Nghe ấm một tình yêu: Đọc tập thơ
Sau tập thơ thứ năm Phía sau tôi (NXB Đà Nẵng, 2003) khá
thành công, hay và mới lạ, Nguyễn Đông Nhật lại cho ra mắt tập thơ được chuẩn bị
công phu, chu đáo, ấn loát đẹp, trang nhã: Một trăm bài thơ, như là dấu ấn
đóng lại một quãng thời gian tràn đầy xao động và sáng tạo: đất vướng ngang đường
cày/ thơ nghẹn tràn cổ họng của một trái tim nồng nàn yêu thương cuộc sống
trong nỗi sầu muộn kín đáo để hướng đến những suy tưởng mới dưới những “lớp
áo” lạ của vô thường trường cửu cỏ hoa mơ mộng.
Một trăm bài thơ giàu chất liệu hoài niệm, suy tư
về bao ấn tượng khó quên đã gây ra những hiệu ứng đặc biệt thâm trầm nào đó với
tác giả. Như bài Thời đại đã giải bày:
Khép
lại cánh cửa ấu thơ tôi
trái
mìn nổ không nghe tiếng
trên
lâu đài rực rỡ
rác
rưởi phủ đầy.
Hay:
Có
đêm tôi mở cửa ra đường
nghe
tiếng thì thầm trong hàng cây
tưởng
tới những người đã khuất
những
mặt đất những cánh rừng những năm tháng đi qua
cứ
mất hút dần đi và sinh sôi như kỷ niệm”.
(Khu nhà số 20).
Trích hai đoạn ngắn này trong phần I của tập thơ gợi mở nỗi
khát khao được yêu, được sống, được viết của một con người bằng xương bằng thịt
trở về sau chiến tranh và cái chết, để thấy thơ Nguyễn Đông Nhật mang âm hưởng
lặng lẽ, mang chiều sâu chiêm nghiệm các sự kiện gắn bó mật thiết đối
với các nhà thơ. Phần này còn có nhiều bài thâm trầm, sâu sắc với những giấc
mơ đẹp như Sân khấu, Những người bạn gái, Bài ca của gió:
Những
trận gió khác nhau đã thổi ngang đời chúng ta
nơi
cánh rừng anh đi qua
gió
rung bờm suốt một thời lửa cháy.
Và
hơi gió ngủ quên lớp bụi phai mờ
trong
căn phòng tôi cửa đóng
Nhưng
cơn gió tháng năm trẻ tuổi
bên
con phố đìu hiu ven biển ngày nào
còn
ve vuốt dịu dàng mái đầu chúng ta chớm bạc.
Phần II là lời nói dịu dàng kín đáo của người tình
– cuộc sống, những giấc mộng “trở lại, trở lại dòng lệ âm thầm/ là
nỗi hân hoan của giấc mơ” như chính nhà thơ đã thổ lộ:
Có
phải ngôi nhà với những đồ vật gọn gàng
với
đám bụi mỏng mỗi ngày, dù được lau đi
còn
đọng lại nét thời gian khó nhọc.
Hay
tình yêu là cơn gió vô tình
thổi
bên ngoài sự ấm
cúng.
(Tình yêu)
Chủ đề tình yêu với khái niệm rộng lớn mang tính triết học
xuyên suốt tập thơ nhưng gần gũi và thân thuộc nhất là ở các bài Hội
An, Nghịch lý của tình yêu, Ban mai. Với bút pháp chấm phá, giàu chất suy tưởng,
nhạc điệu mới lạ và quyến rũ, tác giả đã vẽ nên những bức tranh cảm xúc tinh tế
và sâu sắc, những liên tưởng bất ngờ, thú vị:
Lẽ
ra bóng họ lấp đầy tôi
khi
tôi tìm cách từ bỏ
bản
thân vô ích
này.
Phần III đầy ắp mùa màng xao động, đánh thức nỗi cô đơn của
tác giả tưởng chừng còn ngủ quên ở hồn lau tâm lách. “Ra đi. Sông réo bên nguồn
sóng/ Mặc những con đường xé ngã ba/ Cuối giấc điên bừng tan ảo tưởng/ Thấy
hồn như lửa sáng trên tay. Đặc biệt trong phần này, Nguyễn Đông Nhật đã viết
lên một tình yêu chân thực đầy chất lãng mạn và sinh động, một cảm xúc tình yêu
đã “hóa thân” thành những câu thơ giản dị. Ở đây, cái Đẹp chỉ dành
rất ít chỗ cho những mỹ từ, mà hiện thân nó là “tuệ quán” với “cái đang la” tế nhị, lặng lẽ:
năm
tháng hiện dần trên những sợi tóc anh
đôi
mắt em nhìn nơi nào xa.
ngọn
đèn trên hoàng hôn thẫm bóng
thời
gian vẽ một đường cong không mờ.
(Cửa chiều)
và:
Những
tiếng động và ánh sáng khác
là
mùa xuân, điều trùng lặp không cũ
sự
vật trong tiếng đập cánh dịu dàng
rơi
xuống từng giọt tí
tách.
