Văn xuôi những năm gần đây – Những vấn đề xã hội và sự
tìm tòi sáng tạo“ giữa hai Đoàn đại biểu nhà văn Việt Nam và Liên Xô
tại Mátxcơva, tôi đã phát biểu:
“… Tôi thiết nghĩ, những ai đã hoạt động nghệ thuật đều hiểu sự tìm tòi đổi mới
trong sáng tạo nghệ thuật là lẽ sống còn của mình… Vậy mà lại có người – đáng
tiếc là có khi họ là người có thế lực – họ e ngại sự tìm tòi đổi mới trong sáng
tạo nghệ thuật, vì họ sợ như thế sẽ chệch đường chệch hướng. Nhưng thử hỏi,
trong sáng tạo nghệ thuật, ai là người chỉ rõ được con đường duy nhất dẫn đến
thành tựu, như con đường tàu hỏa dẫn đến ga? Con đường sáng tạo nghệ thuật mà
đơn giãn thẳng tắp như đường tàu khi không cần nghệ sĩ, nhà văn nữa. Từ nữa
thế kỷ trước, ngay trong còn phải sống trong chế độ thuộc địa, nhà nghiên cứu
Mác-xít Hải Triều đã viết trên báo “Dân tiến“ (số 1, ngày 27-10-1938):
“Bao giờ và ở chỗ nào cũng thế, nhà văn cần phải có tự do mới có thể
sáng tạo được những công trình bất hủ. Gạch ra một con đường buộc họ phải theo
là một sự điên rồ...”.
Thật
đáng tiếc là cả một giai đoạn mấy thập kỹ trước thời kỳ “Đổi Mới“, có thể vì
điều kiện lịch sử và hạn chế này nọ, chúng ta đã buộc phải theo (hoặc tự giác
theo) “một con đường“. Vì vậy, cái gọi là “Đổi Mới“ trong 20 năm qua, thực
chất là để văn nghệ sĩ – những chủ thể sáng tạo được thực thi chức năng (nhiều
khi như là “thiên chức“) đúng với mặc thù nghề nghiệp. (Trước đây có người
nói: ”Đổi mới thực chất là quay về cái cũ“; thiết nghĩ, nói vậy không chính
xác). Tôi quan niệm trong văn chương, chủ yếu là “hay” và “dở” chứ không
phải là “mới“ và ”cũ”. Truyện Kiều, Chí Phèo, Số Đỏ… đều là “cũ“ mà hay. Xin miễn kê ra những cuốn sách mới viết, mới in mà dở.
Có
nhiều cách (cũng có thể gọi là “thủ pháp“ hoặc “mẹo” – ông Phan Ngọc đã có
bài viết về Mẹo tiểu thuyết“…) để đạt tới cái hay. Theo dòng “hiện thực“ hay
dòng “ý thức:, “huyền ảo “đều có tác phẩm hay, cái này không phủ định cái
kia .Áp dụng “ cách “nào là tùy “tạng”của mỗi nhà văn, tùy nội dung tác phẩm
đòi hỏi cách thể hiện, một hình thức thích hợp với nó. Viết về các nhà “ngoại
cảm“ đi tìm mộ liệt sĩ thì hẵn là có nhiều “huyền ảo” hơn là tiểu thuyết Mỹ
Latinh; nhưng nếu viết về đề tài các bệnh nhân tâm thần chẳng hạn thì có lẽ
dùng “mẹo” dòng ý thức thì có lợi thế hơn v.v… Cũng cần nói thêm là
trong cùng một cuốn sách, một đề tài , tác giả có thể dùng nhiều thủ pháp kết
hợp. Chử Đồng Tử huyền thoại mà cũng rất hiện thực, Truyện Kiều có
nhiều “Phật tính“ - dù tác giả là một nhà Nho tôn thờ Khổng - Mạnh. Nhiều tác
phẩm nổi tiếng thế giới như nghệ nhân Ma-gơ-rít-ta của Bun-ga-cốp
(Đoàn Tử Huyết dịch, vừa tái bản) hay Mật mã Da Vinci… đều rất khó “quy
kết” thuộc dòng nào, ”chủ nghĩa“ nào.
