Viết thay lời tựa
Trong cuốn Xứ Trầm Hương, nhà thơ Quách Tấn khi viết
về chùa chiền ở Khánh Hòa đã có những nhận xét là Khánh Hòa có lẽ là tỉnh
nhiều chùa hơn tất cả các tỉnh Miền Nam Trung Việt và chùa có mặt hầu hết trên
khắp xã phường trong tỉnh. Các tổ khai sơn đều là người Việt, phần nhiều
có sự nghiệp để lại cho đời.
Như chùa Linh Sơn tại thôn Hiền Lương huyện Vạn Ninh có ngài
Hòa thượng Đại Bửu, pháp hiệu là Kim Cang Đại lão Tổ sư, lập chùa năm Cảnh Hưng
thứ 22 (1761) và để lại câu chuyện ngồi tu thiền dưới cây Kén bên cạnh có một
con hổ đến tìm nơi sinh nở, tự nhiên.
Tại huyện Ninh Hòa có Hòa thượng Liễu Đức, pháp hiệu Huệ
Giáo, tổ khai sơn chùa Thiên Đức. Người đương thời gọi ngài là Hòa thượng Đò vị
ngài đã ra công làm một cây cầu để dân làng sử dụng tránh đi đò nhiều phiền
phức. Đồng thời ngài cũng ra công đào một cái giếng nước trên đồi cho dân trong
vùng Bình Tây vốn là vùng gần biển và ruộng muối nên thiếu nước ngọt để uống.
Nước giếng rất ngọt và không bao giờ cạn. Để nhớ ơn, nhân dân gọi giếng là Giếng
Thảo. Sống với ngài còn có đôi cọp mun rất hiền từ với muôn loài.
Cũng tại huyện Ninh Hòa có chùa Thiên Sơn, tổ khai sơn là
ngài Trừng Nghệ, hiệu Nhơn Sơn. Hòa thượng thường đi vân du vài ba tháng mới về
chùa một lần, có khi về mà không vào chùa chỉ ngồi thiền ở cổng tam quan rồi lại
ra đi. Việc ăn uống rất đơn sơ: chỉ một vốc cơm khô, một nắm lá cây cũng đủ một
bữa. Khi mẹ mất, nhà sư đến ngồi thiền định bên mộ, giữa đất trời, suốt một năm
tròn. Sau đó lại vào núi Chí Tôn ngồi kiết già rồi tịch trên tảng đá cao, người
khô cứng như một gốc cây khô.
Tại Nha Trang, chùa Hải Đức có vị Đại sư Bích Không, pháp
danh Trừng Đàn đậu Tú tài năm 1918, trải qua nhiều năm khó khăn cực nhọc mới khởi
công xây dựng chùa trên Hòn Trại Thủy. Khởi công năm 1943 và hoàn tất năm 1945.
Trước đó Đại sư phải bôn ba đi tìm khắp tỉnh để chọn địa điểm cho cảnh thiền
môn vừa hợp với cảnh tu tâm dưỡng tánh của các bậc xuất gia, vừa tiện cho việc
độ tha của hành nguyện đại thừa.
Tại Diên Khánh cũng có những ngôi chùa có rất nhiều kỳ tích
đáng ghi, như chùa Vạn Thiện với câu chuyện của ngài Thiện Khoáng, chùa Thiên Lộc
với sự tích Bà Sáu, chùa Linh Quang với chuyện ngài Nhơn Nguyện, xuất gia lúc 9
tuổi, hơi tối dạ, trước tu ở chùa Kim Long (Ninh Hòa) sau vào trụ trì và trùng
tu chùa Linh Quang. Ngài chỉ ăn rau muống sống và ớt đúng vào giờ ngọ nên có
tên gọi là Hòa thượng Rau.
Còn rất nhiều ngôi chùa có nhiều sự việc đáng cho khách tham
quan lưu tâm mỗi khi đến thăm viếng.
Riêng tại Nha Trang, cận kề một danh thắng là Hòn Chồng, có
Hòn Đỏ là một hòn đảo hoang vu đầy cỏ gai và đá tảng, không có nước và bóng
cây. Đây là một hòn đảo chết. Tuy nhiên vào năm 1960 lại có một nhà sư tìm lên
khai thác đảo để lập chùa.
Trải qua nhiều năm tháng, cặm cụi lao động một mình nhà sư
này đã gầy dựng thành một hòn đảo có màu xanh và một ngôi chùa nhỏ nhoi ẩn mình
trong cây lá. Đó là chùa Từ Tôn và người xây dựng là nhà sư Thích Viên Mãn.
Khi in cuốn Xứ Trầm Hương (năm 1969) nhà thơ Quách
Tấn chưa biết đến ngôi chùa này. Viết tiếp theo thân phụ, ông Quách Giao muốn
ghi lại những công lao của một vị sư đã âm thầm tạo dựng một ngôi chùa trên một
hoang đảo.
Những sự việc đã xảy ra, những tâm tư của người trong cuộc đều
do nhà sư Thích Viên Mãn kể lại.
Hòn Đỏ hiện nay là một danh thắng của thành phố Nha Trang,
trên đảo lại có thêm một ngôi chùa được một vị sư dày công xây dựng. Phải có những
giờ phút đứng giữa nắng giữa khí nóng hừng hực của đá, chúng ta mới cảm nhận được
nổi kham khổ của những tháng ngày lao động trên đảo và những gì ông Quách Giao
ghi lại chỉ là những đường nét mong manh trong bức tranh thiên nhiên khắc nghiệt
giữa trời bể thẳm xanh.
Cái nhan đề Người Gánh Nắng cũng chỉ đủ để gợi nên
một chút trần ai, một niềm ý chí, trong cõi đời bao la bát ngát này.
Nha Trang, 10/10/2006
Lê Triều Phương
Vào chuyện
Sư Viên Mãn đưa khách xuống bến đò vào lúc mặt trời vừa khuất
non Tây.Trên vòm trời phía đông, rặng mây hồng đã chìm sau đầu dãy núi, để lại
trên vòm trời ánh hồng rực rỡ đỏ thắm. Dãy đá nơi bến đò đỏ hồng, soi mình trên
sóng nước. Sư Viên Mãn ngước nhìn ráng hồng và quay lại nhìn Phương nói nhỏ:
- Cậu hãy nhìn các hòn đá trên bến đò để nhận rõ là bóng sắc
ráng hồng của trời chiều dường như đã nhuộm thắm bức tường đá này. Đứng bên kia
bờ chúng ta sẽ thấy khi sắc mây hồng đã nhạt, bầu trời trở lại trong xanh,
rồi tím thẫm thì vách đá nơi bến đò vẫn còn đượm sắc hồng thắm. Có lẽ vì
thế nên người dân trên bờ ngày xưa gọi hòn đảo nhỏ này là Hòn Đỏ chăng?
Khách lặng nhìn mặt nước biển màu xanh thẫm rồi nói cùng nhà
sư:
- Kính thầy, theo như ý của con thì có lẽ Hòn Đỏ là tên
xưa kia của các người đi biển làm nghề đánh cá, từ ngoài khơi đã lấy hòn đảo
này làm mục tiêu để vào bến và vì đá trên hòn đảo có sắc đỏ nên họ gọi và luôn
tiện đặt tên cho hòn đảo.
Sư Viên Mãn mỉm cười:
- Tôi cũng đã từng nghe như vậy. Nhưng đây là nói đến những
người dân bên trong đất liền, không bao giờ bước chân lên thuyền ra biển. Họ hằng
ngày ngắm nhìn hòn đảo này và trông vào sắc đá mà gọi tên.
Khách vui vẻ:
- Thế thì Hòn Đỏ là tên gọi của dân chúng nơi đất liền và
ngoài biển khơi. Dù sao cũng là tên do người dân lao động nhìn cảnh thực tế mà
gọi. Lâu thành tên chính thức trên giấy tờ.
Như vậy ta gồm cả hai lại thì hợp lý hơn. Người đi biển thì
nhìn thấy sắc đỏ của đảo từ ngoài khơi như một ngọn hải đăng chỉ lối đường về.
Người trong đất liền thì trông hòn đảo như kết tụ bóng ráng chiều hôm.
Sư Viên Mãn:
- Mô Phật, cậu có tâm hồn thi sĩ quá. Nếu như có người nhờ cậu
đặt tên cho hòn đảo này theo ý thích của cậu thì cậu đặt như thế nào?
- Thưa thầy, con sẽ gọi đảo này là Đảo Ráng Chiều. Gọi như vậy
là vị hòn đảo này khác với các hòn đảo khác trên vịnh Nha Trang. Các đảo khác
khi về chiều có màu xanh thắm phơi mình cùng với sóng nước thương man
xanh lặc lìa của biển cả. Còn riêng hòn đảo này thì lại có sắc đỏ thật đặc biệt.
Buổi sáng, nhìn từ phương đông, thấy sắc đỏ hồng tươi, buổi chiều nhìn từ
phương tây thấy màu đỏ lại càng thêm hồng thắm.
Câu chuyện trao đổi chưa xong thì thuyền đưa đò cũng vừa cặp
bến. Từ tạ nhà sư xuống đò, khách ngẩng nhìn thấy phương tây màu trời đã
sẫm tối. Và khi ngồi im trên đò khách lại nhìn thấy hòn đá lớn nhất trên bến đỏ
au lên như một ngọn đuốc. Bóng nước hồng rung rinh. Bóng nhà sư lặng chìm vào
bóng xanh thẫm của cây lá.
Con đò lặng lẽ rời bến. Gió chiều thổi mạnh, sóng vỗ vào mạn
thuyền làm nước bắn lên tung tóe.
Một mình đứng lặng trên bến, sư Viên Mãn bỗng nhớ đến những
ngày đầu tiên sư bước chân lên đảo này.
Đó là vào năm 1960.
Sư vốn người ở Phú Yên.
Tôi được sinh ra trong một gia đình nghèo khó. Tôi mất cha từ
thuở ấu thơ. Mẹ tôi ở vậy, sống trong lam lũ, lao động cực nhọc để nuôi tôi.
Làng tôi cũng nghèo như những làng quê nằm ven chân núi. Núi ở
quê tôi trùng trùng chạy dài đến chân trời song không có nhiều cây cao cổ thụ,
không có nhiều rừng xanh rậm rạp. Làng tôi ít ruộng lúa mà lại nhiều gò cùng với
những ngọn đồi trơ trọi, ít cây cao mà nhiều đá tảng. Đất phần nhiều là đất sỏi,
thật là hợp với câu ca: “Quê hương tôi, đất cày lên sỏi đá”. Mỗi khi mưa đến
thì đất lại nhão nhòe nhão nhoẹt mà khi có nắng lên lại khô cứng như kết chặt
cùng nhau. Người ta thường gọi đó là đất da bò.
Tôi lớn lên trong nghèo khó. Thiếu cơm ăn và vải mặc. Nhưng
nhờ ở tấm lòng yêu thương của mẹ tôi mà tôi đã vui vẻ sống hòa đồng cùng với
các bạn đồng trang, đồng hoàn cảnh trong làng.
Ngay từ sáng tinh mơ, mẹ tôi đã ra đồng làm thuê cho hàng
xóm. Đầu vụ mùa thì đi cấy, làm cỏ lúa. Đến ngày mùa thì đi gặt lúa. Không đúng
vụ mùa thì lại đi xay lúa, giã gạo thuê. Nhờ các công việc này mà gia đình tôi
có được miếng ăn, tuy không đầy đủ song khỏi phải vay mượn, thiếu thốn. May nhờ
mẹ tôi không ốm vặt nên công việc làm thuê ít khi gián đoạn.
Nhiều buổi sáng khi tôi tỉnh giấc thì mẹ tôi đã ra đồng. Rửa
mặt xong, tôi ngồi nhai thong thả vài củ khoai lang mà mẹ tôi để sẵn trên
bàn và chờ đợi tiếng hò reo kêu réo của bè bạn trong làng. Chúng tôi kết thành
từng nhóm những bạn trẻ đồng tuổi và đồng tánh. Trẻ thơ thường đến với nhau khi
có cùng chung một vài sở thích. Đá bóng, lội sông, chơi đá dế, thả diều là những
thú chơi thường dễ dàng kết bạn thân với nhau. Chúng tôi đều là con nhà nghèo.
Được sống cùng với thiên nhiên nên hòa hợp với nhau rất dễ. Buổi sáng hội cùng
nhau tại sân đình làng để cùng chơi đánh bi, đánh đáo. Sân đình thường vắng vẻ
nên rất thích hợp với tuổi thơ. Trẻ em trong làng chia làm nhiều nhóm: đi học,
chăn bò, giữ em trông nhà. Nhóm bọn chúng tôi không được đi học, không có bò mà
chăn, nhà lại trống trơn nên khỏi phải trông coi.
Nhóm đi học thuộc thành phần gia đình khá giả, cha mẹ có công
ăn việc làm đủ sống nên cố gắng gởi con đến trường. Có đôi gia đình tuy hoàn cảnh
khó khăn nhưng vẫn cố gắng cho con theo học.
Nhóm chăn bò, phần đông là chăn bò cho gia đình hoặc chăn
thuê cho các gia đình khá giả đã cho cha mẹ chúng công ăn việc làm và giúp đỡ
chúng khỏi phải đi chơi. Nhóm này thường tụ hội trên một gò mả rộng, có
ngôi miếu nhỏ nép mình dưới một gốc đa cổ thụ, tỏa bóng mát một vùng. Bò thì được
thả ăn tự do còn bọn trẻ thì quây quần dưới tàn cây đa rậm mát. Chúng ít khi
đánh bi mà lại đánh đáo, đánh trổng hoặc bịt mắt bắt dê,
Đánh đáo là cách đánh bằng các đồng xu thảy vào một cái lỗ to
gấp đôi đồng xu, đứng cách lỗ vài ba bước dài ngắn tùy theo khổ người chơi. Cao
thì đứng hơi xa, thấp thì đứng hơi gần. Dưới lỗ đáo là một vạch ngang dùng để
giới hạn quyền ưu tiên sử dụng của người đang chơi. Thông thường chỉ có hai người
chơi. Nếu nhiều người thì phải chia thành hai nhóm và lần lượt chơi theo thứ tự
như chỉ có hai người. Trò chơi ban đầu hai bên dùng một đồng xu đứng cách xa lỗ
đáo cùng ném vào lỗ. Khi đồng xu lọt được vào lỗ đáo thì được giành quyền ưu
tiên, khi không ai ném vào được lỗ đáo thì phải đo xem đồng xu nào kề gần lỗ nhất
thì được ưu tiên: khi cả hai cùng vào lỗ thì phải đi lại. Khi phân định ưu tiên
xong thì các bên chơi đậu tiền lại, khi thì hai xu và có khi nhiều hơn tùy theo
vốn của hai bên. Cuộc chơi bắt đầu bằng người ưu tiên đứng xa ném tiền vào nơi
lỗ đáo. Tiền xu nào chui vào lỗ thì được lấy ra thuộc về người chơi. Khi có tiền
chui vào lỗ đáo thì người chơi được quyền lấy một đồng xu đặt bên mép lỗ đáo và
dùng đồng chì (một mảnh chì hình tròn như đồng xu nặng nhẹ tùy theo người sử dụng)
đánh văng đồng xu này mà không được chạm vào các đồng xu khác. Khi những đồng
xu không vào được lỗ mà nằm chồng lên nhau thì được gọi là tang, khi
có hai đồng chồng lên nhau thì gọi là tang hai, khi có ba thì gọi
là tang ba v.v... và ngưòi đang chơi được quyền dùng đồng chì riêng của
mình ném cho những đồng xu chồng lên nhau rời nhau ra và không được chạm vào
các đồng xu khác. Khi không có “tang” thì người đang chơi được đối thủ chỉ định:
một là ném hòn chì vào lỗ, hoặc ném hòn chì trúng vào một đồng xu nào trên vạch
ngang mà không được chạm vào các đồng xu khác. Một đôi khi đối thủ bắt người
chơi dùng hòn chì ném vào một đồng xu ở bên dưới vạch ngang để làm cho đồng xu
này văng lên khỏi vạch. Những khi có nhiều đồng xu ở quanh miệng lỗ thì phần
nhiều đối thủ đều bắt buộc người chơi ném chì vào lỗ mà không được chạm vào các
đồng xu chung quanh. Khi thấy có nhiều đồng xu nằm khít vào nhau thì việc yêu cầu
ném trúng một đồng nằm ở giữa sẽ nhất định xảy ra. Trong cuộc chơi nếu người
đang chơi có sai phạm thì chỉ được hưởng những đồng tiền đã chui vào lỗ và phải
nhường chỗ cho đối tượng cùng chơi. Khi chỉ còn có một đồng xu thì người chơi
phải tìm cách ném đồng xu này vào được trong lỗ. Nếu không ném được thì
phải theo lời đối phương làm theo một trong ba cách: một là dùng chì ném cho được
vào lỗ, hai là ném cho trúng đồng xu còn lại, ba là phải ném cho văng lên đồng
xu nằm dưới lằn vạch.
Trong cuộc chơi chia hai phe thì mỗi phe phải cử ra một “cao
thủ” làm chủ và được đi đầu, tiếp đến là người của đối thủ và cứ thế lần lượt
cho đến khi hết tiền. Các trận chơi phần nhiều tùy thuộc vào tay lành nghề và
còn tùy thuộc vào hòn chì nữa. Hòn chì nặng thì thích hợp cho việc phá “tang”.
Hòn chì mỏng thì thích hợp cho việc ném chì vào lỗ hay đánh trúng mục tiêu giữa
đám tiền bao quanh. Tuy nhiên hòn chì lại tùy thuộc vào tay người chơi nghề: sự
quen tay là căn bản trong công việc sử dụng hòn chì.
Cách đúc hòn chì cũng rất công phu. Nung chảy và đổ chì vào một
cái khuôn làm bằng đất sét có một cái lỗ do một đồng xu được in sâu vào. Độ dày
tùy thuộc vào người thích sử dụng. Đem chì nấu chảy đổ vào khuôn rồi đợi cho
nguội đem đập vỡ ra và đem hòn chì ra mài nơi thềm gạch để có một hòn chì cạnh
sắc, mặt láng. Nhờ hòn chì do sự khéo tay đúc mà nổi danh trong đám đánh đáo.
Những trẻ đánh đáo “chuyên nghiệp” đều thèm muốn có được một hòn chì vừa đẹp, vừa
hợp với lối đánh của mình. Đôi lúc trên hòn chì lại còn ghi tên chủ và ngày
tháng đúc. Một đôi khi chúng phải dành dụm tiền để mua lại cho được hòn chì “lý
tưởng”. Có lúc chúng lại trao đổi bằng hiện vật hợp với sở thích của nhau. Như
trao đổi một con sáo ra ràng, một con chim cu mới nở hoặc một con cò trắng mới
vừa bẫy được. Trong hoàn cảnh nghèo khó của tuổi thơ vẫn có những sự trao đổi vừa
là tình bạn, vừa hợp theo sở thích.
Sau trò chơi đánh đáo là trò đánh trổng. Sân chơi trổng cần
thoáng rộng. Thường là sân đình hoặc là một nổng gò rộng. Bộ trổng gồm có hai
thanh gỗ dài ngắn khác nhau có đường kính to bằng ngón tay cái người lớn, đôi
khi lớn bằng đầu ngón chân cái. Thanh dài có tên là trổng mẹ, dài độ 5 tấc,
thanh ngắn gọi là trổng con, dài khoảng 1 tấc (có khi ngắn bằng 0,50 tấc). Đa số
trổng đều làm bằng gỗ chà rang. Cây chà rang là một loại cây thân bao giờ cũng
thẳng, thường hay mọc thành từng đám gần nơi suối nước. Gỗ chà rang được sắp
vào hàng danh mộc. Vì có thân mọc thẳng và đầu đuôi bằng nhau nên được dùng làm
cột kèo, rui mè cho những ngôi nhà tranh cao cấp. Một ngôi nhà có mái làm toàn
bằng gỗ chà rang thì trông rất đẹp mắt vì thân thẳng và màu trắng ngà của thân
cây đã bóc vỏ. Mối mọt cũng rất ít xâm phạm vì gỗ cứng. Màu gỗ đậm sắc
theo thời gian. Thân cây tròn láng và đồng đều từ đầu đến cuối nên có người lầm
tưởng là gỗ được thợ bào đẽo kỹ lưỡng. Không gì thích thú bằng buổi trưa
hè cột võng nằm nơi hiên nhà trong cơn gió nồm hiu hiu thổi, tai nghe tiếng cu
cườm gáy vọng từ bụi tre đầu vườn vẳng lại, mắt đăm đăm nhìn lên mái tranh ngắm
những cây rui, cây mè, màu vàng như ngà voi, suôn đuột đan xen nhau thẳng tắp
trên mái hiên nhà.
Người đi rừng thường gặp chà rang mọc thành từng đám. Cây
cao, mọc thẳng vút và có thân lớn đường kính gần 0,50 mét. Thân cao có đến 4, 5
mét. Ngọn và gốc gần như bằng nhau. Vỏ cây chà rang rất mỏng, dễ lột khi còn
tươi, để khô khó lột, màu gỗ luôn luôn có màu vàng ngà. Vì mọc thẳng nên chà
rang ít có mắt nơi thân. Rừng chà rang trông giống như rừng bạch đàn, nhiều khi
mọc rậm nhưng bao giờ cũng thoáng. Người đi chặt chà rang bao giờ cũng có hứng
thú vì cây tuy cứng song lại dễ chặt và nhất là khi bó lại thành bó thì bó củi
trông vô cùng thích mắt. Như là một bó lồ ô vậy. Tuy nhiên vì là gỗ quí nên chà
rang rất nặng. Nhiều thợ rừng thường mất sức vì ham bó nhiều cây để vác về nhà.
Vì là loại cây thẳng nên thường bị chặt ngay từ khi còn nhỏ nên rất ít khi có
được các cây có thân lớn để làm cột nhà (hơn nữa là vì chỉ có màu trắng nên tuy
là danh mộc song chà rang lại không được quí bằng gỗ trắc, gỗ lim v.v...) Cho nên
đa số cây chà rang chỉ dùng để làm rui, mè cho đẹp mái nhà mà thôi.
Ở thôn quê nhà thường là nhà tranh. Mái nhà, ngoài kèo và đòn
tay ra còn có rui mè làm căn bản. Sau khi dựng cột kèo xong người ta thường
bỏ đòn tay để làm sườn nhà. Xong đòn tay thì phải bố trí rui mè để dùng làm sườn
mái lợp tranh hoặc rạ. Cây rui thường lớn bằng cổ tay, được xếp dọc trên nóc
mái chỗ cây đòn dông gióng xuống, nằm gác trên các cây đòn tay được xếp nằm
ngang. Cây mè thì nhỏ hơn nhiều, chỉ bằng ngón tay cái là lớn nhất đặt nằm song
song với các cây đòn tay cách nhau chỉ độ một gang bàn tay tùy theo độ lợp mái
dày hay thưa.
Ngoài việc làm mái nhà, chà rang còn rất thông dụng làm vật dụng
trong gia đình. Trước tiên là làm đũa bếp, đũa con để ăn cơm. Sớ gỗ chà rang vừa
cứng vừa thẳng nằm theo hàng dọc thân cây nên rất dẻo, rất khó gãy. Hơn nữa vì
thân thẳng nên dễ dàng vót thành đũa. Sớ chà rang gần giống như sớ của cây tre,
cây cau (cũng thường dùng làm đũa ăn) Đũa chà rang màu vàng ngà ít bị đổi màu
nên nếu biết gìn giữ thì có thể dùng đến 5, 10 năm mà vẫn còn tốt. Lựa một
khúc gỗ chà rang có độ dài bằng chiếc đũa rồi dùng rựa chẻ ra làm nhiều cây nhỏ.
Vì sớ gỗ thẳng nên đa số cây đều bằng nhau và việc vót cho tròn rất dễ dàng.
Ngoài việc làm đũa, gỗ chà rang còn dùng trong việc “khớp
răng cối xay lúa”. Khi xưa, cối xay lúa là công cụ dùng hằng ngày của thôn quê.
Cối xay lúa gồm hai tấm thớt chạy xoay trên nhau để làm hạt lúa được bóc vỏ. Hệ
thống bóc vỏ gồm nhiều thanh gỗ nằm xuôi chiều. Thớt trên lưu động chung quanh
một trục gọi là ngõng cối xay. Thớt dưới cố định. Khi thớt trên di động thì lúa
trên lòng cối theo lỗ cối xuống đền các khe trống của thớt và được các răng gỗ
này chạm vào nhau đủ làm cho vỏ lúa bóc ra khỏi hạt. Vì thế nên các thanh gỗ
này thường hay mòn và xơ ra nên cần có độ cứng bền lâu. Xay lúa trong một thời
gian thì “răng cối xay” mòn dần và lúa không còn được bóc vỏ đều đặn nữa, khi
đó gọi là lúa xay bị sống. (nghĩa là nhiều hạt lúa còn nguyên). Khi ấy cần phải
thay răng cối xay. Và gỗ chà rang thường được đem ra sử dụng. Đất dùng trong
lòng cối thường là loại đất sét lấy ở các đụn gò mối (đất này có độ cứng cao).
Dần dần theo năm tháng cối xay lúa đi vào quên lãng và chỉ còn nhìn thấy
trong các dịp triển lãm nông cụ cổ của nền nông nghiệp Việt Nam.
Trong văn học sử có bài thơ Vịnh Cái Cối Xay của vua Lê Thánh
Tôn:
Thóc lúa kho trời vẫn sẵn đầy
Tạc thành cái cối để mà xay
Thâu tàng châu ngọc tư mùa đủ
Chuyển vận âm dương một máy xoay
Đất phẳng nổi đùng cơn sấm động
Vừng to vung tóe hạt mưa bay
Đem tài xoay xỏa ra tay giỏi
Lợi dụng cho dân đủ tháng ngày.
Nhà thơ Nguyễn Khuyến cũng có bài thơ Cối Xay:
Khen con tạo hóa cũng tài thay
Khéo tạc nên hình cái cối xay
Tiếng nói ầm ầm như sấm động
Miệng cười răng rắc tựa mưa bay
Lưng đeo đai bạc trăm vành nặng
Dạ chứa lòng vàng một ngõng ngay
Lại có hai tai thông sáng cả
Gác ngoài danh lợi lắc đầu quay.
Chúng ta nhận thấy một nông cụ đã từng được một vị vua, một
ông Nghè tam nguyên làm thơ ca tụng thì xứng đáng được người dân nhớ mãi dù tên
tuổi đã bị thời gian vùi lấp.
Gỗ chà rang được dùng nhiều trong gia dụng và giới trẻ cũng
đã dùng trong sinh hoạt vui chơi. Chúng thường lựa nơi các đống củi của gia
đình để tìm cho được một khúc củi chà rang, thân to độ chừng ngón tay cái. Loại
này thường thẳng từ đầu đến ngọn và rất dễ dàng phân biệt trong đám củi khô. Chọn
xong cây gỗ chúng dùng mảnh chai chuốt sạch vỏ mỏng bên ngoài rồi dùng gang tay
phân độ dài trổng mẹ và trổng con. Mẹ thường dài gấp 4 lần con. Một mẹ thường
có 4 con vị cần dự bị nhiều lúc đánh mạnh trổng con có thể bay vào bụi rậm hoặc
văng xuống ao, hồ. Chia như thế để khi nạo vỏ xong thì chỉ cần chặt
cây chọn ra làm hai, một để làm trổng mẹ, một lại chặt ra làm 4 để làm trổng
con (chia cây làm đôi là một cách làm đơn giản).
Cách tại nơi đầu sân chơi một khoảng độ 1 mét khoét một
lỗ dài khoảng độ 1 gang tay sâu 2 đốt ngón tay. Thường thì lấy độ dài của trổng
con làm ni tấc. Lỗ dài và rộng đủ để đặt trổng con nằm vào gọn trong lỗ. Người
chơi được chia làm hai. Một đứng cuối sân làm chủ, một đứng giữa sân chuẩn bị bắt
trổng con. Nhóm chủ lần lượt theo từng người đặt trổng con nắm ngang miệng lỗ rồi
dùng trổng mẹ hất mạnh trổng con ra bất cứ phía nào cốt để đối phương không đón
bắt được trổng con. Phe đối phương phân phối người đứng thế nào để có thể đón
chận bắt khi trổng con được hất văng ra. Nếu không bắt được trổng con thì
đối phương phải đứng tại nơi trổng con nằm yên dưới đất và ném mạnh trổng con
thế nào để trổng con chạm đúng vào cây trổng mẹ được đặt nằm ngang trên miệng lỗ.
Mỗi khi ném trúng thì cuộc chơi thay đổi chủ. Nếu ném không trúng thì giai đoạn
2 của cuộc chơi được thực hiện.
Giai đoạn 2 là đặt trổng con nằm xuôi theo trong
miệng lỗ chỉ ló lên một phần đầu. Người chơi dùng trổng mẹ khẻ đánh cho trổng
con văng lên khỏi miệng lỗ và dùng trổng mẹ đánh văng trổng con, càng xa
càng tốt. Khi đó đối phương đã sẵn sàng phân tán ra khắp sân để đón bắt trổng
con. Đây là giai đoạn gay go và thích thú nhất của cuộc chơi. Bên chủ cố
gắng đánh văng xa và khác hướng để đối phương không thể nào bắt được trổng con.
Đối thủ cố gắng bắt cho được trổng con để ngăn không cho đối phương được thêm
nhiều điểm. Có một điểm cần lưu ý trong giai đoạn chơi này: Một khi phe chủ
đánh bật trổng con lên khỏi miệng lỗ thì dùng trổng mẹ nâng nhẹ trổng con
lên hai lần, một lần nâng, một lần đánh ra xa. Nếu làm được như vậy thì số
điểm sẽ được tính bằng số đo trổng con (chớ không phải trổng mẹ) từ chỗ rơi đến
miệng lỗ. Nếu khi nâng mà trổng con rơi xuống ngay thì chỉ được coi như đã đánh
một lần và chỉ dùng trổng mẹ để đo. Đa số đều nằm gần miệng lỗ nên nếu không được
một khoảng cách bằng trổng mẹ thì thay đổi chủ chơi. Phần nhiều các thành viên
đều dùng cách đánh ngay không qua khâu nâng thêm một lần (cho nó chắc gạo).
Theo đúng luật chơi thì bên cầm trổng mẹ không được nhấc trổng mẹ rời khỏi miệng
lỗ đợi đối phương ném trổng con về miệng lỗ và cố đánh văng trổng con ra xa.
Khi trổng con chạm đất, khoảng cách tính theo số đo của trổng mẹ. Các đối thủ
phân chia người đứng rải ra các hướng để đón bắt trổng con, mỗi khi trổng con bị
đối phương đánh trúng văng ra xa. Khi bắt được trổng con thì cuộc chơi được đổi
chủ. Sự đón bắt kỳ này khó khăn hơn lúc ban đầu vị sức bay của trổng con
khi này rất nhanh và không thể định được hướng như lúc ban đầu. Người ném trổng
con cũng dùng đủ mưu mẹo để lừa phỉnh đối phương như nhá nhá để đối phương tưởng
đã ném mà nhấc trổng mẹ lên để đánh trổng con, khi đó thì quan sát viên kịp thời
hô hoán lên để xin thay đổi chủ chơi. Khi bị như vậy thì bên chủ phải thay ngay
người chơi (đó là thủ đoạn để thay người đánh giỏi của đối phương). Tuy nhiên thủ
đoạn này chỉ được chấp thuận có ba lần và đối thủ cũng phải được thay người.
Tục ngữ có câu:
Đánh
trổng mang u
Đánh cù lỗ óc.
Câu tục ngữ này nói về sự tai hại của hai lối chơi. Mang u là
bị u đầu vị cây trổng con có thể văng vào đầu khiến đầu có cục u. Còn đánh cù
(là một cách chơi dùng gậy đành vào trái banh bằng trái bưởi hoặc bằng dây chuối
quấn thành trái banh. Khi chơi gậy có thể đánh trúng nhầm đầu).
Chơi đánh trổng là một trò chơi dân dã không tốn kém và thích
hợp với tuổi thơ nơi nông thôn. Nó luyện cho trẻ thơ sự nhạy bén của đôi mắt, sự
nhanh tay và nhanh chân. Chơi trổng cũng cần đến sự chung sức chung lòng của tập
thể, Sự phân công chiếm lĩnh các vị trí để đón bắt cây trổng con và sự khôn
lanh khi hất cây trổng con thoát khỏi sự đón bắt của đối phương. Chơi đánh trổng
gần giống như trò chơi đánh khúc côn cầu của Tây phương.
Gia đình anh Sáu Sài Gòn
Dưới chân ngọn núi Cù Lao nơi mé biển có hai vợ chồng người
dân chài sống lẻ loi một mình. Đó là vợ chồng anh Sáu Sài Gòn.
Anh Sáu quê ở Long An. Nhà nghèo phải đi làm thuê. Suốt năm
tháng dầm mưa dãi nắng ngoài đồng mà vẫn không đủ miếng ăn. Muốn đổi đời nên
anh lên Sài Gòn kiếm sống. Bươn chải giữa đô thị người khôn của khó, anh Sáu vẫn
không có một công việc ổn định. Tình cờ anh quen biết với một cô gái người miền
Trung vào Sài Gòn tìm việc làm sinh sống. Cuộc tình duyên của những người nghèo
khó xảy ra đơn giản như bao cuộc tình duyên khác. Cùng một cảnh ngộ, cùng một
cuộc đời, hai người quen nhau nhanh chóng. Ban đầu, hỏi thăm gia cảnh, hẹn nhau
gặp gỡ ở công viên. Chủ nhật hoặc ngày nghỉ, đi Sở thú, xem chiếu bóng, rồi
trở thành thân nhau.
Sài Gòn có rất nhiều rạp chiếu bóng thường trực. Sáng bắt đầu
chiếu từ 7 giờ. Trưa chỉ nghỉ có nửa giờ rồi tiếp tục cho đến 11 giờ khuya. Suốt
cả ngày chỉ chiếu có một phim. Hết phim chỉ nghỉ có mười lăm phút rồi bắt đầu
chiếu lại.Việc chiếu thường trực rất lợi cho người cần xem phim. Vào rạp lúc
nào cũng được. Xem bao nhiêu lần trong một ngày cũng được. Có người ngồi luôn
trong rạp từ sáng cho đến khuya. Nhất là ở những rạp có máy lạnh. Có thể vừa
xem phim vừa ngủ trưa. Không muốn xem phim đứt đoạn thì vào ngồi ngủ đợi đến
lúc bắt đầu chiếu lại coi luôn một thể. Rạp chiếu phim thường trực cũng là nơi
tiện cho việc hẹn hò gặp nhau của đôi lứa trai gái cần một không gian tranh tối
tranh sáng để được ngồi gần nhau. Đây là nơi tiện lợi cho những mối tình nghèo.
Anh chị Sáu thân nhau nhờ những buổi xem phim thường trực ấy.
Cuộc sống gia đình tuy tạm yên ổn nhưng anh Sáu lại gặp phải
một trở ngại lớn lao. Đó là anh đang ở vào tuổi thi hành quân dịch. Khi đó tuy
thành phố Sài Gòn chưa có các cuộc truy quét rầm rộ để bắt lính nhưng có nhiều
cuộc khám xét các cư dân trú ngụ bất hợp pháp thường xảy ra. Việc không có chỗ
cư trú và ở vào tuổi quân dịch khiến vợ chồng anh Sáu sống thường trực trong sự
lo âu. Cuối cùng vợ chồng anh Sáu quyết định ra Nha Trang sinh sống bằng
nghề chài lưới. Cả ngày lênh đênh trên mặt biển thì việc bị bắt đi quân dịch có
thể tránh khỏi. Nha Trang là quê hương của chị Sáu. Vợ chồng ban đầu tạm thời
nương náu nơi nhà bà cô già góa bụa của chị Sáu. Bà Hai ở thôn Cù Lao. Thuở xưa
bà có chồng làm nghề đi biển. Chồng theo thuyền ra khơi, vợ ở nhà đan lưới.
Trong một ngày mưa bão, chồng bà mất tích giữa bể khơi. Tuy không con, bà vẫn ở
một mình cho đến tuổi già. Khi gặp hai vợ chồng anh chị Sáu bà vui lòng nhận
cho họ ở nhờ và coi như là con ruột. Bà bày cho chị Sáu nghề rổi
cá. Đó là một nghề buôn bán cá tươi trực tiếp từ các ghe thuyền đi đánh
cá từ bể Đông trở về. Từ sáng sớm “nội rổi “đã chờ sẵn nơi bến cá đợi thuyền về.
Chân trời vừa hửng sáng, mặt biển yên lành gợn đôi nét sóng lăn tăn. Nền trời
màu xanh nhạt rồi ửng hồng. Mặt trời sắp nhô lên ở chân trời. Trên mặt biển đã
xuất hiện một vài chiếc thuyền đánh cá trở về. Khi mặt trời nhô lên khỏi
mặt sóng thì đã có một đôi chiếc thuyền cặp bến. Thuyền về từ xa, người trên bờ
đã nhận ra là thuyền của ai. Mỗi một con thuyền đều có một nét riêng, một dáng
riêng, một cách điều khiển khi thuyền chạy, đều được nhiều người đón chờ trên bến
phân biệt ngay từ lúc thuyền còn ở xa. Nhìn thuyền chạy chậm hay nhanh, nhất là
thấy mạn thuyền thấp hay cao là họ biết ngay trúng cá hay không. Khi thuyền cặp
bến, thuyền nào có bạn nấy. Bạn “rổi cá” đón lấy các mẻ cá từ dưới thuyền
chuyển lên rồi sau khi được chủ cá hay chủ thuyền dặn dò giá cả họ nhanh chóng
đem cá ra chợ. Ngày trước phương tiện chuyên chở chưa đầy đủ như bây giờ, bạn
“rổi cá” phải gánh cá chạy từ bến cá ra chợ có khi đường dài đến 10 cây số. Nay
thì có xe ngựa, xe lam. Đôi khi được người nhà chở bằng xe Honda. Những thuyền
không có bạn rổi bao mua thì có nhiều bạn hàng tranh mua. Trong lúc này tiếng
cãi nhau, tiếng trả giá, tiếng cười nói chen lẫn với tiếng chửi thề khiến cho
không khí chợ cá ồn ào náo nhiệt. Cho nên tục ngữ có câu:
“Ồn ào hối hả như chợ rổi cá ban mai”.
Đặc biệt chỉ có nhiều tiếng cãi cọ tranh nhau mà ít khi xảy
ra sự việc đánh nhau. To tiếng, cãi cọ, nói tục, nói cạnh nói khoé như là thói
quen hơn là ác ý. Cho nên khi mua được cá rồi thì mạnh ai nấy chạy vội đi chợ
mà không một ai còn nhớ đến những cuộc cãi cọ tranh giành trước đó. Buổi sáng
hôm sau trong lúc ngồi đợi thuyền cá về họ lại vui vẻ đùa giỡn cùng nhau, vui vẻ
thắm thiết như bà con trong nhà.
Chị Sáu nhờ bà Hai chỉ bảo để theo nghề rổi cá. Tuy nhiên vì
ít vốn và bản tính hiền lành nên sau một thời gian chạy rổi chị đành phải giải
nghệ ở nhà học bà Hai nghề đan lưới. Anh Sáu vóc người nhỏ nhắn, sức khỏe yếu
nên sau vài chuyến đi bạn anh cũng thôi việc, trở về đánh bắt cá ven bờ. Anh nhờ
vốn bà Hai cho mượn sắm được một chiếc thuyền con, vài ba tay lưới. Buổi chiều
anh chèo thuyền đi thả lưới rồi về nhà nằm đợi đến nửa khuya lại chèo thuyền đi
thu lưới. Công việc tuy vất vả nhưng được tự do. Mỗi khi trời động hay mùa mưa
bão thì đành phải nằm nhà ăn cơm với nước mắm. Cuộc sống tuy không giàu có
nhưng cũng không nghèo hèn. Chị Sáu mỗi buổi sáng đem cá chồng lưới được bán ở
chợ Cù Lao, trưa về lại tiếp tục nghề đan lưới. Hai vợ chồng trẻ sống bồng bềnh
theo sóng nước trong niềm vui tự nhiên của một ngư dân.
Rồi một hôm, vợ chồng anh Sáu sau khi bàn với nhau đồng thưa
với bà Hai xin cho ra ở riêng. Có hai lý do rất giản đơn, một là vì nhà bà Hai ở
hơi cách xa bến bãi nên việc neo thuyền vì thiếu người trông coi nên thường bị
người lạ tạm mượn thuyền chèo đi trong một vài hôm rồi bỏ thuyền nơi bến khác
khiến anh Sáu phải đi tìm mất nhiều thời gian, hai là nhà bà Hai quá chật nên
việc sinh hoạt trong nhà khó khăn.
Bà Hai vui vẻ chấp thuận và giúp thêm cho một ít vốn để hai vợ
chồng ra bãi đá dưới chân núi Cù Lao, cận sát mé biển, cất một túp lều bằng
tranh. Nơi đây khi ấy chưa có đường đi rộng mà chỉ có một lối mòn ven chân núi
để người dân qua lại sinh hoạt. Vùng này lại thiếu nước ngọt nên không một ai
thích sinh sống nơi đây. Chỉ có đôi mái tranh đơn sơ che tạm để các ngư dân tạm
trú trong những ngày đánh cá trong vùng.
Tuy thưa vắng người ở song hai vợ chồng anh Sáu sau khi cất lều
xong lòng rất vui mừng vị từ đây hai vợ chồng đã có được một ngôi nhà riêng, một
mảnh đất riêng và nhất là một nơi ở rất thuận tiện cho công việc sinh sống hằng
ngày.
Ngôi lều tranh, vách lá, cửa phên, bên trong chỉ kê vỏn vẹn một
cái giường tre nhỏ gọn và một cái bàn nhỏ bằng gỗ tạp cũ kỹ. Trên vách lá, chỉ
có vỏn vẹn một tấm gỗ dùng làm bàn thờ, trên để một bình hoa bằng đất và một
đèn dầu. Vào ngày rằm, mồng một, bình hoa có cắm hoa điệp, hoa sống lâu. Đôi
lúc cũng có một nải chuối, một quả bưởi tùy theo mùa trái cây. Cẩn thận sợ hỏa
hoạn nên một căn bếp nhỏ được cất cách xa lều chính.
Về nước tiêu dùng, chị Sáu phải hằng ngày đi gánh ở tận xóm
Cù Lao, mỗi ngày một đôi. Khi cần giặt áo quần thì chị phải đem vào tận trong
giếng thôn Cù Lao. Anh Sáu thì phải tắm bằng nước biển, chỉ có chị Sáu mới được
tắm bằng nước ngọt. Lâu ngày thành thói quen. Nhiều đêm trời nóng nực chị Sáu
theo anh Sáu ra tắm biển.
Trời mùa nóng màu trời như xanh thắm hơn, lòng trời cao hơn
và trong suốt hơn, muôn vì sao lấp lánh như nhiều hơn, biển bao la và dịu hiền
hơn. Con sóng đêm nhẹ nhàng ve vuốt trên làn da trắng muốt của chị Sáu khiến
anh Sáu chợt nhận thấy rằng vợ mình tươi trẻ hơn mọi ngày. Nước biển ấm áp, gió
biển ngọt ngào. Hai vợ chồng như sống lại những giờ hạnh phúc lúc mới gần nhau.
Cuộc sống êm đềm trôi qua, rồi một hôm chị Sáu bỗng nhiên cảm
thấy khó chịu trong người, thỉnh thoảng lại buồn nôn khi ăn phải cá lạ. Chị đến
nhà bà Hai tỉ mỉ kể chuyện và được bà Hai vui mừng cho biết là chị đã có
thai. Sau câu chuyện kể lại với chồng, chị Sáu thấy chồng chăm làm hơn trước,
chèo thuyền đi thả lưới sớm hơn và niềm vui rỡ ràng trên nét mặt. Anh lại giành
làm những công việc nặng nhọc hơn như là gánh nước, chặt củi v.v... Lời nói thường
ngày có phần dịu dàng, âu yếm hơn. Chị Sáu ngày ngày vẫn ngồi đan lưới, bán cá,
nấu cơm. Cuộc sống đơn giản, hồn nhiên như khí trời và gió biển.
Cuộc đối thoại trên bãi biển.
Một buổi chiều anh Sáu thấy một người trẻ tuổi vóc người nhỏ
nhắn, đứng nơi bãi cát gần mép biển, mắt đăm đăm nhìn ra Hòn Đỏ. Ban đầu anh tưởng
là một du khách đi qua dừng chân đứng ngắm cảnh trời, mây, nước. Nhưng sau khi
quan sát kỹ anh thấy dường như đây là một vị sư vì bộ quần áo màu nâu và có
dáng đứng như quan sát nhiều hơn là thưởng cảnh.
Anh Sáu từ từ lại gần và gật đầu mỉm cười với vị sư trẻ
tuổi. Qua vài câu xã giao anh Sáu biết được danh tánh của nhà sư cùng với
tâm nguyện của nhà sư mong muốn được ra thăm Hòn Đỏ để khai hoang
và lập chùa tu hành trên hải đảo.
Ráng chiều đang xuống nhẹ nơi phương Tây, nhuộm thắm đỏ bầu
trời rực rỡ. Anh Sáu ngước nhìn những cánh mây đọng dưới chân trời:
- Thưa chú, mấy hôm nay biển động. Muốn ra thăm đảo phải đi
vào buổi sáng sớm. Buối chiều sóng dâng cao khó vào được bến. Sáng mai chú cứ đến
đây vào lúc rạng đông, tôi sẽ đưa chú ra thăm Hòn Đỏ.
- Mô Phật, xin cảm ơn lòng hiếu khách của thí chủ. Đã từ
lâu tôi đã có tâm nguyện là sẽ ra viếng hòn đảo này và nếu có cơ duyên thì tôi
dự trù sẽ khai phá đất đai để lập một ngôi chùa nhỏ tại đảo để tu hành.
- Thưa chú, từ trước đến nay Hòn Đỏ vẫn còn hoang vu. Không một
người dân địa phương nào có ý định ra sinh sống hoặc trồng tỉa vì trên đảo có rất
nhiều đá mà lại ít đất, ít cây. Phần nhiều chỉ toàn là các bụi gai cằn cỗi. Cái
khổ nhất là thiếu nước. Vùng này lại ít mưa nên khô hạn vẫn luôn luôn là trở ngại
cho người muốn khai hoang.
Hơn nữa, dân trong vùng Cù Lao chuyên sống bằng nghề đánh cá.
Nếu có gia đình nào muốn sinh sống bằng nghề làm rẫy thì đa số lại đi vào sinh
sống gần các ngọn núi hoặc đồi phía Bắc kề cận sông Cái. Vùng này đất đai màu mỡ
và nhất là nước ngọt lại có sẵn.
Trên Hòn Đỏ chẳng những không có nước mà vấn đề lên xuống rất
cơ cực và phương tiện đi lại từ đất liền ra đảo cũng khó khăn. Tôi, ngày ba bận
bơi thuyền đi qua lại và vòng theo bờ đá mà chỉ nhìn nhiều hơn là đặt chân leo
lên để chỉ được nhìn thấy mấy lùm gai góc và đá chồng lên nhau.
- Mô Phật, nếu trên đó gai cỏ mọc được thì con người
có thể sinh sống được. Tôi vốn cư ngụ trên núi Sinh Trung. Hằng ngày tôi đều
nhìn thấy Hòn Đỏ này. Sáng, trưa, chiều, tối, nhất là những đêm có trăng, tôi
đã trông thấy sinh khí bốc lên từ Hòn Đỏ. Buổi bình minh, trong ánh hồng, trên
hải đảo này có muôn vàn giọt sương mai lóng lánh, tôi nhận thức được rằng nơi
nào có sương đọng thì nơi đó sinh vật có thể sinh sống và phát triển.
Buổi trưa, Hòn Đỏ như lắng mình trong vùng trời
biển xanh bát ngát. Màu xanh của biển trời hứa hẹn rằng con người có thể yên
lành sống trong màu hiền hòa đó. Với ánh nắng ban trưa Hòn Đỏ như một ngư dân
trần mình đội nắng cùng với biển xanh.
Buổi chiều khi biển xôn xao trước muôn ngàn con sóng thì Hòn
Đỏ vẫn yên lành đứng nhìn biến động của biển cả. Từ đỉnh Sinh Trung, nhìn Hòn Đỏ
vào buổi chiều khi ánh dương đã dần khuất nơi chân trời mới thấy được sinh khí
đã quy tụ về đây. Những dãy đá dưới chân đảo như lắng đọng sắc ráng đỏ của chiều
tà, như những cánh hoa sen hồng nổi trên lòng biển thắm xanh.
Buổi tối trời Hòn Đỏ yên lặng dưới bầu trời đầy sao, đậm nét
trên mặt đại dương. Trong những đêm trăng sáng, Hòn Đỏ phơi mình xanh tắm dưới
ánh trăng vàng dịu dàng trong sáng.
- Thưa chú, như vậy Hòn Đỏ đối với chú là một địa linh song đối
với dân làm nghề biển của chúng tôi thì nơi đây chúng tôi đã từng leo lên, đã từng
quan sát, đã từng đi chặt cây lấy củi cho nên chúng tôi thấy nó khô cằn, gai
góc, không có một chút hy vọng gì để lên đó lập nghiệp. Tại nơi đây, cá dưới biển
có thể nuôi sống chúng tôi, nước ngọt trong làng có thể cung cấp đầy đủ cho cuộc
sống của chúng tôi thì hà cớ gì chúng tôi phải lên một vùng thiếu nước thiếu đất
để sinh sống.
Trong cộng đồng người làng Cù Lao này đều có chung một ý tưởng
là vùng đất ở hải đảo Hòn Đỏ vẫn là một hải đảo đầy đá, đầy cơ cực dành cho con
người khi muốn khai phá nó. Muốn khai khẩn đất đai thì lên non lên núi chớ ai lại
lên hòn đảo đầy đá này.
- Mô Phật, tôi vẫn tin rằng bất cứ nơi nào có được con người
góp sức vào thì nơi đó có thể sinh sống được. Nhìn từ xa, Hòn Đỏ là một hải đảo
đầy sinh khí. Nhờ ở địa thế gần bờ nên việc thiếu nước có thể khắc phục được với
quyết tâm của con người. Hòn Đỏ thiếu cây xanh thì chúng ta trồng cây xanh. Hòn
Đỏ thiếu đất thì chúng ta bồi bổ thêm. Hòn Đỏ chỉ cần đến một tấm lòng yêu mến
thiên nhiên, một ý chí cương quyết biến nơi này có thể sinh sống được. Khi cây
cối mọc lên thì sẽ có con người lai vãng, sẽ là nơi đến để thanh thản tâm hồn.
Đã từ lâu tôi nguyện rằng cuộc đời tôi sẽ gắn liền với hải đảo
này. Nó trơ trọi với mọi người nhưng không trơ trọi với tôi, Hôm nay gặp được
anh, tôi tin rằng tôi đã gặp được duyên lành. Mối lương duyên của tôi với Hòn Đỏ
sẽ nhờ có anh mà hợp thành. Sáng mai, tôi sẽ đợi anh ở đây. Mong anh giúp cho
tôi được toại nguyện.
- Thưa chú, sáng mai tôi có thể giúp chú qua đảo và cùng chú
lên đảo quan sát địa thế. Còn việc khai thác thì vị tôi bận kế sinh nhai nên chắc
là không thể cùng chú khai hoang Hòn Đỏ được vả lại tôi còn có gia đình.
Chú cứ yên tâm ở lại trên đảo một vài hôm, tôi sẽ tiếp tế nước uống cho chú hằng
ngày.
- Mô Phật, vạn sự khởi đầu nan, tôi chấp nhận cảnh gian nan
lúc ban đầu. Được gặp anh ngày hôm nay tôi rất phấn khởi và tin tưởng rằng sự
mong ước của tôi sẽ thành hiện thực.
Tôi không phải là nhà địa lý, nhưng tôi nhìn cảnh vật bằng tấm
lòng, bằng đôi mắt của một nhà tu hành. Nơi nào tâm hồn mình đã chan hòa thì
nơi đó sẽ là nơi mình trú ngụ.
Tôi không có tâm địa đi chiếm đất, vị đất là của trời, của
chung của mọi chúng sinh không dành riêng cho ai. Đất chưa có duyên thì đất sẽ
còn khô khan cằn cỗi. Khi đất gặp được duyên lành thì đất sẽ trở thành hữu dụng,
sẽ trở thành cảnh quan tươi tốt để mọi người cùng chung hưởng. Tôi mong muốn
nơi hiu quạnh, cằn táo này sẽ có một ngôi chùa, một cảnh quan xanh mát để tất cả
mọi người cùng đến tu tâm dưỡng tánh, học Phật, để giác ngộ trước cuộc sống phức
tạp của cuộc đời. Hòn đảo này dù có khô cằn nhưng tâm hồn ta sẽ được thanh thản
hơn trước biển cả bao la, trước thiên nhiên rộng lớn. Mọi ưu phiền trong lòng sẽ
được vơi đi.
Tôi không có tài thuyết pháp.Tôi đã được sư phụ Thích Phước
Ninh giảng dạy trong những ngày theo thầy đi đây đó. Sư phụ tôi thường nhân thấy
cảnh này đã chỉ dạy cho tôi đoạn kinh nọ; nhân sự việc ấy để nói đến lời kệ
kia. Có nhiều vấn đề phức tạp mà thầy đã làm sáng mắt tôi bằng những ví dụ
giản đơn và chứng nghiệm lời dạy của đức Phật thật thâm trầm. Nhiều câu nói tầm
thường mà thầy đã gợi trong lòng tôi những suy tư cả tuần cả tháng tôi mới hiểu
thấu đáo. Trong công việc hằng ngày tôi đã học được nơi thầy tôi nhiều điều bổ
ích cho việc thấu hiểu kinh kệ. Tôi rất thích thú khi được nghe thầy kể các câu
chuyện về các bậc đại giác đã đắc đạo trong khi lao động tầm thường như giã gạo,
gánh nước, chẻ củi v.v...
Câu chuyện giữa hai người chấm dứt khi bóng tối đã tràn ngập
khắp vùng Hòn Đỏ.
Trên Hòn Đỏ.
Khi sư Viên Mãn gặp và làm quen với anh Sáu Sài Gòn thì chị
Sáu đã có thai được 8 tháng. Cho nên anh Sáu chỉ đi đánh cá vào buổi chiều để
có thể trở về vào giữa khuya với mục đích là để được săn sóc vợ trong lúc tắt lửa
tối đèn. Bà Hai đi lại thường xuyên hơn cho nên anh Sáu có đủ thời gian giúp đỡ
sư Viên Mãn qua lại hải đảo hằng ngày.
Nước trong vũng Hòn Đỏ lên xuống theo triều cường của biển. Mỗi
ngày lên xuống ít nhất là một lần. Khi nước xuống lòng vũng nhô lên những rặng
san hô, những vùng rong mắc cạn và những cồn cát mịn màng. Mực nước chỉ cao đến
đầu gối. Người muốn qua đảo chỉ cần xăn quần là lội qua được. Tuy nhiên nước lại
lên cao chỉ trong một vài giờ cho nên rất ít người dạn gan lội qua và leo lên đảo.
Buổi sáng đầu tiên qua đảo khi nước triều đã dâng cao. Anh Sáu và nhà sư đẩy nhẹ
chiếc thuyền chở vật dụng gồm nước, gạo, cuốc xẻng, rựa v.v... Anh Sáu một bên,
nhà sư một bên hông ghe cùng đẩy ghe vượt qua cồn cát và các rặng đá ngầm. Xa bờ
độ 50 mét thì leo lên thuyền bơi qua đảo. Sóng trong vũng không lớn, song vì phải
tránh né các tảng đá nhấp nhô trong vũng nên thuyền phải chèo quen tay mới mong
khỏi phải va vào đá. Chung quanh đảo, đá dựng đứng rất hiểm trở. Sóng nơi đây đập
mạnh khiến cho thuyền không thể cặp vào bờ. Anh Sáu chọn được một nơi có vùng
đá thấp và kín đáo để có mực nước yên lặng dễ ra vào. Đây là hướng gần bờ và dễ
dàng leo lên Hòn Đỏ. Nơi đây tạm gọi là bến. Từ trên đất liền nhìn ra thì nơi
đây có nhiều tảng đá to lớn đứng như một cổng chào chờ đón khách lên thăm đảo.
Nơi bến khi nước dâng cao thì thuyền lại dễ cặp bến, khi nước rút cạn thì để lộ
một vùng đá bằng phẳng thuyền có thể đi an toàn trên đó. Khi biển dậy sóng thì
nơi đây nhờ có đá to chắn sóng nên an toàn cho việc cặp bến. Anh Sáu là người đầu
tiên tìm ra bến này.
Đẩy ghe vào giữa hai tảng đá để tránh sóng, anh Sáu buộc ghe
vào một tảng đá nhô cao và có hai đầu nhô lên như một cái yên ngựa. Đây là một
cọc neo thuyền thiên nhiên.
Cuộc leo dốc bắt đầu sau khi đổ bộ lên đảo. Nhờ nhiều lần leo
lên tìm củi nên anh Sáu đã phát giác ra một lối đi lên đỉnh do thiên nhiên tạo
lập. Đó là lòng một con suối khô được tạo ra khi mùa mưa đổ xuống trên đảo. Nước
trên cao chảy xuống tạo thành dòng lũ, bào thành lối mòn chạy ngoằn ngoèo qua
các khe đá, mương gai. Lâu đời dòng suối tạm này trở thành lối mòn trèo lên đỉnh
đảo. Lòng khe lối đi đầy gai góc và đá sạn lởm chởm. Tuy vậy đó là lối đi duy
nhất thuận tiện cho việc lên đồi.
Anh Sáu cầm rựa đi trước phát quang các bụi cây gai cho lối
đi được quang đãng. Nhà sư vai vác cuốc, vai mang bọc lương thực và nước uống.
Mỗi người tay cầm một cây gậy. Vừa leo, anh Sáu vừa dẫn giải hình thế hòn
đảo cùng với cách leo dốc: phải cẩn thận từng bước. Bước từng bước một, ngắn
nhưng cần vững chắc. Cây gậy là một trợ cụ cần thiết nhất để ta nương vào
đó mà bước lên cao hay xuống thấp. Nhiều lúc, chân lỡ vấp phải đá hay đạp phải
gai thì thân phải nương vào gậy để khỏi té nhào. Muốn nương chắc vào gậy thì phải
đi chậm, dùng gậy để làm trụ vượt qua khe, leo qua đá.
Lên đến đỉnh đồi, hai người ngồi trên một hòn đá nằm nghiêng
nghiêng trên bờ dốc nhìn xuống vũng nước giữa Hòn Đỏ với đất liền. Nước vũng nằm
yên lặng trong màu xanh thắm của biển khơi. Cảnh yên lặng, bao la chỉ ở trên tầm
cao mới cảm nhận được. Trong ánh nắng vàng, màu xanh của biển cả dịu dàng biết
bao.
Đợi khô mồ hôi, sư Viên Mãn bắt đầu bò qua các lùm gai để vào
sâu trong chóp đảo. Không một bóng cây. Không một bụi rậm có lá xanh. Toàn vùng
chỉ toàn là đá lẫn vào các bụi gai. Nào là gai mắc mèo, gai cắc cu. Gai mắc cỡ
nhiều hơn hết. Chỉ có loại gai này còn giữ được một màu xanh của cây cỏ. Cảnh
quan khô khốc, cỏ gai xác xơ. Bộ mặt khắc nghiệt của cảnh thiếu nước lồ lộ khắp
đảo. Nếu không có cảnh biển nước mênh mông bao quanh, con người chắc sẽ tưởng
mình đang đứng nơi sa mạc hoang vắng.
Anh Sáu ngồi thản nhiên nhìn cảnh vật. Trong trí anh đang
nghĩ đến sự so sánh khu đồi trơ trọi và hoang dã này với vùng biển mênh mông của
anh đang sinh sống. Anh lặng lẽ nhìn bóng nhà sư Viên Mãn đang lần từng bước đi
dạo khắp vùng đồi, giống như hình ảnh của anh đang chèo chiếc thuyền con nhỏ bé
giữa vùng biển nước bao la. Cái thẳm sâu của biển cả hiểm nguy chẳng khác gì
cái khô khốc của núi đồi nơi đây. Thân phận của anh đối với trùng dương sẽ cũng
như cuộc đời của nhà sư trên đồi Hòn Đỏ. Nếu không có sự kiên trì vững chí thì
sẽ bị cảnh thiên nhiên tàn khốc nuốt chững đi. Cuộc đời của anh trên chiếc thuyền
câu nhỏ bé với đôi tay lưới cũ ngắn giữa biển cả bao la chẳng khác gì cuộc đời
cô độc của nhà sư Viên Mãn kia sẽ sống giữa đá và gai góc trên đỉnh đồi. Tuy
nhiên anh đã bắt được cá thì nhà sư kia sẽ khai phá được mảnh đồi này để trồng
cho được cây xanh có bóng mát và ngôi chùa dù có bé nhỏ đi nữa cũng đủ làm ấm
lòng khách thập phương. Sự cần lao của anh đã có kết quả thì sự cần cù lao khổ
của nhà sư chắc chắn sẽ thành công.
Anh tự mỉm cười vì sự so sánh hoàn cảnh của anh với hoàn cảnh
của nhà sư tuy không giống nhau nhưng có được sự tương tự nhau là làm việc tận
lực với một quyết tâm bền vững để đạt đến sự mong muốn của lòng mình.
Nghĩ đến hoàn cảnh của mình, anh cảm thấy mình hạnh phúc hơn
nhà sư kia vì anh đang có một gia đình đầm ấm, đầy đủ ấm êm.(anh sắp có con).
Sau giờ phút lao động cực nhọc anh lại được hạnh phúc bên gia đình. Còn nhà sư,
giờ đây sau những thời gian cực nhọc chỉ sống có một mình, tuy có mẹ song không
được sống cùng mẹ, tuy có đồng môn song lại sống lẻ loi giữa nơi hoang đảo. Mỗi
tuần chỉ gặp mẹ một lần, bằng hữu một lần. Rồi suốt đời sẽ sống nơi đây nếu tâm
nguyện kia được thành tựu.
Đột nhiên anh Sáu có một quyết định cương quyết: phải tận
tâm, tận lực giúp cho nhà sư Viên Mãn khai khẩn thành công trên hải đảo Hòn Đỏ.
Anh nguyền giúp được phần nhỏ nào vào công việc khai hoang trên Hòn Đỏ thì phải
thực hiện cho kỳ được.
Gió trên biển thổi vào khe đá từng hồi như cuộn lời tâm nguyện
của anh Sáu đưa đi khắp mười phương.
Sau này anh cảm thấy thỏa nguyền khi nghe sư Viên Mãn tâm sự: Tôi
hằng khấn nguyện cùng đức Quán Thế Âm Bồ Tát rằng nếu suốt cuộc đời mà tôi chưa
hoàn thành việc khai hoang để lập chùa trên hòn đảo khô cằn này thì kiếp sau nếu
được hồi sinh tôi vẫn tiếp tục công việc khai hoang lập chùa. Tôi nguyền sẽ
muôn đời kiếp kiếp thực hiện cho được tâm nguyện này.
Trên đỉnh Đảo
Hòn Đỏ là một hòn núi đá. Trước kia nối liền với dãy núi Cù
Lao. Sau nhiều năm tháng bị biển xâm thực cắt đôi chia Hòn Đỏ ra khỏi đất
liền. Nhìn những dãy đá đỏ au trên sườn núi Cù Lao không một ai có thể phủ nhận
là Hòn Đỏ và núi Cù Lao là hai hòn núi có chung cội nguồn. Hòn Đỏ trở thành một
hải đảo và chung quanh đảo nước triều lên xuống hằng ngày đã bào mòn tất cả những
đất cát. Chung quanh chân đảo nhiều tầng đá to lớn chồng chất lên nhau. Nhiều
nơi như có sự sắp đặt trớ trêu của tạo hóa là có hòn nhỏ nằm nâng đỡ hòn lớn. Mới
trông, khó có ai tin được rằng những tảng đá này đã nằm như thế từ xưa đến nay.
Toàn thể cấu trúc giống như những hải đảo khác. Đá dưới chân đều bị bào mòn và
những hòn trên đỉnh chỉ bị nắng mưa mài nhẵn mà thôi.Theo vết tích còn để lại
thì xưa kia mực nước biển đã dâng ngập đến nửa hòn đảo. Cho nên đa số mặt bằng
trên chóp đảo còn xen lẫn giữa đá và đất. Mùa mưa ở Nha Trang không có nhiều
cơn mưa dữ dội hoặc kéo dài suốt tháng nên vẫn còn lại một vùng rộng, đất chen
lẫn với đá tảng.
Sư Viên Mãn là người dân Phú Yên, sư đã từng sống
trên những ngọn đồi sỏi đá ở các huyện Tuy An, Sơn Hòa v.v... nơi đã được
dân cư địa phương khai phá bằng kinh nghiệm, biến các sườn đồi thành những vùng
canh tác cây màu. Việc dùng đá xây thành cấp bậc để ngăn chận đất để sản
xuất đã là một đặc thù của các đồi núi Phú Yên. Dùng kinh nghiệm này nhà sư đã
thực hiện cách khai phá trên đỉnh Hòn Đỏ.
Trước tiên nhà sư lượm và chuyển những tảng đá nằm
ngổn ngang trên mặt đất, trong các lùm bụi để sắp thành một bức tường đá chung
quanh chỏm mặt đảo. Ban đầu là đi thu nhặt những hòn đá có thể tích nhỏ. Sau phải
dùng xà ben hoặc cuốc có mỏ sắt nhọn như các phu đường sắt để trục các tảng đá
có chân ăn sâu dưới mặt đất. Nhiều hòn đá trên mặt thì nhỏ nhắn song càng đào
sâu xuống chân đá càng to lớn ra. Nhiều lúc phải đào sâu đến 2, 3, mét và mất cả
hàng tuần. Khi đào xong được gốc thì còn phải dùng cây làm đòn đứng xeo đá lăn
xuống chân đảo. Lầm lủi một mình, nhà sư đã đơn độc đối phó với thiên nhiên khắc
nghiệt. Đất đào được nhà sư đem đổ vào một nơi bằng phẳng để dùng cho việc trồng
tỉa. Đôi lúc công việc lăn đá cần phải nhờ đến sự giúp sức của các bạn chài, bỏ
lưới chung quanh đảo khi họ cặp thuyền vào nghỉ trưa nơi các hốc đá dưới chân đảo.
Nhiều lúc nhà sư phải đào thành những con mương lớn để di chuyển các hòn
đá lớn bằng cách xeo lần lần, bằng cách trượt từ từ trên một mặt bằng có độ
xiên cao... Rất may mắn là độ nghiêng của sườn đồi lại khá thuận tiện cho việc
lăn đá xuống chân đảo. Những cây xeo đá thì đi mua nơi các vựa cây nơi bờ đầm
chợ Xương Huân. Vác được cây xeo lên núi cũng là một kỳ công... Cây có độ dài từ
3 đến 4 mét cho nên đem được lên đến đỉnh núi thì thật là gian lao. Nhiều lúc
phải luồn cây qua khe suối rồi leo lên dốc tìm cách kéo cây lên. Nhiều khi
không thể nào đem cây lên hướng này được nên đành phải đưa cây xuống để tìm hướng
khác đưa lên. Nhờ được cây cứng và dài nên nhà sư có được một trợ lực về sức đẩy
nên nhiều tảng đá lớn mà chỉ có một mình nhà sư cũng đẩy được đá xuống chân
núi. Nhiều lúc cần làm đường ray dẫn đường cho đá đi theo hướng cố định nhà sư
phải tốn công sức nhiều ngày. Công việc dời đá cứ tuần tự mà tiến hành, không
nôn nóng không chậm trễ như là công việc hằng ngày. Cho nên phải cần đến thời
gian năm năm việc di dời đất đá để có mặt bằng mới thành tựu. Du khách hôm nay
đi lại thong thả ung dung trên đỉnh hải đảo Hòn Đỏ đâu có biết rằng xưa kia nơi
này đá mọc chập chùng, lối đi chật hẹp, gai góc mọc đầy mà con người cô độc này
đã suốt nhiều năm dài cặm cụi khuân từng viên đá, xeo từng tảng đá để có được một
mặt bằng rộng rãi đầy cây xanh bóng mát như hôm nay.
Công việc dời đá song song với việc đắp nền cho
khu dựng Phật đàn. Những viên đá nhỏ, khi đào được đều dùng trong việc làm nền
cho khu Phật đàn... Với diện tích độ 10 mét vuông thì khu nền Phật đàn được
thành hình nhanh chóng. Chỉ trong vòng 3 tháng thì khu nền đã thành hình. Cứ một
lớp đá là một lớp đất xen vào để có mặt bằng phẳng..Những đêm có trăng, đỉnh đồi
tràn ngập ánh vàng, gió biển thổi về ngào ngạt mùi mặn nồng, nhà sư lặng lẽ
khuân đá đi đắp các kệ lên xuống trên các con đường lên xuống hoặc thành đá
quanh sân.
Khi trăng lên đúng đỉnh đồi, bầu trời xanh thẳm,
gió khơi đã thổi lạnh, trên các vách đá đã ướt đẫm sương khuya. Nhà sư dừng tay
ngồi nghỉ bên đống đá, ngước nhìn bầu trời đầy sao, lòng thanh thản và yên tĩnh
vô cùng. Những cụm đá, bờ đất như thì thầm cùng nhà sư, trìu mến nhìn nhà sư
như các trẻ thơ nhìn thương yêu người tạo thành ra nó. Cảnh vật trên đỉnh đảo
trầm lặng, bất chợt từ đâu vẳng lại tiếng con dế mèn gáy. Nơi xa vắng này tiếng
dế cất lên như gần gũi thân yêu. Kỷ niệm thời ấu thơ phút chốc lại tràn về
trong lòng người tu hành. Sư nhớ đến tiếng dế gáy lẻ loi nơi cánh đồng vắng
trong mùa cày phơi đất tháng ba. Trong thời thơ ấu, nhiều lúc sư không khỏi ngỡ
ngàng tự hỏi là trong các vụ mùa, khi nước đồng lênh láng thì các con dế mèn
này sống ở đâu để đến vụ cày phơi đất, lại râm ran gáy từ nơi này đến nơi khác.
Cứ mỗi buổi sáng tinh sương, sư cùng chúng bạn đi lật từng hòn đất trên các luống
cày để bắt những chú dế than hoặc dế lửa. Lúc ban đầu sư không phân biệt
được đâu là dế cồ đâu là dế mái. Cứ thấy dế nhảy là vồ. Bắt được con nào cho
vào hộp diêm bọc sẵn trong túi. Sau này được bè bạn chỉ cho: dế đực gọi là dế cồ,
cánh có vằn ngoằn ngoèo bóng láng như tóc các cậu có mái tóc quăn. Cuối thân
con cồ có ba cái lông nhỏ. Đầu dế đực to và bóng láng. Còn dế cái gọi là dế mái
thì cánh không có vằn ngoằn ngoèo mà chỉ có các gân chạy xuôi từ trên xuống dưới
và sau lưng có một cọng dài, cuối có một nụ nhỏ thường chổng lên trời. Khi biết
được các điểm đặc biệt này thì nhìn là biết ngay dế cồ hay dế mái. Dế cồ còn
phân biệt nhiều loại: dế cồ than màu đen bóng, dế cồ lửa màu vàng óng, đôi khi
có pha màu nâu đậm. Dế than thường lớn con hơn dế lửa. Con dế nhỏ thường hay gọi
là dế ốc tiêu. Loại này gáy rất lớn và đánh nhau rất hăng say. Do đó có danh từ
ốc tiêu để dành cho các trẻ em nhỏ bé mà dám đánh cả những bạn lớn hơn mình. Đó
là bé ốc tiêu.
Dế bắt về, được nhốt riêng mỗi con trong một hộp diêm. Trên nắp
hộp thường có xoi một vài lỗ nhỏ để thông hơi. Dế thường được nuôi bằng giá sống,
cỏ mần trầu, cỏ ống hoặc đôi khi nuôi bằng cơm. Dế thường gáy vào ban đêm. Khi
gặp địch thủ hoặc thắng trận thì dế gáy inh ỏi. Trái lại khi gặp dế mái thì sau
khi gáy vài tiếng chào mừng, dế cồ thường cọ cánh rè rè vài cái ngắn gọn mà bọn
trẻ thường gọi là” tục mái” như các chú gà cồ.
Đa số trẻ em đều thích chơi dế. Nhất là để được nghe tiếng dế
gáy ngoài việc cho chúng đá với nhau. Từ “đá dế” thay cho việc hai con dế cắn
nhau. Thật ra trong khi chúng cắn nhau chúng cũng có đôi phen dùng hai chân sau
(càng) để hất đối thủ phải lăn nhào. Khi dế gáy thì chúng dùng đôi cánh cọ vào
nhau gây thành một loạt âm thanh giòn giã, đôi khi lảnh lói và trầm bổng khác
nhau. Trẻ chuyên môn có thể nghe tiếng gáy của dế mà biết được con nào là dế
than, con nào là dế lửa và con nào là dế cụ, con nào là dế ốc tiêu. Thường thì
dế cồ than có cánh dày và lớn nên có tiếng dài và trầm. Dế ốc tiêu có cánh mỏng
nên âm thanh lảnh lói, tiếng nghe rổn rảng và bay xa, như tiếng cười của trẻ
con, đôi khi như tiếng cười của các cô thôn nữ trên cánh đồng lúa lúc sang mùa
gặt.
Nhiều trẻ em nơi thôn dã sống cùng với thiên nhiên nên rất
thông thuộc việc bắt dế. Ban đêm khi nghe một tiếng dế gáy thì sáng hôm sau lập
tức chạy ra nơi đã được định hướng tìm thấy một viên đá, một đống cây khô hoặc
một mô đất cày, là lật lên túm lấy chú dế gáy khi hôm. Đặc tính của loài dế là
ít khi di chuyển chỗ ở, tối gáy nơi nào là sáng trú tại nơi đó,
Ngoài việc bắt dế để cho chúng đá nhau (ở ngoài
Bắc gọi là chọi) trẻ em còn có một sở thích là nghe dế gáy. Mỗi hộp diêm nuôi một
con dế. Ban đêm chúng thi nhau gáy suốt đêm, khi một con gáy thì lần lượt các
con khác cùng gáy theo như một dàn hợp xướng, đầy âm điệu nhịp nhàng. Thời hậu
chiến đã có một nhà thơ sáng tác một tác phẩm có tên là Nhạc Dế. Tuy thơ không
tả nhạc của con dế mà chỉ nói lên một thế giới âm nhạc thiên nhiên.
Ngoài việc nghe dế gáy, các trẻ em còn say mê
trong việc đá dế.Thật ra là cho dế cắn nhau. Hai chú dế đá nhau (còn gọi là chọi
nhau) được bỏ vào một cái hộp không chật lắm mà cũng không rộng lắm. Thường có
tên gọi là sân đá dế. Trước khi dế được đưa vào sân đá, chủ nhân thường dùng một
que nhỏ (đôi khi là một chân nhang) cắm nhẹ vào sau vòng cổ của dế và thổi nhẹ
cho chú dế phình rộng đôi cánh và khi được thả vào sân thì dế khuỳnh cánh ra
gáy re re. Khi nhìn thấy đối thủ cũng được làm như mình, vừa xong nhịp gáy thì
đôi bên xông vào nhau. Trước tiên là đọ càng. Gọi là trương càng đọ sức vì hai
chú dế trước tiên giương rộng hai càng cọ với nhau như để đo sự rộng hẹp của cặp
càng nhiều khi trông giống như hai võ sĩ thượng đài cụng găng chào nhau. Hai
chú dế ít khi nhân nhượng nhau tuy đôi lúc càng hai bên chênh lệch một to một
nhỏ. Cái dũng khí của dế là phải cắn nhau trước khi chịu thua. Chỉ khi nào thua
một vài độ chú dế thua mới chịu chạy dài khi đụng râu cùng đối thủ mạnh hơn. Cặp
râu của dế rất quan trọng. Thường con dế nào bị mất râu hay bị cụt râu thì khả
năng chiến đấu có phần giảm sút. Trẻ em rất thích thú khi nhìn thấy con dế nào
trước khi lâm trận, vừa gáy xong thì đưa chân trước ra vuốt hai cái râu trông
giống như vị nguyên soái trong tuồng hát bội đưa hai tay cuốn cong hai lá cờ lệnh
cắm sau lưng trước khi xưng tên họ để giao chiến. Một đôi khi sau khi bị thổi
gió và được đặt xuống sân đá, dế vẫn không xù cánh gáy râm rang thì chú chủ sẽ
dùng một que con trên đầu có một cục sáp nhỏ gắn vài sợi tóc vo qua lại cặp râu
để kích thích. Lập tức chú dế giương cao rộng đôi càng xông lên chiến đấu. Lúc
so càng đôi khi hai chú dế cũng so nhau tiếng gáy. Tiếng gáy như reo vui, như
khiêu khích, như thách đố trước khi xung trận. So càng, gáy thi xong, chúng
dùng đôi càng cắn chặt lấy nhau. Nhiều khi trận chiến âm thầm chịu đựng
cho đến lúc một trong hai chú dế vùng ra bỏ chạy. Một đôi khi chúng vừa cắn
nhau vừa dùng chân, đá, búng và chồm lên nhau để làm đối phương hoảng sợ bỏ chạy.
Cuộc chiến đấu có khi còn dữ dội đến nỗi có kẻ bị cắn gãy chân, lòi ruột.
Thường thì cuộc giao đấu kết thúc từ ban đầu vị khi thấy đối phương càng to, tiếng
gáy hùng dũng và thái độ chiến đấu hăng say nên đối thủ bỏ chạy khỏi phải giao
đấu. Sau nhiều lần thổi gió, nhiều lúc chú dế bị nắm râu mép thổi vài hơi, đôi
khi lại được chủ cho nếm một ít nước bọt để gọi là “tăng lực” song khi thả xuống
thì chỉ kịp giơ càng đọ sức rồi lanh chân chạy trốn. Kẻ chiến thắng bao giờ
cũng giương cánh gáy, vuốt râu và đôi lúc lại “túc túc gọi mái”.
Cái thú chọi dế ngoài việc xem dế đá, bọn trẻ
còn được dịp hò reo cổ vũ cho dế “phe ta”. Có lúc sau trận đá dế lại có trận
đánh nhau vị ganh tức. Phe thắng thì hân hoan, phe thua thì đổ lỗi cho nhau và
cuối cùng thì xảy ra trận ẩu đả. Rồi ai về nhà nấy cùng hẹn nhau vào sáng hôm
sau. Chiều và tối hôm ấy bọn trẻ lại đi sùng lục khắp nơi để tìm ra tiếng gáy của
những chú dế có tiếng gáy lảnh lói và âm vang.
Phát quang
Sáng hôm nay là ngày đầu tiên trong việc phát hoang. Trước
tiên là chọn ngay khoảnh đất chính giữa đỉnh đồi. Việc phát quang cây cối không
có gì khó khăn vị cây chỉ toàn là gai mắt mèo mọc um tùm trên các kẽ đá. Bên
trên là gai mắt mèo bên dưới là gai mắc cỡ. Dẹp gai bên trên trước rồi dùng cuốc
dọn ngay cây bên dưới. Suốt cả buổi sáng mà chỉ mới xong có một khoảnh nhỏ.
Càng về trưa công việc càng nặng nhọc. Đôi bàn tay đã rướm máu vị gai cào. Miệng
đã khô vì khát nước và nhất là lưng đau rát vì nắng xối. Khi trời đứng bóng thì
công việc dọn sạch lùm gai mắt mèo đã hoàn tất. Nhà sư ngừng tay, đi nấu cơm
trưa. Bữa cơm trên đảo đầu tiên chỉ có muối đậu mà thơm ngon vô cùng. Nhai thật
chậm rãi, hương vị ngọt ngào của cơm trắng lẫn với vị đậm đà của đậu phộng rang
vừa cháy vàng. Phần thức ăn do mẹ làm từ đầu hôm và gói vào lá chuối để
sư đem lên đảo. Sư vừa ăn vừa đưa mắt nhìn khoảnh đất mới được dọn dẹp chỉ còn
có đá. Đá lổn nhổn, đá trải dài, đá nằm phơi mình dưới nắng. Ban đêm đá thu lấy
khí lạnh, cô đọng giọt sương để thấm vào lòng đất nuôi sống cây cỏ chung quanh.
Ban ngày đá thu nhận ánh mặt trời, hấp thụ nhiệt, nung nóng Hòn Đỏ đến không
còn sự sống. Nhà sư bỗng nghĩ đến một phương pháp làm triệt tiêu cái nóng hừng
hực trên đảo. Đó là phải trồng cây để lấy bóng mát, để tàng cây che kín không
cho ánh nắng lọt xuống mình đá. Như vậy ban ngày sẽ không còn nóng nữa và ban
đêm tàng cây sẽ cho những giọt sưong rơi rụng và đá vẫn tiếp tục hội tụ hơi lạnh
để tạo thành những giọt nước tuy ít oi song vẫn đều đều cung cấp nguồn sống cho
thực vật dưới chân đá. Tuy nhiên muốn trồng cây cho có hiệu quả thì phải có đất,
muốn có đất thì phải moi đá và lăn đá đi xa.
Đến xế chiều thì khu đất rộng hơn 25 mét vuông đã dọn sạch
cây cỏ gai góc và chỉ còn lại đá to, đá con lởm chởm.
Nắng hoàng hôn nhuộm thắm bầu trời phương Tây. Gió trên biển
thổi về ào ạt. Cơn nóng bức ban trưa đã theo gió đi xa như thấm vào màu đỏ của trời Tây. Do chỉ ăn một ngày một bữa cơm (ăn đúng vào giữa trưa) nên nhà sư khỏi
phải lo nấu cơm chiều. Thời gian còn lại sư che lại tấm bạt và làm nệm cỏ để nằm.
Gom nhặt tất cả các cây cỏ đã cuốc, chặt ban ngày để làm thành một nệm cỏ
khá dày rồi trải lên trên một chiếc chiếu cũ. Chiếc giường đơn giản này
đã giúp đỡ nhà sư suốt khoảng thời gian khai phá Hòn Đỏ. Độ vài hôm thì
loạt cỏ gai mới được thay và cỏ cây cũ lại được chôn kỹ xuống hố để chuẩn
bị cho việc trồng cây có bóng mát.
Chuẩn bị cho việc an giấc xong thì bóng hoàng hôn đã tràn ngập
khắp bầu trời hải đảo. Bóng tối vẫn còn trong sáng dưới ánh sao. Biển khơi vẫn
dịu dàng vỗ sóng. Gió khơi hiu hiu thổi. Tiếng côn trùng râm rang khắp đảo. Mây
trời bay từ biển khơi vào đất liền, bay ngang qua đảo mây như hạ xuống thấp
hơn. Nhìn mây, nhìn trời, sư có cảm giác như mình đang ngồi trên một chiếc thuyền
lớn trôi trên biển cả. Không một chút bềnh bồng, không một giây chao đảo. Đảo vẫn
trôi yên bình dưới mây trời, các vị sao nhấp nháy nhiều hơn, trong sáng
hơn, thỉnh thoảng ẩn mình vào làn mây trắng nhẹ dịu dàng trôi trong lòng trời
xanh thẳm. Tuy ngồi một mình trên đảo mà nhà sư không cảm thấy cô đơn. Lòng sư
như ấm lại, sư nghĩ đến niềm vui sướng và hạnh phúc vì lần đầu tiên được nằm ngủ
trên hải đảo mà sau này sẽ gắn bó với cuộc đời mình. Ngọn đồi này xưa nay chưa ấm
bóng người, từ nay sẽ không còn cô đơn heo hút nữa. Đêm kỷ niệm đầu tiên sẽ là
nguồn an vui trong những tháng ngày lao khổ trên mảnh đất này. Tự nhiên sư ràn
rụa nước mắt… Đêm đó nhà sư đã đọc trọn hồi kinh Bát Nhã, đã nguyện khấn cùng
Quán Thế Âm Bồ Tát phù trợ cho mình đạt được ý nguyện khai hoang, lập chùa trên
hòn đảo hoang sơ này. Và sư thiếp vào giấc ngủ lúc nửa khuya.
Trong giấc ngủ, nhà sư đã trông thấy cảnh xanh tươi trên hải
đảo cùng với ngôi thiền tự xinh xắn tắm mình trong nắng sớm giữa trời biển bao
la. Bỗng nhiên cảnh mưa gió hãi hùng lại ập đến, những đợt sóng to, hung dữ ào
ào nhô lên đổ ập xuống ngọn đồi. Lũ sâu bọ hùa hơi tràn đến ăn hết cỏ cây xanh
tươi trên đảo. Chúng ăn cả đất đá.
Giật mình thức tỉnh, nhà sư thấy trời gần sáng. Chiếc mền đã
đẫm ướt sương khuya. Sư ngồi lên và bắt đầu đọc kinh sáng.
Lâu nay quen với không gian ấm áp của chùa khi đọc kinh, có
khói nhang, có mõ, có chuông, dưới ánh nến chập chờn, tiếng tụng kinh vang
trong gian phòng ấm cúng, nên hôm nay sư dường như không nghe được tiếng tụng
kinh của mình mà chỉ nghe tiếng trầm trầm của sóng vỗ hòa cùng tiếng gió vi vu.
Các vị sao còn sót lại trên bầu trời, sáng lóng lánh. Vòm trời cao rộng, thanh
thoát và vô cùng an lành.
Hôm nay chính thật là một buổi tụng kinh sáng đầu tiên khởi sự
một hành trình khổ cực gian lao trên con đường xây dựng một môi trường, một
cảnh sắc, một ngôi chùa trên một hoang đảo vắng người.
Một tuần sau thì mặt bằng nền chùa đã xong.
Mặt bằng dự trù lập chùa chỉ vỏn vẹn có 25 mét vuông. Mỗi chiều
dài chỉ độ 5 mét. Nền chỉ toàn bằng đá núi đập nhỏ trộn lẫn với đá cuội cùng với
cát đem từ đất liền sang. Mặt trên của nền phủ một lớp đá cuội lượm nơi bãi biển
khi nước thủy triều xuống thấp. Nhìn mặt nền người ngắm có cảm tưởng nhìn một mặt
bằng được thiên nhiên tạo thành bởi các hòn đá cuội bằng cỡ nhau. Công việc này
nhờ công chị Sáu đã nhiều ngày dành thì giờ rảnh rổi đi lượm đá để dành. Anh
Sáu có bổn phận sắp đá vào bao cát và hằng ngày chở qua đảo tập trung tại bến
đá để cho nhà sư vác lần lên đỉnh đồi.. Đá xây nền móng được tạo dựng tại chỗ,
được chẻ ra từng phiến vuông vức và sắp chồng lên nhau rất sít sao khỏi cần phải
dùng đến vôi hồ. Thấm thoát hơn một tuần trôi qua nền chùa đã ổn định và 8 cột
trụ được trồng vững vàng chuẩn bị cho việc cất tạm ngôi lều dùng để làm ngôi
chùa nhỏ.
Ngày dựng lều có anh Sáu lên phụ giúp. Và túp lều có mái lợp
vải lều của nhà binh đã hoàn tất trong ngày. Vách chung quanh chỉ được che bằng
những tấm giấy cát tông lấy từ các thùng giấy bán ở chợ Đầm. Túp lều thờ Phật
trên đảo Hòn Đỏ được hoàn tất. Sư Viên Mãn dời chiếc nệm cỏ lên nền lều và bắt
đầu sống chính thức tại túp lều đầu tiên trên hải đảo.
Nơi chính diện, một chiếc bàn gỗ tạp cũ được kê vững vàng làm
án thờ Phật. Duy nhất chỉ có một tấm hình Phật tổ được lồng kính trang nghiêm,
một lư hương bằng đất nung, một cây đèn dầu và một cái chuông, một chiếc mõ nhỏ
nhắn. Gia tài của nhà sư chỉ có chừng đó. Hằng tuần nhờ ở sự tiếp tế của mẹ nên
nhà sư yên tâm tiếp tục khai phá Hòn Đỏ.
Gánh nước lên đồi
Khi bầu trời phía đông hừng sáng thì chiếc thuyền
thúng đã được chất đầy các thùng chứa nước. Trên bầu trời xanh nhạt nhấp nháy
đôi vị sao thưa thớt. Mặt biển yên lặng bao la.
Lặng lẽ đẩy chiếc thuyền thúng ra xa bờ, sư Viên Mãn ngước
nhìn Hòn Đỏ in hình trên nền bầu trời bình minh. Một dải mây trắng nhẹ mỏng nằm
lơ lửng giữa lòng trời nối liền với đảo. Không gian vắng lặng. Nhà sư im lặng đẩy
nhẹ chiếc thuyền thúng. Bóng nước xao động rung rinh, bước chân nhẹ nhàng nương
theo chiều trôi của chiếc thuyền thúng. Lòng vũng đầy đá và san hô. Bước chân lại
càng khua nhẹ. Hai tay vin chặt vào miệng thúng, nhà sư vừa đẩy vừa nương mình
theo trớn trôi của thuyền. Nhờ bám vào thuyền nên trọng lượng của thân mình nhẹ
đi và bàn chân chỉ khẽ chạm nhẹ trên rặng đá san hô. Bàn chân đã có một vài mảnh
san hô cắt phải, cảm giác đau rát cứ tăng dần cho đến lúc thuyền ra chỗ sâu. Vừa
bơi hai chân, vừa đẩy thuyền tiến về phía đảo. Từ bờ ra đến đảo chỉ độ 800 mét
mà phải gần đến nửa giờ đồng hồ mới tiếp cận được với rặng đá nhấp nhô quanh đảo.
Mặt trời đỏ hồng đã nhô cao trên mặt bể. Mây trắng từ xa lần
lượt kéo về. Mặt biển đã nhấp nhô con sóng. Ven bờ đá, sóng đã vỗ cao.
Chiếc thuyền thúng đã được đưa vào neo giữa hai tảng đá nằm sàng sàng gần mép
nước. Thuyền được buộc vào một tảng đá có hình một chiếc yên ngựa nằm nép trong
bờ.
Trước khi xuống nước đẩy thuyền, nhà sư đã bọc kỹ bộ quần áo
nâu vào trong một tấm nhựa ni lông và chỉ bận vỏn vẹn có chiếc quần đùi.
Giấu cẩn thận chiếc bọc ni lông vào một hốc đá cao, sư Viên
Mãn bắt đầu chuẩn bị cho việc gánh nước lên đồi. Đường đi từ bến nước lên đến đỉnh
đồi là một con đường thiên nhiên nương theo một khe suối nước đã cạn giữa hai
dãy đá chạy quanh co. Mùa mưa, đây là một khe suối. Mùa khô là lối đi thiên
nhiên đầy đá và sạn. Một đôi đoạn bằng phẳng, mặt đất đầy những lùm gai khô cằn
lá nhỏ li ti trông như những chiếc vảy cá dính vào các cành khẳng khiu. Lá lưa
thưa và lác đác có một vài nụ hoa trắng. Hoa nở trông cô đơn và lẻ loi giữa hai
vách đá. Tuy nhiên trong khung cảnh hoang sơ, những nụ hoa nhỏ bé rung rinh trước
gió cũng đủ trang điểm cho buổi bình minh trên khe suối cạn của Hòn Đỏ đẹp đẽ
vô cùng.
Cuộc chuyển vận nước bắt đầu. Hai đầu gánh là hai chiếc thùng
dầu lửa đặt gọn vào hai chiếc gióng bằng mây, cao khoảng nửa mét. Đòn gánh là một
thanh tre già hai đầu có móc và có dây buộc chặt vào đầu gióng. Khi đặt đòn
gánh lên vai thì đáy hai thùng cách xa mặt đất, gọn gàng để dễ bề xoay trở theo
thế đi lên theo triền dốc. Nước đựng trong thùng chỉ vào khoảng hai phần ba
thùng để tránh nước tạt ra ngoài. Gánh nước đặt trên vai phải, tay trái chống một
chiếc gậy tre vừa nhẹ vừa bền. Cuộc leo dốc bắt đầu.
Đường dốc nhiều đá và sạn. Hòn lớn, hòn bé, nhiều hòn có cạnh
sắc bén đâm tua tủa buộc bước chân người đi phải cẩn thận, rón rén. Nhiều lúc cần
phải bước dài như nhảy để qua các mỏm đá nhọn khó đặt chân lên. Nhiều khi phải
rụt rè, nhẹ đặt bàn chân lên các khe đá để có thể lấy đó làm điểm tựa mà bước
lên thêm một bước nữa. Có nhiều lùm gai lúc ban đầu phải dùng chân giẫm lên, cắn
răng chịu sự đau đớn do gai châm để rồi sau đó nơi lùm gai này sẽ trở thành một
vùng êm mát cho cơn nóng của đá lúc trời trưa,
Đau chân, nhọc nhằn vị nắng gắt không làm nhà sư nản lòng, mà
nhà sư chỉ sợ nước trong thùng rơi vãi ra ngoài. Vị thế cho nên tuy mỗi khi đạp
nhằm một cây gai hay viên đá sắc cạnh nhà sư cố nén cơn đau mà không chồm lên
hay nhảy vọt lên để tránh mà phải cắn răng chịu đựng để gánh nước khỏi phải
chòng chành khiến cho nước tóe ra ngoài.
Nắng mai đã bắt đầu nóng bỏng. Mây trắng trên bầu trời đã
trôi về tận cuối chân trời. Vách đá bắt đầu hừng hực nóng. Gió biển vẫn im lìm
và chỉ hiu hắt trên đỉnh đồi. Đường dốc như một đường hầm lộ thiên. Sư Viên Mãn
bước từng bước cẩn thận, nặng nề. Mồ hôi đã bắt đầu rướm trên chiếc lưng trần. Đầu
đội một chiếc mũ ni màu nâu che kín chỏm đầu không tóc, nhà sư lặng lẽ chịu đựng
sức nóng càng ngày càng gay gắt.
Tấm thân nhỏ bé, gầy còm như đang “đánh vật” cùng đôi thùng
nước. Đường luôn luôn dốc, không có một đoạn phẳng nào để dừng lại, đứng nghỉ lấy
sức. Nhất là không có được một nơi bằng phẳng để tạm đặt gánh xuống đứng
nghỉ ngơi. Nhiều lúc quá mệt, nhà sư chỉ còn có thể dừng bước, chống gậy, để
nguyên đòn gánh trên vai mà đứng nghỉ. Lúc ấy nhà sư mới biết được mồ hôi đang
chảy ròng ròng trên mặt, trên chiếc lưng trần. Bỗng một cơn gió dịu dàng thoảng
đến. Cơn mệt nhọc như tan biến đi và cuộc hành hương lên dốc lại tiếp tục. Hai
lần đứng nghỉ là hai lần được thay vai. Cái nặng và cái nhọc sau mỗi lần thay
vai dường như được vơi bớt, nhưng nó lại nhanh chóng trở về trên đôi vai đang
gánh, mà không hề vơi đi sự nặng nhọc.
Hai bàn chân không còn mang nặng cảm giác đau rát vị đá nhọn,
sạn và gai. Sự mệt nhọc đã trung hòa sự đau rát. Chỉ một đôi khi, chân lỡ
bước nhầm lên trên một mảnh đá nhọn thì sự đau nhói lại tràn về, bước chân đi
chậm lại và cơn mệt như chợt tan đi, nhường chỗ cho cảm giác đau nhức hoành
hành trong đôi chân. Rồi sự mệt nhọc lại trở về và cơn đau nơi bàn chân lại vơi
bớt. Cứ như vậy liên tiếp, tiếp diễn cho đến khi lên được đến đỉnh đồi.
Vừa đặt đôi thùng xuống khỏi vai, nhà sư đã nhận thấy thân
hình mình nhẹ nhõm. Mệt nhọc và đau nhức như tan biến. Gió từ biển khơi thoang
thoảng thổi về. Cảm giác khoan khoái nhẹ nhàng đến thật nhanh. Giờ đây nhà sư mới
thấu hiểu được hạnh phúc trong cõi trần là ở tại đây, trong lúc này. Chân có giẫm
trên gai, đá nhọn, vai phải quằn dưới gánh nặng, mồ hôi phải chảy giọt trên
thân mình giữa một không gian cơ cực: nắng nung đến rát da mặt, cháy da lưng,
thì khi lên được đến đỉnh dốc ta mới nhận ra được hạnh phúc của cần lao khi được
ngơi nghỉ là quý đến dường nào.
Nghỉ chân được vài phút nhà sư lại xuống đồi để tiếp tục
gánh nước. Mấy bận sau như đã quen với gian lao nên việc leo dốc
thuận tiện, không vất vả như ban đầu. Ban đầu vì chưa quen với địa thế, nhưng
sau khi đã quen với con đường, với gai, đá nhọn thì nhà sư lại còn nhận thêm
cái nóng bức, cái nắng chói chang của ban trưa.
Nắng và nóng ở biển được phân chia theo từng vùng. Trên trùng
dương, giữa biển khơi nắng dường như được chan hòa cùng với sắc xanh của biển
nên sức nóng dịu dàng. Bao bọc lấy sức nóng như có một làn hơi nước che chắn.
Cho nên cái nắng giữa trùng dương chỉ gặm mòn cơ thể một cách nhẹ nhàng và từ từ.
Nếu con người đủ nước cho cơ thể thì việc chống chọi với sức nắng còn có thể chịu
đựng dài lâu.
Cái nắng trên bãi tắm lại làm tăng sự mát lạnh của làn nước
biển. Sau vài phút nằm tắm nắng rồi lao mình vào lòng biển, con người sẽ nhận
được sự mát mẻ của biển khơi tăng gấp bội phần.
Còn cái nắng và nóng trên sườn đồi Hòn Đỏ thì khác hẳn với mọi
nơi. Đường lên dốc trong lòng khe nhỏ hẹp, giữa những tảng đá phơi mình dưới nắng
trưa. Khí nóng hừng hực tràn lan, toả rộng khắp nơi. Đá hấp thụ nhiệt khá nhanh
và cũng tỏa nhiệt rất chóng. Dường như chúng thu nhiệt thì ít mà tỏa ra lại nhiều.
Không khí trên mặt đá rung rinh, linh động như đang bốc hơi. Đá nằm trải dài
nên không cho bóng mát. Đá uỡn mình như chờ đón nắng trời. Gió không về nên sức
nóng đọng lại trên từng phiến đá. Trong lòng khe nhỏ hẹp, nóng và nắng đang cuộn
mình giao nhau. Thuở xưa nơi trận Xích Bích, Chu Du đã đốt thuyền quân Tào Tháo
nóng cháy đến độ đỏ cả vách đá. Trong lòng khe, nhìn sắc đỏ của đá chói chang
và hừng hực nóng, sư Viên Mãn cũng có cảm tưởng như mình đang bị vây hãm vào cuộc
chiến tàn khốc này.
Có những tảng đá nằm trải bằng phẳng giữa đường, song nhà sư
không dám bước lên vị thân đá như đang nung lửa. Bên cạnh đá trải dài một đám cỏ
gai. Đành phải bước lên gai để tránh cái nóng đến cháy bàn chân người. Chấp nhận
cái đau nhức còn hơn giẫm lên cái nóng thiêu đốt. Trong cái đau nhức, bàn chân
còn hy vọng được chạm đến sự mát lạnh của đất, của lá cỏ xanh. Mặc dù đó chỉ là
cảm giác thoáng qua nhưng sự lựa chọn vẫn là cần thiết. Cho nên nhiều khi dừng
chân đứng nghỉ, sư Viên Mãn đã đứng giữa một lùm gai để nghỉ chân tạm bợ.
Dưới chân thì đá đang đọng lửa, còn bên trên thì nắng chói
chang như suối nóng đang rót xuống chiếc lưng trần. Những giọt mồ hôi chảy dài
trên mặt trên lưng như xoa dịu ít nhiều cơn nóng bức. Trời càng nóng thân thể
càng đổ mồ hôi. Thế quân bình của phản ứng con người giúp cho nhà sư thích nghi
với khắc nghiệt của thiên nhiên. Với lòng kiên nhẫn, với chiếc lưng trần, sư
Viên Mãn lặng lẽ bước từng bước một như người đang gánh nắng đi hành hương.
Trên chiếc lưng trần những giọt mồ hôi long lanh ánh nắng, nối tiếp nhau chảy dọc
xuống ướt đẫm cả chiếc quần đùi màu nâu. Có nhiều giọt mồ hôi trên mặt, trên cổ
chưa kịp chảy xuống đến thắt lưng đã khô đi dưới sức nóng hừng hực giữa ban
trưa để nhường chỗ cho những giọt mồ hôi lớn hơn, nặng hơn nối tiếp nhau chảy
xuống.
Trên đôi vai chật hẹp, xương xẩu, thịt da đỏ au lên vì
chiếc đòn gánh đè nặng dù đã được sang vai nhiều lần. Càng lên cao sự trĩu nặng
mỗi lúc một oằn thêm. Trong nắng nóng ban trưa trên lưng dốc Hòn Đỏ, sư Viên
Mãn cặm cụi gánh nắng, cô đơn giữa bầu trời chói chang, lầm lủi giữa đá nóng lẫn
cùng gai góc. Hai thùng nước chứa chan sắc nắng, sóng sánh theo bước chân đi chậm
chạp. Trời cao lồng lộng như đang ngắm nhìn nhà sư gánh hai thùng nắng đọng lại
thành nước, trong cái chói chang, oi bức, như cười cợt với tấm lưng trần thấm đẫm
mồ hôi.
Trong công việc cần lao cực khổ, nét mặt của nhà sư vô cùng
tĩnh lặng. Đôi mắt mở to nhìn thẳng về phía trước, không một nét băn khoăn, lo
nghĩ. Lặng lẽ mà đi như một vị sư hành hương đi trong sa mạc vắng người. Sự cực
khổ dường như chỉ tập trung trên đôi vai gầy đỏ au lên vì nắng, vì nặng. Đôi mắt
lặng lẽ, cam chịu khác với những đôi mắt của các vị sư đang yên lặng quét sân
chùa, lau bàn thờ hay gánh nước tưới rau, tưới cây kiểng của chùa. Đôi mắt sáng
ngời trên khuôn mặt khắc khổ, gầy guộc đen đủi. Đôi mắt sâu thẳm như chỉ nhìn
vào hư không, yên thắm của sự sống an lành. Có những vị sư trẻ ngồi bên bếp lửa
nấu cơm với gương mặt bình thản, đôi mắt linh động thấp thoáng ánh lửa hồng. Có
những vị sư già buổi sáng ngồi tụng kinh, ánh bình minh đã bừng trong đôi mắt.
Trong đôi mắt của nhà sư lúc này đã hàm chứa tất cả ánh mắt của biết bao nhiêu
vị sư đã từng chịu khổ hạnh trong việc tu hành. Vui có, khổ có song không hề có
một chút gợn của sự thất vọng, của sự chán nản, của sự thiếu đi niềm hy vọng.
Đôi mắt đã làm cho nét mặt của nhà sư Viên Mãn bình thản và an nhiên. Trong
khung cảnh nắng nóng, đường dốc cheo leo, gập ghềnh gai góc mà sự mệt nhọc chỉ
hiển hiện trên từng giọt mồ hôi, trên bước chân chậm chạp và trong hơi thở dồn
dập nặng nề, còn nét mặt của nhà sư vẫn an nhiên bình thản. Nét mặt lúc bấy giờ
giống tựa như nét mặt của các vị cha, mẹ đang cần cù lao động vì bầy con nhỏ.
Những nét cơ cực như lắng xuống, tan biến đi vị tình thương con vô bờ bến của mẹ
cha. Cuộc đời nếu vị một mục đích cao cả thì dù có cam khổ đến đâu nét mặt của
những người cha mẹ vẫn an vui khi phải lao động cho con mình được hạnh phúc. Sự
so sánh giữa nhà sư gánh nước lên trên đồi với cha mẹ lao động để nuôi con gần
như chính xác. Tính chất vị tha vẫn luôn luôn trong sáng. Gánh nước lên xây dựng
chùa cũng gian khổ như cha mẹ lao động nuôi con. Giọt mồ hôi nào chảy xuống
trong lao động cũng là giọt mồ hôi vì ta, vì người, vì một mục đích cần thiết,
cao cả.
Khi gánh được đôi nước lên đến đỉnh đồi, sư Viên Mãn ngồi
trên một túm cỏ khô nhìn xuống mặt biển xanh bao la để thấy rằng lòng mình
thênh thang nhẹ, tấm thân mình khoan khoái trước trời biển mênh mông. Những sự
nhọc nhằn như thoát ra ngoài thân thể, hòa tan vào sắc biếc của trời biển. Cơn
gió hiu hiu đã mang đi những giọt mồ hôi, làm dịu cái nóng nung giữa trưa nóng.
Lòng nhà sư đằm thắm như sắc nắng dịu dàng không còn gay gắt nữa và thân thương
trìu mến với người biết bao nhiêu. Nắng bây giờ không như nắng lúc gánh nước
khi leo đồi. Cũng là cùng một luồng nắng nhưng tùy tâm con người, khi thì nắng
nóng rát da khi thì nắng dịu dàng ấm áp.
Sau khi đem đôi nước đổ vào ba cái chum lớn kê trong một hốc
đá là nơi an toàn cho việc trữ nước, nhà sư lại quảy đôi thùng tiếp tục xuống
núi gánh nước. Khi lên có cái khó của người gánh nặng, khi xuống có cái khó của
người xuống dốc mà phải gánh đôi thùng tuy nhẹ nhưng cồng kềnh. Nương vào cây gậy
để giữ được thế thăng bằng và làm điểm tựa khi bước xuống dốc cao thẳng đứng.
Lên cẩn thận thì khi xuống lại càng cẩn thận hơn. Lên dốc ít khi bị té song khi
xuống dốc thì thường hay có lắm lúc lăn nhào.
Công việc gánh nước cứ tiếp tục mỗi lúc chậm dần. Khi đưa hai
thùng nước cuối cùng lên đến đỉnh thì trời vừa đứng bóng. Ngồi nghỉ được một chốc
thì buổi ăn trưa bắt đầu. Món ăn chỉ là một gói bắp nấu mà mẹ sư Viên Mãn đã nấu
lúc ban chiều. Nhai chậm rãi từng hạt bắp, nhà sư cảm nhận được chất ngọt và vị
bùi trộn lẫn vào nhau thấm dần vào vòm miệng. Đây là một phương thức ăn để cảm
nhận được sự đầy đủ trong sinh hoạt ăn uống của người tu hành. Nhớ lại có một
thời, sư đã được bổn sư giảng dạy về cách ăn uống trong việc tu hành và việc một
nhà sư chỉ ăn mỗi ngày có một hột mè mà vẫn sống trong thời gian tu tập. Một vị
sư chỉ ăn rau (ăn mỗi ngày một cọng rau) mà sống. Việc ăn rong biển để sống qua
cơn thiếu thốn nhà sư đã thực nghiệm trên Hòn Đỏ trong những ngày bão tố khi
không thể liên lạc được với đất liền. Anh Sáu Sài Gòn (người đã giúp nhà sư đi
qua hải đảo) đã dạy nhà sư ăn món rong biển này.
Miệng nhai bắp, mắt nhìn ra biển khơi lồng lộng màu xanh thắm,
lòng nhà sư thật thanh thản. Trong giây phút này nhà sư cảm nhận được tất cả hạnh
phúc của riêng mình và tin tưởng nơi công việc mình đang làm sẽ không phí phạm
(và nhất là sẽ) không vô nghĩa. Gánh được nước lên đồi là giải quyết được một
phần cơ bản nhất cho công việc khai phá hoang đảo này. Mặc dù rất gian khổ song
nhà sư vẫn tin rằng sức mình có thể thực hiện được.
Nước sinh hoạt cho mỗi ngày là một đôi, gồm để ăn uống
và tưới cây. Như vậy mỗi tuần sẽ chỉ phải gánh nước có một lần và những
ngày còn lại sẽ dồn hết cho lao động khai phá và trồng tỉa. Ngoài ra mỗi khi
lên đảo thì nhà sư lại mang theo một phần nước cho việc sinh hoạt trong ngày
đó. Thời gian lao động trên đảo rất cần nên mỗi tuần sư chỉ về đất liền một lần
để lấy lương thực và tiếp tế nước.
Suốt 10 năm liền công việc gánh nước vẫn tiến hành đều đặn nhờ
vào ý chí và tâm nguyện của nhà sư.
Ăn rong trên Đảo
Ăn uống xong sư Viên Mãn chú tâm vào việc chuẩn bị tân tạo chỗ
tạm trú của mình trong thời gian khai thác, khẩn hoang ở trên đồi. Đó là
một cái hốc ăn sâu vào một tảng đá nhô cao có nhiều bụi tầm xuân leo mọc
tạo thành một chỗ ẩn náu lý tưởng: nắng thì có bóng mát và mưa thì có chỗ tạm
nương. Muốn cho an toàn khi mưa đến nhà sư đã che phía dưới lùm cây một tấm vải
bạt ni lông như một cái lều ẩn trong lùm tầm xuân. Mặt đất bên dưới là một tảng
đá bằng phẳng như một tấm phản rộng. Tuy không được hoàn toàn bằng phẳng nhưng
cũng đủ để đặt lưng nằm ngơi nghỉ trong những giờ sau lao động. Vách đá là chỗ
tựa để tránh gió mưa.
Trời đang trong xanh bỗng nhiên mây ở chân trời ùn ùn kéo
nhau che kín bầu trời. Rồi cơn mưa bất chợt ào ào đổ xuống. Mưa giăng màn
che kín không gian biển rộng... Hòn Tre, Hòn Mun và các đảo khác mờ đi trong làn
mưa để rồi quanh đảo chỉ còn có màn mưa trắng giăng giăng. Mưa vây quanh
đảo nhỏ như hợp sức với những cơn sóng ào ạt quanh chân đảo. Giữa cơn mưa Hòn Đỏ
như cô đơn song vẫn an nhiên trước sóng gió bão bùng. Gió mưa làm tấm bạt ni
lông run lên bần bật khiến sư Viên Mãn phải ngồi nép mình bên vách đá, lặng
nhìn dòng nước chảy trên tấm bạt ni lông và cùng tuôn chảy vào chiếc thùng hứng
bên dưới. Niềm vui của nhà sư là được có thêm nước dự trữ cho những ngày khai
phá trên đảo. Ít nhất là có được một tuần khỏi phải gánh nước.
Nha Trang không có mưa dầm, chỉ có những cơn mưa chợt đến rồi
chợt đi. Nhiều lúc cơn mưa kéo dài chỉ trong vòng đôi ba ngày là cùng. Những
lúc đó đảo Hòn Đỏ bị cô lập giữa biển động. Sóng vỗ ầm ầm quanh chân đảo nên
không có một chiếc thuyền nào có thể cặp vào. Đảo như bị cô lập, như trôi ra xa
giữa sóng gió trùng dương.
Mỗi khi cơn mưa kéo dài, đảo bị cô lập với đất liền sư Viên
Mãn phải chấp nhận tình trạng thiếu lương thực trên đảo. Hàng tuần sư ra đảo chỉ
mang theo một ít gạo và một ít tương chao và xì dầu. Sư chỉ ăn mỗi ngày một bữa,
đúng vào giờ ngọ. Nhiều lúc bị cô lập trên đảo, sư phải ăn những lá rong xanh mọc
nơi mép đá ven biển. Sóng lớn đánh tạt rong lên các mỏm đá cao, nhà sư đã lựa
những mảnh rong còn non xếp từng chồng trên một dĩa nhựa rồi mỗi lúc dùng
bữa sư ngồi nhai chậm rãi như ăn bắp nấu. Từng lá rong xanh được nhai chậm
rãi, nhai thong thả như để tận hưởng hương vị thơm ngon của rong biển. Thật ra
nhà sư nhai chậm rãi là vị thói quen hơn là muốn tận hưởng hương vị của rong vì
hương vị này nhạt pha lẫn vị đắng và chát. Nhìn vị sư ngồi nhai rong biển, ta
có cảm tưởng là mình đang bắt chợt thấy được hình ảnh một vị chơn tu thuở
trước, trong câu chuyện một vị sư ngồi nhai một hột mè mà đủ sống trong một
ngày.
Trong các câu chuyện được dân gian kể lại như câu chuyện ngài
Trừng Nghệ, hiệu Nhơn Sơn tu tập tại chùa Thiên Sơn (còn có tên là chùa Lỗ Mây) thuộc xã Ninh Hưng huyện Ninh Hòa, Khánh Hòa. Việc ăn uống của Hòa thượng rất
giản dị. Chỉ một nắm cơm khô, một nắm gạo rang, hoặc một nắm lá cây, bất cứ lá
cây gì, cũng đủ nuôi sống. Ngoài ra còn một vị sư tu ở chùa Linh Quang thuộc
thôn Đại Điền Trung, hiệu là Nhơn Nguyện. Ngài xuất gia từ lúc 9 tuổi.
Khi tu có hơi tối dạ, thường bị phạt mỗi khi không thuộc kinh. Sau một tuần ngồi
tịnh thiền dưới cây ké tại núi Phú Nhơn ngài đã ngộ đạo và vào tu ở chùa Linh
Quang và ngài nhập thất trong thời gian là ba năm. Suốt thời gian này ngài chỉ
ăn rau muống sống và ớt vào đúng ngọ. Do đó ngài có tên là Hòa thượng
Rau.
Ăn rong thay cơm, nhà sư không bị đau bụng hay khó chịu vị
ban đầu nhà sư ăn rất ít, nhai rất kỹ và có lẽ nhờ bộ máy tiêu hóa tốt . Ban đầu
chỉ ăn chút ít, sau lần lần thay cho bữa ăn chính. Cuối cùng cơ thể quen dần với
loại lương thực mới lạ này.
Lần ăn rong ban đầu vào lúc trời mưa dầm vì không có lao động
nên việc ăn rong thay cơm rất dễ thực hiện. Sau đó cần có sức khỏe để khai phá
hoang đảo nên việc ăn rong chỉ để giặm vào những ngày nghỉ làm hoặc trong ngày
gió mưa. Tuy nhiên trong suốt mười năm lao động trên đảo Hòn Đỏ sư Viên Mãn vẫn
duy trì chế độ ăn rong mỗi tuần hai lần để giảm thiểu việc tốn hao lương thực vị
sư phải tự túc trong vấn đề này khi chùa chưa có bổn đạo. Anh Sáu Sài Gòn chỉ dạy
nhà sư ăn rong với mục đích thay rong làm rau xanh trong các bữa ăn còn sư khi
thực hành lại lấy rong thay cho lương thực. Nhà sư đã thực hiện cách ăn này cho
nhiều loại rong biển từ rong rau câu, rong đồng mứt. rong chân vịt v.v.. và đã
nhận chân ra là: mỗi loại rong đều có một mùi vị riêng giống như các hoa quả,
các rể củ v.v... Hạp miệng với loại nào thì thích ứng với loại nấy. Ban đầu khó
chịu sau dần dần quen và sau đó làm lương thực để mà sống.. Trong lúc ăn, nếu
lòng ta không nghĩ đến chất ngon vị ngọt thì miệng nhai nhánh rong đắng cũng giống
như nhai một cộng rau muống vậy.
Trong hoàn cảnh cơ cực nhất, con người có thể sẵn sàng chấp
nhận những điều khổ cực nhất, vui với những điều mình có thể có và giữ được niềm
vui trong những cái tầm thường nhất mà mình có được. Nếu giữ được nếp sống này
ta luôn luôn có hạnh phúc và ta sẽ được vơi đi những đau khổ mà trần gian này
đã đem đến cho ta. Khi ta chấp nhận sự đau khổ thì đau khổ sẽ vơi đi, khi ta
không nhớ đến sự đau khổ thì đau khổ sẽ biến mất giữa lòng ta.
Có một đôi khi anh Sáu Sài Gòn đem rong biển nấu thật chín và
mời sư Viên Mãn ăn và nhà sư đã thốt nên:
- Không có mùi vị gì khác. Tuy nhiên ăn chín khó ăn hơn ăn sống.
Theo ý nghĩ của nhà sư thì cọng rong kia dù có thay đổi cách
thức nấu xào, hay cách thức chế biến thì bản chất của rong biển vẫn là bản chất
của rong biển. Vị ăn trong miệng vẫn tùy thuộc vào cảm nhận của con người. Tuy
nhiên khi cần sức khỏe để lao động thì việc ăn cơm rau vẫn cần thiết.
Hằng năm cứ vào mùa nắng, dân cư trong đất liền
đợi khi nước triều xuống, lội ra vớt rong biển về phơi khô đem bán cho bạn hàng
chế biến hải sản. Nhiều lúc họ vớt lên phơi ngay trên bãi đá và đợi khi nào
rong khô họ mới đem giỏ ra hốt đem về. Nhiều lúc thấy các bãi rong lòng mứt
hoặc rau câu chân vịt bị hái sạch, sư Viên Mãn đã suy nghỉ Trời có sinh thì có
hoại, tuy nhiên lòng ta vẫn mong muốn là tất cả các loài chim muông, cây cỏ đều
được tự sinh sôi nẩy nở yên lành chung quanh đảo này.
Gánh đất lên Đảo
Một tuần, nhà sư chở nước lên đảo một lần và chở đất lên đảo
một lần. Chở nước thì vận chuyển từ đất liền ra đến chân đảo dễ dàng thuận
tiện song việc gánh nước lên đến đỉnh đồi lại khó khăn. Còn chở đất thì nghịch
lại.
Muốn có đất thì thuyền phải ngược lên tận các bãi đất hoang gần
chiếc cầu sắt Ngọc Hội chạy qua sông Cái. Tại đây có những bãi đất hoang mọc đầy
gai mắc cỡ và cỏ mần trầu. Đất ở đây là đất sét pha lẫn đất cát dọc hai bờ
sông. Vì vậy nên đất rất xốp.
Từ chiều hôm trước, nhà sư đã nhờ anh Sáu cho mượn chiếc ghe
và chuẩn bị 50 chiếc bao cát cùng với cuốc và xuổng. Khi trời vừa hừng đông ghe
đã vượt qua khỏi cửa sông Cái, qua cầu xóm Bóng, rồi ngược giòng sông. Nơi cửa
sông, gió biển hiu hiu thổi. Thuyền đánh cá từ biển xa trở về. Âm thanh của máy
thuyền vang vọng trên sóng nước. Tiếng máy có âm thanh trầm nặng là tiếng máy của
chiếc thuyền có cá nặng đầy khoang. Tiếng máy có âm thanh nhẹ và bổng là tiếng
máy của thuyền đánh cá ít gặp may mắn, cá nhẹ lòng khoang. Bầu trời bình
minh căng lòng tươi mát đón đoàn ghe thân yêu trở về. Bến cá Cù Lao vui nhộn vì
vợ con các ngư dân ra đón cha, chồng và những người “rổi cá” chen nhau trong chờ
đợi.
Để lại sau lưng tiếng reo hò vui vẻ, chiếc ghe của nhà sư vẫn
im lìm tiến thẳng về eo đất nằm giữa dòng sông. Đây là một cồn đất nhỏ hoang vắng.
Lau sậy và cỏ lát mọc đầy. Đất phù sa của dòng sông Cái tích tụ nhiều năm. Lấy
đất ở đây không ai ngăn trở. Neo thuyền cặp sát bờ, nhà sư đi sâu vào bên trong
tìm vùng đất tốt. Nơi nào có cây to và cỏ nhiều, nơi ấy có đất tốt cho trồng trọt.
Đất được cho vào bao cát, cột chặt miệng. Bao cát này làm bằng một loại vải lâu
mục của nhà binh thường dùng để làm hầm trú ẩn hoặc hầm chiến đấu. Khi di chuyển
đi nơi khác, các hầm này được bỏ hoang, dân chúng thường đến đào bới đổ cát đi
và đem về bán để dùng vào nhiều công việc
Đến gần trưa thì ghe đã được chất đầy bao cát đựng đất và ghe
được xuôi về Hòn Đỏ. Ghé nhà anh Sáu, bữa cơm trưa đã chờ sẵn. Tuy đạm bạc song
nhờ lao động nên bữa cơm với rau dền chấm xì dầu vẫn được xem là bữa cơm đầy đủ.
Ăn xong thì nước triều vừa lên, ghe nhờ thêm một tay chèo là anh Sáu nên ghe cặp
bến Hòn Đỏ rất nhanh. Các bao đất được chuyền lên bến mau lẹ và anh Sáu lo trở
về nhà chuẩn bị cho chuyến đi thả lưới ban chiều. Còn lại một mình, sư Viên
Mãn, mỗi vai vác một bao đất, bắt đầu leo dốc.
Vác đất không nhọc công bằng gánh nước vì gánh nước thì hai đầu
gánh thường bị vướng các mỏm đá trên đường lên dốc và nhất là phải chú tâm sợ
nước vương vãi ra đất. Vác đất tuy nặng hơn song lại gọn gàng khi di chuyển,
khi bước chân lên gộp đá và nhất là khi di chuyển qua các khe đá chật hẹp. Hai
bao đất cũng che được hai vai và một phần lưng dưới ánh nắng gay gắt xế trưa.
Trong không khí hừng hực, bóng nhà sư lặng lẽ di chuyển, âm thầm, kiên nhẫn, Cảnh
mênh mông vắng vẻ của hoang đảo không hề làm chùn bước của con người đã có quyết
tâm thực hiện cho được ước nguyện của mình.
Lên đến đỉnh đồi, nhà sư đặt hai bao đất xuống đúng vào vị
trí đã dự định rồi lẳng lặng xuống đồi. Gió từ biển khơi đã lồng lộng thổi về.
Trên bầu trời trong xanh, lênh đênh đôi dải mây trắng mỏng. Cơn nắng như hun vẫn
đổ xuống hòn đảo nhỏ nhoi này. Bên dưới là biển nước mênh mông, trên này là
không gian đầy nắng lửa. Trên đỉnh đồi thì có gió thoảng song ở nơi các khe đá,
đường mòn ẩn khuất trong đá, không khí vẫn hừng hực khí nóng, lưng của đá vẫn tỏa
khí nóng. Khi vác đất qua những vùng này, chân tự nhiên bước mau, lòng mong cho
chóng đến vùng có gió biển thổi qua. Nơi đây chân tự nhiên dừng lại, gió
như một nguồn nước mát xối xuống toàn thân. Mọi sự mệt nhọc như tan biến, hai
bao cát không còn đè nặng trên hai vai. Bóng người trải dài trên vách đá, nhà
sư trong thế đứng nghỉ hơi, mắt hướng về bể khơi, lồng ngực hít đầy gió
biển. Rồi lại tiếp tục cất bước lên đồi.
Chuyến cuối cùng vừa xong thì mặt trời đã khuất dưới chân trời.
Phương Tây rực rỡ ánh vàng. Biển ào ào con sóng. Hơi mát đã tràn về. Nhà
sư lại tiếp tục đem các bao đất đổ vào các khe đá, lấp mặt các tảng đá tạo
thành một khoảnh đất bằng phẳng vuông vức. Xong việc thì trời đã tối hẳn. Nhìn
qua một lượt những công thành của một ngày lao động, nhà sư xuống bến tắm gội
những vết đất đã gắn chặt trên lưng, trên tay chân. Dầm mình trong một vũng nhỏ
kín gió nhà sư cảm thấy sóng biển ấm áp đã âu yếm vỗ nhẹ lưng mình. Cơn mệt mõi
như tan vào lòng biển. Nhà sư lặng lẽ trở về túp lều nhỏ trên đồi. Trong bầu trời
chạng vạng tối, giữa không gian xa vắng của đảo khơi, tiếng tụng kinh tối vang
lên rõ mồn một. Tiếng mõ nhịp nhàng đều đặn. Thỉnh thoảng một tiếng chuông
buông rơi nhẹ nhàng nhưng trầm lắng. Mùi hương lan xa, tỏa lững lờ trong bóng tối buông dày. Đêm đã phủ đầy trên hải đảo.
Tư duy dưới trăng
Nằm gối đầu trên đá, nhà sư mơ màng lắng nghe tiếng dế vọng
xa xa, khi mơ hồ, khi như rõ bên tai. Những kỷ niệm xa xưa của những ngày
thơ ấu chợt thoảng về như đọng dưới ánh trăng vàng. Lòng nhà sư nhẹ nhàng mở rộng
đón lấy sự thanh thản dưới trời khuya.
Sự êm đẹp của thiên nhiên luôn luôn kề cận, quấn quít chung
quanh ta nhưng vì quá bận rộn với công việc hằng ngày nên lòng ta quên đi cái đẹp
của thiên nhiên, của cây cỏ chung quanh ta.
Ngước nhìn lên bầu trời trong xanh vằng vặc trong suốt như
pha lê. Ánh trăng dịu mát như mơn trớn, như xoa dịu cái nóng ban ngày như vẫn
còn phảng phất trên da thịt. Bù lại nóng bức ban ngày, đêm trăng như rải sửa
mát dịu trên toàn cảnh Hòn Đỏ. Ánh trăng như mặt phải của cuộc đời mà sức nóng
ban trưa là mặt trái. Nhờ có nó ta mới hưởng được những giờ phút thoải mái hoàn
toàn hạnh phúc.
Giữa trời biển bao la, giữa khó khăn cực nhọc ban ngày, sư
Viên Mãn lòng vui sướng ngộ ra một điều là con người không cô đơn trước thiên
nhiên. Thiên nhiên vô tình khi con người không lưu ý đến song rất hữu tình với
con người hằng để tâm đến thiên nhiên. Lao động là môi trường để con người gần
gũi và yêu mến thiên nhiên. Nhờ lao động con người mới thấy rõ ý nghĩa của cuộc
đời, mới yêu mến cuộc sống. Khi nội tâm ta hòa đồng cùng vũ trụ thì thiên nhiên
dù khắc nghiệt đến đâu cũng là bạn đồng hành với ta trên cõi đời này. Khai phá
hòn đảo này, sư Viên Mãn chỉ muốn góp một phần nhỏ vào công việc lập một ngôi
chùa nhỏ trên đảo cùng với cảnh quan có cuộc sống như trên đất liền với cỏ cây
xanh tươi. Ngôi thiền viện sẽ là nơi tu tâm dưỡng tánh cho tất cả ai ai
mong muốn giữa trời biển bao la có một nơi để tu niệm.
Trong sạn đá, trong khô héo, hoang vu, chỉ có nắng và
gai góc, tuy gần đất liền mà không một dấu chân người. Hằng ngày có thuyền câu
quanh đảo nhưng không người đến thăm vì thiếu nước, thiếu phương tiện tới lui
và nhất là thiếu nguồn sinh sống. Từ khi bước chân lên hải đảo không một giây
phút nào nhà sư chạnh lòng chán nản. Niềm hy vọng cất được một ngôi chùa trên
hoang đảo đã giúp nhà sư vượt qua tất cả mọi gian khổ. Sư không bao giờ nghĩ đến
một ngôi chùa nguy nga đồ sộ mà chỉ mong có một ngôi chùa lợp tranh thanh tịnh
với một vài đệ tử mến cảnh mến thầy. Sư nhớ lại những tháng ngày theo học nơi
trường Bồ Đề, trong giờ giảng văn, sư thích nhất là bài thơ Thú Hương Sơn của
Chu Mạnh Trinh có những câu:
Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái
Lửng lơ khe đá cá nghe kinh
Thoảng bên tai một tiếng chày kình
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng…
Và ở Nha Trang này không biết tìm đâu ra một động Hương Tích
vừa trần vừa tiên, cảnh, tình hòa quyện lấy nhau, để cùng nép mình trước
hiên Phật. Vị vậy nên khi đứng trên đỉnh núi Sinh Trung, nhìn thấy Hòn Đỏ cô
đơn trên sóng nước, nhà sư đã có tâm nguyện ra đảo lập chùa. Với một tình yêu
thiên nhiên, với lòng khát vọng tìm ra một nơi tu hành theo sở nguyện cho nên
dù gian khổ đến bậc nào nhà sư cũng quyết tâm thực hiện cho bằng được. Tự mình
khai phá, tự mình xây dựng là chính, còn nhờ ở người khác là tùy duyên, tùy
hoàn cảnh.
Trồng trỉa trên Đảo
Sau nhiều ngày dọn dẹp phát quang và làm nền, che chùa, khu đồi
trên đỉnh Hòn Đỏ tạm thời đã được dọn sạch. Gai góc được chặt nhỏ phơi khô rồi
đốt cháy bỏ vào các hố đào sẵn để chuẩn bị cho việc trồng cây lưu niên. Đất đưa
từ đất liền lên đảo được chia thành khu vực để chuẩn bị trồng rau.
Tháng tám thời tiết thường hay thay đổi đột ngột. Trời đang nắng
chang chang bỗng nhiên phương Tây mây kéo về đen đặc cả một bầu trời. Và mưa bắt
đầu tuôn xuống. Nước mưa ào ạt chảy theo các triền dốc cuốn theo những hạt đất,
hạt sỏi cùng các cọng cỏ khô. Mặt đất như bị bào mòn dần dần để trơ lại những tảng
đá lớn cùng với những tảng đá nhỏ lô nhô chung quanh. Đã mấy trăm năm nay chỉ
có sự bào mòn mà chưa có một sự bù đắp nào để làm cho đất trên đảo được
thêm phì nhiêu màu mỡ. Cây to trên đảo không có, chỉ có các bụi gai góc
mà sự rụng lá không thể bù vào sự mất mát xói mòn của các cơn mưa lũ. Bởi vậy
cho nên cần đến sự hướng dẫn dòng chảy chậm để giảm bớt sự chảy ào ạt cuốn
đi tất cả đất đai trên mặt đảo. Cho nên đá nhỏ được xây thành tường thấp
chung quanh và các khe ngoằn ngoèo làm chảy chậm bớt dòng nước mưa trên đảo.
Sau cơn mưa dông trời lại ửng nắng. Thời gian này rất thuận tiện cho việc trồng
tỉa.
Những hạt giống được xin từ quê hương Phú Yên như: sắn nước,
hạt é, và những hạt rau cải, tần ô… Những luống đất không thẳng hàng vì địa
hình của mặt đất, được trộn xới nhiều lần với những bọc phân ủ, đang thấm đẫm
nước mưa và ấm dần trong nắng. Các hốc trồng sắn nước, nằm rải rác khắp nơi
theo các thế đất và đá. Đất đưa từ đất liền lên được dùng để trồng rau,
trồng khoai lang, khoai mì, đu đủ, cà, ớt v.v...
Sau cơn mưa rào và một ngày nắng ấm, các hạt giống đã được
gieo trồng. Các hạt sắn nước có sắc vàng nhạt được trộn với một ít tro để chống
kiến được gieo vào các hốc đất cạnh các tảng đá. Những hạt cải ly ti màu
nâu sẫm cũng được trộn với tro và rải đều trên các luồng đất mịn bằng phẳng.
Hom mì cũng được chặt ra thành từng đoạn ngắn và được vùi trong các hốc đất ít
đá. Rút kinh nghiệm ở những vùng tự do khi kháng chiến chống Pháp, sư đã
dồn các lá cây, cỏ dại vào các hốc đá to có trộn thêm đất ruộng để trồng
các củ khoai sọ, khoai mỡ, khoai tím v.v… Riêng về việc trồng khoai lang thì sư
chia ra hai cách trồng:
Loại ăn lá thì được trồng trên những luống đắp thành vồng có
rãnh chung quanh để tụ nước. Loại lang ăn lá có những phiến lá tròn dùng đế luộc
ăn thay cơm hoặc dùng làm món ăn hằng ngày.
Loại ăn củ thì lá có khía răng cưa, lá ít phát triển nhìn lúc
ban đầu trông không đẹp mắt bằng lang ăn lá song lại cho củ rất nhiều. Các vồng
lang củ thường được vun to, giữa các thân vồng luôn luôn có độn thân lá của các
giống cây mọc hoang trên đảo để làm phân cho củ và để làm cho đất xốp. Vồng
lang đầu tiên trên Hòn Đỏ chỉ vỏn vẹn có một vồng dài khoảng 10 mét. Khoai lang
chỉ trồng thích hợp ở các vùng đất xốp. Nhiều nơi chỉ trồng lang trên đất
cát mà củ lại rất nhiều và tinh bột cũng rất nhiều. Đặc biệt là khoai trồng
trên đất thịt thì củ lớn song thường bị sùng và nhiều lúc lại bị sượng vị ngập
nước. Riêng khoai trồng đất cát thì tuy có củ nhỏ song ăn rất bùi và thu hoạch
rất thuận tiện. Có nhiều vùng đất cát song nhờ kinh nghiệm lót phân xanh (cành
lá cây xanh) trong thân vồng nên củ khoai lớn mà bao giờ cũng tràn đầy tinh bột
tuy khi nhìn trên mặt vồng ta chỉ thấy thưa thớt các lá khoai.
Vốn biết rằng đất nơi đảo không thích hợp với việc trồng
khoai ăn củ song khi nhớ đến những chiếc giỏ bằng tre trồng khoai lang trong thời
gian chống Pháp ở những vùng thiếu đất, nhà sư đã áp dụng cách trồng này trong
các giỏ có lỗ thưa chung quanh, rộng 1 mét, cao nửa mét, dưới đáy có lót
lá dày và đổ đất dày khoảng một gang tay, trên mặt xếp các dây khoai lang dài
có hai đầu để thò ra ngoài giỏ. Trên các cọng dây khoai phủ một lớp lá xanh dày
và đè lên trên là một lớp đất, rồi tiếp tục rải dây khoai. Cứ thế mà trồng độ
4, 5 tầng. Giỏ khoai được đặt trên một tảng đá, hằng ngày tưới nước như tưới một
vồng khoai. Tuy nhiên mỗi khi lang đã mọc nhiều thì việc tưới nước có nhiều khi
khỏi cần đến vì khi gặp trời mưa thì giỏ lang không khi nào bị úng nước và khi
trời nắng thì trong lòng giỏ vẫn còn chứa nhiều độ ẩm. Khi lá khoai mọc đầy bò
dài xuống đất, giỏ khoai trông giống như một ụ khoai lang trồng trên tảng
đá, đôi khi trông giống như một khóm lang mọc tự đá, bò lên đá. Cách trồng lang
này rất thích hợp nơi thiếu đất, thiếu nước.
Đến mùa thu hoạch, sau khi cắt các ngọn lang bao quanh giỏ,
sư chỉ cần dùng lưỡi liềm cắt đứt các thanh tre đã ẩm mục rồi dùng cuốc nhỏ đào
xới đất trong giỏ ra. Khi xới tầng đất trên cùng, các củ khoai lang hiện ra nằm
chen chúc cạnh nhau như một bầy heo con màu đỏ hồng, màu trắng vàng trông thật
dễ thương. Kết quả thu hoạch tùy theo cách trồng và cách bón phân lá. Nếu các
dây khoai đặt quá sát nhau thì củ nhiều song lại có thân nhỏ. Nếu đặt thưa dây
lang thì củ lớn song lại ít củ. Lại còn việc đất và phân lá tốt hay xấu, thích
hợp với khoai hay không thích hợp. Phần nhiều đều do kinh nghiệm của người trồng
mà ra. Đôi lúc không cần đào xới mà khi các nang tre đan được cắt, đất trong giỏ
vì phần nhiều là đất cát trộn với lá, cành cây nên tự động bung ra và củ lang
rơi nằm đầy trên mặt đá.
Trên Hòn Đỏ chỉ có thiếu đất chớ không thiếu nơi trồng. Mỗi
tuần chỉ một chuyến vận chuyển đất lên đảo cũng đủ để trồng một vồng khoai.
Song song với việc trồng lang, việc trồng sắn nước cũng
dễ dàng thành công hơn các loại giống khoai khác như khoai sọ, khoai tím, khoai
mỡ. Củ sắn nước dễ trồng song không có lợi về kinh tế vì giá trị không cao,
không thể thay thế cho thực phẩm như khoai, mì. Tuy nhiên đó là một thức ăn tạm
thời vừa no, vừa đỡ khát nước. Củ sắn nước đã giúp cho nhà sư trong khi nắng hạn,
khi các lu nước đã vơi đi mà chưa kịp vào bờ để lấy nước thì các củ sắn nước
này đã làm dịu cơn khát, vơi cơn đói, trong khi chờ thuyền của anh Sáu chở thêm
nước từ đất liền ra đảo mỗi khi nhà sư vì nhiều công việc cần làm nên không thể
về đất liền mang gạo và chở nước ra đảo. Những lúc này nhà sư chỉ còn nhờ vào sự
tiếp tế của anh Sáu Sài Gòn. Không có anh Sáu không có ghe thuyền ra đảo, không
có phương tiện chở nước, chở đất. Nhiều lúc chờ không được vì một lẽ gì đó anh
Sáu không ra đảo thì nhà sư lại phải đợi nước thủy triều xuống, lội vào bờ.
Một hôm khi lội vào bờ nhà sư mới hay anh Sáu Sài Gòn không
ra được đảo vị bận đưa chị Sáu đi nhà thương sinh sản.
Việc lấy nước, gánh nước một mình trên đảo vắng vẫn âm thầm
trong quạnh vắng, trong hiu quạnh giữa trời đất bao la nắng gió trùng trùng.
Nhưng hạnh phúc đang lớn dần vị công việc càng ngày càng tiến triển. Kết quả đã
trông thấy từng ngày. Vồng lang đã xanh lá, khoai mì đã xòe cánh nõn. Trên luống
cải đã đậm màu xanh tươi sống. Mầm sống đã hiện diện. Niềm vui và hi vọng
đã theo gió sớm tràn về..,
Trồng xoài trên Đảo
Gió đưa mười tám lá xoài
Mười hai lá mít lạc loài về đây.
Câu ca dao này tuy không hiểu được cặn kẽ nguồn gốc và ý
nghĩa song cứ mỗi lần nghĩ đến, sư Viên Mãn vẫn thấy bâng khuâng trong lòng. Lá
mít, lá xoài của quê hương vẫn bàng bạc trong hồn. Hình ảnh này thân thương như
khi có người nhắc đến bờ tre, con sông đầu làng. Hơn nữa hai tiếng lạc loài đã
nói lên thân phận của kẻ không nhà như cây mít cây xoài xa vườn, xa nơi lớn
lên. Nhà sư chợt nhớ đến những cây xoài, cây mít trên chùa Linh Quang nơi núi
Xuân Đài tỉnh Phú Yên. Chùa Linh Quang nổi tiếng là một ngôi danh lam có thắng
cảnh đẹp. Núi Xuân Đài nằm ở phía Nam huyện Đồng Xuân, nối tiếp từ Thạch Lãnh
chạy xuống, núi gò liên tục, làng xóm nối dài, ruộng vườn xen trộn. Chùa Linh
Quang còn có danh là chùa Đá Trắng, vì đá trên núi phần nhiều mang sắc trắng.
Trong sân chùa và quanh chùa có giống xoài tượng rất ngon. Vỏ mỏng, thịt dẻ và
hương thơm. Đặc điểm là để được lâu, hương không phai và vị vẫn thắm. Trước đây
giống xoài này hằng năm phải đem về Huế cống vua. Cho nên xoài trên chùa bị chức
sắc trong làng quản lý. Khi mùa xoài có trái, các phu dân phải túc trực tại
chùa để canh gác. Họ phải đếm từng nụ xoài lúc mới tượng trái và chăm nom cho đến
khi xoài già mới làm lễ hái trái và dùng ngựa chở xoài trong các giỏ tre ủ xoài
cùng với lá sầu đông để đến khi về tới Huế thì xoài vừa chín vàng da. Do được bảo
vệ nghiêm nhặt cho nên tuy chùa có danh là có xoài quý song nhà chùa không bao
giờ được hái trái cúng dâng Phật trong các mùa xoài. Tuy nhiên năm nào chùa
cũng có trái xoài để cúng. Đó là không rõ nguyên nhân nào khi mùa xoài được
hái sạch để dâng vua thì trên cây xoài luôn luôn còn sót lại những trái chín
vàng mắt thường không bao giờ được thấy. Đêm trước đó, sư cụ nhà chùa sau tuần
kinh đêm ra đứng nơi hiên chùa. Bỗng một mùi hương xoài chín dìu dịu thoảng đến.
Sao trên trời như sáng tỏ thêm, gió hiu hiu thổi nhẹ. Sáng hôm sau, thức dậy sớm,
sư cụ ra đứng dưới gốc xoài đưa mắt nhìn lên cành cao, thì bỗng nhiên thấy thấp
thoáng trong cành lá tươi xanh nhấp nháy ánh vàng dao động. Nhìn lên cây thì sư
cụ trông thấy một chùm xoài chín đang đong đưa trước gió. Và từ đấy hằng năm
sau ngày hái xoài hiến vua, chư đệ tử trên chùa lại đua nhau quan sát cành xoài
và nhất là đêm đêm quanh quẩn bên gốc xoài để chờ đợi hương xoài thoảng đến. Những
người có tấm lòng mộ đạo thì cho đó là tấm lòng che chở vật quí của đất để
dâng cho Phật. Kẻ có tấm lòng thực tế thì bảo rằng đó là tấm lòng thành kính của
những người canh giữ đã cố ý khi hái trái đã để sót lại trong đám lá xanh rậm
cho chùa và phải đợi đến khi xoài chín, màu vàng mới lộ ra và hương thơm của
xoài mới báo thức cho nhà chùa tìm hái để dâng Phật. Nhờ có những trái xoài còn
sót lại mà giống xoài trên chùa Đá Trắng mới được nhân rộng ra khắp vùng núi
Xuân Đài. Tuy đã xa chùa, song tiếng ngon của xoài Đá Trắng vẫn lưu truyền
trong nhân gian mãi mãi.
Sau khi ổn định chỗ ăn ở trên Hòn Đỏ, sư Viên Mãn nhớ đến giống
xoài nơi chùa Đá Trắng nên có một ước nguyện là sẽ trồng đầu tiên trên hải đảo
này giống xoài quí của quê hương. Nhân một chuyến về thăm quê nhà, bằng cách
tháp tùng một ghe thuyền buôn thương phẩm, đi từ bến Cù Lao về Sông Cầu,
nhà sư đã thoã ước nguyền.
Thuyền rời bến vào buổi chiều tháng ba âm lịch. Gió nồm đã thổi
hiu hiu, thuyền ra khơi trong trời quang mây tạnh. Trên thuyền chỉ có vị
sư và ông thương gia có tiệm buôn ngay dưới chân núi Sinh Trung. Tình cờ mẹ nhà
sư khi đi làm, biết được vị thương gia có chuyến ghe về Phú Yên nên tin cho sư
Viên Mãn biết và nhà sư đến xin được tháp tùng.
Thuyền căng buồm ra khơi, xuôi theo chiều gió đi thẳng một mạch
đến sáng thì cặp bến Sông Cầu. Trong thời gian thuyền cất hàng và mua
hàng, nhà sư đã lên đường về thăm chùa Bảo Sơn rồi ghé chùa Linh Quang để xin
mua hột xoài giống. Nhà chùa biếu tặng được 14 hột và một cây rựa dày bản để
dùng trong việc phát hoang. Thành công trong việc có được giống xoài đặc biệt,
và nhất là được sự cổ võ nồng nhiệt của chư tăng nơi chùa Linh Quang về ý định
khai hoang lập tự trên hải đảo Hòn Đỏ, sư Viên Mãn hăm hở trở lại Sông Cầu theo
thuyền về Nha Trang. Đi và về chỉ có 5 ngày đêm. Mọi việc êm xuôi như con thuyền
thuận gió.
Sư Viên Mãn đem mười bốn hột xoài ủ vào trong một bồn đất
nơi ang nước tại chùa Kỳ Viên Trung Nghĩa. Tại nơi đây sẽ đầy đủ nước tưới,
bóng mát và được sư chăm sóc của mẹ già của sư mỗi khi sư bận trên hải đảo.
Kết quả rất khả quan là cả mười hột đều nẩy mười mầm non xanh tốt. Và nhà
sư đã đem hột xoài nẩy mầm lên Hòn Đỏ.