(Mùa xuân)
Phần IV là khúc nhọc nhằn của cuộc đời giao hòa âm điệu với “bi ca thâm trầm của triết học phương Đông”. Dẫu rằng cũng chỉ “ngồi
sáng vẽ chiều, nhìn trăng vẽ hoa” gắn với chất suy niệm nhưng gợi được một số
cảm hứng mới lạ:
Nhịp
đời mãi gót vân vi
Cuối
cơn trường mộng thấy gì nữa đâu
Êm
qua lối nắng phai sầu
Ai
như gió gọi bên cầu tịch
nhiên (Ngộ tĩnh)
Hay:
Trong
thành phố
dường
rất ít nhà có tro.
Làm
sao họ hiểu
sự
tàn lụi của lửa. Chầm chậm.
Của
chính họ.
(Sự rơi xuống bình an)
Về mặt sử dụng ngôn ngữ, ở đây có một nỗi cảm thông nào đó ,
dẫu rằng còn có vẻ hững hờ, xa lạ nhưng rất đáng trân trọng; và tự chúng ta
cũng cảm thông với tác giả. Cuộc sống luôn vận động, biến đổi, thế thì tâm thức,
thế đứng thế nhìn của nhà thơ đôi lúc cũng không được “định“ như ý vậy? Tiết
tấu thơ chậm, lẻ, đơn độc.
Phần V của tập thơ gánh nặng cảm hứng nghề nghiệp, tình yêu của
những tâm hồn đồng điệu, chia sẻ những dằn vặt trăn trở trước lớp lớp xô bồ con
chữ vốn dĩ tác động cụ thể và đầy ám chướng đến nghiệp cầm bút:
Đằng
sau nỗi đau đớn của ông
ánh
sáng những câu thơ
vẽ
màu cỏ
biếc
xanh.
(Nhớ thi sĩ Văn Cao)
Nói về người cũng là nói về mình, là cái nhìn vào tâm điểm thực
tại hay ảo ảnh và qua bao lăng kính của đời người dâu bể: “Tôi gắng vẽ hình
tôi giữa cuộc đời/ bằng cây bút của những giấc mơ/ có thể thấm tràn máu đỏ/
hay có thể khô cong” (Phía sau tôi).
Hoặc: ” Người ta sẽ quên giữa những bộn bề/ tên anh. Thoáng mây chìm gió giạt/ nhưng cái bóng thầm tiếng động những câu thơ/ chầm chậm thấm vào giọng hát
trong mơ”. (Nhà thơ).
Nhìn chung, Một trăm bài thơ là tập thơ bề thế, đầy
đặn các ý tưởng với một bút pháp nhất quán, chặt chẽ. Đề tài của nó rộng lớn về
cuộc sống, tình yêu và thơ ca. Đặc biệt là cảm hứng chân thực
và cảm hứng nhân đạo, tình yêu – hy vọng của bao cảnh đời mất mát sau chiến
tranh. Nguyễn Đông Nhật viết thơ “kỹ”, ngôn từ giản dị, hàm súc, nhịp điệu
thơ uyển chuyển, mới lạ, rất kén chọn. Tuy nhiên, những bạn đọc đã quen thuộc với dòng
thơ ca lãng mạn vốn du dương, dễ ngâm ngợi phổ biến trong nhà trường
phổ thông hẳn khó có thể “quen” với thơ Nguyễn Đông Nhật. Trường
liên tưởng thơ anh rất rộng và gợi mở, phép so sánh xa xôi bất ngờ, gợi cho bạn
đọc có cảm tưởng dòng thơ đang vận động ở hình thức câu thơ tĩnh lặng, khắc khổ.
Cảm hứng “thiền“ ở thơ anh ít màu sắc biểu cảm nên đôi lúc khó đọc. Nhưng cảm
hứng trần thế – quê hương – con người trong thơ anh giàu sắc thái biểu cảm và đẹp.
Một thành công nữa của thơ Nguyễn Đông Nhật là với tài quan sát sắc sảo và trí
tưởng tượng phong phú, có những đề tài, sự kiện quen thuộc nhưng qua ngòi bút của
anh, các hình ảnh trở nên sống động, với bao lý giải thú vị, đáng kinh ngạc:
Mọi
sự ra đi đều báo trước
nhưng
anh không hình dung, khuôn mặt yêu dấu kia
lẫn
vào những khuôn mặt khác
tại
sao phải sắp hàng trước một mùa đông.
(Biệt ly)
Và ở những bài khác như Nước mắt, Quảng trường,
Chân dung. Ở đây, ta còn bắt gặp một nhân vật an bằng tĩnh tại giữa hân hoan
tâm linh, một trái tim đầy xao xuyến giữa bao khát vọng về cái Đẹp và một hình ảnh
“qui khứ”.
Dẫu đôi lúc, đôi bài trong tập còn chạy theo “nhịp điệu yêu
dấu của quán tính”, văn cần chắt lọc hơn và cần vượt thoát một số giá trị đã ổn
định của tâm thức, của bút pháp, tập thơ mới này của anh đã đóng góp những giá
trị to lớn cả về hình thức lẫn nội dung cho thơ hiện đại Việt Nam. Nếu không
quá chủ quan, theo tôi, đây là một trong những cây bút khó đọc nhưng đáng yêu
đáng trân trọng giữa hỗn tạp những “nàng thơ yểu điệu kiêu sa”. Nguyễn Đông
Nhật, một lần nữa khẳng định: bản lĩnh thơ ca là xa lạ, độc đáo và lặng lẽ, rời
xa “mốt thời thượng”; không như thế, thì chỉ là ngôn từ trì trệ.
3/1992
|
Huỳnh
Minh Tâm
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét