Thứ Sáu, 12 tháng 4, 2019

Hình tượng biển trong trường ca Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh

Hình tượng biển trong trường ca 
Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh
DẪN NHẬP 
1. Lý do chọn đề tài 
Vùng biển của Tổ quốc Việt Nam là một đặc ân của thiên nhiên cho con người. Từ bao đời, biển Việt Nam cung cấp nguồn tài nguyên phong phú. Câu thành ngữ “rừng vàng biển bạc” có ý chỉ như vậy. Đường bờ biển Việt Nam dài từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Hà Tiên (Kiên Giang). Biển đảo không những đẹp tự nhiên mà còn chứa đựng nhiều giá trị tinh thần sâu sắc. 
“Là một quốc gia có dải bờ biển trải dọc theo bờ Tây Thái Bình Dương dài hơn ba nghìn ki lô mét, tự bao đời, biển đã là môi trường sống, môi trường tiếp giao văn hóa của người Việt. Cùng với các không gian núi rừng và châu thổ, biển đã góp phần hợp thành, định diện truyền thống, bản sắc văn hóa, cơ sở kinh tế, tư duy... của nhiều cộng đồng cư dân Việt Nam. Trong tâm thức của người Việt, biển Đông là không gian thiêng gắn với thời lập quốc. Bao thế hệ người Việt đã hoài niệm về cha Rồng - mẹ Tiên, về công lao sinh thành, mở cõi của các bậc Thủy tổ. Từ biển, Lạc Long Quân đã về với đất liền, hiển linh như một Nhân thần, diệt trừ yêu quái, giáo hóa dân chúng, dạy cho dân biết cấy lúa, làm nghề thủ công” [86]. 
Từ lâu, biển đã trở thành nỗi ám ảnh trong tâm thức người Việt bởi sự ồn ào và dữ dội nhưng cũng có lúc lặng im của nó. Biển không chỉ được khai thác về mặt kinh tế, quân sự mà còn bao hàm nhiều yếu tố văn hóa - nghệ thuật. Không khó để tìm những tác phẩm nghệ thuật xuất sắc về biển trên các lĩnh vực như âm nhạc, điêu khắc, hội họa… Đối sánh với rừng, biển là biểu tượng của Tổ quốc, của tình yêu quê hương đất nước con người. Tìm hiểu về hình tượng biển cũng giống như chúng ta đang tìm về với mẹ nước bao la, tìm về không gian thần thoại với cha Rồng, mẹ Tiên vậy. 
Ngày nay chúng ta đang kêu gọi góp đá xây Trường Sa, xây dựng biển đảo, bảo vệ chủ quyền đất nước... Biển đảo càng ngày càng đi vào tâm thức, trong ý thức chủ quyền của người Việt. Nghiên cứu về hình tượng biển, trong văn học, tác giả luận văn muốn góp thêm một viên đá để xây nên “tượng đài” của lòng yêu quê hương đất nước qua việc tìm hiểu một số trường ca viết về biển, đảo. 
Trong thơ ca nói chung và trường ca nói riêng, biển được nhắc đến với nhiều tầng nghĩa. Biển, đảo là hình ảnh của Tổ quốc, của dân tộc. Đó là hình ảnh của người mẹ Việt Nam chịu thương chịu khó, của người con gái miền biển sâu sắc, mặn mà. Biển, sóng tượng trưng cho sức mạnh, tinh thần chiến đấu của nhân dân. Các đặc tính của biển, sóng, gió, cát… còn tượng trưng cho những sắc thái tình cảm trong tình yêu đôi lứa. Không những vậy, trong trường ca các nhà thơ còn ví biển như nỗi khó nhọc, gian truân của biển đời. Viết về biển, các tác giả đã thổi vào những trang thơ tình yêu quê hương, biển đảo của chính mình. 
Trường ca là một thể loại thơ dài hơi, gom vào nó tính chất lịch sử to tớn của thời đại và mang hơi hướng sử thi. Biển trong trường ca vì vậy cũng được miêu tả với những bình diện khác nhau. Đặc biệt là trong trường ca của các nhà thơ miền Trung, biển, bờ được các nhà thơ này thể hiện rất đậm nét. 
Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh là những nhà thơ có nhiều thành tựu nổi bật ở mảng trường ca. Những sáng tác của họ đã gặt hái không ít thành công và được đông đảo bạn đọc ghi nhận. Hình ảnh biển, đảo trong trường ca của các nhà thơ trên tuy chưa nhiều nhưng cũng đủ làm nên sắc thái riêng, góp phần làm nổi bật nội dung tác phẩm. 
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: Hình tượng biển trong trường ca Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh để nghiên cứu trên cơ sở tham khảo các đề tài đi trước, từ đó có cái nhìn phổ quát hơn về hình tượng biển trong trường ca. Nghiên cứu Hình tượng biển trong trường ca Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, tác giả luận văn muốn góp một góc nhìn về hình tượng biển trong trường ca Thu Bồn Thanh Thảo, Hữu Thỉnh trong bối cảnh nước ta đang sục sôi xây dựng biển đảo, bảo vệ chủ quyền đất nước.
2. Lịch sử vấn đề 
Trường ca là một thể loại nở rộ trong và sau hai cuộc kháng chiến thần thánh, góp phần làm phong phú thêm đời sống văn học nghệ thuật của dân tộc. Sự phát triển rực rỡ của trường ca trong giai đoạn này đã thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu. Nhiều bài viết về trường ca trên Tạp chí Văn học, Tạp chí Nghiên cứu văn học và các tạp chí có uy tín khác đều cho chúng ta thấy rõ điều này. Trước sự nở rộ của trường ca, nhiều nhà nghiên cứu đã lật lại vấn đề, tìm hiểu tiến trình vận động của thể loại trường ca, cách đặt tên cũng như bàn về đặc trưng loại thể, thi pháp...
Hoàng Ngọc Hiến trong bài viết “Về đặc trưng của trường ca” đăng trên Tạp chí Văn học số 3 năm 1984 cho rằng: Trường ca là một thể loại lớn với 2 nghĩa: có dung lượng lớn và mang nội dung lớn [27,113]. Trường ca là một thể loại vừa có tính chất trữ tình vừa có tính chất tự sự [27,117]. Trước sự phát triển của trường ca, Mã Giang Lân có bài viết: “Thử phân định ranh giới giữa trường ca và thơ dài” trên tạp chí Văn học số 5 năm 1988. Ông cho rằng, trường ca và thơ dài giống nhau ở chỗ: Thơ dài và trường ca thường vận dụng tổng hợp nhiều thể thơ, thay đổi không khí cảm xúc hạn chế sự bằng phẳng đơn điệu [42,61]. Tuy nhiên trường ca có kết cấu rõ rệt và hoàn chỉnh hơn, có nhân vật và nhân vật ở đường nét, có tâm trạng, có hành động [42,62]. Cũng bàn về vấn đề này, trước đó 13 năm nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đã viết “Mấy suy nghĩ về thể loại trường ca” trên tạp chí Văn học số 4 năm 1975. Ông cho rằng có thể gọi chung thơ dài hiện nay là trường ca với nhiều biến thức, nhiều kiểu kết cấu khác nhau [72].
Ngoài ra còn có rất nhiều bài viết khác đề cập đến vấn đề thi pháp, thể loại, phong cách thơ cũng như đánh giá vai trò, đóng góp của họ. 

Và như vậy, hình tượng biển trong trường ca hầu như chưa có công trình nào đề cập đến. May ra qua một vài bài viết đề cập đến nội dung tác phẩm, có một hai câu "chạm" đến vấn đề này mà thôi. Thiếu Mai trong "Thanh Thảo, thơ và trường ca" in trên tạp chí văn học, số 2 năm 1980 có viết về phần vĩ thanh trong trường ca Những người đi tới biển của nhà thơ Thanh Thảo như sau: Đã tới biển, đã đến đích, tới đích rồi nhưng đâu phải về biển là yên nghỉ [46,78]. Lại Nguyên Ân khi bàn đến khúc vĩ thanh này có viết: Không phải ngẫu nhiên tập trường ca của Thanh Thảo có nhan đề Những người đi tới biển. Trong khá nhiều hàm nghĩa có một nghĩa khá rõ: anh nói về những người đi tới nhân dân, hòa vào nhân dân trong một hành trình lịch sử [6,60]. Ngoài ra có thể kể đến bài viết của Lê Thị Mây “Hữu Thỉnh với trường ca biển”. Tác giả đã đề cập đến nội dung, nghệ thuật của trường ca biển và những vấn đề của người lính biển đảo hôm nay... tìm kiếm phác hoạ cho được một chân dung lính đảo hoàn toàn mới [88]. 
Trong hội nghị khoa học toàn quốc về “Văn hoá biển miền Trung và văn hoá biển Quảng Ngãi”, TS. Mai Bá Ấn có bài viết “Tâm thức biển trong thơ miền Trung hiện đại” (Qua trường ca Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo), in lại Tạp chí Sông Trà (21)/2007, tr.71-79. Bài viết đưa ra được những tầng nghĩa phổ quát nhất của biển. Đó là nỗi ám ảnh trong tâm thức người lính; là biểu tượng của tổ quốc, của dân tộc, của người mẹ Việt Nam tần tảo... Tuy nhiên, bài viết còn khá sơ lược, chưa nêu lên được những tầng nghĩa sâu sắc của biển, một đại dương cuộc đời bao la của con người. 
Ngoài các bài viết trên các báo, tạp chí thì trường ca cũng được đề cập đến khá nhiều trong luận văn cao học, nghiên cứu sinh. Các tác giả Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh là những cây bút trường ca lớn, có đóng góp, do đó đề tài nghiên cứu về các tác giả trên là không ít. 
Các luận văn trên đều đi vào tìm hiểu quá trình vận động phát triển của trường ca, tìm hiểu đặc điểm trường ca, vấn đề thể loại cũng như thi pháp nghệ thuật của từng nhà thơ. Bên cạnh đó còn có một số đề tài khát quát cả một chặng đường phát triển trường ca gắn với sự vận động, phát triển của lịch sử như luận án Trường ca về thời chống Mỹ trong văn học hiện đại Việt Nam của Nguyễn Thị Liên Tâm hay Thể trường ca trong Văn học Việt Nam từ 1945 đến cuối thế kỷ XX của Đào Thị Bình. 
Điểm qua các công trình trên, các nhà nghiên cứu chỉ chú ý xoáy vào đặc điểm trường ca, cấu trúc cũng như đóng góp của trường ca đối với đời sống nghệ thuật. Hình tượng biển, sóng trong trường ca được ít nhà nghiên cứu quan tâm. Đến hiện nay vẫn chưa có một công trình khoa học nào đề cập đến hình tượng biển trong trường ca. Tuy nhiên trong các luận văn về trường ca Thanh Thảo, hình tượng biển sóng cũng được nhắc đến, dù ít ỏi nhưng cũng thấy được ý đồ nghệ thuật mà tác giả gửi gắm thông qua hình tượng đó. Cụ thể trong luận văn thạc sĩ của Hoàng Thị Thu Hương, Chất triết luận trong trường ca Thanh Thảo (năm 2009, trường Đại học Sư phạm Hà Nội), phần những phương thức nghệ thuật có đề cập đến biểu tượng sóng biển và biểu tượng cát. Biểu tượng sóng là hình thái tồn tại vĩnh hằng, thể hiện sức mạnh khôn cùng của nhân dân [33,79]; Biển, sóng thể hiện khát vọng yên bình, giãi bày những suy tư, cảm nghĩ về nhân dân [33,80]. Biểu tượng cát cũng mang các tầng nghĩa trên. Tác giả Hoàng Thị Thu Hương cho rằng, cát có giá trị nhân bản sâu sắc, tố cáo tội ác và nỗi đau thương của cả dân tộc. Cát là nỗi mất mát đau khổ, là tương lai, cát vẫn vĩnh hằng bất diệt với thời gian [33,83]. 
Luận văn Thạc sĩ của Đào Thị Khánh Vân, Trường ca Thanh Thảo (năm 2009, trường Đại học Sư Phạm-Đại học Thái Nguyên) có đề cập đến hình ảnh sóng, cát- mặt đất. Sóng là biểu tượng cho sức mạnh tiềm ẩn, quật cường của quần chúng nhân dân [71,89]. Sóng còn là biểu tượng cho sức mạnh trào dâng, sức mạnh nhấn chìm, sức mạnh vô địch của quần chúng nhân dân trước kẻ thù [71,90]. Bên cạnh đó tác giả luận văn đề cập đến cát như là biểu tượng của quê hương, của những năm tháng thăng trầm gian khó mà người dân Sơn Mỹ đã trải qua. Theo Đào Thị Khánh Vân cát là nơi ghi dấu ấn sự tồn tại cũng như những mất mát, hy sinh của con người... cát vĩnh hằng bất diệt, cát là sự hóa thân của tương lai tươi sáng [71,95]. 
Trong luận văn thạc sĩ của Dương Lệ Thủy, Đặc điểm trường ca Thanh Thảo (năm 2011, trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh) cũng đề cập đến hình ảnh sóng - mặt đất, tương tự như trong công trình của Đào Thị Khánh Vân. Sóng và mặt đất là biểu tượng cho sức mạnh vô bờ, âm ỉ và đoàn kết của nhân dân ta trong suốt chiều dài giữ nước [69,106]. 
Nói chung, hình ảnh biển được đề cập trong các luận văn cao học trên chưa sâu và mới chỉ tập trung vào biểu tượng biển, sóng, cát trong trường ca của nhà thơ Thanh Thảo. Trên cở sở tiếp thu thành quả nghiên cứu trong các công trình nghiên cứu, bài viết của những người đi trước, tác giả luận văn chọn đề tài Hình tượng biển trong trường ca Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh và chủ yếu chỉ khảo sát trường ca của ba tác giả trên. 
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 
3.1. Đối tượng 
Với mục đích khoa học đã đề ra, luận văn này chỉ tập trung xem xét và làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản có liên quan đến đề tài: “Hình tượng biển trong trường ca Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh”. Tìm hiểu đặc điểm của hình tượng biển trong trường ca của các tác giả trên và một số phương thức nghệ thuật xây dựng hình ảnh biển trong trường ca. 
3.2. Phạm vi 
Tác giả luận văn xác định rõ, đây là một đề tài chỉ tập trung vào hình tượng biển trong trường ca. Do đó, tác giả luận văn chỉ đi sâu tìm hiểu trường ca viết về biển của 3 tác giả có tên tuổi như Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh. Chủ yếu là một số trường ca có trong ba tuyển tập trường ca sau: 
* Thu Bồn (1999), Bài ca chim Chơ Rao-tuyển tập trường ca, Nhà xuất bản Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh. 
Bài ca chim Chơ rao 
Badan khát 
Người gồng gánh phương Đông 
Chim vàng chốt lửa 
Campuchia hy vọng  
Vách đá Hồ Chí Minh 
* Thanh Thảo (2004), 
Những người đi tới biển, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. 
Những người đi tới biển 
Trẻ con ở Sơn Mỹ 
Những nghĩa sĩ Cần Giuộc 
Đêm trên cát 
Trò chuyện với nhân vật của mình 
Bùng nổ mùa xuân 
* Hữu Thỉnh (2004), Trường ca biển, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội 
Đường tới thành phố 
Trường ca biển 
Ngoài ra trong quá trình triển khai đề tài, luận văn có sử dụng một số tác phẩm thơ của các nhà thơ trong diện khảo sát để vấn đề được sáng tỏ hơn. 
4. Phương pháp nghiên cứu 
Phương pháp loại hình 
Đây là phương pháp nghiên cứu chính của luận văn. Căn cứ vào đặc trưng thể loại để tìm hiểu hình tượng biển trong trường ca của Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh. 
Phương pháp so sánh 
Đây là phương pháp không thể thiếu để chúng tôi làm rõ nét đặc sắc của các tác giả khi xây dựng hình tượng biển trong trường ca của mình so với các tác giả khác. 
Phương pháp thống kê 
Đề tài xoay quanh hình tượng biển của ba tác giả Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh nên rất cần tiến hành thống kê tần suất xuất hiện của các từ khóa liên quan. Sử dụng phương pháp này người viết muốn “lượng hóa” hình tượng biển để chứng minh rằng, biển là kết quả của tư duy nghệ thuật riêng biệt và độc đáo của từng nhà thơ. Phương pháp hệ thống 
Với quan niệm mỗi trường ca là một chỉnh thể nghệ thuật nằm trong một chỉnh thể lớn hơn là nền văn học hiện đại, khi khảo sát, phân tích hình tượng biển, người viết không đặt nó riêng lẻ mà luôn ý thức đặt chúng trong một chỉnh thể thống nhất với các yếu tố nghệ thuật khác để làm rõ hơn nội dung của tác phẩm.  
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 
Từ lâu biển đã trở thành biểu tượng của tổ quốc của dân tộc, biển còn là cái nôi cội nguồn của dân tộc. Việc nghiên cứu hình tượng biển này góp phần làm rõ đặc điểm của hình tượng biển trong trường ca đồng thời hiểu rõ dụng ý nghệ thuật của các nhà thơ, bên cạnh đó góp phần lý giải một phần văn hóa biển, tâm thức biển trong đời sống con người Việt. 
6. Cấu trúc của luận văn 
Ngoài phần dẫn nhập, kết luận và phần phụ lục, luận văn chúng tôi gồm có ba chương: 
Chương 1: Biển trong đời sống tâm hồn và trong thơ ca người Việt Chương 2: Đặc điểm của hình tượng biển trong trường ca Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh 
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng hình tượng biển 
CHƯƠNG 1. BIỂN TRONG ĐỜI SỐNG TÂM HỒN VÀ TRONG THƠ CA NGƯỜI VIỆT 
1.1. Biển trong đời sống người Việt 
Nước ta có 3260 km đường bờ biển kéo dài từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Hà Tiên (Kiên Giang). Ưu thế đường bờ biển dài, vùng biển rộng đã tác động trực tiếp đến người dân Việt Nam. 
“Là một vùng biển giàu có, biển Đông chứa đựng nhiều tài nguyên sinh vật, khoáng sản rất phong phú cả về số lượng và chủng loại. Nhờ có biển Đông, nước ta mang nhiều đặc tính của khí hậu ẩm ướt và vì thế về điều kiện tự nhiên có thể gọi Việt Nam là xứ sở của biển cả” (45,11). 
Cũng theo Nguyễn Thị Hải Lê, ban đầu người Việt không có nguồn gốc biển, họ là cư dân sống ở vùng trước núi, tràn xuống khai thác đồng bằng lầy trũng, rồi lấn biển và khai thác biển. Nhưng trong quá trình “Nam tiến” chất biển của họ ngày càng tăng lên. Giải thích điều này, nhà nghiên cứu văn hóa Ngô Đức Thịnh cho rằng có hai nguyên nhân cơ bản: thứ nhất đó là do quá trình lấn biển làm nông nghiệp và khai thác biển bắt buộc họ phải đứng trước biển; thứ hai người Việt đã tiếp nhận truyền thống biển từ người Chăm và một bộ phận người Chăm bị Việt hóa từ sau thế kỷ XI. Như vậy, qua một thời kỳ lịch sử dài, chất biển trong văn hóa người Việt ngày càng được khẳng định và củng cố. Tuy chưa tạo cho mình được một nền văn hóa biển điển hình như một số dân tộc khác trên thế giới nhưng người Việt đã làm chủ được một nền văn hóa mang những nét riêng của cư dân nông nghiệp. 
“Dấu ấn của biển đã hiện diện trong đời sống của tổ tiên người Việt từ thời kỳ tiền sử. Những di tích “đống vỏ sò” hay “cồn sò điệp” trong các nền văn hóa khảo cổ như văn hóa Quỳnh Văn, văn hóa Bàu Tró, văn hóa Thạch Lạc, văn hóa Hạ Long… là những dấu tích chứng minh rằng biển cả là nơi cung cấp nguồn sống chủ yếu cho các cộng đồng người tiền sử cư trú ở ven biển Việt Nam từ hàng ngàn năm trước” [50,53]. 
Từ xưa người Việt đã sớm biết chinh phục biển, đảo để phục vụ nhu cầu sinh hoạt của mình. Biển trở thành nơi cung cấp nhiều sản vật quí cho con người. Ngọc trai, đồi mồi, san hô… hay gần gũi nhất là muối đều được khai thác từ rất sớm. Nhiều hải sản như mực, cá, tôm… với hàm lượng dinh dưỡng cao trở thành nguồn thực phẩm quen thuộc. Trong bữa cơm của người dân Việt không thể không có chén nước mắm - một loại gia vị làm từ cá biển. Nước mắm không chỉ đơn thuần là một gia vị mà nó trở thành một nét văn hóa ẩm thực, văn hóa truyền thống gia đình của người Việt. Thế nhưng biển không hề êm dịu mà có lúc “sóng to gió lớn”, con người cũng đã học hỏi được nhiều điều từ “tính tình của biển”. “Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo” là một ví dụ tiêu biểu. 
Khai thác các giá trị từ biển cả, con người đã biết “khoan, thư” với cái ồn ào, dữ dội của biển. Khi gặp nạn trên biển (thường là sóng to, gió bão làm lật tàu, thuyền) các ngư dân thường khấn Ông, nhờ Ông độ. Nhiều câu chuyện về việc ngư dân được Ông cứu lan truyền ở nhiều vùng miền. Việc lập đền thờ cá Ông trở thành một tín ngưỡng đẹp của ngư dân ven biển. Hầu như ở địa phương ven biển nào cũng đều có đền thờ cá Ông. Hằng năm, tùy theo từng nơi, lễ hội Nghinh Ông diễn ra một cách tôn nghiêm, thu hút hàng ngàn người tham dự. 
Không những thế nước ta còn được thiên nhiên ưu đãi ban cho khá nhiều bãi biển, nhiều vũng, vịnh, đảo đẹp. Với bãi cát vàng, ngọn sóng trắng xóa vỗ ì oạp, dòng nước xanh biếc… nhiều bãi biển đã trở thành một địa điểm du lịch lý thú, thu hút khách trong nước lẫn khách nước ngoài, góp phần đẩy mạnh kinh tế cũng như nâng cao chất lượng cuộc sống của ngư dân ven biển nhờ vào ngành công nghiệp không khói này. 

Biển còn là một vị trí quan trọng về mặt quân sự. Trong lịch sử kháng chiến chống giặc ngoại xâm của dân tộc, không thể không nhắc đến vai trò của biển cả. Những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, để kịp thời chi viện người, vũ khí và lương thực cho chiến trường miền Nam, đường Hồ Chí Minh trên biển đã được hình thành, góp phần làm nên chiến thắng lẫy lừng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Những con tàu không số và cả những thủy thủ vô danh đã đi vào lịch sử. Trước đó hàng chục thế kỷ, nhiều trận đánh quan trọng, đẩy lùi quân xâm lược cũng bằng thủy chiến. Thời bấy giờ, dưới trướng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn có một chàng trai giỏi bơi lặn, tên là Yết Kiêu, đã dùi thủng chiến thuyền của giặc làm nên chiến thắng lẫy lừng ở cửa bể Vạn Ninh. 
Nhiều địa danh trên đất nước ta hàm chứa yếu tố biển hoặc liên quan đến biển như: Hải Phòng, Hải Dương, Cát Hải, Tiền Hải, hay vùng cửa biển lớn như Cửa Lớn, Cửa Việt, Cửa Lò, Cửa Tùng… Không những vậy, hình ảnh biển bờ đã đi sâu vào tâm thức người dân Việt, để rồi trong lời ăn tiếng nói hằng ngày, người dân Việt đều lấy các yếu tố biển làm “chuẩn”. Nói về việc làm vô ích, viễn vông: “Dã tràng xe cát biển Đông, Mò kim đáy bể”; nói về sự đoàn kết: “Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”; nói về sự nham hiểm, khó dò của lòng người: “Đố ai lặn xuống vực sâu/ Mà đo miệng cá uốn câu cho vừa”… 
1.2. Biển trong văn học dân gian 
Văn học dân gian là một kho tàng vô giá, chứa đựng nhiều giá trị tinh thần sâu sắc. Văn học dân gian hình thành trong quá trình lao động, sản xuất của dân tộc. Sau tấm màn hoang đường, kì ảo, chất hiện thực được tái hiện rõ nét. Những hình ảnh về biển, đảo; hình ảnh ghe thuyền và sinh vật biển đã sớm đi vào sử sách, đặc biệt là trong những câu chuyện thần thoại, truyền thuyết, cổ tích. “Hình tượng biển và đảo luôn thấp thoáng trong bao nhiêu cổ tích, truyền thuyết, là dấu ấn trong tâm thức mọi người” [91]. Hệ thần thoại là phương pháp cơ bản của việc hiểu thế giới và thần thoại phản ánh cảm giác, sự hiểu biết về thế giới của thời đại sinh ra nó. Thuở ban đầu, biển còn vô cùng lạ lẫm đối với con người. Nhiều hiện tượng của biển được người dân lý giải lại một cách thần thánh hóa. Tuy nhiên, qua đó chúng ta cũng dễ dàng nhận ra người Việt đã sớm tiếp xúc với biển và lý giải các hiện tượng liên quan đến biển như sóng, thủy triều, bão lớn hay sóng thần... Truyện Thần Biển có đoạn lý giải các hiện tượng biển như sau: “Thần chỉ có mỗi công việc là hô hấp để sống. Mỗi lần hít vào thì nước biển tuôn vào bụng, mỗi lần thở ra thì khối lượng nước đó lại ùa ra hết. Thần thở khi mạnh, khi nhẹ nhưng rất đều. Cứ mỗi lần như thế thì biển có hiện tượng thủy triều dâng lên rút xuống như ngày nay ta vẫn thường thấy. Thần nằm yên lặng, nhưng cũng có khi mệt mỏi, phải cựa quậy. Mỗi lần thần vùng vẫy là có gió to bão lớn, nước dâng ngập tràn mọi nơi, người trên mặt đất vẫn thường gọi là sóng của thần hay sóng thần” [49,11]. Dân gian còn truyền tụng câu hát, kể về các vị thần gầy dựng nên trời đất như ngày nay, trong đó có thần Biển như sau: Ông đếm cát/ Ông tát bể/ Ông kể sao/ Ông đào sông/ Ông trồng cây/ Ông xây rú/ Ông trụ trời. Điều này phần nào chứng tỏ, ngay từ thuở khai thiên lập địa, biển đã hiện diện trong tâm thức người Việt. 
Theo tác giả Hồ Quốc Hùng: “Truyền thuyết là ký ức cộng đồng về quá khứ. Chủ yếu nó phản ánh niềm tin, sự ngưỡng mộ của nhân dân đối với nhân vật và sự kiện lịch sử của dân tộc ít nhiều bằng hư cấu, tưởng tượng. Lịch sử đọng lại trong truyền thuyết như những tia hồi quang phủ lên cảnh vật, phong thổ của đất nước làm đắm say biết bao thế hệ” [31,10]. Như vậy, ngoài yếu tố kỳ ảo, hoang đường, truyền thuyết cũng có một phần nào đó sự kiện có thật. Những truyền thuyết dưới đây phần nào minh chứng cho việc dân tộc ta đã lấn biển từ khá sớm và biển đã có trong tâm thức của người Việt. Truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên kể về nguồn gốc của dân tộc ta được sinh ra trong bọc trăm trứng bởi cha Rồng Lạc Long Quân và mẹ Tiên Âu Cơ. Một hôm lạc Long Quân mới nói với Âu Cơ rằng: “Ta là nòi rồng, đứng đầu thủy tộc, nàng là giống tiên, sống trên đất, tuy khí âm dương hợp lại mà sinh con, nhưng thủy hỏa tương khắc, giòng giống bất đồng, khó ở với nhau được, nay ta đưa năm mươi người con về thủy phủ chia trị các xứ, năm mươi con theo nàng về trên đất, chia nước mà trị. Lên núi, xuống bể, hữu sự báo nhau biết, đừng quên”. Từ đấy lớp lớp con cháu của cha Rồng mẹ Tiên phá rừng lấn biển dựng nên cơ đồ con Lạc cháu Hồng ngày nay. 
Chúng ta cũng dễ dàng nhận ra, từ thuở hồng hoang, con người đã lên núi, xuống biển, phá rừng lấn biển để làm ăn sinh sống. Câu chuyện về bào thai trăm trứng như một lời tuyên ngôn cho dân tộc Việt Nam, dù ở đâu, trên rừng hay dưới biển thì chúng ta cũng đều là người một nhà, cùng có chung nguồn gốc. Tiếp xúc với biển từ rất sớm nên trong tâm thức của họ, biển không chỉ bao la rộng lớn mà còn có nhiều sinh vật biển nguy hiểm và nó luôn ám ảnh trong tâm trí. Truyền thuyết Ngư tinh kể về một con tinh ngư xà dài hơn mười trượng, chân nhiều như chân rết, biến hóa muôn vẻ, linh dị khôn lường, khi đi thì ầm ầm như mưa, lại ăn được thịt người, quấy nhiễu thuyền chài làm ai ai cũng sợ hãi… là một trong số đó. 
Câu chuyện còn lý giải một số địa danh như Bạch Long Vĩ, Cẩu Đầu Sơn, Mạn Cẩu Thủy… Câu chuyện An Dương Vương được thần Kim Quy đến từ biển ba lần giúp đỡ cũng là một ví dụ cụ thể về hình ảnh biển đã có trong tâm thức người Việt. Thần Kim Quy xuất hiện lần thứ nhất giúp nhà vua xây thành, lần thứ hai giúp nhà vua giữ thành và lần thứ ba rẽ sóng đưa nhà vua xuống biển khi giặc theo sát sau lưng. Cả ba lần, thần Kim Qui cũng đi ra từ biển và biến mất cũng từ biển. Trong tâm thức người Việt thời bấy giờ cảm nhận, biển mang trong mình một phần hào sảng, trù phú nhưng cũng chứa đựng sức mạnh to lớn và ẩn chứa nhiều huyền bí. Người Việt cũng đã biết ngọc trai, một sản vật quý của biển từ sớm qua chi tiết Mỵ Châu bị chém chết, máu nàng chảy xuống biển, loài trai ăn phải mà thành. 
Theo các truyền thuyết để lại thì từ lâu con người đã biết lấy mực xăm mình theo hình thủy quái để tránh giao long làm hại, vẽ mắt ở mũi ghe, thuyền để thủy quái không quấy nhiễu. 

Truyền thuyết Sơn tinh - Thủy tinh tái hiện lại cách sống với thiên nhiên của dân tộc ta. Qua câu chuyện tranh giành công chúa của Sơn tinh và Thủy tinh, chúng ta có thể nhận thấy lý giải của người xưa về các hiện tượng thiên nhiên (tức mưa bão hằng năm), phần nào thấy được sức mạnh của thiên nhiên (cụ thể là sức mạnh của Thủy tinh - sức mạnh của sông, biển) và dần dần tìm cách sống chung với nó. 
Theo giáo sư Chu Xuân Diên, cổ tích biểu hiện cách nhìn hiện thực của nhân dân đối với thực tại. Truyện Quả Dưa Hấu kể về cuộc sống của người dân trên hoang đảo cũng như cách thức người dân trên đảo liên lạc với đất liền. Mai An Tiêm là con vua nhưng vì thẳng thắn, bộc trực mà bị đày ra hoang đảo. Trên đảo hoang, Mai An Tiêm đã tìm ra được giống dưa lạ do đàn chim bỏ lại. Sau khi chăm bón, hạt giống đó cho ra thứ quả có vỏ xanh, ruột đỏ, ăn vào thì ngọt lịm. Mai An Tiêm làm dấu thả dưa xuống biển để tìm đường liên lạc với đất liền. Theo con sóng, những quả dưa hấu đến được các thuyền buôn, họ tìm đến đảo đổi hàng hóa lấy dưa. Những quả dưa trôi dạt về đất liền quân lính đi tuần nhặt được dâng lên vua Hùng. Nhà vua biết chuyện đã cho thuyền đi đón gia đình Mai An Tiêm về. Câu chuyện cũng phần nào cho chúng ta thấy được nét nông nghiệp của cư dân miền biển. Dù sống ở biển nhưng yếu tố nông nghiệp qua chi tiết Mai An Tiêm trồng quả dưa hấu vẫn còn rất đậm đặc. Truyện Chử Đồng Tử - Tiên Dung đánh dấu quá trình giao lưu buôn bán của dân tộc ta và các nước lân bang bằng đường biển qua chi tiết hai vợ chồng Chử Đồng Tử và Tiên Dung giao thiệp với các thuyền buôn nước ngoài. “Họ giao thiệp với các thuyền buôn nước ngoài thường vẫn hay ghé vào để bán hàng và cất hàng. Công việc buôn bán của họ ngày một khá. Chỗ bến sông ấy trở thành một nơi đông đúc, sầm uất” (49,243). Dấu ấn của biển trở nên rất rõ trong truyện cổ tích Đá Vọng Phu. Người phụ nữ bồng con, hướng mắt ra biển chờ chồng từ ngày này qua ngày nọ cho đến khi hóa đá. Mô-tip hai anh em ruột lấy nhau và người hóa đá xuất hiện khá nhiều ở các tỉnh ven biển. Điều này phần nào lý giải vì sao có khá nhiều đá vọng phu (đá trông chồng) ở nhiều địa phương khác nhau: Lạng Sơn (núi nàng Tô Thị), Thanh Hóa (núi đá trông chồng Sầm Sơn), Bình Định (núi đá bên cửa biển Đề Bi, Phù Cát), Ninh Thuận (núi đá ở cửa biển Cà Ná)… Biển cả bao la vừa là nơi cung cấp nhiều sản vật, nuôi sống con người nhưng biển cũng là mối hiểm họa ám ảnh trong tâm thức người Việt. Nỗi đau đớn, trông chờ đến vô vọng của người phụ nữ trong truyện Đá Vọng Phu đã thể hiện điều đó. Ngoài câu chuyện nàng Tô Thị hóa đá vì trông chờ người chồng ra trận chiến đấu, hầu hết các câu chuyện khác đều có mô tip người vợ chờ chồng đi biển mà hóa đá. 
Như vậy, ngoài việc lý giải các hiện tượng thiên nhiên, các câu chuyện thần thoại, truyền thuyết hay cổ tích cũng phác họa sơ lược cho chúng ta thấy cách người Việt sống và thích nghi với biển. Theo Nguyễn Văn Kim: “Có thể nói, trong lịch sử, trên các không gian biển Việt Nam đã từng là nơi diễn ra nhiều hoạt động giao thương trong nước - quốc tế, vùng - liên vùng hết sức sôi động. Bên cạnh kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp, kinh tế thương mại, trong đó có ngoại thương, đã luôn đóng vai trò quan trọng, góp phần tạo nên sự hưng thịnh của kinh tế Việt Nam trong nhiều thời kỳ lịch sử. Đặt Việt Nam trong không gian kinh tế biển Đông Nam Á, trong mối liên hệ với khu vực thị trường Đông Bắc Á và Tây Nam Á có thể khẳng định rằng, chủ nhân của các nền văn hóa cổ, các chính thể quân chủ đã không chỉ chú tâm xây dựng xã hội nông nghiệp, khai thác tự nhiên mà còn quan tâm đến sự phát triển của kinh tế công thương, phát triển kinh tế biển” [87]. Biển với những đặc tính riêng của mình, phô diễn trước loài người sức mạnh oai hùng, dữ dội, nhưng cũng có lúc duyên dáng, đằm thắm; giàu có, hào sảng, phong phú nhưng cũng huyền bí đến tận cùng… Chính những điều đó đã khiến biển trở thành đối tượng của văn hóa nghệ thuật. Biển xuất hiện trong nhiều hình thức diễn xướng, hò vè, ca dao, tục ngữ, thơ, truyện… 
Trong những lần chài lưới đánh bắt, người lao động cần có một nguồn cổ vũ tinh thần thì lúc đó hò phát huy tác dụng. Những bài hò như: Hò hụi, hò kéo lưới, hò chèo thuyền, hò đẩy thuyền, hò đan lưới, lý kéo chài… khá phổ biến. Những bài hò hay các điệu lý thể hiện tinh thần hào sảng, rộng lớn của biển cùng nhịp điệu, tiết tấu nhanh, mạnh, dứt khoát tái hiện không khí lao động đầy sức sống, vui tươi. Ngoài ra còn có nhiều bài hò, lý thể hiện cuộc sống tự do, tự tại, thoải mái cùng biển nước bao la như bài Lý kéo chài dưới đây: 
Nắng lên rồi căng buồm cho khoái 
Gác chèo lên ta nướng ngô khoai 
Hò ơi… 
Nhậu cho tiêu hết mấy chai 
Bỏ ghe nghiêng ngả không ai chống chèo 
Đặc biệt hò bả trạo (hát bả trạo) là một hình thức diễn xướng dân gian mang tính nghi lễ. Hò bả trạo diễn lại hành trình ra khơi đánh cá của ngư dân, tái hiện lại hành trình vượt biển đầy gian khổ. Ngày nay trong lễ hội Nghinh Ông của các ngư dân ven biển miền Trung thì hò bả trạo là một nghi thức không thể thiếu (trong khi đó ở các ngư dân ven biển Nam Bộ, hình thức diễn xướng thường là hát Bội). Ngoài hò ra còn có các bài vè: vè con cá, vè cá biển, vè cào hén, vè nghề làm muối, vè đi biển, vè nhật trình đi biển, vè đánh lưới… bổ sung nhiều thông tin bổ ích về biển, nghề biển và người dân biển… Chẳng hạn như bài vè cá biển sau đây: 
Cá nuôi thiên hạ 
Là con cá cơm 
Không ăn bằng mồm 
Là con cá ngác 
Không ăn mà ú 
Là con cá voi 
Hai mắt thòi lòi 
Là con cá tráo 
Dựa vào đặc điểm của biển mà người Việt đưa ra nhiều lời khuyên, kinh nghiệm bổ ích như: Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo; Dã tràng xe cát biển Đông; Đồng vợ đồng chồng tát biển Đông cũng cạn… 
Ca dao tục ngữ viết về biển có khá nhiều. Ca dao, tục ngữ là tiếng nói tâm tình, rút kết kinh nghiệm sống về tình yêu, lao động sản xuất do đó biển cũng đi vào trong ca dao, tục ngữ với nhiều hình ảnh quen thuộc với đời sống con người. Theo thống kê của Nguyễn Thị Hải Lê trong Biển trong văn hóa người Việt, phần phụ lục 3, có đến 273 câu tục ngữ ca dao có yếu tố biển trong kho tàng tục ngữ ca dao Việt Nam. Trong đó có những câu ca vô cùng quen thuộc. Những gì to lớn, vĩ đại không thể do bằng kích thước cụ thể thì con người mượn hình ảnh biển bờ để ví von. Đó là nghĩa mẹ mênh mông, dạt dào: 
Công Cha như núi ngất trời 
Nghĩa Mẹ như nước ở ngoài biển Đông 
Núi cao biển rộng mênh mông 
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi. 
Biển còn được ví với ý nghĩa vĩnh hằng, trường tồn. Trong ca dao dân ca, để thể hiện tấm lòng thủy chung son sắt, lời thề khăng khít thì sự bao la, mênh mông rộng lớn của biển thích hợp hơn cả:
Biển cạn, sông cạn lòng qua không cạn 
Núi lở, núi mòn nghĩa bạn không quên 
Với những đôi lứa đang yêu, biển có lẽ là một không gian hò hẹn lý tưởng: 
Trèo lên trái núi Thiên Thai 
Thấy đôi chim phượng hoàng ăn ngoài biển Đông 
Anh tưởng giếng sâu anh nối sợi dây cụt 
Ai dè giếng cạn nó hụt sợi dây 
Qua tới đây không được cưới cô hai mày 
Qua chèo ra biển đợi nước đầy qua chèo trở vô 
Có khi, biển là một không gian mơ ước của đôi lứa. Biển là một không gian trong khao khát, trong tâm tưởng của biết bao người: 
Cá bống đi tu 
Cá thu nó khóc 
Cá lóc nó rầu 
Phải chi ngoài biển có cầu 
Anh ra đến đó đoạn giải sầu cho em 
Đôi lúc, con người lại mượn hình ảnh biển để truyền tải ý chí và suy nghĩ của họ. Khi về mối thù dân tộc, dân gian ta có câu: 
Bể Đông có lúc vơi đầy 
Mối thù đế quốc có ngày nào quên 
Nói về những việc làm tốn công, vô ích: 
Thôi đừng đáy bể mò kim 
Bóng chim tăm cá dễ tìm được nao 
Không những vậy, biển còn thể hiện những bất trắc khó khăn trong cuộc sống. Có thể đó là cửa tử của người phụ nữ khi vượt cạn: 
Đàn ông đi biển có đôi 
Đàn bà đi biển mồ côi một mình 
Có khi biển được ví với lòng dạ thẳm sâu, khó dò của lòng người: Lòng sông, lòng bể dễ dò 
Nào ai bẻ thước mà đo lòng người 
Ca dao, tục ngữ là kho tàng kiến thức, kinh nghiệm của dân tộc ta. Chính vì vậy tất cả ý nghĩa và sắc thái của biển đều được thể hiện đầy đủ. Điểm qua một số câu ca dao, tục ngữ viết về biển đủ để thấy biển là một chủ đề đã có từ rất lâu trong kho tàng văn hóa, văn học của dân tộc. 
1.3. Biển trong thơ ca 
Hầu như ở góc độ nào biển cũng được thơ ca ưu ái nhắc đến, từ thời gian: sáng, trưa, chiều, tối cho đến những không gian trên biển: bãi biển, bờ biển, làng biển… lẫn các trạng thái ở biển: buồn, vui, vắng lặng... Không những vậy, tất cả những gì liên quan đến biển cũng là đối tượng của thơ ca như sóng, cát, gió, cánh buồm, hàng dương, hạt muối… Chúng ta cũng có thể liệt kê hàng trăm, hàng ngàn bài thơ viết về biển, đảo. Tuy vậy, tùy vào từng giai đoạn cụ thể mà biển, đảo được tiếp cận ở mức độ khác nhau. Và ở mỗi tác giả hẳn nhiên cũng có cách cảm nhận riêng biệt về biển. 
Do đặc điểm về thời đại mà giai đoạn văn học trung đại nhìn chung có ít bài thơ viết về biển. Ở giai đoạn này, lãnh thổ nước ta chưa mở rộng như bây giờ. Thơ văn sáng tác hầu như thuộc về giới trí thức, nhà nho giàu chữ nghĩa và phần đông sống ở kinh thành, ít kinh qua các vùng đất ven biển. Hình ảnh biển chỉ được nhắc đến trong một số tác phẩm của các tác giả như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Cao Bá Quát... Tuy nhiên tất cả sắc thái của biển đều được các nhà thơ khắc họa một cách chi tiết, rõ ràng. 
Biển được Nguyễn Trãi miêu tả trong khá nhiều bài thơ, như: Quan duyệt thủy trận, Quá hải, Quan hải, Vân Đồn, Thần Phù hải khẩu, Lâm Cảng dạ bạc, Quá Thần Phù hải khẩu… Đó là hình ảnh biển bao la, hùng vĩ được viết bằng những nét bút hoàng tráng. Với tầm nhìn cao cả và cảm xúc hào hùng, tác giả đã thổi hồn vào những bài thơ ấy, làm cho biển bờ cũng dậy sóng: 
Kình phun lãng hống, lôi nam bắc, 
Sáo ủng sơn liên, ngọc hậu tiền 
(Cá kình phun nước sóng gầm thét như sấm ran từ nam đến bắc 
Giáo dựng san sát núi trùng điệp như ngọc bày đằng trước, đằng sau [37,246]) 
(Thần Phù hải khẩu) 
Đó còn là hình ảnh Vịnh Hạ Long với những câu thơ gợi tả đầy sức quyến rũ. Nguyễn Trãi đã ví Vịnh Hạ Long như một tấm gương lớn mà những ngọn núi, những hòn đảo xung quanh như những búi tóc của người phụ nữ: 
Nhất bàn lam bích trừng minh kính 
Vạn hộc nha thanh đóa thúy hoàn 

(Một mặt phẳng sắc lam, sắc biếc như tâm gương trong suốt Muôn vòm màu đen màu xanh như những búi tóc óng trễ xuống [37,248]) (Vân Đồn) 
Là một cố vấn quân sự tài ba, Nguyễn Trãi cũng có nhiều bài thơ nói về công tác phòng ngự trên biển. Theo ông, dù đất nước đã yên bình nhưng không vì vậy mà lơ là cảnh giác: 
Biển Bắc năm xưa đã diệt kình 
Dù yên, còn luyện ngũ ôn binh 
(Quan duyệt thủy trận) 
Từ xưa con người đã biết khai thác sản vật từ biển, thế nhưng biển cũng vô cùng nguy hiểm với bao hiểm họa chết người. Khi giặc Minh sang xâm chiếm nước ta, chúng bắt ép dân ta xuống biển mò ngọc trai, không cần biết đó là nơi nước sâu, nhiều cá mập, thuồng luồng: Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng/ Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc. Tội ác của giặc Minh không sao kể xiết, để rồi nhà thơ phải thốt lên: 
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội 
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi 
(Bình Ngô đại cáo) 
Vua Lê Thánh Tông cũng viết về biển với những bài thơ ngợi ca thiên nhiên đất nước tươi đẹp, đồng thời tự hào về đường lối chính trị của nhà nước phong kiến: 
Hải thượng vạn phong quần ngọc lập 
Tinh la kỳ bố thúy tranh vanh 
Ngư diêm như thổ, dân xu tiện 
Hòa đạo vô điền, phú bạc chinh 
(Trên bờ biển, muôn ngọn núi quây quần như ngọc La liệt đá xanh biếc rải ra chon von Cá và muối nhiều như đất, dân chúng sinh nhai thuận lợi Lúa màu thiếu ruộng, thuế khóa đánh nhẹ [37,317]) 
(An Bang phong thổ)  
Nhà thơ Nguyễn Du đề cập đến biển ở một khía cạnh khác. Biển mênh mông, ầm ào nhưng xa xôi, diệu vợi. Viết về biển, Nguyễn Du lấy điểm tương đồng trong đặc tính của biển để toát lên tâm trạng của nàng Kiều. Môi trường sống đầy xa lạ và nguy hiểm chốn lầu xanh đã chuyển thành cái thế gió cuốn, sóng vỗ xung quanh nàng Kiều. Những con sóng nối tiếp nhau vỗ vào bờ, cứ đều đặn, đều đặn không dứt làm cho người đọc dễ dàng nhận ra tâm trạng của Thúy Kiều lúc này: đau đớn, tủi nhục, xót xa, cám cảnh cho thân phận hẩm hiu, đồng thời lo lắng cho tương lai của mình sau này: 
Buồn trông cửa bể chiều hôm 
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa 
Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh 
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi 
(Truyện Kiều) 
Biển với những con sóng ngày đêm xô bờ, với bão tố hung hãn làm cho con người cảm thấy sợ hãi, bất an. Nhìn những hình ảnh như sóng biển trắng xóa, gió táp, sấm ran, chớp giật… nhà thơ Cao Bá Quát liên tưởng ngay đến con đường công danh, sự nghiệp của mình. Đó là một con đường đầy sóng gió gian nan lẫn thử thách khiến cho nhà thơ không khỏi âu lo: 
Bạn chẳng thấy: 
Sóng trên biển trắng xóa như bạc đầu 
Gió táp xô vỡ thuyền vạn mộc 
Sóng ran chớp giật hãi mắt người 
Mà trong điểm điểm vài chim âu 
Hơi bể quyện vào núi, núi lởm chởm như ngón tay 
Phía bắc núi, phía nam núi, suốt nghìn muôn dặm 
Trên đường công danh đã mấy ai nhàn 
Mũ lộng nhộn nhịp ta cũng đi đây 
(Đứng trên Hoành Sơn nhìn biển) 
Thơ ca hiện đại nở rộ phong phú về thể loại, cấu trúc và cả đối tượng được miêu tả. Nhà thơ Huy Cận có khá nhiều bài thơ viết về biển. Bằng cảm quan vũ trụ, biển trong thơ ông hiện lên với nhiều cung bậc và sắc thái khác nhau. Trong đó, nhà thơ đã tái hiện lại cuộc sống lao động của ngư dân ven biển qua hình ảnh Đoàn thuyền đánh cá. Đó là những hình ảnh lao động khỏe khoắn, mạnh mẽ cùng sự phong phú, hào sảng của biển cả:  
Mặt trời xuống biển như hòn lửa 
Sóng đã cài then, đêm sập cửa 
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi 
Câu hát căng buồm cùng gió khơi 
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng 
Cá thu biển Đông như đoàn thoi 
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng 
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi! 
Biển đã có trong tâm thức của mỗi người. Đó là miền duyên hải xinh đẹp với cát trắng, có nắng vàng và cả trời biếc: 
Tôi nói đến một vùng duyên hải 
Ở miền Nam êm ái quê tôi… 
Có cát trắng, có nắng vàng, trời biếc 
Có những tấm lòng chan chứa tình thương 
(Tiếng sóng - Tế Hanh) 
Đó là quê hương, là cái nôi nuôi dưỡng ý chí cách mạng và lòng căm thù giặc sâu sắc: 
Nơi rất thực và cũng là rất mộng 
Của đời tôi yêu biển tự bao giờ 
Trong giấc ngủ vẫn nghe tiếng sóng 
Như tiếng lòng, giục giã những lời thơ… 
Những con người suốt chín năm kháng chiến 
Đem máu đào giữ miếng đất thiêng liêng 
Nay đứng thẳng nhìn quân thù Mỹ Diệm 
Bùn sẽ tan khi ngọn thủy triều lên! 
(Tiếng sóng - Tế Hanh) 
Nhiều địa danh trở thành căn cứ chiến đấu quan trọng và để lại trong lòng nhân dân nhiều tình cảm. Cửa Tùng của nhà thơ Hoàng Trung Thông là một bài thơ như thế: 
Biển triền miên tung sóng như năm xưa 
Hai dải cát nằm nghe dạt dào muôn lớp sóng 
Ðất khét mùi đạn bom 
“Những ý tưởng tự chủ, những cảm xúc tự hào về biển, đảo quê hương được nhà thơ lớn Tố Hữu khái quát vào những câu thơ như một lời tuyên ngôn - tuyên bố chắc nịch về chủ quyền hiển nhiên, về nét đẹp rạng ngời của một phần lãnh thổ Việt Nam toàn vẹn và thống nhất: 
Hùng vĩ thay toàn thân đất nước 
Tựa Trường Sơn vươn tới Trường Sa
Từ Trà Cổ rừng dương đến Cà Mau rừng đước 
Đỏ bình minh mặt sóng khơi xa [89]”... 
(Vui thế, hôm nay) 
Nhà thơ Khương Hữu Dụng bằng những câu thơ đầy triết lý đã vẽ nên hình ảnh bao lơn, rộng lớn của biển, thu nạp vào trong mình hết thảy muôn suối nghìn sông để cuối cùng hóa xanh trong: 
Ai như biển cả lượng mênh mông 
Muôn suối nghìn sông rộng mở lòng 
Dòng đục dòng trong thu nạp cả 
Tan vào chất mặn hóa xanh trong 
(Biển và núi) 
Ngoài các tầng ý nghĩa trên, biển, sóng còn được các thi sĩ sử dụng để nói hộ các cung bậc cảm xúc khi yêu. Không phải ngẫu nhiên mà các nhà thơ đều mượn hình ảnh biển, sóng để nói đến các cung bậc cảm xúc ấy. Theo từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, biển là “một biểu tượng của động thái sự sống. Tất cả từ biển mà ra và tất cả trở về biển: đây là nơi của những cuộc sinh đẻ, những biến thái và những tái sinh. Là nước trong sự chuyển động, biển tượng trưng cho một trạng thái quá độ giữa các khả năng còn phi hình và các thực tại đã hiện hình, cho một tình thế nước đôi, tình thế bấp bênh, đầy hồ nghi, chưa quyết định và có thể kết thúc tốt hay xấu. Từ chỗ đó biển là biểu tượng vừa của sự sống, vừa của sự chết” [51,80]. Chỗ “không ổn định” của biển với nhiều tình thế bấp bênh, hồ nghi phần nào giống với cung bậc cảm xúc trong tình yêu. Có lẽ vì thế mà nhiều nhà thơ lấy hình ảnh của thuyền, biển, sóng… để miêu tả tâm trạng khi yêu. Nhà thơ Xuân Diệu, ông hoàng thơ tình, đã viết: 
Anh không xứng là biển xanh 
Nhưng anh muốn em là bờ cát trắng 
Bờ cát dài phẳng lặng  
Soi ánh nắng pha lê 
Bờ đẹp đẽ cát vàng 
Thoai thoải hàng thông đứng 
Như lặng lẽ mơ màng 
Suốt ngàn năm bên sóng... 
(Biển) 
Để rồi sóng biển ngàn năm hôn mãi bờ cát vàng: 
Anh xin làm biển biếc 
Hôn mãi cát vàng em 
Hôn thật khẽ thật êm 
Hôn êm đềm mãi mãi 
Đã hôn rồi hôn lại 
Cho đến mãi muôn đời 
Đến tan cả đất trời 
Anh mới thôi dào dạt. 
(Biển) 
Thuyền và biển, hai sự vật hiện hữu ngoài đời thực bỗng trở nên thơ mộng, thi vị hẳn khi hóa thân thành những đối tượng vô hình trong thơ ca. Đặc biệt là hình tượng hóa thành đối tượng trữ tình anh và em. Nữ sĩ Xuân Quỳnh cũng mượn hình ảnh Thuyền và Biển để nói lên tình yêu đôi lứa: 
Chỉ có thuyền mới hiểu 
Biển mênh mông nhường nào 
Chỉ có biển mới biết 
Thuyền đi đâu về đâu 
Những ngày không gặp nhau 
Biển bạc đầu thương nhớ 
Những ngày không gặp nhau 
Lòng thuyền đau rạn vỡ 
Nếu từ giã thuyền rồi 
Biển chỉ còn sóng gió 
Nếu phải cách xa anh 
Em chỉ còn bão tố  
(Thuyền và biển) 
Hay trong bài thơ Sóng, những cung bậc, cảm xúc khi yêu của người con gái được Xuân Quỳnh miêu tả bằng hình ảnh sóng rất tinh tế: 
Dữ dội và dịu êm 
Ồn ào và lặng lẽ 
Sông không hiểu nỗi mình 
Sóng tìm ra tận bể 
Sóng có lúc dữ dội lại có lúc êm dịu, hai đặc tính trái ngược nhau mà vẫn luôn luôn tồn tại, giống như tâm trạng khi yêu, có lúc dạt dào, rạo rực nhưng cũng có lúc lạnh băng, xa cách. Sóng tượng trưng cho nỗi khát vọng của tình yêu đôi lứa, cho dù ở thời điểm nào đi chăng nữa: 
Ôi con sóng ngày xưa 
Và ngày sau vẫn thế 
Nỗi khát vọng tình yêu 
Bồi hồi trong ngực trẻ 
Hữu Thỉnh cũng có một bài thơ viết về tình yêu rất hay (dù theo nhà thơ không hề có bóng hồng nào nhuộm tím ông cả!). Nhà thơ cũng mượn hình ảnh biển để truyền tải thông điệp tình yêu: 
Anh xa em 
Trăng cũng lẻ 
Mặt trời cũng lẻ 
Biển vẫn cậy mình dài rộng thế 
Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn 
Gió không phải là roi mà đá núi phải mòn 
Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím 
Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến 
Dù sóng đã làm anh 
Nghiêng ngã 
Vì em... 
(Thơ viết ở biển)  
Nhà thơ Trần Đăng Khoa lại hóa thân thành người lính đảo, mượn hình ảnh biển đối sánh với nhân vật em để bày tỏ tâm tình người lính biển. Đó là tấm lòng yêu tha thiết biển quê hương, cùng những suy nghĩ đầy yêu thương về Tổ quốc: 
Đất nước gian lao chưa bao giờ bình yên 
Gió thổi chưa ngưng trong những vành tang trắng 
Anh đứng gác-trời khuya đảo vắng 
Biển một bên và em một bên 
(Thơ tình người lính biển) 
“Những con người giữ biển anh hùng đó lại một lần nữa tự khẳng định mình như một lời thề trước biển, đảo quê hương: 
Ôi, đảo Sinh Tồn, hòn đảo thân yêu 
Dẫu chẳng có mưa chúng tôi vẫn sinh tồn trên mặt đảo 
Đảo vẫn sinh tồn trên đại dương gió bão 
Chúng tôi như hòn đá ngàn năm đập trái tim người [91]”! 
(Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn - Trần Đăng Khoa) 
Còn có rất nhiều bài thơ khác viết về biển. Nội dung tập trung vẫn là tình yêu biển đảo, là niềm tự hào dân tộc và đề tài tình yêu. Nhiều bài thơ đã được các nhạc sĩ phổ nhạc. Điều này cũng góp phần đưa bài thơ, bài ca ấy đi sâu vào lòng người đọc. Năm 2000, Hồ Quốc Nhạc đã sưu tầm và giới thiệu 82 bài thơ hay về biển của nhiều tác giả như: Huy Cận, Xuân Diệu, Thế Lữ, Tế Hanh, Xuân Quỳnh, Vũ Quần Phương... Số liệu ấy phần nào cho thấy biển là một đề tài lớn của các thi nhân. 
Gần đây có khá nhiều cuộc thi sáng tác thơ, nhạc về biển và cũng đã có không ít tác phẩm có giá trị. Đó là Tổ quốc nhìn từ biển của nhà thơ Nguyễn Việt Chiến. Bài thơ ra đời trong không khí cả nước sôi sục hướng về biển đảo quê hương. Biển, đảo trở nên gần gũi hơn bao giờ hết. Bài thơ là tình cảm của những người con đất Việt trước tình hình biển đảo quê hương đang chịu nhiều sóng gió cùng với ý chí quyết tâm bảo vệ vùng biển, đảo của dân tộc: 
Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển 
Có một phần máu thịt ở Hoàng Sa 
Ngàn năm trước con theo cha xuống biển 
Mẹ lên rừng thương nhớ mãi Trường Sa 
Đất Tổ quốc khi chập chờn bóng giặc  
Các con nằm thao thức phía Trường Sơn 
Biển Tổ quốc chưa một ngày yên ả 
Biển cần lao như áo mẹ bạc sờn 
Nếu Tổ quốc hôm nay nhìn từ biển 
Mẹ Âu Cơ hẳn không thể yên lòng 
Sóng lớp lớp đè lên thềm lục địa 
Trong hồn người có ngọn sóng nào không 
Như vậy, từ lâu biển đã là đối tượng của văn hóa, văn học. Biển đã có trong tâm thức người Việt và càng ngày càng được củng cố và phát triển. Những câu thơ, lời ca ấy, dù ra đời trong hoàn cảnh nào thì cũng đều thể hiện tâm thức hướng biển và tình cảm thiết tha đối với biển đảo quê hương. Một quốc gia phát triển phải là một quốc gia hướng ra biển cả. Lời nói ấy của nhà thơ Hữu Thỉnh thật đúng, và nó càng đúng hơn trong hoàn cảnh hiện nay, khi cả nước đang hướng về biển đảo với quyết tâm bảo vệ, giữ gìn và phát huy truyền thống biển đảo của dân tộc.
CHƯƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM CỦA HÌNH TƯỢNG BIỂN TRONG TRƯỜNG CA THU BỒN, THANH THẢO, HỮU THỈNH 
“Văn thơ hàm chứa tư tưởng tình cảm. Nhưng văn chương không nói ý một cách khô khan. Văn chương đích thực là hoa quí nên mới có hương sắc. Văn chương thấm vào lòng người, bất tử với thời gian, không có biên giới bởi lẽ văn học nhận thức và thể hiện bằng hình tượng nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật do nhiều yếu tố, chi tiết nghệ thuật hợp thành. Đọc tác phẩm văn học phải phát hiện ra và cảm nhận các chi tiết nghệ thuật, có thế mới khám phá được cái hay, cái đẹp của hình tượng nghệ thuật” [86]. 
Vậy hình tượng nghệ thuật là gì? Theo Từ điển thuật ngữ văn học, “hình tượng nghệ thuật chính là các khách thể đời sống được nghệ sĩ tái hiện bằng tưởng tượng sáng tạo trong những tác phẩm nghệ thuật. Bằng chất liệu cụ thể nó có thể làm cho người ta ngắm nghía, thưởng ngoạn, tưởng tượng. Hình tượng nghệ thuật tái hiện đời sống, nhưng không phải sao chép nguyên những hiện tượng có thật, mà là tái hiện có chọn lọc, sáng tạo thông qua trí tưởng tượng và tài năng của nghệ sĩ, sao cho các hình tượng truyền lại được ấn tượng sâu sắc, từng làm cho nghệ sĩ day dứt, trăn trở cho người khác” [24,147]. Trong thơ văn, hình tượng nghệ thuật có thể là một bông hoa, một vầng trăng, một nàng Kiều, một Trương Phi - cũng có thể là một nét của tâm trạng, tình cảm như “Tương tư” của Nguyễn Bính, v.v… Hình tượng nghệ thuật là bức vẽ về con người, về cuộc đời, về thiên nhiên cụ thể được nhà văn sáng tạo nên qua liên tưởng, tưởng tượng để thể hiện tư tưởng, tình cảm và khái quát hiện thực một cách thẩm mỹ. Và như vậy, biển cũng được các nhà thơ xây dựng thành hình tượng nghệ thuật để truyền đạt thông điệp của mình. Tìm hiểu hình tượng biển sẽ cho chúng ta thấy được cái hay, cái ý vị trong trường ca của các nhà thơ Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh 
2.1. Hình tượng biển trong trường ca Thu Bồn 
Nhà thơ Thu Bồn tên khai sinh là Hà Đức Trọng, sinh năm 1935 ở Điện Bàn - Quảng Nam. Năm 12 tuổi ông tham gia thiếu sinh quân, làm liên lạc cho bộ đội và trực tiếp chiến đấu. Trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước, ông liên tục có mặt ở các chiến trường gian khổ, ác liệt như Tây Nguyên, Khu V, Quảng Trị, biên giới Tây Nam. Có lúc làm phóng viên mặt trận, lúc làm lính xung kích, lính pháo, từng là biên tập viên tạp chí Văn nghệ quân Giải phóng Trung Trung bộ, biên tập viên và cán bộ sáng tác tạp chí Văn nghệ Quân đội. Ông là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1962). Thu Bồn là một tác giả đa tài bởi vì hầu như ở thể loại nào ông cũng có những sáng tác đáng ghi nhận. Năm 1963 với tác phẩm đầu tay, trường ca Bài ca chim Chơ rao đã khẳng định vị trí của ông trên thi đàn. Ngay từ khi mới ra đời, Bài ca chim Chơ rao với nội dung trữ tình chứa đựng tinh thần chiến đấu bất khuất của Hùng và Rin, hai người con Kinh - Thượng, đã gây một tiếng vang lớn cả trong nước lẫn quốc tế. Năm 1969 tập thơ Tre Xanh ra đời, tiếp tục khẳng định tài năng của Thu Bồn. Tiếp liền những năm sau đó, Thu Bồn sáng tác nhiều tác phẩm với sự đa dạng về thể loại. Thơ: Mặt đất không quên (1970), Một trăm bài thơ tình nhờ em đặt tên (1992); 
Tiểu thuyết: Chớp trắng (1970), Những đám mây màu cánh vạc (2 tập, 1975), Hòn đảo chân ren (1972), Dòng sông tuổi thơ (1973), Đỉnh núi (1980), Mắt bồ câu và rừng phi tiễn (1986), Vùng pháo sáng (1986), Cửa ngõ miền Tây (1986), Em bé vào hang cọp (2 tập, 1986); 
Truyện ngắn: Em bé trong rừng thốt nốt (1979), Dưới tro (1986). Hơn bốn mươi năm cầm bút, Thu Bồn đã mở rộng phạm vi sáng tác của mình ở nhiều thể loại, tuy nhiên, có lẽ ông có duyên với trường ca hơn cả. Trường ca Bài ca chim Chơ rao đã đánh dấu một bước ngoặc “tươi sáng” trong chặng đường trường ca sau này của ông. Sau thành công vang dội của Bài ca chim Chơ rao, tiếp tục trên nền cảm hứng sử thi Tây Nguyên, Thu Bồn đã viết Vách đá Hồ Chí Minh (1970) và tiếp sau đó, một loạt trường ca ra đời, gắn với tên tuổi Thu Bồn: Người gồng gánh phương Đông (1972), Tiếng hú người Diôlao (1974), Chim vàng chốt lửa (1973-1975), Quê hương mặt trời vàng (1975), Badan khát (1976), Campuchia hy vọng (1978), Oran 76 ngọn (1979), Người vắt sữa bầu trời (1985), Thông điệp mùa xuân (1985). 
Chặng đường sáng tạo của nhà thơ được ghi nhận qua các giải thưởng sau: Giải thưởng Văn học Nguyễn Đình Chiểu của Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (1965) với trường ca Bài ca chim Chơ rao. Giải thưởng thơ báo Hà Nội mới (1969) với bài thơ Gởi lòng con đến cùng cha. Giải thưởng văn học quốc tế (Hội Nhà văn Á Phi, 1973) với trường ca Bài ca chim Chơ rao. 
2.1.1. Biển trong ký ức, hành trang của những người con đất Việt trong cuộc chiến đấu giữ nước của dân tộc 
Thu Bồn là một nhà thơ - chiến sĩ đi nhiều, viết khỏe. Trong những năm tháng chiến tranh gian khổ, ông đã lăn lộn khắp các chiến trường, đặt bàn chân qua nhiều vùng đất khác nhau. Thậm chí, ông đã vượt dãy Trường Sơn giữa lúc quân thù đánh phá ác liệt nhất. Có lẽ vì thế mà ông có nhiều “vốn” để sáng tác. Sáng tác của ông đa dạng về thể loại và đa dạng cả về địa danh. Đó là một Tây Nguyên bạt ngàn, một Campuchia hy vọng hay một Hà Nội ngày nào... 
Biển là một đối tượng thân thuộc của thơ ca, có lẽ bởi những trạng thái đối nghịch của nó: vừa dữ dội lại dịu êm, vừa rộng mở vừa huyền bí. Các nhà thơ đã viết về biển trong những hoàn cảnh khác nhau, bằng những biểu hiện khác nhau nhưng ở họ có một điểm chung: đó là cảm xúc khi viết về biển rất tự nhiên, chân thành. Và hẳn nhiên, Thu Bồn cũng không ngoại lệ. Biển trong thơ ông dạt dào cảm xúc và chất đầy nỗi niềm của một người con xa quê. Biển trong thơ ông hiện lên mãnh liệt trong ký ức của những người con đất Việt qua công cuộc giữ nước của dân tộc. 
Là một người con xứ Quảng, từ lâu hình ảnh biển bờ với tiếng sóng vỗ, mảnh buồm cong, bãi cát dài đã ăn sâu vào tâm thức nhà thơ. Để rồi chỉ cần một tiếng gợi nhỏ cũng đủ làm cho tâm hồn nhà thơ dậy sóng. Đối với ông, biển không hề xa lạ. Bởi đơn giản đó là quê hương: 

Quê hương tôi biển nhiều hơn nước 
Gọt tận trời cao giọt tận đất sâu 
Biển đã thổi cồn cào cơn khát 
Giọt đầu nguồn trong - mắt em đâu? 
(Qua quê mẹ) 
Biển trong thơ ông còn là tình mẫu tử thiêng liêng, là tiếng lòng của những chàng trai cô gái tuổi đôi mươi hay là những trăn trở về cuộc đời. Tất cả được nhà thơ thể hiện bằng nét bút “lừng lững” một thời của mình. 
Cùng mạch cảm xúc trên, trong thể loại trường ca, nhà thơ Thu Bồn cũng dành rất nhiều “đất” cho tình yêu biển đảo. Qua số liệu thống kê, trong 6 trường ca khảo sát có tới 71 từ biển và 32 từ sóng, ngoài ra còn có các từ khác liên quan đến biển như cát, gió, muối, thuyền... (xem phần phụ lục 1). Điều này phần nào chứng tỏ những hình ảnh biển đã có sẵn trong tâm thức nhà thơ, và nó tự nhiên tuôn chảy mà không cần hướng theo một chủ đích nào cả. 
Kháng chiến nổ ra, những người con Việt Nam yêu nước từ đồng bằng, duyên hải cho đến cao nguyên... đều hăng hái lên đường nhập ngũ. Trong những năm chiến tranh đầy gian khổ, địa bàn hoạt động của người lính chủ yếu là ở rừng. Họ đã trải qua nhiều thử thách với bao chuyến vượt thác, băng rừng, trèo đèo, lội suối đầy vất vả. Rừng núi trở thành quê hương thứ hai của những người lính miền duyên hải. Thế nhưng, trong họ, cảm xúc về một miền quê đầy gió sóng vẫn luôn dạt dào. Trong kí ức của người lính, không đâu đẹp bằng quê hương, không đâu trù phú bằng quê hương. Họ đã kể cho người bạn Campuchia của mình nghe về một vùng biển quê hương giàu có, bằng một giọng điệu đầy tự hào: 
Anh vẫn nói với lòng tôi anh nói 
Về những hòn đảo xa nối biển liền trời 
Con ngọc trai bám vào thềm lục địa 
Một loài sao biển sáng lân tinh 
(Campuchia hy vọng) 
Sống và chiến đấu ở rừng khiến cho những người lính thèm cảm giác được tung tăng, vẫy vùng với biển. Trong họ, biển có một vị trí riêng. Biển ám ảnh trong tâm thức, khiến cho người lính không khỏi không nghĩ đến. Ngay cả trong những sinh hoạt hằng ngày cũng làm cho họ nhớ da diết miền quê ầm ào sóng vỗ: 
Ăn trái gắm nhớ trái dừa da diết 
Tắm vũng suối nhớ biển biếc bao la 
Những đêm mưa rừng sấm động 
Nhớ làm sao tiếng sóng vỗ quanh nhà 
(Bài ca chim Chơ rao) 
Biển đã nằm ở một tầng sâu trong tâm thức người lính, để rồi ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào, chỉ một cái gợi rất nhỏ cũng làm cho tình cảm ấy bùng phát mãnh liệt. Hùng là một chiến sĩ kiên cường. Anh cùng Rin, một chiến sĩ vùng cao, hoạt động cách mạng ở Tây Nguyên. Để tham gia cách mạng, hòa mình cùng đồng bào dân tộc, anh đã cà hàm răng ngà ngọc, học cách bương đèo, bới tóc, căng tai, mang vòng lấp lánh. Anh dần dần trở thành một người con miền núi đúng nghĩa. Nhưng anh vẫn là người con của biển, vẫn đậm đà, chất phác. Là một người lính, nhiệm vụ đấu tranh bảo vệ Tổ quốc được đặt lên hàng đầu. Nỗi nhớ quê hương luôn canh cánh trong lòng nhưng anh đã cố gắng gìm lại. Và càng gìm chặt thì nỗi nhớ về miền quê nhiều sóng biển, lắm chân trời càng mãnh liệt. Trong nhà lao, trước sự tàn bạo của kẻ thù, Hùng vô cùng kiên cường, cứng rắn, nhưng khi nghe tâm sự của Rin và Sao, nỗi niềm trong anh như được khơi dòng. Đó là nỗi lòng của một người con miền biển chất đầy nhớ thương: 
Nỗi tâm sự của người con nước mặn 
Cũng trào lên như sóng biển dạt dào 
Ký ức như ngàn con sóng bao bọc lấy người chiến sĩ. Ở phía biển anh có một mái nhà tranh nho nhỏ với hàng dương xanh quanh năm cãi lời ngọn gió, một người mẹ hiền sớm hôm tần tảo vá may cho anh chiếc áo, đợi anh về. Ở nơi đó anh còn có một người yêu vò võ đợi chờ: 
Cô gái biển quanh năm chài lưới 
Trên bàn tay có nắng mặt trời 
Cô gái có tâm hồn sóng biển 
Hứa yêu anh, yêu mãi trọn đời 
(Bài ca chim Chơ rao) 
Nỗi niềm trong anh cứ thế, cứ thế dâng lên như ngọn thủy triều. Hình ảnh quê hương với biển xanh, sóng vỗ đến khôn cùng như vẫy gọi anh, để rồi tiếng gọi quê hương bật ra từ tận đáy lòng, nghe yêu thương và da diết đến lạ: 
Quê hương ơi, những biển chiều lặn 
Con cá chuồn lao phóng như tên 
Ánh đèn xanh đêm hè soi mực 
Con sứa rập rình chờ nước biển lên 
(Bài ca chim Chơ rao) 
Ký ức về quê hương và những con người thân thuộc đã cho anh sức mạnh chiến đấu với kẻ thù. Bị tra khảo bằng những nhục hình đầy đau đớn, bị dụ dỗ với những lời nói ngọt nhạt nhưng Hùng vẫn kiên trung với con đường mình đã chọn. Anh tự vùi bàn tay vào than đỏ châm thuốc hút, dùng kìm véo vào đùi rứt ra miếng thịt... Đứng trước kẻ thù anh không hề run sợ mà vô cùng anh dũng, kiên trung. Hùng đã chọn cho mình một cái chết hiên ngang: 
Tao sẽ chết bằng xe kéo trên đường 
Máu thịt tao quyện vào bụi đất 
Xương óc tao rải khắp quê Hương 
(Bài ca chim Chơ rao)  
Ý chí của anh đã làm cho bọn giặc phách lạc hồn bay, phải rợn mình khiếp sợ. Chính sự ồn ào, dữ dội nhưng cũng thâm trầm da diết của biển đã thấm vào anh. Lý tưởng đó, thứ ánh sáng đó anh học được từ phía biển quê hương: 
Ánh sáng đầu nhô từ mặt biển 
Cánh buồm căng sưởi lửa mặt trời 
Con của mẹ hun đúc từ nơi ấy 
Lồng ngực con mang tiếng đập biển khơi 
(Bài ca chim Chơ rao) 
Tiếng đập biển khơi đã dựng anh đứng dậy, không đầu hàng trước sự tàn bạo của kẻ thù, bởi với anh, con đường anh chọn là con đường chính nghĩa để rồi mạnh bước đi, chết vẫn tươi cười. 
Trước giây phút hy sinh, trong tâm trí người chiến sĩ, ký ức về quê hương hiện lên mãnh liệt hơn bao giờ hết. Hùng bị đem ra pháp trường thiêu chết nhưng anh vẫn điềm nhiên. Anh nhớ về miền biển thân thương với ngôi tháp Chàm rêu phong cổ kính với rừng dừa xa thấp thoáng sương mù. Anh nhớ về người mẹ hiền trọn đời kim chỉ vá may, nhớ người con gái mà anh yêu thương tha thiết. Anh bị thiêu chết nhưng anh không chết, lời của anh như còn vang vọng. Tấm áo mẹ may năm nào anh nhường lại cho người em với lời nhắn nhủ chiến đấu tới cùng: 

Tấm áo mẹ con không bao giờ mặc nữa 
Để dành cho em con mặc buổi ra khơi 
Tấm áo quê nhà che bao nắng gió 
Vững mái chèo bão táp chớ buông lơi 
Anh nhắn với cô gái - người yêu anh đừng buồn, bởi dù chết anh vẫn còn mãi với quê hương, đất nước: 
Và cô gái đẹp xinh người vợ trẻ 
Ngày chiến thắng về không có bóng anh 
Em hãy nhìn lên sắc cờ kiêu hãnh 
Có anh về ôm ấp rặng dừa xanh 
Tầm vóc của người chiến sĩ bỗng chốc vụt lớn lao. Hùng không chết mà sức mạnh ý chí của anh lan tỏa đến quảng đại quần chúng nhân dân. Sức mạnh ấy như một trận bão giông, có thể cuốn phăng tất cả: 
Bến thuyền xa gió kéo dài ngọn lửa 
Chớp xé trời tung thuyền lên nghiên ngửa bão giông 
Con cá kình lao mình trong đảo sóng 
Lướt đá ghềnh bọt trắng nước mênh mông 
(Bài ca chim Chơ rao) 
Không phải ngẫu nhiên mà Thu Bồn tái hiện ý chí của Hùng bằng một trận bão giông. Biển với sức mạnh to lớn và huyền bí của mình có khả năng quét sạch mọi thứ. Biển vừa là nơi hủy diệt lại vừa là nơi tái sinh. Tinh thần chiến đấu của Hùng sẽ lan tỏa ra quảng đại quần chúng nhân dân. Họ là những trận bão giông, sẽ dùng sức mạnh khôn cùng của mình hủy diệt bè lũ cướp nước, đồng thời tái sinh những cuộc đời mới. 
Cái chết của Hùng và Rin không hề đau thương, bi lụy mà lan tỏa sức mạnh, ý chí quật cường đến với nhân dân. Hình ảnh của Hùng và Rin bỗng chốc trở nên bất tử, bất tử đúng vào khoảnh khắc họ bị thiêu chết ấy: 
Lửa rực hai gương mặt gầy rạng rỡ 
Hai vòng tay lửa siết vào nhau 
Người anh em ơi! Đây là lời đất nước 
Gắn bó đến cùng những lúc thương đau 
Như vậy, hình ảnh quê hương miền biển luôn hiện hữu trong tâm trí người chiến sĩ cách mạng, để rồi, từ những ký ức ấy hun đúc trong họ ý chí quyết tâm giữ gìn độc lập tự do cho Tổ quốc. Biển hiện lên trong trang thơ Thu Bồn tự nhiên và gần gũi nhất, có lẽ đơn giản đó là quê hương, là cái nôi nuôi những người con đất Việt lớn khôn thì không còn gì là xa lạ nữa. Bằng tấm lòng của một người con miền biển, Thu Bồn đã thổi vào những bản trường ca của mình lớp lớp sóng biển đầy sức gợi tả. 
2.1.2. Biển, đảo - một phần máu thịt của Tổ quốc Việt Nam 
Dù biển có hung hăng, có tàn phá thì biển đảo vẫn là quê hương, là nơi nuôi ta khôn lớn, là một phần máu thịt của Tổ quốc ta. Hướng về biển, nhà thơ tìm về với cội nguồn dân tộc: 
Tìm cha con hãy đến biển Đông 
Nơi ngọn sóng bạc đầu vì sương gió 
Khi đau thương biến con thành đảo nhỏ 
Mẹ sẽ ôm con trong lòng biển rạt rào 
(Người gồng gánh phương Đông) 
Qua hình ảnh của tình mẫu tử thiêng liêng, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra thông điệp mà nhà thơ gửi gắm. Biển đảo đã trở thành một phần cơ thể của Mẹ Việt Nam. Để rồi từ đó bao thế hệ con Rồng cháu Tiên sẵn sàng trở thành người lính biển, người lính đảo, canh giữ bình yên cho Tổ quốc Việt Nam. 
Biển đảo còn là cái nôi nguồn cội của dân tộc ta. Đó còn là hình ảnh của chàng chim Lạc và nàng Âu Cơ trong cuộc chiến chống lại lão già nghèo đói cùng gia đình lão: 
Vợ lão là hoang vu 
Con đầu là cơ cực 
Cháu trai là nóng nực 
Cháu gái là lạnh lùng 
Bè bạn lão ta khổ độc cứ từng vùng 
(Người gồng gánh phương Đông) 
Chàng chim Lạc soãi cánh mở nước về phương Nam, băng qua dải Trường Sơn hùng vĩ. Trong cuộc chiến với lão già chàng bị lão cắn đứt một ngón tay, để rồi: 
Từ những ngón tay chàng trai máu ứa thành những dòng kinh 
Còn lại chín ngón tay xòe ra vô tận 
Thành chín nhánh Cửu Long sờ vào ngực biển Đông 
hình thành đất nước Việt Nam cong như chiếc đòn gánh “gồng gánh phương Đông”. 
Biển đảo đã trở thành máu thịt, là quê hương, là đất nước mến yêu như lời tâm sự Quê hương tôi có biển Đông/ Vừa đủ mặn bốn ngàn năm lao động. Biển đảo trở nên thân thuộc, là nơi người lính cảm thấy tự hào khi nghĩ về, tôi chỉ em xem biển rộng vô cùng/ và tên gọi mến yêu từng hòn đảo. Đứng trước biển, ngút ngàn màu xanh trù phú của biển cả, nhà thơ không khỏi tự hào. Trong trường ca Người gồng gánh phương Đông, tác giả lý giải về Đảo bằng một đôi mắt vô cùng thi vị: 
Những hòn núi xưa không cần vua chúa 
Xa lánh biển Đông 
Nghe tiếng đàn ngoái cổ lại trông 
Được chỉ tên là Đảo 
(Người gồng gánh phương Đông) 
Thế nhưng, trong lịch sử, biển đảo quê hương đã bao lần phải oằn mình chịu sự chà đạp của kẻ thù. Biển, đảo luôn là món mồi ngon mà kẻ thù lăm le xâm chiếm: 
Nhưng chùm đảo của ta  
Miếng mồi ngon chơi vơi trước những mồm giặc cướp 
(Badan khát) 

Để mất biển tức là mất đi Tổ quốc. Vì vậy, giữ gìn biển đảo là một nhiệm vụ cấp thiết hơn bao giờ hết: 
Chúng ta không muốn nỗi buồn thương 
Niềm đau lớn vượt ra ngoài biên giới 
Nỗi khổ khoanh vùng trong da thịt ta thôi 
Ta muốn biển ta chỉ một sắc cờ 
Những hòn đảo xa 
Những hòn đảo nóng 
Đừng quên nỗi lòng ta sóng xé giữa trùng khơi 
(Badan khát) 
Ý thức được tầm quan trọng của biển đảo, dân tộc ta đã gửi lên biển đảo quê hương những tình cảm hồn hậu, chân chất nhất, bởi đơn giản con ở đâu cũng là con của mẹ/ hòn đảo nào cũng Tổ quốc Việt Nam. Đất liền đã gửi ra biển đảo hồn dân tộc. Đó là giống cây trồng, sách báo hay chỉ là lời thăm hỏi lên hòn đảo quý yêu. Đó là lời chào tới Hoàng Sa, Trường Sa để gọi hồn Tổ quốc lạc ngoài khơi: 
Chào Hoàng Sa 
Chào Trường Sa 
Những chùm đảo chim 
Những hòn đảo nổi 
Những ốc đảo tù và gió thổi 
Gọi hồn Tổ quốc lạc ngoài khơi. 
(Badan khát) 
Trường ca Badan khát được tác giả sáng tác vào năm 1976, ngoài chủ đề chính là đất và con người Tây Nguyên thì tác giả còn đề cập đến vấn đề biển đảo như người viết đã đề cập ở trên. Vấn đề ấy đến hôm nay vẫn còn nhức nhối. Để cho đất nước được vẹn toàn, nhiệm vụ bảo vệ biển đảo trở nên khẩn thiết hơn bao giờ hết, hay đơn giản chỉ để cho bờ Tổ quốc đâu cũng đầy gió sóng. 
2.1.3. Biển đời đầy khó nhọc gian truân 
Biển trong trường ca Thu Bồn không chỉ mang nét nghĩa quê hương, đất nước mà nó còn ám chỉ sự khó khăn, vất vả. Từ lâu, trong kho tàng ca dao tục ngữ, người Việt đã ví nỗi khổ đau, vất vả của đời người với biển: biển khổ, biển đau; Đàn ông đi biển có đôi/ Đàn bà đi biển mồ côi một mình... Biển với sự bao la, rộng lớn lẫn huyền bí đến tận cùng của mình đã ám ảnh bao thế hệ. Biển là nỗi ám ảnh về sự gian truân, những khó khăn thử thách khôn lường trong đời sống con người. Trong trường ca Người gồng gánh phương Đông, Thu Bồn đã viết: 
Những cái gì xanh của biển 
Đều lấy ra từ máu con người 
Màu xanh của biển là màu của những tháng ngày tự do, cho em thơ vui đùa trên cát; là màu của sự ấm no, người dân chài trở về với những khoang thuyền đầy cá. Có khi đơn giản đó là tiếng sóng vỗ bình yên, là hàng dương vi vu theo gió... Nhưng để có được màu xanh ấy, biết bao thế hệ đã phải hy sinh, biết bao máu xương của dân tộc ta đã phải đổ xuống. Thật xót xa biết bao! Nhà thơ còn khát quát: Đất nước tôi có biển Đông/ Vừa đủ mặn bốn nghìn năm lao động. Bốn nghìn năm ấy, dân tộc ta đã chiến đấu và bảo vệ Tổ quốc để cho thế hệ sau được bình yên vui sống. Đó là một khoảng thời gian lịch sử, khoảng thời gian của máu và nước mắt. Nhưng khoảng thời gian ấy chưa dừng lại, từ phía biển, kẻ thù luôn luôn tìm cách xâm lược nước ta: 
Những trái bom 
Giặc Mỹ từ biển vào giật mìn san bằng từng chiếc giếng 
(Chim vàng chốt lửa) 
Đến hạt muối còn quý hơn vàng: Sáng nay muối đến non ngàn/Tay cầm hạt muối hơn vàng cầm tay. Để có được hạt muối ấy từ bàn tay giặc, biết bao đồng bào ta đã ngã xuống. Đó không đơn thuần là hạt muối bình thường, mà nó kết tinh thành tinh thần, sức mạnh của dân tộc. Đó là những hạt muối thấm máu bao đồng đội hy sinh: 
Mẹ giữ muối như giữ từng giọt máu 
Đừng tan muối ơi! chất mặn Sa Huỳnh 
Muối trắng giằng từ bàn tay giặc 
Thấm máu bao đồng đội hy sinh 
(Bài ca chim Chơ rao) 
Phía đại dương mênh mông còn có một vùng đất quanh năm chua mặn, mưa rơi vào lòng hạn hán. Cuộc sống của những con người nơi đây khốn khó vô cùng, đêm ngày bán lưng cho đất, bán mặt cho trời nhưng cái ăn, cái mặc vẫn thiếu thốn, chật vật. Đến lời dặn dò của cô gái với chàng trai trước khi ra trận nghe cũng thật thiết tha, thấy thương đến lạ. Đó là lời dặn dò của một con người con gái bé nhỏ, quanh năm chịu nhiều nhọc nhằn, vất vả: 
Anh là con chim bay về xứ nóng 
Đừng quên em trên ruộng lúa nhọc nhằn 
Đừng quên dấu chân trâu trên mảnh đất khô cằn 
Cơn rét lạnh lá hàng dương không đủ ấm 
(Badan khát) 
Trong trường ca Badan khát, Thu Bồn đã kể về một vùng đất chết bởi sự xâm thực nặng nề của biển, làng Lỗ Trường. Ở nơi đó: 
Sóng mặn cướp hàng dương 
Làng sạt lở ngôi đình chìm đáy biển 
Bọt nước cuộc đời trôi 
Bao người biệt xứ 
(Badan khát) 
Trước sự xâm thực nặng nề của biển, vùng quê ấy trở thành một vùng đất chết. Vậy mà biển còn hùa vào áp đảo để rồi cánh đồng ta mòn mỏi những bờ chua. Những người con của biển phải chống chọi từng ngày từng giờ với thiên nhiên, con người phơi sức người trên đồng muối trắng, thế nhưng cuộc sống nghèo khó vẫn bám riết lấy họ: 

Nhà rách vách xiêu 
Chiếc nong rách 
Áo tơi chằm 
Nằm vo ăn vã 
(Badan khát) 
Khó khăn, vất vả là thế nhưng những con người nơi đây vẫn không đầu hàng trước số phận. Những người lính của ta đã nhảy xuống biển, xiết chặt tay nhau làm thành bức tường, khuân đá ngăn sóng. Những người lính đã đem tất cả tinh thần, sức lực của mình ra để ngăn biển dù cho biển gầm thét, biển tràn vào lồng lộn: 
Biển hung hăng nhưng biển không thể tràn 
Qua lồng ngực những người chiến sĩ 
(Badan khát)
Để có được màu xanh trù phú, bạt ngàn của những cánh đồng, những người chiến sĩ đã đem hết tất cả ý chí và tinh thần của mình chống biển. Biển trở thành kẻ thù của người lính: 
Chúng ta dành sức trai đánh Mỹ 
Nhưng giờ đây phải thắng trời 
Những tàu chiến hải quân kéo còi từ biệt biển khơi 
Tự đắm mình dưới chân đê làm lá chắn 
(Badan khát) 
Đương đầu với kẻ thù hết tuổi thanh xuân, nay hòa bình lập lại, người chiến sĩ tiếp tục cống hiến sức mình để xây dựng quê hương. Từ sự khó khăn, vất vả của những con người nơi đầu sóng ngọn gió, chúng ta càng hiểu thêm sự hy sinh thầm lặng của họ và càng thấy khâm phục, tự hào hơn con người Việt Nam. 
Phía biển cả bao la không chỉ chứa đựng bao nổi khó khăn, vất vả mà biển còn ám chỉ những bấp bênh, khó ngờ của cuộc sống. Trong bài thơ Ông già và biển, nhà thơ viết: 
Nay sông đã cạn rồi 
Còn lại biển 
Sóng bao dung nhưng trò đời ai biết 
Lỡ bước sảy chân là biển nuốt phăng đời 
Biển lúc này như một con cá mập của số phận, chỉ một chút dao động, một chút chênh vênh thôi con cá mập ấy sẽ nuốt chửng chúng ta. Và những con sóng không khác gì những cám dỗ của cuộc đời, chỉ một chút lơ là, mất cảnh giác, chúng ta có thể bị vùi lấp bất cứ lúc nào. Trong những sáng tác của mình, nhà văn Nguyễn Minh Châu cũng có viết về một con sóng vô hình [78] trong tâm thức những người dân miền biển. Đó là nỗi sợ hãi, e dè về sức mạnh cuồng nộ của thiên nhiên cũng như ám ảnh bởi những con sóng bấp bênh của biển đời, đầy chông gai mà cũng lắm cám dỗ. 
Biển mang trong mình đầy đủ các cung bậc, sắc thái khác nhau. Viết về những khó khăn, vất vả ở biển để chúng ta thấy được rằng, cuộc sống của đồng bào ta cực khổ đến nhường nào. Nhưng dù khó khăn, vất vả họ vẫn cố gắng vượt qua, cố gắng chiến đấu tới cùng để cho cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn, vững bền hơn. 
Bằng tấm lòng của một người con xứ Quảng, Thu Bồn đã viết nên những trang trường ca về biển đầy sức gợi. Biển hiện lên bình dị, yêu thương trong ký ức của người chiến sĩ yêu nước. Biển bờ còn là cái nôi hun đúc ý chí, sức mạnh, giúp họ chiến thắng trước kẻ thù, kiên trung với con đường mình đã chọn. Ở phía biển còn nhiều lắm khó khăn, vất vả nhưng đồng bào ta đã cố gắng vượt qua. Biển dù có hung hăng gầm thét, dù dữ dội khôn cùng thì trong trái tim người Việt Nam yêu nước, biển đảo là một phần máu thịt của đất Mẹ Việt Nam, đều là quê hương, xứ sở cần phải bảo vệ và giữ gìn. Qua những gì tác giả thể hiện, có thể thấy tình yêu biển đảo, cũng như dòng chảy xuyên suốt của biển trong các sáng tác của nhà thơ Thu Bồn. Đó chính là tấm lòng hướng biển của một người con đất Việt: tự nhiên mà rất đỗi chân thành. Viết về biển, nhà thơ Thu Bồn đã dẫn lối cho bao trái tim người Việt Nam tình yêu biển đảo, bảo vệ chủ quyền cho dân tộc hôm nay và mai sau. 
2.2. Hình tượng biển trong trường ca Thanh Thảo 
2.2.1. Duyên nợ với biển trong sáng tác của Thanh Thảo 
Sinh ra ở Quảng Ngãi, mảnh đất biển nhưng đến năm 8 tuổi Thanh Thảo mới thực sự thấy biển, biển Quy Nhơn, khi cùng mẹ xuống tàu Ba Lan tập kết ra Bắc. Trong tâm thức của một cậu bé 8 tuổi, biển vô cùng đáng sợ. Cộng thêm việc bị say sóng, nhà thơ chỉ mong sao cho nhanh nhanh thoát biển. 
Sau giải phóng, nhà thơ có dịp gặp lại biển khi cùng nhà thơ Ngô Thế Oanh xuống Vũng Tàu. Từng ngọn sóng tung bọt trắng xóa, tràn qua tuổi ba mươi làm cho nhà thơ cảm thấy bồi hồi. Lúc này nhà thơ chợt nhận ra, biển không hề đáng sợ hay dữ dằn như những suy nghĩ thời thơ bé mà biển cũng đẹp và đáng yêu lắm chứ. Từ lúc ấy, biển đã đọng vào kí ức của nhà thơ, để khi đi qua Tuy Hòa cảm xúc về biển đã dâng trào “Biển trào lên phút chốc Tuy Hòa” trong bài thơ “Phút chốc Tuy Hòa”. 
Năm 1976, để lấy nguồn cảm hứng sáng tác, Thanh Thảo ra ở hẳn Sơn Mỹ. Nhờ vậy ông có dịp sống cạnh biển để cảm nhận. Hằng ngày ông ra biển Mỹ Khê chơi với trẻ con rồi cùng bà con thả lưới, kéo chài. Những ngày tháng ở đây đã giúp ông sáng tác thành công trường ca Trẻ con ở Sơn Mỹ và một vài chương trong trường ca Những người đi tới biển. Theo tác giả, chính biển đã đẩy nguồn cảm hứng của ông lên cao. 
“Ở trường ca đầu tay của tôi, biển đã chiếm hẳn một chương, chương vĩ thanh "Tới biển". Đó là khúc coda cho trường ca được tôi viết liền một mạch với tất cả niềm hứng khởi như là kết quả của những ngày tôi lang thang trên bờ biển Mỹ Khê-Sơn Mỹ, nhưng lại có nguyên nhân sâu hơn từ khát khao suốt những năm chiến tranh của tôi mong một ngày về với biển: 
... Cho anh về với em một buổi sáng thường 
Đi kéo lưới và đi gánh cá 
Nói chuyện lợp nhà trồng lại hàng dương 
Hoa muống biển tím lúc mình xúc động 
Anh muốn kêu ngược tiếng hò reo của sóng 
Phút này đây anh là của biển rồi”... 
(Những người đi tới biển) [93] 
Nói như vậy có nghĩa, biển đảo đã có một vị trí vững chắc trong lòng nhà thơ, để rồi hình ảnh của biển, sóng luôn tràn ngập trong những trang trường ca. Biển bờ không chỉ có trong Những người đi tới biển mà còn có trong Trẻ con ở Sơn Mỹ, Những nghĩa sĩ Cần Giuộc… và mới nhất là có trong trường ca Chân đất, ở chương Chân sóng, tác giả mới hoàn thành năm 2011. 
Nhà thơ Thanh Thảo được mệnh danh là “Ông vua trường ca” bởi số lượng trường ca đồ sộ cũng như sức sáng tạo không ngừng nghỉ của ông qua những đứa con tinh thần. Trường ca của ông không chỉ đa dạng về cấu trúc mà còn ẩn chứa nhiều thông điệp sâu sắc. Hình tượng biển trong trường ca Thanh Thảo có một ý nghĩa đặc biệt. Dường như nó bao hàm tất cả các tầng nghĩa, thâu tóm vào trong mình bản chất thế giới hiện hữu. Tìm hiểu hình tượng biển sẽ cho chúng ta thấy rõ nét đặc sắc trong thơ ông. 
Dù “gặp biển” khá muộn nhưng không vì vậy mà nhà thơ không “nặng tình” với biển. Điểm qua các sáng tác của ông, ta bắt gặp hình ảnh biển, sóng khá nhiều. Qua khảo sát 6 trường ca của nhà thơ Thanh Thảo, từ biển được đề cập đến 71 lần, từ sóng được đề cập 60 lần và rất nhiều từ liên quan đến biển như gió, cát, bão, lốc (xem phần phụ lục 1). Đặc biệt trong trường ca Những người đi tới biển và Trẻ con ở Sơn Mỹ có hơn 100 từ ngữ nói về biển và các từ khác liên quan đến biển. Điều đó có thể khẳng định vị thế vững chắc của biển trong tâm hồn nhà thơ. 
Với Thanh Thảo, biển hiện lên với những hình ảnh vô cùng gần gũi, thân thuộc. Đó là hình ảnh của những khoang thuyền đầy cá; những làng chài lao xao người mua kẻ bán. Đó còn là bức tranh đầm ấm của gia đình bên bếp lửa vui niềm vui sum họp: 
Những con thuyền thở dài trên cát trắng 
Nghe da thịt nồng hơi biển mặn 
Mùi cá tanh quanh bến cá buổi buổi chiều 
Người bán mua gồng gánh lao xao 
Bao bếp lửa nhóm niềm vui sum họp 
(Trẻ con ở Sơn Mỹ) 
Và hiện lên trên hết là hình ảnh của người mẹ hiền, quanh năm tần tảo. Nhà thơ không ví mẹ là biển cả bao la, như câu ca quen thuộc: Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông mà ví mẹ như hàng cây vùng nước mặn, kiên nhẫn vươn lên xanh tốt, để giữ từng tấc đất phù sa: 
Suốt cuộc đời lấn biển thương đau 
Mẹ bền bỉ như cây vùng nước mặn 
Mọc hàng đầu giữ từng tấc phù sa 
(Trẻ con ở Sơn Mỹ) 
Để rồi từ đó biển trong lòng con trở thành biển mẹ mênh mông, biển của tình mẫu tử thiêng liêng: 
Những ngọn sóng bạc đầu trào dâng và chìm lắng 
Cả niềm vui, nỗi đau sức mạnh của Người đều vô thủy vô chung. 
Biển còn hiện lên trong giấc mơ tuổi thơ với nhiều mơ mộng: 
Là trẻ thơ tôi đổi thay 
Nhiều giấc mộng 
Nhiều sóng biển lắm chân trời 
Mang tấm áo cánh chuồn rách tơi 
Chạy căng phồng gió ngược 
(Trẻ con ở Sơn Mỹ) 
Ở đó, những đứa trẻ chân trần chạy hồn nhiên trên cát với những trò chơi thơ dại, tung bọt sóng cười vang trên mặt biển. 
Giống như đất liền, biển là không gian sống, không gian văn hóa của biết bao người. Khi xa biển, chắc chắn trong lòng người sẽ không khỏi bâng khuâng, bởi đơn giản, biển đã trở thành quê hương. Trong không gian sống ấy, biển hiện thân cho nỗi nhớ, là tình yêu vô bờ của chàng trai đối với người con gái nước mặn: 
Bây giờ trên ngực em muối trắng đọng thành dòng 
Sữa của biển mùi oi nồng âu yếm 
Tay em mở muôn ngàn trang sóng 
Cát dàng dàng… anh là cát của em thôi 
(Những người đi tới biển)  
Câu ca dao mang vị oi nồng của biển đã chứng minh cho tình yêu đôi lứa: Ngó ra thấy cát dàng dàng/ cát bao nhiêu hạt dạ em thương chàng bấy nhiêu. 
Biển gắn bó với mỗi người, mỗi nhà. Biển trở thành một đối tượng thân thuộc, để tác giả cất lên tiếng gọi trìu mến. Đặc biệt là khi kết hợp với từ ơi: 
Biển ơi 
Người mê hoặc tôi bằng ngọn sóng thiếu nữ 
Những đường cong chói sáng 
Tự xóa bỏ mình… 
Hay chỉ là một tiếng gọi, một câu nói thân thương: 
Biển ơi biển ơi biển ơi… 
Như vậy, Thanh Thảo đã viết về biển bằng tất cả tình cảm của mình. Biển hiện lên trong thơ ông tự nhiên, gần gũi nhất. Có lẽ đây vừa là cái duyên, vừa là cái nợ của ông với mảnh đất vùng đất duyên hải này, mảnh đất Quảng Ngãi quê hương ông. 
2.2.2. Biển hiện thân cho nỗi khó nhọc của con người 
Biển thân thuộc, gần gũi là thế nhưng trong sâu thẳm nỗi lòng của những người con đất Việt, biển còn là hiện thân của bao nỗi khó khăn, nhọc nhằn ở đời. Trong ký ức người Việt hiện lên hình ảnh của một vùng quê đầy cơ cực. Ở nơi đó, những nóc nhà mất hút:
Người già nhớ vùng quê hao gầy 
Đất vặn xoắn giữa hai triền núi biển 
Bão phủ đầu người ở xa mới đến 
Mưa sầm sập mưa lê thê giận dỗi oán hờn 
Đá lở rền vang vùi giấc ngủ 
Những nóc nhà mất hút 
(Những nghĩa sĩ Cần Giuộc) 
Đó còn là nơi mà sự sống được đánh đổi bằng cả tính mạng. Con người vật lộn từng ngày với thiên nhiên. Ở nơi ấy dấu ấn của chiến tranh còn đậm nét, những trái mìn còn nổ sau chiến tranh: 
Mấy gàu mồ hôi đổi một củ khoai 
Máu đỏ thẫm lấn từng thước cát 
Trẻ lên bảy lên năm đã mang nặng đầy ký ức 
Những trái mìn còn nổ sau chiến tranh 
(Những người đi tới biển)  
Những năm tháng chiến tranh đầy gian khổ, đồng bào ta hướng về biển với nỗi khao khát muối cháy bỏng. Với một quốc gia biển nhiều hơn đất liền như nước ta, thiếu muối trở thành một nỗi đau không gì bù đắp được. Khi đồng bào ta chia nhau từng hạt muối cắn đôi, biển đã hiện lên như một nỗi khao khát: 
Anh đã đi qua heo hút những buôn làng 
Trẻ con khát muối hơn chúng mình khát nước 
Những người già trong buổi chiều tắt lửa 
Bàn tay khô gầy vốc từng nắm tàn tro 
Nhìn mắt họ xói qua những dãy núi mây mù… 
(Những người đi tới biển) 
Cuộc kháng chiến chống Mỹ hào hùng nhưng đầy gian khổ của nhân dân ta cũng được biển chứng kiến tất cả. Đó là hình ảnh của làng Tư Cung, nơi diễn ra vụ thảm sát 504 thường dân vô tội của đế quốc Mỹ vào ngày 16 tháng 3 năm 1968. Bọn giặc xả súng vào bất cứ cái gì chuyển động, đốt sạch những gì đứng yên. Ở nơi đó, những người mẹ khó nhọc, rặn đẻ trong đường hầm. Phút giây chào đời của những đứa bé cũng không được bình yên: 
Giờ đây 
Mẹ rặn đẻ trong đường hầm 
Chìm sâu dưới nền nhà mười thước 
Biển thắt ruột trời xanh nín thở 
Vách hầm trán mẹ mướt mồ hôi 
(Trẻ con ở Sơn Mỹ) 
Nơi đó, không cuộc đời nào còn yên tĩnh, những tâm hồn ngây thơ bị vùi lấp: 
Cùng với thủy triều 
Nơi đây tiếp liền trảng cát 
Đã vùi sâu những cặp mắt trong veo… 
(Trẻ con ở Sơn Mỹ) 
Những ngọn sóng trắng xóa, ngày đêm vỗ bờ không ngừng còn làm cho lòng mẹ “dậy sóng”. Trong trường ca Chân đất, Thanh Thảo ví mỗi làn sóng như một dải khăn tang. Nhìn thấy biển với những con sóng xô bờ, lòng người mẹ lại quặn thắt. Nhìn về biển để nhận rõ hơn biết bao mất mát, hy sinh của dân tộc. Nhìn về biển để chúng ta thấy nỗi đau ấy vẫn chưa nguôi. Bao chua sót, mất mát, hy sinh đều đọng lại trên mái đầu của mẹ:  
Con nào biết mẹ bạc đầu vì biển 
Mỗi làn sóng như một dải khăn tang 
Con nào biết mẹ đau vì biển 
Đau vì thiếu biển 
Đau vì thừa biển 
Đau vì biển thiếu con mình 
Đau vì biển thừa hy sinh 
Ở nơi đó, cuộc sống không hề dễ dàng. Những đứa trẻ gầy nhom, phơi ra từng dẻ xương sườn. Dù hòa bình nhưng chứng tích chiến tranh thì còn mãi: Những mộ gió những hình nhân phơ phất... Những phận người bó chiếu giữa mênh mông (Chân đất). Nhưng trong không gian ấy, con người vẫn kiên nhẫn vươn lên dù khó khăn, dù vất vả: 
Gạt ra ngoài đám bọt bèo giặc giã 
Đối đầu biển mênh mông cuồng nộ 
Đất lầm lì chuyển động trong đêm 
Những cây giá toàn thân hóa đá 
(Trẻ con ở Sơn Mỹ) 
Chiến tranh đã khiến bao gia đình ly tán, bao người khốn khổ. Biển với không gian rộng lớn của mình dường như không chứa hết được những khó khăn, nhọc nhằn ấy, để rồi từ đây không cuộc đời nào yên nghỉ/ muối mặn đắng mặt trời gay gắt. Biển trong trường ca Thanh Thảo không còn vẻ bình yên nữa mà đã “dậy sóng”. Biển hiện thân cho biết bao nỗi khó khăn, vất vả ở đời nhưng nhờ có những “thử thách” đó mà con người càng ngày càng vững vàng hơn. Đứng trước những thử thách đó, con người càng phải cố gắng vượt qua, dù phía trước chân trời mù mịt: 
Bãi cát bãi cát dài 
Dù phía trước chân trời mù mịt 
Dù bước chân dẫn về cõi chết 
Không thể không đi 
(Đêm trên cát) 
2.2.3. Biển - triết lý về sức mạnh của nhân dâ
Biển luôn có trong tâm thức của mỗi người, mỗi nhà với nhiều tình cảm. Tuy nhiên, biển trong trường ca Thanh Thảo không chỉ đơn thuần mang ý nghĩa đó mà biển trong trường ca của ông còn tiềm ẩn sức mạnh, ý chí của nhân dân.  
2.2.3.1. Hành trình đi tới biển 

“Theo ý kiến của Chu Văn Sơn: Trong các nhà thơ kháng chiến chống Mỹ, Thu Bồn là người hùng về trường ca với số lượng lớn và sức vạm vỡ của nó. Nhưng Thanh Thảo mới thực là ông vua trường ca. Nhìn chung, các sáng tác của ông giai đoạn này vẫn hướng về vùng hiện thực mà văn học cả thời đại quan tâm: hiện thực chiến tranh cùng với những vấn đề nhân sinh được đặt ra trong đó. Tuy nhiên, điều mà Thanh Thảo không nhoà lẫn với bất cứ một nhà thơ nào là cách phản ánh hiện thực với một cái nhìn, một giọng điệu rất riêng. Là một người nghĩa khí, trung thực, yêu thiết tha quê hương đất nước và quý trọng vô ngần mạng sống của nhân dân, của đồng đội mình, Thanh Thảo đã chọn cho mình một giọng thơ trữ tình đằm thắm, giàu “chất thực” và “chất nghĩ” (Chu Văn Sơn). Thơ Thanh Thảo giàu chất suy tư, chất triết lí và rất trí tuệ. Nói như Thiếu Mai: Thơ Thanh Thảo có dáng riêng. Đọc anh, dù chỉ mới một lần, thấy ngay dáng ấy… Thơ Thanh Thảo có khả năng gợi dậy những suy nghĩ của người đọc bởi vì thơ ấy là thơ của một tâm hồn giàu suy tưởng, giàu trí tuệ” [79]. 
Đi dọc theo các sáng tác của nhà thơ thì câu nhận xét trên hoàn toàn có lý. Không phải ngẫu nhiên mà ở trường ca đầu tiên tác giả lại đặt tên là Những người đi tới biển. Phải hiểu và yêu biển nhà thơ mới có được sự so sánh đầy ý nghĩa khi nói về hành trình đi tới thành công của những người lính trong kháng chiến chống Mỹ cũng giống như hành trình tới biển. 
Hành trình đi tới biển là cuộc hành trình đầy cam go và mất mát. Những người lính ra đi khi mái đầu còn xanh, trải qua những năm tháng khốc liệt nhất cùng núi rừng, về tới biển là về với chiến thắng, cất cao lên khúc ca khải hoàn: 
Giờ anh về với biển 
Ngọn sóng gào từ xa bỗng phủ trắng chân mình 
Anh ngấm muối toàn thân 
Anh dầm trong gió dầm trong nắng 
Câu ca dao vị mùa thu đầm đậm 
Những con còng vẽ ngoằn ngèo trên cát 
Những dấu hiệu hồn nhiên gửi đến đất trời. 
(Những người đi tới biển)
Thế nhưng, biển ồn ào nhưng cũng có lúc lặng lẽ, biển dữ dội nhưng cũng có lúc dịu êm, về tới biển cũng là lúc chúng ta lặng hơn một chút để nhìn rõ sự mất mát hy sinh. Hòa mình vào biển cả, con người cảm nhận được sự hy sinh của biết bao thế hệ: 
Nếu không có các anh 
Ngã xuống như muôn ngàn đợt sóng 
Hóa những chiếc neo cắm sâu lòng biển 
Đất nước này sẽ trôi dạt về đâu. 
(Những nghĩa sĩ Cần Giuộc) 
Cuộc hành trình đã có điểm dừng nhưng chưa hẳn là kết thúc. Về với biển chưa phải là hoàn toàn yên nghỉ mà đó mới chỉ là nơi bắt đầu: 
Những dòng sông băng qua những vết thương 
Về với biển đâu phải tìm yên nghỉ 
Tới cửa sông là bắt đầu sóng gió 
Những cây giá xoay trần ngâm nước giữ phù sa 
(Những người đi tới biển) 
Vẫn viết về đề tài chiến tranh nhưng trường ca Thanh Thảo đã bớt miêu tả không khí hào hùng của dân tộc bằng cảm hứng ngợi ca mà đi vào những số phận, những con người riêng. Bên cạnh đó đào sâu sự kiện bằng giọng điệu suy tư, triết lý. Đây cũng là giọng điệu chung của nền văn học hậu chiến sau 1975. Qua hình ảnh “những người đi tới biển” nhà thơ xây dựng nên những con người tự ý thức- tự ý thức về bản thân về Tổ quốc, về nhiệm vụ trước mắt. Những người đi tới biển cũng là một nhan đề đậm chất triết lý. Đi tới biển là con đường đi đến chiến thắng, là ngày ca lên khúc ca khải hoàn. Nhưng khi đã về đến đích rồi, những người đi tới biển chưa dừng lại. Bởi tới biển chưa phải là nới kết thúc. Chiến tranh đã chấm dứt, hòa bình đã về nhưng vẫn còn đó nhiều nỗi lo. Còn đó nhiều khó khăn, nhiều trở ngại mới. Chúng mang trong mình một dạng thức mới, một hình hài mới mà người lính từ rừng về biển phải tỉnh táo đương đầu. “Những dòng sông băng qua những vết thương/ về với biển đâu phải tìm yên nghỉ”. Với những câu thơ đậm tính triết luận, nhà thơ Thanh Thảo làm cho người đọc trường ca của ông phải suy nghĩ nhiều hơn. Khúc vĩ thanh Tới biển tưởng chừng là khúc ca cuối, kết thúc bản trường ca, nhưng nó lại mở ra một chiều kích mới, bao la, rộng lớn như biển cả. 
Hành trình đi tới biển là một cuộc hành trình về với nhân dân, hòa vào nhân dân trong một hành trình lịch sử (vốn khởi sự từ quá khứ và còn tiếp diễn đến tương lai). Những người đó là một thế hệ mới, cùng thế hệ với nhà thơ, đi tới một không gian, tươi mới hơn, rộng mở hơn và chắc chắn có nhiều lạ lẫm, khó khăn hơn, nhiều thử thách mới… Theo nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân “đi tới” ở đây là một hành động tự ý thức - tự ý thức bằng một hành động lịch sử của cả thế hệ: đem xương máu bảo vệ Tổ quốc [6,20]. 
Hành trình đi tới biển là một cuộc hành trình hòa với nhân dân. Đó là chủ đề xuyên suốt mà nhà thơ Thanh Thảo nhắc đến bằng những hình ảnh của biển cả trong nhiều tác phẩm: Những người đi tới biển: Hạt muối nhỏ ngây thơ thuần khiết 
Nó sung sướng được hòa trong sóng nước 
Trẻ con ở Sơn Mỹ: 
Tôi lại bắt gặp chân trời ngay trên cát 
Cả người tôi hòa trong biển vô cùng 
Những nghĩa sĩ Cần Giuộc: 
Đứng trước người tôi chỉ là đứa trẻ 
Mỉm cười dút dát 
Như e sợ ngọn sóng kia vùi dập 
Cho tới khi tôi hòa nhập cùng người... 
Đứng trước biển con người như đối mặt với chính cuộc đời của mình. Có một chút e dè, sợ hãi nhưng người lính trong cuộc hành trình về với biển sẵn sàng dấn thân vào biển đời như hạt muối hòa trong sóng nước. Hạt muối nhỏ nhoi nhưng không hề đơn độc, không hề vô giá trị: 
Khi đó tôi thành hạt muối nhỏ nhoi 
Đọng mặt trời tan trong nước 
Đi lại dễ dàng giữa hai bờ sống chết 
Lấp lánh lặng im ca hát mặn mòi… 
(Những nghĩa sĩ Cần Giuộc) 
Những hạt muối ngây thơ thuần khiết làm cho cuộc sống thêm đủ đầy. Hạt muối nhỏ cũng góp phần khiến cho biển mặn. Con người cũng như vậy, dấn thân vào biển đời với một tinh thần sẵn sàng cống hiến, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc. Điều đó đã khiến cho vẻ đẹp của người lính trong hành trình đi tới biển bỗng rạng rỡ hẳn lên. 
Tìm về với biển để được tan mình ra như con sóng vô minh, để được làm chính con người mình: tự do, tự tại với đất trời, với biển bao la. Sóng biển cứ mãi xô bờ, vòng tuần hoàn ấy không bao giờ ngừng lại, tới biển rồi không phải là đến lúc nghỉ ngơi, bởi cuộc sống luôn luôn tươi mới, vẫy gọi ta không ngừng: 
Khi triều lên sóng gào giọng khàn khàn 
Trên bãi cát những con còng hoảng sợ 
Đó là giờ lao xao hàng dương non 
Bức thành xanh ngày mai ngăn gió cát 
Hát lên nhờ gió cát 
Sóng đất chìm từng đợt lấn ra khơi. 
(Trẻ con ở Sơn Mỹ) 
Khí chất của dải đất miền Trung với gió, cát, bão, lốc; với cái gầm gào nhưng có lúc lặng lẽ của biển làm cho thơ Thanh Thảo mang một vị rất riêng. Hành trình đi tới biển là một cuộc hành trình dài đầy triết lý. Trường ca của nhà thơ Thanh Thảo vì vậy cũng đậm chất triết lý. Và điều đó có thể thâu tóm lại trong hai câu thơ: Đừng nghĩ nước chảy xuôi là buông trôi tất cả/ mỗi dòng sông đều vật vã đến bạc đầu. Quả đúng là như vậy, bởi cuộc sống là không ngừng và những người đi tới biển không dừng lại ở đó. 
2.2.3.2. Sóng - sức mạnh bùng nổ của nhân dân 
Biển luôn thể hiện tâm trạng của mình bằng ngọn sóng. Nhà thơ Thanh Thảo cũng nêu bật lên sức mạnh của quần chúng nhân dân bằng con sóng. Con sóng không hề đơn độc mà có những con sóng, những đợt sóng, muôn đợt sóng, ngàn con sóng, lớp lớp sóng… Những con sóng ấy ngày ngày vỗ bờ, không bao giờ ngơi nghỉ ví như sức mạnh của nhân dân. Sức mạnh ấy cũng không bao giờ ngừng: Những cuộc đời như sóng/ lớp lớp lặng chìm lớp lớp trào lên hay lớp người sau sẽ đến/ những ngọn sóng trong đêm. Từ những anh hùng từ thuở xa xưa như Nguyễn Trung Trực, Cao Bá Quát, Trương Định, Nguyễn Đình Chiểu đến những người dân đi kháng chiến với tên gọi anh Sáu Như, anh Tư Tròn, anh Ba Tốt, cậu Tám Hùng; những người nghĩa sĩ Cần Giuộc, những du kích Ba Tơ… được Thanh Thảo dựng lên như ngàn ngàn lớp sóng, nối tiếp nhau đến không ngừng. Lớp người này ngã xuống đã có lớp người khác đứng lên, chiến đấu cho quê hương, Tổ quốc: 
Đã bao lần xuống biển lên trời rồi trở lại 
Đã cháy khô tới gọt cuối cùng 
Mà trong như thể trong nguồn 
Tràn trề như thể chưa từng cạn vơi 
Dò tận đáy cũng xong thôi 
Nhưng vô ích. 
Sóng đời nào yên 
Ngàn con sóng chết cuối đêm 
Sinh ngàn con sóng trước thềm rạng đông 
Đẩy thuyền lật thuyền dễ không 
Mát mềm mài đá đá mòn thấu xương 
(Những nghĩa sĩ Cần Giuộc) 
Sóng còn biểu hiện cho sức mạnh bùng nổ dữ dội của nhân dân trước kẻ thù xâm lược, giống như những ngọn sóng thần có khả năng cuốn trôi tất cả: bao nhiêu rác rưởi/ sóng thần cuốn phăng. Khi viết về những con sóng, nhà thơ Thanh Thảo đã gắn lên mình con sóng những tính chất đầy sáng tạo. Đó là những ngọn sóng thiếu nữ, ngọn sóng bình minh, sóng đời, sóng đen hào hển, ngọn sóng mặt trời… Những ngọn sóng đó là những ngọn sóng của lòng quyết tâm, ý chí nung nấu, sức mạnh thiêu đốt kẻ thù của quần chúng nhân dân: 
Không ngập ngừng 
Từ biển và từ núi 
Những ngọn sóng mặt trời… 
Những ngọn sóng cuộn lên bờ đời sống 
Chói chang ánh mặt trời 
(Bùng nổ mùa xuân) 
Khi biển đã nhập vào tâm thức thì cho dù ở đâu, bất kỳ ở hoàn cảnh nào, hễ khi thơ tuôn ra là tất có hơi hớm của sóng, gió, bão, giông và cả loài hoa vùng biển. Lời tâm sự của cụ Đồ Chiểu với thầy Kỳ Nhân Sư rực sắc hoa xương rồng trên cát: Một đời thầy cay cực và kiên trì chiến đấu rút ra một điều như cây xương rồng mọc trên cát người ta có thể sống được nơi tưởng chừng cạn nước mà vẫn lặng lẽ nở hoa. Gió cuốn những bông hoa trên cát gió cuốn chúng ta chuyến đi sẽ dài và sóng biển âm vang như không hề tham dự vào số phận con người (Trò chuyện với nhân vật của mình). 
Trong trường ca Chân đất nhà thơ mới hoàn thành trong thời gian gần đây (năm 2011), vấn đề biển đảo được đề cập đến một cách sâu sắc và toàn diện. Biển, đảo là nhân dân, là Tổ quốc, vì vậy giữ gìn biển đảo quê hương là một nhiệm vụ khẩn thiết hơn bao giờ hết. Hai câu thơ: 
Không thể sống thiếu Hoàng Sa 
Không thể sống thiếu biển 
(Chân đất)  
Như một lời tuyên ngôn, là kim chỉ nam cho biết bao trái tim yêu nước Việt Nam đi đúng hướng. Nhà thơ cũng đưa ra những suy nghĩ của mình về vấn đề biển đảo bằng những câu thơ lên án thói “đạo đức giả” một cách mạnh mẽ: 
Anh yêu biển mà không biết bơi 
Anh yêu biển mà đứng trên bờ 
(Chân đất) 

