Thứ Hai, 22 tháng 4, 2019

Mùa xa nhà 2

Mùa xa nhà 2
Chương 11
Thấm thoắt tiểu đoàn đã trở về nội địa hơn hai tháng. Trong thời gian này, đơn vị đã có nhiều đợt hành quân truy quét trên địa bàn đóng quân. Thường mỗi đợt như vậy kéo dài từ  ba bốn đến chín mười ngày.
Có lúc họ đi về hướng đông nam huyện, nơi trảng lúa chạy dài mãi cho đến khi tiếp giáp biển hồ Tông lê sáp ; có lúc họ đi về hướng bắc- tây bắc, nơi những dãy núi đất đứng trầm lặng uy nghiêm, trên mình khoác lớp áo rừng cây nhiệt đới rậm rạp, chằng chịt dây leo. Có khi cả tiểu đoàn hợp thành một mũi truy quét trọn một vòng; cũng có khi ba đại đội chia thành ba mũi khác nhau đi về ba hướng, khối hỏa lực trực thuộc tiểu đoàn đón lõng ở một nơi. Những cuộc hành quân này tiến hành vào thời điểm những cơn mưa đầu mùa tuôn trút như thác đổ. Nhiều lúc đoàn quân đi trong một biển nước mênh mông, nước dâng đến đùi, đến hông, trên đầu là cơn mưa xối xả. Đoàn quân - như một đoàn thuyền dằng dặc - cắt một con đường qua làn sóng xanh  ngút ngàn những ngọn lúa mùa dài ngoẵn.
Có những đêm, đơn vị hành quân len lỏi qua những căn nhà sàn thuộc một phum xa lạ dưới ánh sao nhàn nhạt. Thỉnh thoảng, một vài con chó chợt giật mình tru lên một tràng tức tối, rồi mọi thứ lại im lìm. Nhiều lần Huy đi sát qua vách một căn nhà nào đó, anh hầu như nghe thấy cả tiếng một đứa bé ngủ mê ú ớ, tiếng ngáy đều đều, tiếng xoay trở mình trên lớp ván sàn của một người dân, lòng Huy dâng dâng một niềm xao xuyến bồi hồi khó tả. Chính bằng những đêm hành quân như vậy, Huy và đồng đội đã giữ  cho giấc ngủ, cho cuộc sống nhân dân được yên bình. Từ những đêm trắng hành quân, từ những cuộc múa lăm thôn tưng bừng náo nhiệt, từ những đêm trăng giúp dân giã gạo, từ những ngày mùa giúp dân nhổ mạ, cấy lúa... tình thương yêu gắn bó đã đâm chồi.
Đoàn quân đi rất lặng lẽ. Ai đó tinh ý lắm mới nghe thấy được tiếng lớp vải dày của hai ống quần cọ vào nhau kêu sột soạt, tiếng bước chân đằm đằm dội vào lòng đêm quạnh vắng. Đêm ngan ngát hương. Mùi của lớp cỏ đẫm sương bị giày xéo thơm như hơi thở trẻ con. Mùi thơm rất khẽ khàng của những loài hoa dại như  lơ lững giữa không gian. Hương đêm cứ bềnh bồng trôi qua mặt, thoang thoảng vương lên tóc, thấm vào tận đáy lòng. Đôi khi, đoàn quân đi qua những khoảnh đất rộng mọc đầy những khóm ngò gai và rau húng. Mùi rau thơm thoảng gợi  cho những người lính nhớ tới quê nhà, gợi nỗi thèm thuồng khi tưởng tượng ra những bát phở ngon lành bốc khói. 
Cũng có khi đoàn quân đi dưới ánh trăng non một đêm thượng tuần lờ mờ sáng. Kẻ đi sau bíu lấy ba lô người đi trước, đôi mắt nhắm nghiền, vừa lơ mơ ngủ vừa bước theo quán tính. Đôi lúc, cơn ngủ quá say, người trước đã quẹo về hướng khác, người sau vẫn cứ lùi lũi theo hướng cũ, chợt đâm sầm vào một gốc cây, bụi rậm nào đó mới giật mình mở mắt ra hốt hoảng.
Những trận đánh trong những đợt truy quét như thế này, nếu có, cũng không có gì căng thẳng. Thường thì họ chỉ đụng phải những nhóm nhỏ, khoảng chừng  mươi mười lăm tay súng. Thế nên chỉ cần bao vây, nổ súng giây lát là chúng buông súng đầu hàng, hoặc chạy trốn mất vào những cánh rừng rộng lớn.
Trong hai tháng, chỉ có trận đánh ở gần phum Đôn là hơi thú vị. Trinh sát tiểu đoàn đi bám phát hiện được một lực lượng khá đông, khoảng một đại đội lính Polpot vừa đến đóng ở một phum bỏ hoang nằm kề phum Đôn. Phum này nằm ở hướng đông, cách cứ khoảng hơn ba mươi cây số. Ngay đêm hôm đó hai đại đội được lệnh xuất kích. Đại đội 12 làm mũi chủ công, được tăng cường thêm trung đội 12 ly 7. Đại đội 11 đón lõng ở hướng tây bắc, chặn đường rút của địch vào rừng. Đó là một đêm cuối tháng, nhằm ngày hai mươi chín hoặc ba mươi âm lịch, trời tối đen như mực. Gần bốn giờ sáng, họ tới rìa phum hoang. Đoàn quân dò dẫm đi từng bước khi bắt đầu xuyên vào khoảng lùm bụi um tùm vây bọc quanh phum hoang. Dẫn đầu đội hình là hai tay trinh sát tiểu đoàn, kế đó là trung đội bốn, kế nữa là trung đội súng máy 12 ly.
Thắng, một trong hai trinh sát đang cắt đường, bỗng nghe tiếng ho khù khụ  ở ngay trước mặt, cách không đầy mười mét. Anh đứng sững ngay lại, thầm hú vía trong bụng. Nếu tên địch nào đó mà không bật ho lên thì rất có thể đại đội đã đạp cả lên võng của chúng rồi. May sao bọn địch vẫn chưa phát hiện ra ta đang ém sát bên. Có lẽ chúng đã hút quá nhiều cần sa nên ngủ mê man quên trời đất. Cả mấy tên lính gác cũng đang ngủ gà gật. Không thì  quân ta cũng khá là vất vả!
Thắng khoát tay, kề miệng vào tay Phụ, đại đội trường C12, thì thào: “Có địch!”. Phụ và một vài người đi đầu cũng đã nghe thấy tiếng ho. Lập tức đại đội lui lại phía sau một khoảng, triển khai đội hình chiến đấu. Phụ bò qua chỗ Quân. Anh khẽ nói:
- Chúng ta sẽ nổ súng khi vừa rạng sáng. Ông cho phát hỏa trước. Đồng thời, vừa nghe 12 ly nổ, mấy khẩu B của tôi cũng nổ ngay. Tụi nó chỉ có nước tưởng bị sấm sét đánh xuống đầu!
Quân hạ lệnh lắp súng.   
Thường ngày khi tập luyện anh em thao tác rất nhanh. Quân cho tập bịt mắt tháo lắp dự phòng tình huống chiến đấu trong đêm,  mọi người cũng chỉ mất hơn bốn phút là xong.
Thế nhưng đêm đó mấy số súng cứ loay hoay mãi mới lắp xong, ai cũng mồ hôi lăn ròng ròng trên trán. Họ hồi hộp vì cách địch quá gần, e chúng nghe thấy tiếng động lách cách mà tương ngay một quả B vào thì toi cả đám!
Lắp đạn xong, Huy bò qua chỗ Quân ra hiệu. Quân nói nhỏ :
- Thôi để anh bắn. Huy và Thuận lui ra hai cánh nằm xuống đi.
Mọi người đã đâu vào đó, sẵn sàng cho trận đánh. Quân nới khoá hướng, xoay nhẹ qua lại vài lần kiểm tra. Sau đó, anh lấy tầm ở khoảng cao ngang hông, tức là chiều cao trung bình  chiếc võng địch mắc, rồi khóa cứng lại. Và họ nằm im, chờ đợi.
Những giây phút như lúc này bao giờ  cũng là lúc  mọi người nghĩ thật nhiều và nhớ thật nhiều. Họ nhớ cha mẹ, hoặc vợ con, hoặc người yêu, hoặc thậm chí một con cún con nào đó nhà nuôi từ hồi còn họ còn nhỏ xíu, một cây ổi già đã họ ngồi chênh vênh suốt những buổi trưa hè thơ dại, nhưng cuối cùng, dù cho nhớ ai, nhớ gì đi nữa, thì họ cũng nhớ tới với một tình yêu sâu sắc. Có thể một khoảnh khắc sau, ai đó  trong số họ sẽ không bao giờ nghĩ và nhớ nữa.  
Tiếng gà rừng eo óc gáy dồn, báo hiệu trời sắp sáng. Đêm nhạt dần. Khi ánh sáng mờ mờ của bình minh đã cho thấy hình dáng của những lùm cây lúp xúp, họ phát hiện ra nhiều chiếc võng đang giăng rải rác trước mặt. Xéo về phiá tay phải Quân chừng mười lăm mét, một tên lính Pốt ngồi gác đang ngủ gật, đầu ngoẹo sang một bên vai. Quân đưa hai ngón trỏ và ngón giữa của bàn tay trái vào hờm sẵn một bên cò - súng 12 ly có hai cò song hành, và phải xiết bằng cả hai tay, vì sức rung giật rất mạnh, một tay khó lòng kềm nổi - tay phải anh giật mạnh tay kéo khoá nòng, lên đạn. Tay kéo vừa đi hết quảng đường kêu đánh rốp một tiếng vang khô khốc, thì ngay lập tức tay trái của Quân đã xiết cò. Sau đó, anh đưa luôn tay phải vào cò súng. Quân xiết luôn một điểm xạ dài khoảng nửa băng, quay nòng súng quét ngang một vòng cung một trăm hai mươi độ. Đạn vạch đường đan những vệt lửa trong màn sương sớm. Ngay sau tiếng gầm của khẩu trọng liên, mấy khẩu B cũng phát hỏa. Rồi mọi tay súng đều nổ súng về phía trước.
Địch không kịp phản lại một phát súng nào ngay tại chc. Chúng mất hồn mất vía, chỉ còn biết chạy tháo thân. Khi đã vượt ra hỏi tầm hỏa lực, hoàn hồn lại phần nào, chúng củng cố lại đội hình và  bắt đầu phản kích. Nhưng chỉ chừng nửa tiếng, chúng nhận ra tình thế bất lợi và từ  từ rút lui vào rừng. Sau một lúc, trận địa im ắng lại, Phụ  hô to:
- Mọi người lên thu dọn trận địa!
Những lùm cây bụi cỏ đẫm ướt sương quanh một vùng rộng bị giẫm đạp lên tơi tả. Đây đó, trong một khoảng bán kính gần năm mươi mét, rải rác những chiếc võng bị đạn băm lỗ chỗ, đầy vết máu. Trừ năm xác chết, bọn bị thương đều cố chạy thoát. Mọi người nhanh chóng thu gom ba lô, võng và súng địch còn bỏ lại, rồi lên đường quay về cứ.
Chuyến đó, họ thu được tám khẩu AK báng gấp mới toanh, một B40 bị đạn trọng liên xuyên qua nòng, một  B41 và một đại liên đuôi cá, cùng vô số ba lô. Anh em được một phen phấn khởi. Trên đường rút quân về, họ đi như bay không biết mệt, huênh hoang khoác lác với nhau về chiến công vừa lập được.
Một lần khác, đơn vị đi về hướng đông huyện. Đi mãi suốt một đêm ngày vẫn không gặp địch, Tiểu đoàn trưởng Văn quyết định quay về. Khi vào đến một phum nhỏ, những người đi đầu đội hình phát hiện khoảng hơn hai mươi tay súng đang rút khỏi phum, chạy về hướng nam. Văn hạ lệnh cho khẩu đội vận động lên, quyết ghìm chân chúng lại bắt sống. Huy, Thuận, Tiến là ba xạ thủ chính cứ để nguyên khẩu súng hạ càng trên vai vận động. Con đường đất băng qua phum lầy lội, trơn như mỡ, làm họ suýt té mấy lần. Phần khác, ai cũng đã rất đói vì suốt đêm trước hành quân chỉ có một nắm cơm vắt lót dạ, đã tiêu mất tự đời nào. Lúc tìm mãi mà không gặp, vừa khi định dừng lại nghĩ ngơi cơm nước, địch lại hiện ra. Chuyện đánh đấm có khi thật oái oăm.
Sau một lúc đọ súng, họ bắt được hơn mười tên địch. Số kia chạy thoát vào rừng. Những người lính tước súng địch, rồi dùng ngay mấy chiếc khăn croma chúng quàng trên cổ làm dây trói. Lẽ ra có thể xem đó là một trận dễ dàng và thắng lợi hoàn toàn, nếu không có ba tay súng của ta bị thương nhẹ vì mảnh B40 địch bắn trả.
Văn cho đơn vị tiếp tục hành quân về, không dừng lại nấu cơm nữa. Anh định tới huyện lỵ sẽ nghỉ ngơi luôn thể, đồng thời đưa mấy thương binh vào trạm y tế huyện để săn sóc tốt hơn. Dọc đường, mọi người móc bao gạo sấy ra nhá nhá cho đỡ đói.
Trung đội 12 ly được giao áp  giải hai tên địch. Quân cho chúng đi trên đầu đội hình, ngay sau lưng anh. Huy len lên đi phía trước A trưởng Thiện, để kiếm chuyện hỏi mấy tên tù binh. Anh tò mò muốn biết chúng suy nghĩ ra sao. 
Huy quan sát hai tên tù binh. Một tên trẻ hơn trạc tuổi Huy, tên kia đã hơn ba mươi và trông lầm lì, cau có. Huy đi tới sát bên tên lính trẻ. Anh vỗ vai hắn. Hắn quay sang nhìn anh, ánh mắt hoảng sợ, e dè. Huy hỏi:
- Anh theo Polpot lâu chưa?
- Hai năm rồi.
- Quê anh ở đâu?
- Ở dưới mạn Puốc Xát.
- Có vợ con gì chưa?
- Có vợ rồi, nhưng chưa có con.
- Sao theo địch mà không ở nhà làm ăn đàng hoàng nuôi vợ?
- Bị bắt phải theo. Không họ giết.
Huy nhìn thẳng vào mắt hắn:
- Thật không?
- Tôi không dám nói láo đâu.
Huy gật đầu. Im lặng một lúc, anh hỏi tiếp:
- Thế anh có nhớ nhà nhớ vợ không?
- Nhớ lắm. Tôi hay khóc nhiều những lúc gác đêm.
- Vậy sao không bỏ trốn về?
- Tôi sợ lính ông Hêng Xom Rin trả thù.
- Làm gì có! Anh không biết là ra hàng thì được khoan hồng, không bị xử phạt à?
- Không biết đâu. Angkar nói nếu đầu hàng sẽ bị giết hay bị tù.
Huy nhìn tên lính, nét mặt hắn hiền lành chất phác, không có vẻ gì tàn ác hay dữ tợn. Thế nhưng làm sao biết được hắn đã làm gì. Huy lại hỏi:
- Thế có bao giờ anh bắn giết dân, bắt đàn bà hãm hiếp chưa?
- Dạ không có, không có đâu! - Hắn lắc đầu lia lịa,  mặt tái đi.  
Đến huyện lỵ, Văn đưa ba người bị thương vào trạm xá. Mọi người còn lại tản ra dọc theo hai bên đường nấu cơm.
Tới giờ ăn, Quân cho cởi trói một bên tay hai tên địch. Tay còn lại vẫn ghịt chặt sau lưng, để phòng chúng bỏ chạy. Chúng cũng được ăn như mọi người khác, không có gì phân biệt. Ăn  xong, họ trói hai tên tù binh như cũ, chờ Văn làm việc với ban chỉ huy bộ đội địa phương xong là bàn giao tất cả cho quân đội bạn xử lý.   
Huy cuộn một điếu thuốc, ngồi bệt xuống đất, tựa lưng vào một gốc me, phì phèo nhả khói. Tên trẻ tuổi lúc nãy đã nói chuyện với Huy nhìn anh hút thuốc với vẻ thèm thuồng. Tên kia vẫn cúi đầu lầm lì. Trên đường đi, Huy cũng đã mấy lần gợi chuyện,nhưng hắn chỉ lắc lắc, gật gật, không chịu hé răng. Huy hỏi tên trẻ tuổi:
- Hút thuốc không?
- Dạ, xin cho tôi hút với.
Huy cuộn cho mỗi tên một điếu, rồi gắn lên môi chúng. Tên già nhìn anh gật đầu tỏ ý cám ơn. Huy mỉm cười hỏi hắn:
- Lần này về rồi, có chạy theo giặc nữa không, ông già?
- Không đâu. Tôi muốn về với vợ con lâu rồi - Hắn đáp, đôi mắt buồn buồn. Có lẽ hắn  nhớ tới một căn nhà nào đó xa xôi, nơi có người vợ và lũ con đang chờ mong hắn.
Huy trầm ngâm nhìn cả hai. Trông họ không có vẻ gì tàn ác đáng sợ. Cứ như  vẻ ngoài và thái độ của hai tên này, thì thật không tài nào hiểu được tại sao lại có những tên lính Polpot dã man, khát máu, giết người như ngoé. Có lẽ khi đã bị cuốn vào trong cuộc, những hành vi tàn bạo đã dần dần trở thành quen thuộc, thành phản xạ tự nhiên. Người lính vốn thường là mù quáng. Họ như là bọn người máy chỉ hành động theo mệnh lệnh cấp trên. Nếu cấp trên của họ là loại tàn bạo điên cuồng, thì làm sao họ không điên cuồng, tàn bạo!
Còn cái gì khác hơn, đúng hơn để giải thích cho tất cả những gì đã xảy ra. Cho những đống xương người trưng bày trong các nhà kính,  tỉnh lỵ nào cũng có. Cho hàng triệu người đã bị bắn, bị đập đầu bằng cuốc xẻng, bị cứa cổ bằng sóng lá thốt nốt đầy gai nhọn, bị hất xác vào những hố chôn tập thể rải rác trên khắp những bìa rừng, những cánh đồng hoang?…
Chương 12
Huy đã quen biết nhiều người ngoài phum. Anh thân nhất với gia đình Sa Piên, vì thường theo Lý, Mợi ra đó chơi. Me Sa Rinh thương Huy như con ruột. Bà hay nắm hai bàn tay của Huy, hỏi han về ba má, về gia đình anh, những chuyện vui buồn anh đang gặp. Thỉnh thoảng, bà lại xoa xoa đầu Huy thương mến. Chính má Huy cũng ít có những biểu lộ tình cảm như vậy với anh, dù Huy biết bà rất thương yêu anh. Vì vậy, Huy cảm thấy thương mến và gần gũi với me Sa Rinh vô cùng.
Me có hai người con gái. Cô chị đã lấy chồng và theo chồng ra sống ngoài chợ huyện. Còn Sa Piên năm ấy hai mươi tuổi. Ở vùng này, con gái hai mươi chưa chồng đã coi là quá thì. Thường thì  khoảng mười sáu, mười bảy họ đã tay bồng tay bế.
Sa Piên lấy chồng muộn có lẽ vì cô biết rằng mình đẹp. Cô không thấy ai trong đám thanh niên thôn nhà làm cho mình tôn trọng, nễ vì, họ luôn luôn quỳ lụy, xum xoe trước mặt cô. Đối với một người con gái, không tôn trọng thì không bao giờ có thể yêu thương. Với Sa Piên điều này càng có ý nghĩa đặc biệt hơn. Cô có  những ước mơ, khát vọng thầm kín về người đàn ông sẽ cùng chung sống với mình. Đó phải là một con người lý tưởng, vừa đẹp đẽ, vừa cao thượng, anh hùng. Những chàng trai làng quê mùa, khờ khạo, ăn nói toàn những câu cộc lốc, dưới mắt cô, chỉ là một lũ trẻ con lớn xác. Cô coi thường họ, đón nghe những lời tán tỉnh thô lỗ của họ với nụ cười lạnh lùng, ngạo nghễ của một bà hoàng.
Me Sa Rinh thường hay hỏi han về Quân. Bà có vẻ buồn buồn mỗi khi nhắc đến anh. Một đôi tuần, me lại đích thân đi vào Cứ, mang cho Quân lúc thì một gói mắm tép chua, lúc thì một vài thứ trái cây. Cả hai cứ ngồi lặng im suốt buổi, không nói một câu ngoài mấy lời chào hỏi lúc đến, lúc về. Có lần, Huy thoáng thấy me rưng rưng nước mắt nhìn Quân, cầm một bàn tay của anh vỗ nhè nhẹ như muốn an ủi một nỗi niềm gì đó. Từ dạo về Cứ đến nay, chưa bao giờ Huy thấy Quân đặt chân vào nhà me. Thảng hoặc có việc phải ra phum, bao giờ anh cũng cố thu xếp để về trại thật nhanh, né tránh những lối đi ngang qua nhà Sa Piên. Huy lờ mờ cảm nhận giữa Quân và gia đình Sa Piên dường như có một mối liên hệ nào đó vượt khỏi mức độ bình thường. Nhưng anh không nghĩ ra, mà cũng không dám hỏi thẳng Quân hoặc me Sa Rinh. Anh sợ làm bà thêm buồn khổ.
Chiều hôm đó, Huy một mình ra chơi nhà me. Lý và Mợi đã lên trung đoàn bộ thăm đồng hương. Già Hương bận công chuyện riêng.  Huy bước lên thang chỉ trông thấy mỗi mình me Sa Rinh đang cho tằm ăn. Anh hỏi:
- Mọi người đâu hết rồi me?
- Buk Hô Cha Hô đi ra rẩy, còn Sa Piên nó ra chợ huyện mua đồ rồi. Sao con ra có một mình vậy Huy?
- Mấy anh có việc nên không ra được me ạ. 
Me Sa Rinh bưng mấy rỗ lá dâu đặt lên chiếc sập tre. Bà mới quá năm mươi, hơn má Huy vài tuổi, nhưng trông đã già nua lắm. Gương mặt bà chằng chịt nếp nhăn, dấu vết của những năm tháng vất vả nhọc nhằn lo cho chồng con. Trông me già hơn Buk Hô nhiều. Me  sinh  nở  năm lần. Mấy người con trai đã chết vào những năm Polpot cầm quyền. Bao nhiêu đêm me đã thầm lặng khóc nhớ con, làm sao mà không già trước tuổi. Nhiều lần Huy đăm đăm nhìn me, cố hình dung lại khuôn mặt bà hồi còn trẻ tuổi. Hồi còn thiếu nữ, có lẽ bà đẹp không kém Sa Piên. Khung xương mặt, đường viền khuôn cằm bà vẫn còn lưu lại chút gì thanh thoát của một mỹ nhân. Trong nét đi đứng nói cười vẫn có một cái gì  thoát tục.
Có lần, me đã kể cho Huy nghe chuyện thời con gái của bà. Hồi ấy, bà là người đẹp nhất trong xã Svai, huyện Phnom Túi, thuộc một tỉnh xa ở miền nam. Bao nhiêu trai tráng trong mấy phum lân cận đều yêu thầm nhớ trộm cô gái Sa Rinh. Cha của Sa Rinh là một di dân người gốc  Quảng Đông, Trung Quốc. Cô thừa hưởng làn da sáng của cha, đôi mắt to tròn của mẹ. Dòng máu pha trộn giữa hai dân tộc đã tạo nên ở  Sa Rinh một vẽ đẹp lạ thường.  Không chỉ là một người có dáng vóc bên ngoài, cô gái Sa Rinh đã học đến hết lớp chín ngoài thị xã. Đây là một điều rất hiếm hoi, ngay cả đối với nam giới vùng ấy bấy giờ. Vừa đẹp, vừa có học, có thể nói cô là giấc mơ không bao giờ biến thành sự thật, là một nữ thần trong tim của hầu hết đàn ông trai tráng trong toàn xã. Đã có những chàng trai con nhà cự phú, bạn học ngoài thị xã  khẩn thiết cầu hôn, bị chối từ, vẫn còn âm thầm nhớ mong, đeo đuổi mãi cho đến lúc cô đi lấy chồng.
Sa Rinh không nhận lời những người săn đón không phải vì cô chê họ. Cô đã yêu một người thanh niên phum nhà, người từng gắn bó thân thiết với cô từ  thuở ấu thơ. Đó là Hô, bạn học với cô thời tiểu học. Hô nhà nghèo rách mồng tơi, cha mẹ anh chẳng có đến một con bò làm vốn. Vì vậy, dù rất thông minh, học giỏi nhất lớp năm trường huyện, anh đành phải nghỉ học để phụ giúp cha mẹ nuôi đàn em nhỏ. Trái lại, nhà Sa Rinh  giàu có nhất nhì phum, có đến năm cặp bò bô và hàng mấy chục mẩu ruộng thượng đẳng điền, có đến dăm chục người đến làm công cho nhà cô trong dịp giáp mùa cấy gặt. 
Cô bé Sa Rinh và chú bé Hô đã thương mến nhau từ những ngày học chung ở huyện. Khi Sa Rinh ra thị xã học, cô chỉ về thăm nhà đôi lúc vào ngày lễ, và mùa nghỉ hè. Đôi bạn chỉ gặp nhau trong những dịp hiếm hoi đó. Nhưng hình như càng xa cách, càng trở ngại, họ lại càng mến yêu nhau. Tình bạn thơ ngây không biết từ  lúc nào đã biến thành tình yêu nam nữ. Nhưng gia cảnh cách biệt quá xa, họ chỉ biết thầm nén những tình cảm đắm say.
Họ yêu nhau trong tuyệt vọng, không biết làm cách nào để đến với nhau. Sa Rinh không hề dám để cho cha mẹ mình biết chuyện. Cô hiểu không bao giờ ông bà đồng ý cho cô lấy một anh chàng khố rách áo ôm như vậy. Cô chỉ còn một cách duy nhất là kiếm cớ chối từ, trì hoãn  khi có kẻ đến cầu hôn, mơ hồ cầu mong có một phép lạ nào sẽ đến, để cô có thể lấy được người đàn ông mình hết lòng yêu mến.
Năm Sa Rinh mười chín tuổi, một biến cố nhỏ xảy ra. Biến cố đó đã giúp cô toại nguyện.
Mùa xuân năm đó, một người đàn ông từ thủ đô đến quê cô mua điền sản để đầu cơ lập nghiệp. Ông ta tên Pu Vên. Pu Vên rất giàu. Gia sản của cha mẹ Sa Rinh so với của ông ta chỉ như một con nhái bén so với con bò. Pu Vên goá vợ. Ông ta đã có hai đời vợ, và đến mười mấy người con. Họ đều lớn cả. Con út của ông còn lớn tuổi hơn Sa Rinh. Ông đến được một thời gian thì nghe thấy lời đồn đại về sắc đẹp và sự kiêu hãnh của Sa Rinh. Tận đáy lòng người đàn ông này đã nảy ra ý đồ chiếm cô bằng được. Pu Vên giàu, thành công và kiêu ngạo. Ông ta tin vào sức mạnh của mình.
Pu Vên tìm đến làm quen với cha mẹ Sa Rinh, với danh nghĩa là một kẻ làm ăn xa muốn tìm nơi giao kết thân tình. Ông thường xuyên tìm được cớ để tặng cho mỗi người trong gia đình cô những món quà đắt tiền, quí hiếm. Chẳng bao lâu, Pu Vên đã chiếm được cảm tình của mọi người, trừ  Sa Rinh.
Ngay từ lần đầu giáp mặt với Pu Vên, ánh mắt kỳ lạ của ông ta đã làm cô lo âu, sợ hãi. Pu Vên nhìn cô như một con mèo nhìn con mồi đang nằm trong tầm vuốt của nó, thèm thuồng, hả hê và khoái trá. Và như mèo vờn chuột, Pu Vên không có gì vội vã. Ông xiết tấm lưới vô hình của mình chậm rãi, cẩn thận, không một khe hở.
Mùa thu đến, Pu Vên ngõ lời. Cha mẹ Sa Rinh gần như vui mừng với lời cầu hôn của Pu Vên. Ngày cưới được ấn định sẽ tiến hành ngay trong tháng Mười năm ấy.
Sa Rinh như điên như dại trong những ngày tháng đó. Cô không dám cãi lời cha mẹ. Nhưng cô căm ghét Pu Vên vô hạn. Cô nghĩ mãi, nghĩ mãi, rồi cuối cùng quyết định sau lễ cưới, cô sẽ tự sát ngay trong đêm động phòng hoa chúc, thà chết chứ không để cho Pu Vên chiếm đoạt cô.
Còn năm hôm nữa là ngày cưới. Đêm hôm đó, Hô lén bò vào nhà Sa Rinh. Anh thì thầm bảo cô thu xếp. Họ sẽ trốn đi xa. Bỏ lại tất cả. Làm lại tất cả từ hai bàn tay trắng. Và Sa Rinh đã theo anh. Họ chạy bộ suốt đêm hôm ấy, qua những phum làng, qua những cánh rừng hoang vắng, quên cả nỗi sợ các loài thú dữ. Đến sáng họ đón xe lên Batdomboong, và tìm đến sinh cơ lập nghiệp ở phum Chan Đai từ dạo ấy.   
Hai ông bà đã khó khăn lắm mới đến được với nhau, nên họ yêu quí nhau vô kể. Giờ đã già rồi, mà nhiều khi Huy nhận ra họ vẫn còn biểu lộ sự  chăm sóc, lo lắng cho nhau thật là cảm động.
Buk Hô là một người nghiêm nghị, ít nói cười. Lúc đầu gặp ông, Huy hơi e dè trước vẻ lạnh nhạt của ông. Mãi đến gần đây, Huy mới hiểu được ông. Ông yêu quí anh em bộ đội, nhưng chỉ bộc lộ những tình cảm đó bằng hành động. Thỉnh thoảng, ông xách trong buồng ra chai rượu, bảo me Sa Rinh nấu một nồi canh chua, hay nướng vài con cá khô, ngồi đối ẩm với bọn Huy. Ngay trong cuộc rượu ông cũng vẫn ít lời, nhưng ánh mắt của ông nhìn bọn anh thật thân tình, ấm áp. Đôi lúc, ông chài được một mớ cá, gặp bọn Huy ra chơi, thì thế nào khi về bọn anh cũng sẽ có một xâu cá cầm tay. Có điều, Huy nhanh chóng nhận ra ông không ưa Lý. Không bao giờ ông buồn ngó mặt anh ta. Ông chỉ ngồi nhậu với Huy, Mợi hay Già Hương...nghĩa là những khi không có Lý. Huy thấy thái độ của ông có cái gì đó thật là khó hiểu.
Me Sa Rinh vào trong buồng, lục lọi gì đó một lúc, rồi bước ra, tay bà cầm một cái gói vải nhỏ. Bà chậm chạp ngồi xuống sàn, bảo Huy:
- Con lại đây me bảo.
Huy bước tới, ngồi xuống bên bà. Me run run tháo lớp vải, bên trong là một chiếc vòng đeo tay bằng ngọc thạch lên nước xanh biên biếc. Huy nhìn bà lòng đầy thắc mắc. Anh tự hỏi  bà định làm gì. Chẳng lẽ bà muốn cho anh chiếc vòng đó hay sao? 
Me nhìn chiếc vòng một lúc lâu. Từ  hai khoé mắt - mà ngày xưa chắc đã làm bao nhiêu chàng trai chết chìm trong đó - hai dòng nước mắt đùng đục tuôn ra lặng lẽ. Huy sửng sốt. Anh vừa  mấp máy miệng định hỏi, thì bà đã ngước lên nhìn anh:
- Cái vòng này là của con Quân.
- Dạ!?...
- Nó tặng cho Sa Piên lâu rồi. Gần hai năm trước.
- ....?
- Con mang về đưa trả cho Quân. Nói nó giữ đó, sau này tặng cho vợ nó. 
Huy đưa tay lên vò vò đầu. Vậy là giữa Quân và Sa Piên trước kia đã có gì thật rồi! Anh hỏi:
- Anh Quân đã tặng cho Sa Piên, sao me trả lại làm chi?
- Sa Piên không xứng đáng giữ nó... Sa Piên xấu lắm! - Me Sa Rinh nói ngắt quảng, bà ôm ngực ho khẽ vài tiếng, nhăn mặt có vẻ đau đớn.
- Me có sao không? - Huy giơ hai tay nắm lấy bờ vai gầy guộc của bà, lo âu hỏi.
- Không sao đâu... mấy bữa nay me bị ho chút chút thôi mà...
Huy đưa tay cầm lấy chiếc vòng. Chất đá quí tỏa ra hơi lạnh làm mát rượi bàn tay anh. Nhìn  một lúc, Huy bỏ nó vào miếng vải, gói lại, nhét vào túi áo.
- Thôi được. Con sẽ mang về cho anh Quân.
Huy trầm ngâm nhìn me một lúc. Nước mắt, như hai đường chỉ nhỏ, vẫn còn ngoằn ngoèo lăn xuống hai bên gò má của bà. Im lặng hồi lâu nữa, Huy nói:
- Thế  đầu đuôi câu chuyện ra sao hả me?
- Con nghe thì cũng được, nhưng con đừng nói lại với ai khác nữa. Con Quân không muốn nhiều người biết chuyện này đâu, Huy à...    
Me Sa Rinh nghẹn ngào kể cho Huy nghe câu chuyện.   
Dạo tiểu đoàn mới về dựng Cứ bên phum, Quân hay ra phum chơi, thăm hỏi, giúp đỡ dân làng. Anh đi đến nhà nào cũng được mến thương vì sự tốt bụng, chân thành vốn có. Những gì Quân lãnh được, từ  quần áo đến các thứ nhu yếu phẩm như đường, sữa, anh đều mang ra cho những người nghèo, đau ốm, trừ những gì phải để lại dùng chung với anh em. Anh thường ra thăm nhà me. Không lâu la gì, me đã nhận ra Quân có cảm tình đặc biệt với Sa Piên. Lúc ấy, Sa Piên cũng tỏ vẻ ưa thích Quân. Họ có nhiều lần trò chuyện với nhau trong nhà me, dưới sự ngấm ngầm đồng tình, cho phép của cả hai ông bà. Quân làm cho họ nhớ lại tình yêu thời trẻ của họ. Mọi chuyện dường như đều tốt đẹp.
Nhưng trong tình cảm, Quân lại quá trung thực đến ngu ngơ. Anh yêu Sa Piên tha thiết, đồng thời lại rất tôn trọng cô. Anh chỉ cần gặp gỡ thường xuyên, trò chuyện với cô đã thấy vui lòng, thỏa ý. Thậm chí quen nhau cả năm trời, Quân còn chưa cầm đến bàn tay của Sa Piên...
Me Sa Rinh cười mếu máo trong khi nước mắt vẫn còn hoen:
- Hai đứa quen nhau lâu lắm rồi nhé. Vậy mà hôm đó, me hỏi nhỏ Sa Piên: “Con Quân có nắm tay của con lần nào chưa? ”  Nó lắc đầu phụng phịu: “Anh Quân hiền lắm ! Không có gì hết!”.... 
Theo tục lệ vùng này, con gái để cho đàn ông nắm tay mình kể như không còn trong trắng nữa, và nắm tay con gái chưa chồng mà không có sự đồng tình bị coi là phạm tội nặng, như thể cưỡng dâm. Tuy nhiên, đó chỉ là tục lệ lâu đời truyền lại. Nó đã phôi pha, mất đi tính tôn nghiêm bất khã vi phạm của những thời xa xưa. Làm sao hai người trẻ tuổi yêu nhau mà lại không nắm tay nhau? Họ còn làm tới chuyện gì ấy chứ!
Dù sao thì Quân cũng đã làm theo đúng luật tục. Anh đã có lần thưa chuyện với buk Hô và me, rằng sau này khi phục viên sẽ ở lại đây, cưới Sa Piên làm vợ. Anh không muốn nhận sĩ quan cũng là vì vậy. Lần ấy, Quân trao cho me Sa Rinh chiếc vòng cẩm thạch, coi như là món quà làm lễ đính hôn. Chiếc vòng này, Quân đã gom tiền dành dụm, và mượn thêm của một ít bạn bè mua nó nhân một dịp đi ngang chợ Xi-xô-phôn. Hai ông bà đã bằng lòng chấp nhận, họ xem Quân không khác gì con ruột. Và Quân đã tin chắc, đã xem Sa Piên như người vợ chưa cưới của mình. Anh muốn giữ gìn cho cả hai người.
Quân không lường tới chuyện một cô gái đang trong tuổi sức sống trào dâng đâu chỉ vừa lòng với mấy cuộc chuyện trò xuông. Họ thèm được âu yếm, vuốt ve, thèm được ôm ấp, vỗ về như một con mèo nhỏ, như một đứa bé sơ sinh. Vì vậy, tuy yêu mến Quân, Sa Piên có phần nào đó bực bội anh. Nhưng cô không dám nói, mà cũng không dám có một cử chỉ, thái độ nào để bày tỏ khao khát của mình.
Tháng Hai năm sau, Lý và Mợi từ đại đội 18 của trung đoàn được điều xuống tiểu đoàn, về trung đội. Trước đó, mỗi khi ra phum chơi, Quân thỉnh thoảng cũng dẫn một vài anh em trong trung đội cùng ra, và Lý, Mợi được anh dẫn ra nhà me Sa Rinh như bao anh em khác.
Lý gặp Sa Piên lần đầu đã say mê cô như điếu đổ. Có một điều, Lý, Mợi hay bất cứ ai khác trong đơn vị đều không biết chuyện giữa Quân và Sa Piên. Quân không giấu giếm mọi người. Nhưng anh không thích tỏ vẻ này khác, cũng không phải là loại người hay bộc lộ chuyện riêng. Trước mắt mọi người, anh vẫn đối xử với Sa Piên một cách thân ái bình thường như lúc chẳng có ai. Chính vì vậy, mà mọi chuyện đã trở nên xáo trộn.
Ngay sau đó, Lý tìm cách tấn công Sa Piên, đôi khi còn có sự giúp đỡ vô tư của Mợi. Quân biết điều này, nhưng anh không hề can thiệp. Anh vững tin ở Sa Piên. Anh cũng không muốn gây cảm giác bất hòa giữa đồng đội với nhau khi chưa cần thiết. Quân không ngờ Lý  lại là một người đầy kinh nghiệm chinh phục đàn bà, với những cách tấn công chớp nhoáng. Thêm nữa, Quân không thể nào ngờ Sa Piên đã xao lòng khi gặp Lý. Vẻ đẹp trai của anh đã thu hút cô ghê gớm. Nhưng Lý chinh phục được Sa Piên nhanh chóng hơn là nhờ  ở sự  lọc lõi, táo bạo của mình. Anh không chút ngượng ngùng ôm chầm lấy Sa Piên, hôn lấy hôn để lên khắp người cô, mặc cho cô kinh hoàng vùng vẫy, mặc những lời chửi mắng khinh miệt của cô. Nhưng sự thô bạo của Lý chỉ làm Sa Piên sợ hãi và nổi giận lúc đầu. Rồi cô bỗng thấy mình hay nghĩ tới chúng, thèm nhớ chúng. Cô cố chống cự lại bản năng một cách yếu ớt, ngày càng yếu ớt. Lý trí cuối cùng đã gục ngã, Sa Piên lao vào cơn say tình ái, đam mê, liều lĩnh. Cô bất chấp tất cả; bất chấp lời khuyên can và những giọt nước mắt đau khổ của me Sa Rinh; bất chấp  những cơn giận lôi đình của buk Hô; và dĩ nhiên, bất chấp  những suy nghĩ, đánh giá hay nỗi đau của Quân. Dù có đôi lúc cô thoáng thấy trong lòng niềm ăn năn, ray rứt, nỗi xót xa cho Quân, anh cũng đã trở thành xa lạ với cô.
Thật ra, cô có những khổ tâm riêng. Đối với Sa Piên, Quân là hiện thân của một mẫu người lý tưởng, đúng như hình dung mong ước của cô về một người để cô gắn bó trọn đời. Nhưng cô chưa bao giờ thật sự yêu Quân. Cô chỉ kính trọng Quân, yêu mến Quân như đối với một người anh. Giả sử Quân cũng bạo dạn yêu thương cô một cách cụ thể, bình thường, gần gũi như Lý, có lẽ tình cảm đó có thể chuyển hoá thành tình yêu thật sự. Nhưng nó đã không tiến xa hơn. Và đến khi gặp Lý, Sa Piên mới nhận ra tình cảm thật sự của mình.
Theo tập tục, con gái Khmer chưa chồng được dành cho một gian buồng riêng trong nhà. Không một người đàn ông nào, kể cả cha ruột của người con gái, được phép bước vào trong gian buồng đó. Thế mà Lý đã nhiều lần bước chân vào gian buồng ấy của Sa Piên.
Sa Piên trao thân cho Lý một cách tự nguyện, với sự che chở của me Sa Rinh. Sau không biết bao lần khuyên giải, rầy la thất bại, cuối cùng bà đành phải thỏa hiệp với cô. Bà biết rõ họ làm chuyện gì trong căn phòng trinh nữ của cô. Bà đau khổ. Bà xót xa thương Quân. Nhưng bà vẫn che chở cho cô, dấu diếm buk Hô để cô được toại lòng yêu thương với Lý. Me Sa Rinh đúng là một bà mẹ hiền hậu, nhân từ và yếu đuối, thương con bằng một tình yêu mù quáng nhưng bao la không bờ bến. Trong cuộc tình đổi hướng này, có lẽ người chịu đựng nhiều nhất, đau đớn nhiều nhất chính là bà. Bà còn đau thêm một nỗi - Quân không còn vui vẻ thân tình như xưa nữa. Anh né tránh gia đình bà. Cực chẳng đã bà phải đi vào cứ thăm anh, Quân cũng chỉ lặng lẽ cúi chào, không ân cần hỏi han trò chuyện như ngày trước. 
Me Sa Rinh than thở:
- Me thương con Quân lắm, hơn cả Sa Piên. Mấy đứa con trai của me đã chết, nên me coi Quân như con ruột. Vậy mà nó giận Sa Piên rồi giận ghét cả me.      
Huy ngồi nghe me Sa Rinh vừa nói vừa giọt ngắn giọt dài, nhìn gương mặt già nua phúc hậu của bà giờ đây héo hắt, mà muốn rơi nước mắt theo bà. Anh thầm nghĩ ắt là không khi nào Quân phiền trách gì bà. Có lẽ anh chỉ cố làm ra như vậy để bà khỏi phải tìm đến gặp anh. Có lẽ anh sợ phải gặp bà. Anh sợ phải nhớ lại những ngày xưa ấm áp. Điều này me Sa Rinh không nghĩ ra sao?  Đối với Quân, chỉ có một lý do duy nhất đó để lý giải cho sự xa cách lạnh lùng của anh. Huy rất lấy làm lạ khi chợt nghĩ cuối cùng Quân cũng không tránh khỏi sự yếu đuối, tầm thường như bao kẻ khác. Một người như Quân lẽ ra phải có cách cư xử  tốt hơn. Huy đã quen với cách đánh giá, nhìn nhận về Quân như một con ngưòi đặc biệt, khác thường. Giờ đây, Huy khá là thất vọng về anh. “Thì ra, anh Quân cũng có lúc cư  xử sai lầm!” Huy kêu thầm trong bụng.
Huy lại nghĩ tới Sa Piên, thấy thương cô quá. Cô thật là ngây thơ, dại dột, hiến dâng cả trái tim, thân xác mình cho một kẻ không thật dạ yêu thương. Rõ ràng là Lý mê cô, nhưng anh ta chỉ xem cô như một thứ đồ chơi quí giá. Đã là đồ chơi thì sẽ có lúc chán chường. Lý còn ở đây ngày nào, ngày đó Sa Piên còn giữ được anh, chẳng qua chỉ vì trong phum không có ai sánh được với cô. Nhưng một khi xa cô rồi, Lý sẽ quên phắt cô ngay. Đối với cô, ngay cả bây giờ là lúc đang thắm thiết mặn nồng nhất, mà xem ra Lý không có chút gì tôn trọng. Anh kể lại cho anh em đồng đội nghe những chuyện riêng tư gần gũi giữa hai người với vẻ khoe khoang đắc chí, vô tư, như đang nói về người thứ ba nào khác.   
Tuy nhiên, Huy vẫn cảm thấy mình không tài nào ghét Lý. Trời sinh Lý ra với bản chất, tính cách như vậy. Và trong chuyện này, Lý hoàn toàn không biết mình đã phá vỡ hạnh phúc của một người đồng đội. Anh chỉ sống đúng như những suy nghĩ, nhận thức giới hạn của mình. Phần nữa, nhìn gương mặt đẹp trai, nụ cười quyến rũ, nghe kiểu nói bông lơn, vô thưởng vô phạt của Lý, dù có ghét giận gì anh, nhiều người cũng sẵn sàng tha thứ cho anh. Vẻ đẹp bên ngoài của một con người không thể nói là không có chút nghĩa lý gì! Từ xưa đến nay, sắc đẹp đã gây bao ngộ nhận, ảo vọng lạc lầm, đã khuấy động bao sóng gió. Bản chất con người là luôn luôn ngưỡng mộ tôn sùng cái đẹp. Và cái đẹp ngoại hình của con người có lẽ là cái đẹp nhiều ma lực, cái đẹp gây hiểm nguy hơn cả.   
Huy quay qua, ôm lấy vai me Sa Rinh, an ủi bà:
- Thôi, me đừng buồn nữa. Để rồi con sẽ tìm cách nói chuyện với anh Quân. Bảo anh ấy ra đây chơi thăm me - Anh im lặng hồi lâu rồi chợt nói thêm - Con thương me lắm! Thương me như me ruột của con vậy.
Me Sa Rinh nhìn Huy cười móm mém. Đôi mắt bà lấp lánh niềm vui và xúc động. Huy nắm lấy bàn tay gầy guộc, xương xẩu của bà bóp nhẹ, nhìn mái tóc trắng phơ phất của bà, chợt thấy nhớ má mình quá đỗi.
Ngồi với me lúc nữa, Huy đứng dậy. Nắng đã xế rồi, phải về thôi. Anh nói:
- Giờ con phải về đây. Me nhớ đừng buồn nữa nhé!
Me Sa Rinh gật gật đầu. Bà chống tay lên sàn, lom khom đứng lên, bảo Huy:
- Con chờ me một chút. Me vào gói một ít nhộng cho con mang về rang ăn cơm.
Bà vào chỗ gian bếp một lúc rồi quay ra, cầm theo gói nhộng và một trái mít to.
Chào từ giã me Sa Rinh, Huy ra về mà lòng ngổn ngang bao suy nghĩ. Anh tự hỏi nếu mình ở trong trường hợp của Quân, mình sẽ làm gì đây? Chắc chắn là không thể giống như cách của anh. Huy sẽ nói thẳng cho Lý biết rõ đầu đuôi ngay. Nhưng nếu Lý không biết điều? Cũng được thôi! Lúc đó, tùy ở Sa Piên, tùy ở sự lựa chọn của cô. Nhưng ít ra, phải làm cho mọi chuyện trở nên sáng tỏ với tất cả mọi người!
Huy chợt nghĩ về chuyện của chính mình. Anh đã quen biết cô bé xinh xinh hay vào gánh nước. Tên cô bé ấy là Soun. Huy vẫn còn rất trẻ con. Anh thích nhìn Soun luống cuống ngượng ngùng, thích trêu cho cô đỏ bừng đôi má, rồi khoái chí cười thầm. Chỉ vậy thôi ! Huy giật mình nhận ra mình đã phần nào đó vui đùa một cách ích kỷ với tình cảm chân thành của một người con gái. Vậy ra cuối cùng anh nào khác gì với Lý ! Anh cũng giống anh ta, cũng ham vui, hời hợt, cũng chẳng hề quan tâm đến những hậu quả mình có thể gây ra!
Soun có một thiện cảm đặc biệt với Huy, anh biết. Ở vùng quê hẻo lánh này, một cô bé mười lăm tuổi đã có thể biết yêu. Tuổi thanh xuân của một cô gái trưởng thành ở đây thật là ngắn ngủi, chỉ bốn năm năm. Dưới mười ba, họ vẫn còn là những cô bé gái ngây thơ. Từ mười ba trở đi, họ đã bắt đầu cuộc đời thiếu nữ. Và khoảng mười sáu, mười bảy, họ đã lấy chồng. Vài ba năm sau, nàng thiếu nữ mắt long lanh, môi đỏ thắm đã trở thành một thiếu phụ nhếch nhác, lôi thôi, con bồng con bế, không còn chút gì gợi nhắc tới cô gái trẻ xinh đẹp ngày xưa. Một ngày xưa chỉ vừa hiện hữu cách đấy không lâu.
Làm sao để Soun chỉ coi mình như một người anh, hiểu được mình chỉ coi cô như một người em gái?  Huy nhăn mặt hỏi lòng. Thật sự thì Huy cũng không đo lường được tình cảm của mình. Anh thích Soun, nhưng không dám buông xuôi cho tình cảm mình nảy nở. Anh sợ! Nhưng sợ cái gì? - Huy cũng không thể nào xác định. Không phải vì  quân lệnh. Điều lệnh quân đội không cho phép quân tình nguyện Việt Nam có quan hệ  bất chính với phụ nữ Khmer. Nhưng còn tình cảm, làm sao có mệnh lệnh nào ngăn được cảm xúc mãnh liệt trong tim những chàng lính trẻ. Từ cảm mến đến yêu thương, khoảng cách đó quá ư nhỏ bé. Và yêu thương nghĩa là trao tặng cho nhau, cả tâm hồn, thể xác. Có biết bao nhiêu chàng lính đã yêu, và sẵn sàng chịu mọi kỷ luật khắt khe. Rồi một số đông trong bọn họ sẽ quay lại quê nhà khi phục viên, xuất ngũ, vĩnh biệt những mối tình trong chiến tranh, bỏ lại những cô gái héo hon sầu nhớ, và có khi bỏ lại cả những giọt máu rơi của chính mình, vì có quá nhiều trắc trở. Nhưng cũng có những người ở lại. Họ nhận nơi đây làm quê hương thứ hai của mình. Họ  can đảm sống  chết với tình yêu. Họ sẽ sinh con đẻ cái, sẽ đổ mồ hôi, và cả máu trên mảnh đất này, sẽ trở thành một tế bào của cộng đồng dân tộc Khmer, gắn bó với họ, cùng chịu chung  những cơn mưa rào, nắng hạn, chung những điều tốt lành và những điều bất hạnh, chung một số phận  với  những người không phải đồng bào, không cùng dân tộc, nhưng đã trở thành đồng bào, dân tộc khi họ đã dứt khoát chọn một con đường. Huy chưa từng nghĩ  rằng mình sẽ yêu thương một cô gái, và sẽ ở lại nơi đây. Quê nhà anh ! Nơi đó ba má của anh giờ  đã bắt đầu già yếu đang mỏi mắt ngóng trông, nơi đó lũ em của anh đang vất vả chiụ đựng những khó khăn, nghèo túng. Anh nhất định phải trở về!
Vừa qua khỏi nhà phum trưởng Tia vài chục bước, Huy trông thấy một người đàn bà từ xa đi tới, hai bên là hai đứa nhỏ. Đó là Cà Pươn, một người quen của Huy. Cà Pươn gầy nhom. Chị khoảng hai mươi mấy, nhưng trông già hơn tuổi nhiều. Gương mặt đen mốc vì thiếu ăn, càng làm nổi bật hai con mắt trắng. Hai thằng nhóc đó là con của Cà Pươn. Thằng lớn tên Kan, sáu tuổi, thằng nhỏ tên Lum, bốn tuổi. Hai thằng như đúc cùng một khuôn - cũng một thân hình còm nhom, cũng một gương mặt nhỏ choắt, đen thùi lũi, hai con mắt đen ngơ ngác, cái miệng hơi hô khoe hàm răng trắng nhởn, mái tóc vàng khè vì cháy nắng. Trông thấy Huy, tụi nó cười toe toét, rối rít gọi anh:
- Mia Huy! Mia Huy Cậu Huy!
Huy đã nhiều lần ghé nhà Cà Pươn. Nhà chị ở sát cạnh nhà Soun, và chị cũng thường hay vào Cứ gánh nước. Mỗi khi có phụ cấp tiền Riel, Huy hay đến cái quán đầu phum mua cho tụi nhỏ mấy bịch bánh kẹo, để được vui vẻ nhìn cảnh bọn chúng nhận quà, mừng cuống quýt. Hôm trước, lãnh được hai lon sữa, Huy cũng mang ra cho chúng một lon, lon còn lại anh mang cho me Sa Rinh. Tụi nhỏ thương Huy, gặp anh là nhào tới ôm cứng cặp giò anh không buông. Huy cũng rất thương hai đứa nhỏ. Gia cảnh chị Cà Pươn khá thương tâm. Chồng chị đã bị giết vào thời Polpot cầm quyền, sau khi Angkar tổ chức cho họ lấy nhau được hơn một năm. Còn hai thằng nhóc này , ba chúng nó là ai, chính Cà Pươn cũng không dám chắc. Ba bốn năm trước, chị còn chút xuân sắc, chưa xuống dốc thê thảm như bây giờ, cũng còn có nhiều anh trai làng ngấp nghé. Cà Pươn có quan hệ tình ái với nhiều người, vì sao thì chỉ chính chị ta mới biết, nhưng rồi đến lúc chị có thai, sinh nở, chả thấy ma nào ló mặt ra giúp đỡ, chăm nom. Nhà nghèo, không có đàn ông, không có đất đai, gia súc, Cà Pươn chỉ đi làm công cho mấy nhà khá giả hơn để nuôi con lây lất. Lúc không có ai thuê mướn, chị ra hồ chài cá, vợt tép, nhưng nào có được bao lăm.
Cà Pươn cười móm xọm chào Huy. Hàm răng của chị chỉ còn vài chiếc lung lay.
- Huy đi đâu về đó?
- Tôi ở nhà me Sa Rinh về. Chị dắt tụi nhỏ đi đâu đây?
- Tôi đi lên khang chơn Hướng bắc hái lá dâu cho người ta. Tụi nó cứ đòi đi theo.
- Thôi, chị để hai đứa nhỏ cho tôi, cứ đi làm đi. Tôi sẽ dẫn tụi nó vào trại tắm rửa.
Trông tụi nó kìa, ghẻ chốc đầy đầu đầy cổ. Lát nữa, tôi đưa thằng Kan cầm về cục xà bông, chị lấy mà tắm cho tụi nó mau hết ghẻ nghe...Ờ, mà thôi! Mỗi chiều chị cứ dẫn tụi nó vào chỗ tôi, tôi sẽ tắm cho tụi nó.
- Cám ơn bộ đội Huy nhiều! - Ca Pươn nói, chị quay lại bảo hai thằng nhóc - Tụi bây theo mia Huy đi tắm đi.
Huy một tay ôm trái mít và gói nhộng, một tay dắt thằng Lum, vừa đi vừa nói chuyện bâng quơ với hai đứa nhỏ. Anh đã tới ngã ba nơi rẽ vào Cứ thì chợt nghe tiếng gọi thanh thanh của một cô gái :
- Boòng Huy ơi! Boòng Huy!
Huy quay lại. Soun đang đứng cách anh chừng ba chục bước chân. Tay cô cầm cái gì đó giấu phía sau lưng, dáng vẻ thẹn thùa, bối rối. Đôi mắt đen nhìn nhanh vào mặt Huy, rồi cụp xuống. Hai hàng mi dài run run rợp xuống, che giấu ánh mắt ngượng ngùng. Huy hỏi :
- Có gì vậy Soun ?
- Me Soun bảo Soun mang cho boòng Huy cái này - Cô vẫn đứng yên tại chỗ, giơ vật đang giấu sau lưng nãy giờ ra. Đó là một gói to bằng lá chuối khô. Huy bước tới cầm lấy cái gói, vạch lớp lá ra : Một mớ trái trâm rừng tím mọng. Huy cười:
- Sao Soun không để ăn mà cho Huy?
- Me và Soun hái được nhiều lắm. Ăn một mình không hết đâu! Boòng Huy mang về đi, cho mấy anh cùng ăn với. Trái này ngon lắm, hái ở mãi ngoài Tha lịa C rao đó.
- Anh Huy không ăn, mấy anh khác cũng không ăn đâu. Soun mang về ăn dần đi. Công me và Soun vất vả đi xa đến thế mới hái được, bọn anh không lấy đâu - Huy cố trêu cô.  
Soun ngước mặt lên nhìn Huy, đôi má đỏ bừng giận dỗi :
- Boòng Huy không lấy, đừng có tới nhà Soun nữa. Soun cũng không vào gánh nước chỗ boòng Huy nữa. Hai người là người lạ với nhau rồi nhé!
- Không lấy! Nhưng vẫn ra nhà Soun. Soun đóng cửa, Huy sẽ ngồi mãi ngoài cầu thang, ngồi tới khi nào biến thành cục đá lớn luôn! Ngồi chừng nào Soun cho vào nhà, chừng nào Soun lại chịu vào gánh nước mới thôi. 
Soun vặn vẹo hai bàn tay. Cô biết Huy đang chọc ghẹo mình, nên càng luống cuống. Cô im lặng một lúc, rồi biết mình không đối đáp lại Huy, cô bảo:
- Boòng Huy nói nhiều lời, nói sạo lắm. Soun không nghe nữa ! Soun đi về đây!
Cô quay lưng bỏ chạy. Vạt chiếc xa-rông cuốn lên một ít, để lộ một phần bắp chân tròn trỉnh, mịn màng. Huy gọi với theo:
 - Soun ơi, đừng giận anh nhé! Anh chỉ nói vui thôi. Nói me anh cám ơn nhiều nhiều nhé!
Huy đứng nhìn theo cho đến lúc dáng Soun đã khuất sau một lùm cây, rồi dắt hai đứa nhỏ đi vào Cứ.
Chương 13
Quân trầm ngâm bước vào nhà, tay cầm một xấp thư. Anh vừa lên tiểu đoàn bộ giao ban về. Lúc nãy, tiểu đoàn phó Bảo chủ trì buổi giao ban, Văn chỉ ra phòng họp để thông báo cho các cán bộ đại đội và trung đội trực thuộc việc anh sẽ về trung đoàn nhận công tác mới, rồi lại lui vào trong chuẩn bị. Quân nhớ những ngày còn ở đại đội mười hai, khi đó Văn là đại đội phó của anh. Văn gan lì, dũng cảm, lại thương yêu lính chẳng khác nào ruột thịt. Chính những tình cảm, những cách hành xử của Quân đối với anh em trung đội bây giờ anh đã học nó từ Văn. Mà không chỉ ở mỗi một mình Văn, điều này hình như đã trở thành truyền thống của toàn đơn vị. Từ những người anh đi trước - những người đã đổ xương máu để tô lên lá cờ quyết thắng của tiểu đoàn, trung đoàn và sư đoàn ngay thuở đơn vị mới hình thành ở chiến trường Đông Nam bộ - những người lính trẻ đã học được bao điều không bao giờ ghi chép trong bất cứ một tài liệu giáo khoa quân sự kinh điển nào. Đó là những bài học trong cuộc sống mỗi ngày, trong từng trận đánh. Bài học về sức chịu đựng vô bờ bến; về tình đồng đội ấm áp thương yêu và gắn bó; về tình yêu nước, lòng khao khát độc lập, tự do; và quan trọng hơn hết, về lòng nhân ái: rất căm thù, rất quyết tâm chiến đấu, nhưng cũng rất khoan dung, độ lượng. Hết thế hệ này đến thế hệ khác, những bài học đó dần dần trở thành máu thịt, ăn sâu vào tâm hồn, lắng đọng xuống trái tim người lính. Nó  chính là nguồn sức mạnh thiêng liêng kỳ diệu nhất, nguồn sức mạnh của toàn dân tộc, tích lũy qua hơn một nghìn năm lịch sử chiến tranh tang tóc triền miên. Trong một cuộc chiến, những người lính đã trở thành như một, ít nhất là về hoàn cảnh. Họ đều là những người nghèo và trái tim trong sáng, chưa bị giàu sang, quyền lực làm tối mắt đảo điên. Họ có những suy tư, tình cảm chung ngoài những cái khác nhau thuộc về quan điểm, cá tính riêng biệt của mỗi người. Chính vì vậy, họ rất dễ thương yêu nhau, hy sinh cho nhau. Quân thấy có một nghịch lý nào đó hiển nhiên tồn tại: chiến tranh là điều kinh tởm, xấu xa, nhưng cũng chính chiến tranh nâng con người tới một cái gì cao cả. Nó tạo cho con người một sức sống mãnh liệt, một tình yêu mãnh liệt vào cuộc sống, nó hiến cho loài người những mẫu mực sáng chói nhất về lòng cao thượng, danh dự, tình yêu.  Nhiều khi Quân cũng không hiểu được chính mình. Anh căm ghét chiến tranh. Anh không muốn  tay mình nhuốm máu người. Anh phần nào đó chịu nhiều ảnh hưởng của các thuyết lý tôn giáo và triết học - những ánh sáng từ trên cao vời rọi xuống, xóa nhòa ranh giới thị phi đối đãi. Không có vấn đề  màu da, dân tộc, chủng tộc, quốc gia. Không có cả vấn đề là người hay là sự vật. Chỉ có vấn đề sự sống và bình an, và cứu rỗi. Thế giới sẽ thanh bình, an lạc khi không còn những phân biệt đó. Nhưng có lẽ đó mãi mãi chỉ là một thế giới của hoài vọng ước mơ, của lý tưởng không bao giờ thành hiện thực? Những người lính, dù là ở phía này hay phiá kia chiến tuyến cũng đều là những con người, cũng sợ hãi, đau đớn, xót xa giống hệt như nhau. Thế nhưng vì những phân biệt, ngăn chia đã phải tiêu diệt đối phương. Thật là phi lý! Có lẽ chiến tranh là một trong những hành vi phi lý nhất của loài người. Những loài dã thú giết chóc là vì bản năng tranh đấu sinh tồn, chúng ăn thịt những loài yếu ớt hơn để sống, và đến lượt chúng lại bị ăn thịt bởi những con thú hung dữ, to lớn khỏe mạnh hơn. Nhưng loài người giết chóc chỉ vì những ý niệm, những ảo tưởng, hoặc bị người khác áp đặt, hoặc của chính bản thân. Ôi, thật là phi lý!…
Những suy tư này tồn tại trong ý thức Quân, và cả trong tâm cảm. Nhưng cũng có một điều khác tồn tại song song: niềm tự hào dân tộc, tình yêu sâu thẳm đất nước, quê hương, dân tộc, đồng bào; và một điều thật bình thường, đơn giản: tình thương yêu gắn bó giữa bạn bè đồng đội. Những điếu thuốc vấn chung nhau, những ngụm nước đọng lại dưới đáy bi đông nhường nhau trong cơn khát ngất… Tình thương và trách nhiệm với bạn bè, đồng đội, qua từng ngày, càng sâu sắc. Một tình yêu người, lòng bác ái chung chung không thể tồn tại vì nó không gốc rễ. Linh hồn của tổ tiên vẫn còn thao thức, âm thầm chảy trong từng mạch máu, lung linh trong tâm cảm, tiềm thức của Quân. Tinh thần, ý thức tự nó mâu thuẩn với chính mình. Và không có lời giải đáp. Nhiều lần Quân tự vấn, nhiều đêm anh ngồi trong đêm tĩnh lặng, cố lắng tâm hồn, ý tưởng xuống, biến nó thành một dòng sông trong suốt, lặng lẽ, lắng mọi phù sa, khoáng chất xô bồ hỗn độn của cuộc đời xuống đáy để tìm một lời minh giải. Nhưng ở một điểm nào đó giữa đường suy ngẫm, tất cả dường như nhòa nhạt, lẫn lộn mơ hồ. Thế là Quân vẫn vừa là một người lính bình thường đầy sắt đá, vừa là một kẻ thao thức trở trăn tìm chân lý.   
Ụ Mối đang ngồi vá áo ngước lên  nhìn Quân, phát hiện ra xấp thư, vội nhảy nhổm lên, hớn hở:
- A , hay quá! Có thư của em không anh Quân?
- Mày có một lá. Của bé Hiền đó - Quân cười.
Anh nhớ hồi Ụ Mối mới về trung đội. Có một lần, đơn vị đi truy quét quanh địa bàn năm ngày. Chuyến đó đi xa và vất vả, nhưng không đụng địch. Khi về tới cầu Thmo, cách Cứ khoảng bốn cây số, tiểu đoàn trưởng Văn cho giải lao. Ai nấy đều đã mệt ngất ngư. Chuyến đó, đơn vị đi sâu vào cánh rừng phía Tây, dây leo bụi rậm chằng chịt không có lối, người đi đầu phải lấy dao phát bớt các cành nhánh, gai góc để mở đường. Ụ Mối dáng vóc bậm trợn, lại là dân sơn cước, nên được phân công vác cái “đầu bò” Từ lóng của lính chỉ bệ súng 12ly 7. So với các bộ phận tách rời của súng, đầu bò là món nặng nhất nhì, lại cồng kềnh khó vác. Đi trên đồng trống còn khỏe được chút ít, chứ  khi luồn vào rừng bụi, người vác đầu bò rất vất vả. Trên suốt một chặng dài hơn cây số, Ụ Mối hầu như không vác được cái đầu bò, mà phải ôm nó chui qua mấy con đường mới mở. Đó lại là chuyến hành quân chiến đấu đầu tiên của nó. Bởi vậy, đến chỗ giải lao thì Ụ Mối đã bèo nhèo như miếng giẻ rách, quần áo ướt đẫm chẳng khác vừa nhảy xuống mương. Nghỉ giải lao xong, đơn vị chuẩn bị tiếp tục lên đường. U Mối ngồi cú rủ, không động đậy. Quân bước tới:
- Mày mệt lắm à? Thôi cố gắng đi, sắp về tới cứ rồi. Mày vác khẩu AK, đưa cái đầu bò cho anh.
Ụ Mối lắc đầu quầy quậy:
- Không. Anh cho em ngồi nghỉ thêm một lát, em sẽ về sau.
Quân cau mày:
- Không được. Ở đây không an toàn. Cố gắng lên!
Quân đặt khẩu AK vào lòng Ụ Mối, rồi ôm cái đầu bò đặt lên vai. Tay kia anh nắm vai áo nó lôi mạnh. Ụ Mối lảo đảo đứng lên. Trung đội nối vào đội hình xuất phát.
Khi về tới nhà, Ụ Mối chỉ kịp tháo cái ba lô quẳng qua một bên là năm lăn ra trên nền nhà nhắm nghiền đôi mắt, trông cứ như xác chết trôi. Liền ngay sau đó, Già Hương cất tiếng gọi từ nhà bên cạnh - lần đó, anh ở nhà giữ  Cứ :
- Ụ Mối ! Mày có thư  của người yêu nè. Thông tin trung đoàn đã mang thư xuống ba bốn hôm nay...
Ụ Mối ngồi bật dậy, nhanh như chớp chạy ra ngoài, rồi ào một cái, nó lại chạy về, tay vung vẩy lá thư, chân nhảy cẩng lên, reo gào inh ỏi:
   - Có thư rồi. Có thư rồi. Anh Quân ơi!
   - Ừ thì có thư! - Quân đáp, anh nheo mắt - Giờ tao mới biết tình yêu có sức mạnh như thế nào. Nó biến một con mèo hen sắp chết thành một thằng khùng khỏe như  trâu cổ!…
Lần này cũng y chang! Ụ Mối vội vàng đứng lên, nhảy ba bước tới bên Quân vồ lấy xấp thư lựa lựa, rồi rút ra một lá. Quân nhìn Ụ Mối hớn hở, thấy lòng mình chợt nao nao. Quân chưa bao giờ có thư nhà. Không bao giờ có. Anh chỉ được hưởng niềm hạnh phúc chia vui cùng đồng đội. Có khi, người này người khác đọc cho Quân nghe một lá thư của người yêu, của mẹ già. Rồi sau đó nhờ anh “cố vấn” để viết thư hồi đáp. Những lần như vậy, Quân rất vui và hào hứng, tưởng như  anh đang viết thư  của chính bản thân mình.
Ụ Mối thận trọng xé một đầu bao thư ra, ngồi bệt xuống đất chăm chú đọc. Dễ chừng anh đọc đi đọc lại ít nhất ba lần. Rồi anh cẩn thận xếp lá thư, bỏ lại vào phong bì, ngồi ngây người một lát.
Bỗng Ụ Mối toét miệng ra cười tươi rói. Anh ngước lên khoe với Quân:
- Hiền bảo đã dành dụm được hai chỉ vàng, lại còn đang nuôi một con heo nái sắp đẻ lứa đầu tiên. Em về tháng trước, là tháng sau tổ chức ngay đó anh Quân.
- Ừ! Cưới vợ phải cưới liền tay. Nó đã chờ mày mấy năm rồi - Quân đáp. Anh bảo Ụ Mối:
- Mày chạy ra tập họp anh em về đây hội ý. Thằng Huy đi đâu rồi?
- Nó qua bên nhà đại liên - Ụ Mối đáp chưa hết câu đã chạy khuất dạng. 
Một thoáng sau, mọi người đã nháo nhào chạy tới tề tựu đông đủ. Ai cũng náo nức vì đã nghe Ụ Mối nói có thư  nhà. Già Hương hỏi:
- Có gì  quan trọng mà phải hội ý toàn trung đội vậy Quân?
Quân mỉm cười. Anh cầm xấp thư giơ lên. Mọi người nhảy nhót hò reo mừng rỡ và sung sướng.
Sau đó, những người có thư  run run xé phong bì, mấy người không có ghé đầu bên bạn mình cùng háo hức đọc chung những dòng thư. 
Một lúc sau, khi mọi người đã đọc thư  xong, Quân nói:
- Anh em chú ý. Hôm nay tôi thông báo cho anh em hai chuyện. Thứ nhất là tiểu đoàn cho trung đội một suất đi phép, ngày mốt lên đường. Thứ hai là ngày mai anh Văn về trung đoàn nhận công tác mới…
Trung đội lại nhao nhao lên như ong vỡ tổ. Trong tiểu đoàn ai cũng thương mến và nể phục Văn. Tin này làm mọi người mất đi phần nào sự phấn khởi về vụ có thư và suất đi phép.
Quân giơ tay lên, cắt ngang những lời bàn tán:
- Thôi, anh em yên lặng. Dù sao thì anh Văn cũng phải đi rồi, có buồn cũng không ích gì. Bây giờ, tôi xin giải thích một chút: trung đội chúng ta được một suất đi phép trong tổng số 3 suất của toàn tiểu đoàn, do vừa qua đã thắng lợi trong mấy trận liền, diệt địch, bắt tù binh, thu nhiều vũ khí. Tôi có hai cách giải quyết. Cách thứ nhất là chỉ tiến hành bốc thăm trong số anh em lính 83 trở đi. Cách thứ hai là  mọi người đều được bốc thăm. Các đồng chí hãy cho ý kiến.
Già Hương nhìn quanh khắp mọi người, mỉm cười nói:
- Có điều này tôi nghĩ phải nói rõ cho anh em biết. Thường thì người được đi phép là người trực tiếp bắt sống tù binh. Hôm đó, trong lúc khẩu đội bắn yễm trợ Quân đã một mình vượt lên trước, khống chế và bắt được hai tên. Dĩ nhiên công trạng là của toàn đơn vị. Nhưng nếu không có những người tự mình xông lên như vậy, rất có thể chúng ta rút quân tay trắng trở về. Phần khác, người thâm niên nhất ở đây là Quân. Vậy tôi đề nghị chính Quân sẽ đi phép, không cần phải bốc thăm bốc thiết gì cả. Anh em có nhất trí không? 
Mọi người gật đầu tỏ vẻ tán đồng với đề xuất của Già Hương. Quân đưa tay ra ngăn lại, anh nói:
- Cám ơn anh em. Nhưng tôi mồ côi cha mẹ, không có họ hàng. Tôi về cũng chẳng ích gì, thật tình là vậy. Giờ xin mọi người nghĩ xem chúng ta sẽ tiến hành cách nào như tôi vừa nói.
Thiện  nói:
- Thật lòng mà nói, bản thân tôi cũng thèm được đi phép lắm. Nhưng tôi nghĩ lính 82 cũng đã sắp ra quân rồi. Nên để cho lính 83, 84 bốc thăm thôi.
 Mợi phản đối:
- Chúng ta là lính chiến, đánh trận như cơm bữa mỗi ngày. Không phải tôi nói chuyện xui xẻo, nhưng hôm nay còn sống, chứ có thể ngày mai đã đi đoong rồi. Chỉ khi nào mình đặt chân qua cửa khẩu mới chắc ăn là bình an trở về nhà. Cho nên theo tôi, tất cả đều được bốc thăm mới thật sự công bằng.
Mợi là lính 83. Nếu thêm những người nhập ngũ 82 vào số bốc thăm, thì xác suất được trúng thăm của chính anh giảm xuống. Nhưng Mợi cảm thấy phải làm như vậy. Anh không muốn vì quyền lợi riêng mà quên đi bạn bè, đồng đội. Mọi người im lặng ngẫm nghĩ, thấy Mợi cũng có lý. Có lẽ trừ Quân ra, người nào cũng rất mong được về thăm nhà, thăm quê một chuyến.. Quê nhà! Ở đó có mẹ già, em thơ, ở đó có vợ hiền con ngoan, có người tình nhỏ ... Biết bao thương nhớ đã chất chồng lên, đọng lại trong tim họ trong những tháng ngày qua.  
Quân nhìn quanh rồi gật đầu:
- Vậy thì chúng ta sẽ bốc thăm theo cách thứ hai. Tôi sẽ viết một lá thăm có chữ  “đi”, còn lại tất cả là thăm trắng. Anh em đồng ý chứ ?
Mọi người đồng thanh nhất trí.
Quân  lật cuốn sổ ra xé mấy tờ. Anh xé thành những mẩu giấy nhỏ , ghi vào một mẩu, gấp tất cả lại, bỏ vào cái ca inox lắc một lúc. Quân nói to :
- Nào, bây giờ là lúc anh em  thử vận may. Lần lượt từng người !
Mọi người háo hức bước tới bốc thăm. Họ run run mở ra. Những gương mặt  đầy vẻ nôn nao  phấn khích. Lý chợt nhảy nhổm lên, cười rú thét vang :
- Ha ha ! Tôi trúng thăm rồi !  Má ơi ! Con sắp gặp má rồi !
Những người còn lại hơi xìu xuống thất vọng. Nhưng rồi lập tức họ reo lên nhào tới ôm lấy Lý, nhấc bổng anh tung lên trời mấy cái.
- Chúc mừng ! Chúc mừng Lý ơi !
Lý được buông ra, nhưng mặt vẫn còn đỏ bừng ngơ ngác. Dường như anh vẫn chưa thật sự tin là mình sắp được về nhà. Rồi đôi mắt anh chợt đỏ hoe.
Ngay chiều hôm đó, trung đội ra phum mua gà, trà rượu về tổ chức liên hoan tiển Lý đi phép. Họ mời thêm một số bạn bè, đồng hương ở mấy trung đội khác qua chung vui. Tiệc làm tương đối sớm, bắt đầu từ ba giờ, và khoảng bốn giờ thì kết thúc. Chỉ có một bi đông rượu uống tượng  trưng, vì trung tướng Năm Ngà, tổng tư lệnh mặt trận đã có chỉ thị cấm rượu từ  sau chiến dịch.
Tiệc tàn, khách khứa lần lượt ra về. Cuối cùng thì chỉ còn Lý, Mợi, Già Hương, Huy và vài người nữa ngồi nhâm nhi trà tán chuyện. Số khác thì  tản ra cắm cúi viết thư để nhờ Lý chuyển.
Chuyện mãi cũng cạn, mọi người ngồi im lặng trầm tư. Ngoài sân, không khí bỗng yên tĩnh lạ lùng. Tiếng luýt chuýt của mấy con chim sâu đang tìm mồi trên mấy cành xoài chợt nổi lên mồn một. Nắng chiều vàng rực  tràn qua những kẻ lá, luồn qua kẻ vách rọi lên mặt sân, nền nhà những đốm sáng chao động lung linh.
Lý  ngồi hai tay khoanh gối, mắt nhìn mông lung ra khoảnh sân ngập nắng, như đang hình dung tới những ngày vui sắp tới ở thành phố. Chợt Lý quay qua Huy :
- Mày viết thư đi Huy, tao sẽ mang tới nhà mày.
- Em viết rồi. Để em vẽ sơ đồ lên bao thơ cho anh tìm nhà. Nếu anh rảnh thì ghé nhà em chơi, còn không thì gửi qua bưu điện cũng được…Nếu anh có ghé, mà má em hỏi về cuộc sống ở đây, anh nhớ nói là rất vui rất khoẻ nghe, nói là không có gì nguy hiểm, nhớ nha…
- Tao biết, cần gì mày phải dặn dò - Lý quay sang Mợi - Còn mày…?
Mợi lác nhìn Lý :
- Mày vào chợ Cầu Ông Lãnh, tới khu bán rau cải hỏi bà Năm cao. Gặp má tao ở đó dễ hơn, đường vô nhà tao khó đi lắm, mà cũng chẳng có số nhà gì  đâu. Lý nè, khi sang ráng tìm vài cuốn truyện cho tao. Kho tàng “phim truyện” của tao cạn khô rồi. Cứ xào đi xào lại hoài mấy cuốn cũ mất mối hết trơn cho coi !
- Tao nhớ rồi – Lý gật đầu cười. Anh lại quay sang Già Hương.
- Già Hương đã viết thư cho bà xã chưa, để em mang về bỏ bưu điện cho.
Già Hương đứng dậy, anh vừa bước vội về hướng nhà bên vừa nói :
- Mày chờ chút xíu, tao về lấy cái này.
Lát sau, Già Hương quay lại. Anh ngồi xuống, xòe tay ra. Gương mặt bậm trợn với hàm râu quay nón rậm rì giãn ra với một nụ cười khoan khoái. Trong lòng bàn tay nông dân to lớn, chai sần từng cục, là hai chú lùn gỗ nhỏ xíu, một con khắc bằng gỗ mít vàng, một con bằng gỗ gì không rõ màu tím sẫm. Cả hai chú lùn đều bóng loáng vì mồ hôi tay chà sát nhiều lần. Hai con người gỗ này Già Hương đã cặm cụi làm đi làm lại suốt cả tháng trời mới xong. Chúng là món quà vô giá của một người cha. Chúng chứa đựng bao nhiêu tình thương và nỗi nhớ trong từng đường vân, nét chạm.
Trong trung đội, Già Hương là người anh cả, lớn tuổi nhất, và cũng nghiêm trầm, ít nói nhất.  Anh thương tụi nhỏ trong trung đội như lũ em mình. Nhưng lại là một người anh khó tính. Không như  Quân thường an ủi, động viên dịu ngọt, Già Hương dễ nổi nóng rầy la, nhưng cũng rất mau quên những lỗi lầm, thiếu sót của mọi người. Không hiểu xã đội làm ăn ra sao, mà lúc còn thanh niên nhông nhổng, tự do, họ không gọi anh nhập ngũ. Mãi đến năm Già Hương hai mươi sáu, đã vợ con đùm đề, bôn ba xuôi ngược để kiếm sống thì lại phải lên đường làm nghĩa vụ. Già Hương định trốn không đi, nhưng vợ anh, một cô gái con nhà cách mạng nòi, đã  động viên thuyết phục  anh. Chị thề sẽ cố gắng chung thủy nuôi con chờ đợi anh về. Chị không muốn có một ông chồng phải trốn chui trốn nhủi, ra ngõ ra đường cứ  mắt la mày lét, sợ từ đứa con nít sợ đi. Già Hương ra đi chân bước không đành. Nhưng rồi dần dần anh cũng khuây khỏa. Thư của vợ, của gia đình thường xuyên gửi sang khiến anh an tâm, vững dạ. Anh tự  so sánh với những anh em khác, và nhận ra mình vẫn còn may mắn hơn nhiều. Có lần Già Hương bảo Huy: “Nhiều khi thấy tao thấy thằng Quân cứ  ngong ngóng đọc ké thư của người này, người khác mà thương nó quá. Tao vậy mà sướng hơn nó nhiều. Lỡ chết thì cũng đã có vợ, có con…”
Có lẽ vì có con, mà Già Hương thích ra phum chơi. Anh ôm mấy đứa nhỏ tóc khét nắng vào lòng, mua cho chúng những phong kẹo nhỏ, nựng nịu chúng, đùa nghịch chúng cho đỡ nhớ con.    
Già Hương bảo Lý :
- Mày mang về tới thành phố, kiếm một cái hộp nhỏ bỏ vào, bỏ cả lá thư của tao vào đó rồi gửi bưu điện giùm tao. Tao có viết trong thư chia phần rồi. Con vàng là của thằng Tí em, con tím thằng Tí anh…Chắc tụi nó khoái lắm …
Già Hương ngồi ngẩn ra, nhìn hai con người gỗ một hồi. Rồi anh móc túi lấy lá thư, đưa cả cho Lý. Anh à lên một tiếng, bảo Lý :
- Có lẽ lát nữa Sa Piên nó vào thăm mày đó. Hồi nãy ra phum, tao có ghé báo cho nó biết vụ mày đi phép. Trông nó buồn hiu.    
Lý cau mày :
- Em tính mai ra gặp nó. Vào đây làm chi cho chộn rộn.    
Mặt trời đã xuống thấp. Bóng những thân xoài vươn dài ra sóng xoảy  trên mặt đất. Khi đốm nắng cuối cùng rọi xuống nền nhà đã thu lại thành một vệt nhòa nhỏ xíu, mờ dần, Sa Piên và Soun vào tới.
Mặt Sa Piên không dấu nổi vẻ âu lo, buồn bã, dù cô cố gượng mỉm cười chào mọi người. Huy nhận ra cô còn có một vẻ lo lắng, sợ sệt khó tả. Hẳn là Sa Piên cố lấy hết can đảm mới dám vào đây, hẳn là cô rất sợ phải chạm mặt với Quân. Cũng may là Quân đã đi sang nhà bên từ nãy, Huy thầm nghĩ. Tay Sa Piên xách một chiếc khăn croma căng phồng. Sau lưng cô, Soun nép người  e thẹn. Sa Piên đặt cái khăn gói lên bàn, nhìn Lý :
- Em có ít quà nhờ anh mang về cho me anh ở Việt Nam.  Anh về quê nhớ qua cho sớm… Em mong lắm.
Lý đứng lên, anh tới gần Sa Piên, đặt tay lên bờ vai thon thả của cô :
- Đừng buồn Sa Piên, anh về rồi qua liền mà. Đi ra ngoài này, Sa Piên.
Lý dìu Sa Piên tới gốc xoài bên đầu hồi. Hai người ngồi xuống rủ rỉ chuyện trò.
Trong nhà, còn lại Soun đứng ngây ra. Cô mắc cỡ và sợ chết được vì lần đầu tiên bước vào nhà của mấy người bộ đội, dù thâm tâm cô vẫn mong sẽ có lần được vào ngồi trò chuyện với Huy. Huy nãy giờ cứ nhìn cô cười tủm tỉm chẳng chịu nói gì. Soun không biết phải làm sao. Đi ra chỗ Sa Piên thì không được, đứng ở đây cũng không xong, Soun thấy hai chân mình tự nhiên nhủn ra. Cô ấp úng nhìn Huy :
- Sa Piên nhờ Soun cùng đi cho có bạn…
Già Hương và Mợi lác nhìn Soun cười thông hiểu. Họ nhận ra dưới lớp vải của chiếc xà rông, đôi chân cô đang run lẩy bẩy. Già Hương bảo cô :
- Lại đây ngồi đi cháu. Huy nó nhắc cháu hoài. Nó khen cháu dễ thương và tốt lắm… À, trái trâm của cháu cho hôm nọ ngon lắm. Ai cũng thích.
Soun nhoẻn miệng cười, đôi mắt đen lấp lánh, cô rón rén bước tới cạnh chiếc bàn, ngồi xuống. Huy  nháy mắt với Già Hương và Mợi lác :
- Hình như  hai anh tính qua nhà bên làm gì đó phải không ?
Mợi lác toét miệng cười, anh phát vào vai Già Hương một cái :
- Ừ, mình đi Già Hương ơi…hí hí…chắc thằng quái này nó đang rủa thầm tụi mình  phá đám nãy giờ.
Hai người gật đầu chào Soun rồi bước ra ngoài.
Soun nhìn theo họ, rồi cúi gầm đầu xuống, hai tay vân vê nếp váy, đôi má đỏ hây. Huy nhìn cô, lòng ấm áp. Một lúc sau, Huy cất tiếng :
- Me có khỏe không Soun ?
- Dạ khỏe… me nhắc boòng Huy mãi, bảo sao lâu quá không thấy ra chơi.
- Lúc này anh có nhiều công tác. Thôi để chiều mai anh ra thăm me.
Soun chợt mỉm cười, sôi nổi :
- Me nói boòng Huy thích ăn “samlo mchu” canh chua trái cà săng nấu với cá lóc. Chiều mai, boòng Huy ra chơi ăn cơm luôn nhé, Soun sẽ nấu canh cho boòng Huy.
Huy xúc động, anh làm vẻ thản nhiên :
- Ừ, Soun nấu canh thì chắc là ngon lắm. Lâu rồi chưa ngồi ăn cơm với me và Soun, nhớ samlo mchu quá.
Soun lại quay về với vẻ rụt rè. Lòng cô từ lâu đã không còn sự hồn nhiên thanh thản nữa. Nó cứ như  mặt hồ lộng gió, mãi gợn những vòng sóng nhỏ. Có lúc là những êm ái ngọt ngào khôn xiết, có lúc lại là nỗi lo âu, sợ hãi mơ hồ. Boòng Huy như là cơn gió lạ phương xa chợt đến, phá tan hồn nhiên yên tĩnh lòng cô. Chiều chiều Soun thường ra thơ thẩn giữa lùm cây dại ven chùa, nơi có chiếc hồ sen.  Có khi cô đi lang thang ra mãi tận con suối xa dưới chân đồi. Cô thích hái mấy cánh hoa dại cài lên mái tóc, rồi náo nức nhìn bóng mình trên mặt nước biếc xanh. Dưới lòng nước trong vắt lung linh, một cô bé xinh xắn đang nhìn cô như dò hỏi. Thật sự mày có xinh không vậy?  Mày cười sao mà ngớ ngẩn quá đi thôi !  Boòng Huy có thích nụ cười ngớ ngẩn của mày không, con nhỏ dưới kia ?  Ừ phải, chắc là boòng Huy có thích, boòng Huy hay cười và hay nhìn mày lắm… Mày thương boòng Huy rồi đó, Soun ơi ! Nhưng boòng Huy có thương mày đâu, anh hay ghẹo cho mày mắc cở chết người, trêu cho mày lúng túng chân tay rồi cười vang thích chí… Mà sao lời nào của anh với mày cũng ngọt cũng hay, cũng làm mày nhớ in vào đầu vậy hở?… Soun ngồi mơ màng suốt những buổi chiều như  vậy. Cô nói chuyện với chính mình. Tự hỏi rồi tự trả lời. Rồi nói với cây cỏ, với con suối, chiếc hồ. Trong lòng cô, chúng thân thiện, hiền hòa và đầy cảm thông như những người bạn thiết.    
Với cô, và những bạn bè cùng lứa tuổi, mấy boòng coong tóp Việt Namsao thật dễ mến dễ gần. Họ nói tiếng Khmer ngọng ngịu, líu lô chẳng đâu vào đâu cả, nhưng họ nói nhiều điều mới lạ. Những cách diễn tả lạ lùng của họ đầy màu  sắc, âm thanh. Soun và mấy bạn nghe những câu chuyện của họ một cách say sưa, và trong óc các cô tràn ngập những hình ảnh xa xôi, lạ lẫm. Soun hay hình dung ra cảnh tượng những “phum"  ở các thành phố Việt Nam. Ở đó có nhiều ngôi nhà cao vút gấp mấy mái chùa, trông như một cái hộp dựng đứng lên, nằm bên nhau san sát. Mỗi " phum" có rất nhiều người, đông bằng dân cả  mấy “khum”,  sống trong một diện tích nhỏ xíu  bằng nửa phum  Chan Đai này. Ở đó có những con đường thật rộng và đẹp, hai bên lề trồng những cây cao. Ban đêm đèn đuốc sáng trưng, rực rỡ muôn màu, sáng hơn cả đêm rằm. Soun đã có dịp  xem những ảnh chụp cảnh Phnom Penh in trong sách, lời họ kể nghe tương tự như trong những bức ảnh in đó. Vậy Việt Nam  cũng giống như  Campuchia thôi. Nhưng giống ở các thành phố lớn, còn ở đây, nơi “sre srok” nơi xa xôi hẻo lánh này, chỉ có những túp nhà sàn mái tranh thấp bé, những con đường đất nắng bụi mưa bùn, những ngọn đồi  cánh rừng hoang vu vắng lặng. Từ nhỏ đến giờ, và có lẽ đến tận lúc  chết đi, cô và các bạn cũng không bước chân ra xa hơn cái chợ huyện nghèo nàn, hiu hắt. Và những câu chuyện của mấy coong tóp Việt Nam đã mang vào giấc mơ nhỏ đêm đêm của các cô gái quê mùa những hương sắc kỳ diệu lạ lùng. Họ gây cho các cô nhiều ngạc nhiên, làm các cô thêm tò mò, thắc mắc. Cùng với những câu chuyện kể, họ trở nên bí ẩn và thu hút lạ lùng. Tự nhiên, họ vượt hơn hẳn cánh thanh niên phum làng về mọi mặt. Trai làng quá quen thuộc, quá bình thường, họ cũng chỉ có kiến thức, tầm nhìn nhỏ bé ít ỏi như  Soun và các bạn. Có lẽ vì vậy mà đa số các cô đều ao ước có một người yêu là coong tóp Việt Nam. Đã có nhiều  lời kể không hay về những mối tình này : chàng trai về nước không bao giờ quay lại, và cô gái một mình nuôi con. Thường là như thế. Nhưng vẫn có những ngoại lệ khác ít hơn. Soun biết một chị trên chợ huyện, chị đã cưới một người coong tóp, và anh ta đã ở  lại không về. Hai người ra chợ Xi xô phôn buôn bán và trở nên giàu có. Vậy thì đâu phải mối tình nào cũng đều là đau khổ. Vả lại, khi cái bụng thương rồi, ngại gì những điều trắc trở. Khi gặp boòng Huy lần đầu, Soun đã thấy lòng mình khác lạ. Và dần dần, cô hiểu mình đã thật sự yêu thương. Không phải là cô muốn vậy, cô cũng rất sợ hãi, lo âu. Nhưng tình yêu lớn quá, mạnh quá, nó chiếm lấy cô, xô đẩy cuốn hút cô không còn phương lẫn tránh.
Soun chợt giật mình, thoát khỏi những ý nghĩ miên man khi nghe Huy hỏi :
- Soun nghĩ  gì mà buồn vậy ?
- Dạ… - Soun lắc đầu luống cuống.
- Soun này, Huy mang hình buk me và mấy em của anh cho Soun xem nhé. Me anh vừa gửi cho anh đó.
Soun gật đầu, đôi mắt sáng lên.
- Dạ, boòng Huy lấy đi, Soun muốn xem lắm.
Ngoài sân, bóng chiều đã nhạt nhòa sắp nhường chỗ cho đêm tới. Huy thắp ngọn đèn để trên bàn, rồi tới đầu chiếc chõng mở ba lô ra. Anh quay lại, đưa cho Soun tấm ảnh chụp cả gia đình má anh vừa gửi sang hồi đầu tháng. Trong ảnh, nom ba má Huy đã già đi nhiều, và gầy ốm hơn lúc trước. Mấy đứa em đứng thành một vòng cung sau lưng hai ông bà, đứa nào cũng cố nặn một nụ cười trông thật ngộ. Soun nhích tới gần chiếc đèn, cúi đầu nhìn thật kỷ từng người một. Cứ mỗi lần nhìn xong một người, cô lại tíu tít bình phẩm hoặc hỏi Huy :
- Me boòng Huy ốm quá, ốm hơn cả me Soun…             
-  Buk boòng Huy có khó không, lúc boòng Huy còn nhỏ có hay bị ông đánh đòn không?
-  Em gái kế của boòng Huy là người này phải không ?  Đẹp quá ! …
-  Nhà boòng Huy cũng đông người lắm. Một, hai…..tám người, nếu boòng Huy mà về nữa là có tới chín người. Chắc là vui lắm. Chẳng như nhà Soun, chỉ có me và Soun, buồn ơi là buồn…
Huy vừa mỉm cười trả lời Soun, vừa thân ái nhìn cô. Nét mặt Soun lúc này trông thật ngây thơ, trong sáng. Đôi mắt cô lúc lúc lại chớp nhẹ, mái đầu nghiêng nghiêng và hàng mi dài rợp bóng bên ánh đèn trông càng đẹp lạ lùng. 
Soun nhìn xuống tấm ảnh thêm lần nữa rồi trao lại cho Huy. Cô nhìn quanh quẩn, ánh mắt cô chợt bắt gặp cây đèn dầu đang cháy trên bàn. Đó là một cây đèn dã chiến, làm bằng một chiếc lọ thủy tinh đựng thuốc. Soun cười khúc khích :
-  Ồ, cây đèn ngộ quá ! Ai làm vậy hả boòng ?
-  Anh làm đó.
-  Boòng Huy khéo quá, làm được cây đèn thật đẹp.
-  Để hôm nào rảnh, anh sẽ làm cho Soun một cái, chịu không.
-   Chịu chứ,  Soun thích lắm đó - Cô mỉm cười.
Ngồi một lúc nữa, Soun nhìn ra sân rồi hốt hoảng kêu lên :
- Trời ơi, tối mất rồi. Soun phải về thôi boòng Huy.
- Cứ ngồi chơi thêm tí đi Soun. Sa Piên còn nói chuyện nhiều với anh Lý mà.
- Không được đâu. Để Soun gọi Sa Piên.
Soun đứng lên, bước ra cửa. Trong bóng tối nhòa nhòa ở góc sân, dưới táng xoài, hình dáng Sa Piên và Lý nổi lên thành một nét tạc đen sẫm. Soun kêu khẽ :
- Về thôi boòng Sa Piên, tối lắm rồi.
Hai người đằng kia đứng lên. Họ vẫn còn lưu luyến chưa muốn rời nhau, bốn bàn tay đan vào nhau tha thiết. Vài phút sau, họ bước tới gần Soun. Sa Piên quay về phía Huy khi ấy đang đứng dựa vào khung cửa lóng ngóng nhìn ra, cô nói :
- Chúng tôi về nghe Huy.
Cô quay lại nhìn Lý gật đầu, rồi quay lưng nắm tay Soun bước theo lối mòn chỉ còn hiện lên một vệt xám mờ trong bóng tối. Lý bước tới bên Huy, nét mặt trầm ngâm. Huy hỏi :
- Mai anh mấy giờ anh lên tập trung ở E ?
- Tám giờ có mặt.
- Anh cố gắng qua sớm nghe. Sa Piên không có anh buồn lắm đó.
Lý im lìm không nói, anh đặt tay lên vai Huy bóp nhẹ một cái, rồi quay gót đi về phía nhà A đại liên.
Chương 14
PHẦN BA
Mùa thu năm 1985 lặng lẽ đến, với những cơn gió hiu hiu lúc xế chiều, với ánh nắng vàng mơ dịu nhẹ, bầu trời trong trẻo mênh mông.  Từng đàn chim thiên di  bay từ hướng đông bắc về nam, để rớt lại những tiếng kêu líu ríu  vọng dài trong gió, và vào những chiều thu muộn, trên những cánh trảng, chuồn chuồn bay từng đám rập rờn, điểm lên nền trời xanh lơ những chấm vàng chao động.
Một buổi chiều tháng Mười, sau ngày Lý lên đường đi phép hơn ba tháng, Huy ra  thăm me Sa Rinh. Hạn phép của Lý đã hết từ lâu, nhưng anh vẫn biệt tăm, và trong quảng thời gian đó, không có bất cứ một tin tức thư từ gì của Lý gửi sang. Mợi hay chắc lưỡi, lắc đầu rồi bất ngờ chửi đổng lên : " Mẹ nó ! Có trốn không qua thì cũng báo cho anh em biết chứ ! Tao mà về được, nó biết tay tao ! " Me Sa Rinh và Sa Piên rất lo lắng hoang mang. Cô vào cứ mấy lần hỏi thăm tin tức Lý, dù cách chừng một đôi tuần Huy lại ra nhà. Có lần, Sa Piên còn nhờ Huy viết thư cho Lý, nhắc anh mau sớm trở qua. Huy viết lá thư  theo đúng những lời của Sa Piên nói, những lời ngây thơ mộc mạc buồn cười, nhưng thể hiện một tình yêu sâu sắc và nỗi buồn nhớ mênh mông. Nhưng Huy bắt đầu nghi ngờ  việc Lý trở qua. Có đến tám mươi phần trăm là anh ta đã đào ngũ hẳn rồi. Nhiều lúc Huy thầm tiếc phải chi Lý đừng chuyển về tiểu đoàn ba, phải chi Sa Piên vẫn yêu thương Quân, cả hai chắc chắn sẽ được hạnh phúc. Quân vẫn còn yêu Sa Piên lắm, Huy biết. Nhưng làm sao được, trái tim cô, thân xác cô đã thuộc về Lý mãi mãi mất rồi.  Lần me Sa Rinh trao chiếc vòng nhờ Huy trả lại cho Quân, hai anh em đã trò chuyện với nhau rất lâu, từ chiều đến tận khuya. Hôm đó, Quân buồn lắm, chuyện chiếc vòng gợi nhớ cho anh, gợi lại nỗi đau mà anh đã cố tìm quên, cố vượt qua trong công việc bấy lâu nay. Nhưng hôm đó, anh cũng  nói rất nhiều về bản thân, về những suy tư, quan niệm, ý tưởng của mình đối với cuộc đời cho Huy nghe.
Khi  Huy vừa bước tới chân thang đã nghe thấy tiếng quát tháo của Buk Hô. Huy đứng ngập ngừng một lúc rồi bước lên nhà. Buk Hô chỉ hơi gật đầu đáp lại câu chào của Huy, rồi ông lập tức bỏ đi, nét mặt vừa đau đớn vừa phẫn nộ. Me Sa Rinh và Sa Piên ngồi co rúm ở một góc nhà. Sa Piên gục đầu vào lòng me khóc nấc. Huy bối rối, không biết nên ra về hay ở lại. Anh còn đứng lưỡng lự chưa biết phải làm sao thì me Sa Rinh bảo :
- Con lại đây. Me có chuyện này muốn nói với con.
Huy bước lại, ngồi đối diện với me, nhìn bà dò hỏi.
- Lý có viết thư cho mấy con chưa ?
- Dạ không có me à. Không biết tại sao…
- Huy à, Sa Piên đã có thai mấy tháng rồi. Thằng Lý thì bặt tăm tin tức… Me vừa nói cho Buk
Hô biết chuyện. Con thấy đó, ổng nổi khùng lên, đòi đập chết Sa Piên… me biết làm sao đây, Huy ơi !
Huy ngồi chết trân, đầu óc hoang mang. Một thanh niên còn chưa hết tính trẻ con như anh thì biết gì  đâu với mấy chuyện quá phức tạp thế này. Huy thầm trách Lý quá nhẫn tâm vô tình, anh nhìn Sa Piên thương xót. Trông cô xanh xao gầy guộc đi nhiều, hai mắt quầng đen vì mất ngủ, lo âu.
Me Sa Rinh nói tiếp, nghẹn lời, rưng rưng nước mắt :
-Thanh niên trong phum chê bai nói xấu Sa Piên. Nó bây giờ không dám bước đi đâu. Khổ cho mẹ con me quá, Huy ơi !
 Sa Piên nhăn mặt :
- Me đừng nói nữa !
Huy nhìn ra khoảnh sân tràn ngập ánh nắng quái chiều hôm. Cây chùm ruột mà me Sa Rinh có lần hái trái nấu canh chua thịt gà cho anh và các bạn khẽ đung đưa trong gió, những cành lá vẫn xanh ngăn ngắt vô tình. Đống un ở góc vườn tỏa lên một làn khói mong manh, mỏng như sương. Hai con trâu nằm thảnh thơi nhai lại, thỉnh thoảng lại lười nhát vung đuôi xua ruồi nhặng. Mấy con gà mái già, lông cánh xác xơ, đang hối hả tìm những míếng mồi cuối cùng trong đống rác, bọn gà con vừa chạy quẩn bên chân mẹ, vừa kêu líu nhíu như giục mẹ chúng mau đi tìm chỗ ngủ. Con gà trống hoa mơ đỏm dáng đã kịp nhảy lên cành vú sữa thấp nhất, nơi nó vẫn đậu ngủ đêm. Nó nghiêng nghiêng đầu, hếch một bên mắt nhìn xuống bầy đoàn thê tử bên dưới, khẽ lục cục trong cổ họng. Chợt nó nhỗm hai chân, hất chiếc mồng đỏ tía qua một bên, vươn cổ gáy lên một cách hợm hĩnh vô duyên. Tất cả - ánh nắng vàng, cây cỏ trong vườn, bầy gà, hai con trâu, những lượn khói mờ xanh- đều giống như  bất cứ một buổi chiều nào, nhưng trong không khí tịch mịch giờ đây, có một cái gì đó thật nặng nề, làm tim Huy thắt lại, bồn chồn.
Huy  chợt nhớ có một lần anh nghe hai chị em Khla và Cà mum trò chuyện với nhau, đứa chị chừng mưới ba, nhỏ  em chừng chín mưới tuổi, chúng hỏi đáp nhau những câu thật ngộ nghĩnh ngây thơ. Lúc đó hai chị em đang sàng gạo, còn Huy đứng giã gạo giúp chúng kế bên. Đang nghĩ vẩn vơ gì đó, anh chợt chú ý khi nghe Khla hỏi :
-  Boòng Cà mum, boòng có thích sau này mình sẽ có thể đi xa, thật xa, đến thật nhiều nơi không ?
-  Để làm chi ? – Nhỏ chị hỏi lại.
-  Để trông thấy tất cả mọi thứ, để hiểu biết mọi thứ.
-  Chà, thích đó, nhưng làm sao được, muốn đi xa như vậy phải thật giàu có, Khla ạ.
- Em ước gì được đi. Em chán ngày nào cũng cứ như ngày nào, nhìn ra xa trước mặt chỉ có núi S'vai già  cỗi và quen thuộc.  Chả biết ở xa kia có núi nào khác to hơn núi Svai không nhỉ ? … À này, boòng ơi, boòng có biết thứ gì to nhất trên đời này không hả boòng?
- Trái đất to nhất chứ còn gì. Bao nhiêu là người, là heo chó trâu bò, sông núi, đều nằm trên trái đất.
- Không phải đâu, em nghe lục tà  Sư ông Sa Gong bảo tình yêu là to lớn nhất đó.
- Sao thế được, tình yêu nằm trong cái bụng, trong cái đầu của mình mà, sao to nhất được ?
- Lục tà bảo tất cả sông dài núi rộng  đều đo được đó, boòng ạ. Lục tà bảo ngay như trái đất là to, nhưng người ta cũng có thể đo được, chứ tình yêu mênh mông lắm , không ai đo lường được. Không đo được tất là phải to ghê lắm.
- Sao thế được! To thế thì mày đến vỡ bụng, vỡ đầu ra khi cái tình yêu nó chui vào bụng, vào đầu mày hay sao ! Vớ vẩn !
- Ừ nhỉ!  Chả hiểu lục tà nói vậy là sao. Nhưng lục tà đâu có nói dối, hả boòng?
- Tao không biết đâu. Mày đi mà hỏi lục tà.  
Nhỏ Khla chợt quay sang Huy , hỏi anh :
- Boòng Huy, boòng thấy lục tà nói đúng không ?  Lục tà đâu nói dối, phải không ?
Huy ngưng giã, chống cằm lên cán chiếc chày. Anh gãi gãi đầu, rồi nhe răng cười với Khla :
-  Ừ, ông ấy không nói dối đâu. Nhưng khó  giải thích lắm. Em chỉ cần biết tình yêu to hơn trái đất là đúng, được chưa nào ?
Lúc đó, anh cũng chỉ trả lời qua quýt vậy thôi. Nhưng giờ  đây, Huy chợt cảm nhận trong câu chuyện vu vơ của hai đứa bé có một cái gì đó, như  là những chân lý giản đơn. Và câu đáp của lục tà Sa Gong nữa. Có phải con người bao giờ cũng khao khát những chuyến đi xa, khao khát được biết những điều mới lạ, có phải thật sự tình yêu to hơn tất cả ?
Không đầy nửa giờ  từ  lúc Huy từ nhà me Sa Rinh về trại,  Quân cho tập trung toàn trung đội. Anh cũng vừa lên tiểu đoàn bộ hội ý đột xuất trở về.  Anh thông báo ngắn gọn :
- Phát nấu cơm, chuẩn bị cơm vắt. Tất cả chuẩn bị năm ngày gạo, đạn dược đủ cơ số.
Đúng 8 giờ tối tiểu đoàn xuất kích. Trinh sát trung đoàn đi bám phát hiện một lực lượng rất đông, đang trên đường từ biên giới ngược về nội địa theo hướng đông nam.  Chúng ta sẽ tập kết  ở khu vực suối Cro lanh,  cách đây hơn ba mươi cây số. Hợp đồng tác chiến như sau : Hai đại đội vượt suối sang bờ bên kia, cắt ngang hướng đông đông bắc, chặn đường chạy của địch về  khu rừng phía đông.  Khi địch bị khối trung đoàn đuổi từ trên chạy xuống, C11 sẽ đánh chéo hông, C12 cắt bọc  vu hồi. Trung đội ta sẽ phối thuộc C13 đón lõng cắt đường địch băng qua suối. Tôi phân công Già Hương và Bùi ở nhà giữ cứ, chỉ để ở nhà một khẩu AK, tất cả vũ khí trang bị còn lại mang theo tác chiến. Phân công tác chiến như cũ, phương án tác chiến loại A.
Mọi người nhanh chóng tản ra làm công tác chuẩn bị. Sau đó, họ  ngồi quây lại với nhau, vừa ăn cơm chiều, vừa tán chuyện ồn ào, phấn chấn vì sắp có một trận đánh ngon lành.
Đó là một đêm hanh nóng. Mồ hôi ướt đẫm áo những người lính ngay trong mười phút đầu sau khi xuất phát. Trăng non đã xuất hiện ở lưng trời, gieo một thứ ánh sáng lờ mờ , đục như sữa, xuống cánh trảng dọc bờ hồ, nơi họ đi qua. Ra đến cứ  Tiểu đoàn một, Huy thấy một đội hình dài dằng dặc cũng đang di chuyển về hướng bắc, chéo một góc 30 độ so với hướng của Tiểu đoàn ba. Vậy là cả trung đoàn đều xuất kích. Lâu lắm rồi mới có một trận tập trung lực lượng lớn thế này, Huy thầm nghĩ.
Khoảng  ba giờ sáng, tiểu đoàn đến điểm tập kết. Quyền tiểu đoàn trưởng Bảo ra lệnh các đại đội vượt suối triển khai đội hình chiến đấu, khối hỏa lực cối, ĐKZ, thông tin vận tải nằm lại bên này bờ suối yễm trợ.
Crolanh là một con suối lớn. Lòng suối ở khúc hẹp nhất cũng rộng hơn hai mươi mét. Và tất nhiên, nó cũng là một con suối sâu. Đã có  một người lính tiểu đoàn một chết đuối khi hành quân vượt suối vào mùa nước lớn tháng Bảy trước đó.  Dọc hai bên bờ suối, rải rác những lùm cây gai dày đặc, loại dây leo bám thân mềm nhưng rất hiểm độc  này là thứ  những người lính ghét cay ghét đắng, và ngán nhất. Gặp lũ dây này trên đường hành quân, chỉ có cách né chúng, vòng đường khác mà đi, giây vào chúng chỉ tổ mất thì giờ, và mất thêm một ít máu chứ chả lợi lộc gì. Dưới ánh trăng, những bụi gai khổng lồ, đen sẫm đứng lù lù như đe dọa.
Các đại đội lần lượt vượt suối, tản ra theo phương án. Đại đội trưởng Thu  bố trí trung đội 12 ly nằm chệch lên trên, giữa trung đội tám và trung đội chín ở cánh trái và trung đội bảy ở cánh phải, rải đều thành một hình cánh cung dọc theo một đoạn suối uốn lượn hình chữ  Z.
Hai bên bờ suối, chạy xéo về hướng đông nam là một  trảng cỏ thưa thớt trãi dài hàng chục cây số  đến tận chân trời, lác đác mới có những cụm cây, bụi nhỏ thấp. Thẳng góc với bờ suối, hướng bắc, cách hơn ba trăm mét là một quảng rừng thưa. Sau khi bố trí xong đội hình trung đội, Quân nhìn một vòng bao quát địa hình, anh đi qua chỗ Thu.
- Ông Thu nè, bờ suối này quá thấp và phẳng, không có địa vật che đỡ, ông nhắc anh em đào công sự cẩn thận, nếu không địch tràn xuống rất dễ thương vong.
- Nhằm nhò gì, ông đừng lo. Mình di chuyển chứ có nằm im một chỗ đâu mà đào công sự, để anh em nghỉ ngơi để lấy sức đánh nhau tốt hơn.
- Không được đâu ông Thu. Di chuyển là khi tấn công, còn đây ta đón lõng, chủ yếu là ngăn không địch vượt qua suối. Trống trải như vầy di chuyển để phơi mình cho địch hay sao, ông nên suy nghĩ lại. Thà mệt thêm chút ít còn hơn làm đổ máu anh em một cách vô ích – Quân cố thuyết phục Thu.   
Thu nhếch mép cười, lắc đầu không đáp.  Anh bắt đầu hơi bực bội, nhưng dằn lòng lại vì cũng có phần nễ Quân. Thu nghĩ thầm : " Hừ, lại còn dạy đời nhau. Thằng Thu này đánh nhau hàng trăm trận,  từ thằng binh nhất bò lên chức đại đội trưởng qua chiến đấu, chứ đâu phải thứ  sĩ quan trường lớp hôi sữa mẹ !"  Quân cảm thấy Thu có vẻ tự ái nên cũng không nói gì thêm.  Anh buồn bã quay lại lệnh cho anh em trung đội đào công sự. 
Đất dọc theo bờ suối toàn một loại gan trâu, rắn như đá. Lưỡi cuốc bập mạnh vào cũng chỉ sới lên được một vạt mỏng những lớp đất rời rạc lục cục lòn hòn. Quân cùng đào với anh em. Khi họ ngưng tay, trời bắt đầu hửng sáng.
Khoảng nửa tiếng sau, khi mọi người đang ngấu nghiến nhai nắm cơm vắt chuẩn bị từ chiều hôm trước, tiếng súng bắt đầu rộ lên ở hướng Bắc, cách chừng bảy tám cây số. Đạn B và cối pháo nổ  dồn dập một lúc, rồi im lặng trở lại.  Thêm khoảng nửa tiếng nữa, địch bắt đầu xuất hiện ở bìa cánh rừng thưa.
Chưa bao giờ, ngay cả lúc đánh các căn cứ lớn ở  vùng biên giới, họ lại trông thấy một lúc nhiều quân địch như vậy. Hàng ngàn tay súng, lố nhố  di động sau những thân cây, bụi nhỏ như một bầy kiến đông lúc nhúc, đặc cả một dãy rừng.
Mọi người không  cần chờ lệnh. Địch sờ sờ trước mắt, họ nổ súng ngay.
Khói đạn mù mịt chẳng bao lâu đã tỏa ra phủ  một vùng rộng quanh chiến địa. Địch bị thương vong nhiều hơn, nhưng chúng quá đông và  cố mở đường chạy về  đông để thoát gọng kìm của trung đoàn ở phiá trên đang dồn xuống, nên lớp này vừa gục xuống, những xác chết  đã trở thành vật che chắn cho lớp sau bò lên. Quảng cách giữa hai bên ngắn dần. Phiá đại đội 13, đã có một số chết và bị thương. Cối, ĐKZ của Tiểu đoàn từ bên kia bờ suối rót qua đều huốt  ra sau lưng địch, hoặc nếu hạ tầm thì lại vướng vào những bụi cây ven bờ suối.
Trận đánh kéo dài được hơn một tiếng, thế yếu ngày càng nghiêng về phía đơn vị lính tình nguyện Việt Nam. Đội hình của họ bị chẻ nhỏ ra, rồi lần lượt bị đánh tan tác.
Lúc này mạnh ai nấy bắn, chẳng còn hàng lối trật tự gì. Khẩu 12 ly mỗi lần khạc lửa lại quét ngã một lớp địch đang cố xông lên.  Lúc đầu nổ súng, Thuận bắn. Nhưng mảnh một quả B nổ gần găm vào vai làm anh ngã quỵ.  Quân vội giao khẩu AK cho Huy, đỡ Thuận ra phiá sau, rồi quay lại khẩu súng tiếp tục bắn. Huy nằm bên trái khẩu súng, giương AK vào những bóng áo xanh mờ mờ sau màn khói bắn từng loạt ngắn.  Ở hai cánh của khẩu trọng liên, mấy khẩu AK còn lại của trung đội cũng đều phát hỏa. Chẳng bao lâu, địch đã phát hiện ra tọa độ của khẩu đội. Chúng tập trung mấy khẩu B vào một mục tiêu, quyết diệt cho bằng được khẩu hỏa lực lợi hại này. Những quả B nổ tung xung quanh khẩu súng. Tai Huy ù lên, đau nhói và gần như điếc đặc vì những tràng 12 ly và tiếng đạn B nổ gần.  May là  họ  đã có công sự  nên cũng đỡ hơn một tí. Nắng bắt đầu gay gắt, phóng từng luồng ánh sáng nóng chói chang xuống đầu những người lính, nhưng không ai để ý. Trong đầu họ lúc này, máu dồn lên còn nóng gấp mấy lần ánh nắng. Bụi đất bay lên mù mịt làm những người lính ho sặc sụa, cổ họng họ khô se, đắng ngắt và nghẹn lại.
Huy lia súng vào một tên địch cách anh khoảng trăm mét, khi hắn vừa  nhỗm lên định phát hỏa một quả B, mấy phát đạn không trúng đích, nhưng cũng buộc tên địch thụp đầu ngay xuống nằm im thin thít. Chợt anh nghe loáng thoáng như có tiếng ai quát tháo. Anh quay sang Quân. Hình như Quân đang hét to gì đó, nhưng Huy không nghe rõ.  Rồi anh thấy Quân bò về phiá sau, nơi các số đạn đang nằm nấp. Huy chợt hiểu ra là mấy thùng  đạn ở  trên đã hết. Quân phải bò xuống để lấy mấy dây đạn phiá sau. Huy quay về trước tiếp tục nổ súng. Anh cũng đã bắn hết bốn băng đạn  lắp sẵn và gần nửa ruột tượng đạn rời, dù rất tiết kiệm. Vừa bắn, Huy vừa tranh thủ những lúc địch thụp xuống để lắp đạn rời tiếp vào băng. Lúc này, bọn địch thừa cơ khẩu trọng liên im tiếng, vừa bắn xối xả uy hiếp, vừa hè nhau xông lên áp sát. Bên tay trái Huy, một tên, bên phải Huy hai ba tên khác. Huy rút quả lựu đạn cầu ở thắt lưng ra, ghé răng cắn vào chốt và chờ đợi. Mấy tên phiá phải vừa nhoài lên đúng tầm lựu đạn, Huy bung chốt, ngưng khoảng hai giây rồi ném lên. Quả lựu đạn nổ hất ngược bọn địch về. Huy lại quay sang bắn kềm chân bọn phiá kia.  Thoáng chốc, Quân bò lên tới. Quanh vai anh quấn một dây băng, hai tay kéo thêm hai thùng nữa. Vậy là tất cả số đạn còn lại trong cơ số đã mang lên – Huy thầm nghĩ. Anh không dám nghĩ tiếp. Đạn địch vẫn cào xới, đào tung mặt đất xung quanh họ. Những bụi cỏ nhỏ, thân cây đều đã bị đạn cắt tiện hoặc  băm nát hết. Quân vừa lắp xong dây đạn mới vào bệ tiếp đạn, anh nghiêng người lên đạn. Thân hình Quân chợt nẩy nhẹ lên, rồi anh gục xuống. Bên trán phiá tay phải của Quân, một dòng máu vọt ra. Còn sau ót anh, một vùng máu và óc lầy nhầy, nát bấy. Thuận đang nằm ở phiá sau cố gượng ngồi dậy, rồi quên cả vết thương ở vai, anh gào lên, nhào tới, ôm chầm lấy Quân. Ngay sau đó, anh vội buông Quân ra, chụp tay kéo lên đạn, nước mắt ràn rụa.  Khẩu 12 ly rung lên, nòng súng xòe ra những chùm hoa lửa, và nóng đỏ lên, lớp bao bố ràng sau đầu ruồi bắt đầu bốc khói nghi ngút. Trong một khoảnh khắc, Huy nhìn thấy tất cả các cảnh tượng ấy. Chính  anh khi đó đã gào lên, đã khóc, hay đã làm gì khác?  
Những hành động sau đó của Huy vượt khỏi tầm kiểm soát của trí não anh. Sau này khi nhớ lại, Huy cũng chỉ biết lúc ấy mình vẫn tiếp tục chiến đấu. Còn chiến đấu ra sao, trận chiến còn bao lâu nữa kết thúc, và họ đã trở về Cứ  như thế nào, những điều sau đó như một lớp sương mù mờ mịt trong ý thức của Huy.
Nói về tình cảnh của đại đội 13  khi ấy, mọi chuyện cũng bi đát không kém. Hàng ngũ của đại đội đã rối bời. B trưởng B7 và B8 đã chết, gần hai phần ba quân số đại đội bị thương hoặc hy sinh. Những người còn sống sót cố cầm cự một cách yếu ớt, và  đã dạt xuống phiá sau khẩu đội. Địch tràn lên từ khắp phiá, đằng trước, bên phải, bên trái, đâu đâu cũng thấy lổm ngổm những tên địch đang  xông tới.  
Ở một chỗ cách khẩu đội chừng trăm mét, Đại đội trưởng Thu vai trái loang đỏ máu, đang ôm khẩu AK bắn cầm chừng. Nằm kế bên anh là  một chiến sĩ thông tin, và  Duy, liên lạc đại đội.  Cả ba đều bị tách khỏi đội hình, bấy giờ chỉ còn chiến đấu một cách vô  vọng như mấy con giun lọt vào một ổ kiến lửa hung tàn. Thu vừa bắn, vừa hét thẳng vào chiếc máy PRC 25, không còn để ý đến mật khẩu, ám hiệu gì nữa : " Mười ba bị bao vây, mười ba bị bao vây, yêu cầu chi viện khẩn…. "  Câu hét của anh bị dập tắt nửa chừng. Một quả B nổ tung ngay trước mặt Thu. Sau khi lớp bụi đất và khói tan đi, trên mặt đất chỉ còn lại ba xác người xạm đen và nát bấy.
Khối tiểu đoàn bộ  lúc bấy giờ  đã rút về phiá sau một quảng, đang cố  bắn cấp tập để giải vây, nhưng cũng chỉ  ép địch được địch dạt qua một cánh, xuống khu bờ suối phiá dưới trận địa. Địch đã vượt qua suối được một phần ba. Số  còn lại bên này bờ suối cũng không còn hăng máu đánh nhau mấy vì đã có đường thoát, chúng tranh nhau vượt suối. Tiếng súng ngớt đi, rồi một lúc sau chỉ còn tiếng cối toong đuổi theo lưng địch của tiểu đoàn.
Lực lượng của trung đoàn  xuống tới trận địa  chậm hơn sau đó khoảng một giờ. Họ không ngờ địch lại tập trung lại một điểm ở đó, lại càng không ngờ lực lượng đón lõng vì  quá mỏng so với địch đã gần xoá sổ sạch trơn. Đại đội 11 và 12  cũng đụng  mấy nhóm nhỏ của địch dạt về hướng họ, nên đã  bị cầm chân tại chỗ, không thể nào tiếp ứng.
Chiều hôm ấy, vào lúc  những tia nắng cuối cùng sắp tắt, một vài người dân ở mấy phum lân cận còn nán lại trên đồng đã trông thấy một đoàn xe bò  mười mấy chiếc đi ngang qua chỗ họ, kéo theo một lớp bụi xám mờ tỏa lên nền trời tím đỏ, trên mỗi xe có hai hoặc ba xác chết bộ đội Việt Nam, được phủ phiá trên bằng một tấm nylon màu xanh nhạt. Chẳng bao lâu, dân trong vùng đã biết rằng có rất nhiều lính Việt Namchết trong một trận đánh vào buổi sáng mùa thu ấy. Họ kể chuyền cho nhau nghe, mỗi người lại thêu dệt thêm thắt những chi tiết về tính nết, vẻ mặt người này, chuyện tình người khác. Trận đánh trở thành một huyền thoại bi thương, và mỗi người dân đều tưởng chừng như mình  có quen biết, thân tình với một ai đó trong số những người lính đã hy sinh.
Trong trận đánh ấy, có ba mươi chín người, kể cả sĩ quan, hạ sĩ quan và chiến sĩ, đã trở thành liệt sĩ.  Một trận đánh mang lại tổn thất nặng nề, cả về  con người và tinh thần chiến đấu cho toàn thể trung đoàn. Rất lâu sau đó, người dân quanh vùng vẫn nhắc lại cảnh tượng ngày hôm ấy, như là một biến cố  không bao giờ phai nhòa trong ký ức họ, ký ức của những cuộc đời bình lặng, với những niềm vui nỗi buồn rất  bình thường, và  hầu như không có gì đáng nhớ. 
Chương 15
Thấm thoắt, Huy đã trãi qua hai năm xa nhà. Từ lâu, Huy không còn cảm giác nhớ nhà da diết nữa, anh không viết thư về nhiều lắm, bốn năm tháng mới gửi một lá về thăm ba má, thăm các em. Và cũng ít nhận được thư nhà hơn. Có những lúc, Huy tưởng chừng như mình sinh ra đã là người lính, tưởng chừng như  anh đã sống cuộc sống này từ  rất lâu, rồi một lá thư nhà bất chợt nhắc lại cho anh nhớ còn có một gia đình ở xa kia, còn những mối dây vô hình mà bền chặt giữa anh và những người thân ở chốn quê nhà.
Trung đội có nhiều thay đổi. Quân đã hy sinh từ lâu. Lớp lính cũ như Nam Bùi, Quy, Thiện, Mợi, Già Hương, Ụ Mối đã lần lượt phục viên xuất ngũ, có thêm một số lính mới vào như  Vũ, Kiên, Quang. Huy đã là người chỉ huy trung đội. Năm tháng qua đi, Huy cũng có nhiều thay đổi. Anh không còn tính nóng nảy bồn chồn, dễ buồn dễ vui như trước. Tính anh trầm lắng lại, dù  bản chất vẫn như xưa. Huy là một người  nhạy cảm, không phải ở ý nghĩa bình thường, mà là đặc biệt của từ này. Anh đa cảm đa sầu thái quá. Tư tưởng, nhận thức của anh đối với cuộc đời mang một vẻ vừa cổ hủ, xa xưa, vừa ngây thơ  ngờ nghệch. Huy thuộc loại người mà mọi người thường gọi một cách châm biếm là "kẻ sống trên mây". Loại người như anh nhìn cuộc đời không phải với những sắc màu, đường nét thực sự của nó, mà với một màn lọc vô hình, qua đó mọi thứ mang một dáng vẻ sắc thái lãng mạn, khác thường, hoặc phức tạp hơn lên, hoặc lại bị đơn sơ hóa tuyệt đối; loại người một cách không ý thức ưa sống trong những giấc mơ  hơn là thực tại.
Một thời gian dài sau khi Quân hy sinh, Huy mới  nguôi ngoai, quen dần với nỗi đớn đau mất mát. Nhiều đêm, Huy nằm thao thức, nước mắt chảy dài trên má khi nghĩ tới Quân. Di vật của Quân mà Chính trị viên tiểu đoàn giao trả lại cho trung đội sau đó có một quyển nhật ký, quyển thơ có lần Huy đã được đọc, và chiếc vòng cẩm thạch. Huy đọc hai quyển sổ nhiều lần, rồi đã đốt chúng theo ý của Quân. Trong quyển nhật ký, ngay ở trang đầu, Quân ghi dòng chữ : " Nếu tôi chết, và ai đó nhặt được cuốn sổ này, xin làm ơn đốt nó giùm tôi". Đọc quyển nhật ký, Huy  cảm thấy Quân vẫn khó hiểu và lạ lùng như những cảm giác đầu tiên mà Huy đã có với anh. Càng biết thêm nhiều về những suy tưởng của Quân,  Huy càng thấy con người anh mông lung xa vời như một cái gì đó vượt khỏi tầm nhận thức. Chính bản thân Huy cũng có nhiều suy tưởng, nhưng chúng gần gũi, gắn bó  với cuộc sống hàng ngày. Còn ở Quân, chúng là những điều xa xăm, rất đỗi xa xăm. Nhưng dù gì đi nữa, trong đầu Huy, Quân vẫn là một con người đẹp đẽ. Một vì sao rực sáng trong giây lát thôi, nhưng để lại trong ký ức người trông thấy một ánh sáng diệu kỳ và tồn tại mãi.
Còn chiếc vòng, Huy mang nó ra chôn dưới đất, trước nhà mộ me Sa Rinh. Sa Piên không nhận nó, nhưng dù sao thì nó cũng đã vĩnh viễn thuộc về cô. Thôi thì để me giữ nó, và bà sẽ đưa lại cho cô một ngày nào đó, khi hồn hai người gặp nhau ở  cõi chết, nếu như thật sự có cõi chết và có linh hồn. Me mất sau Quân chừng hai tháng. Buồn phiền, đau đớn vì Sa Piên, và nhất là cái chết của Quân, đã nhanh chóng cướp đi ở bà chút sức già còn lại. Hôm nghe tin me chết, Huy ngồi lặng đi, cổ họng nghẹn ngào, đầu óc mụ mị hoang mang. Anh không còn có thể khóc lên thành tiếng.  Vài hôm sau khi hỏa táng me, Sa Piên bỏ nhà đi đâu không rõ, sau đó ít lâu có người bảo trông thấy cô bán nước giải khát ở  một quán nhỏ trên đường liên tỉnh thị xã Batdomboong, cùng một người đàn ông đứng tuổi. Căn nhà ngày xưa êm đềm ấm áp, rộn tiếng cười nói ríu rít của Sa Piên, tiếng xe cửi quay tơ đằm đằm những chiều nắng nhạt, giờ hoang vắng lặng đi như  một chốn nghĩa trang. Một hôm Huy ra thăm buk Hô, anh ngồi nhìn người đàn ông mái tóc mới đó còn đen bóng nay đã gần như bạc trắng, nhìn gương mặt âm thầm và đôi mắt buồn u uất, rướm lệ của ông mà  muốn khóc theo ông.  Buk  ít khi rời nhà, trừ  những khi ông ra ngồi hàng mấy giờ liền bên nhà mồ me. Ông ngồi bệt trên mặt đất, đầu cúi gằm, hai vòng tay ôm gối co ro như ôm nhớ thương, nuối tiếc.  
Mãi lâu lắm về sau, Huy vẫn đôi khi tự hỏi lòng, những gì  đã xảy ra trong quảng thời gian đó, liên hệ đến bao nhiêu số phận mà chính anh được biết, có thật sự chỉ là một sự ngẫu nhiên, hay đã được xếp đặt một cách  lệch lạc, oái oăm từ một đấng siêu hình không rõ. Cuộc sống hội tụ những con người từ những xuất phát điểm rất khác nhau, kết nối họ lại trong những mối ràng buộc vô hình, rồi lại như một đợt sóng vô tình tàn bạo cuốn phăng, xóa tan đi tất cả. Cái còn lại là hồi ức - có lẽ ở người này nó bám chặt, đâm sâu như rễ của loài hoang mộc trên núi đá, nhưng ở người khác nó chỉ là một thoáng gió lướt qua. Có lúc anh lại nhủ lòng chẳng qua vì mình hay nghĩ ngợi, thêu dệt quá mà thôi. Anh cố không nghĩ về chúng, không nhớ đến chúng nữa. Nhưng đột nhiên trong một phút giây nào đó, chúng lại như một tia chớp lóe lên trong ý thức Huy, và gây cho anh một cơn đau buốt trong tim, rất chóng qua, nhưng hầu như không chịu nổi.
Huy vẫn không  quên được câu nói của Quân trong buổi trưa nằm trò chuyện với nhau trên vùng biên giới, không bao giờ quên được : "… em đa cảm và mang nhiều ảo tưởng quá… em sẽ vì nó mà chịu nhiều bất hạnh …".  Quân đã đoán biết được điều này do suy tưởng, do  kinh nghiệm hay chỉ là một trực cảm ngẫu nhiên, Huy không thể biết chắc, anh chỉ  nhận thấy lời Quân  đúng một cách kỳ dị đối với bản thân anh. Càng về sau này, Huy càng có những nhận thức , nghĩ suy sâu sắc hơn đối với mọi  người xung quanh, mọi sự việc, phán xét mọi điều chính xác hơn. Nhưng ngoài những gì thuộc về lý trí, trong Huy còn có những chi phối mạnh mẽ về tình cảm, sự xung đột giữa tình cảm và lý trí làm cho anh bối rối, hoang mang. Cuối cùng, thường là Huy hành động không phải theo lý trí mà là theo cảm tính - chúng vạch đường chỉ hướng cho anh, và nếu anh không theo những mệnh lệnh sâu xa của chúng, anh sẽ phải dằn vặt không yên. Lý trí chỉ đóng vai trò của một nhà phê bình lịch sử, nó sẽ phê phán, đánh giá đúng sai, nhưng chỉ là về sau, khi mọi chuyện đã trở thành quá khứ. Nhiều khi Huy tự hỏi không biết có ai giống như trường hợp của anh không. Tệ hại nhất, là anh nhận thức rất rõ  về yếu điểm của mình, nhưng không tài nào chối bỏ, vượt qua nó được. Hay đó cũng chỉ là một dạng tự mâu thuẩn với chính mình mà ở bất cứ người nào cũng có, dù dưới hình thức này hay hình thức khác ?
Chương 16
Đầu mùa mưa năm ấy, Tiểu đoàn  được lệnh chuyển cứ. Tiểu đoàn trưởng Bảo ra chỉ thị nghiêm cấm không được tháo dỡ bất cứ thứ gì, toàn bộ nhà trại đều phải giữ nguyên vẹn để bàn giao lại cho một tiểu đoàn của E 14. Thế nhưng nơi chuyển đến lại là một cánh rừng thưa, ở xa dân, phum gần nhất cũng cách đó bảy tám cây số. Những người lính một lần nữa làm lại từ đầu, nào xây dựng căn cứ nhà trại, nào đi đốn cây rừng về làm cột kèo, đào đắp giao thông hào, công sự chiến đấu… Ai cũng buồn. Không phải vì họ sợ vất vả  khổ cực.  Họ buồn vì đã quá thân quen gắn bó với địa hình cũ, với dân. Những lối mòn giữa các tiểu đội và từ trung đội này sang trung đội  kia quen thuộc đến nỗi họ có thể nhắm mắt đi lại vẫn chẳng lạc đường.  Hoa mười giờ, hoa sam Thái trồng từ năm ngoái dọc theo các lối đi, trong những bồn đất trước hiên nhà đang ở thời điểm xum xuê nhất, lá mướt xanh và hoa nở rộ khắp nơi trong những ngày nắng ấm. Nhà cửa vừa được sửa sang. Cả những con chim sẻ và sáo rừng cũng trở nên quen người dạn dĩ, chúng đáp xuống hàng bầy trước hiên nhà mỗi giờ cơm để chờ những người lính ném cho vài nắm cơm  thừa. Ai cũng có những gia đình thân thiết ngoài phum, có những mẹ cha, anh em kết nghĩa.  Tất cả những thứ ấy, lớn hoặc nhỏ, quan trọng hay không, đều đã góp phần vun đắp nên Tình cảm - Sự thân thương, đã an ủi, giúp họ vơi đi nỗi nhớ quê nhà. Nhưng biết làm sao, đời lính là một chuỗi những chuyến đi, một chuỗi những gặp gỡ, chia ly tiếp nối. Có tiếc nuối, vấn vương gì  cũng chỉ thêm nặng lòng thôi.
Các trung đội khẩn trương đi đốn tre, cắt lá , đưng, đánh tranh, để tới địa bàn mới là có thể bắt tay dựng nhà ngay.
Sau hai tuần chuẩn bị, họ lên đường vào một ngày đẹp trời tháng Tư.  Mỗi trung đội đã cố xoay xở mượn được đôi ba chiếc xe bò để chở tranh lá, đồ đạc. Hôm Huy ra phum mượn xe, gặp me của Soun, anh  dừng lại hỏi thăm bà, và báo cho bà biết đơn vị sắp dời đi nơi khác.
- Đi đâu nữa? - Bà thảng thốt kêu lên.
- Tới đóng trại ở gần phum hoang phía Bắc cách đây chừng ba chục cây số me ạ. Còn ở đây sẽ có một đơn vị khác về ở.
- Vậy sao không để họ tới đó, còn các con vẫn ở đây ?
- Không được me ạ. Đó là nhiệm vụ, là kế hoạch của cấp trên. Bọn con phải chấp hành thôi.
Me lắc đầu buồn bã. Huy chào bà, gửi lời thăm Soun rồi vội vã đi tới các nhà có xe bò để hỏi mượn. Anh tự động viên mình, đừng buồn làm chi vô ích, rồi thỉnh thoảng khi có điều kiện nhất định anh sẽ về đây chơi thăm mọi người, thăm Soun.   
Vậy nhưng khi đoàn xe bò vừa ra khỏi Cứ, Huy đã nhìn thấy Soun đứng ngong ngóng giữa hàng chục đàn bà trẻ nhỏ. Họ đứng đó chờ chào từ giã những người lính. Soun chưa nhìn thấy Huy ngay vì anh lẫn vào giữa đám lính tráng, giữa những xe cộ chất cao đồ đạc, cô đưa mắt kiếm tìm, vẻ nôn nao, bối rối và buồn bã.
Huy vẫy tay hét lớn:
- Soun ơi!
- Boòng Huy! – Soun kêu to mừng rỡ, rồi im bặt. Cô chợt nghẹn ngào muốn khóc, và không biết nói gì.
Huy nhìn đôi mắt đỏ hoe của cô, xúc động. Cả anh bây giờ cũng không biết phải nói gì. Biết bao nhiêu chuyện dồn dập đến : C13 xoá sổ, Quân chết, me Sa Rinh chết, Sa Piên bỏ nhà đi, cả con Chíp mà Ụ Mối để lại cho Huy cũng bị cúm và lăn ra chết từ lâu….Tất cả đã làm Huy  như chìm đắm trong nỗi buồn đau. Anh ít ra phum, ít gặp Soun, và tệ nhất đã quên khuấy đi cả lời hứa sẽ làm một chiếc đèn dầu tặng cô.  " Sao lúc này mình mới chợt nhớ ra !" - Huy thầm kêu lên, thấy giận mình ghê gớm.  Đôi chân Huy vẫn vô thức bước theo đoàn xe, trong lúc anh ngoái đầu lại, nhìn Soun không chớp mắt. Khi đi được một quảng, Huy mới kịp la lên :
- Soun ơi, đừng buồn. Anh sẽ về thăm Soun… Anh sẽ làm cho Soun một cây đèn dầu, đẹp hơn cây đèn kia nữa !
Huy không thể rời mắt khỏi dáng vóc nhỏ nhắn thân thương của Soun cho đến khi lớp bụi mù cuộn lên, và những rặng dâu xanh ngắt đã che khuất mất cô. Đôi mắt buồn rầu hoe đỏ của Soun vẫn còn ám ảnh Huy mãi cho tới khi anh tới điểm dựng cứ mới.
Khối trực thuộc Tiểu đoàn đến vị trí vào giữa trưa. Mọi người ngao ngán nhìn những bụi rậm đầy gai góc, và những dây mắt mèo lũng lẵng trái đầy lông. Chúng đu đưa theo gió, như thể đang ngấm ngầm đe dọa: "Hãy tránh xa bọn tớ ra, nếu không các cậu sẽ nếm mùi đau khổ!".
Họ nhanh chóng tháo dỡ đồ đạc, tranh lá khỏi xe, cám ơn và tiển mấy người dân đánh xe về, rồi ngay lập tức bắt tay vào việc.
Họ làm quần quật đến sẫm tối, trừ lúc nghỉ  ăn cơm vào lúc xế trưa.  Ai nấy đều đói như cào, mệt bã người. Gai cào xước những đường dài trên mặt họ. Dù không dám ở trần để tránh bị lông mắt mèo, nhưng cả người họ vẫn ngứa ran lên. Lúc đang làm cơn ngứa dịu đi, nhưng giờ đây, chúng tha hồ làm tình làm tội mấy người lính. Thứ lông mắt mèo không gãi thì  còn đỡ, càng gãi, cơn ngứa càng tăng, gãi đến trầy da tóe máu cũng chả ăn thua. Họ đốt lửa lên hơ cho đỡ ngứa một lúc rồi ra suối, cách đó chừng hai trăm thước tắm táp, chuẩn bị cho bữa cơm tối.
Ngày hôm sau, lúc đang phát quang, Thuận phát hiện ra một tổ ong mật rất to. Anh vơ mấy nhúm cỏ và nhánh cây khô đốt lên để xông tổ ong. Lũ ong bị quấy rối bay tán loạn, đuổi theo tấn công họ. Mọi người bỏ chạy ra  phía suối, nhảy ùm xuống lặn tránh hồi lâu mới thoát khỏi chúng. Cuối cùng Thuận cũng lấy được gần hai bình toong mật ong vàng sánh. Lúc Thuận đưa cho Huy bình toong mật, kêu anh nếm thử thì Tiểu đoàn trưởng Bảo tới. 
Dạo về sau này Bảo có phần nào thay đổi. Anh dịu đi, bớt cáu gắt với anh em, không còn đánh đập hay chửi lính. Anh cũng bớt uống rượu đi. Thậm chí lúc này trông Bảo còn có vẻ cởi mở, vui vẻ. Anh mỉm cười khi bước tới gần, bảo Huy :
- Chà, 12 ly may nhỉ, được bọn ong cho mật và đuổi đốt một trận tưng bừng!
- Kinh quá anh Bảo! Không có con suối chắc đứa nào cũng mập mình với lũ ong rồi.
Huy chìa cái bình toong cho Bảo :
- Anh Bảo nếm thử  xem sao.
Bảo cầm lấy, nốc một ngụm nhỏ, rồi khen :
- Khá lắm - Anh nhìn quanh - Thôi anh em tiếp tục làm đi. Cố cho xong để còn đào giao thông hào và công sự. Tớ đi sang bên ĐK đây.
Bảo đi. Huy chuyền chiếc bình toong cho anh em mỗi người nhấp một ngụm. Sau đó, họ tiếp tục.
Đêm hôm đó, khoảng giữa khuya, trời đổ mưa như trút.  Mọi người chỉ mắc võng dưới những táng cây chứ không có thì giờ làm lều. Lúc đầu họ còn ngáy ngủ và quá mệt mỏi nên vội bung tấm lylon ra trùm lên võng rồi ngủ tiếp. Nhưng mưa to quá, mỗi lúc một nặng hạt hơn.  Một lúc sau, nước mưa len lỏi theo dây võng chảy xuống, làm lưng quần áo của ai cũng ướt sũng, lạnh tê. Không sao ngủ tiếp, họ đành ngồi dậy cởi quần áo ra, choàng tấm nylon lên người, rồi xúm lại bên nhau tán dóc chờ trời sáng.
Mưa luồn qua những tầng lá rơi xuống, chạm vào lớp nylon trên đầu những người lính tạo thành một chuỗi lốp bốp đều đều. Mưa ngấm vào lớp lá mục dưới đất, gặp hơi đất ấm nồng, tỏa lên thành sương nghi ngút.  Cả trung đội ngồi ghé vai nhau vừa nhìn hơi sương tỏa quanh mù mịt, vừa chuyện trò khe khẽ, lâu lâu một ai đó chợt bật cười khúc khích hoặc húng hắng ho. Câu chuyện của họ lan man trên trời dưới đất, nối dài không dứt như mưa. Đêm tưởng chừng như  dài vô tận cuối cùng cũng qua đi, nhưng mưa vẫn còn dai dẳng.
Mưa rơi tiếp suốt cả ngày hôm sau, lúc to lúc nhỏ. Mọi người vẫn làm dưới cơn mưa, nhưng tốc độ giảm đi. May là những ngày sau đó, trời nắng ráo và ấm áp. Nhưng vì sợ trời lại mưa gây trở ngại, mọi người ráo riết làm quên cả nghỉ ngơi. Huy xoay như chong chóng, hết đẽo cột quay sang đào công sự, rồi lợp tranh… không còn biết mệt. Cà người anh giờ  hệt như một khối thép dẻo, muốn uốn lượn, muốn đập dẹp vỗ tròn gì thì chất thép bên trong vẫn không suy suyển. Không chỉ là thép, mà còn có lửa !  Lửa hồng trong anh đang cháy, bừng bừng, mỗi lúc một nóng đỏ hơn lên. Thỉnh thoảng, trong những lúc dừng tay vấn một  điếu thuốc rê, Huy lại thấy lòng nhói lên nỗi nhớ Quân.  Quân chiếm một chỗ quá lớn trong lòng anh. Anh không nhận ra điều này lúc Quân còn sống, nhưng giờ đây anh đã biết. Mỗi khi nghĩ đến Quân, Huy buồn không chịu nỗi. Một cảm giác mất mát, xót xa gần như là đau đớn về thể chất làm Huy muốn quỵ ngã xuống, làm Huy muốn gào khóc lên nức nở, gào khóc như điên như dại, cho cả đất trời, cả nỗi đau của anh cũng tan thành nước mắt trôi đi. Nhưng cả việc gào khóc đó cũng chỉ diễn ra một cách âm thầm lặng lẽ trong tim. Nước mắt không chảy ra ngoài, trên khóe mắt. Chúng biến thành máu đen và mật đắng, chảy ngược về tim.
Cuối cùng thì đâu cũng vào đấy. Nhà cửa, đường đi lối lại, hầm hào công sự đều khang trang tươm tất. Đơn vị được nghỉ ngơi an dưỡng ít lâu. Những ngày rảnh rỗi, Huy cùng mấy anh em khác ra suối câu cá, mò chem chép. Lúc đầu họ còn thong dong ngồi buông câu như  Khương Thượng Tử Nha thả nhợ chờ minh chúa, ít lâu sau đó họ lấy mùng ra làm lưới kéo, nhưng đi lên đi xuống, quậy đục ngầu cả một quảng suối dài, cũng chỉ được vài con cá tép nhãi nhép chả bỏ dính răng. Chẳng mấy chốc, cá cua tôm tép hết sạch sành sanh vì hàng trăm con người ngày nào cũng câu, cũng bắt. Phải trồng trọt chăn nuôi để cải thiện bữa ăn, không thể lạm dụng thiên nhiên một cách quá đáng như vậy nữa - Huy thầm nghĩ - nhưng từ giờ đến khi ung dung hưởng thụ thì… muối ớt, mắm kem cái đã !
Mấy hôm sau, cả trung đội tập trung dẫy cỏ, cuốc đất lên luống trồng rau, dựng giàn bầu bí. Hạt giống rau muống vẫn còn khá nhiều, đủ để gieo năm luống lớn, lại có một ít hạt đậu ván của me Sa Rinh cho dạo trước chưa gieo hết. Khoảng nửa tháng sau, họ  bắt đầu có rau xanh thêm vào những bữa cơm.
Dần dần, trung đội cũng thấy thích thích cái chỗ ở mới này. Mấy căn nhà dựng dọc ven bờ suối. Phía ngoài là những cụm cây rậm rạp buông những chùm rễ xòa ra mặt nước. Không khí lúc nào cũng man mác một làn hơi nước ẩm ướt. Sáng sáng, không gian tràn ngập tiếng chim kêu hót véo von. Thỉnh thoảng, có một con họa mi đến đậu ngay trước đầu hồi, cất giọng hót suốt đêm. Tiếng hót ngọt ngào làm những người lính ngồi gác quên đi buồn nhớ, tiếng hót như những khúc ca êm êm dìu dịu len lén rót vào tai những người đang thiếp ngủ, mang về những giấc mơ đẹp, an bình. Bỗng dưng những người lính cảm thấy mình giống như những nhà ẩn sĩ , mặc khách tao nhân, lánh chốn phồn hoa tìm đến đây hưởng cảnh an nhàn.   
Một buổi trưa ra suối tắm, Huy gặp Thái, B phó trinh sát. Hai người trò chuyện vu vơ một hồi, Thái bảo :
- Tối nay tụi tui đi bám ở mạn đông phum Chan Đai….
Đang lơ đễnh, Huy chợt giật mình khi nghe hai tiếng Chan Đai. Bỗng dưng một nỗi nhớ cồn cào dâng ngập hồn anh.  Nhớ me Sa Rinh. Nhớ  Buk Hô. Nhớ Sa Piên. Nhớ hai anh em thằng Kan. Nhớ hai chị em Cà Mum, Khla. Nhớ mẹ của Soun… Nhưng nhớ nhất, nhớ hơn tất cả… là Soun! 
Huy  bỗng nhận ra điều đó. Anh nảy ra một ý, cắt ngang lời Thái.
-  Nè, ông cho tui đi với. Khi về mình cắt qua đầu phum, mấy ông chờ tui ở ngoài, tui vào thăm người quen một tí.
Thái nhe răng cười :
- Phải con nhỏ Soun "mắt huyền" không ?  Cả tiểu đoàn ai cũng biết rồi đó nghe Huy! Được rồi, chiều sang tui ăn cơm uống trà rồi cùng đi.
Suốt buổi chiều ấy Huy nôn nao mãi.  Từ lúc đến đây, ít khi anh nghĩ tới Soun. Nhưng  hình ảnh cô đã gần gũi, thân thương lắm,  đã chiếm một góc, nhỏ nhoi khiêm tốn thôi, mà vô cùng quan trọng trong trái tim, tâm hồn của  anh. Mỗi lần nhớ Soun, lòng Huy lại rộn lên một cảm giác vừa ấm áp, trìu mến, vừa nôn nao xao động lạ lùng. Lần đầu tiên, Huy nhận ra mình không bao giờ có thể quên được người con gái ấy. Lần đầu tiên anh ngượng ngùng tự thú với mình: "Vậy là mình thương Soun thật rồi! Soun ơi, anh thương Soun thật rồi đó, biết không!". Cả buổi trưa anh không ngủ. Anh lục lọi trong ba lô, lôi ra mấy cái lọ thủy tinh đựng thuốc, chọn tới chọn lui, rồi ngồi hý hoáy làm một chiếc đèn dầu để tặng Soun như đã hưá. Đây là chiếc đèn đẹp nhất Huy đã làm từ trước đến nay. Trước kia, đơn giản anh chỉ làm một chiếc đèn để thắp sáng trong đêm. Còn hôm nay, anh làm nó với yêu thương và một niềm vui rộn rã.
Toán trinh sát và Huy đi suốt đêm hôm ấy, cắt một đường zích zắc hướng về điểm tọa độ ở cánh rừng mạn đông. Khoảng  ba giờ sáng họ đến điểm, nghỉ ngơi một lúc, giở cơm vắt ra ăn, rồi tiếp tục nằm phục cho đến hết ngày hôm sau. Họ không phát hiện được gì lạ. Một ngày dài dằng dặc trôi qua. Ráng chiều chuyển từ đỏ rực sang vàng rồi tím mờ dần sau dãy núi. Khi đêm buông xuống được một lúc, họ bắt đầu cắt xéo về hướng đầu phum.  Đến cây gạo cổ thụ nằm ngoài  bìa  phum, ba người lính trinh sát dừng lại. Họ tản ra thành ba đỉnh của một hình tam giác, ngồi núp sau những bụi cây, Huy men theo những gốc cây, bụi rậm tiến vào phum.
Vừa chập tối không lâu, nhưng không khí trong phum khá tịch mịch im lìm. Anh em E 14 vừa mới tới đây, lạ nước lạ cái,  chắc hẳn đêm không ra phum chơi như bọn anh ngày trước. Vài ba nhà mới có một nhà thắp đèn, cả phum tối om, buồn thiu cả ruột. Huy vừa thận trọng luồn lách qua những lớp rào gỗ thưa vừa lắng nghe động tĩnh. Thận trọng như thế không phải là vô ích. Ở những phum vùng hẻo lánh như thế này, hầu như nhà nào cũng có con cháu đi theo địch. Tuy họ vẫn có cảm tình với bộ đội Việt Nam, nhưng con cháu họ, những tay chạy theo Polpot ấy, tất nhiên là không thể giở chuyện tình cảm ra để nói nếu như bất ngờ hai bên chạm trán nhau.  Huy nhớ  có  một lần, anh và Già Hương ra chơi nhà tà Nuốc, nhập nhoạng tối, ông già bảo:
- Hai con đi về nhà đi, hôm khác ra chơi, bây giờ  không tiện đâu.
Huy hơi thắc mắc khi thấy thái độ  khác lạ của ông, ngày thường, ông rất vui khi có anh em đến chơi, trò chuyện. Khi cả hai đi khỏi nhà ông cụ một đoạn, Già Hương  giải thích :
- Ổng muốn tránh đụng độ giữa tụi mình và thằng cháu ổng. Cháu ổng theo địch mấy năm nay.
Lâu lâu nó ghé về xin gạo xin tiền ông già.  
- Vậy ổng không sợ mình ra phục bắt cháu ổng sao Già Hương ?
- Ổng biết anh em mình đâu có chơi hèn như vậy. Đụng nhau ngoài chiến trường thì khác, nhưng những lúc này, nó về không phải là để gây hấn với mình, mình có biết cũng làm lơ đi là tốt nhất.
Lúc này, Huy mới hiểu trọn vẹn ý nghĩa câu nói của Già Hương khi anh ở vào một hoàn cảnh tương tự.  Anh lẻn vào phum chỉ để thăm Soun, anh thật sự không muốn  chạm trán, nổ súng hay thậm chí một sự um xùm không cần thiết. Nhưng anh vẫn phải nổ súng nếu như tình thế  bắt buộc. Để khỏi phải rơi vào một tình thế bắt buộc như vậy, thận trọng một chút chẳng có gì là quá đáng.
Đã tới chân cầu thang của nhà Soun. Huy đứng im một lúc, ngẩng đầu nhìn lên trên nhà. Trong nhà đã tắt đèn. Không biết hai mẹ con Soun còn thức hay đã ngủ. Huy đưa tay vỗ vào túi quần, chiếc đèn dầu vẫn ngoan ngoãn nằm yên ở đó. Anh nhẹ nhàng bò lên những bậc thang. Tới bậc cuối, anh dừng lại, ép người vào thanh gỗ, ngồi im như bức tượng một lúc lâu. Thời gian lắng đọng, ngừng trôi. Là mấy phút, mấy giờ, hay đã mấy thế kỷ trôi qua? Tri giác của Huy đối với thời gian ngưng hoạt động. Trong đầu anh lúc này chỉ còn những hình ảnh của Soun. Soun, áo trắng đơn sơ, mắt to ngơ ngác như một thiên thần, len lén nhìn anh lần đầu ở tiệc cưới. Soun thẹn thùng e ấp khi anh mời ra nhảy. Soun đỏ mặt khi nghe con Chíp léo nhéo mấy câu anh dạy để chọc cô. Soun cúi mặt mơ màng, mái tóc dài rối xỏa, hàng mi cong chơm chớp hôm vào Cứ với Sa Piên. Soun, đôi mắt đỏ hoe buồn bã nhìn theo lúc anh dời Cứ… Huy chợt giật mình tỉnh mộng, bên trong có tiếng trở mình trên lớp ván, rồi giọng Soun, nhỏ nhẹ, trong vắt, dịu hiền, vang lên giữa màn đêm tĩnh lặng :
- Me ơi, me đã ngủ chưa?
- Me còn thức.
- Ngày mai con ra chợ huyện với boòng My Un, con mua cho me chiếc khăn croma mới. Khăn me đã rách cả rồi.
- Thôi đừng con. Con thích gì cứ mua mà dùng, me chẳng cần đâu. Khăn me vẫn còn dùng được lâu.
- Con không thích gì cả, con chỉ thích me vui. Me ừ đi me ạ.
- Ừ, thì  con muốn sao cũng được. Thôi,  ngủ đi con.
Lại tiếng trở mình, lần này của cả hai mẹ con. Rồi im lặng. Huy ngồi thêm một lúc thật lâu nhưng không nghe thấy gì nữa ngoài  những tiếng thở nhẹ đều đều. Soun và me đã ngủ say. Anh nhè nhẹ rút chiếc đèn trong túi ra, đặt bên cạnh cửa. Sáng ra, Soun sẽ trông thấy nó khi mở cửa. Cô sẽ biết là ai đã mang nó tới để đó trong đêm. Và chắc là cô vui lắm.
Huy nhủ thầm: "Tạm biệt Soun!". Anh  nhanh chóng, nhưng vẫn rất thận trọng quay ra bìa phum, chỗ cây gạo già.  Chắc là toán trinh sát đã nóng ruột lắm rồi, có khi còn đang rủa thầm anh ngoài ấy !
Chương 17
Cũng trong năm ấy, tiểu đoàn trải qua một mùa khô  gian khó. Trời hạn lớn. Cây cỏ xơ xác héo vàng vì thiếu nước. Những giàn bầu giàn mướp, những luống rau đậu họ trồng khô chết cả. Không khí hanh hao nóng bức làm thân thể họ lúc nào cũng nhơm nhớp mồ hôi. Những con suối gần khu vực đóng quân đều khô cạn. Họ phải đi sang phum lân cận cách đó bảy cây số tải về từng can nước. Chiếc hồ sen cạnh chùa chẳng mấy chốc cũng chỉ còn một lớp nước cạn sệt bên trên lớp bùn dưới đáy. Dân phum và những người lính phải lần lượt xếp hàng chờ đợi đến lượt từng người để chắt từng ca nước trong mấy cái hố nhỏ đào sâu xuống đáy hồ. Liên tục gần hai tháng trời, những người lính cách ba bốn ngày mới tẩm ướt chiếc khăn để lau sơ một lượt qua thân thể.
Khoảng giữa tháng Bảy, tiểu đoàn được lệnh hành quân lên cao điểm 182. Theo quân báo trung đoàn, một lực lượng khoảng hai trăm lính Pol Pot đã tập trung về đó chừng nửa tháng, đóng quân quanh một hồ lớn giữa rừng. Và cao điểm cũng là nơi duy nhất trong vòng bán kính hơn năm mươi cây số có nguồn nước. Trên bản đồ, ký hiệu xanh lơ của chiếc hồ nổi lên thành một vệt dài. Mọi người chuẩn bị cho đợt hành quân mà lòng  ngao ngán. Suốt một thời gian dài khô hạn, thần kinh ai nấy cũng căng thẳng và bực bội, và thân xác họ rã rời bãi hoãi, chỉ cầu mong mưa xuống. Đi đánh nhau trong tình trạng như thế, không mong gì một kết quả khả quan, nhưng quân lệnh như sơn, là lính dù muốn dù không họ cũng phải chấp hành. Họ cố tìm đủ nước để mang theo, nhưng nhiều lắm mỗi người cũng chỉ kiếm được nửa can vàng. Họ chỉ còn hy vọng lên tới cao điểm sẽ nhanh chóng đuổi được địch, chiếm lấy hồ nước để  tha hồ uống cho thỏa thích.
Cao điểm cách Cứ  chừng sáu mươi cây số.  Tiểu đoàn cố vượt qua khoảng cách đó trong đêm để tránh cái nắng ban ngày, nhưng trời oi bức mà họ lại không dám dùng đủ nước, nên tốc độ càng lúc càng giảm.  Đến sáng, họ còn cách vị trí đến hơn mười cây số. Tiểu đoàn trưởng Bảo cho đơn vị dừng lại giải lao. Những người lính móc mấy bao gạo sấy ra đổ nước vào rồi nhá nhá cho đỡ  đói. Không ai dám đụng đến lương khô. Thứ đó chỉ để dành cho những buổi tối ngồi nhấm nháp uống trà nói chuyện ở Cứ, đi tác chiến mà ăn lương khô chỉ tổ uống nước nhiều nặng bụng đi không nổi. Sau đó một giờ, họ lên tới hồ.  Đội hình chiến đấu được triển khai và áp sát dần vào, nhưng cuối cùng họ phát hiện địch đã rời cao điểm mấy ngày trước đó. Rải rác chỉ còn dấu những bếp đào quanh bờ hồ. Chiếc hồ chỉ còn là một trũng đất rộng, khô như bầu trời và mặt đất. Nó chỉ còn là một xác chết của chiếc hồ có ký hiệu xanh lơ vẫn nằm tươi rói trên mặt bản đồ.   
Tiểu đoàn trưởng Bảo cáu tiết chữi thề ỏm tỏi, nhưng cơn giận của anh nhanh chóng xìu xuống, anh bắt đầu cảm thấy lo âu khi nghĩ tới chặng quay về. Nếu quay trở lại theo đường cũ, họ phải băng một con trảng dài gần năm mươi cây số dưới ánh nắng chói chang. Đó là con đường ngắn nhất. Còn đi vòng xuống hướng tây một chút, khoảng ba mươi cây sau, họ sẽ gặp phum đầu tiên, và có thể tìm được ít nước. Nhưng đường xa gấp rưỡi, và có nhiều khả năng đụng địch, mà lúc này mọi người đều mệt mỏi và đuối sức, không đụng địch cũng đã muốn nhấc chân không lên rồi, còn đánh đấm gì được nữa.
Cuối cùng, Bảo quyết định chọn đường vòng. Tiểu đoàn quay về như một đoàn quân thất trận, tệ hơn cả thất trận. Từng nhóm lính rải rác lê chân trên cánh trảng, không hàng lối trật tự gì. Nhiều người ngất xỉu nằm lăn ra trên đất, nhất là  các trung đội hoả lực. Kiên và Vũ, hai lính mới của trung đội không chịu nổi cũng ngã qụy khi còn cách phum chừng năm cây số. Huy rút trong túi cóc ra chiếc bình toong. Sau lần ở biên giới trở về, không bao giờ Huy quên giữ một bình toong nước mỗi lần đi tác chiến. Nhiều khi anh mang theo và lại mang về, không đụng đến suốt một đợt truy quét. Nhưng thói quen ấy bây giờ rõ ràng là có ích. Huy rót ra nắp bi đông, cho Kiên và Vũ nhấp từng ngụm thật nhỏ, và cũng không cho hai đưá uống nhiều, chỉ độ ba nắp bi đông. Sau đó, Kiên, Vũ khá hơn, và họ lại tiếp tục lên đường. Lần lượt, những nhóm lính cũng vào được tới phum. May là họ không gặp địch ở đó.
Đó là một phum lạ, Tiểu đoàn chưa từng ghé qua lần nào.  Dọc theo con đường chính giữa phum là hai hàng dừa cao nhiều trái. Những người lính năm lăn ra dưới gốc dừa, thèm thuồng nhìn những trái dừa to xanh ngắt trên đầu. Sau một lúc nghỉ ngơi lại sức, mọi người tản vào nhà dân hỏi xin dừa. Những người dân có vẻ không sẵn lòng vui vẽ. Họ lắc đầu ngoay ngoảy, và đổ là không biết dừa của ai, dù cây dừa mọc ngay trước cửa nhà. Nhà này bảo: "Không biết đâu, chắc đó là dừa của nhà ở hướng bắc". Sang nhà hướng bắc, lại nghe bảo: "Chắc là của nhà hướng tây!" Những người lính nổi cáu, họ giơ AK lên bắn lên đọt dừa, làm dừa non dừa già rớt  lộp độp. Khi đó, mấy bà cụ già mới chạy ra mếu máo: "Mấy con ơi, đừng bắn chết cây mất, thôi leo lên hái đi. Đừng bắn nữa!"
Huy theo dõi cảnh tượng đó, vừa cảm thấy tức cười, vừa xót xa cho thân phận những người lính xa nhà. Bọn Huy dù sao cũng chỉ là những chàng trai trẻ, chịu đựng quá nhiều cực khổ, mà những người dân này lại đối xử  với bọn anh một cách vô tình. Hay là họ cũng có những khổ tâm riêng? Những trái dừa kia là nguồn sống của họ chăng?  Có phải thóc gạo của họ, vịt gà, heo chó của họ, cây trái của họ đã nhiều lần bị những đoàn lính tráng, bên này hay bên kia, cướp phá?  Đến độ với họ chỉ còn nỗi khiếp sợ và căm ghét ? Vậy ai là người có lỗi, và ai là kẻ đáng thương hơn? Những người lính ngang ngược bắn phá này, hay những người dân  sống trong thời loạn ly khói lửa kia?   
Cơn hạn kéo dài đến cuối tháng Bảy, chừng như đã hả hê với những hoành hành tội tình đã trút xuống đầu dân chúng, nên đột ngột biến đi. Một buổi chiều gió bỗng nổi lên, quất mạnh vào những lũy tre bao bọc quanh các phum, bẻ gãy những cành khô mục to kềnh trên những thân cổ thụ, rồi mây đen nghìn nghịt kéo đến đầy trời. Mưa giông như trút, trong khoảnh khắc đã đổ đầy các con suối, rãnh nước và cả một vùng trảng thấp. Mưa sầm sập suốt đêm. Ngày kế tiếp nắng ráo. Rồi sau đó đều đều cách quãng hai ba ngày lại có một ngày mưa gió.
Sau những cơn mưa đầu mùa, cây cối trong phum, trong đồng cỏ, cánh rừng bắt đầu xum xuê xanh tốt lại. Măng le, măng tre gai nhú lên tua tủa như những chiếc chông bụ bẫm bên gốc những cụm tre già. Nấm mối, nấm hương đua nhau mọc đầy trong các khe suối, trên những thân gỗ mục. Tuy vậy, dân ở phum Chan Đay không rũ nhau lũ lượt vào rừng tỉa măng, hái nấm như mọi năm. Năm đó, các lực lượng địch vừa mới huấn luyện từ biên giới đổ về rất nhiều. Các đơn vị quân Việt Nam lần lượt bị bao vây, đánh úp, có đại đội đã phải bỏ Cứ mở đường máu thoát khỏi vòng vây. Các trận đánh xảy ra như cơm bữa giữa quân Việt nam và quân Khmer đỏ, cả những đường mòn lối nhỏ trong rừng cũng chăng đầy mìn các loại.  Đã có  vài ba người ở phum bên vào rừng  vướng phải mìn của địch gài dọc theo những lối mòn, bờ suối.
Một buổi sáng nắng đẹp, Soun một mình đi vào rừng hái nấm. Rừng cây thân thuộc không ngăn cô lại, không kêu lên những lời cảnh báo. Soun đi vào rừng một mình. Và không bao giờ quay về nữa.
Thật ra Soun biết những hiểm nguy đang rình rập trong rừng. Nhưng nghĩ tới những chiếc nấm non tròn xoe mập mạp, cô thấy tiếc quá. Phần nữa, cô rất thích vừa tha thẩn hái nấm, vừa thầm thì nói chuyện với lũ bướm rừng, hay trêu chọc bọn sóc con hay giương mắt ngơ ngác nhìn người lạ rồi kêu ré lên và bỏ chạy, và vừa nghĩ tới Huy nữa. Hôm Huy lẻn về phum đặt cái đèn trước cửa, sáng ra Soun là người đầu tiên trông thấy nó. Thoạt tiên cô  giật mình kinh ngạc, rồi cô hiểu ra ngay mọi chuyện. Soun ôm chiếc đèn vào lòng. Miệng cô tự nhiên bật  thốt những câu dân ca tình tứ véo von. Soun vui mừng, sung sướng ngất ngây. Một niềm vui, xúc động lạ lùng và cả nỗi nhớ Huy chợt ùa vào hồn, làm cô như ngạt thở. Soun tíu tít khoe ngay với me, rồi cô rót dầu từ chiếc đèn cũ ở nhà sang chiếc đèn mới, đốt lửa lên, ngồi nhìn ánh lửa và hân hoan trò chuyện với nó, như thể nó biết nghe và biết trả lời, như thể nó chính là Huy vậy. Soun có một thiên tư và sự hồn nhiên của đa số những cô gái sống ở gần thiên nhiên, rừng núi, đó là xem mọi vật như con người, và rất thích chuyện trò trong tưởng tượng với chúng, dù thật ra cũng chỉ tự mình nói, rồi tự mình nghe.
- Đèn nằm đây suốt đêm buồn lắm, lạnh lắm phải không… Boòng Soun tệ thật, boòng Soun không biết gì hết, thôi đèn đừng giận nhé! Rồi chị sẽ thương em, lau em và lúc nào cũng rót dầu thật đầy cho em nhé, chịu không?
- Tội cho boòng Huy ghê, đèn nhỉ! Boòng Huy đi tới nhà chị đêm qua chắc là vất vả lắm. Thế mà chị chả biết, chả nói chuyện với anh. Chị cứ ngủ khì ra. Boòng Soun của em tệ ghê, tệ ơi là tệ!
Soun cứ tíu tít nói những câu không đầu không đũa như vậy trước nụ cười và đôi mắt nhìn âu yếm của me. Bà cũng vui không kém.
Phải, Soun muốn đi vào rừng để hái nấm, về phơi khô dành gửi cho boòng Huy. Cô năn nỉ xin me cho đi. Me không đồng ý, bà cũng muốn có cái gì đó gửi cho Huy, nhưng đi vào rừng thì tuyệt đối là không. Soun nài mãi me cũng nhất định lắc đầu. Nhưng sáng hôm đó, me đi sang nhà tà Nuốc giúp làm đám giỗ. Soun ở nhà làm hết mấy chuyện vặt, cô lại lôi chiếc đèn ra trò chuyện với nó một lúc. Rồi một ý muốn mạnh mẽ chợt xâm chiếm lấy Soun, cô không còn cưỡng lại nó được. Soun cầm lấy chiếc giỏ mây rời khỏi nhà.
Rừng như đang mỉm nụ cười hớn hở và cất tiếng hát ca chào đón bước chân Soun. Những bụi cỏ thấp còn đẫm sương và mưa đêm long lanh, xào xạc kêu lên khi chạm nhẹ vào chiếc xà rông của Soun. Chúng như muốn nũng nịu: "Boòng Soun cúi xuống với bọn em tí nào, cười với bọn em một cái!" Và Soun cúi xuống, mỉm cưới với chúng, thật dịu dàng. Hoa linh lan nhỏ xiú và trắng muốt cố tỏa hương ngào ngạt hơn khi Soun bước chân qua chúng. Những chiếc lá dài mỏng mảnh ve vẩy, và những nụ hoa run khẽ chào cô. Mấy cây dầu già khom lưng xuống nhìn cô, rồi vừa rùng mình buông mấy chiếc lá đỏ hoe cho rơi lên vai lên tóc cô như ve vuốt, vừa lao xao bàn tán với nhau: "Chà! Con bé càng lớn càng kháu khỉnh quá đi thôi!"
Soun tung tăng len lỏi qua những  thân cây già cỗi, những bụi rậm xanh rì, nhận những lời chúc tụng, chào hỏi của chúng và thân thiện vui vẻ đáp chào với chúng. Khi những tia nắng xuyên qua táng lá xanh như ngọc hong khô những giọt sương sớm trên cây lá, chiếc giỏ mây đã được lưng lưng những nụ nấm ngọt ngào. Soun bắt đầu lo âu khi sực nhớ ra mình đã cãi lời mẹ vào rừng. Cô nghĩ thầm: "Thôi không hái nữa, phải về ngay kẻo mẹ lo cho mình lắm."  
Soun quay về, men theo bờ một con suối nhỏ. Khi bước qua một khoảng đất lầy, cô trượt chân xuýt ngã, nhưng rồi lấy lại thăng bằng được. Vừa mới lấy lại bình tỉnh sau cú trượt, cô đã bật cười một tràng ròn rã để tự chế giễu mình. Tiếng cười vui của Soun còn chưa tắt hẳn, thì cô chợt nghe một tiếng lách tách rất khẽ ngay dưới chân, rồi một vật gì đó bật tung lên trước bụng cô. Một tiếng nổ xé tai vật Soun ngã lăn ra. Soun nằm trên đất, bé nhỏ, lẻ loi, chiếc áo trắng rách bươm, nhuộm máu. Cái giỏ mây lăn ra cách Soun mấy mét, những nụ nấm nhỏ văng tung toé, có nhiều nụ vương đỏ máu Soun.
Cây lá trên đầu, xung quanh Soun vẫn rì rào lao xao trong gió. Nhưng giờ đây chúng trở thành những vật vô tri vô giác, thản nhiên không biết một cô gái nhỏ đã chết gục dưới chân mình. 
hôm nay là ngày mấy tháng mấy năm nào vũ trụ có còn không bầu trời này mặt đất này có còn không hay đã vỡ tung ra hồn tôi có còn không hay đã vụn nát thành trăm ngàn mảnh thủy tinh sắc nhọn đang cào cấu tim tôi ngoài kia đêm mịt mùng đen tối ngoài kia gió rít gió gào gió khóc hờn gì  sao cứ gào rú mãi bên tai đêm đã giấu em tôi nơi nào gió đã chở em tôi đi đâu xin làm ơn trả lại cho tôi xin hãy làm ơn trả Soun lại cho tôi tôi còn tỉnh đây hay đã mất trí rồi mà bỗng nghe trăm tiếng thét gào rên xiết điên dại rú trong đầu Soun ơi em đi đâu mà me ngồi đây khóc ngất nhớ em mà tôi ngồi đây như đá lặng câm nhớ em. Có ai ngoài đêm tối kia xin trả lời tôi em đã đi đâu xin đừng nói với tôi cái từ chết xấu xa khủng khiếp chết là gì tôi không muốn biết tôi chỉ muốn có lại Soun tôi chỉ muốn nhìn thấy lại Soun tôi không muốn tin gì nữa hết tôi không muốn nghe gì nữa hết đừng nói với tôi chết chết chết ôi vật gì đang đâm xé tim tôi…
Không. Soun không chết. Một thiên thần bé nhỏ như em không thể chết đâu. Tôi không bao giờ muốn tin là mình đã mất em.. Tôi tin là em đã bay đi. Em đã bay đi, với đôi cánh nhẹ nhàng trong suốt, với trái tim yêu thương và đầy lòng nhân ái. Em đã bay đi. Đến một nơi không còn thù hận, không có phân chia. Không có súng đạn, chiến tranh. Và từ nơi cao xa yên bình vĩnh viễn đó, em vẫn mỉm cười nhìn theo tôi thật dịu dàng. Chiếc áo của em không còn hoen đỏ máu tươi. Áo em trắng tinh khôi như mây như nắng, như hồn em trong trắng ngây thơ. (trích nhật ký của Huy)
Chương 18
Lại một năm mới đến, năm thứ ba trong cuộc đời quân ngũ của Huy. Thêm một việc đau lòng đã xảy ra vào một ngày tháng Năm năm ấy, ngay trước lúc Huy quay trở lại quê nhà. Nó làm cho tất cả những người lính tình nguyện đau đớn xót xa, làm cho dân chúng quanh vùng phẫn nộ, sợ hãi và căm oán, làm cho cả những lượn khói nhạt chiều hôm và ráng trời đỏ rực sau núi S'vai chiều chiều giờ đây cũng nhuốm màu tang tóc. Mọi chuyện bắt nguồn từ một thời điểm xa hơn, như sau này một số đồng đội cùng đơn vị của kẻ thủ ác và người thân của các nạn nhân thuật lại.
Mùa xuân năm trước, tiểu đoàn X dời cứ từ một xã phía nam về trú đóng tại phum Cần Đan, một phum lớn ở hướng Đông Bắc núi S'vai, cách phum Chan Đai hơn hai mươi cây số đường chim bay. Đây là một tiểu đoàn dân vận, nhiệm vụ chủ yếu của nó không phải là chiến đấu cơ động, mà như tên gọi, là làm công tác dân vận, nhằm tăng cường mối quan hệ đoàn kết  và sự thông cảm hiểu biết giữa quân dân. Đơn vị gồm những người lính nói rất sỏi tiếng Khmer, một số cán bộ thậm chí còn biết viết chữ  Khmer đẹp và đúng hơn cả nhiều người dân nữa. Họ chia ra mỗi tổ ba bốn người, vào cùng ở, cùng ăn, cùng làm với dân, và nhanh chóng chiếm được cảm tình, lòng tin cậy. Trong tiểu đoàn có Z, một hạ sĩ quan tính khí hơi kỳ lạ. Gã hiếm khi cười nói vui vẻ với bất kỳ ai, có tật nghiện rượu, hay lẻn đi uống rượu một mình.
Z rất thích May, một cô gái trẻ trong phum. Gã thường tìm cách lân la tán tỉnh May, nhưng nàng không ưa gã, luôn tìm cách lẫn tránh. Thật sự, cứ trông thấy gã  lúc nào cũng ngật ngưỡng say, mặt mày đỏ ké, đôi mắt ngầu đục lờ đờ, nét mặt lầm lì bí hiễm, chẳng cô gái nào lại không e sợ. Gã tấn công, và May lẫn tránh, cứ thế ngày tháng trôi qua. Có lẽ lúc đầu thái độ của cô gái càng kích thích máu chinh phục của Y, làm cho gã thêm quyết tâm. Nhưng rồi thấy bao nhiêu thời giờ, công sức bỏ ra vẫn không giúp gã tiến thêm một bước, gã trở nên thất vọng, chán chường. Trong lòng gã, một cảm giác hận thù, ganh ghét đã nẩy mầm. Gã cay đắng vô cùng, uất nghẹn trào lên cổ khi nhìn thấy May cười nói vui vẻ với các đồng đội của mình. Nhiều lúc gã muốn gào lên câu hỏi: "Tại sao tôi tốt với cô, mến yêu cô, mà cô đối xử với tôi tệ bạc như vậy? Tôi phải làm gì cho vừa lòng mát dạ cô?" Càng thất tình tuyệt vọng, gã càng rượu chè be bét, bất chấp mọi lời khuyên can răn đe của đồng đội, cấp trên. Và không biết từ lúc nào, lòng gã đã manh nha một ý tưởng trả thù đê hèn, man rợ.
Buổi sáng định mệnh ấy đến. Đó là một ngày trời đẹp, nắng chói chang rực rỡ. Hôm trước, dân làng đã hẹn nhau cùng ra cánh trảng bìa rừng để cắt tranh. Họ khởi hành từ tờ mờ sáng, gồm cả các ông già, bà lão, trẻ con, đàn bà con gái, tất cả  chừng mười bốn mười lăm người, tay liềm tay hái vừa đi vừa nói cười ríu rít.  Một đôi mắt đỏ ngầu hấp háy bắt gặp đám dân làng khi họ vừa đi ra khỏi bìa phum, Z cười gằn nhìn theo cho đến khi người cuối cùng đã khuất sau rặng cây cao. Gã quay vào phum, tìm rượu uống.
Gần hai tiếng sau, Z chuệnh chọang về chỗ ở. Gã vớ khẩu AK, choàng thêm một bao se ba băng đạn, rồi len lén tìm đường cắt vào rừng, đi vòng ra phía sau nơi những người dân đang cắt tranh. Lúc gã rời nhà, mấy người lính ở chung với gã trông thấy, nhưng họ không chú ý, tưởng gã đi công chuyện hay bắn chim đâu đó.
Vào thời gian ấy, rừng đang lúc xanh tươi rực rỡ, cây cỏ đâm chồi nẩy lộc sau những trận mưa rào. Lá non xanh ngắt rung rinh trong gió. Hoa nở khắp nơi, trên những đỉnh cây, trong những bụi lùm thấp nhỏ. Lan thủy tiên trắng tinh khôi, lan ngọc điểm tím ngát, hoàng lan vàng rực rỡ. Cả những khóm địa lan thấp bé mọc dưới những tàng cây rậm, nép bên những chùm rễ cong xù xì và phủ đầy rêu xám cũng trổ nhánh khoe những nụ hoa nho nhỏ màu tím nhạt. Tiếng chim cu, chim cà cưỡng, sáo sậu, sáo đá, sơn ca véo von hót gọi bạn tình, tiếng lá rơi xao xác, tiếng chảy rì rào của những con suối nhỏ, tất cả dệt thành một chuỗi nhạc rừng liên miên vô tận. Rừng thật đẹp, như một thiếu nữ xuân thì. Nhưng Z như một người vừa mù vừa điếc, gã không nghe, không thấy gì khác ngoài những ý nghĩ đen tối trong đầu.
Z xuất hiện trước mắt đám dân đột ngột, nòng súng đen ngòm chỉa thẳng về phía họ. Mọi người giật mình khi nhận ra nét mặt gã thật kỳ lạ khác thường. Họ ngưng làm việc, đứng lặng nhìn gã, lo lắng và sợ sệt.
-  Người già, con nít ngồi xuống đó, không được nhúc nhích cho đến khi nào tao cho phép. 
Mấy đứa con gái theo tao đi vào rừng - Z nói, gằn giọng từng từ một.
Những người dân nhìn nhau kinh ngạc. Rồi một cụ già, Son Kê, lấy hết can đảm hỏi gã:
- Mày định làm gì vậy, coong tóp Z?
- Câm miệng lại - Z giận dữ quát - Không hỏi han gì cả. Đứa nào nhúc nhích hay mở miệng tao bắn chết ngay! Ngồi xuống!
Già Son Kê nhìn mọi người, ra hiệu cứ nghe theo lời gã. Trông gã lúc này thật khủng khiếp, như thể đang bị quỷ ám, không ai dám chắc gã chỉ hù dọa hay sẽ bắn thật sự. Họ miễn cưỡng ngồi xuống.
Z có vẻ hài lòng khi thấy mọi người tuân phục, gã quay sang mấy cô gái, tay chỉ vào rừng:
- Đi!
Trong đám dân có ba cô gái, May, Sori và Chun. Ba người lưỡng lự bước, Z đi sau họ, khẩu súng vẫn lăm lăm chỉa thẳng.
Vào sâu chừng chục thước, Z quay lại nhìn ra. Đám người ngoài kia vẫn ngồi im. Gã ra lệnh:
- Con Sori lấy khăn croma trói tay hai đứa kia cho tao.
Sori sợ hãi nhìn gã, lắc đầu. Gã trừng mắt. Cô đành nghe theo gã, run run tháo chiếc khăn choàng trên đầu May và Chun cột tay họ lại. Z bước tới, thô bạo xô hai cô té ngữa trên mặt đất, rồi hắn đeo súng vào người, giật chiếc khăn của Sori, lôi cô tới một gốc dầu nhỏ, ở một chỗ vừa quan sát được đám dân ngồi ngoài bìa rừng, vừa nhìn thấy May và Chun, cột chéo hai tay cô ra sau thân cây. Sori bật khóc, cô van xin hắn:
- Boòng ơi, đừng làm vậy. Đừng boòng ơi, tội cho Sori lắm!
Z nhếch mép cười gằn. Hắn xé toạt chiếc áo, rồi chiếc xà-rông của Sori, bắt đầu cưỡng hiếp cô ngay trước mắt hai người còn lại. May và Chun co rúm người lại, cúi gằm mặt xuống, run bần bật vì mắc cỡ và sợ hãi, rồi họ khóc nấc lên khi nghe thấy tiếng Sori kêu gào rên xiết nghẹn ngào. Chừng hai phút sau, May quyết định bỏ chạy, cô đá nhẹ chân Chun ra hiệu. Cả hai thình lình đứng dậy, loạng choạng chạy ra phía bìa rừng.
Z gầm lên cuồng nộ. Gã vội vàng mặc chiếc quần đùi vào, đuổi theo. Đám dân phía ngoài cũng bắt đầu bỏ chạy tán loạn khi trông thấy May và Chun vùng chạy. Z mở khóa an toàn, xã súng vào hai cô gái và những ông già bà lão chậm chạp  chạy phía sau. Rồi hắn đuổi theo, tiếp tục hạ sát những người còn lại.
Hôm ấy, có tất cả năm người bị Z giết chết, trong đó có May và Chun, và năm sáu người nữa bị thương,  Sori may mắn sống sót vì Z mải đuổi bắn những người kia đã bỏ quên cô. Khi bộ đội tiểu đoàn X nghe thấy tiếng súng, chạy ra đến hiện trường, họ sửng sốt bàng hoàng khi thấy xác những ông bà già, con nít đẫm máu nằm rải rác trên cánh trảng. Z đang điên cuồng đuổi bắn một thằng bé. Họ nhanh chóng bao vây, kêu gọi gã bỏ súng đầu hàng. Z giờ đây đã say máu và liều mạng, gã bắn trả lại đồng đội và tìm cách bỏ chạy. Cuối cùng, một phát đạn bắn gảy xương đùi Z mới buộc gã thôi hung hăng chống cự. Sau đó, họ chuyển Z lên quân trạm Đoàn, tạm giam gã để chữa thương và chờ ngày xét xử.
Mọi việc xảy ra bất ngờ và khủng khiếp, ngoài sức tưởng tượng của bất kỳ ai. Thế nhưng nó đã xảy ra rồi. Toàn Tiểu đoàn X đều đau lòng và ân hận, họ không biết phải giải thích sao với những người dân về tội lỗi của một đồng đội. Dân làng vô cùng căm phẫn và đau xót, họ nguyền rũa bộ đội Việt Nam, đòi được tự tay xử tội Z, trả thù cho người thân của họ.  Không khí trong phum thật nặng nề, u ám. Bao nhiêu công lao, bao nhiêu mồ hôi và máu của những đơn vị quân tình nguyện đổ ra, trong thoáng chốc trở nên vô nghĩa chỉ vì một cá nhân. Tình cảm gắn bó giờ đây bỗng có một khoảng cánh ngăn chia  không dễ gì hàn gắn lại.
Sự vụ được báo cáo khẩn trương lên cấp trên, lên tới chỉ huy cao nhất của Mặt trận. Bản báo cáo nêu rõ những đòi hỏi của dân chúng, và kiến nghị tổ chức Tòa án quân sự đặc biệt xét xử và thi hành án tại chỗ và ngay lập tức để xoa dịu lòng dân. Hội đồng quân pháp Mặt trận ngay sau đó đã ra quyết định xét xử Z ngay tại phum Cần Đan. Phiên tòa công khai được thông báo đến những đơn vị đóng quân trên các địa bàn lân cận. Mỗi đơn vị được yêu cầu cử đại diện tới dự khán phiên tòa.
Vụ xét xử tiến hành tại quảng đất trống trước sân chùa. Ngay từ  mờ sáng, đã có đến hàng trăm dân quanh vùng  tụ họp về, xôn xao bàn tán chuyện trò. Quân nhân các đơn vị lần lượt tới không lâu sau đó.
Vì là đơn vị gần bên, các cán bộ chiến sĩ thuộc tiểu đoàn của Huy đến xem xét xử khá đông. Huy dẫn theo Thuận, Kiên cùng đi. Anh lặng im quan sát. Tuy có rất đông người, nhưng không khí khá im lìm lặng lẽ. Mọi người chỉ khẽ khàng trao đổi với nhau. Họ thì thào nguyền rủa Z, tỏ lòng thương tiếc những nạn nhân, và đều dự đoán, như một lẽ tất nhiên, Z  phải bị xử tử hình. 
Khoảng tám giờ sáng, hai chiếc Zin chở các cán bộ Hội đồng quân pháp Mặt trận, phạm nhân và vài chục tay súng đến nơi. Z được đưa ra khỏi xe với đôi tay bị còng, chân trái gã vẫn còn lớp bột băng. Trông gã ngơ ngác như một kẻ mất hồn, vẻ lầm lì hung hãn thường ngày biến mất. Giờ đây gã như một đứa bé ngỗ nghịch vừa bị xáng một cú bạt tai như trời giáng, không còn biết gì ngoài cơn sợ hãi điếng hồn.
Đám đông đang lặng lẽ, bỗng nhốn nháo lên khi đoàn xe tới. Ở một góc chợt có tiếng kêu gào khóc lóc nổi lên. Một vài phụ nữ cố giãy giụa, vùng vẫy khỏi  những bàn tay níu kéo để lao tới cào xé Z. Đó là vợ con hoặc chị em của các nạn nhân. Một cán bộ quân pháp lớn tuổi, mái tóc lốm đốm bạc  giơ chiếc loa cầm tay lên miệng, nói to bằng tiếng Khmer:
- Bà con hãy bình tỉnh, yên lặng. Tên Z có tội với bà con, quân pháp sẽ xử hắn một cách nghiêm minh. Bây giờ mọi người hãy tìm chỗ ngồi xuống, giữ trật tự để xem tòa xét xử.
Nói xong, ông cùng năm viên sĩ quan quân pháp khác bước tới ngồi vào chỗ hai chiếc bàn đã được trưởng phum kê sẵn. Z được hai người lính xốc nách tới ngồi vào một chiếc ghế đặt phía trước, ở giữa vòng người. Một viên sĩ quan đứng tuổi đứng lên, đọc bản cáo trạng. Anh ta đọc từng câu một, ngưng lại, chờ người thông ngôn, một cán bộ của tiểu đoàn X, dịch sang tiếng Khmer cho dân chúng nghe. 
Bản cáo trạng thuật lại diễn biến của hành vi phạm tội, kết thúc bằng đề nghị xử bắn Z, bản án thi hành ngay tại chỗ. Kế đó, vị thẩm phán chủ trì cuộc xét xử, chính là viên sĩ quan già đầu bạc, bắt đầu việc xét hỏi.
- Bị cáo Z, bản cáo trạng có nêu đúng những hành vi của anh không?
Z  thều thào đáp, gã vẫn cúi gầm mặt xuống đất từ đầu, nét mặt gã nhợt nhạt không còn chút máu.
- Thưa tòa đúng.
- Anh giết những người dân vô tội vì nguyên nhân, động cơ gì?
- Thưa tòa tôi không biết.
Vị thẩm phán cau mày:
- Anh bắn giết cả chục người mà không biết tại sao mình làm vậy thật ư !
- Tôi không định giết họ…. Tôi… tôi chỉ định hãm hiếp mấy đứa con gái cho bỏ ghét. …Tại họ bỏ chạy nên tôi mới bắn họ.
- Tại sao anh chống cự lại khi các đồng đội ra ngăn cản?
- Dạ… tôi sợ.. lúc đó… tôi không còn biết gì… tôi như một thằng điên….
- Anh có ăn năn hối lỗi không?
Z im lặng. Rồi gã bật khóc, lẩm bẩm rên rĩ những tiếng gì đó nghe không rõ.
- Tòa hỏi lại, anh có ăn năn hối lỗi không?
- Tôi… hối hận lắm… hối hận lắm…
- Anh có muốn nói gì với cha mẹ vợ con các nạn nhân không?
Z lắc đầu, vẻ tuyệt vọng.
Vị thẩm phán chờ đợi một lúc, rồi nhắc lại câu hỏi. Z ngần ngừ rồi run run nói :
- Tôi có tội. Tôi xin chịu chết để đền tội.
Vị thẩm phán gật đầu, quay sang khoác tay ra hiệu cho viên thư ký. Anh ta mời mọi người đứng lên nghe ông tuyên án :
"… Tòa án quân sự Mặt trận tuyên án xử tử  tên Lê Văn Z, sinh năm…, nhập ngũ ngày… tháng … năm…., cấp bậc hạ sĩ, chức vụ tiểu đội phó thuộc Tiểu đoàn X, Đoàn Y vì tội cưỡng hiếp phụ nữ, giết nhiều người dân Khmer vô tội một cách dã man, gây chia rẽ, phá hoại mối đoàn kết quân dân hai nước, làm mất danh dự và uy tín của quân tình nguyện Việt Nam. Án được thi hành ngay tại phum Cần Đan, huyện S'vai Chek, tỉnh Batdomboong, và ngay ngày hôm nay, ngày… tháng…năm… Tòa xin thay mặt Quân đội nhân dân Việt Nam nhận lỗi không quản lý giáo dục nghiêm chiến sĩ, để xảy ra việc đau lòng đáng tiếc vừa qua, cầu mong bà con cô bác  tha thứ tội. Bàn tay có ngón dài ngón ngắn, Z  là người xấu, y sẽ phải đền tội. Nhưng quân tình nguyện Việt Nam vẫn còn có nhiều người tốt. Mong bà con cô bác vẫn thương yêu đùm bọc họ. Mất mát của bà con cô bác không có gì bù đắp được, nhưng để an ủi, và giúp đỡ các gia đình nạn nhân trang trải tang ma, chữa trị thương tật, Tòa xin thay mặt Mặt trận gửi cho mỗi gia đình hai tạ gạo và hai ngàn ria. Sau khi thi hành án, mời các bà con ở lại nhận cho."
Ông ngưng một chút, rồi gằn giọng:
- Đội chấp pháp chuẩn bị thi hành án ngay lập tức!
Trong thời gian xét xử, có mấy người lính đã ra phía đồng trống hướng bắc phum chuẩn bị nơi hành hình. Họ chôn một thân cây cao khỏi đầu người. Z được dìu ra, một người lính cột một băng vải đen che mắt gã lại rồi trói vào thân cây. Mọi người đứng quanh im lặng, hồi hộp chờ đợi. Ba người lính chấp pháp xếp thành hàng ngang, ôm súng đứng nghiêm chờ lệnh của viên đội trưởng.
Thân hình Z run bần bật. Gã khóc mếu máo. Không biết sau lớp vải đen, đôi mắt gã vẫn mở to hay nhắm nghiền lại vào giây phút đó.
- Bắn! - Viên đội trưởng quát lớn.
Người Z nẩy lên, giật giật vài cái rồi mềm rũ xuống sau loạt đạn. Viên đội trưởng bước tới gần, kiểm tra xem gã chết hẳn chưa, rồi gật đầu ra hiệu các thuộc cấp thu dọn xác. Cảnh xử tội dường như kết thúc quá nhanh. Mọi người đứng ngẩn ra một lúc. Mặt trời lúc ấy đã lên gần giữa đỉnh đầu. Nắng đỏ như lửa hắt xuống cánh đồng. Bãi xử bắn trong một thoáng lặng im phăng phắc, tiếng những cơn gió rì rào lướt trên ngọn cỏ bỗng nổi lên mồn một âm vang.
Mọi người lần lượt bỏ về. Huy đứng lặng lẽ. Lòng anh không buồn không vui, nhưng nặng trĩu vì một điều mơ hồ không rõ. Ánh mặt trời chói chang rọi xuống làm đôi mắt anh nhức nhối. Bỗng nhiên anh cảm thấy vô cùng mệt mỏi. Bỗng nhiên anh ước ao được nằm lăn ra mặt đất ngủ vùi một giấc, đầu gối lên trên lớp cỏ mùa xuân thơm và mềm mại. Và khi giật mình thức giấc, anh sẽ vui mừng nhận ra tất cả mọi chuyện trong suốt những tháng năm qua chỉ là một cơn mê sảng, một ác mộng phù du. Nhưng chính ước ao đó giờ đây cũng chỉ là ảo vọng. Những suy nghĩ trong đầu óc Huy như thể không còn chút liên hệ gì với ý chí của anh. Tâm hồn anh dường như bị cắt lìa khỏi xác thân mệt nhoài đòi ngơi nghỉ, nó vẫn  đều đặn chuyển động theo một vòng xoay lạ lùng nào đó. Một chuỗi hình ảnh, kỷ niệm xa xôi bỗng lan man quay về trong ký ức - những trò vui đùa hồi nhỏ, những con người gần như đã biến mất từ lâu khỏi cuộc đời anh. Huy nhớ một cách dửng dưng, như thể chúng chẳng liên quan gì với anh, một người lính giờ đây đang ở một nơi xa lạ. Khi Huy giật mình thoát khỏi những hồi nhớ  vẩn vơ đó, nhìn lại xung quanh, tất cả mọi người đã rời bãi hành hình tự lúc nào, cả những người lính trong đội thi hành án cũng đã mang xác của Z đi rồi. Chỉ còn Thuận và Kiên đang ngồi dưới bóng một cây lòng mức chờ anh. Trời đang chuyển mưa, tối sầm, xám ngắt, và gió bắt đầu rít mạnh, tạo thành xoáy lốc, cuốn những cọng rơm cỏ, lá khô  bay tơi tả giữa cánh đồng. 
Trong một trận đánh vào cuối tháng Năm, một quả B nổ tung bên hông công sự của Huy. Huy không trúng mảnh, nhưng sức ép và chấn động quá lớn làm anh ngất xỉu. Khi tỉnh lại, anh thấy mình đã nằm ở quân y viện Sư đoàn. Huy nằm ở đó điều trị gần một tháng. Sau đó, anh được đơn vị giải quyết ra quân. Trước khi về nước, Huy quay lại thăm Chan Đay lần cuối, để từ giã, có thể là vĩnh biệt nơi này mãi mãi.
Những người quen anh gặp lại đều mừng cho anh được trở về, nhưng rất buồn khi phải xa anh. Me của Soun ôm lấy Huy khóc ngất. Anh gục vào vai me, nước mắt tưởng chừng đã khô cạn từ lâu bỗng tràn trề như nước lũ. Vai áo me đẫm ướt nước mắt Huy. Và ngực anh đầm đìa nước mắt của bà. Anh cũng ghé vào thăm buk Hô, ngồi uống với ông một vài ly rượu. Rượu giờ đây có vị đắng vô cùng.
Khi nắng chiều sắp tắt, Huy một mình ra thăm nhà mồ của me Sa Rinh, và của Soun. Những người thân yêu nhất trong một mùa giông bão - mùa xa nhà của anh - đã lần lượt bỏ anh đi mãi. Và giờ đây đến lượt anh cũng rời bỏ những người thân yêu còn lại ở đây, để quay về nơi thân yêu cũ, nơi gắn bó ruột rà máu thịt. Nhưng bạn bè đồng đội của anh vẫn còn ở lại nơi đây, với biết bao khó khăn, gian lao chồng chất. Mồ hôi, và máu của những người lính sẽ còn đổ xuống, thấm vào mỗi lá rừng, mỗi hạt cát ở nơi đây. Lòng Huy chợt gợn lên câu hỏi: "Ở đâu là quê hương?" Quê hương anh là miền Nam nước Việt, ở đó anh đã sinh ra, lớn lên với biết bao kỷ niệm êm đềm, ở đó anh có những người thân, bè bạn. Quê hương anh bây giờ có thêm một mảnh đất vùng tây bắc Campuchia, nơi anh đã sống, chiến đấu, và đã yêu, nơi anh đã học những bài học về yêu thương và về cuộc sống. "Rồi mai này xa cách," Huy nhủ thầm trong lòng, khi nhìn những lượn khói hương đang bay lửng lơ trong nắng chiều vàng vọt, "Rồi mai này xa cách. Nhưng quê hương ơi, tôi sẽ giữ hoài trong lòng nỗi nhớ mênh mang".
Còn nỗi buồn của riêng anh? Chỉ là những tiếng thở dài cuốn vào không gian vô tận.
Viết xong đêm giao thừa Xuân Kỷ Mão 1999
Chương 19
PHẦN BỐN
Kính viếng hương hồn Tân,
và những đồng đội của tôi.
Tân,
Tôi nhớ những ngày mùa đông năm 1985, tụi mình cùng nhau lặn lội bắt cá suốt ngày ở suối Phum Pô. Tôi đeo cái rộng cá  lội bì bõm trong dòng nước mấp mé  vai, nhũng nhẵng bám sau lưng Tân, chỉ để Tân bỏ vào đó những con cá lóc, cá lăng vừa mò được. Tôi nhớ những đêm cuối năm trời lạnh căm căm, tôi trùm thêm một chiếc áo lên vai, ngồi co gối bên ánh đèn đốt từ mỡ lon thịt hộp, trên đầu gối là một miếng gỗ ván dùng để lót trong thùng đạn, trong tay là một cây bút chì ngắn củn. Tôi vẽ Tchiete. Không biết tôi đã vẽ nàng  lên bao nhiêu  mảnh ván. Nhưng chỉ nhớ là cùng với những nét vẽ vụng dại, đơn sơ đó, tim tôi đã ấm áp lạ thường, máu tôi đã chảy rộn ràng, nóng bỏng trong từng huyết mạch. Tôi đã quên đi cái lạnh của khí trời và cái lạnh của sự cô đơn trong những đêm đông ấy. Tôi không ngủ vì đang yêu. Đó là điều dễ hiểu, và là chuyện thường tình. Nhưng cả Tân cũng không ngủ được. Tân nằm trăn trở trên chiếc võng, im lặng nhìn tôi, nhìn ngọn lửa nhỏ xíu, lù mù của chiếc đèn dã chiến, thao thức cùng tôi. Thương tôi, hiểu tôi trong những ngày tháng đó, còn ai hơn Tân nữa.         
Tôi nhớ sau khi chuyển xuống đại đội, có một lần Tân ghé tôi chơi. Tân có vẻ buồn khi trông thấy tôi mặc một chiếc áo cũ. Vai áo sờn rách, chằng chịt những đường chỉ vụng về. Thật ra lúc ấy chúng ta đâu còn đến nỗi phải mặc rách, phải không Tân? Nhưng áo mới của tôi, tôi cũng đã cho người khác, một người anh kết nghĩa Khmer. Sau đó vài ngày, Tân đã gửi lên cho tôi chiếc áo mới của mình.
Rồi không bao lâu sau lần gặp cuối cùng đó, Tân đã rời xa vĩnh viễn. Không chỉ một mình Tân, tôi đã mất biết bao nhiêu đồng đội, người rất là thân thiết, người vừa quen mặt mà chưa kịp biết tên, trong những tháng ngày xa quê đó.
Tân ơi! Những đồng đội của tôi ơi! Mồ của các bạn đã được phủ lên bao nhiêu lớp cỏ úa mùa thu. Tên tuổi, hình ảnh của các bạn chỉ còn trong  nỗi nhớ - những nỗi nhớ ngắn ngủi, bất chợt hiện ra trong giây lát, rồi lại chìm khuất dưới bao âu lo, suy tư của thực tế mỗi ngày. Điều quan trọng là tôi không được quyền quên! Trái tim con người còn đập trong lồng ngực chúng ta không được quyền quên!  
Tân! Đã sắp đến ngày giỗ lần thứ mười một của Tân rồi đó. Tôi viết những dòng này, thắp một nén hương trong tâm tưởng, hoài niệm hương hồn Tân và tất cả những anh em khác. Cầu mong hương hồn các bạn sẽ tìm được an bình.
TP.Hồ Chí Minh
Tháng 11-1997
TP.Hồ Chí Minh, 11-1997
Sanly thân mến,
Khi đặt bút viết những dòng đầu tiên cho quyển truyện này, tôi đã nhớ tới cô. Tôi nhớ lại ngày chúng ta tình cờ gặp gỡ nhau ở một phòng triển lãm tranh tại Sài Gòn; và những gì chúng ta đã trao đổi với nhau. Truyện được viết nên, phần nào đó cũng bắt nguồn từ cuộc chuyện trò giữa chúng ta hôm ấy. Tôi hy vọng là sau khi đã đọc qua, cô sẽ tìm thấy những gì mà trong lần trao đổi đó tôi chưa thể nói hết  được với cô. Tôi cũng hy vọng rằng cô, và cả những bạn bè của cô - những người trí thức trẻ, những người sau này sẽ đứng mũi chịu sào lèo lái con thuyền đất nước Campuchia - sẽ  có một cái nhìn mới, hiểu biết và đồng cảm hơn với chúng tôi, những người lính tình nguyện Việt Nam.
Tôi muốn nhắc lại với cô ngày hôm ấy. Chắc hẳn cô vẫn còn nhớ, một buổi chiều cuối năm 1995, tại phòng triển lãm, trước một bức tranh dầu, cô đã đứng yên lặng giờ lâu ?
Bức tranh vẽ một người lính Việt Nam đang một tay bưng bát sữa, tay kia cầm chiếc muỗng nhỏ bón sữa cho một bé gái Khmer, vây quanh hai nhân vật đó là vài người lính khác. Hậu cảnh bức tranh là một phum làng đổ nát, tan hoang, một vài túp nhà sàn cháy dở dang còn nghi ngút khói, và đó đây trên mặt đất rải rác một vài xác chết. Tác giả bức tranh này, và một số  tranh khác trong cuộc triển lãm, là một người bạn của tôi. Đó là lý do giải thích sự có mặt của tôi hôm ấy. Dạo đó, tôi chưa hiểu biết gì nhiều, nhưng đã rất yêu thích  hội họa. Và tôi, khi ấy, đã dừng lại khá lâu, sau lưng cô để ngắm nhìn bức tranh.
Bức tranh gợi cho tôi một nỗi niềm, mà có lẽ giờ đây tôi sẽ không thể nhớ lại, và diễn đạt được chính xác, nếu không có cuộc trò chuyện với cô. Đó là một nỗi buồn sâu thẳm. Nó không quá mãnh liệt đến làm cho ta đau đớn, nhưng cũng không hời hợt thoáng qua. Một nỗi buồn đã kinh qua nhiều năm tháng, đã gắn chặt, chìm lặng xuống đáy tim, đã trở thành ký ức không thể phai nhòa. Đó là nỗi buồn trước một điều bi thảm nhất, một điều xấu xa, gây nhức nhối nhất cho con người. Đó là nỗi buồn và cảm giác bất lực trước hậu quả của chiến tranh. Tôi đã cảm nhận bức tranh như vậy. Nhưng cô, Sanly thân mến, cô chỉ thấy ở  đó một sự ca ngợi tầm thường và hơi có phần cường điệu cái gọi là tình cảm quân dân, tình đoàn kết Campuchia-Việt Nam, và lòng nhân đạo chung chung.
Lúc đó, cô đã lẩm bẩm, bằng tiếng Khmer: "Giả tạo, dối trá...!" Tôi thoáng nghe những lời ấy. Tôi biết lõm bõm tiếng Khmer, nhưng cũng đã quên đi khá nhiều, nên không hiểu hết những lời cô nói. Tôi chỉ có cảm giác cô đang bực dọc, bất bình. Tôi đã  bước lên, đứng đối diện với cô, mỉm cười chào và hỏi: "Cô có biết tiếng Việt không?"
Cô lắc đầu, rồi lại gật đầu, "Chỉ chút chút thôi! "
"Cô có thể ra bên ngoài uống một ly cà phê với tôi không? Tôi có chuyện muốn nói với  cô."
"Dạ được", cô đáp thật ngọt ngào, và mỉm cười, nói tiếp bằng tiếng Khmer, "Tôi không nói được nhiều tiếng Việt đâu. Anh có thể nói chuyện với tôi bằng tiếng Khmer không?"
"Tiếng Khmer của tôi cũng như tiếng Việt của cô vậy!", tôi cười, "Tôi đã quên nhiều. Chắc cô nói được tiếng Anh?"
"Vâng, khá hơn tiếng Việt, tôi mới sang Việt Nam hai tháng.", cô đáp.
Rồi chúng ta đã ngồi nói chuyện với nhau khá lâu, lúc thì nói tiếng Việt pha lẫn tiếng Khmer, lúc nói tiếng Anh, rồi có lúc dùng cả  điệu bộ, nét mặt kết hợp với ba thứ ngôn ngữ đó để cố làm cho nhau hiểu. Dù sao, hôm đó chúng ta đã hiểu người kia muốn nói gì, và cũng đã diễn tả  ý nghĩ của mình tương đối tốt, phải không, Sanly?  
Cô cho biết tên cô là Sanly, hiện là du học sinh ở Hà Nội, nhân nghỉ Tết, cô ghé vào Sài Gòn thăm vài người đồng hương học ở đây trước khi về Campuchia. Cô chỉ mới mười chín tuổi, rất yêu thích các bộ môn nghệ thuật. Tôi cũng nói sơ cho cô biết về tôi, một người lính xuất ngũ, đã có mấy năm ở Campuchia. Sau đó, tôi hỏi cô về những lời nhận xét cô bất giác thốt ra lúc nãy khi xem tranh.       
(Cuộc trò chuyện, như tôi nói trên, khá là phức tạp. Để bạn đọc dễ dàng theo dõi, tôi  xin  kể lại theo diễn biến nội dung câu chuyện, bỏ qua những chỗ khó khăn, ngắc ngứ vì lớp rào ngôn ngữ). 
Cô đã nói ngay, dường như đã ấp ủ sẵn những ý nghĩ  đó trong đầu từ  lâu:
"Tôi nói là giả dối, là vì người lính Việt Nam trong bức tranh tượng trưng cho một sự cứu vớt, tượng trưng cho một vị anh hùng cứu khổn phò nguy cho dân tộc Campuchia. Đó là một sự tự đề cao quá đáng, lố bịch, xúc phạm tới lòng tự hào dân tộc của chúng tôi. Tôi sẽ nói cho anh biết vì sao như vậy. Quân đội Việt Nam đã chen quá sâu vào cuộc đấu tranh nội bộ của đất nước tôi, làm cho những mâu thuẫn đó thêm trầm trọng, khó hàn gắn lại. Nếu như Việt Nam thật sự vì tình đoàn kết, vì sự giúp đỡ vô tư, họ đã rút về nước sau khi Campuchia có một quân đội riêng hùng mạnh. Thế nhưng, mãi cho đến những năm đầu thập kỷ 90, Campuchia mới thật sự vắng bóng những bộ quân phục Việt Nam. Và theo như tôi biết, qua lời kể của họ hàng, bè bạn, cũng như qua những gì chính tôi mục kích, người lính Việt Nam có nhiều hành vi trái hẳn với sự tuyên truyền đầy chính nghĩa. Vậy thì anh giải thích động cơ, ý nghĩa của những hành vi  đó ra sao?"
Tôi cố sắp xếp những ý tưởng để có thể diễn đạt sao cho cô dễ hiểu. Rồi tôi đáp:
"Điều cô nói, cũng chính là điều đã làm ray rứt đa số những người lính chúng tôi. Nhưng trước hết, tôi tạm gác lại những chuyện đó, để nói với cô ý nghĩa thật sự của bức tranh. Cô đã hiểu sai, cảm nhận sai về nó. Tôi biết đích xác là cô đã cảm nhận sai, vì tôi là bạn thân của tác giả bức tranh. Tôi đã nhiều lần trò chuyện với anh ấy trong khi anh đang vẽ nó, mặt khác, vì tôi cũng là một người lính. Nó không đề cao người lính Việt Nam như cô nói đâu. Lúc nãy, cô có chú ý đến ánh mắt của các nhân vật trong tranh không? Ánh mắt của đứa bé Campuchia có vẻ sợ hãi, kinh hoàng, dù đôi môi nó đang hé mở một cách hồn nhiên để  đón nhận muỗng sữa. Rồi ánh mắt của người lính đang đút cho đứa bé. Anh ta không nhìn vào nó, anh ta đang nhìn mông lung vào một điểm nào đó ở phía trước một cách lo âu. Đứa bé mồ côi rồi sẽ ra sao? Ai sẽ chăm sóc,nuôi nấng nó trong những tháng ngày sau? Liệu nó có còn sống đến lúc trưởng thành không? - Không ai biết!... Ánh mắt của người lính mang những nỗi niềm như vậy... Và ánh mắt, vẻ mặt của những người lính còn lại. Họ đang nhìn quanh, người thì về phía hai nhân vật chính, người thì về phía những túp nhà ngún cháy. Họ như bàng hoàng, ngơ ngác vì những tác hại của súng đạn, của chiến tranh. Họ như không biết vì sao lại đến nông nỗi thế này. Họ còn có vẻ đau đớn và bất lực, với những bàn tay buông thỏng, xòe ra bỡ ngỡ. Họ vẫn không quen được với những đau thương, mất mát, và có lẽ không bao giờ quen được với chúng, dù chiếc áo của họ đã bạc phếch  sau nhiều tháng năm cầm súng. Không, bức tranh không đề cao một cá nhân hay một dân tộc nào riêng biệt. Nó  chỉ  đề cao tình người nói chung, và chủ yếu là nó cố làm người xem nhận ra sự đau thương, khủng khiếp của chiến tranh thôi, Sanly ạ! …"
Tôi dừng lại, dõi nhìn phản ứng trên nét mặt của cô.
Gương mặt cô vẫn còn những nét hồn nhiên của tuổi thơ, đôi mắt đen to có vẻ rất thông minh, nhạy bén. Mái tóc cô không quăn như đa số phụ nữ  Khmer. Nó đen, dày, mềm mại trùm xuống vai cô.
Đôi mắt và mái tóc cô gợi cho tôi nhớ tới một người con gái khác... Tôi cố nén một hơi thở dài, buộc ý nghĩ của mình quay về hiện tại.
Cô  gật gật đầu, có vẻ hơi đồng ý, nhưng rồi đôi mày lại nhướng lên như muốn nói điều gì. Tôi giơ tay ngăn cô, nói tiếp:
"Xin để cho tôi nói hết, Sanly. Bây giờ, tôi nói về cách nhìn của cô đối với người lính Việt Nam chúng tôi đây... Tôi không biết có nhiều thanh niên nam nữ Campuchia cùng chia sẻ quan điểm đó của cô hay không, nhưng nếu có nhiều người cũng nghĩ như cô, thì thật là đáng buồn, và thật là nguy hiểm. Có lẽ tôi sẽ cố gắng để nói với cô, nhưng tôi e rằng chỉ trong một vài câu nói, hay thậm chí trọn cả một buổi trò chuyện chiều nay, tôi cũng không sao nói hết được, diễn tả đầy đủ được những gì tôi đã băn khoăn, một số bạn bè tôi đã băn khoăn trong suốt  những năm sống xa quê, những năm cầm súng trên đất người... Chúng tôi từng tự hỏi: chúng tôi đang bắn giết, đánh nhau, và có thể  sẽ chết vì ai, vì cái gì. Và không phải lúc nào chúng tôi cũng tự trả lời được những câu hỏi đó. Có đôi lúc, chúng tôi cảm thấy sự lý giải của mình là có lý, rồi đôi lúc, lại cảm thấy nó vô cùng phi lý. Như cô nói lúc nãy, nếu chúng tôi hoàn toàn bất vụ lợi, lẽ ra chúng tôi đã rút quân về từ lâu trước đó. Nhưng cô đâu hiểu rằng cuộc chiến trên đất nước cô vào thời điểm ấy không còn đơn thuần là một cuộc nội chiến giữa các phe phái Campuchia có chính kiến khác nhau. Campuchia lúc ấy là một  con cờ trên bàn cờ chiến lược giữa hai thế lực, hai chủ nghĩa đang giành quyền thống soái vũ đài thế giới. Thật ra, điều tôi vừa nói với cô, tôi cũng mới hiểu được về sau này. Còn lúc đó, chúng tôi chỉ rất mơ hồ. Chúng tôi không như những người lính Việt Nam thời chống Mỹ, họ cầm súng để giải phóng quê hương, thống nhất đất nước. Chúng tôi thậm chí cũng không như những người lính Việt Nam giai đoạn 1978-1980. Lúc đó, họ chiến đấu đánh đuổi quân đội Pol Pot tàn ác đang  đốt phá, tàn sát những người dân vô tội ở vùng biên giới Việt Nam, và kế tiếp sau đó, họ giúp quân đội cách mạng Campuchia giải phóng đất nước. Họ biết rõ ý nghĩa, mục đích và có một niềm tin trọn vẹn vào công việc họ làm. Họ xứng đáng với cái tên quân tình nguyện. Đối với chúng tôi, những người lính từ sau 1980, mọi sự không đơn giản và rõ ràng như vậy. Nói cho cùng thì chúng tôi phải chấp nhận tham dự vào cuộc chiến ở Campuchia như là một điều không thể nào tránh khỏi. Chúng tôi lớn lên, đủ mười tám tuổi, thực hiện nghĩa vụ quân sự. Rồi được đưa sang Campuchia, dù muốn dù không. Chúng tôi đâu phải là những người chọn việc binh đao như một cái nghề sinh sống. Chúng tôi chỉ thực hiện nghĩa vụ của một công dân đối với Tổ quốc của mình. Và chúng tôi, khi đã biết thế nào là chiến tranh, chết chóc, đều mong cho nó mau kết thúc, đều mong cho sớm tới ngày yên lành trở lại quê nhà…"
"… Tôi quay trở lại điểm xuất phát, tại sao tôi lại nói thật là điều đáng buồn và nguy hiểm nếu cô và nhiều người trẻ tuổi như cô  đánh giá về chúng tôi một cách phiến diện, chủ quan như vậy. Thanh niên trí thức các cô sẽ là những người đảm nhiệm gánh nặng đất nước Campuchia trong một tương lai không xa. Trong đó rồi sẽ có những người nắm giữ những chức vụ, cương vị lớn lao quan trọng. Nếu đa số những người này lại có một cách nhìn đầy định kiến, thiếu cảm thông, thì cái hoạ chiến tranh chẳng khác nào một hòn than cháy cứ  âm ỉ mãi. Nhưng tôi mong là không có nhiều người như vậy. Tôi biết có nhiều người khác - những bà mẹ già, những người con trai con gái, những đứa trẻ con ở những phum làng hẻo lánh miền tây bắc Batđomboong không nghĩ như cô. Họ thương yêu chúng tôi. Họ cảm thông với những chàng trai trẻ mới lớn đã phải sống xa nhà, xa quê, chịu nhiều hy sinh, mất mát. Họ thật sự xem chúng tôi là con cháu, anh em của họ..."
Tôi ngưng lời, cảm thấy càng nói càng bất lực, không tài nào diễn đạt hết được những ý nghĩ đang dồn dập xô về. Cô đăm đăm nhìn tôi, trầm ngâm rất lâu mới cất tiếng:
"Anh nói nghe rất hay, và có vẻ hợp lý nữa, nhưng tôi vẫn thấy có điều không ổn. Tôi có cảm giác như anh đã đánh tráo khái niệm ở đây. Như tôi đã nói, quân tình nguyện Việt Nam các anh khoác lên mình cái vòng hoa vẻ vang của người hiệp sĩ, nhưng các anh đã làm nhiều chuyện tồi tệ. Nếu như mọi người lính Việt Nam đều có những ý thức, những trăn trở như anh nói, tại sao họ lại có thể có những hành động đó. Có những vụ  cưỡng dâm, cướp bóc, hà hiếp dân, hà hiếp bộ đội Campuchia, anh không thể phủ nhận những sự kiện đó. Điều buồn cười nhất là những hành vi đó lại nằm dưới một lớp áo choàng cao cả."
"Sanly ơi! Cô còn trẻ quá, cô chưa hiểu con người phức tạp, tự mâu thuẫn đến độ nào đâu. Và chiến tranh, với biết bao tình cảm trái ngược nhau: yêu thương, hờn oán, căm thù, điên cuồng, phẫn nộ... có thể  gây nên mọi chuyện, có thể trong một lúc nhất thời biến đổi hoàn toàn một cá nhân bé nhỏ bất kỳ nào đó. Mặt khác, những chuyện cô nói đúng là có thật, nhưng nó chỉ  là những sự kiện hiếm hoi, cá biệt. Những chuyện như vậy không thể coi là cơ sở để đánh giá bản chất của những người lính chúng tôi.Tôi sẽ kể cho cô nghe một câu chuyện, hoàn toàn có thật..."
Tôi  ngừng lời, hồi nhớ lại những sự kiện dường như đã quá xa xăm. Cô vẫn ngồi lặng lẽ, chăm chú nhìn tôi một cách nhẫn nại, cô hiểu tâm trạng của tôi. Rồi tôi kể.
"Đầu mùa đông năm ấy, một tiểu đoàn quân tình nguyện Việt Nam về tạm đóng ở phum X, một phum nhỏ nghèo nàn nằm ở phía đông bắc huyện Thmo Puoc, tỉnh Batdomboong. Đơn vị ở đó để tiến hành kế hoạch truy quét mùa khô các vùng lân cận. Tiểu đoàn trưởng vào ở tạm trong một căn nhà đầu phum, các trung đội trực thuộc nằm bao quanh ở vòng ngoài. Trung đội súng máy 12mm 7 nằm ở hướng bắc phum, nơi có một con suối nhỏ chảy qua. Trung đội phó trung đội này  là một anh chàng trẻ tuổi, có hơi lãng mạn. Anh ta rất yêu mến những người dân Khmer hiền lành chất phác, và đang cố học thêm tiếng Khmer để nói chuyện nhiều với họ. Buổi sáng hôm ấy, trời còn mù sương, anh tới chỗ ở của tiểu đoàn trưởng để xin ý kiến ông về một công vụ. Cô biết không, năm ấy trời rất lạnh, lạnh nhất trong những mùa đông tôi đã trải qua ở Campuchi. Vì vậy, chàng trung đội phó vừa đi thật nhanh vừa xoa hai tay lên má cho đỡ rét. Anh còn cách căn nhà vài mươi mét thì bắt gặp một cô gái nhỏ, khoảng mười sáu, mười bảy tuổi đang đứng giã gạo trước sân, dưới gốc một cây vông cổ thụ với những chùm hoa muộn cuối mùa  đỏ rực. Cô bé mặc một chiếc áo vải trắng thô dày, quanh cổ quàng một chiếc khăn croma tím thẫm. Mái tóc đen nhánh mềm mại trùm xuống bờ vai, đôi má ửng hồng vì trời rét và vì làm việc nặng.Trông cô thật là dễ thương, xinh xắn. Anh bước tới gần hơn, rồi cứ đứng im nhìn cô mãi. Chợt cô bé ngưng giã gạo, ngẩng lên, bắt gặp một đôi mắt đang nhìn mình chăm chú. Cô cũng đứng im, nhìn thẳng vào đôi mắt đó. Hai bên nhìn nhau như vậy không biết đến bao lâu, rồi cô bé như sực tỉnh, luống cuống quay mặt đi, e thẹn. Chàng trai cất lời hỏi cô bé về người chỉ huy tiểu đoàn. Cô không đáp mà chỉ đưa tay chỉ  lên nhà, rồi quay lưng đi ra phía vườn sau. Chàng trai vừa kịp thoáng thấy hình như trên khuôn mặt đỏ bừng xinh xắn xuất hiện một nụ cười…
Cô mỉm cười, nhận xét:
" Câu chuyện có vẻ  lãng mạn quá, hệt như trong tiểu thuyết!"
" Vâng", tôi đáp, "nhưng là một cuốn tiểu thuyết có kết thúc buồn…Tôi xin kể tiếp… Đơn vị đóng ở phum  ba tháng. Những ngày không hành quân tác chiến, chàng trai vẫn thường hay ngồi bên bờ suối mỗi chiều chờ gặp cô gái nhỏ ra gánh nước. Và đôi ba ngày, lại vào phum, đến nhà cô chơi, trò chuyện với bà và mẹ của cô. Ba tháng trôi qua thật nhanh, họ vừa kịp quen nhau, cảm thấy mến thương nhau thì đơn vị rút đi...Khoảng nửa năm sau, đơn vị lại quay về vùng đó, nhưng lần này thì dựng cứ dưới chân núi Svai, cách Phum X khoảng bốn cây số. Chàng trẻ tuổi vẫn thường qua Phum X  tìm cô bạn. Tình cảm hai bên đã rất đậm đà, nhưng vẫn còn sự  ngượng ngùng e ấp về phía cô gái nhỏ. Gặp nhau, cô chỉ mỉm cười, ngồi nghe chàng trai bập bẹ nói những lời thương nhớ bằng tiếng Khmer. Thấm thoắt lại sắp đến mùa đông. Nhưng không khí năm ấy thật khác thường. Từ anh em lính trong đơn vị đến những người dân ở các phum lân cận đều căng thẳng, bất an. Quân đội của ba phái Khmer phản động đã sống dậy sau một năm im hơi lặng tiếng. Từ những căn cứ huấn luyện quân sự trên đất Thái, hàng chục trung đoàn, tiểu đoàn địch bắt đầu tung ra hoạt động  dọc theo tuyến hành lang biên giới. Các đại đội quân tình nguyện Việt Nam đóng chốt riêng lẻ lần lượt bị bao vây, tấn công dữ dội. Cả những người dân hiền lành cũng chịu vạ lây. Đã có một số dân khi vào rừng, ra suối đã bị thương, bị chết vì mìn. Một hôm, cô gái nhỏ đi vào rừng hái nấm một mình. Cô bị vướng mìn, và đã chết ở ven bờ một con suối cạn cách phum khoảng ba cây số. Dân làng bắt gặp xác cô chiều hôm đó, thân hình đẫm máu nằm bên chiếc giỏ tung tóe những chiếc nấm rừng…"
Tôi phải tạm dừng vì chợt thấy cổ họng nghẹn ngào, đắng ngắt. Giọng nói tôi đã trở nên run rẩy đến mức cô nhận ra một cách dễ dàng. Cô nhìn tôi kinh ngạc. Tôi ngước đầu lên, hít thật sâu mấy hơi liền, cố  lấy lại bình tĩnh, rồi kể tiếp.
"...Chàng trai đau đớn xé lòng khi biết được tin. Anh như người mất hồn, thẫn thờ suốt cả tháng trời. Đến một hôm, đơn vị vừa có phụ cấp nên mua rượu thịt về tổ chức liên hoan. Đang giữa cuộc vui, anh  bỏ ra ngoài. Anh nhớ người yêu, và đau đớn quá, anh bỗng muốn tự sát theo cô.
Anh mang theo một quả lựu đạn, lần về Phum X, dự tính sẽ tìm đến nhà cô, nhìn lại lần cuối nơi đã tình cờ gặp gỡ. Về tới căn nhà xưa, anh ngồi dưới gốc cây vông già khóc nức nở, dưới ánh mắt thương cảm của bà và mẹ của cô gái. Rồi anh bước lên nhà, nhìn lại cây đèn dầu làm bằng chiếc lọ thủy tinh đựng thuốc cảm mà một năm trước anh đã làm tặng cho cô. Anh ngồi dựa vào vách, cầm chiếc đèn trong tay, ve vuốt nó, mơ lại những ngày dĩ vãng, rồi thiếp ngủ lúc nào không biết.
Anh giật mình thức giấc lúc trời đã ngả về chiều. Anh sờ tay lên hông, nơi dắt quả lựu đạn, nó đã biến mất. Anh bước ra ngoài, trông thấy X, một đồng đội, đang đứng trò chuyện với bà mẹ. Các đồng đội của anh thấy thái độ anh có vẻ khả nghi, đã cử X và Y theo dõi, ngăn cản, bảo vệ anh nếu cần. Lúc anh tỉnh dậy thì Y đã mang theo quả lựu đạn về trước. Anh bước tới gần X, hỏi mấy câu với vẻ thản nhiên, rồi chợt kẹp cổ X, cố giằng lấy khẩu AK. Hai bên đang giằng co quyết liệt thì vị trưởng phum chạy tới cầm lấy khẩu súng mang đi giấu, sợ anh sẽ làm liều. X vẫn cố chịu đau ôm ghì anh lại. Anh lúc này đã nổi điên, không còn biết gì là phải trái. Anh đấm đá X, vùng ra, chạy tới nhà vị phum trưởng, đòi khẩu súng. Vị phum trưởng ôm anh cố can ngăn, nhưng anh vẫn hung hăng đấm đá. Cuối cùng, một số thanh niên trong phum phải nhào tới, kẻ ôm tay, người ôm chân anh ghì xuống đất, lấy dây trói lại. Anh vùng vẫy điên cuồng cho đến lúc kiệt sức ngất đi. Khi tỉnh dậy, anh đã nằm trên chiếc chõng tre trong căn nhà của mình.Vị phum trưởng đã cho xe bò chở anh về doanh trại. Anh nằm yên trong bóng tối, nhớ lại những chuyện vừa mới xảy ra, tưởng như đã trải qua một giấc mơ khủng khiếp. Suýt nữa anh đã chết một cái chết vô nghĩa lý, làm buồn lòng những người thân, thương mến của mình... Anh không hiểu vì sao mình lại điên lên như vậy... Vì say rượu thì không, vì anh chỉ uống một ít. Nhưng tại sao, anh vẫn thầm tự hỏi suốt những ngày sau đó..."
"Chàng trai đó chính  là anh, phải không?", cô buột miệng hỏi sau một lúc lặng im.
"Phải, chính là tôi", tôi đáp, "Cho đến bây giờ, Sanly à, tôi cũng không biết mình đã thật sự hiểu được nguyên do của những hành động đó hay chăng. Cô thấy không, có những chuyện như vậy đã xảy ra. Thật khó tin nhưng đã xảy ra..."
Rồi sau đó, tôi im lặng. Cô cũng im lặng. Tôi nghĩ có lẽ cô đã phần nào đó cảm thông được với tôi. Nắng đã tắt từ lúc nào. Đêm đã buông. Phòng triển lãm cũng đã đóng cửa từ lâu. Trong quán, những bóng đèn tròn xanh đỏ tí hon treo trên những chậu cây nhấp nháy. Ngồi thêm lúc nữa, chúng ta chia tay nhau. Cô chúc tôi mạnh khỏe. Và tôi chúc lại cô lời chúc tương tự.
Sanly thân mến!
Lá thư này, tôi gửi tới cô, và  tới tất cả những bạn bè cô, với ý nghĩa là một phần không thể tách rời của quyển truyện này. Nói rõ hơn, nó như là một dạo khúc mở đầu cho câu chuyện về những ngày tôi đã sống. Tôi viết câu chuyện này là để trả  phần nào món nợ tinh thần mà tôi đã tự nguyện gánh vác đối với bạn bè, đồng đội của tôi. Trong số đó có kẻ đang còn sống, đang tiếp tục không ngừng cuộc đấu tranh kiếm tìm hạnh phúc, cũng có kẻ đã ngủ yên trong lòng đất. Mong cô đọc nó với lòng thông cảm. Vốn dĩ, tôi không phải là một nhà văn gì cả. Tôi chỉ là một người bình thường, bằng những lời đơn giản kể lại một câu chuyện mà nhiều người đã biết.
Chúc Sanly những ngày tuổi trẻ bình an, nhiều hạnh phúc.
Một người bạn của cô.
Nguyễn Thành Nhân 
Theo https://vanchuongviet.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chùm thơ dịch của Vũ Tuấn Hoàng

Chùm thơ dịch của Vũ Tuấn Hoàng “Ở một chừng mực nào đó, dịch giả cũng giống như một người đầu bếp. Từ nguyên vật liệu ngoại, cần phải nấu...