Chính
vì thế, trong văn chương, cách gọi “chủ nghĩa“ này hay “chủ nghĩa” khác đều
không ổn, thậm chí còn có hại vì vô hình trung như thế là cách buộc nhà văn
theo “một con đường“ vạch sẵn mà hơn nữa thế kỹ trước, Hải Triều đã lên án. Xin được nói ngay ở đây rằng “chủ nghĩa “đang bàn chỉ là thuật ngữ văn nghệ
như “chủ nghĩa thực sự phê phán“, chủ nghĩa hiện thực XHCN“… (có người gọi
là “phương pháp“). Tôi mạnh dạn nêu vấn đề này vì gần đây, nột số
nhà lý luận vẫn bàn chuyện “Chủ nghĩa hiện thực XHCN“ có còn thích hợp không, nên bổ sung, dổi mới phía cạnh nào v.v… Xin được nói gọn: theo tôi, không
chỉ “chủ nghĩa hiện thực XHCN“, mà bất cứ “chủ nghĩa” nào cũng không nên tôn
thành ngọn cờ, thành “phương pháp“ buộc các văn nghệ sĩ phải theo. Nói cách
khác, trong văn chương, không có chuyện “chủ nghĩa“ nào hết! Trước trang
giấy trắng (hay trước màn hình vi tính) nhà văn không vướng bận gì đến các “chủ nghĩa” đã (hoặc sẽ) được đúc kết thành “giáo điều“. Như thế - nói theo
ngôn ngữ của “chưởng“- nhà văn đã có được ưu thế “vô chiêu thắng
hữu chiêu“. “Vô chiêu“ thắng vì thực ra anh được hoàn toàn tự do sử dụng mọi
chiêu thức mà giới “võ lâm“ trong và ngoài nước đã đúc kết từ trước, cũng như chiêu thức chưa một ai biết, chợt hiện đến trong tâm thế sáng tạo của
anh.
Một
bạn đồng nghiệp, sau khi nghe tôi nêu ý kiến này, đã nhiệt liệt hưởng ứng,
nhưng rồi nữa thật nữa đùa bảo: ”nếu thế thì các nhà lý luận sẽ thất nghiệp à?”
Không! Tôi nghĩ các vị chỉ không phải mất công bàn luận, đúc kết, viết bài
giảng về các “chủ nghĩa“, chứ việc nhận ra tác phẩm nào hay, hay ở chỗ nào, nhất là việc phấn tích nhà văn đã khéo léo vận dụng (hoặc tạo ra) thủ pháp
nào, “mẹo“ nào … nên tác phẩm mới hay, thì độc giả và cả người viết nữa, vẫn
phải trông đợi chủ yếu ở các nhà lý luận từng trải, học vấn uyên thâm và khách
quan.
Xin
được nói thêm, tôi nêu vấn đề trên vì nhận ra bản thân mình và có lẽ nhiều bạn
đồng nghiệp khác nữa, do đã quá tự ràng buộc, tuân theo “chủ nghĩa hiện thực“ này nọ, vì ít có điều kiện tiếp xúc học hỏi những thành tựu văn nghệ thế giới, cũng như nghiền ngẫm kinh nghiệm qua những tác phẩm lớn của dân tộc, nên nhược
điểm dễ thấy là trên những trang sách nặng về tái hiện cuộc sống thực tế cùng
những vấn đề xã hội mà thiếu chất bay bổng của tưởng tượng và sáng tạo cùng sức
năng của tư tưởng. Tái hiện cuộc sống và những vấn đề xã hội, cho dù là “mũi
nhọn - nóng bỏng”, cũng chỉ mới có thể chạm đến đề tài lớn, chứ chưa thể thành
tác phẩm lớn như chúng ta mong đợi. Mặt khác, trong thời đại hiện nay, báo
chí, truyền hình… có lợi thế và khả năng hơn hẳn văn chương trong việc phản
ánh nhanh chóng, trực diện cuộc sống thực tế và các vấn đề xã hội.
Tất
nhiên chúng ta còn có thể chỉ ra những nguyên nhân khác nữa đã hạn chế thành tựu
của văn học trong những năm vừa qua. Trong nhiều lĩnh vực, tìm ra nguyên nhân
là đã nắm chắc phần lớn sự thành công, nhưng trong văn chương thì còn phải có
điều kiện chủ yếu là tài năng. Đó là nữa Trời cho, nên chắc chắn không thuộc
nội dung thảo luận này. Có điều, tài năng luôn là của hiếm nên càng không thể
để nó cùn mòn, lãng phí do những ngộ nhận và lầm lạc không đáng có trong quá
trình hoạt động của mỗi cá thể sáng tạo và của cả cơ quan. Hội đoàn có trách
nhiệm quản lý văn nghệ sĩ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét