Thứ Hai, 22 tháng 4, 2019

Mùa xa nhà 1

Mùa xa nhà 1
Chương 1
Toàn văn tiểu thuyết Mùa xa nhà, NXB Trẻ 2004, có một số phận kỳ lạ, và bạn không thể kiếm được ngoài nhà sách tiểu thuyết này. Nhà văn Nguyễn Thành Nhân đã gửi cho VCV gần 3 năm. Mời bạn…
PHẦN MỘT                                  
1. Những ngày cận Tết ở rừng trôi qua chậm chạp. Buổi sáng kéo dài. Buổi trưa lê thê. Buổi chiều đến uể oải, đi dùng dằng. Và đêm như không bao giờ hết.
Rừng thật vắng và yên tĩnh, ra khỏi khu vực đơn vị dừng chân tập kết vài trăm mét, chỉ còn tiếng gió âm u. Ngự trị toàn bộ không gian là lặng im tuyệt đối. Chỉ đôi khi, tiếng AK điểm xạ hai vọng về từ đâu đó rất xa. Mùa xuân, nhưng cánh rừng quá lặng lẽ buồn rầu. Dường như những chồi non vẫn còn thiếp ngủ đâu đó trong những nách lá già nua. Dường như chim chóc đã rủ nhau đi chơi xa đâu đó chưa về kịp. Những thân cổ thụ  nâu sẫm, xanh mốc rêu, xam xám… kiên nhẫn khoác lớp áo lá úa vàng không sinh khí. Chúng đứng kề bên nhau trong lặng lẽ. Thỉnh thoảng, ở cây này, cây khác, một cành khô chết từ lâu chợt răng rắc vặn người, rồi tức tưởi lìa thân trong cơn gió xoáy. Những cành lá trên tầng cao của rừng chợt lao xao một lúc, như  thể cất tiếng thở than tiễn biệt một người bạn mới qua đời.
Đôi khi, trong đêm khuya, chợt một hồi sấm rền rền vọng lại, mưa đã rơi ở đâu đó xa xôi, một cơn mưa giông trái mùa thỉnh thoảng xuất hiện trong những khu rừng nhiệt đới. Ban ngày, không khí oi nồng và khô hạn, cả những cơn gió cũng nóng rãy như hơi nước tỏa ra từ một nồi nước sôi khổng lồ. Chập tối trở đi, nhiệt độ giảm dần. Rồi từ khoảng chín giờ đêm cho tới sáng, cái lạnh đột ngột ùa đến - một cái lạnh tê buốt đến xương. Thời tiết ở đây thay đổi bất thường, nghiệt ngã. Xuân ấm áp, khoan hòa và dịu dàng chưa đến. Nhưng dường như vẫn có một cái gì không rõ đang âm thầm cựa quậy, đang rạo rực chuyển mình trong từng tảng đá, thân cây, hay bên dưới lòng đất ấm. Dường như mọi sự vật đang chuẩn bị để chờ ngày ùa ra, nở rộ, khoe bày sức sống, cất lên tiếng hát không lời bất khuất, ngợi ca cuộc sống tươi đẹp vĩnh hằng. 
Đại đội  dựng lều dã chiến rải rác ở một góc khu rừng. Những chiếc lều làm cho  bức tranh phong cảnh buồn thiu tẻ nhạt nơi đây chợt có một chút gì ngộ nghĩnh, vui vui. Chúng như những nét cọ ngẫu hứng, phá tung bố cục đơn điệu của những cụm cây xanh lướt buồn rầu và bãi cỏ vàng khô cháy. Lều, hay nói đúng hơn, chỉ là những cái chòi nhỏ, được dựng rất giản dị xuề xòa. Cột lều là bốn thân cây rừng cỡ bắp tay, hai dài hai ngắn, tạo thành một mái xuôi. Bốn phía lều trống trơn. Mái lều là mấy tấm tăng ghép nối nằm bên dưới, bên trên phủ những cành lá, những túm cỏ tranh. Nhìn xa, trông chúng như  những chiếc nhà chòi của trẻ con làng quê dựng lên để chơi trò bán mua, cưới hỏi... Đôi khi, vài con sẻ rừng lông xám hiếm hoi rong ruổi lang thang qua góc rừng, chợt sững lại ngạc nhiên, tròn xoe đôi mắt. Chúng đậu trên một cành cây rậm rạp, nép thân người sau đám lá um tùm và kêu lên chí chóe. Như thể chúng hỏi han  nhau: “Dưới kia, ở giữa đám cỏ tranh vừa xuất hiện cái gì lạ thế?" Chúng xôn xao bàn tán, âu lo không biết giống chim khổng lồ quái dị nào đã tới đây xây những cái tổ kỳ khôi và xấu xí thế kia. Rồi cuối cùng, sau một tràng tiếng kêu rít cao hốt hoảng, chúng bay vù mất, bỏ lại những chiếc lá đung đưa rất khẽ vì  giận dỗi và luyến tiếc những người bạn sao quá đỗi vội vàng.
Những túp lều của Trung đội hai nằm dưới một khóm ba gốc  dầu già cỗi mọc gần nhau. Khi gió nổi lên, hoa dầu lại từ trên cao xoay xoay bay xuống, rắc đầy trên lớp cỏ úa vàng những đôi cánh chuồn nâu. Huy ngồi phía ngoài lều, hí hoáy ghi ghi chép chép. Lâu lâu, một cánh hoa dầu lại tình cờ đáp xuống vai anh.
Chí phèo, trung đội phó, ngồi cách đấy không xa, anh đang mài dao trên một phiến đá hình bán nguyệt. Chí liếc nhát  cuối cùng qua phiến đá, đưa ngón tay trỏ gạy khẽ lưỡi dao, gật đầu tỏ vẻ hài lòng. Anh cất tiếng bâng quơ:              
- Vậy là sắp tới cái tết xa nhà lần thứ  bốn... Mẹ kiếp! Tết với nhất gì ở cái rừng khô này!
Huy ngẩng đầu nhìn Chí phèo. Câu nói của Chí làm anh chợt nao nao. Ngày mai đã là Tết rồi. Huy đưa mắt lướt qua những khóm cây mọc lưa thưa, qua trảng cỏ trống, hướng tới cụm rừng dày âm u xanh thẫm phía xa. Chẳng có gì báo hiệu cho mùa xuân cả! Mùa xuân ắt là đã lạc đường không tới được nơi đây.     
Dạo mới sang, Huy đã từ trạm chỉ huy tiền phương của mặt trận đi thẳng lên tuyến trước theo ngõ Sàm-rông, băng  qua một cánh rừng nằm chếch hướng Tây, cách Sàm-rông chừng một buổi hành quân. Quanh bìa rừng mọc đầy những cội mai núi già cỗi, bấy giờ trời lại đang vào tiết lập xuân, hoa mai bừng nở chi chít trên cành, vàng rực lên trong nắng. Màu vàng hoa mai lúc nào cũng nhắc những người con đi xa nhớ những ngày cận tết ở quê hương.
Huy nhét cây viết vào túi áo, ngồi ngẩn người, trong đầu anh một chuỗi ý nghĩ, hình ảnh lướt nhanh qua.
Mùa này, trong những khu vườn ngoại ô, mai đã được bứng lên cho vào chậu, được tỉa tót, uốn sửa lại và chở vào bày bán trên những vỉa hè hay khu chợ trung tâm thành phố. Chợ tết chắc cũng đang vào lúc tưng bừng, nhộn nhịp, với đủ hoa trái, sắc màu.  
Nào những bông cúc đại đóa trắng, vàng, tim tím, xanh lơ  nằm chen vai bên thược dược đỏ, hồng. Nào những đóa hồng kiêu sa rung rinh trong nắng sớm kề bên những cụm vạn thọ bình dị, thân quen; và hoa đào đỏ thắm; và mẫu đơn, lay-ơn muôn sắc muôn màu; và huệ trắng, huệ lam... Có đến trăm loài hoa đua nhau khoe sắc khoe hương. Rồi còn bao nhiêu là bánh mứt, bao nhiêu là thứ trái cây đua nhau phô vẻ hấp dẫn, ngon lành...
Ôi, quê nhà! Nhớ làm sao những con đường, những khu chợ hoa chợ tết tràn ngập người qua kẻ lại, hội tụ biết bao nhiêu nàng thiếu nữ mắt sáng môi hồng, đẹp như tranh vẽ; những ngọn gió đầu xuân nhẹ vờn trên tà áo mỏng, trên những lá non, lộc biếc lao xao; hương thơm của muôn hoa, hương vị ngọt ngào của trái cây, bánh mứt, hương tóc của một ai đó vừa đi qua thoảng lại.
Nhớ làm sao Sài Gòn những ngày cuối năm náo nức rộn ràng; những con người quen lạ với mắt sáng môi cười ánh lên niềm vui, hy vọng vào một năm mới nhiều may mắn, phúc lành hơn...
Hôm qua, Huy đã đi ngược xuống hướng đông mấy cây số, mong tìm được một cành mai mang về mừng đón giao thừa. Anh đi mãi, lùng đỏ mắt, nhưng chỉ thấy có mỗi màu vàng héo úa của lá khô. Rừng phía trên này không có mai, thật lạ, rừng mai mà anh đã đi qua chỉ cách đây khoảng ba mươi cây số. Huy tự nhủ: Chả lẽ bây giờ cuốc bộ sáu mươi cây cả đi lẫn về chỉ để kiếm một cành hoa? Vả lại, đại đội trưởng Thái đã có lệnh không được đi xa nơi tập kết quá năm cây. Cuối cùng, Huy đành phải quay về, thất vọng. Anh nghĩ, không có hoa, không có làn khói mỏng manh, thoang thoảng mùi thơm của những nén nhang thắp lên, không  khí của giây phút chuyển tiếp từ năm cũ sang năm mới sẽ kém phần ấm áp, thiêng liêng. Nhưng biết làm sao, lính mà, lại ở tận trong rừng, đang trong thời điểm chuẩn bị cho đợt hành quân cơ động mới, đành phải chấp nhận những cái đang có mà thôi.
Tuy nhiên, đêm giao thừa này, đêm giao thừa đầu tiên xa nhà của Huy, cũng hứa hẹn những điều cực kỳ hấp dẫn. Toàn trung  đoàn đều có rượu, không biết mấy tay lính cũ đã xoay xở cách nào hay vậy! Tiểu đội nào cũng có ít nhất là một can vàng bốn lít. Đêm nay, Huy sẽ được thưởng thức cái thú vui đầy nam tính, hào sảng như những vị anh hùng hảo hán trong truyện Tàu xưa, sẽ được hai tay bưng cái bát B52 Cách gọi hình tượng của lính chỉ loại chén quân dụng to bằng sắt đưa lên miệng, ngửa cổ uống một hơi dài, để rồi nghe người mình lâng lâng, ngây ngất.
Huy chưa từng uống rượu. Anh chỉ nghe nói về cái cảm giác kỳ lạ do nó gây ra, và thấy cũng hay hay. Đêm nay, đêm nay mình sẽ như người xưa, vừa bưng bát rượu, vừa đọc bài thơ bi tráng, hào hùng của Thôi Hiệu:                        
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi           
(Tạm dịch: Rượu đào chung ngọc dạ quang
Chưa vơi đã rộn tiếng đàn xuất quân
Say lăn lóc giữa sa trường
Bạn đừng cất tiếng cười khan lắc đầu
Xưa nay ra chốn binh đao
Mấy ai biết được ngày sau có về.)
Lại còn có một cái khác, vô cùng thú vị, mà toàn bộ các tay súng của ba tiểu đoàn bộ binh và các đơn vị trực thuộc trung đoàn đã bí mật giao kết với nhau: đốt pháo hoa đón giao thừa. Pháo hoa ở đây, nơi trận địa này, sẽ được tạo ra bởi các loại đạn lửa khác nhau. Đạn lửa sẽ đan kết thành những bông hoa trên bầu trời chiến địa. Và những người lính sẽ không còn cảm giác xa cách quê hương. Đạn tiểu liên, đạn đại liên K.57, 12,7 là những tràng pháo chuột, pháo trung, và đạn cối 60, cối 82...sẽ là những tiếng pháo đại điểm nhịp cực kỳ ấn tượng! Đây là một sự vụ khá là nghiêm trọng, vì quân lệnh nghiêm cấm bắn súng bừa bãi. Nhưng vừa rồi đánh chiếm Ampil, quân ta thu được rất nhiều đạn dược các thứ. Lính chiến mà, đôi khi cũng phải chơi cho ra trò như vậy chứ. 
Đại đội tải của trung đoàn có quân số tổng cộng lên đến xấp xỉ sáu mươi người. Con số này lớn hơn nhiều so với thực lực của các đại đội chiến đấu, nhất là đang trong mùa chiến dịch. Một phần vì quân số của nó ít biến động. Thêm nữa, đại đội đã được bổ sung quân số hồi cuối năm để đảm bảo thực hiện thật tốt công tác tải đạn cáng thương phục vụ cho các đơn vị trực tiếp tác chiến.      
Hôm mới về trung đoàn nhận nhiệm vụ, Huy đã được phân công về đại đội này. Đại đội trưởng Thái vui vẻ tiếp nhận Huy. Anh tạm thời bổ nhiệm Huy làm tiểu đội phó tiểu đội ba, trung đội hai. Anh cũng nói sơ qua về nhiệm vụ vai trò của đại đội trước nét mặt ỉu xìu thất vọng của Huy. Huy chán nản khi biết mình không về một đơn vị trực tiếp chiến đấu, mà là đơn vị phục vụ, trong một trận đánh lớn lao như vậy. Trên đường sang đây, lúc nằm ở quân trạm thị xã Batđomboong, Huy gặp một sĩ  quan người Thanh Hóa đi phép ngược về. Khi nghe Huy nói sẽ về Sư đoàn X, anh bảo đây là một sư đoàn đã hai lần được phong anh hùng, anh cũng nói thêm:  “ Về đó khá là vất đấy! Tôi từng ở dưới bộ binh tiểu đoàn của sư đó mấy năm…” Huy đã hình dung ra những trận đánh vô cùng kịch liệt hào hùng, tương tự như  trong những bộ phim lịch sử nổi tiếng anh từng xem ngày trước. Những trận đánh kinh thiên động địa, đầy máu và hoa, đầy tính anh hùng ca lãng mạn. Huy tưởng tượng, gần như ao ước, mình sẽ lập được một chiến công gì đó, nho nhỏ thôi, và cũng sẽ bị thương qua quýt gì đó, bị thương nhưng vừa phải thôi, đừng mất đứt một chân hay một tay, một mắt… để sau này về còn có vài cái sẹo làm kỷ niệm! Vậy mà bây giờ…
Thái đoán được ngay những ý nghĩ của Huy, anh động viên:
- Cậu đừng tưởng đây là công việc nhẹ nhàng đơn giản. Nó cũng khá căng, vất vả và nguy hiểm đấy, và cũng là một công tác vô cùng quan trọng cần thiết. Nếu không có chúng ta, các đơn vị lấy đâu ra đạn dược để chiến đấu, ai là người chuyển các thương binh, tử sĩ  về tuyến sau? Thực tình thì nó cũng hơi buồn tẻ hơn là trực tiếp cầm súng, nhưng là lính, chúng ta phải hiểu dù ở bất cứ cương vị, chỗ đứng nào, thì cái đánh giá chúng ta là tinh thần công tác, chứ không phải là hình thức. Với lại, cậu vừa mới sang đây, chưa có kinh nghiệm gì, chưa quen với điều kiện chiến trường, nên trên mới đưa cậu về đây để thử thách, làm quen. Cậu cứ yên chí, sớm muộn gì, cậu cũng sẽ về đơn vị chiến đấu. Lúc đó chỉ sợ cậu lại không đủ can đảm, ý chí mà đứng vững thôi!
Thế là Huy vác ba lô về trung đội hai. Và đã nếm trải trận đánh đầu tiên của đời lính ở đại đội này.
Ở lều bên cạnh, Trường, trung đội trưởng, vừa lên xong kế hoạch cho ba ngày Tết. Anh đã sắp xếp, phân bố lại toàn bộ các thức ăn hiện có: vài chục lon cá hộp Thái trung đoàn cấp lại sau khi thu được ở Ampil, thịt heo đóng hộp của ta, khô  cá lóc bông, ruốc cá, bánh kẹo, thuốc lá hậu phương gửi sang...để mỗi ngày Tết đều vừa đủ thức ăn thết đãi khách khứa, đồng hương, vừa  dành lại một phần nhỏ cho những ngày sau đó. Anh bước ra khỏi lều, cất tiếng gọi Nhu, anh nuôi trung đội, đang ngồi nhặt thóc phía bên kia lại, giao cho Nhu tờ giấy anh đã liệt kê chi tiết. Chí phèo gọi giật Nhu tới, cầm lấy tờ giấy đọc qua, rồi nói như quát với Trường :
- Sao mày lo xa thế. Lính là phải chơi xả láng, hết mình, chơi cho đã rồi mai có chết cũng không còn phải tiếc gì !Thằng Nhu đừng có nghe nó, cứ việc đem ra nấu hết trong ba ngày Tết cho tao !
Nhu nhìn Trường, rồi lại nhìn Chí phèo, không biết phải nghe ai. Anh nghĩ bụng, có phần thiên về phía Chí phèo : “Ông nào cũng có lý. Thôi cứ tới ngày nào tính ngày đó, hơi đâu mà nghĩ  ngợi cho lắm”.  
Chí phèo càu nhàu thêm vài câu, rồi gọi to:
- Mấy thằng được phân công lấy củi hôm qua đâu, theo tao!
Theo hội ý hôm qua, bữa nay tới phiên Hòa, Huy, Phước, Danh đi lấy củi để đốt lửa trại đón giao thừa. Mọi người lấy dao rựa rồi tập họp lại trước cửa lều. Chí phèo lại hét:
- Lên đường!
Trường nhìn theo cười khẽ, không có vẻ gì bực tức. Trường đã quá hiểu Chí phèo, ngay cái biệt danh cũng đã nói lên tính cách của anh. Chí phèo nói đó rồi quên đó, ruột để ngoài da, cứ hùng hổ làm như sắp nhảy xổ vào người khác vậy chứ thật ra lại rất đa sầu đa cảm và tốt bụng.
Dạo mới về Phnom Srok, có một lần Trường và Chí phèo đi xắn măng rừng, chợt Trường bị một viên đạn mồ côi ở đâu rơi xuống xuyên qua bắp chân trái. Vết thương chỉ ở phần mềm, không nguy hiểm, nhưng máu ra khá nhiều. Chí cuống quýt bứt vội mấy cọng dây rừng quanh đó, rồi móc cái khăn tay của người yêu tặng ra, đè lên vết đạn băng bó lại cho anh. Cái khăn này Chí phèo rất quý, chỉ cất trong túi áo chứ không khi nào đem ra lau mặt. Nhưng cái khăn quá mỏng, máu vẫn ứa ra đẫm ướt  ống quần. Lúc đó hai người cách trại khoảng ba cây số, Chí phèo dìu anh đi một đoạn khoảng hai trăm mét, rồi thấy máu cứ rỉ ra, Chí nói : “Thôi để tao cõng mày. Mày đi, động vết thương mất máu nhiều nguy lắm.” Rồi Chí xốc anh lên vai, hì hụi cõng anh từ đó về đơn vị.
Một lần khác, Phước lên cơn sốt ác tính, người cứ co giật thấy thương quá chừng, Chí vừa nằm ôm lấy nó đè xuống, vừa nước mắt nước mũi chèm nhèm. Phải nói trong trung đội, Chí phèo thương nhất là Phước. Cả hai đều mồ côi cha mẹ từ nhỏ, đều chịu nhiều vất vả, nên dễ đồng cảm với nhau. Có những đêm, hai người nằm rì rầm nói chuyện suốt, làm Trường phát bực, phải quát lên:  “Hai thằng mày còn sống với nhau dài dài, có phải là một ngày một bữa mà nói cho lắm thế ! Ngủ đi, cho người khác ngủ !”  
Trường nghĩ tới đó chợt thấy buồn buồn, nhớ những chuyện xa xôi. Đã hai năm rồi anh không biết chút tin gì ở quê nhà. Bố mẹ anh đều đã qua đời. Hai ông anh, người thì lên mạn Cao Bắc Lạng làm rừng, người thì vào tận Tây Nguyên khai khẩn đất hoang, chẳng biết giờ làm ăn, sinh sống ra sao. Còn An, người con gái vùng Thanh có cặp mắt đen lay láy, đôi má cứ ửng hồng lên mỗi lúc gặp anh dạo mới quen nhau, từ  sau lá thư cuối cùng, với những câu úp mở, quanh co, ngụ ý khuyên anh hãy quên đi những chuyện ngày xưa cũng đã im lặng, không hồi đáp những lá thư đầy âu lo, ray rứt của anh.
Giờ cô ấy ở nơi đâu, sống ra sao?  Có khi nào cô nhìn ra cánh đồng chiêm trổ đòng vàng óng mà nhớ tới buổi chiều cùng anh thề sẽ sống bên nhau mãi mãi?...
Thật ra, Trường không hề giận trách gì An. Cô hẳn phải có những lý do để làm như vậy. Vả chăng, chính Trường cũng có nhiều lúc định nói lời chia tay với cô, ngay trước khi nhận được lá thư đau xót ấy. Đó là những giây phút bàng hoàng, trống vắng sau một trận đánh căng, có người đổ máu và có người ra đi mãi mãi. Những lúc ấy Trường chợt nghĩ biết đâu lần kế đó sẽ là chính mình. Và anh  mường tượng tới sự đau đớn tột cùng của An khi nhận được một tin dữ từ đồng đội của anh. Thế là anh viết những lá thư ngắn, với những câu khô khan, phi lý, có khi còn nặng nề xúc phạm cô, để mong cô sẽ giận, và sẽ quên anh.
Nhưng rồi sau đó bình tỉnh lại, Trường xé nát những lá thư này. An đã trở thành một phần không thể tách rời với vui buồn, với thương yêu tràn ngập trong anh. Anh không thể, không có đủ can đảm để làm cô buồn phiền, đau đớn chỉ vì một điều chưa xảy đến, một điều biết đâu sẽ không bao giờ xảy đến...Trường chỉ thấy lòng đau nhói, và buồn vì An không nói rõ nguyên do, để anh khỏi phải thắc mắc suy diễn lung tung. Anh hiểu cô có những điều khó nói, anh hiểu không nên thắc mắc mà chỉ nên chấp nhận một sự thật vô cùng đơn giản, là đã mất An, và tốt nhất là hãy quên đi mọi chuyện. Nhưng sự mâu thuẫn của tim anh, cũng như sự mâu thuẫn đời đời trong trái tim của loài người, là biết rất rõ cách tốt nhất để chữa trị vết thương lòng, nhưng vẫn cứ hành xử những điều ngược lại, cứ tự mình khoét sâu, chọc mãi vết thương.
Trường thở một hơi dài, lắc mạnh đầu như để xua đi những ý nghĩ nặng nề. Anh vào lều xách con dao bản to để chặt cây rừng ra, bước tới đống cây khô làm củi. Anh vung dao lia lịa, phạt đôi những thân cây khô, cho đến lúc đống cây đã vợi hẳn đi, và mồ hôi đã ròng ròng ướt đẫm chiếc áo xanh bạc phếch.
Cả bọn đã chặt được khá nhiều củi khô, toàn là những cành dầu, sao chắc nịch. Họ  bó phần của mỗi người lại thành hai bó, cột ràng thật chặt,  rồi chọn một cành thẳng làm đòn gánh xỏ qua, gánh về.  
Huy đi chân nam đá chân chiêu như người say rượu. Chí  phèo cứ nhìn dáng bộ của Huy mà cười thầm trong bụng. Anh  tự hỏi tại sao người ta lại tuyển mộ một tên nhỏ con ốm yếu, thư sinh trói gà không chặt như  Huy vào quân đội. Lại còn là khẩu đội trưởng hỏa lực nữa chứ! Bộ thằng này mà xiết chừng nửa thùng 12 ly bảy chắc mặt không còn chút máu! Anh cất giọng chế nhạo Huy:
- Tao không hiểu sao họ lại chọn một thằng thư sinh trói gà không chặt như mày cho học hỏa lực đó Huy. Chưa hết, tướng mày đâu phải tướng con nhà lính. Tướng mày chỉ có nước  ngồi bàn cạo giấy mà thôi!
Huy trả đũa:
- Đừng trông mặt bắt hình dong anh Chí ơi. Chứ như anh cũng đâu phải là tướng lính. Nom mặt mày của anh, chỉ có về làng Vũ Đại vạch mặt ăn vạ là hợp thời trang nhất đó!
Hòa chợt cười khe khé như ngựa hí, quay qua hỏi Chí phèo:
- Ông Chí phèo, ông còn nhớ vị nước trà thằng Huy pha hôm nó mới về không… hí hí… Cái đó người ta kêu bằng pha trà kiểu “tướng sĩ một lòng phụ tử“ Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi:  “… tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.”  đó nghe! 
Huy bật cười. Cả bọn cũng cười theo hô hố. Hôm đó, Chí phèo đưa cho Huy một gói trà, bảo đem pha. Huy ra bếp nấu một nồi nước to, rồi trút hết gói trà vào. Trên kia đã nghe tiếng Chí la oai oái:
- Huy đâu rồi, có ấm trà mà mày làm gì lâu thế!
Khi thấy Huy lễ mễ bê nồi nước lên, Chí phèo giật mình kinh ngạc:
- Mày bưng nồi nước lên làm gì vậy Huy?
- Thì anh kêu em pha trà mà - Huy thản nhiên đáp.
- Có chút xíu trà mà pha nguyên nồi nước vậy sao! - Chí phèo trợn mắt – Trời ơi, đúng là ngu không chịu nổi!
- Vậy chứ làm sao? – Huy nổi cáu.
- Nè, Hòa, mày về huấn luyện lại lính mày cách pha trà nghe. Lần sau mà còn thế này là tao không tha mày đâu. Hừ! Toi mất gói trà rồi - Chí nhăn mặt - Đâu đem cái nồi lại tao xem!
Thì ra, pha trà ở đây khác với ở nhà! Ở đây, lính tráng quen uống thứ "trà quạu" pha thật đặc. Như gói trà của Chí, chỉ pha độ một phần ba bi đông nước. Thế mà Huy tống vào cái nồi cả hai lít nước sôi.
Rõ ràng, trong cuộc sống lính chiến ở đây có biết bao điều mới lạ Huy chưa từng biết đến. Anh ngơ ngác với mấy từ lạ tai cánh lính cũ dùng. Trong đó, có những từ nghiêm chỉnh, cũng có từ  lóng mà mấy tay ma cũ hay lấy nó để trêu mấy con ma mới tò te. Khi Huy mới vừa chân ướt chân ráo về tới nhà trung đội, chưa kịp khô mồ hôi, cả đám lính cũ đã nhao nhao bu lại. Người này nhìn anh  như người ta nhìn một con gà giò trong lồng tre ngoài chợ, đánh giá xem nó có dễ bị toi không,  có thể thành một con gà trống hiên ngang, đủ tài chăn dắt lãnh đạo cả bầy gà mái hay không. Người khác đưa tay nắn nắn bắp tay, bắp chân Huy rồi bĩu môi lắc đầu khi dễ. Tự ái Huy nổi lên đùng đùng. Dù gì, người ta cũng qua hết chín tháng quân trường, rèn ngày rèn đêm đến da đen cháy như  than, thịt  săn cứng như  củi, chứ đâu là loại bở. Chỉ có cái Huy nhỏ con và hơi ốm thôi mà ! Rồi một tay mặt mày bậm trợn, râu tóc bờm xờm, sau này mới biết là anh Chí nhà ta, vừa cười nhe trọn hai hàm răng ám đen khói thuốc lào, vừa ranh mảnh nháy mắt  với Huy:
- Trung đoàn có cấp tiền “xốc lọ” cho mày chưa vậy?
- Tiền xốc lọ là tiền gì? - Huy thực sự ngơ ngác.
Tay bậm trợn giải thích một cách đáng ngờ:
- Đó là một loại trợ cấp cho lính mới sang. Mai mày lên tài vụ trung đoàn hỏi đi nghe – Anh ta vờ vịt - Sao kỳ vậy cà! Lẽ ra họ phải cấp cho mày rồi mới đúng chứ!
Cả bọn cười ầm lên. Huy nhìn họ, hai mắt tròn xoe như  một con nai vàng chính hiệu. Huy hỏi mãi nhưng chẳng ai chịu nói rõ ràng, chỉ hàm hồ ú ớ đó là một món tiền rất ư  hấp dẫn, không lấy là uổng cả nửa cuộc đời! Mấy bữa sau, Danh mới chịu cười nắc nẻ giải thích cho Huy. (Xin  độc giả thứ lỗi vì  lời giải thích đưa ra đây có phần hơi bất tiện!) Chiều hôm đó hội ý, Huy lại thêm một phen ngạc nhiên khi Trường nhắc nhở:               
- Các đồng chí nhớ giao ca cho đúng giờ giấc. Đừng có ăn gian nhau dăm mười phút mà anh em xích mích …
Huy nhìn quanh một lượt, chẳng thấy ai có đồng hồ cả. Anh hỏi :
- Ở đây không có đồng hồ, làm sao biết giờ cho đúng ?
Trường giải thích :
- Chúng ta sẽ nhìn sao để đoán giờ. Từ từ  rồi Huy sẽ quen thôi. Ví dụ như  chập tối là sáu giờ rưởi, thì  sao Hôm mọc. Rồi ta sẽ xác định một điểm mốc so với ngôi sao, một ngọn cây chẳng hạn. Một tiếng đồng hồ, thì ngôi sao sẽ di chuyển so với  vị trí lúc đầu khoảng một gang tay… 
- Một gang tay?
- Tức là em sẽ duỗi thẳng tay ra, rồi xòe tay trước mắt để ướm khoảng cách đó.
- Ạ , ạ …. - Huy gật gù thú vị.
Lần khác, vài hôm sau đó, Huy cảm thấy trong người tự dưng lừ đừ khó chịu, buồn ngủ lạ lùng. Khi đó, đang ém quân chờ đến ngày tấn công, nên cũng không có công tác gì, Huy nằm ngủ li bì.
Chí phèo vội đánh thức Huy, anh bảo :
- Mày không nên ngủ nhiều lúc ban ngày. Nếu thấy khó chịu thì kiếm chuyện làm cho đổ mồ hôi.
Ngủ ngày nhiều trong rừng dễ bị sốt lắm đó…
Đại loại những tri thức nhỏ nhoi, đơn giản như vậy làm Huy luôn cảm thấy bất ngờ và thích thú. Mỗi ngày Huy lại học được thêm vài điều mới lạ…
Vừa đi, vừa chuyện trò đùa cợt, chẳng mấy chốc họ đã về tới nơi đóng quân. Mọi người xách mấy cái bi đông ra tắm, chuẩn bị thân người sạch sẽ thoải mái để chào đón giao thừa. Nước này phải tải về từ  một nơi khá xa. Do đó, họ tiết kiệm bằng cách tắm “một bi đông”. Nghĩa là  chỉ tắm trong phạm vi  giới hạn bao nhiêu đó nước. Trước tiên, họ đặt sát cái bi đông lên đầu, dốc ngược, để cho nước chảy rỉ rả vừa đủ ướt toàn thân. Rồi kỳ cọ. Rồi lấy khăn lau. Rồi lại cho nước rỉ rả qua thêm lần cuối, trở mặt còn sạch của khăn lau lại. Nói cho đúng thì cũng chả khác gì nhúng nước chiếc khăn rồi lau người. Nhưng làm kiểu này khoái hơn và dễ chịu hơn. Sau đó, mọi người trở về tiểu đội ăn cơm tối. Đêm đã bắt đầu buông xuống.
Huy bàn giao ca gác cho Vũ rồi quay trở về lều. Sao Cày đã ló ra sau ngọn cây dầu độc mộc, tức là khoảng chín giờ đêm. Trời lành lạnh, một thứ  lạnh nao nao khó tả. Bầu trời đêm xanh đen thăm thẳm trên đầu chi chít những sao. Đêm giao thừa xa nhà xa quê đầu tiên của Huy đang chầm chậm trôi qua, vô tình không biết nó đã mang về cho Huy biết bao suy nghĩ, biết bao cảm xúc vui buồn, nhớ thương lẫn lộn.
Lúc nãy ngồi một mình trong ụ gác, anh đã điểm lại trong đầu bao nhiêu hình ảnh...
Buổi chiều cuối cùng trước lúc đi xa, má Huy đã đứng lặng bên đường khi anh nhảy vội lên chiếc xe đò để quay về đơn vị. Khi xe lăn bánh, anh chồm người ngó ra, vừa kịp thấy người đang giơ tay lên quẹt vội dòng nước mắt. Má đã cố kềm nén tiếng nấc, kềm nén dòng lệ để anh khỏi phải nao lòng, nhưng rồi lúc ấy anh cũng đã nhận ra người buồn đau đến mức nào khi phải xa anh, không biết đến bao giờ...
Huy nhớ bé út với đôi mắt tròn xoe. Ngày anh đi nó vừa tròn bốn tuổi. Có một lần Tường Vân, cô lớp trưởng, tới nhà anh chơi, bắt gặp anh đang bế bé  út đùa giỡn đã khen nức nở:  ” Trời, con bé có  đôi mắt ngộ ghê!  Sau này chắc làm khối anh chết mệt !…”
Huy nhớ con đường đến trường có mấy cây phượng đỏ nở hoa rất sớm. Những buổi chiều đi học về anh đã thả bước thật chậm để ngắm nhìn những cánh phượng đỏ liêu xiêu rơi xuống...Rồi những lần anh và bọn bạn trốn học sang La-san Mai thôn, Thanh Đa để tắm sông. Tụi anh lội qua phía bờ bên kia, nơi có một cái cù lao nhỏ giữa dòng mọc toàn những cây dừa nước để bắt còng. Hồi đó, tụi anh hay uống cà phê buổi tối. Thằng Hà xách túi còng bắt được về nhà nó rang, rồi mang ra quán, tụi anh vừa tán dóc, vừa nhâm nhi còng rang với nước trà...
Huy nhớ những đêm giao thừa, khi bầu trời  khuya trở nên xanh nhạt, và những vì sao xa tít tắp hẳn đi, lư hương trên bàn thờ tổ tiên được đốt lên, mùi trầm hương ngan ngát. Má anh sẽ bày thêm một mâm trái cây để mang ra cúng trời đất trước hiên nhà. Nồi bánh tét kê ở góc sân cũng bắt đầu reo lên vui vẻ, báo tin bánh đã sắp chín mềm. Anh lửa bếp sáng bập bùng, soi lên mặt đất những bóng người to đen sẫm đang cử động lao xao. Bọn trẻ con tụ tập ngồi quanh dây pháo đỏ, khe khẽ tán chuyện, hồi hộp chờ tới lúc những chùm pháo nỗ tạch đùng, văng tung toé. Trong đêm mênh mang, một cái gì ấm áp, linh thiêng đang lan tỏa. Nó bay đến, ghé qua khắp mọi ngôi nhà, nối một sợi chỉ mong manh vô hình nhưng bền chặt giữa mọi tâm hồn lại với nhau. Có phải người ta gọi đó là hồn thiêng đất nước ? ...
Những hình ảnh cứ lần lượt theo dòng liên tưởng ập về, xâm chiếm toàn bộ trí não của Huy, dẫn anh về với những ngày qua, dù Huy vẫn mở mắt trừng trừng nhìn ra cánh trảng trước mặt.
Huy chui vào lều, mở ba lô lấy cuốn sổ nhật ký, định ghi vội vài dòng ý tưởng còn đọng lại sau ca gác. Nhưng rồi không biết nghĩ sao, anh lại cất nó vào. Anh bước ra, đi về phía nhà trung đội.
Khắp các đơn vị, lửa đã đốt lên từ khi chập tối. Những đốm lửa trại cháy chập chờn hắt sáng cả một góc rừng. Tiếng ca hát, la lối, reo hò, tiếng gõ đập vào can nước, vào xoong nồi đánh nhịp theo lời hát văng vẳng khi xa khi gần theo hướng gió. Cả trung đội  đang ngồi vây quanh đống lửa, trừ những người trực gác. Trường đang cầm cái can rượu đã vơi phân nửa rót vào bát, chợt ngước lên trông thấy Huy. Anh kêu lên:
- A, vào ngồi đi đồng chí tân A phó A3. Mày đến sau, phải làm luôn ba bát đấy.
Huy len vào ngồi xuống giữa Phưóc và Chí Phèo. Anh đưa tay đỡ lấy bát rượu, mỉm cười nhìn quanh khắp mọi người, nói to :
- Xin mấy anh thông cảm, tôi chưa từng uống rượu bao giờ. Nhưng cũng xin uống cạn một chén này chung vui với các anh.
Nói đoạn, Huy ngửa cổ từ từ trút bát rượu vào miệng. Hơi rượu cay nồng bốc lên mũi làm anh muốn sặc. Hôm qua, anh đã nghe mấy tay bợm nói, khi uống phải nín thở làm một hơi mới không bị sặc, nên đã chuẩn bị tinh thần làm theo thật đúng. Vậy mà suýt chút nữa cũng không tránh khỏi. Tuy nhiên, Huy cũng đã uống hết bát rượu thật ngọt. Xong, anh giao trả cái bát lại cho Trường, chủ xị. Anh nhăn mặt, cảm nhận một luồng hơi nóng đang lan tỏa rừng rực từ bụng ngược trở lên cổ, da thịt chợt nóng ran lên đến muốn toát mồ hôi, dù khí trời khá lạnh. Hòa, A trưởng A3, đang ôm đàn hát những câu do một người lính nào đó của trung đoàn cải biên từ bài Mùa xuân lá khô:
“Tôi trở lại vùng Sầm Bua, vùng xa xôi đóng gần núi Cườm. Sau những ngày lo xây dựng, có những đêm đi phục chốt, tôi lại đi chiến dịch K.5. Ngồi xe ra đến Xi phôn, an dưỡng ba ngày ăn nhậu thật là vui. Trong lúc say, ai có đâu ngờ, quê hương từng giờ mẹ mong chờ  tin con...”
Huy đưa mắt nhìn quanh. Dưới ánh lửa chập chờn khi mờ khi tỏ, gương mặt ai cũng có một vẻ buồn buồn sâu kín, dù là đang cười nói xôn xao hay ngồi im lặng lẽ. Hòa đã hát xong bài hát. Toàn bộ im lắng trong giây lát. Chỉ còn nghe tiếng lửa reo, tiếng nổ tí tách của những chỗ thân gỗ bị ẩm mục. Những lời hát này thật đơn sơ mộc mạc, nhưng nó như thuật lại cho bọn anh nghe về thời gian vừa mới trôi qua, về cuộc sống, tình cảm, nghĩ  suy chân thật của những tháng ngày này.
Những người lính Việt Nam đang ngồi đây, hay đang ngồi trong một khu trại nằm bên một cánh rừng, bên một bờ sông, con suối, trên một sườn núi, đỉnh đồi chon von heo hút nào đó, trên khắp đất nước Campuchia này, hầu hết đều còn rất trẻ. Những gương mặt xạm đen nắng gió vẫn còn lưu lại chút nét gì đó trẻ con thơ dại trên nét cong vành môi tinh nghịch, lại cũng vừa già giặn ưu tư trong những cặp mắt long lanh. Có người tuổi quân chưa tròn một năm, ngay trước lúc khoác chiếc áo xanh vẫn còn nghịch ngợm giành quà bánh với em mình, vẫn còn vô tư hò reo trong một cuộc đá dế, đá cá lia thia. Vậy mà, trong trận chiến vừa qua, đã có một số người nằm xuống, mãi mãi ra đi ; đã có những người khi ngã xuống vẫn còn mở mắt trừng trừng kinh ngạc, như không tin mình lại có thể chết vào lúc tuổi còn xanh, mộng còn đầy, còn chưa biết thế nào là  nụ hôn lên má một người con gái.
Hòa quay qua Huy:
- Huy này, mày hát một bài đi. Ở đây ai cũng đã hát rồi.
- Anh đưa cây đàn cho em. - Huy đáp.
Huy ôm cây đàn ghi ta cũ, lớp ván phần lưng thùng đàn đã bị bong ra, còn phía trước thì nứt nẻ loang lổ, anh gảy khẽ vài nốt rồi ngước lên:
- Tôi xin hát một bài hát  của Trần Tiến để tưởng niệm tới những đồng đội đã hy sinh của chúng ta.
Trường chuyền bát rượu sang bảo Huy:
- Làm thêm một chén cho có hứng.
Huy uống cạn bát rượu rồi cất tiếng hát. Men rượu ngây ngất, không khí  nồng ấm gắn bó thương yêu và những niềm riêng canh cánh, thoáng chốc cùng trộn lẫn vào nhau bay lên thành tiếng hát.  Huy thấy lòng mình cũng tan loãng ra trong những ý tình câu nhạc gần gũi và chân thật.
Bài hát kể về tâm tình của một người lính nào đó; mà cũng là của thật nhiều người lính; trước cái chết của  đồng đội thân thương. Bài hát kể về nụ hôn đầu đời của một chàng lính trẻ. Nụ hôn đó không dành cho một cô gái dịu dàng xinh đẹp. Nó không đặt lên bờ môi trinh nữ ngọt thơm như cỏ non, như hoa sứ hoa quỳnh. Nó đặt lên trên đôi mắt khép hờ còn đầy tiếc nuối ngỡ ngàng của một người bạn vừa ngã xuống. Nụ hôn đầu  của người lính không dành cho tình yêu đôi lứa; Nụ hôn đầu của người lính  dành cho tình đồng đội. Và người lính hát khúc tình ca bằng những "lời lửa cháy". Đây không là lời tình hát tặng em đâu, người yêu nhỏ. Đây là khúc hành ca tôi dành tặng bạn tôi. Dành ru bạn tôi giấc  ngủ cuối cùng...và mãi mãi...
Trong khoảnh khắc này của đêm giao thừa, bài hát nghe ra có một cái gì thật là kỳ dị. Nó  không thích hợp chút nào với những giây phút cuối cùng của năm - lúc mà theo lẽ thường mọi người đang náo nức xôn xao, với những hy vọng, niềm tin vào một năm mới nhiều may mắn, với những dự tính ước mơ, những kế hoạch đầy triển vọng. Nhưng nó  thật sự gây xúc động. Những người lính của đại đội tải này khi nghe bài hát, thấy nó  như  nói về  chính bản thân mình. Và đôi mắt họ long lanh trong ánh lửa. Có phải là nước mắt? Hay chỉ là do một hạt bụi vô tình theo gió bay vào làm khóe mắt xốn xang?...          
Huy đã hát tới khúc cuối của bài hát.... “Hãy hát lời lửa cháy bằng trái tim tình yêu. Hãy hát lời tình yêu  bằng trái tim  lửa cháy. Hãy hát lời lửa cháy bằng trái tim yêu thương. Hãy hát lời yêu thương bằng lửa cháy trong ta...”. Lòng Huy cũng đang bừng bừng bốc cháy. Ngọn lửa thương yêu, tiếc nuối và đau đớn sôi lên thiêu đốt trái tim anh.
Sau đó, tới lượt Minh, lính cuối 84, người Thành phố. Anh ôm đàn la lên:
- Thôi, không hát mấy bài buồn nữa nghe, muốn đứt gan đứt ruột rồi. Nhảy đi các bạn! Soul nghe! Giật soul dễ ẹt, cứ tán loạn lên là được.
Tiếng đàn vang lên thôi thúc, tưng bừng. Một vài tay bước ra giữa vòng tròn khơi mào cuộc nhảy múa. Những bước chân quay cuồng bên ánh lửa bập bùng. Rồi cả bọn đều đứng lên vào cuộc. Có người ôm theo cái can hoặc cái xoong vừa nhảy vừa gõ đập. Đêm rung lên trong những âm thanh khuấy động. Trên bầu trời mênh mông thăm thẳm, những vì sao lóng lánh xa xăm dường như cũng đang nối nhau trong một khúc luân vũ yểu điệu nhịp nhàng.    
Đêm đã rất sâu. Có lẽ chỉ còn dăm chục phút nữa là tới thời điểm giao thừa. Trường hí húi lắp lại pin vào chiếc máy thu thanh nhỏ xíu hiệu National của anh. Chiếc máy chỉ được nghe mỗi ngày một tiếng, ở những giờ có chương trình ngâm thơ và kể chuyện đêm khuya. Bầu không khí cũng trầm lắng xuống không biết tự lúc nào. Toàn bộ doanh trại khối Trung đoàn bộ lặng im. Mọi người chỉ trò chuyện, tâm sự với nhau một cách khẽ khàng như không dám làm rạn vỡ những giây phút thiêng liêng. Huy ngồi bó gối, gục đầu xuống, cảm thấy thân thể anh đang xoay tròn, rơi rơi mãi xuống một vực sâu mà không tới đáy. Anh đã uống khá nhiều rượu nặng, đã nôn mửa mấy lần từ khi nãy cho tới khi chỉ còn nôn ra được một chút chất lỏng lầy nhầy, đắng nghét. Chí Phèo lay lay vai Huy :
- Huy, Huy, mày cố uống tí nước trà cho giã rượu nè.
Huy lúc lắc đầu, rồi ngã vật ra, nằm co người lại. Anh vẫn nghe thấy những tiếng nói lao xao, văng vẳng, nhưng chân tay thì rã rời, mềm như bún. Anh nằm mơ màng, nửa tỉnh nửa mê như vậy không biết bao lâu. Bỗng anh nghe một tràng AK chát chúa. Rồi một tràng nữa. Rồi tiếng súng, tiếng cối pháo nỗ rền rền khắp mọi nơi. Huy mở mắt ra, cố gượng chống tay ngồi dậy. Trên trời, màn đêm mênh mông bị rạch nát bởi những đường vạch đỏ rực  đan chéo vào nhau như những  cánh sao. Khói súng tỏa mù như sương và hăng nồng trùm lên bầu không khí. Ở góc chân trời, đạn cầu vồng phát hỏa bùng lên thành những cụm sáng đủ màu, những giải sáng vàng chanh pha đỏ, những giải màu cam tươi, xanh lá thẫm chuyển sang lam, và phía ngoài cùng là màu tím ngát chìm hẳn vào màn đêm thẳm. Âm thanh, sắc màu như cùng cất tiếng hát và đang nhảy múa. Đêm đẹp rực rỡ. Một cái đẹp hoang sơ man dại. Những tràng pháo hoa đón giao thừa Xuân 1985 đã òa vỡ, vang lên ở một góc rừng tây bắc Campuchia như vậy đó.   
Chương 2
(Trích nhật ký)
Ngày… tháng … 1984
Ngày cuối cùng của năm đầu đời trong quân đội...Một cánh rừng lúc chiều hôm. Rừng chiều không đẹp, không êm đềm như trong nhạc. Nó ẩn dấu một cái gì khó hiểu, đè nặng lên tâm tư người lính.
Tiếng lá khô rơi chạm vào nhau tí tách, rất khẽ. Tiếng súng AK vu vơ...
Ngày… tháng ..1985
Hôm nay lẽ ra là ngày mở đầu chiến dịch đánh bứt cứ điểm A . Nhưng kế hoạch phải tạm đình chỉ vì cái chết của vị lãnh đạo nhà nước Campuchia. Sư đoàn tung toàn bộ lực lượng, cộng thêm một trung đoàn quân đội Campuchia phối thuộc. Trung đoàn của mình là trung đoàn chủ công, đánh trực diện vào căn cứ.
Cuộc đời chiến sĩ của tôi sẽ trưởng thành từ những ngày này. Một trận lớn cấp sư, trong toàn bộ chiến dịch tổng tấn công của toàn mặt trận. Một trận mà có lẽ không phải ai cũng có dịp may tham dự.
Hôm nay, trên toàn thế giới người ta xé tờ  đầu tiên của quyển lịch mới. Và ở thành phố quê nhà, giờ này mọi người đang vui tươi hớn hở...
Mẹ tôi giờ này có lẽ đang vừa làm một việc gì đó, vừa nheo đôi mắt u buồn nhớ tới đứa con xa... Và có lẽ, đôi khi giữa đêm khuya chợt thức, người lại khóc âm thầm... Má ơi! Con đã làm được gì cho má vui đâu, chỉ toàn những lo buồn. Biết đến bao giờ con làm được điều con mong cho má - Má ngồi giữa đàn cháu dễ thương, kháu khỉnh kể chuyện ngày xưa, những chuyện ma quỷ, thần tiên  mà ngày thơ ấu má đã đưa con vào giấc ngủ êm đềm, má cười không lo âu vì miếng cơm, manh áo, nợ nần giăng mắc...  
Ngày    tháng   năm 1985
Một bài thơ viết vội: Xuân này nhớ ai
Mùa xuân đến bao giờ tôi chẳng biết
Gió quê hương không đến tận phương này
Tôi chờ mãi trong niềm đau không dứt
Một mai này chinh chiến sẽ tàn phai
Xuân về hay chưa, tôi vẫn ngờ không thật
Giữa rừng già không én báo tin vui
Không có những cành hoa tươi khoe sắc
Làm sao tôi quên thực trạng quanh người
Giữa rừng chỉ có chúng tôi
Những người đi giữ đất trời quê hương
Bạc rồi những tấm áo xanh
Mà chưa thấy lại mùa xuân quê mình
Nghĩ gì những lúc thâu canh
Sương rơi ướt lạnh một vầng trăng xa
Sao đêm thắp lửa mong chờ
Bâng khuâng người lính xa nhà nhớ thương
Nhớ mẹ hiền tóc bạc với thời gian
Chắc mẹ vẫn chiều chiều ra ngõ đứng
Dõi mắt phương xa mong chờ,  trông ngóng
Một dáng hình, một tiếng nói thân thương
Ạ à ơi...
Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau
Con đi chinh chiến dài lâu
Mẹ ơi ! Đừng khóc những chiều nhớ con
Mẹ ơi ! Đừng thức thâu canh
Trở trăn vì bước quân hành của con
Con đi xuôi ngược hành quân
Mang theo lòng mẹ, niềm tin trọn đời.
Mẹ ơi, nếu có một ngày
Chợt nghe tin dữ con trai không còn
Mẹ đừng nước mắt trào tuôn
Con yêu mẹ đã làm tròn ước mơ
Mẹ đừng thắp nến, chưng hoa
Chỉ thêm buồn nhớ, xót xa nghẹn ngào...
Giờ con nhớ mẹ biết bao
Giờ thương hơn hẳn lúc nào, mẹ ơi !..
Mùa xuân về mọi nơi
Nhưng ở đây mùa xuân không có mặt
Cả bầu trời và mặt đất
Đều khô cằn, ảm đạm, hoang vu...
Ở đây, những người lính nhớ
Thành phố quê nhà những ngày cuối năm
Có chợ tết, chợ hoa xôn xao, lộng lẫy, tưng bừng
Những màu áo, mái tóc dài tha thướt
Những tiếng nói, giọng cười trong vắt
Thân quen vô cùng, mà xa quá là xa...
Những con đường lá đổ ngày xưa
Và những cơn mưa đi về bất chợt
Màu áo học trò ngây thơ, dịu mát
Suối tóc ai dài chảy suốt mùa Ngâu ..
Và đôi khi...giữa đêm lắng sâu
Niềm tiếc nuối thời ấu thơ ray rứt
Con nhện giăng tơ  trên cành trước mặt
Tò vò nào cứ vỗ cánh chờ mong ...
Bạn bè ơi !  Một mái trường
Bao nhiêu kỷ niệm âm thầm chết đi
Bao nhiêu người hãy còn ghi
Tình yêu, lý tưởng vun từ ngày xưa
Ai còn cháy bỏng ước mơ
Và ai đã chịu đẩy đưa dòng đời..
Bâng khuâng người lính đêm dài
Từng khuôn mặt cũ quay về … mông lung…                                 
Ngày    tháng   năm 1985
Hôm nay là thứ mấy, ngày mấy? Ý niệm về thời gian chỉ còn là buổi sáng, buổi chiều, là ngày và đêm nối tiếp trôi đi, vô tận.
Tôi buồn vì sao? Tôi không thể tìm ra câu trả lời đích xác. Nhớ ư ? Phải! Đôi khi một vật thể nào đó lại gợi cho tôi những liên tưởng về bè bạn, gia đình, và hàng đêm trằn trọc thao thức nhìn qua nóc màn lên bầu trời lung linh vạn ánh sao, trong tiếng lá khô rơi xào xạc, tiếng cây vặn mình trong cơn gió rừng lạnh lẽo đêm khuya, tôi nghe tiếng nức nở âm thầm của lòng mình. Tương lai là một khoảng mơ hồ mù mịt. Hiện tại thì thật đau đớn xé lòng…
Anh hùng là ai? Chỉ có những người lính bình thường, vô danh  kia mới là những anh hùng. Tay họ cầm vũ khí, da thịt họ hứng chịu đau thương và máu họ đổ tuôn. Họ đến với cuộc đời, sống, ước mơ, yêu đương...để rồi ra đi trong phút chốc. Họ không nghĩ đến những chuyện cao xa. Ước mơ, khát khao của họ thật giản dị, bình thường. Đây mới chính là những con người thật sự. Tôi làm sao tìm thấy một con người chỉ tồn tại trong trí tưởng của mình - Một con người vô hình , không thật, xây đắp bằng bao nhiêu mảnh vụn của sách vở, từ chương. Bây giờ tôi đã nhận ra điều đó. Muộn hay chưa, tôi khó mà kết luận. 
Phải chăng sinh ra là để chịu đựng những khổ đau, xây những ước mơ, hưởng những hạnh phúc không bao giờ trọn vẹn, để rồi chết? Ý nghĩa của cuộc sống thật là mông lung, siêu hình.
Ampil! Cái địa danh này sẽ ghi mãi trong tâm khảm của tôi, với những gì tôi đã nhận thức được về cái ranh giới mong manh giữa hai chiều tư tưởng.
Chỉ còn vài ngày nữa là Tết rồi. Thật là mơ hồ!…
ngày…. tháng… năm  1985
Tết giữa rừng
Bây giờ, tôi viết những dòng chữ ứa ra từ tấm lòng bồi hồi khôn tả về những ngày tôi đang sống, dưới ánh đèn dầu tù mù leo lét cháy. Viết để làm gì? Tôi đã không còn thiết tha đến việc cầm bút nữa, nhưng sao giờ đây một nỗi niềm nào đó cứ thiêu đốt tim tôi...Máu dường như nghẽn lại trong từng huyết mạch...
Không gian bao la đen thẳm phủ quanh người tôi như một tấm màn dày đặc, khổng lồ, với những lỗ thủng li ti, xa xăm - những vì sao. Đêm như quánh lại... Xa xa, những đống lửa của các đơn vị cháy thành từng đóm, chập chờn, chập chờn. Tiếng hát, tiếng la hét, tiếng trống gõ vào can nước cũng chao chao, khi xa khi gần theo hướng gió... Ôi! Cái Tết của những người lính trẻ xa nhà giữa rừng đêm quạnh vắng.   
Đêm qua, đêm giao thừa, tôi đã không còn tỉnh táo để chờ đón phút giây thiêng. Những người lính cũ, đi trước tôi, hình như cũng rất buồn. Họ che lấp nỗi buồn bằng cách cười nghiêng ngả, nhảy múa, hò hét và ca hát. Chén rượu cay nồng tình nghĩa đồng đội chuyền tay...Trời ơi! Tôi say mèm trước tất cả mọi người... Các anh ơi, hãy thông cảm cho tôi!... Má ơi! Hãy tha thứ cho con... Rượu làm con say, nhưng chính nỗi buồn sâu thẳm đã quật con ngã gục trước khi con cùng đồng đội, đồng bào hưởng phút giây giao tiếp ấy.
Ngày kia, tôi lại hành quân vào trận đánh mới .Trong số những gương mặt trẻ trung, nhưng đã sớm cằn cỗi quanh tôi, ai sẽ còn, và ai sẽ mãi mãi ra đi?  Cười sằng sặc, ca hát và nhảy múa... vui đi để rồi có thể  sẽ không bao giờ  vui được nữa... Những bà mẹ và những người tình có biết giờ này  người thân của mình đang chuẩn bị để ra đi, trở về hoặc vĩnh viễn - Với một niềm tin yêu tha thiết và quyết tâm chiến thắng. Máu sẽ đổ, thịt sẽ tan, nhưng không bao giờ người lính Việt nam chùng bước! Các mẹ ơi, các chị ơi, hãy nguyện cầu cho người con,  người yêu lời nguyện trọn lành!...
Con thương nhớ má thật nhiều, thật nhiều... Má yêu dấu ngàn đời!... Không biết mai này  con còn có ngày về với má hay không ?  Nhưng con sẽ không bao giờ là một người  lính yếu hèn. Má ơi, hãy hiểu cho con!...   
Ngọn đèn gần hết dầu đang lụi dần. Nhưng ngày mai trời lại sáng...
Huy vừa đọc lướt lại những gì đã ghi vào nhật ký trong mấy ngày qua. Anh gấp quyển sổ lại, nhìn ra hướng trảng cỏ trống ngoài kia. Gió vẫn thổi hun hút từng cơn, làm ngọn lửa phát ra từ chiếc đèn dầu đốt bằng mỡ lon thịt hộp chập chờn muốn tắt. Huy với cái ba lô kề bên, nhét cuốn sổ vào và thổi tắt ngọn đèn. Anh bước ra khỏi chiếc lều dã chiến thấp lè tè, đi tới chiếc võng đã giăng sẵn từ lúc nãy, vén mùng chui vào. Mấy hôm nay, anh mang võng mắc giữa hai cây dầu nhỏ trước lều để ngủ ngoài trời.
Huy thích được nằm nhìn lơ mơ qua chiếc mùng vải mỏng lên bầu trời đêm thăm thẳm. Từ thuở còn bé tí, anh đã yêu mến bầu trời đêm và những vì sao xa xăm trên đó. Truyện Hoàng tử bé của Saint Éxupéry, truyện Những vì sao của Alphonse Daudet mà Huy tình cờ đọc được sau này càng làm anh yêu mến chúng hơn. Ngàn sao là giấc mơ kỳ diệu, làm tâm hồn thơ trẻ của anh thấm đẫm bao tưởng tượng, bao ước vọng đẹp đẽ hướng tới cõi trời cao rộng, thánh linh. Bây giờ, tuổi thơ đã trôi qua, những hình ảnh ngây thơ, trong sáng ấy cũng mất đi phần nào huyền diệu. Đêm sao bây giờ với anh chỉ là một bầu trời vật chất, với những thiên thể vật chất, những hành tinh lạnh lẽo, vô hồn. Ngàn  sao lấp lánh kia không còn là những sinh vật sống động, đầy cảm tính, y hệt như những con người. Không còn nữa những vì sao của tuổi thơ ! Tuy vậy, trời đêm và sao sáng vẫn làm dịu đi những nỗi buồn phiền, những niềm thương nhớ.
Huy vòng hai cánh tay ra sau đầu, thầm đếm những vì sao rải rác phía trên ngọn cây dầu độc mộc giữa trảng. Một, hai, ba... một trăm lẻ một, một trăm lẻ hai... Chợt nhiên, một vì sao - vì sao thứ một trăm lẻ bốn - ngày càng to lên,  to lên...Rồi nó chợt nhoẻn miệng cười với Huy thật dịu dàng. Nó mở đôi mắt đầy âu yếm nhìn Huy. Không phải là vì sao, mà là má ! Má đang mỉm cười lặng lẽ. Mái tóc của má trôi dài, bay bay giữa trời đêm thênh thang vằng vặc, lóng lánh triệu triệu những tinh cầu bé xíu, li ti...
Chương 3
Từ sau Mồng Mười Tết, mưa liên tiếp mấy hôm liền. Trời thấp, xám màu chì và nặng trĩu. Trong toàn đơn vị, không khí im lìm, vắng lặng hẳn đi. Mọi người chỉ bước ra ngoài khi có việc cần. Họ chui rúc trong lều đánh tiến lên, hay nằm bên nhau tâm sự.
Huy ngồi co ro, vừa nghĩ ngợi lan man, vừa lơ mơ nghe tiếng Phước và Danh trò chuyện lẫn vào tiếng mưa rào rào vỗ trên mái lá. Danh đang kể một câu chuyện gì đó về miền Mộc Hoá, Long An, quê hương của anh, Huy nghe loáng thoáng những tình tiết về con vện, con vàng... mấy con chó săn tinh khôn mà Danh rất cưng hồi còn ở nhà. 
Trong tiểu đội, Danh là một trong những lính mới được nể nang nhất. Anh đi hành quân mang vác, đào công sự  chiến đấu thật dẻo dai, không thua gì cánh lính cũ. Thoạt nhìn, Danh  không có vẻ gì là một người mạnh khỏe, anh cao lòng khòng, ốm nhách. So với Minh, Hùng, cũng lính cuối 84, dân Thành phố,  Danh  ốm yếu hơn nhiều.
Theo lời Danh kể , từ nhỏ anh đã làm việc nặng nhọc, vất vả mà ăn uống thì lại quá thiếu thốn, kham khổ.
Hôm đánh lên Ampil vừa rồi, không có Danh, thì Huy chắc phải xỉu đi vì quá mệt. Hồi ở Quang Trung, bọn Huy cũng thường đi hành quân dã ngoại, cũng mang vác nặng. Nhưng so với hành quân thật sự thì thật khác nhau một trời một vực.
Ở trường, hành quân tà tà như đi dạo. Mệt thì  nghỉ. Chỉ huy đại đội lúc đầu có vẻ nghiêm khắc nhưng về sau rất dễ, nên bọn Huy được thể cứ  làm nũng như con nít. Thật sự, lúc đó cũng không có gì nặng mấy, chỉ là các bộ phận tách rời của khẩu 12 ly. Còn vừa rồi, lần đầu tiên Huy đi một mạch năm sáu cây số mới được nghỉ giải lao. Sau lưng là chiếc ba lô, ngoài quần áo, tư trang là một thùng đạn K.56 và mớ liều phóng, ngòi nổ cối 82; một can vàng bốn lít nước cột lủng lẳng dưới nắp ba lô; trên vai là một gánh sáu quả cối 82, chiếc ruột tượng bảy ngày gạo; cộng thêm khẩu AK quàng qua vai và chiếc bao se ba băng đạn, một bình toong nước xệ xệ bên hông. Trung bình,mỗi người lính mang trên người khoảng ba mươi ký.
Đi được khoảng ba cây số, đầu Huy đã lùng bùng. Đôi chân Huy phồng dộp lên từ lúc nãy, giờ những chỗ đó tróc da, cọ xát vào giầy làm anh đau điếng. Nhất là vì nền cát, mùa khô co cứng lại như bê tông, cứ dội ngược lại dưới gót giày sau mỗi bước nặng nề. Huy nhìn người phía trước, Minh cũng không khá gì hơn anh, đang xuýt xoa rên rỉ. Tuy vậy, Huy cũng cố đi được cho đến chỗ giải lao đầu tiên. Huy ngồi bệt xuống, ngã người ra, lưng dựa vào chiếc ba lô. Anh nhắm mắt lại một lúc, rồi lại mở ra. Cổ họng Huy khô rát vì cơn khát. Anh run run mở nắp bi đông. Những ngụm nước mát lạnh đi vì không khí ban đêm. Không còn là những ngụm nước bình thường nữa: nước lã giờ như trở thành dưỡng chất, thành rượu quỳnh ngon ngọt khác thường. Trong những lúc như thế này, Huy nhận ra nhu cầu của con người đến lúc thiết yếu nhất,  khi chịu sự thiếu thốn tột cùng nhất, khi gần kề cái chết nhất, chỉ là rất ít oi : không khí để thở ; nước để uống; và cái gì đó để ăn. Rồi tình yêu cuộc sống lại quay về, và ta lại có thể bình an nghĩ ngợi, ước mơ. Vâng, chỉ bấy nhiêu đủ để ta thấy trong ta cuộc sống tràn đầy, rạo rực…
Huy uống rất chậm và dè sẻn. Chí Phèo đã dặn trước với anh khi hành quân không được uống nhiều nước, càng ít thì càng tốt, vì uống nhiều, mồ hôi toát ra quá mức sẽ làm kiệt sức rất nhanh. Mặt khác, giữ cho lúc nào bình toong cũng còn nước là điều cốt tử ở vùng đất khô cằn này.
Đến lúc tiếp tục hành quân, anh chỉ đi được vài bước đã thấy choáng váng, hai bàn chân đã nguôi đau, giờ lại càng hành hạ anh tệ hại hơn lúc trước. Huy bước ngày càng có vẻ chập choạng. Danh đi phía sau vội nói nhỏ:
- Anh đưa cho tui vác phụ gánh cối một lúc cho.    
Huy ngần ngừ, rồi lắc đầu. Danh cũng đâu có nhẹ gì hơn anh. Là chiến sĩ, Danh không mang AK, nhưng trong ba lô anh là hai thùng đạn, liều ngòi cối, và trên vai là tám, chứ không phải sáu quả cối như Huy. Huy cố bước thêm một lúc thì quị xuống. Danh giằng lấy gánh cối:
- Tui còn khỏe, cứ để tui vác một lúc. Anh đở mệt là tui giao lại liền.  
Lần này, Huy không còn đủ sức và ý chí để từ chối sự giúp đỡ chân thành của Danh. Thế là  Danh nghiêng vai còn lại gánh luôn gánh của Huy. Quả thật, không có gánh cối, anh cảm thấy nhẹ hẳn đi, khỏe lại. Được một quảng, Huy ngoái lại. Danh vẫn bước bình thường, nhưng hơi thở đã nghe nặng nề. Mình nhẹ được một phần, thì Danh lại càng nặng thêm gấp hai ba nữa - Huy nghĩ. Anh bỗng thấy một sức mạnh không biết từ đâu đến, đánh tan hẳn những nhọc mệt và cơn nhức nhối ở hai chân. Anh giơ tay đón lấy gánh cối :
- Cám ơn Danh, mình đã khỏe rồi.
Và từ đó, Huy thật sự  quên đi những khổ sở, nhọc nhằn. Anh nghĩ về những kỷ niệm vui, những hình ảnh thân thương êm ái, rồi thầm cười khẽ một mình. Cuộc hành quân đêm trôi đi một cách nhẹ nhàng, không còn là cơn ác mộng dài khủng khiếp như lúc nãy với anh...
Buổi chiều cuối cùng trước khi trận địa dứt hẳn tiếng súng, Huy cùng một nhóm ba người khác cáng thương từ tuyến trước về trại cấp cứu dã chiến của K.23. Nắng ong ong chiếu xuống làm anh mệt rũ cả người. Cả nhóm đã liên tục lên xuống suốt hai ngày qua, lên tải đạn, về tải thương như con thoi không ngừng nghỉ. Chuyến cuối cùng họ cáng một liệt sĩ của D.2 đã hy sinh từ buổi tối qua, nhưng để tại chỗ để ưu tiên cáng các thương binh trước. Cố gắng về đến một chỗ còn cách K.23 khoảng nửa cây, sau khi giao lại cáng cho hai người khác, Huy thấy đầu bưng bưng nhức nhối, hai mắt hoa lên. Anh bảo Danh:
- Danh đi trước đi, mình ngồi nghỉ một lát đã.
Danh gật đầu, lo âu nhìn Huy:
- Ừ, anh về sau, tui lên đi chung với hai thằng nó để có gì tiếp tay. Tụi nó cũng phờ phạc lắm rồi.
Huy gieo người xuống, nửa nằm nửa ngồi, một tay tì lên mặt đất. Anh tháo cái bi đông nước bên hông, đưa lên đôi môi khô rộp. Chỉ còn không đầy một nắp bi đông đọng dưới  đáy. Huy nốc cạn, thấy cơn khát vẫn chẳng bớt tí nào. Anh mệt nhọc nhắm nghiền đôi mắt lại. Rồi vài giây sau, không gượng được, anh nằm lăn ra nền cát, kế bên một bụi le cằn cọc, mặc cho những con ong ruồi nhỏ xíu bu bám vào mặt mũi, mặc cho ánh nắng xiên khoai chói chang đổ xuống. Khi Huy mở mắt ra, trời đã bắt đầu xế bóng. Anh gượng dậy, tìm đường tắt đi về.
Về đến trại, Huy chui vào lều nằm bất động. Anh mê man cho đến trưa hôm sau. Nghe tiếng gọi dậy ăn cơm của Phước nhưng Huy vẫn thấy người rã rời, không biết đói. Phước vào lay lay Huy:
- Nè, gắng dậy ăn một chén cho khỏe. Mệt mà nằm hoài là bị sốt luôn đó.
Huy lắc đầu, nhắm nghiền mắt, yếu ớt nói:
- Mình không đói. Cứ mặc mình.
Một lúc sau, Danh cầm chén cháo bốc khói chui vào. Anh đỡ  Huy ngồi dậy.
- Tui lấy cơm nấu lại thành cháo cho anh dễ húp. Ráng đi.
Huy nhìn Danh xúc động. Anh cố húp hết bát cháo dù miệng lưỡi đều thấy đắng nghét, không muốn ăn uống gì. Danh lại bưng chén nước nóng vào, tay kia cầm hai viên thuốc giục Huy uống. Sau khi ăn cháo, uống thuốc, nằm nghỉ khoảng hai tiếng, Huy thức giấc và thấy người khỏe hẳn. Anh đã có thể ngồi dậy, đi lại được, dù còn hơi run rẩy...
Danh chợt quay sang Huy cất tiếng hỏi:
- Anh còn giấy không cho tui xin một tờ. Viết thư cho con nhỏ bồ.
Huy gật đầu:
- Còn, chờ chút mình lấy liền đây.
Hôm vừa mới sang, Huy mang theo sổ sách lỉnh kỉnh rất nhiều. Ba cuốn sổ, trong đó có một cuốn đang ghi dở, mấy cuốn tập học trò  ghi bài giảng hồi học ở H.15, mấy cuốn sách Anh văn, và vài cuốn truyện. Xui một cái là từ bên nước qua, Huy bị đưa thẳng vào rừng, nơi đang tạm đóng quân chuẩn bị vào chiến dịch. Anh không được ghé hậu cứ, nên bao nhiêu hành lý, tư trang đều dồn hết vào ba lô, cõng hết suốt một mùa chiến dịch. Lúc nghỉ giải lao trong cuộc hành quân đầu tiên, anh đã vứt bỏ hết mấy cuốn vở ghi bài, sách Anh văn và truyện. Giờ nghĩ  lại, Huy tiếc quá chừng. Huy rứt mấy tờ đôi đưa cho Danh, cười cười:
- Nè, mai mốt về làm đám cưới nhớ đánh điện tín mời tui xuống dự với nghe ông.
- Yên chí đi!
Phía ngoài lều có tiếng chân bước bì bõm trên mặt đất ngập nước mưa, tiếng sột soạt của tấm nylon, rồi Minh ló đầu vào :
- Huy ơi, anh Thái kêu anh lên đại đội. Mang theo toàn bộ ba lô, tư trang để nhận nhiệm vụ mới.
Huy không ngạc nhiên, anh đã biết không sớm thì muộn anh phải chuyển về đơn vị mới. Hồi mới sang, vì đang chuẩn bị đánh một trận quá căng, nên người ta không đưa anh về ngay đơn vị trực tiếp chiến đấu, mà tạm đưa vào đại đội tải của trung đoàn. Bây giờ là thời gian cho các đơn vị huấn luyện phối hợp quân binh chủng để tiếp tục đánh cứ  201, anh phải về đơn vị hỏa lực để cùng tập luyện chuẩn bị chiến đấu. Mặt khác, cũng là để bổ sung quân số cho các đơn vị bị tổn thất thương vong. Dù sao, Huy cũng cảm thấy buồn buồn. Anh đã chia sẻ với anh em C.22 cái Tết xa nhà đầu tiên, chia sẻ với họ những chén rượu ấm nồng tình nghĩa, đã có những đêm nằm tâm sự, giờ chia tay sao tránh khỏi nỗi buồn.
Anh gom mấy thứ linh tinh nhét vào túi cóc,bàn giao khẩu AK cho Phước, rồi nhìn hai người nói:
- Thôi tạm biệt các bạn. Chúc mạnh giỏi, công tác tốt. Cho mình gửi lời chào anh Hoà, anh Trường, anh Chí và các anh em khác.
Phước và Danh gật đầu, buồn hiu nhìn Huy:
- Chúc anh về đơn vị mới mạnh giỏi, bình an.
Huy xốc ba lô lên vai, khoác tấm nylon lên đầu rồi chui ra khỏi lều, đi về hướng nhà đại đội.
Đại đội trưởng Thái đang ngồi xếp bằng trên chiếc chiếu trải giữa lều. Đối diện với anh là một tay trẻ tuổi, Huy nhận ra đó là người đã lên Sư đoàn nhận anh về dạo trước. Thái nói to khi thấy Huy bước vào:
- A , Huy đây rồi. Cậu vào làm chén trà cho ấm bụng. - Anh giơ tay chỉ sang người đối diện - Đây là cậu Phúc, trợ lý tổ chức động viên trung đoàn, lát nữa Phúc sẽ đưa cậu về D3.
Huy gật đầu chào Phúc. Anh nói:
- Em đã cùng anh Phúc đi từ  Sư  về đây hôm trước chiến dịch.
- A, vậy là người quen cũ rồi, phải không, tốt, tốt lắm.- Thái nghiêng người rót trà vào chén , rồi đưa cho Huy.
- D3 là tiểu đoàn cơ động mấy năm liền của Trung đoàn đó, anh Huy ạ, đánh nhau cừ lắm - Phúc nói - Ông Văn D trưởng chịu chơi lắm, nhưng cũng rất nghiêm. Lính ông Văn thì khỏi nói, công tác chiến đấu một cây, mà quậy cũng bạo có tiếng.
Thái giơ ống thuốc lào lên rít sâu một hơi, phà khói mù mịt, rồi đưa sang Huy :
- Làm một hơi đi, rồi lên đường. Từ đây qua D3 cũng mười mấy cây số đó.
Huy cầm chiếc điếu cày, nhón một nhúm thuốc lào, châm lửa. Anh đã tập tành chút chút cái món này từ hôm về C.22. Chí Phèo là đại sư phụ đã huấn luyện cho anh kỹ thuật hút mà không bị sặc. Huy thấy thuốc lào hay hơn thuốc lá. Nó làm người ta lâng lâng, ngây ngất tê người trong một thoáng. Chỉ cần hút một hơi thôi, cũng đủ đô bằng cả mấy điếu thuốc vấn rồi. Ngồi cho tan hẳn cơn say thuốc, Huy đứng lên, chào đại đội trưởng Thái:
- Thôi, em đi nghe anh Thái.
- Về đơn vị mới công tác cho tốt nghe Huy. Lâu lâu có dịp ghé E bộ thăm anh em.
Huy và Phúc bước ra khỏi căn lều. Trời vẫn còn mưa lất phất. Không khí thoang thoảng một mùi gì đó, thơm nồng. Hình như là mùi một thứ gỗ thơm đang bốc cháy đâu đó trong một gian bếp gần đây. Phúc nhìn Huy, cười hỏi:
- Vừa qua, anh đã tham gia đánh nhau rồi đó, có run không?
- Sợ chết khiếp chứ sao không. Lúc mình tải đạn lên cho D2, đạn nhọn của địch cứ chiu chíu xé qua tai, còn pháo thì  nổ ầm ầm chung quanh, cách không đầy chục mét.
- Về bộ binh còn kinh hơn nữa. Đánh nhau liên miên, chứ không khỏe như ở trung đoàn đâu. Sao anh không xin ở lại công tác bên nước?
- Lính mà, tổ chức phân công đâu, mình đi đó. Mình có muốn ở lại cũng không được. Thật tình, mình cũng muốn qua đây cho biết. Qua rồi mới thấy ngán.
Phúc gật gật đầu, nhưng không nói, như đang vướng bận một suy nghĩ nào đó. Huy cũng không gợi chuyện thêm. Cả hai cúi mặt, bước nhanh hơn dưới những làn mưa rơi xeo xéo.
Trời đã ngưng mưa khi hai người tới trại D 3. Lều tiểu đoàn nằm trên một gò đất cao. Xung quanh là những lùm cây lúp xúp. Ở phía trước, xéo về tay phải là một cây dầu lớn, hình dáng thật lạ lùng. Từ gốc đến khoảng một phần ba thân đầu tiên của nó nghiêng một góc gần bốn mươi độ so với mặt đất. Rồi từ cuối đoạn này, thân cây lại trở về tư  thế tự nhiên chọc thẳng lên trời. Huy nhìn nó, thầm nghĩ có lẽ lúc còn non, nó đã bị một con thú rừng làm gẫy ngang, nhưng vẫn kiên cường vươn dậy. Một người lính trẻ đang ngồi bên gốc cây dầu này đẽo gọt một cành cây nhỏ, đường kính khoảng bốn phân, chắc để làm cán cuốc. Anh ta nhìn thấy Huy và Phước, buông con dao và cành cây xuống đất, đứng lên đi về phía họ. Khoảng cách thu ngắn đủ để Huy nhìn rõ  người lính. Một khuôn mặt rắn rỏi, da ngăm ngăm sạm nắng, đôi mắt đen lanh lợi, vui vẻ, vóc dáng cao to, khỏe mạnh. Phúc cất tiếng:
- Chào đồng chí, có anh Văn ở nhà không vậy?
Người lính trẻ gật đầu, đưa mắt nhìn Huy như đánh giá, rồi lại nhìn sang Phúc, trả lời bằng một giọng đặc sệt đồng bằng Nam bộ:
-  Anh “Dăng” ngồi trong lều. Mời hai anh “dô” trong.
Tiểu đoàn trưởng Văn đang ngồi hý hoáy viết gì đó bên cái bàn dã chiến trong lều. Bốn chân bàn là bốn thân gỗ chôn sâu xuống đất, phía trên đầu là một chạc hai để đỡ một thanh ngang. Mặt bàn đan bằng các thanh tre, được cột lại bằng những sợi dây xanh. Anh ngước lên gật đầu chào khi thấy người lính trẻ dẫn Huy, Phúc bước vào, rồi tiếp tục cúi đầu viết. Người lính trẻ kéo Huy, Phúc tới một cái băng dài, thấp, cũng một kiểu dáng như cái bàn, nhưng bề ngang hẹp vừa đủ để ngồi, anh nói:
- Hai anh ngồi uống nước, nghỉ mệt, chờ anh “Dăng”  một chút.
Anh ta tới bên bàn, nghiêng chiếc can rùa rót vào hai cái bát một thứ nước xanh xanh, rồi bưng lại.
- Đây là nước hà thủ ô, hai anh uống đi, mát lắm.
Huy và Phúc đón lấy, uống một hơi cạn chén, rồi đưa mắt nhìn quanh quẩn. Trong lều trống trơn không có gì ngoài cái bàn và mấy cái băng ghế. Trên vách lều treo ba cái ba lô, và ở một góc là cái giá súng với hai khẩu AK. Dù sao cũng là tinh tươm hơn rất nhiều so với nhà đại đội của Thái, chẳng có bàn ghế gì, chỉ ngồi bệt dưới đất là xong.
Tia mắt Huy xoay trọn một vòng, rồi trở về điểm xuất phát là tiểu đoàn trưởng Văn. Anh trạc ba mươi, ba mốt gì đó, cao dong dỏng, vai gầy nhưng rộng. Gương mặt lại có vẻ trắng trẻo, thư  sinh, khác xa hình ảnh Huy hình dung về anh trên đường lúc nãy. Trên mặt anh có một nét gì đó  là lạ, vui vui, dù lúc này Văn đang nghiêm nghị làm việc. Huy để ý quan  sát thêm  giây lát, rồi nhận ra chính vì cái miệng của Văn. Nó hơi méo, chếch lên bên phải, làm Văn lúc nào cũng như đang nhếch miệng muốn cười.
Khoảng hai phút sau, Văn viết xong. Anh gấp quyển sổ lại, ngẩng mặt nhìn Huy, Phúc, đôi mắt đen sáng nheo lại, anh cười ha hả:   
- Xin lỗi hai cậu, mai tớ  phải lên trung đoàn báo cáo phương án tác chiến nên cố một tí cho xong. Nào, tớ nhớ  không lầm thì hôm qua thông tin trung đoàn báo cậu sẽ dẫn cậu Huy xuống, có đúng là Huy không Phúc?
Phúc  gật đầu xác nhận:
- Vâng, ảnh tên Huy, tốt nghiệp lớp hạ sĩ quan ở H.15 bên nước, sang đây hồi tháng Mười hai năm ngoái. Vừa rồi ảnh nằm ở C.22, công tác cũng tốt lắm anh ạ. Hồi nãy trên đường tới đây, em cũng đã giới thiệu sơ với ảnh về D3 rồi. Nhất là giới thiệu rất xôm về vị tiểu đoàn trưởng ngon lành là anh. Sao, có gì thưởng công không thủ trưởng?
- Lại còn thế nữa! Cậu đã nói xấu tôi những gì, chưa phạt thì thôi, còn đòi thưởng. Này, bước tới gần đây, tôi thưởng cho...
Phúc phá ra cười:
- Thôi, em quá biết cái món điểm huyệt của anh rồi, dại gì! Nè anh Văn, trưa nay em báo cơm D3 đấy nhé. Lo giết gà vịt đón khách đi là vừa.
- Ở đây làm gì có, chỉ có món “bò hóc quân đội” đãi cậu thôi - Văn cười ha hả, rồi quay sang Huy, anh nói - Huy này, cậu lại đây, để tớ giới thiệu sơ về tiểu đoàn cho cậu biết. Tớ là Thạch Văn, quê ở Cao Bằng, chắc cậu biết rồi..
Sau đó, Văn kể cho Huy nghe về tên tuổi của các cán bộ tiểu doàn và đại đội, các trung đội trực thuộc, tình hình tổng quát của tiểu đoàn, rồi bảo :
- Bây giờ, cậu sẽ về trung đội 12 ly bảy, đúng như chuyên môn của cậu. Nhưng tạm thời, cậu vẫn chỉ là chiến sĩ thôi. Vì cậu mới về mà nắm chức chỉ huy khẩu đội ngay thì anh em không phục. Với lại, cậu cũng chưa có kinh nghiệm thực tế là mấy, cũng chưa làm được đâu. Cứ cố gắng công tác, chiến đấu cho tốt, rồi tự khắc khi anh em trung đội đề xuất lên, tôi sẽ chính thức bổ nhiệm cậu. Vậy nhé, có thắc mắc gì nữa không?
- Dạ không. Vậy em xin phép được về B ngay, nghe anh Văn.
- Vội gì, cứ ở đây, cơm nước xong xuôi, tớ bảo thằng Kiên đưa cậu xuống dưới. Giờ cậu xuống thì chẳng còn cơm đâu mà ăn.- Văn đảo người tìm Kiên, liên lạc tiểu đoàn, nhưng Kiên đã đi đâu ra ngoài, anh gọi to - Kiên ơi! Em coi cơm chín chưa dọn lên đây nào.
Ngoài kia, mưa lại bắt đầu rơi lất phất. Từ  sau gian lều thoảng ra mùi ruốc cá xào, Kiên bê mâm cơm  và thức ăn lên.
Chương 4
“… Mưa. Mưa ròng rã mấy ngày liền.Cả cao điểm chỉ còn là một chiếc màn nhạt nhòa màu trắng xám..
Mưa tầm tã suốt những ngày, rào rào đập xuống mái túp lều dã chiến, như một tay đàn bass trong cơn cao hứng. Mưa lặng thầm rỉ rả suốt những đêm, như muốn kể lể một điều gì, than van giùm ai đó. 
Con sáo Chíp của Ụ Mối không nhảy loi choi phá phách như thường lệ. Nó chui vào nép mình trong một góc nắp ba lô nằm im thin thít, chỉ có hai con mắt tròn xoe tinh nghịch là vẫn láo liêng nhìn ngó mọi người như dò hỏi, thắc mắc: “Sao lạnh thế? Sao buồn thế? Sao không thấy mặt trời với những tia nắng vàng tươi ấm áp?”.
Dạo đầu tháng Giêng, khi đơn vị vừa lui về đây dựng trại, nắng đến sẩu cả người. Nắng cứ ong ong chiếu thẳng xuống đầu, nóng rừng rực như muốn nung đỏ cả giải cát trắng bìa rừng, muốn sấy khô những cành lá xác xơ, khô cằn đầy bụi của những lùm những bụi, những gốc cổ thụ già nua. Rồi từ cơn mưa đầu mùa trái nết một ngày cuối tháng Hai, trời  mưa mãi, tối trời tối đất.
Trận mưa đầu tiên, cả trung đội mừng phát khóc, khoái chí vô cùng.
Họ mừng vì không khí sẽ mát mẻ, dễ chịu, đêm không còn phải nằm trăn trở, mồ hôi tươm ra nhớp nhúa; vì lũ ruồi nhặng đông đúc đến kinh hoàng, không biết từ đâu kéo đến sẽ không còn tác oai tác quái; vì không còn phải vất vả hằng ngày lên hồ Ampil cách đó bảy tám cây số để tắm giặt, tải nước về dùng...
Mọi người ùa ra, reo lên khi những giọt nước ngọt ngào bắt đầu trút xuống liên miên, bắt đầu dệt thành một chuỗi vô tận trắng mờ mịt những hạt nước mưa to nặng. Mưa!  Mưa rồi! Lạy trời mưa xuống, lấy nước tôi uống...
Họ lột phăng quần áo ra cầm trên tay quay tròn vun vút, mình trần như nhộng, như trẻ thơ vừa mới lọt lòng, như  những thiên thần hồn nhiên vô tội. Rồi cả bọn nhảy tung tăng, đứa hát, đứa gào lên những lời vô nghĩa, đứa nằm lăn ra, ngửa mặt, xoảy tay chân, há hốc miệng, cho mưa tràn trề rơi xuống vỗ về.
Mưa đi! Cứ mưa đi! Mưa cho quét sạch bụi bặm trần gian, quét sạch những nỗi buồn lo, quét sạch những suy tư nhớ nhung căng đầu căng óc. Cho chúng tôi hoá thân, trộn lẫn vào với những giọt nước ngọt mát trong veo...
Nhưng rồi mưa như muốn thỏa lòng nguyện ước của họ, nên cứ  hào phóng rơi mãi, tuôn trút dầm dề suốt cả tuần. Mưa trắng trời trắng đất, chẳng có đồ sạch mặc vì treo phơi mãi mà quần áo chưa chịu khô cho. Cũng chẳng thể kiếm chác cải thiện gì được với những cơn mưa ào ạt. Chỉ có nước là nhiều, lúc nào cũng tràn trề mấy cái bồn làm bằng mấy tấm nylon đi mưa trùm lên hố đất. Nắng mãi cầu mưa, mưa hoài  nhớ nắng. Thiên nhiên có bao giờ ban phát bình quân đều đặn, không thừa không thiếu theo ý muốn con người…”
Quân miệt mài ghi chép. Anh đang viết một bút ký để gửi cho tạp chí Văn nghệ Quân đội. Không khí lành lạnh, ẩm ướt và tiếng mưa rơi đều đều bất tận làm anh thấy nao nao. Trong lều tối om om, cả ngoài trời cũng một màu u ám. Mọi thứ  đều xám, lạnh, buồn, nhưng chứa đầy sinh lực bên trong, khơi dậy niềm cảm hứng.
Có lẽ kỳ này Ban biên tập sẽ không gạt bỏ bản thảo của anh. Nó đã được viết trong niềm rung động sâu xa. Nó gắn chặt, quyện vào với những cảm xúc chân thật, đầy sức sống, và toàn là những điều có thật. Đây không phải là một câu chuyện kể bình thường. Đây chính là những nụ cười, nước mắt, những giọt mồ hôi rơi xuống ướt đẫm chiếc áo lính bạc màu; là ánh nắng vàng rực rỡ lúc cuối ngày hắt xuống cánh rừng dầu; là những khoảnh khắc mong manh, thiêng liêng giữa cuộc sống và cái chết của đồng đội, bạn bè anh... Nghĩa là toàn bộ cuộc sống của bọn anh ở đây, trong những tháng ngày này, đã thu gọn, biến hình, chuyển hóa thành con chữ.
Tiểu đoàn đã lui về đây nằm chốt từ sau đợt tấn công Ampil để huấn luyện phối hợp quân binh chủng với tăng, pháo chuẩn bị cho trận đánh lớn kế tiếp. Những ngày tháng tương đối nhàn hạ và yên tĩnh với đơn vị của anh - một trung đoàn cơ động của Sư, một trung đoàn cứ xê dịch, hành quân di chuyển miệt mài suốt hàng trăm ki lô mét dọc chiều dài biên giới vùng Tây bắc, đánh nhau hết trận này tới trận kia, hết trận to sang trận nhỏ ngay từ trước khi anh về đơn vị.
Cánh rừng  này nằm cách hồ Ampil khoảng tám cây số đường chim bay về hướng Tây Nam. Một cánh rừng thưa, chủ yếu là cây dầu cổ thụ, đứng rải rác trên nền cát trắng, hệt như cát ở vùng Củ Chi quê ngoại của Quân. Ở đây quả là nhàn thật, quá nhàn là đằng khác. Các đơn vị của Polpot và Sonsan giờ nằm dạt đâu đó ở trên đất Thái, đã mất hồn và kiệt quệ sau đợt tấn công vừa rồi. Chúng còn đang co cụm, củng cố lực lượng chờ phục hồi sinh lực, nên cũng chẳng hơi sức đâu mà lén lút bò sang quấy nhiễu. Đây là những tháng ngày bình yên, những tháng ngày hiếm hoi quý báu cho sự nghỉ ngơi và trở lại với cuộc sống không tiếng súng, không vất vả, không có những phút giây căng thẳng khi ém quân chờ giờ nổ súng. Nhưng đôi khi, bọn anh cũng hơi buồn, nhớ  những cuộc hành quân đầy phấn khích, nhớ những đợt xung phong, nhớ mùi thuốc súng tỏa ra khét lẹt một vùng trận địa.  
Quân viết thật sẻn so, với những dòng chữ li ti, mỏng mảnh.
Giấy ở đây là thứ quá hiếm hoi. Mấy quyển vở học trò anh mua khi ở Cứ giờ chỉ còn lại có dăm cặp giấy đôi. Có khi ở tòa soạn tạp chí, người ta đã vứt bỏ những bản thảo trước của anh ngay từ đầu, khi thấy chúng viết trên cả hai mặt giấy; vứt bỏ một cách bực dọc mà không buồn liếc qua xem chúng ghi chép những gì, dù anh đã cẩn thận ghi ở đầu mảnh giấy một dòng chữ to đầy khẩn thiết,van nài: “XIN VUI LÒNG THÔNG CẢM, CHÚNG TÔI KHÔNG CÓ GIẤY!”. 
Quân nghĩ, ở tòa soạn báo Quân đội, dĩ nhiên đa số trong Ban biên tập phải là con nhà lính, nếu không phải là tất cả. Và đã là lính, tất họ phải hiểu giấy là thứ quí hiếm đến thế nào ở chiến trường. Họ phải biết nỗi xót xa phải xé dần, xé dần những lá thư của người yêu ở xa xôi, những dấu tích duy nhất, thân thương liền khúc ruột ấy của người mình yêu mến để cuộn thuốc rê. Ấy là vì tình đồng đội.
Có những thằng chẳng bao giờ lưu tâm tới chuyện giấy má thư từ. Với đứa này thì vì mù chữ, với đứa kia vì bị phụ tình, đứa nọ gia đình ở quê nhà đã từ lâu không còn liên lạc gì nữa. Nhưng tụi nó cũng cần giấy, dù chỉ là để vấn thuốc mà thôi. Và những tờ giấy, dù là giấy vở trắng tinh chưa dính chút mực, hay là trang thư chứa đầy những lời thương nhớ thiết tha, là giấy báo mềm mại dễ dùng, hay là giấy đen khổ to để viết công văn, báo cáo cứng còng, dòn rụm...đều cùng với thuốc rê, hay với lá hà thủ ô biến thành khói nhuộm đen buồng phổi của những kẻ xa nhà.
Bạn có thể nhịn thèm, chờ một dịp may nào đó, khi có một tờ báo hay một quyển tạp chí chôm được hay xin được ở Trung đoàn. Nhưng nếu bạn là người “giàu có”, là tiểu chủ nắm quyền sở hữu một vài manh giấy, bất kể giấy gì, bạn đâu thể nhìn bạn bè mình bứt tóc bứt râu vì thèm thuốc, nhất là khi còn thuốc mà giấy đã hết rồi. Và những điếu thuốc chẳng giống ai ấy lại rất ngon, ngon hơn bất kỳ thứ thuốc thơm nổi tiếng nào trên trái đất. Chúng ngon vì sự thiếu thốn, vì sự chia sẻ, vì tình cảm đồng đội thân thương gắn bó.
Nói đến giấy, mà không nói đến tem, là một thiếu sót vô cùng trầm trọng. Mỗi người được phát  ba con tem quân đội mỗi quý. Thật là chẳng thấm vào đâu! May mà có những đứa chẳng khi nào dùng đến chúng như đã nói trên. Vậy là mọi con tem được phát ra cuối cùng đều được sử dụng cho sứ mệnh thiêng liêng cao quý của chúng. Hoặc là dán lên những cánh thư, hoặc là dán lên những phong bì đựng bản thảo phụng sự cho văn học.
Nói đến phong bì, lại đẻ ra thêm một chuyện. Lính làm gì có những phong bì đúng nghĩa. Phong bì, nghĩa là một mảnh giấy, có khi lem nhem chữ nghĩa, hình vẽ lăng quăng, được gấp lại, dán bằng cơm nguội một cách lôi thôi. Tuy nhiên, nói đi rồi nói lại, cũng có những khi anh em ta được một thời phủ phê, giàu có. Nào giấy, nào vở, nào thuốc điếu, thuốc lào, bánh kẹo, thư từ động viên thăm hỏi của mấy cháu thiếu nhi... Ấy là những dịp bắt đầu vào mùa chiến dịch, hoặc những dịp lễ lớn ở quê nhà. Nhưng những dịp đáng yêu như vậy cũng ít oi có thấm vào đâu, và thiếu thốn vẫn hoàn thiếu thốn. 
Những trang bản thảo của Quân đã lôi thôi như vậy về hình thức, nhưng cũng còn dễ chấp nhận được nếu mọi chuyện chỉ dừng ở đó. Thế nhưng không, bản thảo của anh lại còn mang đủ màu đủ sắc. Mực viết Bic xanh dương đậm. Mực bơm vào viết máy tim tím, xanh lá mạ non nguyên là thuốc màu nhuộm vải xin được của dân dạo còn ở Cứ. Rồi có khi là những đoạn ghi bằng bút chì. Bởi vì một truyện viết ở đây có bao giờ đi một lèo thẳng tắp. Chúng luôn bị ngắt ngang đột ngột ở một đoạn, một dòng nào đó, vì một ngàn lẻ một lý do: địch tập kích, hành quân chiến đấu, đi công tác, bị lên cơn sốt... Và những dòng chữ này còn có khi nhem nhuốc, nhạt nhòa vì thấm nước mưa, đến không tài nào đọc được. Mỗi khi phải bỏ một trang bản thảo bị sự cố như vậy lòng Quân đau như muối xát.
Trăm nỗi đoạn trường, trăm điều cay đắng như vậy đối với từng bản thảo gửi đi - bản thảo duy nhất, không có bản nháp mà cũng không có bản lưu - thế nhưng những truyện của anh vẫn không được ghé mắt đến, hoặc cũng có khi chúng được chiếu cố đăng rồi, nhưng Quân không thể biết.
Ở đây, có khi hàng mấy tháng trời chẳng có gì để đọc. Và những tờ báo, tạp chí rách tươm, nhàu nát kiếm được ở Trung đoàn mang về, thì cũng đã quá lỗi thời, số này số nọ được chăng hay chớ chả có thứ tự gì. Có khi lúc đó là tháng Mười, tụi Quân kiếm được số của tháng Một, tháng Hai tận hồi năm ngoái. Biết đâu chúng đã được đăng trong những cuốn mình chưa đọc - Quân tự an ủi, và vẫn tiếp tục bỏ một phần giấy hiếm hoi của mình để viết, không vì điều gì khác ngoài một sự thật đơn giản: viết đối với anh là một niềm thôi thúc.  
Quân đặt dấu chấm cuối cùng kết thúc câu chuyện, rồi vươn vai thở phào vô cùng khoan khoái. Nó đã được khởi đầu từ dạo đơn vị còn nằm ở Cứ chưa hành quân cơ động, nhưng viết giữa chừng thì biết bao công việc bận rộn để chuẩn bị cho một mùa chiến dịch đã buộc anh phải tạm bỏ quên nó đi.
Ôi, cái sự viết lách, “văn nghệ văn gừng” này thật là kỳ lạ! Nó hành hạ người ta, làm người ta quên ăn quên ngủ, làm người ta đầu óc nóng bừng như muốn nổi điên lên với bao nhiêu câu hỏi: Phải tiếp tục câu chuyện dở dang như thế nào đây? Phải dùng từ nào để diễn tả những khoảnh khắc này với bao ý nghĩa? Cây bút này có chịu vâng lời, tuân phục tôi không? Có run rẩy theo nhịp  tim tôi run rẩy, có tuôn trào trên mặt giấy như máu tôi đang cuộn chảy rạo rực trong người? Hay là nó cương quyết bướng bỉnh kháng cự lại điều tôi muốn nói? Viết! Thật là nhẹ nhàng, mà cũng thật là vất vả. Nhưng nó cũng thật diệu kỳ, làm tâm hồn sung sướng, lâng lâng phơi phới biết bao. Hạnh phúc khi viết rất là giản dị, nhưng lớn lao không có gì so sánh được, khi có một đoạn, một câu ưng ý, nói lên đúng những cảm xúc, ý tưởng sâu xa.
Quân quay qua Ụ Mối. Nó đang cặm cụi vót những nan tre tròn trỉnh, nhỏ xíu để đan một chiếc lồng cho con sáo cưng của mình. Quả là Ụ Mối rất cưng con sáo. Rừng tre gai cách đây đâu phải gần gì, mười mấy cây đường rừng. Thật ra, con Chíp không ưa gì những chiếc lồng. Nhưng khi hành quân di chuyển, Ụ Mối buộc phải nhốt nó vào lồng. Nếu không, khi dừng lại nghỉ giải lao, con quỷ hiếu kỳ ham chơi này có thể mải mê săn đuổi, tán tỉnh một nàng sáo xinh xinh nào đó, và không kịp trở về khi đơn vị tiếp tục hành quân. Chiếc lồng cũ đã bị bẹp rúm lại khi Ụ Mối lăn mấy vòng để tránh một làn đạn xối xả của địch khi đánh vào cửa mở ở Ampil hồi đầu năm. Ụ Mối tiếc muốn đứt ruột, nó cứ lầm bầm nguyền rủa bọn địch ác ôn đã làm hư chiếc lồng quý báu, sườn lồng không phải làm bằng thứ tre tầm thường mà là những thanh gỗ gõ đỏ đã được nó trau chuốt công phu, cạo vuốt bóng loáng. Dù sao, Ụ Mối ắt cũng mừng thầm là con Chíp vẫn bình an vô sự .
Hồi chuẩn bị đi, Quân đã ngăn không Ụ Mối mang theo con Chíp. Nhưng nó cũng lén lút bằng cách nào đó xách theo vì không muốn xa con chim cưng lâu như vậy.
Quân hỏi:
- Già Hương và thằng Thuận đi đâu mất rồi Ụ Mối?
Ụ Mối không ngẩng đầu lên, làu bàu nói :
- Hai bọn hắn đi kiếm gì về làm thức ăn rồi. Em đòi đi, ông già không cho, còn bảo em "xúi quẩy" lắm, đi theo chỉ tổ trù ẻo cho xui thêm. Anh thấy có bực không!  Hừ, hồi còn ở Tà Cuông, ai đi chém cá,săn dôc về cho trung đội? Ai là tay săn thiện nghệ nhất của tiểu đoàn ngoài Ụ Mối này?
Quân an ủi Ụ mối:
- Thôi mày đừng buồn. Ở đây đâu có cá hay có thú cho mày săn bắt. Mà ông già dị đoan cũng phải, ổng là dân xứ đạo An Giang mà. Tại mấy lần trước, có mày đi cùng, rạc cả giò nhưng có kiếm được cái quái gì đâu. Thật ra ở đây chỉ có nước kiếm chút lá rừng chua về nấu canh, đâu cần gì đi đông. Ông già muốn để mày rảnh rỗi làm cái lồng đó thôi, chứ  không phải chê gì mày đâu, Ụ Mối à.              
- Phải chi trời nắng, em xách xẻng ra một loáng là có khối dông về nướng.
Ụ Mối là biệt danh trung đội dành cho nó, chứ họ tên đầy đủ của nó cũng văn hoa lắm: Phan Quang Dũng. Lý do của cái biệt danh này là vì tự nhiên đã bố trí gương mặt quá tuổi dậy thì của Dũng một cách vô cùng quân sự, mang tính phòng ngự cao độ - nghĩa là lỗ chỗ, lồi lõm những mụn nhỏ, mụt to và sẹo mụn, hệt như một cái ụ mối thứ thượng hảo hạng. Mà ở chiến trường này, có gì quý báu cho bằng một cái ụ mối hiện ra đâu đó khi đang đánh nhau long trời lở đất. Ụ mối là một công sự thiên nhiên vững chắc, an toàn hơn hết. Vậy nên cái biệt danh này không phải là một sự coi thường, mà trái lại, là một niềm vinh hạnh cho người mang nó. Ụ Mối cũng thừa hiểu điều này, nên nó tỏ ra khoái trá vô cùng.
Quê Ụ Mối là một huyện miền núi tỉnh Nghệ Tĩnh, nên nó đánh bắt thú rừng rất giỏi. Những đêm nằm nhớ nhà, Ụ Mối cứ kể cho tụi Quân nghe về những chuyến đi săn tuyệt thú của nó. Cái giọng trọ trẹ, khó nghe của Ụ Mối hồi mới về đơn vị chả có ai nghe ra nổi, nhưng sau rồi cũng quen dần. Ở đây, tụi Quân gọi mấy đứa quê ở Nghệ An, Hà Tĩnh là con nhà “Bọ”. Bọ nghĩa là bố. Dân Nghệ Tĩnh có lắm thổ ngữ, nên cũng tạo ra nhiều giai thoại vui đáo để. Ví dụ như dưới đây là một trong số đó:
Trung đội vừa nhận được mấy thằng Bọ tân binh,về tới nhà, A trưởng nói:
- Thôi, tụi bây theo thằng A. ra giếng tắm rửa đi rồi về ăn cơm.
Tắm táp xong, mấy chàng lính mới quay về. Bữa cơm đã được dọn lên, tinh tươm hơn ngày thường chút đỉnh để chào mừng đồng đội mới. Mấy tay cũ ngồi quây quần lại bên mâm, bỗng ngạc nhiên khi thấy tụi tân binh vẫn đứng lóng nga lóng ngóng.
- Nè, ngồi xuống ăn cơm đi chứ, tụi bây còn mắc cở gì nữa vậy ? - A trưởng nói.
Mấy đứa khép nép ngồi, còn một thằng vẫn đứng lơ láo.
- Ngồi xuống ăn đi chứ mậy, chờ gì nữa?  
- Dạ dạ... em không có đọi!
- Không đói thì cũng ăn thêm một hai chén cho vui.
- Ơ, em không có đọi...!
- Thôi không đói thì thôi. Lính mà, thấy ăn là cứ nhào vô, không chờ mời mọc nhiều lời, chừng nào đói mầy qua nhà bếp mà ăn nghe.
Tên lính mới nhìn mấy đứa đồng hương, rồi nhìn mấy cái miệng đang nhai nuốt ngồm ngào mà nuốt nước bọt, vừa đói vừa tức mình, vừa sợ sệt không dám nói gì.
”Đọi” thổ ngữ  Nghệ Tĩnh có nghĩa là chén. Nó đã làm rớt cái chén B52 đâu đó trên đường. Thế nhưng do cái giọng địa phương, dấu sắc thành dấu nặng, mà cánh lính miền Nam cứ nghĩ là nó nói không có đói! Đến khi, một thằng đồng hương ních hết chén cơm cuối cùng, đưa cho thằng này. Nó chạy ra bồn nước trước nhà ngoáy mấy cái rồi nhào vào, bới cơm, ăn hùng hục như đói từ ba đời ba kiếp nào trước những cặp mắt ngạc nhiên. A trưởng hỏi:
- Ủa, sao mày nói không đói mà bây giờ ăn thấy kinh vậy?
Một thằng ngập ngừng giải thích, nó chỉ cái chén nói:
- Nó không có đọi, tức là không có cái này.
Cả A ôm bụng cười nghiêng ngửa. A trưởng vừa cười sùng sục, vừa cố thốt:
- Điệu này, tao phải lập một bản tự điển giải thích mấy từ độc đáo của tụi bây rồi.
Dĩ nhiên đây chỉ là giai thoại. Có lẽ nó ra đời từ những ngày chống Mỹ, hay trước đó nữa cũng nên. Nhưng những giai thoại như vậy vẫn hay được nhắc đến để trêu ghẹo những chàng lính “quê choa”.
Quân nhớ tới mấy giai thoại đó và bỗng bật cười hăng hắc. Ụ Mối ngạc nhiên nhìn anh:
- Anh làm gì mà khi không cười một mình vậy?
- Không có gì, tao nhớ mấy chuyện cũ.
Ụ Mối cúi xuống,tiếp tục vót nan. Anh ngâm nga ư  ử trong cổ mấy câu dân ca xứ Nghệ: “Đã thương thì thương cho trót. Đã trục trặc thì trục trặc cho luôn. Chứ  đừng như con thỏ ở đầu truông. Khi vui nó giỡn bóng khi buồn nó đùa trăng...”.   
Quân bước tới góc lều, nơi balô của anh treo trên một cây cột chừa một nhánh chạc hai - một kiểu móc quần áo ba lô đặc trưng “mô đen dã chiến” của cánh lính nhà ta. Anh lấy ba lô xuống, moi cái bọc nylon đựng sổ sách giấy tờ ra, nhét cẩn thận mấy trang bản thảo vào, rồi gói ghém lại, treo lên. Anh chép miệng:
- Thèm thuốc quá, giờ mà được rít mấy hơi thì còn hơn lên thượng giới uống rượu quỳnh tương của Ngọc Hoàng thượng đế!
Lều có tổng cộng bốn chạc hai treo ba lô, nghĩa là có bốn người: Quân, Ụ Mối, Già Hương và Thuận kều. Ở trung đội, Già Hương, trung đội phó hậu cần, là người lớn tuổi nhất - hai mươi chín. Kế đó là Quân - hai mươi bảy. Còn lại thì  sồn sồn một lứa từ đứa nhỏ nhất là mười chín, đến đứa lớn nhất  khoảng hăm mốt, hăm hai. Trung đội có bốn lều, tức là có quân số mười sáu tay súng bộ binh. Quân số thực là hai mươi lăm, nhưng vắng hết bảy người: Ba tay đang lên cơn sốt nặng hồi sắp hành quân cơ động ở lại giữ Cứ, thứ tư là Trung - A trưởng đã hy sinh trong đợt đánh Ampil vừa qua, thêm hai tay bị thương đang nằm viện ở Chúp, và cuối cùng là Phương, B trưởng, đã đào ngũ sau trận đánh chiếm Ampil.
Tạm thời thì Quân nắm quyền chỉ huy trung đội 12 ly bảy. Thật ra, anh đã là B phó quyền B trưởng từ  năm 1982, nhưng đầu 1983, Phương học quân chính ở  Sư về, thay thế anh chỉ huy B. Một con người cơ hội, đầy thủ đoạn, ham hố trèo thật nhanh thật cao trong nấc thang cấp chức, nhưng không bằng năng lực mà bằng mọi mánh khóe.
Nói cho công bằng, Phương cũng là người có tài năng trong việc vạch ra các kế hoạch, phương án huấn luyện hay tác chiến, hay trong phân công công tác. Nhưng Phương là dạng người mồm mép đỡ tay chân, y lại chưa từng qua chiến đấu bao nhiêu, vừa sang K. đánh một hai trận lẻ tẻ đã xin đi học sĩ quan sơ cấp, rồi khi ra trường về đơn vị chưa bao lâu lại gặp ngay đợt chiến dịch lớn nhất, căng nhất trong suốt bốn năm qua. Y bỏ trốn, có khi là điều hay. Một chỉ huy hèn nhát có thể làm anh em đổ máu, hy sinh một cách vô ích và phi lý.
Quân từng có kinh nghiệm xương máu về vấn đề này. Đó là một trận đánh vào cuối mùa khô năm 1981 ở phía Đông huyện Svai Chek. Lúc đó, anh còn là xạ thủ B40 của đại đội 12.
Khi ấy, đại đội đang trên đường về Cứ sau một đợt truy quét mười ngày. Gạo hết, nước hết, nhưng đơn vị chỉ còn cách Cứ khoảng năm cây số, nghĩa là chưa tới một giờ hành quân. Mùa nắng ở Campuchia, cái cần yếu nhất chính là nước uống, vì có khi đơn vị đi hàng chục cây số băng qua những cánh trảng mênh mông của Bát Đom Boong. Trên đầu là mặt trời đỏ rực bừng bừng, dưới chân là lớp đất ruộng khô nẻ săn cứng lại như bê tông, lỏi chỏi những gốc rạ đốt cháy nham nhở còn sót lại. Những con suối, con mương dẫn nước đều chỉ chảy có một mùa - mùa mưa, còn mùa nắng, chúng chỉ là những đường rãnh thấp ngoằn ngoèo, trơ trọi lớp bùn khô. Và trên suốt hàng mấy chục cây số hành quân đó, thỉnh thoảng mới có một cây độc mộc đứng lẻ loi, hoặc một lùm cây lè tè khô héo, không đủ che mát một mái đầu. Hành quân mang vác nặng, mồ hôi ra nhiều nên cũng cần nước để bù đắp lại cho cơ thể. Những tay lính cũ cẩn trọng lúc nào hành quân chiến đấu cũng thủ sẵn một bình toong chí cốt trong ba lô, chỉ khi chết sống mới dùng đến.
Nhưng lần ấy, C đã về gần đến Cứ, và ở chặng giải lao cuối cùng trước đó, mọi người, dù là người lo xa nhất, cũng đều dốc hết nước vào bụng cho đã thèm. Người không uống mấy thì cũng nhường chỗ nước còn lại của mình cho mấy đứa trẻ hơn, đã hết nước từ đời nảo đời nao. Khi sắp đến một con suối một mùa lớn giữa trảng, chợt đại đội bị phục kích bất ngờ. Khoảng hơn tám mươi tay súng địch đã phục sẵn dưới lòng suối, ở một khúc vòng cung hiễm trỡ. Đại đội nhanh chóng tản ra phản kích. Nhưng ai cũng vừa mệt, vừa đói, lại khổ nhất là khát khô cả cổ, mà cuộc đọ súng cứ giằng co. Địch đã chuẩn bị tinh thần, vật chất đầy đủ để kềm chân hòng tiêu diệt đơn vị của ta theo chiến thuật dĩ dật đãi lao. Và chúng quyết không để cho tụi anh thoát khỏi gọng kềm. C trưởng khi ấy là Vụ, người Thanh Hoá, rất vui tính nhưng cũng đánh nhau rất cừ. Anh vẫn thản nhiên, bình tỉnh xếp đặt kế hoạch rút lui, sau đó anh cho liên lạc bò lên từng bộ phận triển khai kế hoạch. C sẽ cầm cự đến chiều, chờ khi mặt trời sụp xuống. Khi ấy lợi dụng bóng đêm sẽ từ từ rút. Hỏa lực gồm khẩu cối sáu và khẩu đại liên sẽ rút ra trước đến vị trí an toàn rồi phát hỏa kềm chế cho số còn lại rút ra. Trung  đội 4 rút sau cùng theo đội hình tổ tam tam. Kế hoạch lẽ ra đã tiến hành hoàn hảo, nếu không vì sự hèn nhát của Dung B trưởng B5. Thay vì chờ phối hợp rút một cách bình tỉnh, thong thả, an toàn, anh quá sợ sẽ bị cầm chân, và chết khát nếu không thoát được, nên khi liên lạc vừa mới kịp phổ biến kế hoạch cho các A trực thuộc và B4, Dung đã ra lệnh cho B5 liều mạng tháo chạy về hướng Tây, hướng có Cứ của tiểu đoàn hai, không chờ lệnh của C trưởng Vụ. Số lính B5 mở đường máu thoát ra khỏi tầm hỏa lực địch hôm đó chỉ còn vỏn vẹn hơn một phần ba. Hai phần ba chết hoặc bị thương nặng, mất máu quá nhiều, nên sau đó cũng chết khi có chi viện của D2 tới.
Lần bị vây hãm ấy đã ăn sâu vào ký ức Quân như một vết hằn, vì trong số lính hy sinh có Khoa, có Đạt, là những bạn vô cùng thân thiết của anh...
Từ ngoài căn lều, cách khoảng hơn trăm mét, chợt nghe thấy tiếng kêu réo ơi ới của Thuận kều:
- Anh Quân ơi, Ụ Mối ơi, qua nhà bếp mau đi... Có đồ nhậu rồi.
Ụ Mối ló đầu ra, nghiêng ngó, rồi thụt vô bảo Quân:
- Em thấy thằng Thuận xách con gì như con vịt ấy, anh Quân ạ!
- Vậy hả, chắc hai tay này ra hồ bắn được vịt trời rồi.
Ụ Mối lầm bầm:
- Cái hồ chết tiệt này đúng là vô duyên vô dụng, em nỏ bao giờ thấy có chim cò gì, cá thì nhỏ chút bằng ngón út, đầy xương, mà cũng nỏ được bao nhiêu.
Quân cười xòa:
- Thôi, tại mày chưa gặp dịp đó. Chứ  Già Hương hay thằng Thuận làm gì bá phát bá trúng như mày. Mày biết tại sao hồ không có cá, mà cũng không có chim chóc gì không? Tụi Trung đoàn tám ở đây cứ đánh trái hà rầm, cá to nào còn với tụi nó. Với lại vừa rồi mình đánh chiếm Ampil, đạn pháo ầm ầm, chim cò mất hồn mất vía trốn sạch hết rồi. Con vịt trời này chắc là loại thương phế binh hạng nặng nên mới còn lề mề ở lại đây chờ vô nồi đó Ụ Mối ơi.
Quân và Ụ Mối bước vào nhà bếp. Mọi người đã quân quần ngồi bên những bát nước nóng bốc khói. Bình và Phái điển đang loay hoay nhổ lông con vịt. Thuận kều quay sang Quân, nói với vẻ quan trọng:
- Anh Quân, lúc nãy về ngang qua Tiểu đoàn bộ, em gặp thằng Kiên liên lạc. Nó báo cho em một chuyện. Anh biết gì không? - Thuận ngưng lại, ỡm ờ.
- Thì mày cứ nói đi! Mày lúc nào cũng làm ra vẻ quan trọng những chuyện nhỏ như cái móng tay.- Tiến cóc bực mình quát Thuận.
-  B mình sắp có thêm một tay súng, tay này nghe nói học hạ sĩ quan ở bên nước mới qua. Chắc hắn về đây thay cho anh Trung đó.
- Vậy à! - Quân bình thản nói. Anh là người trầm tỉnh, kín đáo, vui buồn ít khi lộ ra mặt. Thật ra, cái tin này cũng làm anh rất nôn nao như hầu hết mọi người khác. Ở  chiến trường, có thêm được một người là rất quí, vì  quân số luôn luôn bị hao hụt, mất mát do  bị thương, bị bệnh. Có thêm một người là bớt đi một phần gánh nặng trong công tác, chiến đấu, và thêm một niềm vui. Chỉ mong sao nó không phải là một thằng Phương thứ  hai - Quân thầm mong ước, anh nhìn con vịt, hỏi Già Hương:
- Anh hay Thuận bắn được vậy? Con này coi bộ cũng cỡ tám chục tuổi rồi! Tha hồ mà nhai đó nghe!
- Tao bắn. Kể cũng buồn cười. Đi mãi mà chẳng thấy thứ gì ăn được, tao nản quá chừng, đã tính quay về. Thằng Thuận cứ nằn nì bảo tao  lên hồ họa may kiếm chác được gì. Thế rồi, lên đó, thấy con vịt này đang lặc lừ  trên bờ  hồ. Nó bị thương ở cánh, bay không nổi. Chắc là bị ai bắn hay trúng mảnh pháo lúc đánh nhau.
- Em bảo Già Hương ráng bắt sống nó để về lấy tiết đánh tiết canh mà ổng không nghe. Ổng sợ bị sẩy mất uổng nên tỉa luôn. Chà! Nhắc tới tiết canh mà phát thèm. Phải chi có gừng, cháo vịt chan nước mắm gừng, trời mưa này ăn đúng là nhức nhối!
Mọi người im lặng. Mưa lại bắt đầu rơi tí tách bên ngoài. Câu ước ao  của Thuận chợt gợi lên một nỗi nhớ không tên về  quê hương. Nỗi nhớ  thơm mùi  cốm dẹp mùa lúa mới, thơm mùi thịt chuột đồng khìa xả ớt mùa nước nổi, thơm mùi khói rạ đốt đồng những buổi  chiều vàng...
Chương 5
Con Chíp thật là nghịch ngợm. Nó cứ  mổ mổ vào môi Huy làm anh không sao ngủ được yên. Huy bực mình tóm nó, co ngón tay ký mấy cái nhẹ vào cái đầu bướng bỉnh. Khi Huy buông tay, nó bay vù ra đậu trên cành cây nghiêng xuống trước cửa lều, chẩu đôi mỏ nhọn nguyền rủa anh: “Cút mẹ mày đi! Cút mẹ mày đi!”
Ụ  Mối toàn dạy cho tên đệ tử của hắn những câu linh tinh, bậy bạ, và con sáo này cứ cố tình áp dụng bừa bãi tùy hứng, chẳng ăn khớp hoàn cảnh tí nào. Có khi mọi người đang ngồi vui vẻ trò chuyện, nó chợt kêu lên, theo cái khẩu âm trọ trẹ nặng nề của Ụ Mối: “Tối rồi ngủ đi! Tối rồi ngủ đi!” Có khi, giữa buổi trưa vắng lặng, nó buồn tình réo mãi liên hồi: ”Nghỉ cho mát! Nghỉ cho mát! Nghỉ cho mát!...” Một lần, tiểu đoàn trưởng Văn ghé trung đội, nó oang oang thét vào mặt anh: “Mê mai cầm pê, mê mai cầm pê! Bà goá hàng trăm! Bà goá hàng trăm!  Chơi mãi quên về, chơi mãi quên về!..”
Huy thường quần mấy bụi cỏ bắt châu chấu, cào cào cho con Chíp, nên nó rất khoái anh. Trừ Ụ Mối, chỉ có Huy là có thể kêu nó đậu xuống tay, hay huýt sáo rủ nó đi theo vào rừng.          
Có con Chíp, nhiều khi cũng vui vui, khuây khỏa, nhưng nhiều khi mọi người bực phát điên lên với nó. Nó tha mấy cái muỗng mà ai đó quên nhét vào túi cóc ra tận ngoài trảng cỏ, quăng ở đó. Nó mổ vào cái lon đựng thuốc rê, lôi từng nhúm thuốc ra, bỏ vương vải trên nền đất, rồi nhảy lên thành lon nhún nhún, cho đến khi cái lon nghiêng úp lại, thuốc, giấy đổ tung tóe. Lúc đó, như đã hoàn thành một kỳ công ghê gớm, cu cậu bay lên cây ưỡn ngực hót lên một tràng đắc thắng. 
Nhưng buồn cười nhất, là nó cũng biết trả đũa ra trò. Trong trung đội, nó ghét nhất là Phái điển, vì anh hay đuổi bắt nó, vung cành cây quất dọa nó những khi nó phá nghịch. Một lần, canh lúc Phái đang ngủ, nó len lén bay tới, nghiêng người thả một bãi phân vào mặt anh với sự chính xác của một phi công tác xạ bậc thầy. Lần ấy, Phái điển nổi khùng, suýt đập chết nó nếu Ụ Mối không kịp thời ngăn anh lại. Từ đó, Phái không đá động gì đến con Chíp nữa, mặc cho nó quậy phá cỡ nào, anh cũng cố bịt mắt, lấp tai làm ngơ đi. Kể ra cũng tội nghiệp cho Phái, đành phải nhịn thua một con chim nhãi nhép nhưng vô cùng láo xược.
Huy vươn vai, rồi ngồi dậy. Nắng bên ngoài lấp loáng qua kẻ lá, đổ xuống mặt đất những đốm hoa loang lổ nhỏ to. Từ sau hôm Huy về trung đội, trời đã dứt hẳn mưa. Cho đến hôm nay thì  những gì một tuần mưa dầm mang lại đã biến đi không còn dấu vết gì. Mấy bồn nước lại chỉ còn lưng lưng nước tải từ hồ về. Mặt cát lại khô rang, nóng bỏng. Không khí lại oi nồng. Chỉ có những hàng cây là còn giữ lại được phần nào nét xanh mát của mưa, với những chùm lộc non biên biếc vừa mới nhú.
Ụ Mối nằm xoay trở nãy giờ mà không dỗ giấc được cũng lồm cồm ngồi lên, bảo Huy:
- Tụi mình đi đào dông đi Huy.
Huy gật đầu, bước tới góc lều, nơi dựng xẻng cuốc cầm lấy hai cái, vác lên vai. Con Chíp từ ngoài lượn vào, bay vòng vòng quanh Ụ Mối kêu léo nhéo. Ụ Mối giơ tay lên đe nó:
- Mi chuyên quấy giấc tụi tao. Có bữa ông cáu tiết lên đem xáo măng bây giờ.
- Đau lòng cò con! Đau lòng cò con! - Con Chíp quàng quạc kêu lên. Ụ Mối trợn mắt nhìn nó, tự hỏi thầm: “Trời đất! Con quái này học ở đâu vậy? Làm như nó hiểu được tiếng  người!”
Huy nhìn vẻ mặt ngơ ngác của Ụ Mối, bật cười. Anh giải thích với hắn:
- Không phải nó biết ông nói cái quái gì đâu. Hôm qua, tôi vừa cho nó ăn vừa đọc mấy câu “ Con cò mà đi ăn đêm...” Bây giờ, nó nghe ông nói xáo măng, nên nó nhớ tới câu kế, đọc tiếp cho ông nghe đó!
Ụ Mối vỡ lẽ, gật gù cười khà khà, rồi hắn bước ra cái bồn, múc một chút nước đổ vào cái khăn, đưa lên lau bộ mặt pháo đài kiên cố của mình.   
Hai người đi về hướng đông. Hướng này bọn Huy chưa khai thác nhiều, có lẽ “tài nguyên - thực phẩm” còn phong phú. Bãi cát ở sau một khoảng rừng thưa, không có cây to mà chỉ lơ thơ những bụi cây cao ngang đầu người, đôi chỗ có cả những bụi xương rồng to lớn, lởm chởm những gai. Nó kéo dài khoảng năm sáu trăm mét, rồi băng qua một ngọn đồi thấp đầy đá cuội, luồn vào những hàng cây đồ sộ, nơi bắt đầu của cánh rừng già.
Hang dông có đáy nằm cách mặt đất khoảng nửa mét đến một mét, tùy theo kích thước to nhỏ của “chủ nhân”, và thường là đâm xéo từ trên xuống một quảng, rồi bẻ ngang song song với mặt đất theo dạng chữ L.
Đào bắt dông không khó. Điều chủ yếu là phải xem dấu chân ở miệng hang để khỏi phí công vô ích. Mấy hôm trước chưa có kinh nghiệm, cứ nhìn thấy hang là Huy hùng hục đào, rốt cuộc chỉ là một cái hang trống, hoặc có những sinh vật khác đang trú ngụ; đôi lúc là một con cóc già xụ, to kềnh; đôi lúc là một chú bò cạp núi khổng lồ, đỏ rực như than đang cháy, giơ hai chiếc càng đồ sộ lên thủ thế. Ụ Mối giảng giải với Huy:
- Ông phải nhìn thật kỷ xem miệng hang nào có cát xước thành những vệt nhỏ - đó là vết chân dông, thì đào mới có. Hang nào mà miệng trơn nhẳn thín nỏ có gì đâu.
Có khi, đào tới cuối hang nhưng chận không kịp, chú dông nhào lên cong đuôi phi sang một cái hang khác gần đó chui xuống, phải làm lại từ đầu. Huy rút kinh nghiệm nên thủ sẵn một cành cây có nhiều nhánh nhỏ. Con dông nào vừa xuất hiện tính chạy là anh quất ngay, xem ra rất có hiệu quả.
Đi vòng vòng một lúc, cả hai đã bắt được sáu con to, khoảng hai tấc đến hai tấc rưởi không kể cái đuôi dài. Ụ Mối nói:
- Thôi, bao nhiêu đây đủ cho bữa ni rồi. Để dành đó cho mấy ngày sau.
Huy kéo Ụ Mối tới ngồi nghỉ dưới bóng một lùm cây. Anh móc trong túi cái bao đựng thuốc rê ra, vấn một điếu rồi đưa sang Ụ  Mối. Hôm trước, trung đội tải theo xe trung đoàn về cứ, tụi anh đã nhờ họ mua giùm ít thuốc rê và trà. Cả trung đội được một phen hút thuốc uống trà thỏa thuê, bù lại những ngày thèm nhớ.
Huy khoan khoái rít một hơi thuốc thật sâu, rồi chầm chậm nhả khói ra. Anh đưa mắt nhìn lơ mơ về phía ngọn đồi. Dưới ánh nắng, những hòn cuội trắng, đen, xam xám đủ màu đủ cỡ  óng a óng ánh như những hòn ngọc quí. Cả ngọn đồi rực rỡ, sáng loá lên. Huy hỏi Ụ Mối:
- Anh Quân lính bảy chín sao bây giờ vẫn chưa ra quân vậy hả Dũng?     
- Ông chưa biết sao, anh ấy đâu còn họ hàng thân thuộc gì nữa mà về. Trước khi vào lính, anh Quân ở trong chùa... 
Ụ Mối  duỗi hai chân ra, kể cho Huy nghe về cuộc đời Quân.
Quân là con một của hai vợ chồng làm nghề buôn chuyến. Trong một chuyến từ Huế trở vào Sài Gòn, chiếc xe bị lật nhào rơi xuống vực. Cả hai người đều chết tại chỗ. Năm dó, Quân lên bốn, do một người vú nuôi mẹ anh thuê chăm sóc. Sau tai nạn, bà ngoại Quân đón anh về nuôi. Nhưng bốn năm sau đó, bà cũng bị bệnh mất đi. Tài sản của ba mẹ và bà đều bị những ông cậu, bà dì họ giành giật, chia chác tiêu tán hết, nhưng lại chẳng ai buồn nhớ tới việc nuôi nấng, dạy dỗ đứa trẻ tám tuổi bất hạnh. Nói chính xác hơn, họ rất quan tâm đến chuyện đó, nhưng ai cũng thành thật tin rằng đó là trách nhiệm, nghĩa vụ của một người khác chứ không phải của mình. Họ đun đẩy qua lại, trách móc nhau, cải cọ nhau, rồi chửi rủa nhau ngày này qua ngày khác về chuyện nuôi nấng đứa nhỏ, dạy dỗ cho nó nên người, nhưng lại lờ đi chuyện đứa nhỏ cần một bữa ăn, cần một sự lo lắng, thương yêu bằng hành động.
Quân lần mò về thành phố, đi lang thang xin ăn một thời gian. Rồi một bữa anh bị mắc mưa, cảm sốt nằm mê man trước  cổng một ngôi chùa nhỏ. Trong chùa, chỉ có một vị sư già trụ trì và một chú tiểu lớn hơn Quân khoảng năm sáu tuổi. Họ bắt gặp anh đang nằm co quắp, ôm anh vào săn sóc, chữa bệnh. Sau đó, vị sư già cho Quân ở lại chùa, nuôi dạy anh cho đến lúc trưởng thành. Quân được nhà sư cho đi học, anh đã có bằng tú tài hai khi Sài Gòn được giải phóng. Sau đó, anh thi đậu vào đại học, nhưng đang học dở năm thứ hai, thứ ba gì đó, thì nhà sư mất. Quân buồn lắm. Anh thương mến vị sư già như cha đẻ. Thêm nữa lúc ấy chiến tranh đang nổ ra ở biên giới, anh liền tình nguyện vào lính, và kể từ đó coi đơn vị như mái nhà của mình.  
Huy ngồi im lắng nghe Ụ Mối kể chuyện.
Ngoài kia, ánh nắng đã bắt đầu dịu dần, phai đi trên những ngọn cỏ tranh héo vàng bên tay phải. Ở rừng bóng chiều ụp xuống rất nhanh. Thường thường, vừa mới đó nắng còn chói chang, nhưng chỉ giây lát sau thôi, những hàng cây đã mờ đi, chìm trong làn sáng mờ mờ vàng nhạt; và ở phía trong sâu hơn, chỉ còn thấy những khoảng tối âm u, thăm thẳm. Mấy con sóc bay và bọn dơi quạ bắt đầu tung ra lượn lờ quanh quẩn để săn mồi.
Không ngờ cuộc đời của anh Quân  buồn như vậy - Huy thầm nghĩ.
Qua những ngày sống ở đây, Huy chỉ nhận thấy Quân là một người trầm ngâm, ít nói. Nhưng đôi lúc, anh cũng đùa giỡn, kể chuyện tiếu lâm rất nhộn. Anh không hề làm ra vẻ khó khăn, nghiêm khắc, thế mà mọi người trong trung đội ai cũng có vẻ nể trọng, làm theo răm rắp những lời anh nói, kể cả người lớn tuổi nhất  là Già Hương. Mọi người còn có vẻ rất quí mến, gần gũi với anh, giữa họ không hề có một khoảng cách nào. Huy thấy Quân có cái gì đó thật gần, thật giống với mình. Ở chỗ nào, Huy không xác định được, nhưng anh cảm nhận được nó, dù suốt nửa tháng qua, anh cũng chưa bao giờ có một cuộc chuyện trò, tâm sự nào thật sự với Quân, ngoài những lời trao đổi thông thường.
- Lần đó, tôi nhận được thư nhà báo tin mẹ tôi bị bệnh nặng vừa mới chết. Tôi nằm khóc cả ngày, bỏ ăn bỏ uống. Anh Quân đã an ủi tôi, rồi anh kể cho tôi nghe những chuyện này...- Ụ Mối nói thêm - Thôi về đi Huy, chiều rồi đó.
Hai người về tới nơi,  cả trung đội cũng đang tập trung lại thành mấy nhóm bên ngoài căn lều nấu bếp.
Ngay trước cửa lều là nhóm sáu người: Phái điển, Trung gấu, Thiện, Tiến cóc, Bình, Hưng. Bên tay trái là nhóm Mợi, Lý, Thái, Phú, Trọng, Cường. Nhóm thứ ba là Quân, Thuận kều, Già Hương. Mỗi nhóm đều ngồi trước một thau cơm, và khẩu phần thức ăn cho sáu người.
Ụ Mối nói:
- Chờ thêm tí nữa các đồng chí thân yêu. Mỗi mâm được phân phối hai con “gà đất”. Nói đoạn, anh bước vào bếp để nướng dông. Chỉ nhoáng sau, mùi thịt nướng đã bốc lên thơm nhức mũi. Vài phút sau, Ụ Mối cầm mấy con dông đã chín, lột bỏ lớp vảy ngoài, để lộ lớp thịt trắng phao, trông hệt như thịt cá lóc nướng ra, chia cho mỗi nhóm hai con. Rồi anh ngồi xuống nhóm của mình.
Thức ăn buổi chiều gồm có một thau canh lá rừng chua, một dĩa muối trộn ớt khô giã nhuyển, một dĩa thịt heo đóng hộp, giống hệt như buổi trưa, và cả mấy ngày gần đây. Mọi người ăn thật ngon miệng, dù chẳng có gì để gọi là ngon lành, trừ món thịt dông nướng chấm muối ớt. Nhưng hai con xé ra có được là bao, mỗi người chỉ nhón một miếng là hết sạch.
Dạo vừa đánh xong Ampil, trung đội còn lên đó kiếm được chút rau dền, cải, hay bầu bí, trái đu đủ non mà dân tị nạn trong cứ trồng về nấu canh. Rau chỉ có hạn, mà biết bao nhiêu đơn vị cùng tập trung lên hái, nên chỉ vài ngày sau là chẳng còn một cái gốc rau làm thuốc. Trọng có sáng kiến chặt mấy cái đọt đu đủ về cắt ra mỏng, rửa thật kỷ rồi ngâm muối cho tan mủ, sau đó đem nấu canh. Nhưng sau khi ăn món đó, hầu như ai cũng bị đau bụng một trận nên thân,không ai dám nhắc đến món canh đọt đu đủ nữa. Liên tiếp cả tuần, canh chỉ là nước sôi cho tí bột ngọt và muối vào nêm để dễ nuốt trôi cơm. Nhưng thiếu chất xanh, cả bọn bị táo bón gần chết. May sao sau đó Già Hương tình cờ phát hiện được một thứ cây rừng có lá giống như lá mai nhưng mỏng hơn, có vị chua. Anh nấu thử một ít, tự ăn một mình thí nghiệm, rồi thấy bình an vô sự nên thông báo cho cả bọn đi lùng món rau trời cho này về nấu canh suốt từ ấy đến nay. May một cái nữa là khu rừng trước mặt mọc đầy dẫy loại cây này, nên không còn lo thiếu canh nữa. Có điều, lúc đầu ăn cũng khá ngon, nhưng ròng rã mấy tuần, cứ một món canh vừa chua vừa chát, ai nấy đều ngán tới cổ.    
Trung đội cơm nước xong xuôi thì trời cũng đã nhá nhem tối. Quân tập hợp cả trung đội lại  hội ý, phân công gác, xong xuôi phần làm việc, anh cười cười bảo:
- Này anh em, tối nay là mười bốn trăng tròn. Chúng ta sẽ pha trà ngắm trăng. Đề nghị anh Mợi chuẩn bị mấy “bộ phim” mới hấp dẫn tối nay “quay” cho anh em thưởng thức. Thôi, trung đội giải tán.
Mọi người đứng lên, ai về lều nấy. Ở hướng đông, vầng trăng mười bốn to như một chiếc mâm vàng sáng rỡ đã nhú ra.
Trong lính, những “nghệ sĩ quay phim” là những người rất mực được anh em sủng ái và chiều chuộng. Anh ta chỉ việc ngồi xếp bằng chễm chệ, mở mồm ra để tường thuật lại những gì mình đã từng đọc được, xem được một cách ung dung.
Thuốc hút ư? Anh em đã  vấn sẵn cho anh mấy điếu to kềnh, chỉ cần cất tiếng là lập tức có người đốt lên, đưa tận miệng cho anh, tha hồ mà rít.  
Trà ư? Sẽ có người chuyên từ  cái ca inox ra loại trà hãm nước nhất, còn bốc khói, xanh biếc, đậm đặc ngon lành, và đưa đến tận tay.
Nếu anh còn chưa vừa ý, còn muốn làm eo làm nũng, bằng cách vặn cổ, uốn lưng than mỏi cổ, mỏi vai, ngay lập tức sẽ có hai tay đấm bóp “đẳng cấp quốc tế” thay phiên nhau đấm lưng, xoa bóp cho anh với đủ bài đủ bản. Những tay đạt được trình độ đại cao thủ trong nghề quay phim còn được thường xuyên hưởng cái vinh dự  là khách mời đặc biệt trong những cuộc liên hoan tiệc tùng ngọt, mặn của các trung đội, thậm chí đại đội lân cận.
Tuy nhiên, “nghề chơi cũng lắm công phu”! Chẳng phải dễ gì mà một bước lên ngay cái chức vua không ngai như vậy.
Trước hết, anh phải là một tay biết nhiều hiểu rộng, là bậc làu thông các tác phẩm nghệ thuật lừng danh kim cổ. Thứ hai, anh phải có một trí nhớ hoạt động một cách bền bỉ và liên tục trong một câu chuyện “ma-ra-tông”, có khi phải kể suốt mấy đêm liền mới hết. Thứ  ba, anh phải có một năng khiếu bẩm sinh về nghệ thuật kể chuyện, nghĩa là anh phải biết cách làm cho câu chuyện trở nên ly kỳ, hấp dẫn lên gấp bội, phải thêm thắt, phịa ra bằng một sự ngẫu hứng thiên tài những tình tiết nhỏ to, mà chẳng lần nào giống lần nào một câu chuyện; biết ngưng lại đúng lúc một câu chuyện đang lên đến điểm nút, cao trào, để người nghe phải nôn nóng, thòm thèm muốn nghe kể tiếp ngay, dù tình thế khách quan bắt buộc câu chuyện phải tạm dừng ở đó.
Vì những yêu cầu khắt khe như vậy, số lượng những nhà kể chuyện bậc thầy càng trở nên hạn chế, trong khi giá trị của họ càng được nâng cao.
Trung đội được cái diễm phúc vô cùng là có một người như vậy, làm rạng rỡ cả tiếng tăm chung, làm thơm lây cho những anh em khác. Người đó chính là Mợi lác.
Mợi là lính 83, dân Quận 1, khu chợ Cầu Ông Lãnh. Đã là lính, không anh nào tránh khỏi cái món lác. Bởi vậy, người ta mới có cơ sở để tạo ra một danh từ  kép đầy hình tượng: “lính lác”. Lính phải có lác, cũng như sông hồ phải có cá, rừng phải có muông chim, điều đó gần như trở thành qui luật! Chính bản thân Huy, hồi còn ở Quang Trung cũng đã bị lác, dù rất vệ sinh, kỷ lưỡng, có ngày tắm tới ba lần ! Không riêng gì anh, cả đại đội lúc bấy giờ đều như vậy. Có lẽ, một tay nào đó có mầm mống vi nấm lác trên người đã ẩu tả nhảy vào hồ chứa nước, làm lây nhiễm cả tập thể anh em. Báo hại cứ chiều chiều, sau giờ cơm, toàn đại đội đều tiến hành cuộc “tổng tấn công tiêu diệt lác”! Mà thuốc thì chả có gì ngoài nước Iode, hoặc cồn 90o. Chứng lác có một đặc điểm là thường tập trung ngay tại “cơ quan đầu não”, “bộ tổng hành dinh” của quí vị mày râu. Vậy nên cái quang cảnh lúc ấy thật là náo nhiệt. Mọi người đồng loạt lúi húi thoa thoa, xức xức, đồng loạt rú lên những tiếng thét xung phong, và đồng loạt nhảy disco, hay giật soul cho nguôi cơn nóng rát. 
Dù sao, lác không phải là một chứng nan y hay khó trị, nên sớm muộn gì nó cũng bị tiêu diệt, trừ những ngoại lệ vô cùng cá biệt, hiếm hoi, ví dụ như trường hợp của Mợi lác. Lác ở anh lan tràn, bành trướng trên toàn bộ mọi bề mặt có lỗ chân lông! Và, hình như nó rất quyến luyến anh, nên nếu anh trị được hết ở chỗ này, thì nó lại chuyển hộ khẩu sang một “địa phương” lân cận. Cuối cùng, Mợi kiệt sức, đầu hàng trong cuộc chiến không cân sức này, anh bắt tay với lác, “chung sống hòa bình” với nó. Anh chỉ còn khổ một cái là phải cẩn thận, dè dặt để tránh cho lác khỏi buồn tình làm một chuyến ngao du qua các cơ thể khác...
Đêm. Cả trung đội ngồi thành một vòng tròn trên mấy chiếc chiếu.
Trăng đã lên cao gần giữa đỉnh đầu, tỏa xuống một ánh sáng vằng vặc, dịu dàng. Giải cát dưới ánh trăng mịn màng một sắc trắng lạ lùng, huyền ảo. Dường như nó không còn là một vật thể  khô khan, thô thiển và làm mắt người ta nhức nhối như dưới ánh mặt trời. Giải cát giờ đây mềm mại, mỏng manh như một chiếc khăn lụa đang nhấp nhô phấp phới, uốn lượn qua những gò, những lũng, những đồi. Những cây cổ thụ lẻ loi, những lùm bụi thấp rải rác, và những hàng cây ở phía xa hiện lên dưới ánh trăng có vẻ hư ảo mơ hồ,  như trong một bức tranh thủy mặc. Trên những thân cây mọc gần lều, ở những chỗ có rêu hay dịa y bám sáng lên lấp lánh, những chiếc lá như được tráng một lớp bạc mỏng. Các chỗ khuất mà ánh trăng không lọt tới tối và sậm màu hơn, nhưng cũng phát ra một làn phản quang yếu ớt.
Bao giờ ngồi dưới bóng trăng, Huy cũng thấy bình an, thanh thản dù là đang rất buồn lo một điều gì đó. Ánh trăng hình như có một nguồn sức mạnh kỳ diệu lạ thường, nó vỗ về, xoa dịu, và nâng hồn người đến một cõi cao xa, hòa vào hồn đất trời, cây cỏ.
Ánh trăng vằng vặc  giúp cho người lính gác đêm có tầm quan sát rộng, dễ dàng phát hiện mọi hiện tượng diễn ra trong tầm mắt, giúp cho những đêm xa nhà ngắn lại, vui hơn, dễ chịu hơn. Anh em ngồi quây quần tán gẫu, nghe kể chuyện, hoặc cùng nhau nhảy lăm thôn, khiêu vũ đôi những điệu slow, tango, bebop dìu dặt, hay điệu cha cha cha, valse náo nức rộn ràng... Có lẽ vì vậy, những đêm có trăng với lính là những đêm tuyệt diệu.
Mợi đang kể đến một đoạn hấp dẫn ở phần đầu truyện Đồi gió hú. Mọi người ngồi im lắng nghe. Thỉnh thoảng, chỉ có tiếng một cơn gió cuốn qua lay động lá cành. Giọng kể của Mợi sôi nổi, lôi cuốn làm ai cũng quên đi cả giờ giấc. Bỗng từ xa, cách khoảng ba trăm mét về hướng Nam, có ánh đèn pin loang loáng tiến dần về lều trung đội. Trọng đang ngồi gác bên ụ súng quát lên:     
- Ai?
- Tâm cối đây mà! - Bóng ngưòi đang đi tới hét lên đáp, và tắt đèn pin.    
Tâm đã tới gần hơn, đủ để có thể nhận diện được dưới ánh trăng. Anh nói một cách ồn ào:
- Chà, 12 ly cũng đang thưởng trăng phải không. Bên Cối cũng ngồi chơi nãy giờ. Ông  Đạt nhớ anh Mợi, bảo tôi qua đây mời anh qua bển chơi, quay vài khúc. Tôi đã biết thế nào anh cũng có sô ở đây rồi, mà nói ổng không nghe, cứ một hai bảo tôi cứ đi bằng được. Thôi, giờ cho ngồi đây tham dự với mấy anh luôn nghe.
Phái điển và Trung gấu ngồi nhích qua chừa chỗ cho Tâm. Cả ba là đồng hương Quận Tân Bình với nhau, cùng sang đây một lượt. Tâm rất nghiền nghe kể chuyện. Anh là một trong những người hâm mộ Mợi còn hơn cả nhỏ bồ ruột của mình. Có lần, Mợi sang B Cối kể chuyện, trung đội chả ai còn giấy, Tâm lấy cả lá thư  nhận được lúc chiều của nhỏ bồ, mà anh cũng chỉ mới đọc lướt qua, xé ra vấn thuốc cho Mợi.
Một lúc sau, Trung gấu đột nhiên đứng dậy. Nét mặt Trung có vẻ kỳ lạ, bồn chồn. Anh im lặng bước khỏi vòng tròn. Mợi ngưng kể, nhìn chằm chặp Trung. Thường ngày, Trung rất thích nghe chuyện, không bao giờ anh bỏ qua một chuyện ngắn chuyện dài nào. Trung đi chầm chậm về phía ụ gác, nhưng còn cách chỗ Trọng khoảng vài chục mét thì  dừng lại, ngồi bệt xuống đất. Dáng ngồi của Trung dưới ánh trăng trông thật buồn bã, cô đơn.
Phái điển làu bàu:
- Chắc là nó lại nhớ anh Trung liều, lại nghĩ ngợi vẩn vơ!
Mọi người im lặng trong giây lát.
Phát điển nhóng người về phía Quân, nói tiếp:
- Mấy hôm nay nó có vẻ bất thường lắm anh Quân ! Giống như khùng khùng vậy.
Quân nhíu mày. Anh trầm ngâm một lúc, rồi nói :
- Anh em nên chú ý quan sát Trung, gần gũi động viên nó. Nhất là Phái đó, nghe không.
Mọi người lại im lặng. Rồi Mợi cất tiếng:
- Thôi, ta tiếp tục câu chuyện... 
Đêm trôi nhanh. Vầng trăng đã hơi chếch trên cao về hướng Tây. Những vì sao khuất dần, chỉ còn lại những ngôi sáng nhất. Tiếng gà rừng eo óc gáy ở đâu đó rất xa vọng đến mơ hồ.
Câu chuyện ngày càng thu hút hơn qua giọng kể lúc bổng lúc trầm của Mợi. Đến một lúc, khi Mợi cầm chén trà nhấp một ngụm lấy giọng, Quân nói:
- Thôi, Mợi kể hết đoạn này nữa là giải tán. Chúng ta còn phải nghỉ ngơi để mai bắt đầu tập với các đại đội chiến thuật đánh phối hợp với tăng.
Chương 6
Sáng hôm sau, tình trạng thần kinh của Trung gấu có vẻ xấu đi. Căn bệnh đã bắt đầu  bộc phát. Khi đó, mọi người đã ra ngoài luyện tập. Ở  lều chỉ còn lại hai người. Phái lo chuẩn bị cơm nước, còn Trung gấu ngồi phụ giúp kế bên. Đang cắm cúi nhặt thóc, Trung bỗng bật khóc to nức nở. Phái điển quay lại, buồn bã và lo lắng nhìn anh.
Trung đội dạo trước có hai Trung: Trung liều A trưởng và Trung gấu, xạ thủ số hai đại liên. Trung liều đã hy sinh trong trận vừa qua, để lại nỗi đau xót, mất mát lớn lao cho mọi anh em, nhất là đối với Trung gấu.
Hồi mới nhận tân binh về, A trưởng Trung liều đã chú ý đến cái thằng lùn lùn, vạm vỡ, vai rộng, dáng đi lùi lũi như một con gấu, nhưng vẻ mặt lại hiền khô, khờ khạo, đôi mắt nâu buồn buồn không hợp chút nào với khuôn mặt to vuông vắn chữ điền. Tự dưng, anh bỗng thấy thương nó như  đứa em ruột của mình. Trung liều có một thằng em trai nhưng đã bị bệnh chết năm nó lên mười tuổi. Một lần, khi hai người nằm gác chân lên nhau trò chuyện, Trung liều đã kể cho Trung gấu nghe thời thơ ấu buồn tủi cơ cực của mình. Hai gã Trung chỉ trong vòng vài ngày đã gắn bó với nhau còn hơn anh em ruột thịt. Trung lớn lo cho Trung nhỏ từng chút một, dạy bảo, chỉ dẫn, khuyên nhủ, và cả an ủi những lúc cậu này buồn.
Trung gấu chỉ có cái tướng là táo tợn, đáng gờm, còn vẻ mặt và tính tình thì lại hiền và nhút nhát. Hồi chưa vào lính, Trung gấu làm ở một ga-ra sửa chữa ô-tô. Anh vốn là dân Phan Thiết, gia đình rất nghèo. Năm Trung mười lăm tuổi thi rớt lớp mười, chưa biết làm sao thì một bà dì độc thân ở Sài Gòn ra chơi, rồi khuyên ba má Trung cho anh vào Thành phố để kiếm chuyện làm ăn. Bà làm giấy nhận Trung làm con nuôi và chuyển hộ khẩu anh về Thành phố. Sau đó bà xin cho Trung vào vừa học vừa làm ở cơ sở đó cho đến khi anh đi nghĩa vụ.
Bà dì là người ăn chay trường. Bà không buộc anh phải  gò bó như mình, nhưng Trung vốn đã quen kham khổ, lại muốn tránh phiền cho bà, nên anh cũng bắt chước theo bà. Dạo ở quân trường, do có muối đậu, tương chao bà mang lên tiếp tế, Trung vẫn duy trì được thói quen ăn chay. Nhưng qua đây, dần dần anh cũng phải ngã mặn theo anh em. Trung rất ghét chuyện súng ống. Hồi mới sang, anh hay nói với mọi người là nếu có đánh nhau, anh chỉ bắn chỉ thiên thôi. Trung bảo hồi ở nhà đến mấy con thằn lằn anh còn không nở giết, tính ra, trong đời anh chỉ phạm tội sát sinh mấy loài muỗi, rệp và gián mà thôi.
Hôm đó, hôm Trung liều hy sinh, trung đội đang phối thuộc với đại đội 12  cắm mũi đầu tiên vào cứ địch. Sau khi qua được cửa mở ở tuyến phòng thủ thứ nhất, anh em tiếp tục vận động chiếm lĩnh các điểm xung yếu để vượt tuyến phòng thủ thứ hai.
Cứ Ampil là tổng hành dinh của Sonsan, lực lượng của nó theo quân báo ước tính khoảng chừng mười ngàn tay súng, được trang bị đủ các loại cối pháo từ 130 ly trở xuống. Ngoài lính ra, trong cứ còn có dân Khmer tỵ nạn, và gia đình, vợ con của số lính tráng, sĩ quan. Trong số này có cả người gốc Việt. Sau khi chiếm được cứ, trung đội đã nhặt được trong một căn nhà mấy quyển sổ ghi chép bằng tiếng Anh, và một số ghi chú tiếng Việt kèm theo.
Ampil có tất cả ba tuyến phòng thủ tạo thành ba vòng cung đồng tâm, mỗi tuyến cách nhau chừng bảy, tám trăm mét. Tuyến phòng thủ là một bờ đất cao và rộng, phía sau nó là đường giao thông hào sâu ngang ngực. Dọc theo tuyến, cứ cách năm chục mét lại có một căn hầm to rộng, trên phủ mấy lớp gỗ rừng, mỗi cây đường kính bé nhất cũng đến năm tấc. Ngoài ra còn có ụ súng lộ thiên cho các tay súng cá nhân và súng máy. Giữa những tuyến này lại có những bãi mìn. Khi tấn công lên tuyến thứ nhất, đại đội 11 chưa nổ được phát súng nào đã lọt vào một bãi mìn, thương vong mất bốn người. Cuối cùng họ phải rút lui, chuyển sang hướng khác.
Đang đánh nhau kịch liệt ở ngoài tuyến phòng thủ thứ hai thì một trong hai chiếc tăng mà đại đội 12 đánh kèm bị vướng mìn tăng, đứt xích không di chuyển được nữa. Đại đội dàn hàng ngang vận động lên phía trước chiếc tăng để bảo vệ cho tuyến sau lên làm nhiệm vụ cáng thương. Khẩu đại liên của Trung liều cùng lên với trung đội sáu, còn khẩu 12 ly lúc đó do Quân chỉ huy cũng đang vận động ở cánh trái, trong đội hình của trung đội năm. Trung liều dẫn đầu khẩu đội, khẩu AK lật ngang quét từng tràng điểm xạ ngắn đanh. Lúc ấy, đạn nhọn cứ bay veo véo như mưa ngang đầu, chẳng còn biết đâu mà tránh né. Họ chỉ dừng lại, mọp xuống khi có một quả đạn cối hay pháo nổ gần bên.
Trung liều đang chạy thì một quả B40 từ phía trước nổ chụp tới, cách anh chừng bốn mét. Lúc đó, Trung gấu và Tiến cóc ở phía sau lưng anh không đầy mười mét. Trung liều chết ngay tại chỗ.
Tiến và Trung gấu quăng khẩu đại liên xuống, nhào tới bên anh, nhưng chỉ để nhìn thấy khuôn mặt xám ngoét, hai con mắt nửa mở nửa khép, lòng trắng vằn đỏ những tia máu, và khóe miệng rỉ máu đỏ bầm của Trung liều. Thân hình anh nhầy nhụa những vết thương.
Trung liều hy sinh vào khoảng năm giờ  chiều, ngày 7-1-1985. Ánh hoàng hôn đỏ rực như lửa cháy từ phía trước mặt đội hình -hướng Tây - hắt xuống bãi cát một màu đỏ vàng hiu hắt. Trên trận địa, những người lính đang chầm chậm bò lê tiến về phía địch như một đàn kiến khổng lồ. Đây đó rải rác những hố cát do đạn pháo cày xới lên; và ở  nhiều hố  loang lổ những vệt máu khô bầm.   
Từ đó trở đi, Trung gấu trở thành một người khác hẳn. Anh lao lên, xô Tiến cóc, xạ thủ một, ngã dúi sang bên, chụp lấy hai tay cò súng. Lần đầu tiên trong đời,Trung gấu đã biết đau đớn căm thù. Anh không thèm cúi mình né tránh làn đạn phủ đầu rát mặt từ sau tuyến giao thông hào thứ hai của địch, cứ chăm chăm quay súng tới những nụ lửa xòe ra, quất liên tục từng tràng. Mấy ụ súng đó câm tiếng ngay lập tức sau loạt đạn của Trung. Trung gấu bắn như điên như dại. Trong đầu anh trống rỗng, chỉ tồn tại mấy từ  “Anh Trung đã chết rồi!".
Trận đánh kéo dài từ rạng sáng ngày 7, đến sẫm tối ngày 9 thì kết thúc. Hôm đó Trung không khóc. Cả hai hôm sau, khi trận đánh chưa ngưng cũng vậy. Trừ những lúc nổ súng đánh nhau, Trung có vẻ lầm lì nhưng còn  linh hoạt chút xíu, ngoài ra, trong mọi sinh hoạt khác, anh làm gì cũng ngơ ngẩn, ngẩn ngơ. Đến cái đêm sau khi toàn thắng, anh em bắt được một con heo nuôi chạy lạc, xẻ ra làm thịt liên hoan,Trung gấu không ngồi vào ăn uống. Anh đi ra xa, tới một chỗ vắng người, ngồi sụp xuống, khóc nghẹn ngào rất lâu.
Tâm trạng Trung trong những ngày sau đó  rất nặng nề, u uất. Nhiều lúc nửa đêm chợt giật mình thức giấc, Trung không tài nào dỗ giấc lại. Anh nằm nghe tiếng những cơn gió rừng hun hút thổi, nghe tiếng trở mình, tiếng ngái đều đều của các đồng đội khác, rồi tưởng như nghe tiếng bước chân quen thuộc, bình thản của Trung liều vừa bước vào lều sau một ca gác, tưởng như mơ hồ nhìn thấy bóng Trung đang tiến đến gần mình. Rồi anh nhận ra đó chỉ là tiếng gió xào xạc lùa qua lớp lá che trên mái, là bóng những cành lá bên ngoài chập chờn trên đất, trên vách căn lều. Có lúc anh nhớ  tới cảnh tượng A trưởng Trung nằm đó, đôi mắt khép hờ, thân hình đẫm máu mà cứ ngỡ mình vừa qua một cơn ác mộng. Anh tự  lừa dối mình trong khoảnh khắc rằng tất cả chỉ là một giấc mơ; rằng Trung vẫn sống; rằng chỉ cần anh ngồi dậy, xoa mặt mấy cái là  Trung sẽ  bước đến, mỉm cười đưa cho anh điếu thuốc vấn đang hút dở dang.
“Cái chết đến dễ dàng như vậy hay sao?” Câu hỏi như  một mũi khoan cứ xoáy mãi, xoáy mãi trong tâm trí của Trung. Nó  rít lên lúc anh đang ngồi ăn, đang đi đứng, đang nói năng, đang làm bất cứ chuyện gì. Trung hiểu con người thì phải chết. Anh đã thấy bà nội mình qua đời như thế nào trong căn nhà thấp lụp xụp ven biển của  bà. Anh cũng đã thấy những cái chết khác, của những người quen hay lạ  xung quanh. Nhưng anh chưa từng biết về một cái chết đến đột ngột, vô cùng đột ngột trong thoáng chốc như vậy. Chỉ trong thoáng chốc, một con người khỏe khoắn, nhân hậu, yêu thương anh và được anh yêu thương không kém chỉ còn là một đống thịt  bầy nhầy, trơ trơ, vô cảm.
Rồi Trung chợt giật mình khi nhớ lại chính bản thân mình  sau lúc đó. Anh đã bắn, không phải là chỉ thiên, mà là thẳng vào những thân người. Trung biết đã có những thân người đổ gục xuống sau tràng đạn của anh. Đó là kẻ địch, quân thù. Đó là bọn dã man tàn ác đã giết chết Trung A trưởng - Trung biết rất rõ điều này. Nhưng anh vẫn có một cảm giác gì đó  ghê tởm chính mình, khi nhìn xuống bàn tay. Bàn tay này đã nhuốm máu rồi! Do chính bàn tay này mà có những người vợ mất chồng, những đứa con mất cha, những người lính mất đồng đội!...
Đầu Trung gấu nhức buốt. Những suy nghĩ quay cuồng. Trung nghe  lùng bùng trong tai những tràng điểm xạ liên hồi chát chúa của khẩu đại liên. Anh rên lên những tiếng ngắn đau đớn.
Phái chợt nghe tiếng rên rỉ và lầm bầm của Trung  gấu: “Dì ơi!... Con đã bắn rồi... bắn vào tụi nó rồi... Con đã bắn chết tụi nó rồí!... Anh Trung ơi... em đã bắn chết tụi nó rồi!...”. Giọng nói không âm sắc, lắp bắp, lẫn vào tiếng khóc, và nhất là tính chất không đúng chỗ của nội dung câu nói làm cho những lời nghẹn ngào của Trung có một vẻ gì đó kỳ lạ, ghê ghê  làm Phái giật mình. Anh ngước lên nhìn Trung kinh ngạc.   
Bóng một người che khuất ánh sáng ở phía lối vào, làm bên trong lều tối xầm một thoáng, rồi người đó bước vào lều. Đó là Quân. Anh đã đứng bên ngoài lều từ lúc nãy.
Quân nhìn Trung đang ngồi nức nở, thấy xót xa thương Trung quá. Qua bao nhiêu ngày tháng gần gũi bên nhau, Quân hiểu từng niềm vui, nỗi buồn, từng sự trái nết, kỳ cục nào đó của mỗi người trong trung đội, không phải chỉ với sự đồng cảm, thương yêu của một người anh cả, mà còn với tấm lòng  bao dung của một người mẹ  dịu dàng. Nhất là Trung, hồi mới về trung đội, nó cứ bám theo anh, hỏi han thắc mắc đủ chuyện. Những câu hỏi ngây ngô như của một đứa trẻ con.
Quân nhận ra bên trong cái ngoại hình xù xì, dữ tợn, trái tim Trung là trái tim hiền hậu của một bà soeur già trọn đời làm việc thiện. Trung không phải là loại người có  tinh thần mạnh mẽ để có thể thích ứng, đối phó với những nghịch cảnh, trắc trở của cuộc đời. Sau những ngày đầu quay quắt nỗi nhớ nhà, nhớ quê, Trung đã cảm thấy đời lính trở nên thân tình, ấm áp. Có một lúc nào đó, Trung đã ước ao cuộc đời cứ như thế này mãi mãi, nó và những bạn bè gắn bó  trong trung đội sẽ sống bên nhau cho đến cuối đời, như những người trong một gia đình. Có lần, nó đã bảo với Quân: “Bây giờ em không còn nhớ nhà nữa. Em thấy sống như thế này thật vui, thật thích. Phải chi tất cả anh em trong trung đội mình cứ sống bên nhau như vầy đến già há anh Quân!” 
Đầu óc vô cùng đơn giản của Trung đã vô ý thức quên đi thực tại. Nó đã sống trong một giấc mơ ban ngày êm ái, chứa chan niềm vui, tình thương yêu gắn bó với nhau của những người lính chiến xa nhà. Rồi giấc mơ đã vỡ tan. Thực tế  là những lưỡi dao sắc bén  đã cắt đứt, băm nát chuỗi ngày bình yên, hạnh phúc thành ngàn ngàn mảnh vụn. Thực tế  là cơn bão dữ  cuốn qua, để lại sau lưng nó  một thế giới tâm linh đổ vỡ, điêu tàn. "Mọi thứ  đều là tạm bợ, là hư  ảo phù du  thôi, Trung ơi! Cả cuộc đời của chúng ta, cả những niềm vui, nỗi khổ của chúng ta. Nhất là ở đây, trong cuộc sống này!..." Quân bật thốt lên lời than thở.Nhưng nó nghẹn lại ở  cổ anh... Chính nỗi đau của anh bây giờ cũng là hư ảo nốt, anh biết, và tin như vậy. Nhưng ý thức, ý chí và trái tim anh dường như không có chút gì  liên hệ với nhau. 
Anh vẫn ý thức, bằng niềm tin, tư tưởng đã cô đúc, đã tạo thành một nền tảng vững bền trong nhân cách của anh - một người đã ở dưới mái chùa suốt quảng đời thơ ấu - tính chất vô thường bào ảnh của mọi điều, và vẫn thấy đau một nỗi đau thực thể, bằng những cảm giác của một con người đang sống.
Quân bước tới, đưa tay bóp nhẹ  bờ vai rắn chắc của Trung, anh nói:
-  Từ  mai, em sẽ thay thế Phái làm anh nuôi, để nó trở lại khẩu đội đại liên. Em đừng tự dằn vặt nữa, nghe không Trung.  
Quân quay sang Phái:
-  Phái sắp xếp công việc bàn giao lại cho Trung, em nhớ kèm cho nó vài bữa, hướng dẫn mấy bí quyết nấu nướng của em, nghe Phái. 
Phái gật đầu, đưa mắt nhìn Trung. Trung vẫn cúi gầm đầu, thu cái cổ to ngắn vào giữa hai vai run rẩy, như một con gấu lầm lì đang dỗ giấc mùa đông.
Trong suốt mấy ngày sau, Trung càng có vẻ bất thường. Anh hay ngẩn người ra, nhìn trừng trừng vào một điểm nào đó vô hình trước mặt, miệng lẩm bẩm những câu rời rạc, vô nghĩa. Ban đêm, anh em trực gác thấy Trung đi thất thểu, quờ quạng từ nhà này qua nhà khác trong bóng tối như một hồn ma.
Chỉ còn ba ngày nữa là đơn vị hành quân tấn công cứ điểm 201, toàn đơn vị đang tập luyện ráo riết. Ai cũng nôn nao, phấn khích mong cho trận đánh chóng đến, chóng qua. Buổi sáng hôm ấy, trung đội đang dợt lại lần chót các thao tác trong vận động chiến đấu ngoài bãi cát, cách nơi dựng lều khoảng năm trăm mét. Quân vừa hô khẩu lệnh: “Khẩu đội. Tháo súng vận động!” thì  Mợi lác hớt hải chạy tới, mặt mày xanh như tàu lá. Anh hào hển bảo Quân:
- Anh Quân ơi, thằng Trung nổi cơn điên rồi! Lúc nãy, em đang  rang ruốc cá  giùm nó, quay qua không thấy nó đâu. Em chạy đi tìm, nhìn thấy nó đang cầm khẩu AK của Già Hương còn để trong lều, kê nòng súng vào cằm, cười hì hì, mà nét mặt ghê lắm. Em len lén bò lại gần đá văng khẩu súng. Rồi ôm nó, cố dỗ dành nó. Nó không cự gì, chỉ lúc cười lúc khóc. Em ôm nó một hồi, thấy nó vẫn im lìm, em bỏ nó ngồi đó, mang mấy băng đạn và dao cộ giấu đi, rồi chạy ra đây. Anh tính sao bây giờ?
Quân bảo Già Hương:
- Anh cho anh em tập thêm tí nữa rồi về. Em về trước coi sao.
Quân và  Mợi lác chạy về tới lều, Trung gấu đang quỳ mọp  bên bếp, mồm miệng đầy đất cát. Quân bước tới, kéo vai đỡ Trung ngồi thẳng lên. Trung gấu cười hềnh hệch:
- Anh Trung... đi lên cung trăng hái mận với em nghe. Em mới ở trển về... Mận ngon lắm... Trong hồ có con cá mập lớn lắm. Nó cắn đứt bàn tay em rồi, anh Trung ơi...! - Trung gấu khóc òa lên.
Quân cau mày. Trung bị bệnh thật rồi. Anh quay lại bảo Mợi:
- Mợi ra bảo Tiến và Huy về gấp, cùng anh đưa Trung về Trung đoàn để chữa bệnh ngay. Nguy lắm rồi.
Ba người đưa Trung gấu lên tới K.23 khoảng ba giờ chiều hôm ấy. Lẽ ra, họ tới nơi sớm hơn, nếu trên đường đi Trung không dỡ chứng ngồi lì một lúc lâu.
Quân đã phải vất vả lắm khi thuyết phục đại úy Sơn, bác sĩ trưởng K.23 chuyển Trung gấu lên viện cấp cao hơn, nơi có điều kiện đưa Trung về  nước. Mặc cho Quân nói khô cả cổ, Sơn vẫn lắc đầu quầy quậy, anh  cứ khăng khăng một mực:
- Chỉ vì  nó quá kích động. Từ từ vài bữa là bình thường trở lại thôi, cậu lo xa quá. Mà chưa biết chừng tại nó bể chiến đấu nên giả khùng giả điên như vậy. Còn phải chờ xác định coi nó thật sự bị loạn thần kinh không đã. Loại này tôi gặp nhiều quá rồi mà!
Quân vốn điềm đạm, nhưng cũng phải nổi nóng vì  sự cứng nhắc của Sơn. Anh cố  kềm cơn giận, gằn giọng nói:
- Đây là một người lính của tôi. Tôi hiểu nó hơn anh nhiều. Nó bị bệnh thật sự. Nó cần được chữa trị ở một nơi thích hợp. Nếu anh sợ bị ảnh hưởng đến cái uy tín rẽ mạt của anh mà chần chừ, thì hậu quả còn tệ hại hơn. Lúc đó, anh sẽ vừa mang tiếng xấu, vừa bị lương tâm cắn rứt cả đời đó, anh hãy nghĩ lại đi...      
Sơn khoát khoát tay, quay lưng dợm bước đi. Mặt Quân đỏ bừng như uống rượu. Máu nóng chợt dồn lên đầu, lan ra khắp người Quân, anh gần như hét lên :
- Nó suýt chút đã tự sát rồi, anh có biết không! Nó còn ở  cái nơi đầy súng ống này ngày nào, thì còn nguy hiểm cho nó, và cho mọi người xung quanh ngày đó...- Quân dịu giọng lại - Anh Sơn à!  Anh phải quyết định ngay một quyết định sáng suốt. Anh là một bác sĩ có tài, thương lính mà. Tôi vẫn còn nhớ anh đã tốt như thế nào, tận tụy như thế nào hồi trị thương cho tôi. Nhưng đây không phải là chuyên môn của anh. Anh  nghe tôi đi, phải đưa nó về nước càng sớm càng tốt. Và phải cho một anh em nào có tấm lòng đưa nó đi. Tôi năn nỉ anh, thật tình năn nỉ anh đó, anh Sơn.
Cuối cùng, bác sĩ Sơn xúc động, đồng ý làm theo đề nghị của Quân. Quân còn nằng nằng xin Sơn nhớ cho người theo dõi Trung liên tục trong thời gian còn ở lại K.23, cho đến khi bác sĩ Sơn nổi khùng quát lên:  “Cậu tưởng tôi là một thằng ngu ngốc và vô lương tâm hay sao mà cứ lải nhải hoài vậy. Đi về đi! Tôi sẽ làm những gì tôi thấy cần thiết!”.    
Trên đường về, cả ba  lặng lẽ bước nhanh. Thỉnh thoảng, Huy nhìn sang Quân, cảm thấy thương anh vô cùng. Nét mặt Quân dàu dàu, không thần sắc. Vẻ bình an thanh thản thường nhật của anh không còn nữa. Nhìn anh giống như một bà mẹ vừa phải bứt ruột nhìn đứa con yêu của mình chết lịm trên tay. Họ về tới nhà lúc vầng trăng khuyết  hạ tuần đã  lên gần giữa đỉnh trời.
Chương 7
Cánh rừng lại xôn xao không khí của những ngày vào chiến dịch. Các cánh quân của các trung đoàn, tiểu đoàn khác nhau lũ lượt di chuyển dọc ngang. Từng đoàn quân, quần áo bạc màu nắng gió, ba lô, súng  ống, gạo nước  trĩu nặng trên thân bước những bước dài mạnh mẽ. Tất cả, từ người lính cũ đã mấy năm xa quê đến những người lính mới sang hồi cuối năm ngoái, đều không còn gì khác biệt nhau. Ai ai cũng đã quen với những chặng hành quân hàng chục cây số dưới ánh nắng chang chang, trong lớp bụi mù mịt bay lên giữa ban ngày, hay dưới ánh sao lấp lánh mùa khô miền xích đạo ban đêm; quen với mùi mồ hôi của chiếc áo lính nhiều ngày không giặt, với sự thiếu ngủ những đêm trắng hành quân; quen với sự căng thẳng trong giờ phút ém quân chờ  lệnh nổ súng...
Từng đoàn quân, như những con rùa dưới cái mai nặng nề  bò từng bước chậm rãi mà chắc chắn về mục tiêu phía trước. Người thì ngược về Tây, tiếp tục cho trận đánh. Người thì xuôi lên Bắc thế chân đóng chốt, bảo vệ cho dân công lên xây dựng tuyến phòng thủ dọc theo hành lang biên giới.
Trên đường đi, những người lính thuộc các đơn vị khác nhau cứ ngong ngóng mong gặp lại một đồng hương nào đó thuộc đơn vị bạn. Tiếng chào hỏi, cười đùa trêu ghẹo nhau giữa những người lính vang vang suốt một chặng đường dài, cuốn theo cơn gió cuối xuân hun hút luồn vào cánh rừng sâu, phá vỡ sự tĩnh lặng hàng trăm nghìn năm nay của khu rừng trầm mặc:
- Vân ơi, có viết thư cho nhỏ Thùy em gái tao nói tao gửi lời thăm nó với nhé. Dạo này tao lười viết quá. Đi may mắn nghe Vân.
- Thắng ơi! Đánh cho hăng vào ! Kiếm nhiều nhiều “đồ cổ” Chiến lợi phẩm về  ghé tao nhậu một chặp tưng bừng nghe!
- Đồng hương ơi, phen này lên đó nằm chốt một năm tội nhỉ! Có  gặp nàng khỉ cái nào đèm đẹp thì cũng ráng giữ thủy chung với bà vợ già ở quê nghe!         
-  Anh em đi mạnh khỏe, chiến thắng vẻ vang nghe!
-  Anh em ở lại cũng mạnh khỏe, hoàn thành nhiệm vụ nghe!    
Huy dáo dác nhìn ngược ngó xuôi tìm kiếm Xuân, thằng bạn cùng huấn luyện ở H.15. Trong đoàn sang đây, chỉ có Huy và Xuân là về sư đoàn này. Không biết là Xuân ở trung đoàn, tiểu đoàn nào, Huy cứ  vừa dõi mắt tìm, vừa hét lên hú họa: “Xuân ơí! Huy đây! Xuân H15 ơi!  Huy đây! Mày đâu rồi? ”.       
Từ phía đầu đội hình của đoàn quân đang đi ngược lên, bỗng có một người lính chạy xuống quát to:
- Ai là Huy H15?
- Tôi, tôi đây! - Huy cuống quýt.
Người lính bước tới gần bên Huy, mỉm cười:
- Xuân không có  ở đây, nó đi qua chỗ E. bộ liên hệ công tác. Tui có nghe nó kể về ông.
Huy mừng rỡ, hỏi rối rít:
- Ủa, nó làm gì mà lên E? Anh ở đơn vị nào? Nó có khỏe không vậy?
Người lính bật cười, vui vẻ nói:
- Xuân đã lên tiểu đoàn làm văn thư. Tụi tui ở D7. Sắp tới nằm chốt ở đây, chắc còn lâu mới về hậu cứ. Yên chí đi, Xuân vẫn khỏe khoắn, vui vẻ. Thôi, tui phải đi đây.Tui sẽ nói nó có gặp ông. Mạnh giỏi nghe đồng hương. - Nói chưa dứt câu, anh ta xoay lưng chạy vù đi.
- Mạnh giỏi nghe đồng hương! Huy hét vói theo. Anh tự trách mình quên không hỏi anh ta tên gì.  
Buổi trưa, đơn vị dừng chân nghỉ giải lao bên một tiểu đoàn tăng. Lác đác trên trảng cỏ khô xơ xác là những khóm cây rừng, những chiếc tăng nằm dưới bóng những khóm cây đó. Từng nhóm năm người lính một đang quây quần bên cạnh chiếc tăng ăn cơm, trông thấy tụi Huy đi qua, cất tiếng chào mời vui vẻ, thân thiện:
- Xơi cơm mấy anh ơi.
- Ăn cơm đồng hương ơi.
Dù biết là họ chỉ mời cho có, Huy cũng thấy vui vui, xúc động. Tình cảm giữa các đơn vị, các binh chủng khác nhau trong những ngày này thật sự gắn bó, thể hiện ở từng điều nhỏ nhoi như vậy. Anh gật đầu cám ơn, rồi hỏi:
- Tụi tôi đang đi tìm nước về nấu cơm. Khu này có hố nước nào không mấy anh?
- Có, có người anh em ạ! Cứ đi dọc theo đường mòn này vài trăm mét nữa, có một vũng nước lớn lắm. 
Theo lời những người lính tăng, đi thêm khoảng năm trăm mét, băng vào một cụm cây cao rậm rạp, Huy, Thuận gặp vũng nước. Đó là một khoảng đất trũng hình bầu dục, đường kính chừng bốn mét, nằm giữa một bãi cỏ. Nó có nước là nhờ đợt mưa dầm hồi cuối tháng trước, nhưng đến nay cũng đã vơi cạn đi nhiều. Mặt nước tù đọng nổi lều bều những lá khô rơi, những váng rêu xanh mốc. Rải rác bên bờ vũng có những chỗ cỏ bị đè nát, lỗ chỗ dấu chân thú rừng trên mặt bùn non. Màu nước vàng đục, lợn cợn trông thật tởm. Nhưng có nước đã là quí lắm rồi. Huy mở bung tấm nylon ra, gấp làm hai, rồi móc túi quần lấy hai sợi dây võng cột gút hai đầu tấm nylon vào hai đầu cành cây đã chặt sẵn từ trước, tạo thành một cái võng chứa nước dã chiến. Xong xuôi, hai người gỡ nón cối ra bước xuống  ven vũng, múc nước đổ đầy chiếc cáng. Dù có tải theo mấy can rùa nước dự trữ, Quân vẫn cẩn thận bảo anh em cố đi tìm nguồn nước, để dành lại số nước có sẵn phòng khi bất trắc.
Hai người về tới chỗ trung đội. Phái đã nổi lửa từ lúc nào. Anh nhanh nhẹn trút gạo vào nồi, đổ nước vào rồi bắc lên chiếc bếp dã chiến đào âm vào nền đất, bỏ qua công đoạn vo gạo. “Ăn thế càng thêm bổ!” Phái biện bạch dù chả ai có ý kiến gì.
Cơm nước xong, mỗi người tìm chỗ mắc võng, hay trải chiếu lên trên lớp cỏ  khô để nghỉ lưng. Huy đang dáo dác tìm nơi cột võng thì Quân gọi:
- Lại đây Huy, đây có chỗ giăng nè.
Quân mắc võng giữa hai cây rừng cỡ bắp chân. Bên tay phải anh có một nhánh lớn xòa xuống thấp từ một cây to gần đó. Huy cột một đầu võng vào nhánh cây đó, đầu kia vào thân cây đầu võng của Quân. Rồi anh ngồi lên võng, ngả lưng ra khoan khoái.
Huy nhắm mắt lại dỗ giấc, anh cũng đã mệt nhoài sau chặng hành quân. Nhưng rồi anh thấy đầu mình tỉnh như sáo, không sao ngủ được, như vừa uống xong một ly cà phê thật đậm. Anh nhổm lưng ngó qua Quân. Quân cũng không ngủ, anh vòng hai tay ra sau ót, mở mắt nhìn lên vòm lá trên đầu.
Huy ngần ngừ một lúc, rồi nói :
- Thương thằng Trung quá, anh Quân! Không biết giờ nó ra sao!
Quân thở dài:
- Cầu mong cho nó hết bệnh. Nó là một người tốt... và hiếm có...
Huy ngạc nhiên. Anh không hiểu Quân muốn nói gì. Huy im lặng ngẫm nghĩ một lúc rồi buột miệng hỏi:
-  Hiếm có là sao hả anh?
-  Thật ra, điều này anh khó mà giải thích. Với lại, nó chỉ là cách nghĩ của anh thôi, Huy à. Huy biết không, thường thì mọi người coi những người bị lên cơn điên khùng sau một cú sốc, một thương tổn tâm lý  là những người yếu đuối, đáng thương. Người ta thương hại, và người ta cũng coi thường những người này. Thật ra, những người điên này cao quí, đáng trọng hơn nhiều so với vô khối loại người. Họ trung thành với điều họ coi là lẽ phải, là chân lý, và khi điều này bị xúc phạm, họ không chịu đựng được. Họ là những người có nhiều tính nhân bản hơn người khác.
Huy ngơ ngác nghe Quân nói. Những câu giải thích của Quân còn khó hiểu hơn cả nhận định của anh. Tuy vậy, những lời trầm buồn của Quân in sâu vào trí nhớ  Huy. Anh nhớ  hầu như đúng từng câu, từng chữ. "Rồi sẽ có ngày mình hiểu!" Huy tự  hứa với mình. Anh chợt nghĩ tới một điều khác.
- Em có nghe Ụ Mối  kể  về anh. Anh không muốn về  nước sao anh Quân?
- Muốn chứ. Anh cũng nhớ  thành phố lắm. Nhưng anh không còn ai, không còn nơi nào để coi là gia đình, là mái ấm của mình nữa. Anh cũng không thể xa anh em, đồng đội. Trung đội bây giờ là nhà của anh đó Huy.    
Quân chợt mỉm cười. Anh nhìn Huy với đôi mắt sáng. Không  thể gọi Quân là một người đẹp trai. Dáng anh cao gầy, lưng hơi khòm khòm. Nét mặt anh là nét mặt của một người bình thường, không xấu cũng không đẹp, và không có gì đặc biệt. Một gương mặt mà người ta có thể nhìn lướt qua rồi sau đó sẽ quên khuấy đi ngay. Tuy nhiên, Quân có một đôi mắt khác thường. Mắt anh tỏa một ánh sáng dịu dàng, kỳ diệu. Ánh sáng đó làm cho bất cứ người nào, khi nhìn vào đôi mắt của Quân, cũng sẽ có cảm giác mình như tốt hẳn lên, tự tin hẳn lên. Và những khi Quân im lặng, nét mặt anh có một sự bình thản lạ thường, bình thản nhưng không gây cảm giác lạnh lùng, xa cách. Ở Quân ánh lên một vẻ đẹp bên trong khó diễn tả thành lời. Ngay từ hôm gặp Quân lần đầu, Huy đã không cưỡng nổi một niềm tin cậy và yêu mến tự nhiên đối với anh. Quân nói:
- Hôm trước, lúc em ra hồ tải nước. Ụ Mối nó lục ba lô em lấy cuốn sổ ra đọc um lên. Em cũng lãng mạn lắm nghe Huy! Thơ em có  sự rung cảm, có sức mạnh nội tại đó, nhưng còn dàn trải lắm. Thơ em là lời độc thoại với chính mình, nó không phải là loại thơ dành cho người thứ hai nào khác ngoài em. Anh thấy qua những bài thơ và đoạn nhật ký đó, em đa cảm và mang nhiều ảo tưởng quá Huy. Đó không phải là điều tốt cho em đâu. Em sẽ vì nó mà chịu nhiều bất hạnh.
Huy nhìn Quân đăm đăm, ngạc nhiên thấy Quân chỉ với những lời giản dị như vậy đã nói thật chính xác được những gì mà chính anh cũng đã từng cảm nhận một cách mơ hồ. “Anh Quân hiểu mình còn hơn mình hiểu chính mình nữa!”- Huy la thầm trong bụng. Quân nói tiếp:
- Em đang băn khoăn về những điều hư huyễn đó Huy. Tốt hơn em nên cố gắng dẹp bỏ đi những khái niệm phân biệt về  bản chất con người. Con người chỉ đơn giản là con người thôi. Có tốt, có xấu, có thiện, có ác, có sự hèn nhát song song với bản chất anh hùng. Tốt hay xấu, thiện hay ác, hèn nhát hay anh hùng theo đánh giá của người khác ngoài bản thân của một cá nhân chỉ là  cái vỏ bên ngoài, là hiện tượng, biểu hiện nhất thời. Nếu đúng lúc, đúng thời cơ thì nó là hay, nếu không đúng lúc thì nó là điều dở, chỉ vậy thôi Huy. Tất nhiên, ở mỗi cá nhân, mức độ giữa những bản chất này có khác nhau. Nhưng có  ích gì việc đi đánh giá, khen chê, phẩm bình người khác, và đặt niềm tin nơi người khác. Em chỉ nên quay lại nhìn nhận chính mình, chỉ nên tin vào con người nói chung, chứ  không phải là bất cứ một con người cụ thể nào...
Quân chợt ngưng lời. Anh thấy lòng quặn lên một nỗi xót xa khôn tả. Anh đã cảm nghiệm, kinh qua những điều vừa nói với Huy bằng chính những mất mát đổ vỡ của mình. Anh chợt thấy băn khoăn. Huy còn trẻ quá, còn hồn nhiên chân thật nào khác gì một đứa trẻ thơ. Huy chính là hình ảnh của chính anh thời thơ dại: đầy khát khao hiểu biết, đầy mơ tưởng ngây thơ, đầy niềm tin, hy vọng… Có nên nói với Huy những điều này không? Có thật sự cần thiết hay không?... Lướt qua đầu Quân một chuỗi hình ảnh của ngày qua: một thằng Quân nhỏ xíu, ngơ ngác nghe mấy ông cậu bà dì  bảo: “Ba má mày chết cả rồi!” - “Chết là sao hả cậu?” - “Là mày không bao giờ gặp lại ba má mày nữa.” - “Vậy ba má con đi đâu?”-“Đi xa lắm…” - “Xa tới đâu hả dì?" - “Xa lắm, có nói mày cũng không biết đâu mà hỏi.” - " Vậy chừng nào ba má con về?“ - “Họ không về nữa đâu, họ đi mãi mãi …” … Nó ôm mặt khóc nức nở. Lần đầu tiên nó đã ý thức về  cái chết như là sự xa cách, bất ngờ và không hiểu nổi…; Rồi một thằng Quân bụng đói như cào, lang thang trên đường phố, bị tụi trẻ bụi đời đánh đập, bị chó rượt cắn, bị người lớn mắng chửi khi nó liều bước vào nhà xin chút cơm ăn…; Rồi một thằng Quân mặc áo nâu sồng, lưng thẳng đơ, nghiêm nghị ngồi nghe sư cụ giảng giải những lẽ mất còn, những điều sắc sắc không không… Có lần, sư cụ đã dạy Quân: “Con không nên tin vào những gì người khác nói, kể cả một người đáng trọng nhất con từng biết, kể cả Đức Phật, nếu như người có hiện ra trước mặt con; không nên tin vào sách vở, kể cả đó là một quyển kinh điển hầu hết mọi người đều tôn sùng ca ngợi, khi chưa tự mình chứng nghiệm, kinh qua. Một khi con đã tự mình chứng nghiệm, kinh qua, một khi trái tim con hòa hợp cùng lý lẽ, một khi  thâm tâm con cuối cùng mách bảo đó chính là lẽ phải, điều nên - cái đó, chúng ta gọi là lương tâm - khi ấy, con hãy tuân theo những gì lương tâm con thúc giục con. ” Quân đã cảm nghiệm, đã tự  mình minh chứng tính chất đúng đắn của lời dạy đó sau bao nhiêu năm tháng băn khoăn. Quân đã hiểu ra một điều: Lẽ phải, hay như sư cụ nói - lương tâm - thật sự không nằm ở luân lý, đạo đức hay pháp luật. Tất cả những thứ đó đều có thể đổi thay cùng lịch sử. Lẽ phải là điều cao viễn hơn chúng, vĩnh hằng, thuộc về mỗi cộng đồng, và cũng thuộc về mỗi cá nhân. Nó đã được di truyền qua bao thế hệ, hình thành và tồn tại trong cuộc chiến đấu sinh tồn. Nó mang tính cá thể vì nó nằm khuất trong ý thức, tiềm thức mỗi con người riêng biệt. Nó lại mang tính cộng đồng vì nó là mối dây liên kết giữa từng cá thể với nhau trong cuộc sống chung. Một người khi hành động một điều không hợp với lẽ phải đó, sẽ có thể che dấu, dối gạt được người khác, nhưng không thể che dấu, dối gạt chính mình. Họ sẽ cảm thấy bất an, day dứt, đau đớn không nguôi, dù đôi lúc đôi khi hay suốt cả đời.
Quân quay sang Huy. Huy vẫn mở to mắt nhìn anh  chờ đợi. Có lẽ trong đầu óc của nó mình là một con người hoàn hảo lắm, là một tấm gương đáng để nó noi theo…  Quân nghĩ thầm rồi nói tiếp:  
- Đừng đặt toàn bộ niềm tin vào bất cứ  ai Huy à… kể cả anh hay người nào khác, nếu không, khi niềm tin sụp đổ, em sẽ không đủ sức chịu đựng nó đâu. Và điều quan trọng em  cần luôn luôn nhớ, là cái tốt thật sự, cái chân lý thật sự cũng chỉ là tương đối. Em có bản chất tốt, có niềm tin, vậy hãy tin rằng những điều không làm những người đang sống quanh em thiệt hại, đau khổ là điều thiện, điều mình phải nỗ lực thực hiện, và chỉ cần như vậy là đủ rồi. Chỉ vậy thôi cũng đã khiến em phải tự đấu tranh rất gian lao rồi đó Huy.
Quân ngưng lời, anh thở  dài, im lặng một lúc lâu.
Huy vẫn còn choáng váng với những gì Quân nói. Chúng như những tia chớp loé lên, sáng rực trong khoảnh khắc, soi rọi đến tận những ngõ ngách thâm u, mờ mịt nhất trong ý thức của Huy. Tuy vậy, anh không hiểu hết, chỉ cố gắng ghi nhớ  chúng. Huy chợt  phát hiện ra một điều kỳ quặc - Quân nói như một nhà tu sĩ, nhưng anh vẫn hành xử như bao người bình thường khác, vẫn cầm súng chiến đấu một cách dũng cảm, có thể nói là anh hùng nữa cũng không quá đáng. Có một sự mâu thuẫn nào đó thật lạ lùng trong con người này! Anh  suy tư như một nhà hiền triết, nhưng sống và hành động như một con người đầy nhiệt tâm, đầy lòng đam mê cuộc sống. Một lúc sau, Huy hỏi:
- Tại sao mình lại đánh nhau ở  đây anh Quân?  Sao mình không để bộ đội K. tự lo lấy chuyện của họ? Em có nghe anh Ngô chính ủy trung đoàn giải thích vấn đề này rồi, nhưng em thấy nó sao sao đó, không thuyết phục. Mấy bữa trước  em qua nghe ké "ra-dô" bên đại đội 13, anh Vụ có mở đài Polpot nghe xem chúng nói gì. Mẹ kiếp! Chúng chửi quân tình nguyện Việt Nam mình là lũ xâm lược, chả khác gì mình chửi lính Mỹ trước đây. Liệu người dân Campuchia có coi mình là lũ ngoại bang xâm lược không anh?
- Bản chất những người lính tụi mình khác với bản chất những người lính Mỹ. Anh nói khác ở  đây không phải là về cái tốt hay cái xấu. Khác là ở  nền văn hóa, ở tư tưởng, quan niệm, truyền thống dân tộc. Lính Mỹ không hiểu dân Việt, do đó, hoặc họ sợ hoặc họ coi thường, khinh rẻ dân ta. Còn chúng ta và dân Campuchia không khác gì nhau mấy, chúng ta và họ có cùng một nền tảng, bản sắc văn hoá như  nhau. Chúng ta hiểu họ, thương mến họ. Và những người dân chất phác này cũng hiểu và thương mến chúng ta. Còn như tại sao chúng ta lại phải chiến đấu thế này, là một chuyện không dễ nói. Đúng là nếu chúng ta sớm rút quân về thì tốt hơn, nhưng tình thế hiện nay rất nhiều chuyện rối ren. Em cũng không nên thắc mắc dằn vặt làm chi. Nói cho cùng, chúng ta chỉ  là những hạt cát bị cuốn theo vòng xoay của thời đại, của lịch sử  thôi Huy.
- Tại sao lại phải né tránh sự thật hả anh? Em nghĩ nếu không xác định được ý nghĩa, mục đích, thì  làm sao chúng ta có đủ niềm tin và ý chí để chiến đấu. Từ hồi nhỏ, em đã thích những chuyện hào hiệp anh hùng, thích những bài thơ, bài hịch hùng tráng. Em nghĩ rằng đối với đàn ông thì chuyện cao quý nhất để làm là chiến đấu, là “da ngựa bọc thây”.
- Điều này cũng là một trong những ảo tưởng của em đó Huy ơi! - Quân có vẻ buồn buồn. Anh dừng lời, im lặng một lúc lâu - Và cũng là điều mà nhiều người ảo tưởng về nó. Chiến tranh rốt cuộc chỉ để phục vụ cho mưu đồ tham vọng của những người cầm quyền. Ở những cuộc chiến xâm lược thì điều này đã hẳn nhiên rồi, không có gì để bàn cãi nữa. Nhưng cả ở những cuộc chiến tranh giữ nước, chống ngoại xâm, hay nội chiến rồi cũng vậy thôi. Lịch sử  đã cho thấy rồi, khi cởi bỏ được ách thống trị hà khắc, bóc lột của ngoại bang, hay đã lật đổ một chế độ thối nát nào trước đó, và đã nắm được quyền lực trong tay, người ta thường quên đi những điều ích dân, lợi nước. Họ, hoặc người kế thừa của họ chỉ  còn nuôi tham vọng củng cố quyền uy hoặc xa hoa hưởng thụ. Chỉ có những người dân, những người lính tầm thường là mất rất nhiều, mà được rất ít, hoặc chẳng được gì. Trừ phi là chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc, còn thì những cuộc chiến khác không mang tới cho họ điều gì hay ho cả. Cái họ cần chỉ đơn giản là một mái nhà, một gia đình êm ấm, một mảnh ruộng vườn nho nhỏ  và một cuộc sống thanh bình... Biết bao nhiêu người phơi xác, tên tuổi cũng vùi sâu vào cát bụi lãng quên, chỉ để cho một vài kẻ trở thành những vị anh hùng lưu danh sử sách. Từ  khi khái niệm anh hùng nguyên sơ của thời cổ đại xa xưa đã trở thành một chủ nghĩa - chủ nghĩa anh hùng - nó đã bị biến tướng, đổi thay về chất,  trở nên một sự mê hoặc, một sự  lừa dối kinh khủng, đã bị người ta lấy nó làm chiêu bài che đậy những sự xấu xa, Huy có hiểu không. Mỗi con người đều có khả năng trở thành một anh hùng, một tài năng để cống hiến cho xã hội, họ vốn mang sẵn trong người cái đó. Nhưng để làm một anh hùng chân chính thì rất khó, rất hiếm hoi... Anh  đã từng băn khoăn, nghĩ ngợi nhiều về vấn đề này, nhưng rồi thấy nó thật là phức tạp. Có những điều chúng ta có thể cảm nhận phần nào, nhưng không thể diễn tả nó ra một cách minh bạch bằng lời đâu Huy… Thôi, đừng nói chuyện này nữa nghe Huy. Có lẽ càng nghĩ về mọi sự một cách giản đơn, càng dễ chịu, ít gặp rắc rối hơn đó Huy. Nhiều khi, anh ước ao mình không hiểu biết gì cả, thế lại hóa hay... 
Quân điểm lại trong đầu những cái tên vua chúa, anh hùng; Những cuộc cờ chính trị tranh đoạt thế quyền đầy khí trá, gian manh, thủ đoạn ghê người, đẫm máu và nước mắt của biết bao nạn nhân vô tội; Sử sách còn rành rành ghi lại đó. Ở bất kỳ thời nào, ở bất kỳ nơi nào trên quả đất bé nhỏ này, những chuyện như vậy vẫn cứ diễn ra. Nó vẫn diễn ra dù là dưới những hình thức khác nhau. Bao giờ con người mới thật sự xóa bỏ được mọi khái niệm phân biệt, hữu danh vô thực, để yêu thương nhau, để sống một cuộc sống thanh bình, an lạc? Sống không phải để hận thù ganh ghét. Sống để yêu thương và sáng tạo. Để mỗi một con người đều là một vì sao, một mặt trời nhỏ tự tỏa sáng bằng ánh sáng của chính mình. Sẽ có một ngày như vậy đến hay không? - Quân tự hỏi lòng.  
Huy thân thiết nhìn Quân. Mãi đến hôm nay, Huy mới có một cuộc trò chuyện thật sự với anh. Quân nói nhiều điều thật là mới mẻ, dù có những chỗ Huy chưa thật hiểu, và đôi chỗ khác Huy không đồng ý với Quân, nhưng Huy vẫn thấy lòng tràn ngập một niềm quý mến và cảm phục anh. Không rõ vì sao, lòng Huy chợt rộn lên một niềm ước ao mãnh liệt - được nắm lấy bàn tay Quân, nắm và xiết thật mạnh, thật  lâu.
Trầm ngâm một hồi, Huy hỏi:   
- Anh Quân thích viết như vậy, chắc hồi đó anh học khoa văn phải không?
- Anh học khoa triết. Anh yêu triết học từ hồi còn nhỏ. Hồi đó, tối tối sau buổi tụng kinh, sư thầy thường ngồi giảng dạy cho anh mọi lẽ. Lớn lên một chút, anh đọc mấy cuốn triết khô khan còn mê mải  hơn đọc tiểu thuyết. Nhưng triết học không giải quyết được vấn đề của cá nhân đâu Huy ạ. Triết học chỉ là cánh cửa mở hé cho ta thấy ánh sáng bên ngoài. Còn nguồn sáng ở đâu, tự thân mỗi người phải đi tìm nó. Huy biết không, anh viết vì cảm thấy hạnh phúc khi đang viết. Anh không nghĩ những gì mình viết là hay, hay có giá trị gì cho người khác. Tuy vậy, anh vẫn gửi đi. Anh nghĩ đó là sự thể hiện mối quan tâm tới người khác, ý muốn hòa đồng, chia sẻ với người khác, và tình thương yêu cuộc sống của anh. Anh làm hết những gì mình có thể làm, vậy là anh thấy yên ổn trong lòng.
- Chắc anh Quân có làm thơ? Hôm nào anh cho em đọc với nghe.
- Anh không có năng khiếu về thơ ca như Huy đâu. Thơ anh dở lắm. Nói đúng ra, đó không phải là thơ, mà đơn giản là những suy nghĩ xếp thành vần. Để rồi anh sẽ đưa Huy đọc. Thôi, ngủ đi Huy. Đêm nay là ém quân vào cứ điểm rồi. Ngày mai sẽ là một ngày vất vả...
Huy nghiêng người, nhắm mắt lại. Anh rơi vào giấc ngủ ngay sau đó.
Chương 8
PHẦN HAI
Tiểu đoàn đã trở về hậu cứ, sau mấy tháng dài ròng rã hành quân cơ động chiến đấu ở vùng biên giới. Trên đường về, khi mọi người bắt đầu trông thấy những làn khói lam mỏng mảnh tỏa lên trên hàng cây thốt nốt ,và những mái tranh xam xám đã thấp thoáng hiện ra sau lớp bụi mù mịt của đoàn xe đi trước, ai cũng vui sướng, xúc động không tài nào tả xiết. Giã từ những cánh rừng hiu quạnh! Giã từ  miền đất bạc màu cằn khô biên ải! Phum  làng thân mến ơi! Các mẹ, các chị, các em gái Khmer mến thương ơi! Chúng tôi đã trở về!
Dọc đường về, Huy cứ đứng bám vào thành chiếc xe Zin, nhìn ngó một cách khao khát không biết thỏa những túp nhà sàn nhỏ xíu, tả tơi nằm dọc hai bên lề con đường đất. Những bà cụ, ông lão, những cô gái, chàng trai, những đứa trẻ con Khmer đang náo nức hân hoan vẫy chào các “boòng coong tóp Việt Nam” Anh bộ đội Viêt Nam vừa trở về từ mặt trận. Họ hò reo ơi ới khi mấy chiếc xe chạy tới gần:
“Việt Nam Campuchia xa-ma-ki!” Việt Nam-Campuchia đoàn kết!
“Xốc-xơ-bai chờ-rờn boòng bôn coong-tóp ná!” Mạnh khỏe nhiều anh em bộ đội nhé!
Và những người lính cũng đồng thanh reo hò đáp trả:
“Việt Nam Campuchia xa-ma-ki, xi bò-hóc, xốc-xơ-bai, tâu xa-ngai, nức bò-hóc!” VN-Campuchia đoàn kết, ăn bò hoóc khỏe mạnh, đi xa nhớ bò hoóc!
“Ôn sa-rây ơi! Xa-lanh boòng tê?  Boòng xa-lanh ôn chờ-rờn ná!” Em gái ơi,có yêu anh không? Anh yêu em lắm!
Tiếng cười khanh khách trong trẻo của các cô nàng thôn nữ vẫn còn văng vẳng đuổi theo đoàn xe một quảng xa, vượt lên tiếng động cơ nổ òm òm.
Hơn ai hết, Huy thấy lòng rưng rưng một nỗi xúc động êm ái. Từ nhỏ đến lớn, Huy sống ở thành phố. Anh đã quen với sự đông đúc, náo nhiệt, quen với sự có mặt của bao người quen lạ xung quanh. Thế rồi đột nhiên Huy trải qua gần nửa năm trời với một cuộc sống mới mẻ khác thường - không có ai ngoài đồng đội; không có gì ngoài những đồi, những lũng, những rừng mênh mông quạnh quẽ. Huy không ngờ mình lại xúc động đến như vậy khi trông thấy lại những phum làng và những người dân. Như thể đây không phải là nơi xa lạ, có những con người xa lạ với anh, mà chính là nơi Huy đã rất thân quen, gắn bó. Như thể đây chính là xóm cũ, quê xưa xa cách đã lâu.
Từ biên giới về đến Cứ mất hai ngày đường. Buổi chiều ngày thứ nhất khi xe chạy ngang qua thị xã Batdomboong, ánh chiều tà đã sắp nhường cho bóng tối. Xe chạy qua khu thị tứ xa rồi, mà Huy vẫn còn ngoái đầu lại mãi. Anh đăm đăm nhìn quầng ánh sáng của những bóng đèn điện trắng vàng mờ tỏ hắt lên chân trời, lòng cồn cào nỗi nhớ thành phố quê hương.
Cuối cùng, sau hai ngày rong ruổi, ba lô, súng ống, lính tráng chen chúc loi ngoi trên những chiếc xe như những con cá mòi lèn cứng trong hộp cá, họ đã về tới Cứ.
Bấy giờ  đã là đầu tháng Tư - tháng đầu mùa thu hoạch của cây trái trong vườn. Mặt bằng Cứ vốn là một khu vườn xoài rộng lớn, nên vây quanh những căn nhà là những gốc xoài già đang oằn trái cỡ nắm tay.
Ở đây, trung đội có ba nhà và một căn chái nhỏ làm nhà bếp. Nhà cán bộ trung đội nằm giữa, cách mười mét là nhà bếp, hai căn còn lại nằm hai bên cánh, cách căn giữa chừng năm mươi mét. Những trung đội trực thuộc khác của tiểu đoàn - DKZ, Cối 82, Thông tin, Trinh sát, Vận tải - nằm nối tiếp nhau với cùng một cách bố trí, tạo thành một vòng tròn khép kín. Nhà tiểu đoàn bộ nằm giữa vòng tròn này.
Huy ở căn nhà giữa cùng Quân và mấy số súng khác, hai căn hai bên là của hai khẩu đội đại liên. Hôm mới về, mấy căn nhà trông thật hoang tàn. Trừ căn giữa còn có Nam, Bùi, Qui ở, hai căn kia nhện giăng tứ phía, mối đùn lên giữa nhà mấy ụ, xen lẫn với những túm cỏ gấu, cỏ gà... Cột kèo cũng bị mối xông mục nát gần hết. Mấy tay ở nhà giữ  Cứ ham chơi, cứ suốt ngày lê la ngoài dân, có khi còn ăn cơm luôn với họ mãi đến chiều tối mới về. Không ai để ý chăm  sóc, dòm chừng nên nhà cửa mới hư hại như vậy. Ở vùng này, nhà không có người là bọn côn trùng mối mọt và cỏ dại sẽ xâm chiếm, tàn phá rất nhanh. Trung đội mất hơn một tuần đi chặt tre, cắt đưng, lá thốt nốt để sửa sang nhà cửa, đào đắp củng cố lại hầm hố, giao thông hào và phát quang quanh nhà.
Sau giờ công tác, Mợi lác và Già Hương dẫn Huy đi vòng vòng ra phum chơi, thăm viếng những người quen. Tiểu đoàn đã về dựng Cứ ở gần phum Chan Đai này từ đầu 1983, tính ra đến nay đã hơn hai năm. Do vậy, cánh lính cũ có khá nhiều người quen biết. Anh em ta cứ ra phum là trở thành người trong nhà của những cư dân hồn hậu, tốt bụng này ngay. Họ xưng hô với các ông bà lão là ba mẹ, với các cô gái là anh em, chị em một cách tự nhiên, thân thiết; và được đối xử thân thiết không kém.
Huy cứ ngẩn người, phục lăn khi thấy Già Hương và Mợi lác nói chuyện một cách rôm rả, thoải mái với mọi người. Anh thầm nghĩ phải cố gắng học thật nhanh tiếng Khmer để nói được, nghe hiểu được như họ.
Ở các huyện vùng tây bắc này, đi trên những cánh đồng cò bay thẳng cánh, thỉnh thoảng khách bộ hành sẽ trông thấy một vài cụm cây cỏ vạch thành một nét xanh lam lấp ló ở chân trời. Đó là những cây cối hoang dại mọc vây quanh bìa của một phum. Băng qua khoảng cây dại, bụi lùm này vài trăm mét, những túp nhà sàn đã hiện ra trước mắt người khách lạ.
Giả sử có một người nào đó có thể đứng lơ lửng giữa bầu trời ở độ cao vài trăm mét nhìn xuống, anh ta sẽ nhìn thấy rải rác nổi lên trên nền vàng màu cỏ úa của vùng đồng bằng mênh mông miền tây bắc mùa khô là những hình bầu dục xanh xanh; những đường kẻ ngoằn ngoèo trắng xám nhờ nhờ; những vệt xanh da trời; và chếch về hướng tây ghé bắc là một vệt dài xanh thẫm. Đó là các phum làng, các dòng suối, đường mương dẫn thủy, hồ nước, và những dãy núi đất với rừng cây rậm rạp tiếp giáp vùng biên giới.
Phum Chan Đai là một phum tương đối đông dân, có khoảng hai trăm túp nhà sàn lớn nhỏ  nằm quây quần thành một hình quả trứng. Một con đường đất rộng chừng sáu mét cắt đôi quả trứng Chan Đai, chạy dài từ hồ Tức Sáp ở hướng bắc, băng qua hai dãy nhà sàn của phum, băng qua trảng lúa bát ngát, và tiếp giáp huyện lỵ Thmo Puoc sau hơn mười cây số.
Ngang dọc trong phum là những con đường phụ hẹp hơn, khoảng từ một đến hai đường bò, tức là lối để những chiếc xe bò di chuyển. Nhà vườn ở đây cũng tương tự như ở các thôn xóm Việt Nam. Trước sân và quanh nhà là những vườn dâu tằm, vườn cây ăn trái : xoài, me, ổi, mít...Thường thường ở trước mỗi căn nhà sàn, kề bên bậc thang lên xuống có một cái giàn bằng gỗ cao khoảng ngang hông, đổ đầy đất mùn đen xốp, ẩm nước. Trên những giàn này là những cụm hành lá xanh non, những khóm rau ngò, rau răm tươi mát, hay những cây ớt oằn sai trái đỏ. Ở một góc bên dưới sàn là nơi nhốt trâu bò. Phía ngoài lớp rào gỗ thưa của những chiếc chuồng này thường có các đống un để xua muỗi ban đêm. Khi đi ngang những túp nhà này, Huy thường ngửi thấy một mùi lạ lẫm, tổng hợp từ mùi phân trâu bò, mùi đặc trưng của món mắm bò-hóc, mùi hoa chanh thơm cay thoang thoảng, hay mùi ngòn ngọt của bắp tươi mới hái treo lủng lẳng dưới sàn. Ban đầu, thứ mùi này làm anh khó chịu. Nhưng về sau, nó đã trở thành thân quen, thậm chí thành nỗi nhớ.
Trong phum, cư dân chia thành hai cụm nằm ở hai đầu. Cụm hướng bắc, chiếm tỷ lệ ít hơn, là những hộ khá giả, có nhiều heo cúi, trâu bò. Cụm hướng nam là những hộ nghèo, và các cặp vợ chồng son vừa ra riêng sau lễ cưới. Anh em trong khối trực thuộc tiểu đoàn thường tới lui, giao du với khu dân nghèo phía nam hơn.  
Buổi chiều ngày thứ  hai tính từ hôm về hậu cứ, Quân tập hợp toàn trung đội lại hội ý, phổ biến các công việc của tuần sau: phát quang nhà tiểu đoàn, đi chặt tre, cắt tranh lá để tu sửa, che lợp lại nhà, cuốc cỏ để đánh luống trồng rau... Sau đó, Quân thông báo tiểu đoàn đã trao quyết định thăng cấp thiếu úy và bổ nhiệm chức trung đội trưởng cho anh, thăng cấp cho một loạt các chiến sĩ từ hạ sĩ lên trung sĩ, từ binh nhất lên hạ sĩ, và gợi ý trung đội tiến hành bầu cử A trưởng cho Huy.
Quân thở dài. Anh nói nho nhỏ như tâm sự với mọi người:
- Anh em cũng biết, tôi xin được tiếp tục ở lại phục vụ quân đội, nhưng không hề muốn nhận cấp sĩ quan, không hề muốn coi đời lính như một cái nghề để theo đuổi trọn đời. Ấy cũng là vì tôi rất biết không tìm được ở đâu tình thương yêu gắn bó như ở một đơn vị cấp cơ sở tiểu đội hay trung đội. Càng lên cao, khoảng cách thân tình đó càng giãn cách xa hơn. Nhưng nay thì tôi không có cách chọn lựa khác. Hoặc tôi nhận sĩ quan, hoặc phải chuẩn bị ra quân. Khi tôi nhận sĩ quan, sớm muộn gì tôi cũng sẽ rời xa các bạn. Đời lính hợp rồi tan như bèo như mây, chẳng có gì là bền vững mãi... Mong các bạn hiểu cho tôi...
Quân cúi đầu trong không khí chợt chùng xuống, im lặng và buồn bã. Một lúc sau anh nói:
- Bây giờ, chúng ta tiến hành biểu quyết công khai. Đồng chí nào nhất trí cử Huy làm A trưởng thì giơ tay lên!
Toàn trung đội giơ tay, trừ Mợi. Anh phát biểu:
- Tôi không có chê đồng chí Huy gì cả. Qua trận đánh cứ 201 vừa rồi, Huy tỏ ra là một tay ngon lành đó. Nhưng Huy còn mới quá, trong khi đó, lính 82, 83 lại là thuộc cấp, tôi e khi đụng chuyện Huy khó được chấp hành theo. Tôi nghĩ còn nhiều thời gian cho Huy tự khẳng định mình, học hỏi thêm. Tôi đề cử đồng chí Thiện.
Quân nói:
- Điều này tôi có nghĩ đến. Nhưng chính mọi người đề cử thì không lo anh em không chấp hành mệnh lệnh của Huy. Tuy nhiên, tôi cũng thấy nên có thêm một thời gian nữa, để Huy học hỏi thêm kinh nghiệm của đàn anh. Huy nghĩ sao?
Huy nghiêng người về trước, nói chậm rãi:
- Tôi rất đồng ý với ý kiến của anh Mợi và anh Quân. Tôi xin được tiếp tục giữ vị trí xạ thủ hai thêm một thời gian nữa. Cương vị khẩu đội trưởng thật sự vượt quá khả năng của tôi bây giờ.
Thiện xin phát biểu. Anh nói rổn rảng:
- Các đồng chí cũng biết, lính 82 tụi tôi hoặc cuối năm nay, hoặc đầu năm sau là đã ra quân. Anh em đề cử thì tôi cũng sẵn sàng nhận thôi. Tôi chỉ mong Huy và mấy đồng chí trẻ tích cực học hỏi tụi tôi, để sớm thay thế cho mấy anh già này, hoàn thành nhiệm vụ chung, không để mất tiếng trung đội.
Quân gật đầu. Anh hỏi lại:
- Vậy là tất cả đồng ý đề cử anh Thiện làm khẩu đội trưởng phải không? Trung đội còn có ai có ý kiến gì khác?... Giải tán!
Huy đứng lên, bước tới Mợi lác, kéo tay anh:
- Anh Mợi! Anh dạy tiếng K cho em với. Mỗi ngày chừng  hai chục từ thôi.
- Trời, mỗi ngày hai chục từ ! Mày tưởng dễ như vậy hay sao! - Mợi cười hì hì, bắt đầu phịa - Hồi đó tao tôn ông Lãm lính 78 làm sư phụ, mỗi ngày đấm lưng cho ổng bốn cử sáng trưa chiều tối. Mà ổng dạy cho tao mấy từ biết không Huy? Năm từ! Mày thấy đó, học đâu chỉ đơn giản là học... Thôi, mai kiếm cái gì về cúng tổ bái sư, rồi tao dạy cho. Ba bửa là mày ra nói với dân rôm rốp ngay. Hề hề, mà cũng chỉ ba bửa là tao hết chữ! Mày muốn nói giỏi thì nên bái thằng Lý đó. Nó tán được cả con nhỏ Sa Piên hoa khôi phum này là mày đủ biết. Cỡ tao thì ăn thua gì.
- Vậy thì em sẽ học cả hai chứ sao.
- Ờ Huy, tối nay tao dẫn mày ra phum nhảy lăm thôn vui lắm. Lúc chiều ghé nhà phum trưởng tao thấy ổng đang chuẩn bị mấy cái bình ắc quy và đèn đóm.  
- Tối đâu có ra phum được anh Mợi. Tiểu đoàn đã có lệnh cấm rồi mà.
- Mày đúng là ngây thơ. Cấm thì cấm, còn mình đi là chuyện của mình. Hơn nhau là chỗ đó đó Huy. Lính mà, làm sao hiền như thầy chùa được!
- Vậy để em xin phép anh Quân đã.
Mợi lác xua tay lia lịa:
- Mày đừng có nói, cứ đi đại đi. Ổng không cấm cản gì đâu, nhưng cũng không tiện công khai đồng tình chuyện này. Nói mắc công ổng lo cho mình thêm. Cứ lén đi thôi. Giờ mày có làm gì thì làm đi, rồi chuẩn bị tư thế, hễ nghe tiếng tao huýt sáo là chuồn.
Khoảng bảy giờ tối, ngoài đầu hồi có tiếng huýt sáo lanh lảnh nhái theo một điệu hót ngẫu hứng của chim họa mi. Huy đang nằm trên võng chờ đợi vội bật người dậy, len lén ngó Quân. Anh vẫn đăm chiêu cắm cúi làm việc dưới ánh đèn tù mù, không quan tâm gì đến tiếng huýt sáo. Từ nãy, Huy đã rất nôn nao khi nghe tiếng đàn cò và tiếng kèn trống náo nhiệt được khuếch đại qua loa từ ngoài phum vọng vào. Những điệu nhạc lạ tai nhưng rất rộn ràng thôi thúc.
Huy đi ra khỏi cửa. Trong bóng tối, Già Hương, Mợi lác và Lý đang đứng, tay mỗi người cầm một chiếc đèn pin Trung quốc. Huy thì thào:
- Có cần đem theo súng không mấy anh?
- Không cần, phum này không có gì đâu Huy. Nhưng mày bỏ túi một trái “ổi xá lị” cho chắc ăn cũng được. - Lý nói.
- Vậy chờ em tí xíu.
Huy đi vào nhà, móc trong túi cóc ba lô quả lựu đạn mi ni nhỏ xíu màu vàng chanh mà anh đã thu được trong trận vừa rồi nhét vào túi quần. Huy vừa quay lưng, Quân chợt cất tiếng hỏi:
- Em ra phum hả Huy?
- Dạ... dạ... - Huy ấp úng.
- Em nhớ nhắc tụi nó về sớm một chút. Thôi đi đi.
Huy thở phào, bước lẹ ra ngoài.
Họ đi theo lối tắt băng qua đội hình của trung đội thông tin, lôi kéo thêm vài tay ở đây, rồi vượt đường giao thông hào. Đi thêm khoảng trăm mét nữa qua một khóm bụi rậm, căn nhà gần nhất đã hiện ra. Tiếng đàn tiếng trống nghe đã sát gần bên. Ở hướng bắc giữa phum có một khoảnh đất rộng trước ngôi chùa, đó là nơi dân làng hội họp, nhảy múa hay tổ chức những buổi diễn “lờ-khon” Một loại hình hát tuồng của Campuchia. Ánh đèn điện hắt một quầng sáng mờ nôn nao trên màn đêm thẳm.
Huy có cảm giác dường như trên những vòm cây tối trên đầu, mấy cành lá đang xôn xao, náo nức thì thầm những lời tình tự. Tiếng gió thoảng mơ hồ lẫn khuất trong tiếng nhạc ồn ào nhiệt náo như  những tiếng thở run run rất khẽ; như lời thì thầm ngọt ngào của một cặp tình nhân. Hương đêm quánh lại, đậm đà. Toàn bộ không gian có một cái gì đó cứ chao động không ngừng tựa những lớp sóng lao xao. Dường như mùa xuân còn vương vấn đâu đây. Dường như tình yêu đang tha thiết gọi mời, đang khẩn khoản van nài những trái tim hãy mở rộng ra, ôm ghì  cuộc sống. Có phải tình yêu đang gọi tôi không? - Huy khẽ hỏi một gốc me già vừa lướt lại  sau lưng.
Cả bọn chen vào đám thanh niên. Đây đó, thấp thoáng những chiếc áo lính xen lẫn giữa đám đông vây quanh sân múa. Huy nhìn vào giữa vòng người. Khoảng chừng mười đôi nam nữ đang bước theo điệu nhạc, những cánh tay và thân người cử động mềm mại, nhịp nhàng. Mấy cô gái mặc xa-rông Thái với những màu sắc rực rỡ, ngang eo họ là những chiếc dây lưng bằng kim loại óng a óng ánh. Hầu hết đều có một thân hình mềm mại, duyên dáng đầy nữ tính. Hay là nhờ những chiếc xà-rông? Huy tự nhủ. Đêm nay, anh chợt nhận ra sự quyến rũ lặng thầm của chiếc váy dài này. Nó tôn lên những đường cong nét lượn của thân hình thiếu nữ, nó cất lên những lời thơ bay bổng nhất, ca tụng một cách dịu dàng thầm lặng những nét thanh xuân...
Mợi chợt khều khều vai Huy:
- Mày có thấy con nhỏ mặc xa-rông tím viền vàng, áo xanh đọt chuối không? Con nhỏ đứng thứ ba từ bên phải tính qua... Sa Piên đó! Đẹp không?
Huy đưa mắt dõi tìm, rồi nhìn cô gái một lúc lâu. Anh thấy khó rời mắt khỏi cô ta. Đúng là một cô gái đẹp. Thân hình thanh tú vừa có vẻ rất mảnh mai ở chiếc lưng ong, lại vừa vô cùng đầy đặn và quyến rũ ở khuôn ngực, bờ mông căng tròn dưới lớp vải mỏng manh. Gương mặt cô tươi tắn, dễ thương như một bông hoa dại đầu mùa; và một làn tóc mềm mại như tơ, đen nhánh, chảy tràn xuống hai bờ vai tròn thanh thoát. Sa Piên không đen như nhiều cô gái Khmer khác. Cô có nước da trắng mịn của một nàng tiểu thư khuê các ở  Sài Gòn. Huy chắc lưỡi:
- Ừ, đẹp thật anh Mợi ơi! Bồ của anh thật hả, anh Lý?
Lý gật đầu, cười tươi tắn. 
Trong trung đội, và thậm chí trong toàn trung đoàn, có lẽ Lý là một anh chàng đẹp trai và quyến rũ nhất. Lý cao ráo, rắn chắc như một vận động viên điền kinh. Gương mặt cương nghị, với  đôi hàng lông mày lưỡi kiếm vừa dài vừa thanh tú. Nhưng cái làm phụ nữ chú ý đến anh nhất có lẽ là cái miệng. Nó có một vẻ tươi tắn và duyên dáng không thể tả, với đôi môi dầy vừa phải, đỏ thắm như môi một nàng trinh nữ, tạo cảm giác mềm mại và ấm áp. Mái tóc Lý bồng bềnh một cách tự nhiên, một phần tóc đen biếc như lông quạ  ở phía trước rũ xòa xuống vầng trán cao rộng. Những người vừa tiếp xúc Lý lần đầu đều không cưỡng nỗi sự cảm mến, hâm mộ vẻ đẹp sáng ngời đó.
Tuy vậy, bên trong cái ngoại hình xuất sắc, Lý chỉ là một người tầm thường, rỗng tuếch và hời hợt. Anh không phải là người xấu, nhưng cũng không có đức tính gì nổi bật, và trong chiến đấu thì cũng làng nhàng như vậy - không gan lì dũng cảm, nhưng cũng không đến mức hèn nhát. Qua những ngày sống trong trung đội, Huy hiểu đa số anh em không ưa gì Lý cho lắm. Lý sống có phần ích kỷ, chỉ quan tâm đến bản thân mình. Anh giống một con công trống, suốt ngày xòe đuôi xoè cánh để quyến rũ những cô gái xinh đẹp lọt vào tầm mắt, như thể đối với anh đó là một chuyện đẹp đẽ, đáng làm nhất trên đời. Về chuyện này, Huy có phần nào đó tán đồng với Lý. Anh nghĩ - trên đời còn gì cao đẹp hơn, còn gì đáng để cho ta sẵn sàng đem cả cuộc sống ra mà đánh đổi hơn  tình yêu nữa. Nhưng dường như ở Lý có một cái gì đó, làm cho Huy có cảm giác là Lý không yêu thật sự, chưa bao giờ yêu thật sự một ai. 
Trong vòng nhảy bản nhạc đã kết thúc. Những người vừa nhảy xong lùi ra nhường cho tốp khác. Lý bước tới cạnh Sa Piên. Hai người nhìn nhau âu yếm. Lý nghiêng người người nói nhỏ bên tai cô gái một câu gì đó. Rồi cả hai len lén lui ra khỏi đám đông, biến mất.
Huy vẫn đứng cạnh Mợi và Già Hương, háo hức nhìn những người đang nhảy múa. Đợt này có cả mấy tay lính thông tin nhập cuộc. Họ bước những bước cứng nhắc, vụng về trong tràng cười vui vẻ và những câu hò reo cổ động của đám thanh niên. Già Hương bảo Huy và Mợi:
- Hai thằng bây có muốn nhảy thì đợt tới nhào ra đi. Tao già rồi, chỉ khoái đứng xem.            
- Thôi, em cũng đứng xem. Em đâu có biết nhảy, ra kỳ thấy mồ. - Huy đáp.
- Có gì khó đâu. Mày thấy không, đâu có chú đội nào nhảy ra hồn, nhưng cũng vi vu được vậy.
Chủ yếu là vui. Cứ nhào vô đi Huy, vui lắm! - Mợi khuyến khích.
Khi dứt đợt nhảy đó, Mợi nắm tay Huy lôi vào giữa vòng. Huy ngượng đỏ mặt, tay chân quýnh quáng. Nhưng mấy nàng thôn nữ đã bước tới bắt đôi. Cô gái đứng trước mặt Huy mỉm cười, nói một tràng dài. Huy chả hiểu gì, chỉ nghe thấy những tiếng líu ríu êm êm như tiếng hót họa mi. Huy chỉ còn biết nhìn cô gái cười trừ.
Tiếng nhạc đã vang lên nao nức. Huy cắn răng liều mạng bước những bước nhún ngượng nghịu, và bắt chước cô gái hoa đôi tay lên xuống nhịp nhàng. Bài nhạc kéo dài được phân nửa thì nỗi e ngại, ngượng ngùng của Huy biến mất. Tim anh không còn đập thình thịch liên hồi nữa, đôi chân cũng dẻo lại tự tin. Huy bắt đầu cảm thấy quen thuộc và thích thú hoà nhập vào điệu nhảy. Chân tay anh cử động theo điệu nhạc một cách tự nhiên, vô thức. Điệu nhảy qua nhanh đến không ngờ trong niềm luyến tiếc của Huy.
Chương 9
Trung đội đã lợp xong mái mới, thưng lại vách cho cả mấy căn nhà. Họ đánh tranh bằng lá thốt nốt xin chặt ngoài phum. Mùi lá mới thơm thơm, màu lá mới xanh dịu, những căn nhà trở nên mới toanh, tràn ngập một không khí bình yên và tươi mát.
Nhà trung đội đẹp và ấm cúng hơn lên nhờ mấy “lọ hoa”. Sau giờ công tác, Phái điển đã ra phum, ra đồng lùng một số hoa về cắm vào mấy cái lọ tự chế bằng can nước cắt ra. Hoa loa kèn xanh biếc. Hoa phượng vỹ, hoa vông đỏ rực. Hoa cúc dại tím mơ màng. Mấy nhánh hoa được sắp xếp một cách đơn giản nhưng độc đáo. Không ngờ trông lù khù thế mà Phái có con mắt thẩm mỹ thật là tinh tế. 
Chiều xuống. Sau giờ cơm, Thiện bảo:
- Tối nay, tao sẽ cho mấy đứa bây thưởng thức một món đặc sản. Bảo đảm không nhà hàng nào có thứ tuyệt chiêu này.
Thiện gom tất cả những thau chậu, mấy cái nắp xoong để đầy trên bàn, trên mặt đất giữa nhà. Sau đó, anh đổ một ít nước vào đó. Bọn Huy, Phái, Tiến... tò mò theo dõi Thiện. Họ đoán già đoán non mãi vẫn không nghĩ ra anh định làm gì.
Chuẩn bị xong, Thiện xoa tay cười bí ẩn. Huy không nhịn được, cất tiếng hỏi:
- Anh làm gì vậy? Sao bảo đãi tụi em một món, mà không thấy mồi, cũng không thấy chuẩn bị bếp núc gì hết vậy. Mấy thau dĩa đựng nước này là nghĩa làm sao?
- Đừng có nóng ruột. Lính nghĩa là phải biết kiên nhẫn.- Thiện vẫn khư khư giữ  vẻ bí mật.  
Những tay lính cũ như Già Hương, Quân, Ụ mối chắc từng biết rồi, nhưng cũng chỉ cười cười không nói, làm bọn lính trẻ tức điên vì thắc mắc.
Bóng đêm đã nhạt nhòa ập xuống. Thiện bảo:
- Giờ tụi bây chạy qua bếp lấy thêm mấy cây đèn dầu qua đây.
Sau đó,Thiện đốt  tất cả đèn gom được lên, đặt giữa những thau nước. Anh hỏi Phái:
- Dầu ăn còn không Phái điển?
- Còn.
- Vậy là xong. Nửa tiếng nữa tụi bây có đồ nhắm.
Đèn thắp lên không lâu, thì hàng đàn hàng lũ mối rừng đã rủ nhau đến. Chúng bay vòng quanh ánh lửa, rồi rớt xuống, vùng vẫy loi ngoi trong lớp nước. Những con mối ở đây rất to, bụng chúng tròn căng múp míp.
Huy trợn mắt hỏi Thiện:
- Anh không định nói là sẽ chế biến mấy con mối này chứ?
- Chứ còn con gì nữa. Sao mày thông minh mà chậm hiểu vậy Huy! -Mợi nói.
- Ý trời!  
Thiện  khoanh tay trước ngực, cất giọng giảng giải:
- Những con mối, cào cào hay dế cơm... là thứ tráng miệng thanh lịch nhất của những con người thanh lịch nhất đó, tụi bây có biết không! Đó là một nền “văn minh văn hóa ẩm thực” vô cùng độc đáo của các dân tộc vùng cao! Đâu có phải tụi bây muốn là có được. Phải có mùa có vụ, có lúc có nơi. Ví dụ, tụi bây ở thành phố, làm gì có những con mối mập ú chất lượng như vầy!.               
Khi số lượng mối bay vào đã giảm tới mức không đáng kể, Thiện thổi tắt bớt, chỉ chừa lại một ngọn đèn. Anh gom tất cả “mồi” lại  trong một thau, rồi bảo Phái:
- Theo tao qua bếp.      
Nhoáng sau, không đầy năm phút, họ đã quay trở lại. Trên tay mỗi người là một cái dĩa đầy ú ụ nhũng con mối tròn quay, bóng mỡ. Một mùi thơm ngậy tỏa ra thật  quyến rũ mấy cái miệng phàm ăn.
Thiện bảo:
- Thôi, nhập tiệc. Tiếc là trà đã hết rồi. Nếu không, thưởng thức xong món này mà uống trà thì thật là đúng sách đó.
Huy, Phái, Tiến... tròn mắt nhìn những người khác nhâm nhi mấy con mối rang  một cách ngon lành. Quân cười:
- Đừng có sợ. Mấy con mối này sạch lắm. Tụi em cứ ăn thử xem.
Phái điển hơi ngại ngần nhón lấy một con đưa lên ngửi ngửi, rồi chắc lưỡi:
- Thơm quá. Hấp dẫn quá!  Thôi liều mạng thử xem.
Phái nhắm mắt, hả to mồm bỏ con mối vào. Mặt anh nhăn nhó như  uống phải thuốc sốt rét bị bóc vỏ ngoài ,nó nhúm lại rồi giản ra ngay, cái miệng nhóp nhép một cách vô cùng khoan khoái. Phái la lên:
- Hết xẩy! Tuyệt vời cú vọ! Nè, ăn đi Huy, Tiến. Ngon lắm.
Miệng nói, tay anh đã bốc thêm mấy con nữa bỏ vào mồm.
Huy bước tới, nhón một con. Anh nhai chậm rãi. Một vị beo béo, ngầy ngậy như đậu phọng rang tan ra trên đầu lưỡi. Nhưng ngon hơn đậu rang nhiều! Ăn một con rồi, miệng sẽ thòm thèm muốn ăn tiếp con thứ hai. Rồi con nữa. Con nữa. Cứ thế, Huy tham gia tích cực vào cuộc khám phá “nền văn hóa ẩm thực của dân tộc vùng cao” một cách rất là sốt sắng. Chả mấy chốc, bốn dĩa mối rang đã bay vèo. 
Ăn xong món mối rừng độc đáo, dường như mọi người có phần hưng phấn hẳn lên. Phái điển đột nhiên đề nghị:
- Hôm nay, sao bỗng dưng tui thấy nôn nao trong lòng quá! Tui sẽ kể cho mấy anh nghe một câu chuyện. Chuyện tình đầu của chính Phái điển này.
Mọi người vỗ tay hoan hô, cỗ vũ tinh thần tự nguyện cống hiến vô cùng bất chợt của Phát. Huy vừa cười reo, vừa tự hỏi bằng con đường ngoắt ngoéo nào, bằng mối dây liên tưởng cực kỳ tế nhị nào, mà từ những con mối rừng rang béo ngậy lại dẫn đến cảm xúc tình yêu trong tâm hồn Phái điển. Nghĩ mãi, cuối cùng Huy đành chịu không thể hình dung được, anh chỉ suy ra rằng trường hợp của Phái điển là một ví dụ sinh động về khả năng liên tưởng phong phú, đa dạng và phức tạp của con người.
Họ đem mấy chiếc chiếu ra trải ngoài sân, rồi ngồi xuống. Trăng bán nguyệt đổ xuống một thứ ánh sáng bảng lảng mơ màng. Gió hè ru khe khẽ trên những táng xoài. Không có trà, nhưng Phái cũng đã cất công đi hái lá hà thủ ô về nấu nước. Khi mọi người đã ngồi yên chỗ, Phái cất giọng kể:
"Chính xác là mười tháng năm ngày trước khi nhập ngũ, tui đã gặp nàng lần đầu tiên. Hồi đó, tui theo một ông cậu họ đi làm hồ lặt vặt để kiếm tiền xài. Hai cậu cháu đang làm tại một căn nhà nằm trên đường Điện Biên Phủ, gần Ngã bảy, đối diện với rạp hát Long Vân. Tui lãnh phần sơn các cánh cửa sổ, cửa cái của ngôi nhà.
Một lần, trong khi đang sơn cái khung cửa sổ trên lầu một, tui chợt trông thấy ở phía ngoài con hẻm bên dưới có một cô bé đi ngang. Cô bé đó độ chừng mười bốn, mười lăm tuổi. Chắc chắn là cô ta chưa qua hết cấp hai, vì trên cổ cô vẫn còn quàng chiếc khăn quàng đỏ. Còn tui lúc đó vừa qua mười tám tuổi được vài ba tháng. Vừa nhìn thấy cô bé, tui biết sét ái tình đã giáng cho tôi một đòn chí tử! Tui đứng chết trân, nhìn xuống dưới, dõi theo mãi đến lúc cô ta đã bước vào một ngôi nhà gần đó. Tâm hồn tui đã bay lên trời, hoặc là chìm xuống biển. Một cảm giác rất lạ lùng, trước đó tui chưa từng biết..."  
Phái ngưng lời, rót một ít nước ra chén, đưa lên nốc một hơi dài cạn chén. Rồi im lặng. Vẻ mặt Phái chợt sáng bừng, rạng rỡ, trông lạ hẳn đi, và đẹp nữa! Một lúc sau, anh tiếp tục.
"Tui không rõ nàng đẹp hay xấu như thế nào theo nhận xét người ngoại cuộc. Ngay từ lúc ấy cho đến bây giờ, tui không tài nào hình dung được một cách rõ ràng gương mặt hình dáng của nàng. Chỉ biết là với tui, nàng kỳ diệu như một công chúa nhỏ trong truyện cổ tích. Trong tưởng tượng của tui, nàng là tất cả những gì đẹp đẽ và thiêng liêng nhất. Thật ra thì lúc ấy nàng vẫn còn là một cô bé con miệng còn hôi sữa…"
Huy lại một lần nữa ngạc nhiên cực độ. Phái nói thật văn hoa bóng bẩy và lôi cuốn. Một Phái thường ngày im ỉm bỗng dưng thoát xác, trở thành một nhà thơ ca tụng một nàng con gái. Tình yêu đã tạo ra phép lạ!   
"… Rồi mấy ngày sau, tui đến chỗ làm thật sớm, đứng ở đầu ngõ chờ gặp nàng đi học ngang qua. Buổi trưa, tui chờ bên khung cửa sổ để được trông thấy nàng đi học về. Tui chỉ gặp nàng mỗi ngày đôi lần ngắn ngủi, nhưng những ngày đó là những ngày hạnh phúc nhất tui từng biết.
Tui phát hiện ra nàng có một thằng em, khoảng chín mười tuổi. Tui bắt đầu vạch ra kế hoạch chinh phục thằng nhóc. Nó sẽ là cầu nối tình yêu cho tui đến với nàng. Tui bắt chuyện, làm quen với nó. Tui phịa ra hàng loạt câu chuyện phiên lưu mạo hiểm ly kỳ để kể cho nó nghe. Và tui mua cho nó nào cà rem, nào kẹo bánh... Trong hai ngày, tui đã thân với nó hơn bất kỳ ai khác.
Nó kể về bà chị mình cho tui nghe. Nàng tên Thu. Nàng học lớp chín. Và nàng rất dữ! Nàng chưa bao giờ tỏ ra là một bà chị dịu dàng với nó. Nhưng đó là ý kiến riêng của nó! Dù cho nàng như thế nào, thì trong lòng tôi, trong mắt tui, trong giấc mơ tui, nàng vẫn là cô công chúa số một trên đời.  
Việc sửa chữa căn nhà đã sắp xong. Chỉ đôi ngày nữa là tui phải theo ông cậu đi làm ở một nơi khác, hoặc là lại trở thành một tên thất nghiệp. Tui quyết định phải gặp gỡ nàng trước khi phải xa nàng không biết bao giờ gặp lại. Tui suy nghĩ. Tui lục lại mớ truyện tình cảm tâm lý xã hội của bà chị ở nhà, để tìm một giải pháp tối ưu. Nhưng cái mớ tiểu thuyết ấy chỉ rặt những cuộc gặp gỡ đầy gượng ép theo ý đồ tác giả. Tui thất vọng quá, chẳng biết phải làm gì.
Ngày làm việc cuối cùng đã đến. Tui thu dọn mấy thứ dụng cụ làm việc, lau sạch mấy vệt sơn trên nền gạch, chỉ khoảng hơn một tiếng là xong hết. Không còn việc gì để làm nữa, tui lại ngồi nghĩ cách gặp nàng. Đột nhiên tui nảy ra một ý. Tui tìm thằng nhóc.
May cho tui, hôm ấy là Thứ Năm, nó được nghỉ học. Tui đứng ngóng trước cửa một hồi thì thấy nó lững thững đi ra. Tui vẫy nó. Nó chạy đến, cười toe toét:
- Anh Sơn! (Vì lúc đó, tui làm thợ sơn, nên nó kêu bừa như vậy.) 
- Nè nhóc, mày vào nhà lấy cho anh một tờ giấy đôi với một cây bút. Lẹ lẹ nghe hôn!
- Chi vậy anh? - Nó thắc mắc, rồi tự giải đáp ngay (Phải công nhận là nó, thằng em vợ tương lai của tui, khá thông minh. Nàng có thông minh hơn nó không? Tui cầu trời là không!)
- A! Anh tính viết thư cho chị Thu phải không!
- Cho là vậy đi. Mày đi lấy mau lên.
Nó mang ra cho tôi một tờ giấy. Tui hỏi:
- Còn viết đâu?
- Viết em mới bị rớt xuống đất cong ngòi rồi.
- Trời đất! Sao mày khờ quá vậy. Kiếm cây khác!
- Em chỉ có một cây hà. Của chị Thu em không dám lấy. Chỉ nhéo đau lắm!       
Tui vò đầu chán nản nhìn thằng nhóc.
- Thế có bút chì không? - Tui hỏi
- Có.
- Vậy thì lấy bút chì. Đi đi!  
Hơi trục trặc như vậy, nhưng cuối cùng tui cũng viết xong lá thư tỏ tình đầu tiên trong đời mình. Nó thật là quái chiêu. Có lẽ đó là một lá thư tỏ tình có một không hai từ trước đến nay, và cả vài trăm năm sau nữa! Một lá thư tình viết bằng bút chì! Và chỉ có vẻn vẹn bốn câu thơ, với hình vẽ nguệch ngoạc một cái miệng đang cười, nhe ra một hàm răng sún!
Bốn câu thơ là do tui đọc được đâu đó trong mấy quyển lưu bút của bọn bạn gái cùng lớp. Nó như vầy:
Chân có bằng lòng cho chân theo với?
Tóc có bằng lòng cho một sợi thôi?
Mắt có bằng lòng trông nghiêng chờ đợi?
Tim có bằng lòng giữ hộ tình tôi?
Còn cái miệng cười là “tác phẩm” của chính tui! Tui cũng không biết tại sao mình lại vẽ như vậy nữa. Có lẽ là bốn câu thơ có vẻ nhỏ nhoi ít ỏi quá trong cả một tờ giấy đôi.
Dù sao thì tui cũng rất hài lòng và đắc ý với lá thư độc đáo của mình. Tui xếp tờ giấy lại làm tư, đưa cho thằng nhóc, dặn dò:
- Trưa nay Thu đi học về, mày đưa cho nó! Chờ nó đọc xong, nghe coi nó nói gì. Nhìn xem nó có thái độ ra sao. Sau đó ra báo cáo tao ngay nhe.  
Chưa thật sự an tâm, tui động viên thêm:
- Cố gắng đi. Xong việc, tao sẽ chở mày đi Sở thú xem mấy con khỉ đột làm trò. Và đãi mày một chầu kem ba màu ngon hết xảy luôn!
Từ lúc đó, tui hồi hộp chờ tin. Tui mua một khúc bánh mì, ngồi gặm ngay tại khung cửa tình yêu, không rời mắt khỏi cánh cửa nhà nàng.
Mười hai giờ kém mười, nàng đi học về ngang.
Mười hai giờ kém năm. Cửa nhà nàng mở toang đột ngột.
Một bà xồn xồn bước ra. Tay bà lôi xềnh xệch thằng nhóc “em vợ  tương lai của anh Sơn!” Bà gầm lên:
- Chỉ cho tao thằng Sơn là thằng nào! Đồ trời đánh! Con người ta còn con nít mà nó đã bày đặt dụ dỗ rủ rê rồi!...
Có lẽ bà ta còn chửi rất nhiều, nhưng  tui không kịp nghe thấy nữa. Tui phóng xuống thang lầu, chạy vù ra cửa, nhảy lên chiếc xe đạp, mặt mày xanh lét. Ông cậu tui đang ngồi trước sân ngạc nhiên hỏi :
- Mày đi đâu vậy, chờ chút xíu tao nhận tiền công rồi về luôn.
Tui lắc đầu:
- Con về trước. Có việc gấp!  
Tui đạp xa căn nhà mấy trăm mét rồi vẫn chưa kịp hoàn hồn, tim vẫn còn nhảy lam-ba-đa trong lồng ngực.
Hôm sau, tui lò dò đến Ngã Bảy. Tui không dám mò tới gần nhà, mà đứng ở cách đầu hẻm chừng mười mét, chờ mong một cách tuyệt vọng thằng em vợ hụt của mình.
Cuối cùng, tui cũng tóm được nó. Tui trợn mắt hỏi:
- Mày làm sao mà  như vậy hả, thằng ôn con?
Nó nhăn mặt:
- Đâu phải tại em! Em chờ chị Thu vừa về tới, là mang thư anh đưa chỉ ngay. Nhưng em mới móc trong túi ra lá thư thì bà cô em nhìn thấy. Bả hỏi cái gì. Rồi bả tới giật lấy mở ra xem. Rồi bả chửi um xùm. Em còn bị quất mất cái vô mông đau điếng nữa đó!
Tui muốn ngất đi. Vậy là Thu của tui vẫn chưa kịp đọc lá thư. Tui cố lấy bình tỉnh hỏi nó:
- Rồi sau đó, Thu có hỏi mày gì không?
- Chỉ cứ lêu lêu chọc em là bị đòn đáng đời lắm!
- Trời! - Tui chỉ còn biết kêu lên."
Phát ngước lên, nhìn về phía vầng trăng, kết luận:
- Chuyện tình đầu của tui vậy đó. Tui đã thất bại một cách thê thảm ngay từ vòng loại... và chuyện thì chả có gì, thế mà tui cứ nhớ mãi không quên. Không biết giờ đây nàng có lớn thêm được tí nào không, cô công chúa nhỏ!
Mọi người im lặng. Họ xúc động vì sự giản dị, ngây ngô của câu chuyện. Một chuyện tình thật lạ lùng, không đầu không đũa , không có cả một kết thúc đúng nghĩa. Nhưng vẫn đúng là một chuyện tình. Và rất dễ thương. 
Phát nói thêm sau một hồi trầm ngâm:
- Sau đó, tui không bao giờ trở lại nơi đó nữa. Tui muốn giữ mãi trong lòng hình ảnh không thể nào phai nhòa được về một cô bé ngây thơ.         
Câu chuyện của Phái làm cho mỗi người chợt nhớ tới những kỷ niệm của riêng mình. Họ ngồi nghiêng người sát bên nhau dưới ánh trăng giờ đây nhuộm khắp không gian một màu sữa đục. Ánh trăng chở họ về miền thơ dại xa xôi, nơi có dòng sông xanh biếc, có những đám cỏ may êm ái ven bờ, có mây trắng bềnh bồng và tiếng sáo ru dìu dặt.
Sáng hôm sau, khi đã làm xong một vài việc lặt vặt, Huy ngồi viết thư. Anh định viết để sẵn đó rồi có dịp sẽ gửi về nhà. Sáng nay trời đẹp; và lòng Huy chợt rộn ràng xao động một niềm vui  rất lạ.  
Đêm qua, Huy đã mơ những giấc mơ đẹp đẽ. Những giấc mơ không đầu không cuối, tràn ngập những màu sắc ảnh tượng kỳ diệu lung linh. Mọi người quen lúc ban ngày trong mơ đều xinh đẹp và hạnh phúc. Huy mang máng nhớ hình như đã gặp một cô gái trẻ có đôi mắt nâu ngơ ngác và một mái tóc rối xỏa như mây, giấc mơ bảo Huy đó chính là Thu. Và một con tàu có cánh buồm đỏ thắm, Huy đột nhiên trở thành thuyền trưởng của con tàu đó. Và một sa mạc lạ lùng với những giải cát trong suốt màu lam, trên mọc đầy hoa mua tím biếc. Rồi chợt có một đám tiệc gì đó rất tưng bừng vui vẻ, với những dây đèn hoa giăng kín và những dây pháo đỏ dài thòng tới đất. Đang khi hớn hở nhìn dây pháo đỏ  nổ tạch đùng thì  Huy chợt giật mình thức giấc. Anh mở mắt ra và bắt gặp Tiến đang gõ khe khẽ vào thanh ngang đầu giường đánh thức mình để bàn giao ca gác.  
Huy viết một mạch không ngừng hai trang giấy khổ to. Viết xong, anh chậm rãi đọc lại, gật gù với vẻ hài lòng. Anh cất lá thư, rồi bước ra ngoài.
Mặt trời đã lên cao. Nắng vàng mênh mông và ấm áp. Cây cối xanh rì run rẩy xôn xao trong ánh nắng. Hình như  không khí mùa xuân vẫn còn vương lại. Huy chợt nhớ ra hôm qua Ụ Mối có bảo bốn ngày nữa là mười lăm tháng Tư, ngày tết Chol Snam Thmei - tết cổ truyền của dân tộc Khmer. Ụ Mối đã trải qua một cái tết này rồi. Huy bỗng thấy nôn nóng muốn ra phum để xem những người dân chuẩn bị ăn tết. Ắt hẳn là có nhiều điều thú vị, Huy thầm nghĩ.
Một con quạ đậu trên đỉnh cây giá tỵ đằng xa chợt kêu lên mấy tiếng, rồi nó vỗ cánh bay về hướng bắc phum, chắc hẳn có ai đang mỗ heo bò gì ngoài đó. Huy dõi theo những nhịp cánh chầm chậm khoan thai của nó, chợt anh nhớ tới những bài thơ của Quân. Những bài thơ nói lên một sự kiếm tìm điều tuyệt đối. Điều tuyệt đối ấy như gần gụi trong gang tấc mà lại xa xôi vời vợi. Nó gợi lên một niềm khao khát sống- sống trọn vẹn, tròn đầy, viên mãn. Và vì rốt cuộc đó vẫn chỉ là niềm khao khát, nó gợi lên một nỗi buồn thật vĩ đại, mênh mang, một nỗi buồn vượt lên trên những lo âu, phiền muộn, đau khổ nhỏ nhoi hèn mọn của cuộc đời thường nhật, của những kiếp phận lẽ loi đơn độc, hướng về nơi cao rộng, tự do, chan hòa ánh sáng. Y như giờ đây, khi Huy nhìn theo bóng con quạ đang xoãy rộng đôi cánh lượn lờ giữa trời cao xanh thẳm, lòng Huy cũng mênh mang một nỗi buồn nhớ khát khao. Quân làm thơ không nhiều. Cuốn sổ tay anh đưa Huy mượn nhỏ cỡ nửa quyển vở học trò, dày chừng một trăm trang mà  đã bị xé đi gần nửa. Tổng cộng chỉ độ chục bài thơ. Có bài dài mấy chục câu, có bài chỉ vỏn vẹn bốn câu tứ tuyệt. Nhưng thật sự đó là những tuyệt tác, nếu như  Huy tự coi mình cũng hiểu biết chút gì  đó về thơ! Ở chúng có một sức mạnh khác thường, ở chúng hình thức và nội dung kết hợp với nhau, quyện chặt vào nhau để tạo nên vẽ đẹp, nói lên những điều to tát, mà không hề có chút khoa trương hay màu mè giã tạo. Những từ đơn lẽ là những từ đơn giản và quen thuộc. Thế nhưng khi chúng nằm cạnh nhau trong các bài thơ của Quân, được sắp xếp theo một trật tự lạ lùng nào đó, dường như có một phép màu đã thay hình đổi dạng chúng đi. Như trong chuyện Cô bé lọ lem, một bà tiên lành đã vung chiếc đũa thần biến mấy con chuột và quả bí ngô thành một cổ xe tứ mã lộng lẫy huy hoàng, những từ chợt như sống dậy, lao xao, cựa quậy, mang những ý nghĩa mới mẻ, gợi lên trăm ngàn âm thanh, màu sắc, ảnh tượng kỳ hoặc lạ thường. Huy bàng hoàng khi đọc chúng lần đầu, và vẫn bàng hoàng hệt như vậy, còn hơn nữa, khi đọc lại lần thứ hai, thứ ba… Qua chúng, tình yêu, khát khao, ước vọng… nói chung là toàn bộ cuộc sống, với những sự thật trong suốt và đơn giản không ngờ, đã phà hơi thở vào những mẫu tự khô khan, đông cứng. Huy hỗ thẹn khi nghĩ  tới những bài thơ của mình. (Vậy mới chính là thơ chứ! Thơ thẩn gì mày, hả Huy, từ nay thôi hết bày đặt nghe chưa!)
Huy còn đang đứng nghĩ lan man, thì một bàn tay bóp nhẹ vai anh. Huy quay lại. Là Quân. Quân nói:
- Huy muốn đi dự đám cưới không?
- Hả ! Đám cưới? - Huy ngạc nhiên - Đám cưới ai vậy anh?
- Một người quen. Họ mời anh và Già Hương, nhưng Già Hương đang bị sốt. Đi với anh cho vui, Huy ạ.
- Đi chứ anh. Em đang muốn ra phum đây. Tết của dân có vui không anh Quân?
- Cũng khá vui. Giống như ở miền quê bên mình. Họ cũng nấu bánh tét, bánh ít, rồi tổ chức nhảy lăm thôn, chơi ném khăn, hát a-dây, đá gà...
- Hát a-dây là sao anh?
- Nó là một kiểu hát đối đáp qua lại giữa nam và nữ, giống kiểu hò đối đáp Nam bộ của mình.
- Chà, hay quá! Đến ngày đó, mình có vào phum chơi được không anh Quân?
- Được chứ. Thôi chúng ta đi. Giờ này có lẽ họ đang làm lễ.
Dàn nhạc đang tấu một điệu khúc lễ nhạc réo rắc vui vui khi hai người tới ngôi nhà. Trong khoảng sân rộng quanh nhà, rải rác những cô gái trẻ trong những bộ áo váy xa-rông đủ màu phấp phới. Gió nhẹ và thơm. Nắng tươi như mật tràn xuống cây lá, phủ lên mái tranh trắng bạc một màu vàng sánh. Một người đàn ông trông thấy họ, bước tới mỉm cười chào. Anh ta nói với Quân điều gì đó, rồi lại mỉm cười nghiêng đầu chào cả hai,bước vội vào phía sau. Huy hỏi:
- Anh ta nói gì vậy anh Quân?
- Anh ta bảo chúng ta đứng chờ giây lát.
Huy gật đầu. Anh  kéo tay Quân bước lên phía trước, xen vào hàng người đang đứng vây thành một vòng tròn trước thang gác căn nhà. Quân bảo:
- Họ đang làm lễ “chon đai”, nghĩa là cột tay. Người ta dùng một cái khăn cột tượng trưng tay cô dâu chú rễ với nhau. Sau đó cả hai dắt nhau lên nhà, bái lạy cha mẹ họ hàng. Điều này có ý nghĩa như một sự ràng buộc cả hai mãi mãi, giống như chỉ hồng se duyên vậy.
Huy thích thú nghe Quân giảng giải. Chợt đám đông giãn ra, cô dâu, chú rễ đã tới. Hai cổ tay của họ nối với nhau bằng một giải lụa vàng thêu kim tuyến. Chú rễ chỉ đơn giản với chiếc quần tây, áo sơ mi. Trái lại, cô dâu trông thật lộng lẫy trong chiếc xa-rông Thái duyên dáng. Phía trên thân là một kiểu áo thật lạ, giống như chiếc áo của nàng vũ nữ trên bao thuốc lá Apsara, với thật nhiều nếp viền đăng ten và kim tuyến đủ màu óng ánh. Vai cô dâu còn choàng thêm một giải lụa hồng. Trên ngực của cả hai là một bông hoa vải đỏ với nhiều tua chỉ ngũ sắc phất phơ. Trông cả hai người đều trẻ trung và xinh đẹp.  
Họ dắt nhau lên thang, bước vào nhà. Huy chẳng thấy gì được nữa vì nhiều người đã đứng quanh trước cửa. Huy nhìn quanh quẩn. Ngoài sân, bàn ghế đã được kê sẵn dưới những tàng cây. Nhìn chung, mọi cái đều tương tự một đám cưới làng quê Việt Nam, trừ một vài phong tục lễ nghi đặc biệt. Huy chợt thấy nhồn nhột sau gáy, như thể  sau lưng đang có ai đó lén nhìn anh. Huy quay lại: Một đôi mắt đen láy đang chằm chặp hướng về phía Huy với vẻ tò mò và thiện cảm. Một cô gái, nói đúng hơn, là một cô bé xinh xinh, nhỏ nhắn. Chiếc áo trắng cô mặc càng làm nổi bật nước da ngăm đen, nhưng trông cô thật là duyên dáng. Huy mỉm cười với cô. Cô bé cũng rụt rè nở nụ cười đáp trả. Rồi cô chợt e thẹn cúi đầu. Huy vẫn dán mắt vào cô bé. Giây lát, cô ngẩng mặt lên, thoáng liếc qua Huy, nhưng khi vừa bắt gặp đôi mắt của anh, cô lại bối rối nghiêng người quay lưng đi nhanh ra đầu ngõ.
Huy nhìn theo cô bé, thấy vui vui là lạ. Lát sau, Huy quay lại, hướng về đám thanh niên nam nữ đứng cười nói trước sân. Các cô gái da ngăm mặt dầy phấn trắng, cong cớn môi son, đang uốn éo làm duyên trước mấy chàng thanh niên giương vây tán tỉnh. Nét mặt ai cũng tươi hơn hớn, như thể là đám cưới của chính họ không bằng. Tiếng cười nói  khi lặng lại, khi òa vỡ xôn xao. Dường như không khí tràn ngập những phân tử  vô hình đang va đập, chuyển động không ngừng. Ánh mắt Huy chợt dừng lại ở một chiếc áo xanh - Sa Piên! Cô đứng nghiêng người bên chân thang ngó lên nhà, mái tóc mềm mại lõa xõa bay trong gió. Trông cô thật là khả ái. Huy kéo tay Quân.
- Anh Quân! Bồ của anh Lý kìa!
Quân không đáp. Mặt anh trầm ngâm như đang suy nghĩ một việc gì quan trọng. Đôi mắt anh lạc đâu đó về một chốn xa xôi. Huy thôi không quấy rối Quân, anh quay lại nhìn Sa Piên ngưỡng mộ. Vẻ đẹp bao giờ cũng làm Huy thán phục và kinh ngạc: vẻ đẹp của một cành khô chơ vơ đơn độc, của một chùm hoa cúc dại nằm lặng lẽ giữa một bờ cỏ ven sông, của một chiều giông với những cụm mây xám nặng và sấm chớp kinh hồn, của núi ngàn hùng vĩ  tím mờ dần một buổi hoàng hôn muộn... Mỗi thứ đều làm Huy ngây ngất say sưa hay ngợp đi trong niềm kính ngưỡng. Nhưng vẻ đẹp cao quí, thanh khiết và bí ẩn của người phụ nữ còn mạnh mẽ hơn, đầy quyền lực. Nó làm Huy trong một khoảnh khắc nghe tim mình thắt lại, và một nỗi buồn mênh mang không rõ chợt dâng lên. Trong khoảnh khắc, nỗi buồn như có tự  ngàn xưa - nỗi buồn hẳn đã từng đè nặng xuống tâm hồn bao nhiêu tổ tiên man rợ xa xôi - khắc khoải vọng về như tiếng chuông ngân rền rĩ âm u một chiều đông muộn. Ở Sa Piên có một vẻ đẹp ảo huyền như vậy, Huy nhìn cô đăm đăm không chớp mắt. Một lúc sau, Sa Piên đi lẫn vào phía sau nhà.   
Khoảng nửa giờ sau, lễ đã tiến hành xong, mọi người ngồi vào bàn ăn uống. Quân nói cười vui vẻ với các quan khách trong khi Huy chỉ biết ngồi ngây ra. Chả nói chuyện được gì, Huy chỉ còn biết thể hiện sự nhiệt tình của mình bằng cách uống rượu. Anh cụng chén với họ, mỉm cười với họ và dùng đôi tay, nét mặt để diễn tả niềm vui.
Uống được vài lượt, Huy đã thấy lâng lâng, anh hào hứng bảo Quân:
- Dân họ tốt bụng và chất phác quá anh Quân nhỉ? 
- Đa số đều như vậy.
- Vậy mà trong đơn vị có người lại không ưa dân. Mấy ổng nói họ chỉ vờ vịt thế thôi, chứ toàn là dân địch không thôi. Nhà nào cũng có con cái, họ hàng theo Polpot, làm sao mà ưa chú đội tụi mình được. Ví dụ như ông Thiện nhà mình đó, ổng làm như dân là kẻ thù không bằng, lúc nào cũng nghi ngờ, ác cảm.
- Họ là những người nông dân chân chất. Họ thấy chúng ta thành thật và tốt, thì họ sẽ tốt lại với chúng ta. Còn anh em mình cũng có người vầy người khác. Có người chân thành yêu mến dân, có người chỉ giao du để lợi dụng, cũng có người coi dân Campuchia là thấp hèn, ngu dốt, đầu óc mấy người này đầy thành kiến phân biệt về dân tộc, màu da, dù là ta với người Khmer cũng cùng một giống da vàng mũi tẹt mà thôi. Dù sao, đó là quan điểm, là bản tính mỗi người. Họ cũng có cái lý riêng của mình Huy à.
- Em nghĩ bất kỳ là ai cũng vậy, là người thuộc dân tộc, quốc gia nào đi nữa, nếu người khác tốt và cảm thông với anh ta, hẳn nhiên anh ta sẽ phải đối đãi với họ y hệt vậy thôi. Ta cứ cư xử tốt bụng, chân thành với mọi người chẳng hay hơn sao anh Quân?
- Nói thì đơn giản vậy! Nhưng sự thực lại không dễ đâu Huy. Em nghĩ thế thì rất tốt. Nhưng nhiều khi ta làm điều tốt mà chỉ chuốc những khổ đau, chuốc lấy ác cảm và sự hiểu lầm...
Một thanh niên trẻ bước tới nhe răng cười chào Quân và Huy. Anh ta chỉ vào Huy hỏi:
- Smuo ei?
Câu hỏi này Huy biết. Nó có nghĩa là “tên gì vậy?”. Huy cười trả lời:
- Huy!
Anh ta chỉ vào ngực mình:
- Su Smak!
Huy chìa tay ra bắt tay Smak. Quân nói:
- Smak vui tính lắm Huy. Nó là người dạy anh cách quăng chài đó. Nó chài cá giỏi nhất phum này.  
Smak nhìn Huy nói một tràng dài. Huy lắc đầu. Quân lại phải diễn dịch:
- Nó bảo hôm nào em theo anh ra nhà nó chơi. Nó sẽ cho em xem con gà đá của nó. Đây là con gà đá vô địch trong xã Punley. Nếu em thích chơi gà đá, nó sẽ cho em một cặp gà con  giống mang về nuôi.
Huy gật đầu lia lịa, giờ thì anh có thể tự mình nói được một cái gì đó bằng tiếng Khmer:
- O cuun chờ rờn, Smak! (Cám ơn nhiều, Smak!)    
Smak chợt kéo vai Huy, bằng một cái giật mạnh xoay người anh lại. Đám thanh niên đang gom thành một vòng tròn rộng giữa sân. Điệu nhạc  chuyển sang giai điệu mới, hối hả và thôi thúc. Smak  giơ một tay lên giữa ngực, uốn éo thân người:
- Ruom vôông! - Anh ta vừa nói vừa lôi Huy đứng dậy.
Men rượu đã bốc lên, Huy không e dè bước ra chen vào giữa đám đông. Anh đưa mắt lướt qua những cô gái đang bụm miệng cười khúc khích. Cái nhìn dừng lại ở một mái tóc và dáng vóc quen quen: Cô bé lúc nãy đang nghiêng người nói cười gì đó với một cô gái khác. Huy đi nhanh tới chỗ cô. Vừa quay lại, cô bé giật mình khi thấy Huy đã đứng lù lù trước mặt. Cô hoảng hốt lùi lại một bước, đôi mắt tròn xoe nhìn Huy không chớp. Huy toét miệng cười, tay chỉ vào giữa vòng nhảy:
- Ruôm ?… với khnhum Nhảy?… với tôi!!
Cô bé lắc đầu. Người bạn lớn tuổi hơn đẩy khẽ vào vai cô như khuyến khích. Cô nhìn thật nhanh vào mặt Huy, và bỏ chạy. Sau lưng cô, một chuỗi cười rớt lại, như tiếng va chạm lanh canh trong vắt của những chiếc chuông bạc nhỏ xíu. Huy kêu lên:
- Đừng có chạy, bé ơi. Đứng lại đi mà…
Huy dợm chân định chạy theo cô, nhưng vai anh đã bị một bàn tay khẽ lôi trở lại. Quân. Anh cười khẽ, nói nhỏ vào tai Huy:
- Em nói tiếng Việt, nó có hiểu gì đâu chứ. Thôi, ta tới ngồi chơi tí nữa rồi về.  
Hai anh em quay lại bàn, uống thêm vài chung rượu nữa rồi chào từ giả mọi ngưòi. Huy bước chập chờn lơ lững như thể đang đi trên một lớp bông êm nhũn, một nỗi niềm không rõ cứ xôn xao. Nỗi xúc động ngọt ngào vì một người con gái? Hay là niềm vui được giao tiếp, có bạn bè, thân hữu ở một nơi xứ lạ quê người?
Chương 10
Xung quanh những căn nhà, hoa màu trung đội trồng đã xanh um mơn mởn. Những ngọn rau muống và cải củ ngóc đầu vươn ra đón nắng. Ở bên hông mỗi nhà, mấy giàn mướp, bầu bí đã trổ hoa trắng hoa vàng. Trong ánh nắng mai, lũ bướm bay rập rờn quanh giàn tìm hút mật. Những con đường mòn nối các nhà trung đội và dẫn lên tiểu đoàn đã được dọn sạch cỏ và đắp cao lên, trông xa như những đường chỉ vàng nhạt ngoằn ngoèo đan nổi trên thảm cỏ dày xanh.
Quân đứng bên giàn mướp săm soi mấy chiếc lá tìm bắt sâu. Anh vuốt nhẹ những chiếc lá non, nét mặt hiền hòa có vẻ rất vui.      
Gần đó, Huy đang ngồi thong thả nhổ những túm cỏ dại mọc lô xô giữa luống rau. Anh ngẩng đầu bảo Quân:
- Chiều nay em sẽ ra phum xin thêm mấy gánh phân chuồng về bón. Rau mọc nhanh ghê há anh Quân.
Huy đã được nếm trải cảm giác êm đềm khi nhìn những thứ rau màu lớn lên từng ngày một. Lúc mấy giàn bầu bí vừa nhú ra những nụ hoa nhỏ xíu đầu tiên, Huy mừng như bắt được vàng. Anh vừa luôn miệng nghêu ngao những câu hát trẻ con: Tía em hừng đông đi cày bừa, má em hừng đông đi cày bừa. Tiá em là một người nông dân, má em là một người nông dân... vừa kê mũi sát vào những nụ hoa hít lấy hít để, xem chúng có thơm không.
Huy tò mò theo dõi những nụ hoa ấy từng ngày, từ khi chúng còn là một chiếc nụ bé xíu, xanh  xanh, cho đến khi những cánh hoa rửa tàn đi, và phần cuối cuống hoa hơi phinh  phính to ra, lớn dần lên, trở thành một trái bầu, trái mướp tí hon.
Huy vui sướng nhìn những luống rau rậm rạp, dày lên thấy rõ sau mỗi ngày, sau từng cơn mưa hạ.
Những gánh nước tưới hàng ngày; những gánh phân rác, phân chuồng chăm bón; những giọt mồ hôi đầm đìa rơi trên luống đất; tất cả đã kết thành lá xanh trái ngọt. Bọn rau trái đã được chăm sóc nâng niu bằng những yêu thương, giờ sắp đền trả bao công lao đó của Huy và đồng đội. Niềm vui, niềm hạnh phúc xem ra thật giản dị, bình thường!
Huy liên tưởng tới niềm vui của những bà mẹ khi sinh nở, Huy hình dung tới niềm hạnh phúc của nhà nghệ sĩ khi sáng tạo, và Huy nghĩ - làm cho sinh sôi, nảy nở dù chỉ một ngọn rau, gốc bí, về bản chất đều giống như công việc của những bà mẹ, những nhà sáng tạo nghệ thuật kia. Đó là niềm hạnh phúc được trở thành một thượng đế bé nhỏ, được trở thành người tạo ra sự sống và cái đẹp.
Quân chợt lên tiếng:
- Hôm qua me Sa Rinh vừa mang vào cho anh mớ hạt giống đậu đũa. Chiều nay chúng ta sẽ đánh mấy luống để gieo đậu.
- Me Sa Rinh là bà già của Sa Piên đó phải hôn anh?
- Ừ! - Quân đáp gọn.     
Huy trầm trồ:
- Sa Piên đẹp ghê anh há. Lần em gặp cô ấy buổi tối, trông đã đẹp rồi. Nhưng hôm mình ra phum ăn đám cưới, nhìn gần ban ngày trông cô ấy càng đẹp mê hồn. Anh Lý với Sa Piên thật xứng đôi!
- Ừ, họ rất xứng đôi - Quân đáp. Giọng anh có chút gì hơi khác lạ, nhưng Huy vô tình không để ý.
- Sao em ít thấy anh Quân ra phum chơi vậy?
- Anh lười đi quá, với lại anh bận bịu suốt Huy thấy không...
- Nhưng thỉnh thoảng cũng phải đi chơi giải khuây chứ anh. Ở nhà hoài buồn thấy mồ.
Anh Quân này, em biết được nhiều tiếng K rồi nghe... Nhưng toàn mấy câu tán gái không hà, đâu có nói chuyện với người già hay con nít được. Anh Quân dạy thêm cho em với.
- Chút nữa anh sẽ cho Huy cuốn Tự học tiếng Khmer.
- Ủa, có cuốn sách đó hả anh! Trời, vậy là hay quá! - Huy mừng cuống lên.
- Một thằng bạn trên Trung đoàn cho anh khá lâu rồi. Nhưng anh cũng ít khi đọc đến.
Chủ yếu là anh học từ dân. Huy cứ nói chuyện nhiều với dân là tự khắc sẽ nói giỏi. Dĩ nhiên cũng phải có một số vốn cơ bản trước. Cuốn này đọc dễ hiểu lắm.  
Ụ Mối lững thững đi tới, trên vai là con Chíp đang hót chí choé có vẻ rất cao hứng. Huy chúm môi huýt vài tiếng ngắn, con sáo bay vù tới đậu lên cánh tay Huy vừa giơ ra. Nó quẹt quẹt cái mỏ vào tay Huy, kêu líu nhíu như chào mừng, hỏi han sức khỏe của anh. Huy bảo Ụ Mối:
- Ụ Mối, đố ông con Chíp biết tán gái bằng tiếng K không?
- Mình đâu có dạy nó, mà cũng chưa nghe nó nói, ông đã dạy nó câu gì rồi vậy?
- Bây giờ nó không nói đâu, phải gặp đúng đối tượng nó mới phát biểu. Chiều nay đám con gái vào giếng gánh nước ông sẽ biết.
Hồi mới về dựng cứ, anh em đã đào một cái giếng khá sâu kế bên nhà bếp. Nó nằm đúng ngay một mạch nước ngầm lớn nên nước nhiều và cũng khá trong. Dân ở mấy căn nhà gần đội hình trung đội hay vào xin gánh nước, vì từ chỗ họ ra tới hồ nước của phum đường xa gấp mấy lần, mà nước lại không ngọt bằng.
Trong đám này, Huy vui mừng nhận ra có cả cô bé đã gặp hôm đám cưới. Anh đã ngầm dạy con Chíp mấy câu với ý đồ nhờ nó trêu ghẹo cô gái thay mình. Anh huấn luyện nó bằng cách đợi mỗi khi cô gái đang kéo nước, anh vừa nhử nhử trước mặt nó một con cào cào mập ú, vừa lẩm nhẩm mấy câu nói, vừa chỉ về phía cô gái. Cô bé cũng đã phát hiện ra thái độ khả nghi của Huy, nhưng cô không dám nhìn thẳng vào anh, chỉ thỉnh thoảng len lén đưa mắt liếc qua, rồi lại cúi gầm mặt thẹn thùng, trông càng dễ thương hơn. Huy biết cô bé kể cũng đã lâu, nhưng anh vẫn chưa dám nói với cô một câu nào, trừ  việc mượn hơi rượu làm càn hôm đó. Thì ra Huy cũng thuộc loại thỏ đế! Vừa đến gần một cô gái lạ, tim anh đã  đánh trống liên hồi, mặt mũi đã đỏ bừng như gấc chín.
Quân chợt đăm đăm nhìn Huy một lúc lâu. Anh nói:
- Lát  nữa em kêu đứa nào cắt tóc cho nghe Huy. Tóc em đã dài quá xá rồi đó.
Huy nhăn mặt, le lưỡi nhìn Ụ Mối. Không biết vì lẽ gì từ nhỏ Huy đã rất ngại việc hớt tóc, nên dù thật sự không thích để tóc dài, nếu không có sự ép buộc thì Huy chẳng bao giờ muốn hớt tóc. Từ hồi sang đây, Huy khoái nhất là chuyện tóc tai. Lính chiến ở đây dù sao cũng có phần tự do, thoải mái hơn. Nếu không muốn cắt tóc thì cứ né tới né lui, kiếm cớ tránh khỏi  những dịp đó là thoát nợ. Huy đã né được mấy đợt hớt tóc rồi, nên mái tóc anh trông thật là kinh dị. Đến nỗi Mợi lác phải kêu lên: “Tóc đỏ quạch như râu bắp mà cũng ham để cho dài!  Cắt tóc đi Huy! Nhìn cái đầu mày tao thấy chướng quá.”. Giờ thì chính Quân đã lên tiếng rồi. Căng quá! Huy giả vờ gọi con Chíp rồi đánh bài chuồn ra chỗ khác. Anh nghĩ bụng: “Kệ! Cứ kéo dài được ngày nào hay ngày đó.”
Chiều hôm ấy, Huy không thể né được cái chuyện mà anh rất ngại ngùng đó nữa. Vào khoảng hai giờ chiều, tiểu đoàn trưởng Văn xuống đại đội 13 về, đi ngang trung đội, anh gặp Huy đang đứng trước cửa chỉ trỏ, dợt lại ngón nghề tán tỉnh cho con Chíp. Anh trợn mắt:
- Đây có phải là đồng chí Huy của chúng ta không! Hay là một tên thổ phỉ nào đi lạc vào đây vậy! Lại đây, lại đây Huy! Đi lên tiểu đoàn với anh. Anh sẽ hớt tóc cho em. Anh vừa kiếm được một cái tông đơ!
Huy kêu khổ thầm trong bụng. Anh đã sợ nhất ba cái vụ xén tóc xén tai này, giờ lại gặp phải một tay thợ nghiệp dư đem cái đầu của anh ra thí điểm. Đúng là tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa!
Văn nắm tay Huy dung dăng dung dẻ đi về nhà tiểu đoàn. Vừa đi, anh vừa kể cho Huy nghe một hai câu chuyện tiếu lâm ngộ nghĩnh của cánh lính tráng nhà ta. Lên tới nơi, anh vào nhà xách ra một chiếc ghế đẩu tự đóng đặt dưới bóng một cây xoài. Rồi lại vào mang ra ca nước, hộp “đồ nghề”. Chuẩn bị xong mọi thứ, anh trịnh trọng nói, vẻ khôi hài:
- Xin mời thân chủ ngồi vào ghế. Về tư  thế sẵn sàng!
Huy ngồi xuống ghế, mặt nhăn như khỉ ăn ớt. Văn vừa đẩy tông đơ, vừa cười khà khà bảo:
- Em có nghe cái tông đơ nó rên xiết không Huy! Tóc em cháy nắng, lại cứng còng như rễ tre thế này mà để dài làm chi vậy! Gương mặt em hớt tóc cao lên coi cũng khôi ngô lắm đấy chứ. Nào, cố lên, chỉ còn vài đường nữa. Cố chịu đau một chút, cái tông đơ này hơi lụt, mà lại khô dầu. Để rồi anh đem đi mài lại.
Huy ngồi trân mình, nửa cười nửa mếu mong cho cực hình chóng qua. Cuối cùng, Văn rút trong túi áo ra lưỡi dao lam, cầm ca nước lên dấp một ít nước vào mái tóc Huy, rồi cạo sạch chân tóc, và cả lớp lông măng, râu tơ trên mặt. Xong xuôi, anh xoa tay, lui lại vài bước, ngắm nghía “công trình lao động nghệ thuật” của mình với vẻ hài lòng đắc ý. Anh bảo huy:
- Có lẽ tháng sau anh về nhận nhiệm vụ mới ở trung đoàn. Anh Bảo sẽ nắm tiểu đoàn thay anh.
- Thật hả anh? - Huy bật kêu lên.
- Thật chứ.
- Anh mà đi thì cả tiểu đoàn buồn lắm, anh Văn ạ. Anh Bảo nghiêm quá, lại rất khó tính.
- Anh Bảo rất tốt, có điều gia đình anh ấy ở quê có nhiều khó khăn, nên anh ấy buồn bực không vui. Thôi, cố mà thông cảm cho anh ấy nhé Huy.
- Anh Bảo hay đánh lính lắm. Em nghe có lần anh ấy đánh lính bằng cái nắp xoong cơm quân dụng, đến móp cả cái nắp vung đó. Sao ảnh dữ vậy anh Văn?
- Cái đó thì do tính trời sinh, Huy ạ. Anh cũng đã nhiều lần tâm sự với anh ấy, nhắc nhở anh nên kềm chế bớt. Có điều, nếu mình không làm gì sai trái, thì chẳng ai đụng được đến mình đâu em. Thôi, đi về đi Huy.
Huy cám ơn Văn, quay lưng đi về. Anh thật sự cảm động vì sự giản dị, gần gũi vô cùng của Văn. Nghĩ đến việc không bao lâu nữa anh đã rời khỏi tiểu đoàn, Huy chợt thấy buồn buồn. Đi được vài chục bước, Huy ngoái lại. Văn đang lom khom quét mớ tóc rơi vương vải trên nền đất trong ánh nắng chiều vàng lỗ chỗ xuyên qua tàng cây rậm.
Huy đang tắm gội sau cuộc sửa soạn tóc tai thì một đám đàn bà con gái năm sáu người kéo nhau đi tới giếng. Họ trông thấy anh đang dứng xối nước ào ào nên dừng lại, bước tới ngồi chùm nhum dưới một gốc xoài. Huy quýnh quáng dội ào vài gáo nữa, rồi vơ lấy cái khăn và quần máng trên một cành cây gần đó đi như chạy vào nhà. Anh cũng không dám đưa mắt ngó qua thử xem có cái cô bé nhỏ xinh  trong đám người đó hay không.
Quần áo chỉnh tề xong, Huy nhón bước tới cửa, nhìn ra. Cô bé có mặt! Cô đang đứng chờ mấy người phụ nữ lớn tuổi hơn kéo nước trước. Huy khoái chí búng tay đánh chóc một cái, rồi bước hẳn ra ngoài tìm con Chíp. Huy ngó quanh quẩn vẫn chưa thấy nó đâu. Đột nhiên, anh nghe từ lùm cây kề bên giếng, chỗ bọn anh hay máng quần áo để thay, giọng ẽo ợt the thé của con chim:
- Ao so! Ao so! Boòng nức ôn, đek mìn ban! Ao so! Ao so. Áo trắng! Áo trắng! Anh nhớ em không ngủ được!..
Huy há miệng cười, cố nén không thành tiếng, khoái thầm trong bụng. Thật sự anh cũng không có ý gì đặc biệt với cô gái nhỏ đó. Chỉ vì thấy cô bé cũng hay hay nên anh muốn trêu cho vui. Huy nhìn cô bé coi cô phản ứng ra sao. Cô đang ngạc nhiên nhìn con sáo, có vẻ vừa ngượng ngùng vừa thích thú. Mấy người đàn bà kia cười khúc khích. Họ còn hùa nhau trêu thêm cô bé mấy câu. Con Chíp tung người bay đảo vòng vòng quanh cô bé, miệng vẫn quàng quạc kêu lên: “Ao so... đek mìn ban!...”.
Huy khoái quá, không nhịn được nữa bật cười thành tiếng. Anh giật mình, giơ tay bưng miệng cố ngăn tiếng cười. Nhưng cô bé đã nghe thấy. Cô quay lại nhìn anh thật nhanh rồi cúi ngay đầu xuống, mặt đỏ bừng, tay chân luống cuống. Huy thấy tội nghiệp cho cô bé đã quá thẹn thùng, anh huýt sáo mấy tiếng, gọi con Chíp lại. Nó bay tới chỗ Huy, đậu lên vai anh, nghiêng nghiêng đầu, một bên mắt nhìn anh với vẻ vô cùng láu lỉnh và đắc chí. Huy vuốt nhẹ lưng con Chíp, bảo nó:
- Mày giỏi lắm! Chút nữa tao sẽ thưởng cho hai con cào cào bự nghe Chíp.    
Ngoài kia, cô bé vẫn còn lính quýnh, đứng ngẩn người bên giếng. Một người phụ nữ bảo cô, đại ý là kéo nước đi rồi cùng gánh về. Huy đi vào nhà, tránh làm cho cô mắc cở thêm. Nhưng rồi anh lại nổi máu tò mò, vạch một cái lỗ nhỏ trên vách lá nhìn ra. Cô bé đang vội vàng kéo nước dổ đầy hai chiếc thùng con. Rồi cô nghiêng vai nâng gánh nước, uyển chuyển bước đi. Trên gương mặt ngăm ngăm xinh xắn vẫn còn lưu lại một vệt hồng.                
Nguyễn Thành Nhân 
Theo https://vanchuongviet.org/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Xã hội đương thời trong tác phẩm tâm huyết nhất của Nhất Linh

Xã hội đương thời trong tác phẩm tâm huyết nhất của Nhất Linh Có thể nói, tham vọng về một cuốn tiểu thuyết đào sâu vào đời sống xã hội đạ...