Bằng duyên nợ với biển, nhà thơ Thanh Thảo đã viết nên những trang trường ca đầy sức sống và mang một phong cách rất riêng. Biển đối với ông là quê hương nguồn cội với nhiều sóng biển, lắm chân trời. Biển còn hiện lên trong kí ức tuổi thơ hồn nhiên, qua tình mẫu tử thiêng liêng và cả tình yêu đôi lứa. Biển còn là hiện thân của biết bao nỗi khó khăn, cực khổ của cuộc đời. Nhắc đến biển, ta có cảm giác vừa thương vừa đau, bởi nơi đó thấm đẫm bao máu xương và nước mắt của đồng bào. Tuy nhiên nhà thơ Thanh Thảo viết về biển không phải bằng những dòng thơ bi lụy, kể lể dài dòng mà ánh lên niềm tin về một tương lai tốt đẹp. Những người lính tiến ra biển, bắt đầu một cuộc hành trình mới. Đó là cuộc hành trình hướng tới quảng đại quần chúng nhân dân. Biển và các hình ảnh liên quan đến biển như gió, sóng, cát... còn biểu trưng cho sức mạnh của nhân dân. Đó là một sức mạnh to lớn không gì có thể ngăn cản được. 
2.3. Biển trong trường ca Hữu Thỉnh 
2.3.1. Từ trường ca “Đường tới thành phố” đến “Trường ca Biển”, người lính tiếp tục cống hiến với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo của dân tộc 
Chặng đường sáng tác của nhà thơ Hữu Thỉnh đi theo hai nhiệm vụ cơ bản, một là các đề tài viết về nhiệm vụ giải phóng Tổ quốc và hai là đề tài biển đảo với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Hai đề tài ấy xuất hiện xuyên suốt trong các sáng tác của nhà thơ. Hiểu như vậy có nghĩa, Trường ca Biển chính là mạch cảm hứng tiếp theo từ trường ca Đường tới thành phố. Từ con đường giải phóng dân tộc, người lính tiếp tục cống hiến với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo của dân tộc. 
Là một người con của vùng đất trung du nhưng biển đảo vẫn canh cánh trong tâm trí nhà thơ Hữu Thỉnh. Theo lời kể của nhà thơ, ông đã từng đi qua nhiều vùng biển khác nhau như biển Quảng Bình, biển Sầm Sơn, các vùng biển ở phía Đông Bắc… Những năm 1980, 1981 ông đã sống ở Bạch Long Vĩ và các đảo ở Quảng Ninh. Khoảng thời gian sống và giao lưu với các chiến sĩ bộ đội ở Bạch Long Vĩ để lại nhiều cảm hứng trong lòng nhà thơ để rồi nhiều bài thơ về biển đảo ra đời, đầy ắp hương vị biển cả. 
Trường ca là một thể loại Hữu Thỉnh viết rất tốt. Nếu Thanh Thảo, Thu Bồn với số lượng trường ca đồ sộ được độc giả đánh giá cao thì trường ca của Hữu Thỉnh cũng có một vị trí rất riêng. “Hữu Thỉnh đã thành công trong việc khái quát tổng hợp về một giai đoạn lịch sử, về nhiều mặt đời sống, về thế giới khách quan rộng lớn và chiều sâu tâm lý của con người… Vì vậy mà trường ca của Hữu Thỉnh là một dấu ấn nổi bật trong sự nghiệp sáng tác của ông. Chính những bản trường ca này đã khẳng định tư duy khái quát, đồng thời cũng nói lên được tầm vóc của nhà thơ không chỉ dừng lại ở cái tôi cá nhân mà còn được thể hiện trong cái chung của cộng đồng, của cả một dân tộc” [20,65]. 
Nếu trường ca Đường tới thành phố là bức tranh tổng quát về con đường chiến đấu giành độc lập của dân tộc với bao mất mát hy sinh thì ở Trường ca Biển, những trăn trở của người lính được Hữu Thỉnh nâng lên thêm một bậc, nâng lên ở tầng triết lý. Người lính đối thoại với biển cũng chính là đối thoại với bản thân mình. Chặng đường khó khăn còn ở phía trước. Dù đất nước đã hòa bình nhưng không vì vậy mà người lính được phép buông xuôi. “Đó là một bản trường ca gần 1000 câu lại một lần nữa được Hữu Thỉnh dồn sức thổi vào trong đó những tâm trạng, những suy nghĩ, những dự cảm, những day dứt khôn nguôi của chính nhà thơ về cuộc sống, về hạnh phúc, về thân phận con người… trước cuộc đời đầy vất vả, lo toan, với những cám dỗ, bươn trải hằng ngày của cuộc sống thời bình nhưng chắc gì đã ít khốc liệt hơn những năm tháng chiến tranh” [20,70]. 
Ngay từ những năm trước giải phóng, vấn đề biển đảo luôn thường trực trong những sáng tác của ông. Trong trường ca Đường tới thành phố, ở chương cuối, khúc vĩ thanh Hồi âm nhà thơ đã viết những vấn đề rất nóng về biển đảo. Tiếp sau đó, với thi pháp đối thoại với biển khá độc đáo, nhà thơ đã viết nên tác phẩm Trường ca Biển mang phong cách rất riêng, rất Hữu Thỉnh. Trong những vấn đề thuộc đội ngũ, có nhược điểm căn tính của người Việt là nhạt biển, xa rừng như nhà văn hóa TS Ngô Đức Thịnh đã chỉ ra. Và Hữu Thỉnh là nhà thơ nhiều âu lo về căn tính ấy, ông như các sĩ phu tiền nhân, lo trước cái lo của thiên hạ; ông trở thành tham mưu trưởng trên mặt trận văn học. Chiến lược của ông là quê hương hóa biển khơi, kéo biển gần lại với mỗi con người [77]. Cùng với sự xuất hiện của sóng, biển và các hình ảnh liên quan đến biển bờ như gió, cát, bão, lốc… khiến cho những trang trường ca của ông mang phong vị mằn mặn của gió nắng, dạt dào của sóng vỗ và mênh mông tha thiết, có lúc lắng dịu của biển cả. 
2.3.2. Biển - một không gian sống và chiến đấu mới 
Sau khi đánh đuổi đế quốc Mỹ khỏi đất nước, dân tộc ta vẫn còn gặp muôn vàn khó khăn. 
Mặc dù Bắc - Nam sum họp một nhà nhưng chúng ta vẫn phải đối mặt với tiếng súng ở hai đầu biên giới phía Bắc và biên giới Tây Nam. Người lính biển, người lính đảo dù còn lạ lẫm nhưng đã chứng tỏ được ý chí sức mạnh của mình trước thiên nhiên, và hơn hết là trước kẻ thù. Điểm qua kho tàng thơ ca của dân tộc ta, đề tài viết về người lính bảo vệ biên cương có khá nhiều nhưng đề tài viết về người lính bảo vệ biển đảo dường như rất ít. Trường ca Biển đã phác họa chân dung người lính biển, người lính đảo một cách chân thực nhất. 
Mấy chục năm chiến đấu với kẻ thù, có lẽ người lính đã đi hết tất cả ngọn đồi, con dốc, đã vượt dãy Trường Sơn, đã vượt qua biết bao cánh rừng… Dù rừng sâu, núi thẳm nhưng họ đều đã nếm trải và vượt qua tất cả. Họ coi núi rừng thân thuộc như ở nhà, thậm chí khi xa cái không gian ấy thì lại nhớ. Nhà thơ Quang Dũng đã từng thi vị: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi 
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi 
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi 
Mường Lát hoa về trong đêm hơi… 
(Tây Tiến) 
Thế nhưng với biển thì lại hoàn toàn khác. Với biển, đây là lần gặp mặt đầu tiên. Cả một chặng đường dài đôi chân đã quen với trèo đèo, lội suối, đã quen băng rừng, chạm mình với cây lá thì với biển, người lính trở nên e dè. Trước mắt không thấy gì khác ngoài bọt tung trắng xóa, sóng vỗ ì ầm, mênh mông sóng nước đến tận chân trời. Cái lần đầu tiên ấy không khỏi e dè: Hôm nay tôi thấy biển lần đầu. 
Đối với người lính, cái bao la rợn ngợp của biển làm cho họ không khỏi cảm thấy bất an. Những kinh nghiệm họ có được ở rừng núi, ở đất liền đều phải bỏ lại hết ở trên bờ. Đến với biển họ hoàn toàn “trắng tay”, hoàn toàn lạ lẫm. Và họ phải học lại tất cả. Nhưng để có kinh nghiệm sống ở biển, những người lính đã phải học từ sự mất mát, hy sinh của người đi trước: 
Cấm đi câu đi tắm một mình 
Xuống nước phải mang theo dao găm 
Lũ cá he hay bổ từ trên xuống 
Cấm bơi ra miệng vực 
Ở đấy nhiều sóng ngầm nhiều cá mập 
Và nếu chẳng may 
Nhất thiết phải bơi đứng 
Cá mập không quen săn mồi thẳng 
Không được lệnh quân y 
Cấm ăn một thứ gì lạ 
(Trường ca Biển) 
Có khi họ phải trả những cái giá quá đắt. Đó là sự hy sinh đột ngột của đồng đội bởi những hiểm họa không lường trước được từ biển: Bạn tôi đang thổi sáo sau hầm 
Bỗng ngừng bặt 
Giữa chừng réo rắt 
Chúng tôi chạy ra 
Chấp chới cánh tay ngoài năm sải nước 
Tiểu đội xếp hàng chuyển gạo 
Sóng lườn quanh thân 
Bỗng 
Một tiếng thét 
Một vũng máu 
Một khoảng trống 
Tôi gào lên Im ắng rợn người 
Tìm qua sóng 
Gặp đàn cá mập 
Rong rêu nhiều 
Mà mất bạn 
Bạn ơi! 
(Trường ca biển) 
Cái âm điệu dứt khoát của câu thơ: bỗng - một tiếng thét - một vũng máu nghe thật bàng hoàng. Chỉ chừng ấy thôi cũng đủ để diễn tả hết sự khốc liệt ở không gian sống và chiến đấu ấy! Và khi biển động, bão tố nổi lên, sức mạnh của thiên nhiên không khỏi khiến cho người lính rợn ngợp:  
Bão vò cây gào rít điên cuồng 
Tóc của bão là lá cây rách tướp 
Tay của bão là sóng thần rợn ngợp 
Cả đất trời say sóng ở Trường Sa 
(Trường ca Biển) 
Chống chọi với những hiểm nguy hữu hình từ biển dù sao còn dễ chịu hơn khi phải đối mặt với những hiểm nguy vô hình. Đó chính là không gian trống trải, là sự đơn độc bởi ngoài mây trời và biển, người lính chẳng còn thấy gì khác: 
Đảo nhỏ quá nói một câu là hết 
Có gì đâu chỉ cát với chim thôi 
Cát và chim và thêm nữa chúng tôi 
Âm điệu ì oạp của những con sóng và sự cô đơn lạ lẫm ở môi trường mới càng dễ làm cho người lính đảo chán nản và không tránh khỏi những giây phút bấp bênh giữa ý chí và khao khát cá nhân. Người lính đảo phải tự tạo cho mình một thứ âm thanh nào đó đơn giản chỉ để nghe cho bớt trống trải, cô đơn: 
Đôi khi phải gõ vào một cái gì đó 
Để biết đảo có người 
Đôi khi phải hát ê a vô nghĩa lý 
Nhắc biển ta còn đây 
Đôi khi nghe tiếng sét trong đài 
Thấy trời đang gõ cửa 
Đôi khi tối đèn tắt lửa 
Ta bỗng dưng thành hàng xóm của ta. 
(Trường ca Biển) 
Và hơn hết là nỗi nhớ nhà. Đến với biển người lính phải tạm thời rời xa những gì thân thuộc của mình. So với sống ở rừng thì việc sống ở biển vắng lặng hơn rất nhiều. Không gian ấy dễ khiến cho người lính cảm thấy tủi thân, khiến cho nỗi nhớ nhà trong họ day dứt khôn nguôi. 
Lần đầu đến với biển, tất cả âm thanh, màu sắc lẫn những âm điệu từ biển khiến cho người lính e dè. Họ là những người lính thời bình, tiếp tục nhiệm vụ sau nhiều năm chiến đấu ở rừng. Biển thì mênh mông sóng nước mà đảo lại quá bé nhỏ. Đôi chân của những người lính đã quen với hạt đất thì họ lại càng xa lạ với không gian này. Tuy vậy, đây vẫn là môi trường sống và chiến đấu của họ. Dẫu môi trường sống và chiến đấu này đầy xa lạ và hiểm nguy nhưng những người lính biển, người lính đảo vẫn không đầu hàng, vẫn kiên quyết bám biển. Dẫu tình cảm cá nhân xâm chiếm thì họ vẫn cố gắng đè nén lại để tiếp tục nhiệm vụ thiêng liêng của mình. Đối diện với biển, con người như đối diện với chính lòng mình. Phải vượt qua những khao khát thường nhật họ mới có thể vững vàng trước biển được. 2.3.3. Ý chí người lính đảo 
Người lính sau mấy chục năm cầm súng chiến đấu với kẻ thù giải phóng dân tộc lại tiếp tục cầm súng với nhiệm vụ canh giữ biển đảo. Nhưng môi trường sống và chiến đấu ở đây quá đơn điệu khiến cho người lính cảm thấy nản lòng. Trong họ, khoảng trống của những khát khao, mong muốn một cuộc sống thường nhật với gia đình lúc nào cũng chực len lỏi vào tâm trí. Chỉ cần một chút mềm lòng, cái khoảng trống lạnh tanh, vô nghĩa ấy sẽ đè bẹp ý chí người lính đảo. Nhưng họ, những người lính đảo đã không đầu hàng. Tinh thần trách nhiệm với quê hương, Tổ quốc đã nâng đỡ họ, khiến cho họ vững vàng trước mọi cám dỗ. Và phải bản lĩnh và nghị lực lắm, họ mới làm được như thế. Khi xã hội đương thời đầy rẫy những con người hám danh, chạy theo phù phiếm thì những phẩm chất ấy của người lính đảo lại càng đáng khâm phục và trân trọng: 

Chúng tôi là lính đảo thời bình 
Phải gồng mình cả khi yên tĩnh nhất 
Để chống lại cái khoảng trống kia 
Cái khoảng trống chực len vào đồng đội 
Chực len vào giữa bạn và tôi 
Cái khoảng trống lạnh tanh vô nghĩa 
Có ngay trong chính bản thân mình 
(Trường ca Biển) 
Những người lính nghiêm mình với nhiệm vụ canh giữ biển đảo quê hương. Trong họ trào lên bao nỗi niềm tâm sự nhưng họ cố nén lại. Phải có một tình yêu quê hương đất nước dạt dào thì người lính biển đảo mới vững vàng đến như vậy. Để chống chọi với cái khoảng trống ấy, người lính đảo đã hướng suy nghĩ của mình vào những kỷ niệm, những tình cảm tốt đẹp của mình với biển đảo. Ở phía biển, người lính vẫn còn đó bao nhiêu là kỷ niệm, có khi, chỉ đơn giản là tiếng bà con gọi cái tên ngày bé của mình: 
Anh đã khóc chỉ vì không sao cả 
Nghe bà con gọi đích tên anh 
Cái tên trèo dừa đánh đu với gió 
Cái tên đuổi còng mí biển hát lang thang 
(Đường tới thành phố) 
Hơn nữa trên mỗi đảo đá, trên mỗi doi cát đẫm sóng ấy lại có một cột mốc chủ quyền vùng trời, vùng biển của chúng ta. Ở đó còn có những người lính ngã xuống vì đất nước, vì dân tộc: 
Chúng tôi đặt các anh bên cạnh cột mốc chủ quyền 
Gió và gió 
Xóa đi phần mộ các anh nằm 
Chúng tôi lại cùng nhau bới cát 
Chôn các anh thêm lần nữa. 
(Trường ca Biển) 
Biển đã hiện hữu từ rất lâu trong tâm thức người lính. Đó là không gian của tự do, của ngày toàn thắng của dân tộc. Những năm tháng chiến đấu ở rừng, người lính thèm biết bao nhiêu cái khoảng chân trời thênh thang trên biển, để được vẫy vùng, được an nhiên, tự do, tự tại: 
Ta sẽ đùa nhau trên thềm cát 
Chạy như điên cho bõ lúc ở rừng 
Cho bõ lúc nén cơn ho trinh sát 
Ta nói cười cuối biển cũng nghe ta 
(Đường tới thành phố) 
Canh giữ biển đảo, người lính đã ý thức được sự quan trọng của biển. Mất đi chủ quyền biển, đảo, tức là đã mất đi một phần máu thịt của mình. Trong Đường tới thành phố, người lính thà hy sinh tính mạng để bảo vệ từng tấc đất phù sa, dù đó chỉ là một gốc sim cằn, bởi họ hiểu được, khi mất một gốc sim đó quân thù sẽ có đà xông lên chiếm lấy đất nước ta: 
Gốc sim cằn nếu kẻ thù chiếm được 
Chúng làm đà dũi lấy cánh rừng le... 
Trời ơi, nếu kẻ thù chiếm được 
Chỉ một gốc sim thôi dù chỉ gốc sim cằn 
Tổ quốc sẽ ra sao? Tổ quốc?  
Từng tấc đất, dù nhỏ cũng là Tổ quốc của ta. Và như vậy, canh giữ từng cột mốc, từng doi cát biển quê hương tức là những người lính đang giữ gìn Tổ quốc cho tương lai con Hồng cháu Lạc sau này. Biển rình rập bao nguy hiểm, lao ra biển là cầm chắc cái chết, nhưng những người lính sẵn sàng lao ra biển để quay trở về với Tổ quốc. Đối với những người lính, thà chết còn hơn sống xa Tổ quốc yêu thương. Phút giây sinh tử ấy đã nói lên hết tất cả bản lĩnh và nghị lực của người lính biển, người lính đảo: 
Con bỗng nhận ra không phải lá cờ ta 
Không phải mẹ 
Không có cái chết nào nhục nhã hơn là sống không phải mẹ 
Bao hiểm nguy con lại xin bắt đầu 
Con xin lại bắt đầu bằng lời ru trong suốt 
Ra sông lấy sóng mà yêu 
Đường xa gặp núi lấy đèo mà tin 
Con lại lao ra biển 
Một chiếc phao thoi thóp bơi đi 
(Trường ca Biển) 
Phải giữ lấy biển, đảo quê hương. Đó là nhiệm vụ khẩn thiết hơn bao giờ hết để cho đất nước này vươn mãi ra biển lớn: 
Triệu bàn tay dằng dịt ôm bờ 
Ghì lấy từng con tôm con tép 
Ghì lấy dấu chân ai khỏa thượng nguồn 
Cùng tìm về cuối đất 
Nhịp triều thịnh vượng mũi Cà Mau 
(Đường tới thành phố) 
Người lính biển, người lính đảo đêm ngày giáp mặt với sóng nước, canh giữ biển trời. Họ cũng có giây phút khát khao được đoàn tụ gia đình, cùng vợ nuôi con khôn lớn, nhưng nhiệm vụ mà họ đang gánh vác vượt lên trên hết. Đó là cái tình của người lính đối với biển đảo quê hương, là ý chí mạnh mẽ, vững chãi như những con sóng ngày đêm xô bờ. 
2.3.4. Đối thoại với biển - một cuộc đối thoại của nhân cách sống Sau mấy chục năm chiến đấu với kẻ thù, giải phóng dân tộc, người lính lại tiếp tục cầm súng canh giữ biển đảo quê hương. Nhưng khác với rừng, khác với núi, biển hoàn toàn xa lạ. Lần đầu tiên gặp biển, họ không khỏi bối rối, bất an. Đối diện với biển có cảm tưởng như người lính đang đứng trước một chiếc gương khổng lồ. Nó phản chiếu tất thảy cuộc đời cũng như những trăn trở, suy tư của người lính. 
Cuộc sống thời chiến đã nhào nặn nên những người anh hùng sẵn sàng hy sinh vì đất nước. Tình cảm, phẩm chất của họ cao quí và đáng trân trọng. Đó là sự đoàn kết, yêu thương và đùm bọc, sẵn sàng chia nhau bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng. Bước ra khỏi cuộc chiến, những người lính đến với cuộc sống thường ngày cũng bằng chính thái độ đó. Nhưng cuộc sống đâu hoàn toàn tươi đẹp như họ từng suy nghĩ. Họ tưởng, hòa bình ai cũng sống hạnh phúc, ai cũng đều là đồng đội, đối xử tốt đẹp với nhau... nhưng họ đã nhầm. Chiến tranh và hòa bình, cái lằn ranh ấy thì nhỏ mà khoảng cách trong tư tưởng con người lại quá xa xôi: 
Anh cứ tưởng sau chiến tranh thì toàn là hạnh phúc 
Chúng ta đã từng vò võ đợi nhau 
Nhưng không phải em ơi, cuốc kêu không phải thế... 
Tôi cứ tưởng không ai còn xấu nữa 
Tôi cứ tưởng tốt với nhau bao nhiêu cũng còn chưa đủ 
Nhưng không phải, trời ơi, cuốc kêu không phải thế 
(Nghe tiếng cuốc kêu) 

Trở về sau chiến tranh, những người lính thấy băn khoăn trước những đổi thay của đời sống. Và họ cảm thấy lạc lõng trước thời cuộc. Trong họ bao câu hỏi về cuộc sống nhân sinh ùa về. Phải sống và hành động ra sao trước cuộc đời mới. Liệu con người có vượt qua được bản ngã của mình để sống đúng là mình, liệu họ có thực sự hạnh phúc, có thỏa mãn với những gì mình có?... Đó là những câu hỏi rất thực, rất đời, dấy lên nhiều suy nghĩ cho thế hệ người lính thời bấy giờ cũng như cho cả những con người hôm nay. 
Người lính - nhà thơ Thanh Thảo cũng ám ảnh bởi những câu hỏi về hạnh phúc thật sự của con người. Trong trường ca Khối vuông ru -bích, ông viết: Tôi xoay những ô vuông. Làm sao tính toán được hạnh phúc? Anh có thể xoay các ô vuông, tìm các màu sắc nhưng anh hãy chỉ tôi xem: Ô vuông nào cất giữ hạnh phúc, màu sắc nào tượng trưng cho hạnh phúc? Và những người lính cảm thấy chênh vênh trước cuộc đời. Đối diện với biển cả bao la, bao trăn trở, khúc mắc được người lính trải lòng ra với biển. Chương Dốc biển gồm những câu hỏi, câu trả lời đầy tính triết lý. Qua phần đối thoại này, nhiều vấn đề triết lý nhân sinh mở ra, đặc biệt là thái độ của con người nói chung và người lính nói riêng trước trắc trở, bấp bênh của biển đời. 
Hòa bình lập lại, những người lính không chiến đấu với kẻ thù bằng xương bằng thịt mà phải chiến đấu với thứ kẻ thù vô hình, có khi đó là chính bản thân mình. Hòa bình không có nghĩa đất nước hoàn toàn bình an, hoàn toàn trong sạch mà còn đó nhiều mối hiểm nguy do chính bản ngã con người gây ra. 
Và biển hỏi anh chỉ đơn giản điều này: 
Anh có biết bơi không? 
Người lính nói: 
Không phải ai cũng biết bơi. 
Thế mà sao vẫn rất nhiều huơ tay hãnh tiến 
Biển nói: 
Họ đang bơi trên số phận của mình 
Hãnh tiến, tự mãn với bản thân là những căn bệnh nan y mà những người lính trở về sau chiến tranh gặp phải. Những lớp người đó, sau thời bình, họ đã xuất hiện mà chúng ta không hề cảnh giác. Nhà thơ Chế Lan Viên cũng có những câu thơ lên án thói xa hoa mà quyền lực, đồng tiền đã làm tha hóa đạo đức con người: 
Giờ hòa bình tôi vẫn làm thơ - nhặt lá 
Không phải đất nước mình còn chiến tranh nghèo khó 
Mà vì có bao nhiêu thằng đang sống xa hoa 
Vì có bọn người thoái hóa
Khiến cho thắng trận rồi mà vẫn còn nhặt lá - kẻ làm thơ 
(Hốt lá) 
“Những khúc đối thoại này đã làm lộ dần từng phần chủ đề tác giả gửi gắm tâm huyết. Chính ai đó, kẻ hãnh tiến ấy mà tác giả muốn chỉ trích vào những năm cuối thập kỷ 70, đầu 80 đã xuất hiện và họ sẽ thành một lớp người thoái hóa, biến chất mà chúng ta đã không kịp cảnh giác... Có thể nói đây là những câu thơ độc thoại rất ngắn nhưng hàm súc về thông tin đời sống và đúc kết thực tiễn mang tính triết học, mở ra những hướng tư duy cho người đọc tiếp nhận được những chiều không gian biển đảo mà người lính là nhân vật trung tâm vừa là những chiều không gian suy tư tiếp cận hiện thực cuộc sống” [88]. 
Đối thoại với biển, người lính như đang tự đối thoại với chính bản ngã của mình. Cuộc sống là vô tận và người lính phải tự chọn cho mình một con đường đi đúng đắn. Có thể sau chiến tranh, người lính tự cho phép mình sống buông thả một chút để bù đắp cho chặng đường khó khăn, vất vả đã qua. Làm điều đó, người lính có thể đi đến đích dễ dàng nhưng những phẩm chất tốt đẹp xây dựng một thời bỗng chốc tiêu tan. 
Trước một môi trường sống xa lạ và hoàn toàn mới mẻ, người lính phải bỏ lại hết kinh nghiệm sống có từ trước để hòa nhập với biển cả. Tình yêu quê hương đất nước, tinh thần trách nhiệm giúp họ vững vàng hơn trước sóng gió của cuộc đời. Đứng trước biển, trước những khó khăn, cạm bẫy trước mắt, người lính vẫn không hề lùi bước. Thái độ của họ trước biển đời đầy chông gai là một tinh thần sẵn sàng dấn thân, sẵn sàng cống hiến nhưmột - con - tem - người/ dán vào dòng đời. Và đó chính là tư thế kiêu hãnh của người lính thời bình. 
Kết cấu của Trường ca Biển gồm có mười phần: Dốc biển/ Lời sóng 1/ Cát/ Lời sóng 2/ Tự thuật của người lính/ Lời sóng 3/ Đất này/ Lời sóng 4/ Hóa thạch những dòng sông/ Lời sóng 5/ Bão biển. Trong mười phần đó, có đến năm phần lời sóng xen kẽ nhau. Cách sắp xếp như vậy làm cho tác phẩm như một đại dương lớn mà từng lời sóng giống như từng đợt sóng ngoài khơi xô tới, đều đặn, nhịp nhàng. Hết lớp sóng này xô bờ lại có lớp sóng khác nối tiếp. Mỗi lớp sóng xô đến lại bắt gặp những nỗi niềm trân quý của nhà thơ với quê hương, Tổ quốc. Bên cạnh đó, những nỗi niềm, tâm sự của người lính cũng như từng đợt sóng trào dâng. Đặc biệt ở chương Dốc biển, phần đối thoại với biển với nhiều câu hỏi, câu trả lời đầy tính triết lý. Có nhiều nhà nghiên cứu nhận xét, chương Dốc biển là chương dở nhất của nhà thơ, tuy nhiên, người viết dưới góc độ khảo sát tác phẩm qua hình ảnh biển cho rằng, đây là một chương quan trọng và cần thiết. Khi con người lần đầu gặp biển sẽ có nhiều câu hỏi. Biển lạ lẫm nhưng cũng quen thuộc bởi có nguồn nguyên thủy là nước. Cuộc đối thoại của người lính với biển là cuộc đối thoại của nhân cách sống, của những giá trị tốt đẹp của cuộc sống. Đối diện với biển đời đầy chông gai, những người lính phải tôi luyện cho mình một tinh thần, ý chí vững vàng, một trái tim kiên định để có thể vượt biển an toàn. Đề cao vai trò của biển đảo cũng như muốn truyền ngọn lửa xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển đảo của dân tộc, nhà thơ Hữu Thỉnh đã có khá nhiều bài thơ viết về đề tài này. Trong không gian sống và chiến đấu đầy xa lạ và nguy hiểm, những người lính hiện lên đầy mạnh mẽ và nội lực. 
Tiểu kết chương 2:
Như vậy, cả ba nhà thơ đều viết về biển cả bằng những tình cảm rất đỗi chân thành. Biển đối với họ vô cùng gần gũi, thân thuộc. Viết về biển, các nhà thơ đã viết bằng niềm tự hào của bản thân mình về một quê hương trù phú, giàu mạnh. Tuy vậy, mỗi nhà thơ đều đề cập đến biển đảo những khía cạnh rất riêng.

Qua những trang trường ca, nhà thơ Thu Bồn khẳng định chắc nịch về chủ quyền biển đảo. Biển đảo là một phần máu thịt của Tổ quốc Việt Nam, do đó chúng ta phải có nhiệm vụ bảo vệ và giữ gìn. Song song đó, trong ký ức của những người con đất Việt biển cả đã trở thành quê hương, là cái nôi nuôi dưỡng hun đúc nên ý chí kiên cường cho họ. Biển cả chứa đựng bao nỗi khó khăn, vất vả lẫn những ẩn số của cuộc đời nhưng không vì vậy mà buông xuôi. Đối sánh với rừng núi, biển cả mở ra một không gian to lớn trong chiều sâu văn hóa của con người. 
Nhà thơ Thanh Thảo viết về biển bằng suy nghĩ của một người lính. Bằng giọng thơ đầy tính triết luận, hình ảnh biển cả trong trường ca của ông mở ra một không gian của ngày chiến thắng. Tới biển là một hành trình đi từ khó khăn, vất vả đến khúc ca khải hoàn, một cuộc hành trình hòa về với nhân dân. Không những vậy, nhà thơ còn vận dụng linh hoạt hình ảnh của sóng, cát để toát lên sức mạnh to lớn của nhân dân. Vẫn viết về biển nhưng trường ca của ông có chút gì đó “lắng” hơn làm ám ảnh người đọc. 
Nhà thơ Hữu Thỉnh cũng viết về biển nhưng ông đề cập đến sự hy sinh của những người lính đảo thời bình. Để ra biển, họ phải bỏ lại sau lưng tất cả những gì thân thuộc, êm ả nhất. Với một không gian sống vô cùng mới mẽ và đầy nguy hiểm, trong họ không khỏi cảm thấy bất an, e dè, sợ hãi. Bằng tình yêu quê hương, bằng cái tình của người lính thời bình, họ sẵn sàng dấn thân, sẵn sàng cống hiến. Đối diện với biển đời bao la, với tấm gương phản chiếu nhân cách sống, những người lính đảo hiện lên vô cùng mạnh mẽ và đầy trân trọng. 
Dù viết về biển ở những khía cạnh khác nhau nhưng cả ba nhà thơ đều toát lên được tầm vóc của những người lính. Dù ở thời chiến hay ở thời bình, họ đều là những con người đáng khâm phục. Ý chí, sức mạnh của họ sánh ngang với đại dương vừa mênh mông, vừa hào sảng phong phú.  
CHƯƠNG 3. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH TƯỢNG BIỂN TRONG TRƯỜNG CA THU BỒN, THANH THẢO, HỮU THỈNH 
3.1. Nghệ thuật xây dựng hình ảnh biển mang tính biểu tượng 
Theo thống kê, biển trong trường ca Thanh Thảo có 71 từ, trường ca Thu Bồn 71 từ, trường ca Hữu Thỉnh 90 từ. Ngoài ra còn có khá nhiều các từ ngữ liên quan đến biển như gió, cát, bão, lốc... Trong trường ca của các tác giả trên còn có sự xuất hiện của từ đảo (xem phần phụ lục 1). Điều này có thể khẳng định biển đảo đã có trong tâm thức các nhà thơ. Không những vậy, biển đảo luôn sôi sục trong trái tim những người con Việt Nam yêu nước. 
Biển và các hình ảnh liên quan đến biển như gió, cát, bão, lốc được các nhà thơ miêu tả với sự lặp lại khá nhiều. Khi hình ảnh thơ được lặp đi lặp lại và mang tính nghệ thuật thì nó đã trở thành một tín hiệu thẩm mỹ, góp phần truyền tải thông điệp mà các nhà thơ gửi gắm. Trong trường ca Thu Bồn, Thanh Thảo và Hữu Thỉnh ta bắt gặp hình ảnh biển mang dụng ý nghệ thuật ấy. Như người viết đã đề cập ở chương 2, biển được các nhà thơ sử dụng để tái hiện hình ảnh đất nước, sức mạnh của nhân dân cũng như tái hiện một biển đời đầy chông gai với những suy nghĩ, trăn trở về cuộc sống. 
3.1.1. Biểu tượng của Tổ quốc 
Trường ca là một thể loại có dung lượng lớn, phản ánh nhịp đập, hơi thở của thời đại, của dân tộc, do đó, không khó hiểu khi hầu như tác phẩm nào cũng mang dáng vẻ của non sông, đất nước. Tùy vào cách thể hiện của từng nhà văn mà hình ảnh đất nước có khi lộ thiên nhưng cũng có khi là mạch ngầm trong dòng chảy trường ca. Các nhà thơ Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh cũng đã xây dựng khá thành công hình ảnh biển là biểu tượng của Tổ quốc. 
Trong trường ca các nhà thơ xây dựng hình ảnh biển là biểu tượng của Tổ quốc qua những chi tiết rất đắt và dẫn chứng đầy thuyết phục. Nhà thơ Thu Bồn đã tái hiện hình ảnh Tổ quốc trong không gian của cha Rồng mẹ Tiên. Đó là biển cả bao la, là nơi khởi nguồn của dân tộc ta. Trong trường ca Badan khát, nhà thơ Thu Bồn mượn tình mẫu tử thiêng liêng để khẳng định biển cả bao la là một phần của đất mẹ Việt Nam:  
Con ở đâu cũng là con của mẹ 
Hòn đảo Việt Nam nào cũng Tổ quốc Việt Nam 
Biển là một phần máu thịt thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam. Tổ quốc ấy là của nhân dân không ai có thể chia cắt hoặc mưu toan chiếm đoạt. Đây là nỗi niềm của thầy Kỳ Nhân Sư qua lời “trò chuyện” của ông Đồ Chiểu: Giọng ngâm thơ trầm uất sóng lưỡi búa nhấp nhô đuổi nhau không dứt bàn tay nhạy cảm chạm tới những vết thương trên thân mình Tổ quốc/ Bấy giờ biển hiện trước trang thơ thầy một Tổ quốc thật không còn là sở hữu của ông vua này ông vua khác (Trò chuyện với nhân vật của mình). Đó là một Tổ quốc tự do, độc lập, tự chủ. Tổ quốc ấy là của quảng đại quần chúng nhân dân chứ không thuộc về một vì vua, vị chúa nào khác. Đó còn là lời của một dân tộc luôn luôn mở rộng chân trời khát khao, mở rộng vòng tay thân hữu, hòa bình dù có phải trải qua trăm cay nghìn đắng: 
"Bè bạn qua đây con sóng lặng 
Cánh chim thay sóng lượn quanh tàu 
Anh vẫn nói với lòng tôi anh nói 
Về những hòn đảo xa nối biển liền trời 
Con ngọc trai bám vào thềm lục địa 
Một loài sao biển sáng lân tinh" 
(Campuchia hy vọng) 
Không những vậy, Tổ quốc ta không ngừng lớn mạnh, không ngừng vươn xa nhờ những bước chân xoài ra biển cả: 
Nơi trộn lẫn mặt trời muối mặn đời ta 
Tổ quốc kiên trì nhoài ra phía biển 
Ôm những quần đảo trong vòng tay thương mến 
Mắt dõi nhìn hút cánh hải âu bay 
(Những người đi tới biển) 

Nhà thơ Hữu Thỉnh trong Trường ca Biển đã khẳng định chủ quyền đất nước bằng hồn Việt của dân tộc mình: 
Tiếng Việt gọi hồn Việt 
Giữ đất Việt ngoài khơi 
Ý thức được như vậy nên người lính quyết tâm mang đất ra đảo bởi cần có đất để làm quê hương.  
Như vậy, dù viết ở góc độ nào, hình ảnh Tổ quốc vẫn hiện lên tự nhiên giữa những trang trường ca. Trong trường ca Thu Bồn, đất nước hiện lên trong kí ức của những người con đất Việt. Bằng cách khẳng định vai trò của biển đảo, tác giả không giấu được những tình cảm nồng hậu, tin yêu về sự phát triển của đất nước mai sau. Nhà thơ Thanh Thảo lại viết về biển bằng những hình ảnh gần gũi, thân thuộc của mình. Hình ảnh đất nước trong thơ ông hiện ra đầy đau thương, mất mát nhưng không hề bi lụy. Đất nước sẽ vụt đứng lên như những hàng dương quanh năm thẳng tắp. Hàng triệu người con hướng về biển với một niềm tin về tương lai tươi sáng, về một Tổ quốc phát triển vững bền. Đến lượt nhà thơ Hữu Thỉnh, đất nước hiện ra qua ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo của dân tộc. Biểu tượng Tổ quốc, đất nước vì vậy mà sâu sắc và ý nghĩa hơn. Một dân tộc phát triển là một dân tộc có những bước chân chắc chắn ra biển cả, và nhà thơ Hữu Thỉnh đã làm được một việc, đó là thổi hồn Tổ quốc ra tận hải đảo xa xôi. 
Biển đảo cũng như đất liền, đều hòa làm một, đều là Tổ quốc Việt Nam. Xây dựng hình ảnh biển là biểu tượng của đất nước, các nhà thơ thêm một lần khẳng định chủ quyền của dân tộc cũng như nêu cao ý chí bảo vệ vùng biển ấy. 
3.1.2. Biển là “đại dương nhân dân” 
Biển mênh mông và chứa đựng tất cả. Nhân dân cũng đông đảo và chứa đựng tất cả. Biển được các nhà thơ xây dựng thành biểu tượng của nhân dân là vì vậy. Con đường đi tới biển của những người lính là con đường hòa vào nhân dân. Con đường đi tới vòng tay rộng mở của nhân dân. Biển cả bao la chính là vòng tay xiết chặt của quảng đại quần chúng nhân dân. Hiểu được lý lẽ đó, những người đi tới biển sẽ không cảm thấy cô đơn, sẽ bớt lạ lẫm khi về với biển. 
Biển đảo là của nhân dân. Những con sóng ngày đêm xô bờ không bao giờ ngơi nghỉ được các nhà thơ ví von như sức mạnh của quần chúng nhân dân. Vòng tuần hoàn ấy không bao giờ ngừng lại. Sức mạnh của nhân dân cũng vậy, lớp sau xô lớp trước: 
Những người chìm xuống hầm sâu 
Như nước thấm vào lòng cát 
Những người vụt trồi lên 
Như đá mọc bất thần 
(Trẻ con ở Sơn Mỹ) 
Sức sống mạnh liệt và ý chí chiến đấu của nhân dân không gì có thể thay thế được. Sức mạnh ấy, nói như nhà thơ Thanh Thảo, hết lớp này ngã xuống sẽ có lớp khác vùng lên: 
Những cuộc đời như lớp sóng 
Lớp lớp lặng chìm, lớp lớp trào lên 
(Trẻ con ở Sơn Mỹ) 
Chính ở những vùng biển ấy, trên những bãi cát trắng mênh mông kia đã sinh ra những con người “sống trong cát chết vùi trong cát” (Tố Hữu) mà chẳng mảy may toan tính. Sóng biển cũng chính là sự sống vĩnh cửu và mạnh mẽ của nội lực cách mạng khởi sự tại lòng dân. Tất cả đã dồn tụ để khái quát thành những biểu tượng thơ tạo nên một quan điểm thẩm mỹ mới về nhân dân thầm lặng. 
Không những vậy, cát còn thể hiện cho sự tái sinh mạnh mẽ của những con người bị vùi dập bởi chiến tranh. Trong trường ca Trẻ con ở Sơn Mỹ, những cuộc đời dần dần tái sinh trên biển cát mênh mông, để đàn em thơ vui đùa trên cát, để những cây xương rồng lặng lẽ nở hoa: 
Những âm thanh nhiều năm vùi đất cát 
Sẽ mọc lên bất chợt giữa ban ngày 
Đồng một lúc rừng dương căng ngực hát 
Biển ầm vang ngọn lửa xanh chói ngời 
Trong trường ca Bài ca chim Chơ rao, dù viết về mảnh đất Tây Nguyên hùng vĩ nhưng ngọn sóng nhân dân ở khắp mọi miền cuồn cuộn trong thơ ông. Cái chết đầy tầm vóc sử thi của Hùng và Rin lan tỏa một ngọn sóng ý chí và quyết tâm đến quảng đại quần chúng nhân dân, để rồi từ đây, sức mạnh đấu tranh cứu nước của nhân dân sẽ không ngừng lớn mạnh. 
Nhà thơ Hữu Thỉnh xây dựng hình ảnh nhân dân qua cách cảm, cách nghĩ của người lính hải đảo. Nhân dân bắt đầu là những con người bình thường, sẵn sàng nhận nhiệm vụ canh giữ biển đảo cho Tổ quốc, dù nhiệm vụ ấy vô cùng khó khăn và vất vả. Viết về nhân dân, Hữu Thỉnh cũng đi theo motip, từng con người cụ thể, từng số phận riêng hòa vào nhau cùng đổ ra biển lớn. Lúc bấy giờ nhân dân hiện lên như là một đại dương mênh mông rộng lớn, có thể cuốn phăng mọi thứ. 
Qua các đặc điểm tương đồng, nhà thơ đã mượn hình ảnh của biển bờ để thể hiện sức mạnh của nhân dân. Đó là hình ảnh của một đại dương mênh mông, mang sức bền như ngàn con sóng lại mang sức mạnh của những trận cuồng phong.  
3.1.3. Biển - biểu tượng của lòng mẹ 
Biển là một chủ thể mênh mông, rộng lớn. Hình ảnh biển còn được các nhà thơ ví như tấm lòng của mẹ. “Lòng mẹ mênh mông như biển Thái bình dạt dào”, một nhạc sĩ đã viết như thế để về biển, về lòng mẹ. Nhà thơ Thu Bồn viết về người mẹ miền biển diệu hiền, quanh năm tần tảo, bấm đốt ngón tay từng ngày đợi con trở về. Một người mẹ kiên nhẫn, bền bỉ đến tận cùng, dành cả một đời để may cho con tấm áo: 
Mẹ vẫn chờ anh ngày trở lại 
Ơi người mẹ trọn đời kim chỉ vá may 
Vá tấm áo như vá đời mẹ khổ 
Từ buổi con đi bấm đốt từng ngày 
Nhà thơ Thanh Thảo thể hiện hình ảnh những người mẹ chịu thương chịu khó, sẵn sàng hy sinh, suốt một đời lấn biển để giành những gì tốt đẹp nhất cho con, cho cháu: 
Suốt cuộc đời lấn biển thương đau 
Mẹ bền bỉ như cây vùng nước mặn 
Mọc hàng đầu giữ từng tấc phù sa 
Bồi đắp đến vô cùng mẹ ơi cho biển 
Không làm chúng con sợ hãi 
Người mẹ nào cũng đều thương con tha thiết, cũng giàu đức hy sinh. Khi ở bờ vực cận kề với cái chết, hình ảnh người mẹ hiền hiện lên như một lời thúc giục, động viên. Trong Trường ca Biển, Hữu Thỉnh đã viết: 
Con bỗng nhận ra không phải lá cờ ta 
Không phải mẹ 
Không có cái chết nào nhục nhã hơn là sống không phải mẹ 
Bao hiểm nguy con xin lại bắt đầu 
(Trường ca Biển) 
Trong tâm thức người con, mẹ hiền còn biểu hiện cho sự hồi sinh, bắt đầu một cuộc sống mới tràn đầy hy vọng. Nhà thơ Thanh Thảo đã viết: 
Một người mẹ trẻ chọn hai cây dương gần nhau, có nhiều bóng mát để mắc võng cho hai đứa con trai vừa tròn tuổi. Chị ngồi vá lưới, êm ả, cháu bé ngủ miệng như mỉm cười, võng đưa và cả bầu trời mặt đất đều đong đưa, biển lao chao sóng, những bóng nắng nhỏ đùa nghịch trên cánh võng, bàn tay người mẹ thật êm ả (Cỏ vẫn mọc)
Ngoài hình ảnh người mẹ hiền, các tác giả còn miêu tả hình ảnh của những người bà miền biển bằng tình cảm đôn hậu và thiêng liêng nhất. Nhà thơ Thanh Thảo miêu tả người bà với bàn tay vá lành những mảnh đời riêng, bàn tay khỏa cát trên mồ con mồ cháu bằng những câu thơ đầy trân trọng: 
Bàn tay bà chưa bao nhiêu tiếng nói 
Hàng trăm cơn bão hàng ngàn cơn động biển 
Bàn tay thắp sáng lửa chài 
Khỏa cát trên mồ con mồ cháu 
Giữ lại những gì không thể mất 
Bà ngồi đó giữa con và biển 
Bàn tay vá lành những mảnh đời riêng 
(Những người đi tới biển) 
Những gì đau thương nhất bà đã nén chặt trong lòng và tất cả những hy sinh, mất mát chỉ hiện ra qua đôi bàn tay ấy. Đó là bàn tay của một người mẹ, người vợ, người bà giàu đức hy sinh. Bà đã cố nén nước mắt để vá lành những mảnh đời riêng, cho dù cuộc đời bà, đôi bàn tay bà đã khỏa cát trên mồ con mồ cháu mấy bận. Ở phía biển còn có hình ảnh những người vợ, người chị giàu đức hy sinh. Họ là hậu phương vững chắc nhất của người lính đảo thời bình. 
Xây dựng biển thành biểu tượng của lòng mẹ, bằng những câu thơ đầy sức gợi tả, các nhà thơ đã xây dựng thành công tượng đài người mẹ và họ đã chạm đến cái chung nhất của tình mẹ: đó là sự hy sinh thầm lặng. 
3.1.4. Biển - biểu tượng của tình yêu đôi lứa 
Biển mang trong mình nhiều trạng thái khác nhau, có lúc bình yên, nền nã, có lúc ồn ào dữ dội. Chính những sắc thái đa dạng ấy mà biển thường gắn với tình yêu đôi lứa. Biển là nơi kết tinh tình yêu đôi lứa, là không gian hò hẹn của những chàng trai, cô gái miền biển. Ở phía biển, người lính có người con gái miền biển đợi chờ, khiến anh tự hào khi nhắc đến: 
Tôi có người yêu dưới rặng dừa trĩu bóng 
Ở chót mũi Cà Mau - trên đầu muôn ngọn sóng 
Đợi tôi về 
(Vách đá Hồ Chí Minh)  
Ở đó, người con gái có tâm hồn sóng biển, hứa yêu anh trọn đời như muối biển kia không bao giờ phai nhạt: 
Cô gái biển quanh năm chài lưới 
Trên bàn tay có nắng mặt trời
Cô gái có tâm hồn sóng biển 
Hứa yêu anh, yêu mãi trọn đời 
(Bài ca chim Chơ rao) 
Biển còn là không gian tình tự, là nơi nhân vật trữ tình trao nhau lời thề thủy chung son sắt như câu ca dao: 
Ngó ra thấy cát dàng dàng 
Cát bao nhiêu hạt dạ em thương chàng bấy nhiêu 
Trong trường ca Bài ca chim Chơ rao, mối tình của Hùng và cô gái miền biển gây ấn tượng nơi người đọc. Hùng bị thiêu chết nhưng tình yêu của hai người không chết. Tình yêu đôi lứa bỗng vụt lớn thành tình yêu quê hương đất nước, thành lòng căm thù giặc sâu sắc. Từ đây, người con gái miền biển sẽ nhận luôn phần trách nhiệm của Hùng trước quê hương đất nước. 
Nhà thơ Thanh Thảo cũng xây dựng hình ảnh biển là biểu tượng của tình yêu đôi lứa nhưng vui tươi hơn, rộn ràng hơn. Tình yêu trong trường ca của ông là tình yêu của sự sum họp. Hòa bình lập lại, người chiến sĩ trở về với người con gái anh thương yêu. Tình yêu ấy trở thành sức mạnh cho những con người mới, trong thời đại mới. Trong trường ca Hữu Thỉnh, tình yêu đôi lứa trở thành sức mạnh, giúp người chiến sĩ vượt qua những khó khăn, vất vả của cuộc sống. Tình yêu ấy nâng đỡ người lính trong những giây phút sinh tử, để họ trở nên mạnh mẽ hơn: 
Anh chìa ca nhận phần nước hiếm hoi 
Để em thấm vào anh khúc ngọt ngào chia sẻ 
Em làm anh tơ non 
Em làm anh mạnh mẽ 
Cứ vẫy vùng như đảo của ta 
(Đường tới thành phố) 

Các đặc tính của biển sóng, cát đều được các nhà thơ sử dụng để diễn tả những tâm trạng, tình cảm của đôi lứa yêu nhau. Tình yêu là một đề tài muôn thuở của thơ ca, các nhà thơ trường ca đều viết về tình yêu với một tình cảm trân quý. Dù hạnh phúc hay bất hạnh, tình 72 yêu trong các sáng tác trên đều có một điểm chung, đó chính là tấm lòng thủy chung son sắt.  
3.2. Các biện pháp tu từ 
3.2.1. So sánh 
Trường ca là một thể loại dài hơi và các tác giả thỏa sức mình vẫy vùng trong đó. Các nhà thơ có thể áp dụng nhiều thể thơ khác nhau, có thể xây dựng kết cấu theo dụng ý riêng mình để hoàn thiện tác phẩm. Những nỗ lực tìm tòi, đổi mới đó góp phần nâng cao vị thế của trường ca. Đương nhiên không thể bỏ qua chất liệu ngôn từ. Sử dụng ngôn từ đúng lúc, đúng chỗ sẽ góp phần nâng tầm bài thơ lên, thậm chí chỉ là một dấu chấm than, một dấu phẩy đúng chỗ, bài thơ sẽ khác đi rất nhiều. 
Nhận biết được điều đó các nhà thơ trường ca hiện đại đã rất lưu ý đến các biện pháp tu từ sử dụng trong thơ. Đặc biệt là so sánh. Biển và các hình ảnh liên quan đến biển như sóng, cát, hàng dương, muối... được các nhà thơ sử dụng để ví với tinh thần chiến đấu của người chiến sĩ, của lòng mẹ bao la hay tâm trạng của con người. Bằng những hình ảnh so sánh táo bạo, gợi tả, những trang trường ca vì vậy cũng thi vị và sống động hơn. 
Trong trường ca Bài ca chim Chơ rao, nhà thơ Thu Bồn đã khắc họa thành công nhân vật Hùng, đại diện ưu tú cho người con miền biển. Những câu thơ miêu tả Hùng bằng cách sử dụng biện pháp so sánh tạo nên một hình ảnh ấn tượng, đầy sức gợi tả: 
Hùng sẽ chết như người chiến sĩ 
Như cành thông reo hát giữa quê hương 
Hay trong trường ca Vách đá Hồ Chí Minh, tác giả đã so sánh vách đá với lồng ngực người chiến sĩ, thể hiện sức mạnh cũng như ý chí của người anh hùng: 
Vách đá như lồng ngực người chiến sĩ 
Đập vào biển Đông sóng dội trăm lần 
Nhờ sử dụng biện pháp so sánh hợp lý mà những câu thơ trở nên góc cạnh và triết lý hơn hẳn: 
Ta đã sống như cây xương rồng trên cát 
Đã sống được nơi tưởng chừng cạn nước 
Mà lặng lẽ nở hoa 
(Những người đi tới biển) 
Nếu không có các anh 
Ngã xuống như muôn ngàn trang sóng 
Đất nước này sẽ trôi dạt về đâu?  
(Những nghĩa sĩ Cần Giuộc) 
Các nhà thơ thường viết về mẹ với sự kính yêu thường trực. Nhiều câu thơ đầy sức gợi tả ám ảnh người đọc: 
Ơi người mẹ trọn đời kim chỉ vá may 
Vá tấm áo như vá đời mẹ khổ 
(Bài ca chim Chơ rao) 
Hay câu thơ sau: 
Suốt cuộc đời lấn biển thương đau 
Mẹ bền bỉ như cây vùng nước mặn 
(Trẻ con ở Sơn Mỹ) 
Đôi lúc, các nhà thơ sử dụng biện pháp trùng điệp vế so sánh để diễn tả suy nghĩ của mình. Nhà thơ Thanh Thảo viết: 
Khi con đến với lòng con chân thật 
Để trong lành đôi mắt 
Trong lành gương mặt 
Như luống khoai con khát trận mưa mùa
Như giọt nước con thèm hòa tận biển 
Như cánh rừng gió lên và gió lặng 
Những tảng đá ven bờ sóng đập mãi ngàn năm 
(Những người đi tới biển) 
Nhà thơ đã sử dụng ba lần so sánh kế tiếp nhau như muốn thể hiện khát vọng được hòa mình với các mẹ, các chị, các anh, để được hòa mình với nhân dân, với Tổ quốc. Trong các trường ca, Thanh Thảo sử dụng biện pháp trùng điệp vế so sánh này khá nhiều, như trong đoạn thơ miêu tả vẻ đẹp thanh xuân của những chàng trai mười tám, hai mươi với các đặc tính của cỏ: sắc như cỏ, dày như cỏ, yếu mềm và mảnh liệt như cỏ: 
Dấu chân in trên đời chúng tôi những năm tháng trẻ nhất 
Mười tám hai mươi sắc như cỏ 
Dày như cỏ 
Yếu mềm và mảnh liệt như cỏ 
(Những người đi tới biển) 
Cũng bằng biện pháp trùng điệp vế so sánh đó, nhà thơ Hữu Thỉnh đã viết: 
Em ơi em, em là biển của đời anh  
Là vụng kín 
Là bến bờ nương tựa 
(Đường tới thành phố) 
Bằng cách so sánh ba lần liên tiếp: là biển, là vụng kín, là bến bờ, nhà thơ đã cho chúng ta thấy được một hậu phương vững chắc của người lính đảo. Nhờ trùng điệp vế so sánh, Hữu Thỉnh đã có thể bộc lộ một cách tế nhị và đầy đủ mối quan hệ riêng tư thầm kín của anh và em. Và cũng nhờ đó chúng ta mới có thể cảm nhận hết được tình cảm của anh dành cho em một cách sâu sắc, mãnh liệt mà rất đỗi chân thành đến nhường nào: 
Để em thấm vào anh khúc ngọt ngào chia sẻ 
Em làm anh tơ non 
Em làm anh mạnh mẽ 
Cứ vẫy vùng như đảo của ta 
(Đường tới thành phố) 
Như vậy bằng biện pháp so sánh và trùng điệp vế so sánh, các nhà thơ đã thổi hồn vào câu thơ, làm cho nó đầy sức gợi và tác động mạnh mẽ đến người đọc hơn. Ngoài ra biện pháp nghệ thuật này còn góp phần mang lại âm hưởng hào dùng, tha thiết cho trường ca. 3.2.2. Nhân hóa 
Để thể hiện những sự kiện mang tầm vóc lớn lao cũng như bày tỏ thái độ của người viết đối với chủ thể trữ tình, các nhà thơ đã thổi hồn vào biển, để cho biển mang trong mình nhiều sắc thái tình cảm khác nhau. 
Biển là một môi trường sống xa lạ của con người. Chính sự bao la, vô định của biển làm cho con người cảm thấy bất an. Biển bỗng nhiên trở thành một tên khổng lồ hung bạo qua những từ ngữ nhân hóa: biển gầm, biển thét, biển ầm vang, biển gào thét, biển hung hăng, biển hùa vào áp đảo, sóng dữ, sóng mặn cướp hàng dương, nhảy xuống biển nước trào lên giận dữ, biển nham nhở, biển âm u... Lúc này biển trở thành một đối tượng vô cùng bí ẩn và hoang dại, mang trong mình những sắc thái dữ dội ám ảnh con người. Nhưng có lúc biển lại rất dịu dàng khi hóa thành ngọn sóng thiếu nữ: 
Biển ơi 
Người mê hoặc tôi bằng ngọn sóng thiếu nữ 
Những đường cong chói sáng 
Tự xóa bỏ mình 
(Những nghĩa sĩ Cần Giuộc) 
Biển được miêu tả như một người bạn, sẵn sàng giang tay chờ đón người đi xa trở về xây dựng quê hương: 
Anh có về bắt cá biển sâu 
Biển rộng rãi chờ tay giăng lưới 
(Badan khát) 
Có lúc, biển trở thành một anh lính gác chuông, vui mừng lắc những hồi chuông đoàn tụ: 
Biển đang lắc những hồi chuông đoàn tụ 
Phù sa nào mát rượi súng và xe 
(Đường tới thành phố) 
Trong Trường ca Biển, biển được Hữu Thỉnh miêu tả như một ông già hiền minh, hiểu thấu mọi lẽ ở đời và đưa ra cho người lính nhiều kinh nghiệm quý giá. Có lúc biển trở thành tấm gương soi phản ánh chân thật cuộc đời người lính, để cho người lính tự chiêm nghiệm, nhận thức bản thân: 
Những chiếc huân chương soi sáng mãi trên bờ 
Sống với nước hãy bắt đầu từ nước 
3.3. Giọng điệu 
Giọng điệu trong văn bản thể hiện cái giọng điệu riêng mang thái độ, tình cảm và đánh giá của tác giả. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả, thể hiện trong lời văn, quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm…[24,134]. Giọng điệu cần thiết cho việc sắp xếp, liên kết các yếu tố hình thức khác nhau, làm cho tác phẩm có cùng một âm hưởng, một khuynh hướng nào đó. Như vậy, giọng điệu không chỉ biểu hiện cảm hứng, cá tính sáng tạo của nhà văn mà còn bộc lộ quan điểm, cái nhìn và thái độ đánh giá của nhà văn với các hiện tượng đời sống được miêu tả trong tác phẩm. 
Là một thể loại dài hơi, gom chung nhiều chiều kích khác nhau nên giọng điệu trường ca cũng rất phong phú và đa dạng: có giọng điệu sử thi anh hùng ca, có giọng điệu trầm lắng xót xa lại có giọng điệu suy tư đầy triết lý... Tìm hiểu giọng điệu trong trường ca sẽ cho chúng ta thấy rõ hơn thông điệp mà các nhà thơ truyền tải. 
3.3.1. Giọng điệu ngợi ca, tự hào 
Biển đảo là quê hương, là cái nôi nuôi dưỡng cách mạng và đó cũng chính là nơi đang cần sự bảo vệ của cả dân tộc. Bởi thế các nhà thơ viết về biển đảo với một giọng điệu đầy tự hào, ngợi ca. Với giọng điệu hào sảng, ngợi ca, biển đảo Việt Nam qua ngòi bút của các nhà thơ hiện lên thật đẹp và ý nghĩa: 
Anh vẫn nói với lòng tôi anh nói 
Về những hòn đảo xa nối biển liền trời 
Con ngọc trai bám vào thềm lục địa 
Một loài sao biển sáng lân tinh 
(Campuchia hy vọng) 
Biển không đơn thuần là biển nữa mà qua ngòi bút Thanh Thảo, biển trở nên thi vị hẳn. Biển mê hoặc nhà thơ bằng ngọn sóng thiếu nữ, bằng những đường cong của chính mình: 
Biển ơi 
Người mê hoặc tôi bằng ngọn sóng thiếu nữ 
Những đường cong chói sáng 
Tự xóa bỏ mình Và lập tức tái sinh 
Gào lên khúc ca hoang dại 
Trong chương cuối của trường ca Những người đi tới biển, Nhà thơ Thanh Thảo đã kịp bày tỏ lòng mình với vùng biển quê hương. Đó là nơi mà cả về con người và sản vật đều tuyệt vời: 
Tôi chưa biết có nơi nào trên trái đất 
Ánh mặt người lại dịu mát như nơi đây 
Củ khoai lang vùng cát ngọt lừ 
Tôi ăn như người ốm thèm trả bữa 
Nhà thơ Hữu Thỉnh trong trường ca Đường tới thành phố không khỏi tự hào khi thấy rõ cuộc sống của nhân dân đổi thay từng ngày, đất nước dần dần hồi sinh sau những năm tháng chiến tranh gian khổ. Bằng ngòi bút tin tưởng, hào sảng, nhà thơ đã tái hiện lại bức tranh trù phú của quê hương miền biển: 
Tôi thấy rõ nhân dân xanh lẫn vào cây chàm cây đước 
Nhân dân tự do 
Triệu bàn tay dằng dịt ôm bờ
Ghì lấy từng con tôm con tép
Ghì lấy dấu chân ai khỏa thượng nguồn 
Cùng tìm về cuối đất 
Nhịp triều thịnh vượng mũi Cà Mau 
Những câu thơ không chỉ thể hiện lòng tự hào về biển đảo quê hương mà còn khẳng định sự bền vững, thịnh vượng của vùng đất này: 
Chúng ta đã lớn lên ở nơi này sẽ lớn lên ở nơi này 
Những đứa con của đất và biển 
Yêu thương cả dấu chân còng cánh chim âu từng bọt sóng 
Hiểu và yêu biển, những người con của biển càng phải quyết tâm nhiều hơn nữa để giữ gìn biển đảo quê hương: 

Nhân dân chia mình ra các đảo 
Làm vệ tinh 
Yên dạ những con tàu... 
Đã tới đảo bằng mũi tàu truy quét 
Dựng lên đảo pháo đài mắt thức 
Vùng đất Sơn Mỹ một thời bị kẻ thù hủy diệt nay qua ngòi bút của nhà thơ Thanh Thảo đã tin tưởng hồi sinh. Ông viết trường ca Trẻ con ở Sơn Mỹ với niềm tự hào bởi một mảnh đất anh hùng và tái sinh mạnh mẽ bằng sức mạnh tiềm tàng không gì có thể thay thế được: 
Những âm thanh nhiều năm vùi đất cát 
Sẽ mọc lên bất chợt giữa ban ngày 
Đồng một lúc rừng dương căng ngực hát 
Biển ầm vang ngọn lửa xanh chói ngời 
Bao con thuyền dập dồi trên lửa ấy 
Những con thuyền như thể đúc bằng hơi 
Ngàn mẻ lưới thả sâu trong lòng biển 
Để kéo về chiều bến cá đông vui 
Và ngọn lửa chia đều cho mỗi bếp 
Mùi cá nướng thơm gió rộng rãi chào mời 
(Trẻ con ở Sơn Mỹ)  
Dọc theo các trường ca chúng ta dễ dàng bắt gặp những câu thơ hồ hởi, ngợi ca và đầy tự hào như thế. Do đặc điểm của thể loại trường ca: dung lượng lớn, gom chung nhiều thể loại nên giọng điệu này cũng có nhiều đất để phát huy. Bằng giọng văn hào sảng, đầy tự hào, biển đảo quê hương hiện lên thật đẹp và trù phú. 
3.3.2. Giọng điệu trữ tình, triết lý 
Bên cạnh giọng điệu ngợi ca, tự hào ta còn bắt gặp những câu thơ viết về biển trong trường ca Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh một giọng điệu trữ tình triết lý. “Giọng điệu triết lý trong trường ca hình thành từ nhu cầu nhận thức bản thân và thời đại của mỗi nhà thơ. Vượt ra khỏi giới hạn của những cảm xúc trực tiếp, các tác giả trường ca đã bộc lộ rõ sự trăn trở, khao khát đào sâu bản chất, ý nghĩa của những vấn đề lớn lao của dân tộc và nhân loại. Mỗi trường ca không chỉ biểu hiện tầm vóc tư tưởng và tài năng riêng của nhà thơ mà còn hàm chứa tư tưởng, nhận thức chung của cả dân tộc” [11,180]. Với những suy nghĩ, trăn trở riêng về biển đảo quê hương, các nhà thơ đã cho ra đời những dòng thơ đầy chất trải nghiệm, triết lý, thể hiện những suy ngẫm, khát vọng của nhiều thế hệ. 
Trong trường ca Thu Bồn, giọng điệu sử thi mang âm hưởng chính nhưng chúng ta cũng dễ dàng bắt gặp nhiều câu thơ, đoạn thơ mang giọng điệu trữ tình triết lý. Viết về Quê hương mặt trời vàng, nhà thơ không khỏi tự hào thốt lên: 
Đất nước tôi có biển Đông 
Vừa đủ mặn bốn ngàn năm lao động 
Trong việc thể hiện hình ảnh Đất nước qua mối quan hệ gữa biển và núi nhà thơ đã đưa ra những suy nghĩ hết sức tâm huyết và trăn trở của mình. Biển và núi đều là Tổ quốc Việt Nam, muốn thấu hiểu biển phải trèo lên tận núi: 
Hiểu biển nhiều nên ta yêu núi núi ơi 
Biển mênh mông và núi cao vời vợi 
Nhìn thấu biển phải trèo lên tận núi 
(Badan khát) 
Bằng một giọng thơ dữ dội đầy triết lý sắc cạnh, trường ca Thanh Thảo vẽ nên một thế hệ người lính sẵn sàng hy sinh, sẵn sàng cống hiến. Những năm tháng chiến đấu khốc liệt ở rừng trở về, những người lính hiểu rằng, về tới biển chưa phải kết thúc mà đó mới chỉ là nơi bắt đầu: 
Những dòng sông băng qua những vết thương 
Về tới biển đâu phải tìm yên nghỉ  
Tới cửa sông là bắt đầu sóng gió 
Những cây giá xoay trần ngâm nước giữ phù sa 
(Những người đi tới biển) 
Cuộc sống luôn tươi mới và đều đặn không ngừng, như ngọn sóng ngày đêm xô bờ. Nhắc đến vòng tuần hoàn ấy của thiên nhiên, nhà thơ đặt trọn niềm tin về tương lai tươi đẹp của vùng đất Sơn Mỹ: Muôn ngọn sóng vỗ vào bờ cát 
Gió không ngừng reo qua hàng dương 
(Trẻ con ở Sơn Mỹ) 
Không những vậy, nhà thơ Thanh Thảo còn có những câu hỏi đầy ý nghĩa triết lý. Nếu không có những người dám hy sinh tính mạng thì làm sao có đất nước hôm nay: 
Nếu không có các anh 
Ngã xuống như muôn ngàn đợt sóng 
Hóa những chiếc neo cắm sâu lòng biển 
Dải đất này sẽ trôi dạt về đâu? 
(Những nghĩa sĩ Cần Giuộc) 
Giọng điệu trữ tình triết lý chiếm trọn trong trường ca Biển của nhà thơ Hữu Thỉnh. Ở chương đầu tiên, đối thoại biển, nhà thơ đã tái hiện lại cuộc đối thoại giữa người lính và biển cả. Những câu hỏi, câu trả lời đầy triết lý ấy phần nào cho chúng ta thấy được dụng ý của nhà thơ. Sống với nước hãy bắt đầu từ nước - lời gợi ý tưởng đơn giản nhưng lại quá đỗi khó khăn. Người lính muốn đến với biển phải bỏ lại hết những kinh nghiệm có từ trước đó để bắt đầu lại và gian nan cũng bắt đầu từ đó. Bên cạnh đó, Hữu Thỉnh còn có những câu thơ tưởng chừng đơn giản nhưng khi ngẫm lại thì ý tứ thật sâu xa, triết lý: 
Suối cứ thế âm thầm nuôi lớn biển 
Cứ âm thầm chảy xiết với thời gian 
(Đường tới thành phố) 
Đất đi qua biển thì mau 
Người đi qua nỗi khổ đau thì dài 
(Trường ca Biển) 

Hay trong một đoạn thơ - văn xuôi trong Trường ca Biển, trong chương Hóa thạch những dòng sông, chất trữ tình triết lý khá đậm đặc: khi gặp biển, đó là lúc sông đem cho lần cuối, một cuộc cho trọn vẹn huy hoàng như thơ cho, như mùa dâng quả, cô gái đi làm mẹ nơi xa để lại sau lưng bao tiếng thở dài. Và khi không còn gì để cho, sông như tráng sĩ không còn vũ khí, giáo chủ không còn mật kinh, võ sư không còn bí quyết; sông như nghệ sĩ đã sắm xong vai, một kẻ trắng tay giàu có đo mình bằng kích thước của biển. 
Với giọng điệu trữ tình triết lý, những suy nghĩ, băn khoăn của thế hệ hôm nay trở nên thực và gần với độc giả hơn. Những giọng điệu đó góp phần tạo nên văn phong của nhà thơ một cách rõ nét. 
3.4. Sự liên tưởng 
Trong thơ ca, ngoài những yếu tố nghệ thuật trên thì không thể không nhắc tới liên tưởng, tưởng tượng. Chính sự liên tưởng, tưởng tượng này chắp đôi cánh cho thi nhân, giúp họ thỏa sức vẫy vùng trên bầu trời nghệ thuật. Sự liên tưởng, tưởng tượng còn giúp cho những áng thơ thi vị và giàu hình tượng hơn. “Những trường ca giàu tính triết lý chính luận và trữ tình thì việc sử dụng yếu tố liên tưởng càng cao, góp thêm những dòng nước mát vào suối nguồn trường ca sử thi hiện đại” [57,168]. 
Mặc dù đã lăn lộn nhiều năm cùng đồng đội chiến đấu ở rừng nhưng những người lính miền biển vẫn nhớ tha thiết quê hương ầm ào tiếng sóng của mình: 
Ăn trái gắm nhớ trái dừa da diết 
Tắm vũng suối nhớ biển biếc bao la 
Những đêm mưa rừng sấm động 
Nhớ làm sao tiếng sóng vỗ quanh nhà 
(Bài ca chim Chơ rao) 
Những hình ảnh vùng cao lại gợi lên trong tâm trí người lính miền biển nỗi nhớ nhà: ăn trái gắm lại nhớ đến trái dừa quê hương, tắm vũng suối vùng cao nhớ đến vùng biển bao la, nghe tiếng mưa rơi lại nhớ tiếng sóng vỗ quê nhà. 
Nhà thơ Thu Bồn còn có những dòng thơ gợi lên sự liên tưởng về một Tây Nguyên anh hùng giàu đẹp: 
Đất nước Tây Nguyên anh hùng bất khuất 
Màu xanh lớp lớp vô tận dấy lên 
Đầu đỡ vòm trời chân xoài biển cả 
Vai vắt khăn mây dải lụa mềm 
(Bài ca chim Chơ rao)  
Xuyên suốt trường ca Bài ca chim Chơ rao, Thu Bồn đã xây dựng một mạch liên tưởng khép kín. Xây dựng hai nhận vật anh hùng Hùng và Rin, hai người con Kinh Thượng, đại diện ưu tú cho hai vùng đất biển và núi để toát lên ý chính: đó là sự đoàn kết của các dân tộc từ đó gợi lên Kinh và Thượng, núi và biển đều là Đất nước. Trong trường ca Những người đi tới biển, nhà thơ Thanh Thảo cũng xây dựng mạch liên tưởng đó. Những người lính tự nguyện dấn thân vào công cuộc bảo vệ đất nước, trải qua biết bao gian khổ, khó khăn để rồi từng bước, từng bước hòa mình về với nhân dân và con đường đi tới biển là một con đường chủ đạo. 
Trong Trường ca Biển, nhà thơ Hữu Thỉnh cũng có nhiều câu thơ gợi liên tưởng về sự hy sinh một cách đột ngột và chua xót. Đó là những câu thơ viết về sự hy sinh của người lính trước một không gian sống vô cùng lạ lẫm: 
Bạn tôi thổi sáo sau hầm 
Bỗng ngừng bặt 
Giữa chừng réo rắt 
Chúng tôi chạy ra 
chấp chới cánh tay ngoài năm sải nước 
hay: 
Tiểu đội xếp hàng chuyển gạo 
Sóng lườn quanh thân 
Bỗng 
Một tiếng thét 
Một vũng máu 
Một khoảng trống 
Nhịp thơ nhanh, gọn gợi liên tưởng về một sự mất mát đột ngột, bất ngờ. Qua cách viết của nhà thơ, người đọc dễ dàng hình dung môi trường sống và chiến đấu của người lính lúc bấy giờ là như thế nào. Quan điểm về sức mạnh của nước và dân được Thanh Thảo thể hiện trong trường ca Những nghĩa sĩ Cần Giuộc. Bằng cách nêu bật lên sức mạnh của nước, tác giả hướng người đọc đến sức mạnh của nhân dân. Từ đó nêu lên quan điểm chính trị, về cách dùng binh, dù xưa hay nay vẫn còn đúng: nước có thể nâng thuyền, cũng có thể làm lật thuyền. Nhân dân cũng như nước. Nhân dân cũng có thể đoàn kết một lòng, đấu tranh bảo vệ Tổ quốc nhưng nếu chính sách không phù hợp thì nhân dân cũng có thể lật đổ cả chế độ đó: 
Ngàn con sóng chết cuối đêm 
Sinh ngàn con sóng trước thềm rạng đông 
Đẩy thuyền lật thuyền dễ không 
Nát mềm mài đá đá mòn thấu xương 
(Những nghĩa sĩ Cần Giuộc) 
Ngoài ra, nhà thơ Thanh Thảo còn gợi sự liên tưởng về sức mạnh của nhân dân bằng cách miêu tả những con sóng, đặc biệt là khi kết hợp với một loại từ khác. Những ngọn sóng thiếu nữ, ngọn sóng bình minh, sóng đen hào hển, sóng đời, ngọn sóng mặt trời... mở ra trước mắt người đọc sự da dạng, biến hóa khôn lường của những con sóng. Đồng thời qua đó thể hiện rõ hơn ý chí, sức mạnh của nhân dân qua sự tinh khôi của ngọn sóng bình minh, thiêu đốt như ngọn sóng mặt trời. 

Như vậy, cách thức liên tưởng là một thủ pháp nghệ thuật đặc biệt. Nhờ nó mà câu thơ có thể hay hơn, thi vị hơn; cũng có thể mang một ý nghĩa khác. Cách thức liên tưởng này tạo nên phong cách riêng cho nhà thơ. Và người đọc có thể phán đoán, liên tưởng một cách sáng tạo theo trí tưởng tượng của cá nhân, góp phần làm nên sức hút cho tác phẩm. 
3.5. Không gian - thời gian nghệ thuật 
Không gian và thời gian trong tác phẩm là không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật. Nó không chỉ là thời gian - không gian vật chất mà là một phương thức biểu hiện thế giới tinh thần, hiện thực đời sống. Thời gian và không gian luôn là một trong những yếu tố làm nên giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Nhờ thời gian, không gian nghệ thuật, chúng ta sẽ dễ dàng tìm ra những ẩn ý về mặt nội dung mà tác giả đan cài trong tác phẩm. 
3.5.1. Không gian nghệ thuật 
Biển trong trường ca không đơn thuần là một vùng đất với đầy đủ các tọa độ vị trí địa lý mà nó trở thành không gian nghệ thuật. Trong không gian ấy ẩn chứa nhiều nỗi niềm tâm sự của nhân vật trữ tình. Biển cũng giống như bao vùng đất khác, cũng là một môi trường chiến đấu đầy ác liệt của dân tộc ta. Đó là hình ảnh của làng Tư Cung, một làng quê êm đềm ven biển đã phải hứng chịu thảm họa khủng khiếp khi bị lính Mỹ thẳng tay chém giết 504 thường dân vô tội. Trong 504 thường dân đó chỉ có người già, phụ nữ và trẻ em. Vụ thảm sát này không chỉ gây đau thương, mất mát cho những người trong cuộc mà nó còn làm cho biết bao thế hệ phải bật khóc. Không những vậy, phía biển còn là hướng mà quân thù lăm le tràn vào xâm chiếm nước ta: 
Một buổi sáng ngoài bán đảo Sơn Trà 
Vào lúc thủy triều lên 
Người lính canh trên vọng hải đài 
Bỗng dựng ngược tóc 
Trước mặt anh hiện lù lù con quái vật 
Mũi nó thở cuồn cuộn khói đen 
Miệng thèm thuồng hướng vào bãi cát 
(Những nghĩa sĩ Cần Giuộc - Thanh Thảo) 
Biển còn là một không gian sống mới mẽ và đầy lạ lẫm đối với những người lính đảo. Họ đến với biển lần đầu, tất cả mọi thứ từ biển đều vô cùng lạ lẫm nhưng họ vẫn cố gắng vượt qua. 
Biển là một không gian sinh hoạt với những công việc hằng ngày: kéo lưới, đánh cá, lợp mái nhà, trồng hàng dương... Ở đó có những người mẹ, người chị, người em sớm hôm tần tảo. Đó còn là một không gian với vùng cát bỏng rát, những luống khoai lang ngọt lừ hay tím biếc màu hoa muống biển. 
Trong không gian đó, con người còn giành giật từng tấc đất với biển. Họ khuân đá, ngăn sóng, cố gắng kìm hãm sự xâm thực nặng nề của biển để cho đay cói về xanh lại đất giấc mơ (Badan khát - Thu Bồn). 
Trong ký ức của những người lính, biển đã trở thành một không gian trong tâm tưởng. Đó là không gian của những kỷ niệm và lòng tự hào về quê hương. Đó cũng chính là nơi mà mỗi người lính luôn đặt niềm tin về một ngày mai tất thắng của dân tộc khi nghĩ đến. 
Đối với những người lính, biển là quê hương, là tuổi thơ gắn với bãi cát dài, với hàng dừa sai trái. Tiếng sóng vỗ cũng trở thành bài hát ru êm đềm. Những năm chiến đấu xa nhà, biển hiện ra trong tâm hồn người lính qua nổi nhớ nhà da diết. Và biển trong lòng họ trở thành một không gian nghệ thuật với những từ ngữ đầy sức gợi tả. Trong trường ca Bài ca chim Chơ rao, quê hương miền biển của nhân vật Hùng hiện ra đầy thân thương. Đó là một miền biển trù phú với những con người chất phác, thật thà. Nơi đó có chân trời sóng vỗ, có chiếc thuyền con ghé lại trước nhà anh. Hay trong chương vĩ thanh của trường ca Vách đá Hồ Chí Minh, nhân vật trữ tình nhớ về biển qua hình ảnh của một người con gái có tấm lòng thủy chung son sắt:  
Tôi có một người yêu dưới rặng dừa trĩu bóng 
Ở chót mũi Cà Mau - trên đầu muôn ngọn sóng 
Đợi tôi về 
Đối với những người lính làm nhiệm vụ bên nước bạn Campuchia, không gian miền biển quê nhà càng hiện ra rõ nét. Ở đó, những người lính mang trong mình không chỉ tình yêu quê hương, đất nước mà còn có cả niềm tự hào về một đất nước giàu có, hào sảng: 
Anh vẫn nói với lòng tôi anh nói 
Về những hòn đảo xa nối biển liền trời 
Con ngọc trai bám vào thềm lục địa 
Một loài sao biển sáng lân tinh 
(Campuchia hy vọng) 
Không gian ấy còn có trong nỗi mong nhớ, khát khao về một ngày hòa bình, độc lập của dân tộc. Nhà thơ Thanh Thảo đã từng nói, thế hệ những người lính như ông hướng về biển với một niềm tin chiến thắng. Những người lính mong về một ngày chiến thắng, được chạy ào ra biển, hòa mình cùng sóng nước mênh mông. Trong không gian ấy, họ sẽ sống cho thật thỏa thích, cho “bõ” những ngày tháng gian khó ở rừng: 
Ta sẽ về dùa nhau trên thềm cát 
Chạy như điên cho bõ lúc ở rừng 
Cho bõ lúc nén cơn ho trinh sát 
Ta cười nói cuối biển cũng nghe ta 
(Đường tới thành phố) 
Như vậy, biển trong trường ca của các tác giả trên đã trở thành một không gian nghệ thuật đầy thi vị, đầy sức gợi tả. Đó là không gian sinh hoạt, lao động hăng say, khỏe khoắn; không gian của môi trường chiến đầu đầy khó khăn, gian khổ hay không gian trong tâm tưởng nhân vật trữ tình. Tất cả những không gian nghệ thuật ấy đã góp phần làm nên sức hấp dẫn cho những trang trường ca. 

3.5.2. Thời gian nghệ thuật 
“Thời gian là một hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật. Tác phẩm cần một lượng thời gian để mở ra trước mắt người đọc. Tuy nhiên, thời gian nghệ thuật không đồng nhất với thời gian vật chất thực tại. Thời gian trong thế giới nghệ thuật có độ dài, nhịp độ, tốc độ, có ba chiều quá khứ, hiện tại, tương lai khác với thời gian thực tại” [55,85]. Là một thể loại dài hơi, có sức chứa lớn, do đó, nhiều sự kiện, thông điệp được các nhà thơ trải ra trong trường ca. Nhiều sự kiện không đi theo trình tự thời gian mà có lúc đảo chiều, từ hiện tại, mạch cảm hứng lại quay về quá khứ, rồi tiếp tục liên tưởng đến tương lai, hoặc từ tương lai nghĩ về hiện tại... Chính sự ứng biến linh hoạt của thời gian làm cho các tác phẩm trường ca có chiều sâu và bao quát hơn. Mạch suy nghĩ từ hiện tại quá khứ tương lai được các nhà thơ đặc biệt sử dụng. Người chiến sĩ trong Bài ca chim Chơ rao, người lính đảo trong Trường ca Biển hay nhân vật trữ tình tôi trong Trẻ con ở Sơn Mỹ đều đi theo mạch thời gian này. Từ điểm nhìn hiện tại, nhân vật trữ tình nhớ về quá khứ với bao mất mát, hy sinh của đồng bào, dân tộc, từ đó, phóng chiếu vào một tương lai toàn thắng, hồi sinh mạnh mẽ của dân tộc. Bên cạnh đó thời gian đảo chiều từ quá khứ tương lai hay hiện tại tương lai được các nhà thơ áp dụng triệt để. Đề tài trường ca hầu như là những đề tài về cuộc chiến tranh thần thánh của dân tộc, do đó không khó hiểu khi các tác giả xây dựng thời gian như trên. Từ con đường chiến đấu của dân tộc trong hiện tại và sâu xa hơn là trong quá khứ, nhân dân đặt niềm tin vào sức mạnh quật khởi của dân tộc, vào một tương lai tươi sáng của dân tộc. 
Mỗi tác giả xây dựng thời gian nghệ thuật theo cách riêng của mình. Nhà thơ Hữu Thỉnh cho thời gian lặp đi, lặp lại để thể hiện những khó khăn, bí bách trong cuộc sống của người lính đảo. Cụm từ: ngày ngày lại đến/ ngày ngày lại mới/ ngày ngày lại trắng như những âm thanh dồn tụ, luẩn quẩn trong tâm trí người lính, khiến họ cảm thấy ngột ngạt. Trước sự mất mát, hy sinh của người lính đảo, thời gian như ngưng tụ lại. Trong Trường ca Biển, Hữu Thỉnh viết: 
Đời bao nhiêu trớ trêu mà đêm còn quá rộng 
Đêm như là vắt kiệt các vì sao 
Có lúc thời gian của cả một quá trình được cô đọng lại. Người lính đảo trong Trường ca Biển đã bốn mươi năm mưa nắng xa nhà và thời gian ấy dường như chưa dừng lại, người lính vẫn tiếp tục với nhiệm vụ bảo vệ biển đảo của mình cho quê hương, cho đất nước. Nhà thơ Thanh Thảo lại xây dựng cho mình thời gian của lịch sử. Có nghĩa là, nhà thơ đã xây dựng nên một khung thời gian của lịch sử với những sự kiện lịch sử và con người lịch sử. Trong trường ca Những nghĩa sĩ Cần Giuộc, Đêm trên cát, Trò chuyện với nhân vật của mình, tác giả đã xây dựng thời gian nghệ thuật theo cách như thế. Một đêm của nhà thơ Cao Bá Quát chứa đựng bao nỗi niềm, tâm sự của cả dân tộc và cả thời đại. Tất cả những sự kiện lịch sử ấy hiện lên, tác động mạnh mẽ tới tâm trí người đọc, để rồi từ đó cuộc sống tương lai hiện ra nhiều ý nghĩa hơn. 
Thu Bồn lại xây dựng thời gian nghệ thuật trong trường ca mang một tầm vóc sử thi. Chỉ trong một đêm, những giá trị tốt đẹp của con người được nâng lên tầm cao mới. Sau một đêm, khi nghe tiếng hát trong tù ngục của Sao, biết bao con người đã biết quay đầu, làm lại cuộc đời: 
Sao đã gọi tâm hồn người lính 
Quay súng trở về với quê hương 
(Bài ca chim Chơ rao) 
Sau một đêm ngắn ngủi, tầm vóc của những người anh hùng như Hùng và Rin vụt lớn lao, mạnh mẽ. Sau một đêm thần thánh ấy, sức mạnh của nhân dân được củng cố và lan tỏa rộng khắp. Nhà thơ đã thành công khi khắc họa được ý chí, tinh thần dân tộc qua khoảng thời gian ấy. Có thể nói, thời gian nghệ thuật mà Thu Bồn xây dựng cũng mang một tầm vóc sử thi tráng kiện. 
Khi các sự kiện được đặt trong một bối cảnh và thời điểm cụ thể thì người đọc sẽ tiếp nhận một cách dễ dàng hơn. Cách xây dựng một không gian - thời gian nghệ thuật ấn tượng, độc đáo đã góp phần tạo nên sức hút cho tác phẩm. Qua không gian và thời gian nghệ thuật người đọc có thể cảm nhận rõ ràng hơn ý nghĩa, nội dung tác phẩm mà tác giả thể hiện. 
Tiểu kết chương 3: 
Như vậy, bằng cách sử dụng linh hoạt các biện pháp nghệ thuật, các nhà thơ đã xây dựng thành công hình tượng biển trong trường ca. Biển đảo được xây dựng thành biểu tượng của tổ quốc, của đại dương nhân dân không ngừng vươn xa và lớn mạnh. Biển cả còn là biểu tượng của lòng mẹ và tình yêu đôi lứa. Xây dựng hình ảnh biển thành biểu tượng của các tầng nghĩa trên, các nhà thơ đã góp phần làm cho những tác phẩm của mình trở nên phong phú hơn. Bên cạnh đó, các biện pháp nghệ thuật như thời gian, không gian nghệ thuật; so sánh, nhân hóa hay liên tưởng mà các nhà thơ sử dụng đã xây dựng nên một hình ảnh biển đảo sống động, chân thực và gần gũi với độc giả hơn.  
KẾT LUẬN 
Trường ca là một thể loại đặc biệt, ra đời vào những năm 70 và thực sự nở rộ vào những năm 80 của thế kỷ XX. Đề tài chủ yếu vẫn là đề tài chiến tranh với những suy nghĩ, trăn trở về cuộc đời. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp: "Khi cuộc chiến tranh đi qua, nhu cầu viết trường ca xuất hiện ở nhiều nhà thơ. Điều này không có gì lạ. 

Thứ nhất, độ dài của trường ca cho phép các nhà thơ có điều kiện miêu tả, tái hiện những vùng hiện thực rộng lớn. 
Thứ hai, các trường ca thường dung nạp trong nó yếu tố tự sự rõ nét, thông qua các sự kiện, biến cố xảy ra trong đời sống để trình bày những suy ngẫm của nhà thơ về dân tộc, con người. 
Thứ ba, trong trường ca, các nhà thơ có “đất” để cùng lúc sử dụng nhiều thể thơ khác nhau như một hình thức phô diễn các cung bậc của cảm xúc, tạo dựng tiết tấu và âm hưởng thơ" [79]. Nhưng dù vì lý do gì đi chăng nữa thì sự phát triển của trường ca trong giai đoạn này cũng góp phần làm phong phú thêm nền văn học nước nhà. 
Lúc này, lực lượng sáng tác trường ca khá đông đảo, có thể kể tên như: Nguyễn Khoa Điềm, Anh Ngọc, Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Đức Mậu, Thi Hoàng... Trong đó các tác giả Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh là những tác giả trường ca lớn, có nhiều đóng góp. Các sáng tác của các tác giả trên được độc giả đón nhận và gặt hái không ít giải thưởng trong và ngoài nước. Trong tâm thức người Việt, biển đã hiện diện từ rất lâu. Những câu chuyện trong kho tàng văn học dân gian đã chứng minh điều đó. Không những vậy, biển trở thành đối tượng của nhiều loại hình nghệ thuật, từ điêu khắc, hội họa cho đến văn học. Biển là một đối tượng lớn của thơ ca và trường ca cũng không hề ngoại lệ. Điểm qua sáng tác của Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra ngay rằng, chất biển luôn thường trực trong những trang trường ca của họ. Biển luôn hiện hữu trong tâm thức các nhà thơ, có lẽ bởi đơn giản, họ đều là người con của vùng đất duyên hải nhiều gió nắng. Riêng nhà thơ Hữu Thỉnh, mặc dù quê ở vùng trung du Vĩnh Phúc nhưng qua những năm tham gia kháng chiến, lăn lộn ở các chiến trường miền duyên hải, cũng như thời gian sống và lao động cùng các chiến sĩ hải đảo đã để lại trong ông nhiều kỷ niệm. 
Về mặt nội dung: Mỗi nhà thơ viết về biển bằng một cảm quan khác nhau, nhưng tựu trung lại vẫn là một tình yêu đối với biển đảo quê hương, là những ký ức không thể phai mờ trong tâm thức. Trường ca Thu Bồn xây dựng hình ảnh biển trong ký ức những người con đất Việt trong cuộc kháng chiến giữ nước của dân tộc. Đó là một miền quê đầy gió nắng, là cái nôi nuôi dưỡng, hun đúc ý chí cho người chiến sĩ trưởng thành. Tác giả đã xây dựng hình tượng biển trong mối tương quan với núi, giữa Kinh và Thượng, giữa hai người con đất Việt, Hùng và Rin để toát lên hình ảnh của dân tộc, Tổ quốc. Bên cạnh đó nhà thơ không khỏi tự hào khi nhắc đến đảo. Đảo là một phần máu thịt của đất mẹ Việt Nam, là nơi chúng ta phải giữ gìn và bảo vệ. Bởi vì đơn giản, mất đảo tức là mất đi đất nước. 
Nhà thơ Thanh Thảo viết về biển bằng tấm lòng của một người con đối với mẹ. Trong ông biển là những gì gần gũi và thân thuộc nhất, từ bãi cát dài với chân còng ngoằn ngoèo trên cát cho đến những người con vùng biển chân chất, thật thà. Nhà thơ cũng không quên nhắc lại bao nỗi khó khăn, vất vả của con người. Để rồi từ chính vùng đất đau thương đó, nhà thơ viết lên những trang trường ca đầy tính triết lý về sức mạnh của nhân dân. Sóng, gió, bão, cát... những hình ảnh thân thuộc từ biển là sức mạnh tiềm tàng của dân tộc, là sức sống mãnh liệt trước khó khăn. Đó còn là hạt mầm tái sinh mãnh liệt hơn bao giờ hết. Vẫn viết về đề tài chiến tranh nhưng trường ca Thanh Thảo đã bớt miêu tả không khí hào hùng của dân tộc bằng cảm hứng ngợi ca mà đi vào những số phận, những con người riêng: đó là anh Sáu Như, anh Tư Tròn, anh Ba Tốt, Tám Hùng; là những vị anh hùng như Nguyễn Trung Trực, Cao Bá Quát,… Bên cạnh đó đào sâu sự kiện bằng giọng điệu suy tư, triết lý. Đây cũng là giọng điệu chung của nền văn học hậu chiến sau 1975. 
Nhà thơ Hữu Thỉnh viết về biển bằng cách cảm nhận của một người lính ra đảo làm nhiệm vụ canh giữ, bảo vệ biển đảo của dân tộc. Những suy nghĩ, trăn trở về một môi trường sống đầy xa lạ và hiểm nguy được những người lính gạt sang một bên, nhường lại cho tinh thần trách nhiệm trước nhiệm vụ mới, trong thời đại mới. Chính không gian ấy đã tôi luyện ý chí người lính đảo, khiến họ trở nên mạnh mẽ, vững vàng hơn trước một cuộc đời đầy cám dỗ. 
Về mặt nghệ thuật: Các tác giả cũng đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật để xây dựng hình ảnh biển. Biển được xây dựng thành những biểu tượng có sức gợi rất lớn như biểu tượng của Tổ quốc; biển là đại dương nhân dân; biểu tượng của lòng Mẹ; biểu tượng của tình yêu đôi lứa. Những hình ảnh biểu tượng ấy làm cho tác phẩm có sức khái quát cao, tác động mãnh liệt hơn tới độc giả. Ngoài ra các biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa, liên tưởng được sử dụng với tần xuất khá nhiều, góp phần thể hiện được ý nghĩa mà tác giả muốn truyền tải. Bằng giọng điệu ngợi ca hay trữ tình triết lý, hình ảnh biển bờ được các nhà thơ nâng lên ở một tầm cao hơn và giàu ý nghĩa hơn. Bên cạnh đó, biển còn được 90 “đặt” trong một không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật. Đó không chỉ là không gian sống và chiến đấu thường thấy mà còn là một không gian trong tâm tưởng của những người con đất Việt. Không những vậy, bằng cách xây dựng một khung thời gian nghệ thuật linh hoạt, đảo chiều, những trang trường ca trở nên có chiều sâu và ý nghĩa hơn. 
Hình tượng biển trong trường ca Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh là một đề tài mới. Dù đã cố gắng thực hiện nhiệm vụ khoa học đề ra cho đề tài nhưng do năng lực của người thực hiện nên chắc chắn đề tài còn nhiều thiếu sót. Tuy nhiên, hy vọng hướng tiếp cận của người viết sẽ mở ra hướng nghiên cứu về biển trong trường ca nói riêng hoặc trong thơ ca nói chung mang tính hệ thống hơn. 
Chúng tôi mong muốn có thêm nhiều ý kiến đóng góp cũng như các công trình nghiên cứu khác để đề tài nghiên cứu của chúng tôi được hoàn thiện hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Vũ Tuấn Anh (1997), Nửa thế kỷ thơ Việt Nam 1945-1995, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
2. Vũ Tuấn Anh (1988), “Nguyễn Khoa Điềm với tập thơ Ngôi nhà có ngọn lửa ấm”, Tạp chí Văn học (3). 
3. Arixtot (1999), Nghệ thuật thơ ca (nhiều người dịch), Nxb Văn học, Hà Nội. 
4. Lại Nguyên Ân (1975), “Mấy suy nghĩ về thể loại trường ca”, Tạp chí Văn học (4). 
5. Lại Nguyên Ân (1981), “Bàn góp về trường ca”, Tạp chí Văn nghệ quân đội (1) 
6. Lại Nguyên Ân (1984), Văn học và phê bình, Nxb Tác phẩm Mới. 7. Mai Bá Ấn (2004), Đặc điểm trường ca Thanh Thảo, Luận văn Thạc sĩ, ĐH Sư phạm, ĐH Huế. 
8. Mai Bá Ấn (2009), Đặc điểm trường ca Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo, Nxb Hội nhà văn. 
9. Mai Bá Ấn (2008), “Trường ca Thu Bồn - thể loại và cấu trúc, Tạp chí Nghiên cứu văn học” (2). 10. Nguyễn Duy Bắc (1998), Bản sắc dân tộc trong thơ ca hiện đại, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. 
11. Đào Thị Bình (2009), Thể trường ca trong Văn học Việt Nam từ 1945 đến cuối thế kỉ XX, Luận văn thạc sĩ, ĐH Sư phạm Tp.Hồ Chí Minh. 
12. Ngô Vĩnh Bình (2009), 65 bài thơ-nhà thơ quân đội: Một thời đánh giặc, một thời làm thơ, Nxb Kim Đồng. 
13. Thu Bồn (1999), Bài ca chim Chơ Rao-tuyển tập trường ca, Nxb Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh. 
14. Nhị Ca (2010), Tiểu luận, phê bình văn học, Nxb Hội nhà văn. 15. Phạm Quốc Ca (2002), Mấy vấn đề thơ Việt Nam 1975-2000, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội 
16. Nguyễn Xuân Cổn (2005), Đặc điểm trường ca Thu Bồn, Luận văn thạc sĩ, Thư viện ĐH Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh 
17. Nguyễn Văn Dân (2008), “Trường ca với tư cách là một thể loại mới”, Tạp chí Sông Hương (4) 92 
18. Ngô Quý Dương (2010), Trường ca Thu Bồn dưới góc nhìn thể loại, Luận văn Thạc sĩ trường ĐH Sư phạm Hà Nội. 
19. Nguyễn Đăng Điệp (2006), “Thơ Việt Nam sau 1975-từ cái nhìn toàn cảnh”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học (11). 
20. Hoàng Điệp (2008), “Hữu Thỉnh với thể loại trường ca”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học (3). 
21. Hà Minh Đức, Bùi Văn Nguyên (1967), Thơ ca Việt Nam- Hình thức và thể loại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
22. Hà Minh Đức (1974), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
23. Lê Thị Thu Hà (2007), “Giọt nước mắt hát cho người viết trường ca”, Tạp chí Văn nghệ (662) 
24. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2009), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục TP. Hồ Chí Minh. 
25. Nguyễn Văn Hạnh (2004), Chuyện văn chuyện đời, Nhà xuất bản Giáo Dục. 
26. Nguyễn Thị Hậu (2010), “Tính phức hợp của trường ca Việt Nam hiện đại”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học (8) 
27. Hoàng Ngọc Hiến (1984), “Về đặc trưng của trường ca”, Tạp chí văn học (3) 
28. Hội văn học dân gian Việt Nam (2010), Làng biển Cảnh Dương, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin. 
29. Hội văn học dân gian Việt Nam (2010), Yếu tố biển trầm tích trong văn hóa Raglai, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 
30. Hà Minh Hồng (chủ biên) (2011), Nhìn ra biển khơi, Nxb Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh 
31. Hồ Quốc Hùng (2003), Truyền thuyết Việt Nam và vấn đề thể loại, Nxb Trẻ. 
32. Nguyễn Thị Thu Hương (2002), Một số trường ca tiêu biểu về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Luận văn thạc sĩ, ĐH Sư phạm Hà Nội 
33. Hoàng Thị Thu Hương (2009), Chất triết luận trong trường ca Thanh Thảo, luận văn Thạc sĩ trường ĐH Sư phạm Hà Nội 
34. Trần Thị Thu Hương (2002), Trường ca Thanh Thảo, Luận văn Thạc sĩ, ĐH Sư phạm Hà Nội. 
35. Nguyễn Thụy Kha (19990, Thanh Thảo, người lính, những khúc ca lính Việt- Lời quê góp nhặt, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội 93 
36. Đỗ Văn Khang (1982), “Từ ý kiến về trường ca sử thi của Heghen đến trường ca hiện đại của ta”, Tạp chí Văn học (6) 
37. Đinh Gia Khánh (chủ biên (2006), Văn học Việt Nam (Thế kỷ X-nửa đầu thế kỷ XVIII), Nxb Văn học. 
38. Nguyễn Văn Kim (2011), Người Việt với biển, Nxb Thế giới Hà Nội 
39. Trần Phương Lan (1976), “Nguyễn Khoa Điềm, nhà thơ trẻ có nhiều triển vọng”, Tạp chí Văn học (5) 
40. Nguyễn Văn Lãm (1965), “Bài ca chim Chơ Rao, một bản trường ca hay”, Tạp chí Văn học (5) 
41. Mã Giang Lân (1982), “Trường ca, vấn đề thể loại”, Tạp chí Văn học (6) 
42. Mã Giang Lân (1988), “Thử phân định ranh giới giữa trường ca và thơ dài”, Tạp chí Văn học (5) 
43. Mã Giang Lân (2001), Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
44. Mã Giang Lân (2005), Văn học hiện đại Việt Nam, vấn đề-tác giả, Nxb Giáo dục. 
45. Nguyễn Thị Hải Lê (2009), Biển trong văn hóa người Việt, Nxb Quân đội nhân dân. 
46. Thiếu Mai (1980), “Thanh Thảo, thơ và trường ca”, Tạp chí Văn học (2). 
47. Hồ Quốc Nhạc tuyển chọn (2000), Thơ về biển, Nxb Đồng Nai 48. Phùng Quý Nhâm (1992), Thẩm định văn học, Nxb Văn nghệ Tp. HCM 
49. Bùi Mạnh Nhị, Hồ Quốc Hùng, Nguyễn Thị Ngọc Diệp (1990), Văn học Việt NamVăn học Dân gian, những công trình chọn lọc, Nxb Giáo dục 
50. Nhiều tác giả (2012), Văn hóa biển đảo ở Khánh Hòa, Nxb Nha Trang. 
51. Nhiều tác giả (2009), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Nxb Đà Nẵng. 
52. Võ Đức Phúc (2001), Bàn về văn học, Nxb Khoa học Xã hội. 
53. Trần Đình Sử (1987), Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb Tác phẩm Mới, Hà Nội. 
54. Trần Đình Sử (1995), Những thế giới nghệ thuật của thơ, Nxb Giáo dục Hà Nội 
55. Trần Đình Sử (tuyển tập) (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục 
56. Trần Hữu Tá (2000), Nhìn lại một chặng đường văn học, Nxb Tp. Hồ Chí Minh 
57. Nguyễn Thị Liên Tâm (2009), Trường ca về thời chống Mỹ trong văn học hiện đại Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Sư phạm Tp.Hồ Chí Minh 
58. Hoài Thanh, Hoài Chân (2003), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học Hà Nội 
59. Thanh Thảo (2004), Những người đi tới biển, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 
60. Thanh Thảo (2004), Mãi mãi là bí mật, Nxb Lao Động, HNội. 94 
61. Thanh Thảo (2007), 1,2,3, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội 
62. Trần Ngọc Thêm (2000), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
63. Hữu Thỉnh (2004), Trường ca Biển, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội 
64. Nguyễn Huy Thông (2009), Cảm nhận văn chương (tiểu luận, phê bình văn học), Nxb Thanh niên. 
65. Phạm Huy Thông (1983), “Trường ca”, Tạp chí Văn học (1) 
66. Lưu Khánh Thơ (1988), “Hữu Thỉnh, một phong cách thơ sáng tạo”, Tạp chí văn học (2) 
67. Bích Thu (1985), “Thanh Thảo - Một gương mặt tiêu biểu trong thơ từ sau 1975”, Tạp chí Văn học (5) 
68. Lý Hoài Thu (1999), “Thơ Hữu Thỉnh, một hướng tìm tòi và sáng tạo từ dân tộc đến hiện đại”, Tạp chí Văn học (12) 
69. Dương Lệ Thủy (2011), Đặc điểm trường ca Thanh Thảo, Luận văn thạc sĩ, ĐH Sư phạm Tp.Hồ Chí Minh 
70. Lê Ngọc Trà (1998), Lý luận văn học, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. 
71. Đào Thị Khánh Vân (2009), Trường ca Thanh Thảo, Luận văn thạc sĩ, ĐH Sư phạm, Đại học Thái Nguyên. Tài liệu Internet 
72. Lại Nguyên Ân (2012), “Mấy suy nghĩ về thể loại trường ca”, lainguyenan.free.fr 
73. Mai Bá Ấn, "Hai đặc điểm cơ bản của trường ca Việt Nam hiện đại", http://phongdiep.net/
74. Mai Bá Ấn," Thu Bồn, Một dặm dài trường ca" http://phongdiep.net/
75. Mai Bá Ấn, "Tâm thức biển trong trường ca Thu Bồn, Thanh Thảo, Nguyễn Khoa Điềm", http://phongdiep.net/
76. Nguyễn Việt Chiến, “Thơ Việt Nam 30 năm cách tân”, http://vn.360plus.yahoo.com. 
77. Văn Chinh (2012), “Vài nét Hữu Thỉnh”, http://nongnghiep.vn/
78. Con người miền trung trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu (2011), file:///F:/1563-con-ng.htm 95 
79. Nguyễn Văn Dũng, “Thanh Thảo, những chặng đường thơ”, http://nhavantphcm.com.vn/
80. Nguyễn Đăng Điệp, “Hành trình đổi mới thơ Việt Nam đương đại”, http://www.phatgiaobaclieu.com. 
81. Quang Đức, "Văn hóa biển đảo Việt Nam: “Xuống biển” từ hàng ngàn năm trước", http://thethaovanhoa.vn/
82. Phạm Đương, "Tôi đặt tên tôi là cỏ", http://baoquangngai.com.vn/
83. Trần Thiện Khanh, “Cấu trúc nhịp thơ và nhạc âm của thơ”, http://tapchisonghuong.com.vn. 
84. Trần Thiện Khanh, "Đối thoại về trường ca và trường ca Việt Nam hiện đại", http://phongdiep.net/
85. Hoàng Thị Minh Hóa, "Kết cấu và ngôn ngữ thơ Thanh Thảo, nhìn từ lý thuyết thi pháp học của Roman Jakobson", http://bichkhe.org/
86. Nguyễn Thị Xuân Hương (2009), "Văn học là một nghệ thuật", http://xuanhuong1964.violet.vn/
87. Nguyễn Văn Kim (2010), “Biển với người Việt”, http://www.baomoi.com/
88. Lê Thị Mây (2011), “Hữu Thỉnh với trường ca Biển”, http://www.vanvn.net/
89. Nguyễn Hữu Quý (2010), "Biển đảo trong thơ hôm nay", http://www.baomoi.com/
90. Thái Nguyễn Hồng Sương, "Quan niệm nghệ thuật của Thanh Thảo", http://bichkhe.org/
91. Tạ Văn Sĩ (2012), "Biển - đảo và thơ", http://www.bienphong.com.vn/
92. Thanh Thảo (2011), "Chân sóng - Thơ của Thanh Thảo", http://www.thanhnien.com.vn/
93. Thanh Thảo (2012), "Biển trong tôi", http://baoquangngai.com.vn/
94. Nguyễn Thị Ngọc Trâm, "Thanh Thảo và con đường thơ mới sau 1975", http://bichkhe.org/
95. Đài truyền hình Việt Nam (VTV4) (2012), Ký sự biển đảo, youtube.com/.
NGUYỄN A SAY
Theo http://lib.hcmup.edu.vn:8080

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

XXXXVăn học miền Nam: Tổng quan 3

Văn học miền Nam: Tổng quan 3 Phần 15 Văn học Từ giai đoạn trước sang giai đoạn sau 1963 người ta có thể ghi nhận nhiều chuyển biến quan...