Sáng hôm nay, khi đem nước tưới đến khu ươm hột xoài thì nhà
sư phát hiện ra 14 hột xoài đã đâm rễ. Mỗi hạt xoài đều có một rễ dài, trắng muốt
to bằng mút đũa, cắm sâu vào lòng đất. Hôm qua sự kiện này chưa có. Thế
mà chỉ trong một đêm mọi việc đã xảy ra. Thiên nhiên thật là kỳ lạ. Khi ta chú
tâm thì không nhận thấy, mà khi ta hờ hững lơ là đôi phút thì hiện tượng lại hiện
ra. Trong vườn hoa đôi lúc ta bận việc không chú ý đến thì bỗng một hôm
ta thấy cả khóm hoa đã đầy nụ hoa. Cũng như có nhiều khóm hoa ta chưa kịp thấy
nụ thì hoa nở đã đầy cành.
Những rễ xoài đã đâm xuống đất song mãi đến mười hôm sau hai
lá xoài mới thoát ra khỏi cái vỏ cứng khô... Cây xoài con đã thành hình trọn vẹn. Mỗi cây xoài con lại được đem trồng vào một chiếc giỏ mồm bò. Chiếc giỏ này
được đan bằng tre có nhiều lỗ dùng để đeo vào mồm con bò mỗi khi đi ra đồng để
tránh việc bò ăn lúa khi đi đường. Đôi khi giỏ được đan bằng dây mây để có được
độ bền cao. Độ lớn của thân giỏ chỉ vừa khít với chiếc mồm của con bò và được
đeo vào mõm bằng một sợi dây mây quấn ngang qua giữa hai sừng bò.
Ở thôn quê khi ươm cây giống, người ta thường dùng giỏ này để
tiện việc di chuyển và nhất là để tiện dụng khi cây đã lớn thì có thể đem trồng
luôn với cây khỏi phải bứng cây và nhờ ở giỏ có nhiều lỗ nên rễ cây thoải mái mọc
tự nhiên. Và vì làm bằng tre nên rất chóng mục mỗi khi được chôn xuống đất.
Hố trồng xoài đã được chuẩn bị từ lâu. Đó là những cái hố được
đào tại những vị trí thích hợp: nhiều đất ít đá và gần các tảng đá to. Như vậy
để tránh các cơn gió mưa dữ dội trên đảo mỗi khi mùa dông bão tháng chín tháng
mười. Mỗi hố rộng hơn một mét đường kính và sâu đến nửa mét. Một đôi chỗ bên dưới
là một tảng đá lớn, khi đó lại phải di chuyển vị trí trồng đến một chỗ
khác. Khó khăn như thế cho nên mỗi ngày chỉ đào có một hố mà thôi.
Ba tháng sau thì 14 cây xoài đã được trồng trong những hố
xoài khắp vùng trên đảo. Phải cần đến sự chăm sóc hằng ngày kéo dài đến hai
năm, 14 cây xoài mới chắc chắn được sống trên Hòn Đỏ. Tuy nhiên trong khoảng thời
gian này vì thiếu nước nên xoài chỉ phát triển theo mùa mưa và vì bên dưới đá tảng
nhiều nên sau một thời gian cho trái được vài năm thì đa số cây xoài đã chết dần.
Hiện còn lại duy nhất là cây xoài nằm trên khu đất gần nền chùa. Tàn xoài tỏa rộng
tươi mát xum xuê. Hằng ngày nhà sư kê ghế bố nằm dưới gốc cây mắt nhìn ra bể để
lòng nhớ về quê hương Phú Yên, nơi có vườn xoài Đá Trắng (mặc dù nay không còn
nữa). Nằm dưới tàn xoài, nhìn những cành lá lao xao trong nền trời xanh cao rộng,
lòng nhà sư được ấm êm sống lại những tháng năm có những buổi trưa hè nằm dưới
bóng xoài nơi chùa Linh Quang ở Đá Trắng.
Cây xoài trên Hòn Đỏ này mỗi năm ra một lần trái, hương vị
trái chín vẫn còn đọng chất thanh ngọt của chùa xưa mặc dù trái nhỏ hơn, ít sai
hơn song vẫn còn hình dáng của những trái xoài đã được đem về Huế dâng lên vua
ngự thiện. Đa số trái của cây xoài này đều được dâng lên cúng Phật và đem về
các chùa lớn như Long Sơn, Hải Đức, Kỳ Viên v.v... các nơi này đã từng cưu mang
nhà sư Viên Mãn.
Khi các cây xoài gốc Đá Trắng Phú Yên chết, nhà chùa được các
Phật tử miền Nam cung cấp cho hột giống xoài cát Hòa Lộc để trồng thay thế.
Tuy nhiên khí hậu và thổ nhưỡng ở đây không được thích hợp cho nên giống xoài
Hòa Lộc chỉ có tàn chớ ít trái. Đây là sự trùng hợp với sở nguyện của nhà chùa.
Trồng cây cho bóng mát. Những cây xoài phương Nam tuy trái không thắm ngọt như
xoài Đá Trắng song vẫn tỏa tàn che mát đạo chúng. Trồng xoài trên hải đảo
sư Viên Mãn chỉ có một ao ước là có bóng mát trên hoang đảo này và nếu có được
mùa trái thì trước là để cúng Phật sau là để chia cho chúng sinh. Du khách mỗi
lần thăm viếng đảo đều có được một cảm giác lâng lâng khi đặt mình đong đưa
trên chiếc võng cột tòn ten dưới gốc xoài. Nỗi nhớ quê hương Phú Yên được ru
yên dưới bóng xoài trên hoang đảo và làm dịu đi lòng thương nhớ quê nhà của nhà
sư sống một mình.
Những cây xoài trước đây chỉ mọc chung quanh chùa mà bây giờ
đã được trồng lan xa ven dọc theo các con đường trên đảo.
Trôi giữa biển khơi
Tháng bảy năm nay, mùa thu sớm về cùng nhiều mây trên vòm trời.
Chùa Kỳ Viên Trung Nghĩa chuẩn bị lễ Vu Lan sớm hơn mọi năm. Các vị chư tăng,
ni đều được phân công chuẩn bị tăng lễ. Sư Viên Mãn tuy có chùa Từ Tôn song vẫn
hằng về phục vụ tăng lễ như mọi năm. Buổi họp hôm nay có phần chi tiết nên giờ
vãn buổi họp có phần trễ hơn mọi chiều.
Trời đã tối mịt, nhà sư mới đến được gian lều nhỏ của gia
đình anh Sáu Sài Gòn trên bờ vịnh Hòn Đỏ. Anh Sáu đã chèo thuyền đi thả lưới.
Nước triều đã dâng cao. Không còn người đưa qua đảo, sư Viên Mãn đành phải tự
túc dùng một chiếc thùng xốp bơi sang. Đó là một chiếc thùng lớn đựng đồ điện tử
của quân đội phế thải đem ra bán ở chợ Đầm Nha Trang. Thùng vuông vức một mét
vuông, có bờ cao 5 tấc. Thường ngày sư Viên Mãn gởi tấm xốp nơi lều của vợ
chồng anh Sáu. Mỗi khi qua đảo không có đò thì sư lại dùng tấm xốp này thay cho
thuyền chở vật liệu gia dụng như gạo, rau, v.v... Không bao giờ sư dám leo lên ngồi
trên tấm xốp vị sợ hư hao. Sư luôn luôn lội dưới nước và đẩy tấm xốp trôi đi.
Hôm nay trên tấm xốp có chở thêm một cái “can” đựng nước 20
lít và hai nhánh chuối, quà của chùa Sinh Trung. Sau khi cẩn thận chất đồ vào tấm
xốp cùng với quần áo sư Viên Mãn đẩy thuyền ra xa bờ. Mùa này biển thường có những
cơn gió lốc từ bờ thổi ra. Biển không có sóng cao song mặt biển đầy con sóng.
Nương theo con gió, nhà sư đẩy tấm xốp thuận dòng trôi mau ra Hòn Đỏ. Bỗng
nhiên một cơn gió lốc từ bờ thổi mạnh cuốn theo chiếc thuyền xốp ra hướng biển
khơi. Không thể nào chống chọi được với cơn lốc nhà sư đành bíu chặt lấy tấm xốp
để mặc cho cơn lốc thổi người và vật trôi theo luồng gió. Ban đầu nhà sư
tưởng mình và thuyền chỉ bị cuốn đi xa bờ trong chốc lát rồi sẽ tìm cách bơi
vào Hòn Đỏ, nhưng sau một giờ vật lộn với cơn lốc nhà sư phát hiện ra mình đã
quá xa bờ. Bóng đèn điện đường nơi bờ biển Nha Trang không còn lờ mờ trong đêm. Bốn mặt, biển mênh mông. Trên trời mây giăng mù mịt. Biển và trời mù mịt tối
tăm. Không biết tự bao giờ nhà sư đã leo được lên chiếc thuyền xốp, ngồi co ro
ôm lấy cái “can” nước ngọt. Trời biển đen tối bao la không biết được phương hướng
đâu là bờ, đâu là chân trời. Mặt biển yên lặng, không gian tối đen, không một
tiếng sóng, không một hơi gió. Nhà sư có cảm tưởng như mình đang ở trong một vực
thẳm. Để được yên lòng nhà sư bắt đầu tụng kinh. Và trong đêm tăm tối những lời
kinh trong kinh Từ Bi bỗng nhiên sáng chói như một dòng sông tràn đầy ánh sao.
Hoàn toàn đắm mình trong câu kinh nhà sư bỗng nhiên thoát ra ngoài cảnh tượng
đen tối của đêm đen và lòng được an nhiên như đang ngồi đọc kinh khuya trên hải
đảo Hòn Đỏ. Lòng không một chút lo sợ, nhà sư tin tưởng ở sự cứu giúp của đức
Quán Thế Âm Bồ Tát. Trên bầu trời mây đã tan và muôn vị sao lấp lánh. Nơi chân
trời hừng đông đã ửng sáng. Nhà sư đã định hướng được phương trời. Nhìn về hướng
đất liền vẫn thấy mờ mịt không một bóng núi, chỉ nhìn thấy một màu xanh bát
ngát. Vị không nhìn thấy bến bờ nên nhà sư biết rằng mình đã trôi giạt
cách bờ khá xa và bây giờ chỉ còn hy vọng được một chiếc thuyền đánh cá nào đi
ngang qua trông thấy và cứu vớt lên.
Tin tưởng vào sự phù trì của đức từ bi Quán Thế Âm Bồ Tát, sư
Viên Mãn lo chuẩn bị cho cuộc đợi chờ được cứu vớt giữa biển khơi. Trước tiên,
sư kiểm soát lại chiếc can đựng nước. Nước vẫn còn đầy nguyên vẹn. Thứ đến là
hai nải chuối mốc đã vàng da. Vốn sống khắc khổ và kiệm ước trên hải đảo nên với
lượng nước và thức ăn này sư có thể sống trên mười ngày giữa trùng dương bao
la. Nắng giữa biển khơi dịu dàng hơn nắng trên hoang đảo Hòn Đỏ. Nơi đó nắng
của trời hợp cùng nóng của đất, của đá nung đốt con người. Khí nóng hừng hực đổ
từ trên trời xuống, hất từ dưới đất lên và như đọng trên mặt đá. Giữa trùng
dương chỉ có nắng nóng của mặt trời, cái nóng như được màu biển xanh bao phủ,
được gió biển xua đuổi dịu dàng. Cho nên, nhà sư yên chí là mình có thể chịu đựng
được trong một khoảng thời gian dài. Cái sợ duy nhất là bão tố, phong ba. Giữa
trùng dương trong sóng gió thân con người như bèo bọt, như mỏng manh. Tuy nhiên
niềm tin nơi số phận, nơi sự hằng cứu giúp của đấng từ bi Quán Thế Âm Bồ Tát
làm cho tâm nhà sư được an như.
Công việc chống nắng được bắt đầu bằng việc cởi lấy tấm áo để
dùng làm tấm che đầu, che mặt. Che lưng thì dùng chiếc quần. Như vậy, sư
có thể ngồi hằng giờ trên chiếc thuyền bé tí để mặc cho gió thổi thuyền trôi
đi. Khi đã mỏi chân thì sư nhẹ nhàng tháo bỏ quần áo quấn quanh người rồi nhẹ
nhàng chuồi mình xuống nước. Một cảm giác khoan khoái dâng tràn trong cơ thể, cảm
giác sung sướng, mát mẻ như đưa con người từ nơi cơ cực đến chốn hạnh phúc trên
cõi trần gian. Sự mát mẻ của biển xanh ôm ấp lấy toàn thân, khiến cho nhà sư không
còn thấy mình đang trôi giạt giữa cảnh mênh mông của trời đất của nắng nóng giữa
trùng dương. Nhà sư yên lặng tận hưởng cái cảm giác hạnh phúc này và người đã
thầm đọc kinh cảm tạ Bồ Tát Quán Thế Âm. Sự sợ hãi giữa cô đơn không còn nữa mặc
dù chỉ có một mình giữa trời biển bao la. Hạnh phúc mát mẻ chỉ kéo dài trong
vài tiếng đồng hồ thì vị sư càng lúc càng thêm cảm thấy cái lạnh từ trong ruột
tràn ra cơ thể. Nước biển bây giờ không còn mát nữa mà lạnh, lạnh đến không thể
chịu được. Cố gắng lắm nhà sư mới trèo được lên chiếc thuyền bé tí và choàng vội
lấy áo quần ôm chặt vào lòng. Ánh nắng ban trưa hừng hực chiếu khắp cơ thể
làm vơi đi cơn lạnh. Chỉ một lát sau cảm giác nồng ấm lại trở về với cơ
thể. Hiện giờ mặt trời đã chiếu thẳng trên đỉnh đầu. Cơn đói cồn cào và cơn
khát sôi sục bỗng nhiên ào ào kéo đến. Tuy đã quen với những cơn đói khát trên
Hòn Đỏ nhiều tháng năm rồi mà hôm nay lòng nhà sư vẫn không kìm được sự thèm một
hớp nước lạnh và một trái chuối chín. Sau khi ăn chuối và uống nước, nhà
sư đã trở lại trạng thái bình thường và việc ngồi nhập định dưới ánh nắng mặt
trời gay gắt lại tiếp tục. Giờ khắc trôi qua mau chóng. Mặt biển tuy không ào ạt
sóng như ở gần bờ song mặt biển vẫn lô nhô những con sóng cao. Sóng ở ngoài
khơi khác với sóng nơi bờ biển. Sóng ngoài khơi chỉ nhô lên và hụp xuống,
sóng chỉ đứng một chỗ chớ không chạy từ ngoài khơi vào bờ. Giữa trùng dương bao
la biết đâu là bờ để cho sóng có hướng mà chạy. Sư Viên Mãn đã suy tư như vậy
khi nhìn thấy thuyền của mình chỉ nhô lên hụp xuống tại một chỗ mà thôi. Sóng
không đưa thuyền đi mà chỉ có gió là đẩy thuyền trôi theo chiều gió. Nhưng gió
lại thổi không có hướng nhất định, khi thì bên phải, khi thì bên trái mạn thuyền.
Buổi trưa trên mặt đại dương bát ngát một màu xanh thẳm nối
tiếp với sắc trời cũng xanh thẳm. Tầm mắt người nhìn vô cùng bát ngát mênh
mông. Con người vô cùng bé nhỏ, vô cùng cô đơn giữa không gian vô tận. Trong đất
liền giữa đồi núi và đồng bằng ta không có được cảm giác một mình đứng giữa vô
biên. Ngoài biển khơi, ta mới cảm nhận được rằng kiếp người vốn đã ngắn ngủi mà
đối với trùng dương lại càng nhỏ bé vô ngần. Trong cái ngút ngàn xanh thẳm kia,
ta chỉ chực tan đi, chỉ chực hòa đồng vào màu xanh thẳm kia vậy.
Buổi chiều, mặt sóng trùng dương có sự thay đổi rõ rệt. Muôn
sóng nhấp nhô (thật đúng với từ nhấp nhô) và lòng người thêm phần kinh
hãi. Mọi sợ hãi như thu hẹp lại, cái bát ngát giữa ban trưa không còn nữa
mà chỉ còn có nỗi lo âu như sánh đặc lại theo cùng thời gian. Bầu trời xanh dịu
mát lóng lánh muôn ngàn vị sao như vỗ về lòng người trước cảnh. Càng về đêm
lòng đại dương càng thêm đậm đặc màu đen thẫm. Tầm mắt không nhìn được ra xa mà
chỉ nhấp nhô trên muôn ngàn con sóng. Sóng không trôi ra xa mà chỉ ở quanh quẩn
bên ta nhô lên hụp xuống nhịp nhàng. Ngồi thiền định trên chiếc thuyền con và
thầm đọc kinh Từ Bi cứu độ. Nhà sư chìm đắm trong giấc ngủ mê say.
Khi mở mắt, sư Viên Mãn đã trông thấy được chân trời. Giữa
màu xanh bao la của biển và của trời có một lằn ánh sáng rộng lớn màu hồng nhạt.
Ban đầu là màu trắng trong có pha lẫn ánh hồng. Càng ngày ánh hồng càng đậm và
tỏa sáng khắp chân trời. Nơi chân trời phơi phới các dải mây trắng xốp trôi lờ
lững. Ngắm nhìn cảnh quan, nhà sư không còn cảm thấy mình cô đơn nữa. Qua một
đêm tăm tối, ánh sáng lại hiện lên, màu biển lại xanh hiền hòa, màu mây lại
thay màu đổi sắc và lòng biển lại dịu hiền xanh trong vắt. Trước cảnh
bình minh rực rỡ lòng nhà sư bỗng nhiên an tịnh vô cùng. Cảm giác cô đơn trên
biển cả không còn nữa mà chỉ còn tấm lòng thênh thang trước bao la. Khi tâm đã
hòa đồng cùng trời biển thì trí không còn gợn chút lo âu vị sự sống còn. Thiên
nhiên đã no đầy trong cuộc sống hiện tại cho nên nếu ta có chết đi trong giờ
phút này thì cuộc đời ta đã hoàn toàn mãn nguyện. Cho nên lòng nhà sư hoàn toàn
yên tĩnh và chỉ lo chuẩn bị áo quần chống nắng và gìn giữ cái can nước như một
vật quí thiêng liêng.
Một ngày nắng cũng nhanh chóng trôi qua và kế tiếp một đêm
đen êm ả trên biển cả. Khi còn trên Hòn Đỏ, sư Viên Mãn tuy có nhiều đêm ngồi
ngắm sao trời song không hề có được một đêm yên tĩnh nào mà sư nhìn thấy
bầu trời to rộng mà hạ thấp gần gũi với con người đến thế. Bầu trời như sát xuống
hơn. Các vị sao trong sáng hơn, long lanh hơn và nhất là hiện rõ hơn. Ánh sao lấp
lánh như đang muốn trò chuyện cùng người cô đơn trên biển cả, như thì thầm
khuyên nhủ, an ủi hãy tin tưởng, cố gắng đợi chờ một sự cứu vớt đang tiến đến gần.
Bỗng nhiên nhà sư đăm đăm nhìn một vị sao gần nhất sáng nhất và tưởng
như đó là mẹ của mình đang dõi nhìn mình và như âu yếm khuyên nhủ mình
hãy yên tâm và tin tưởng nơi đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Thốt nhiên câu niệm Phật
Quán Thế Âm bộc phát từ nơi cửa miệng nhà sư. Và từ đó nhà sư không đọc kinh nữa
mà miệng luôn luôn niệm chú Quán Thế Âm rồi để tâm hồn mình trôi dần vào yên
tĩnh của đêm đen biển lặng.
Sáng sớm hôm sau khi vừng hồng thái dương vừa ló dạng thì nhà
sư đã thấy rõ ở chân trời một chiếc tàu to lớn đang tiến về phía mình. Niềm
sung sướng vô biên như ánh hồng rực rỡ tràn ngập trong lòng, nhà sư tưởng như đức
Mẹ Từ Bi đã hiện ra trong ánh hào quang lộng lẫy. Và sau đó nhà sư được chiếc
tàu viễn dương của Nhật Bản cứu vớt. Hai ngày sau chiếc tàu gởi nhà sư cho một
chiếc thuyền đánh cá đưa về Nha Trang. Nhà sư cảm ơn vị thuyền trưởng và các thủy
thủ đã cứu sống mình và tuyệt đối không nhận một món quà gì của chiếc tàu đã cứu
vớt mình và chỉ xin được đem về cùng với mình chiếc thuyền xốp và chiếc “can”
cũ để làm vật kỷ niệm cho cuộc trôi giạt ra biển khơi.
Con suối cạn làm đường lên đảo nay đã thành lối mòn. Đá nhọn
được thay thế hoặc bị san bằng. Đám cỏ gai đã chịu nép mình dưới bước chân đi.
Tuy nắng trên hải đảo vẫn nung đốt chiếc lưng trần; những giọt mồ hôi vẫn lăn
dài trên mặt trên lưng song cái nóng dường như dịu đi, cái hừng hực của khí đá
như phai đi. Nhà sư đã quen với nắng nóng, cơ thể như chịu đựng được gian khổ.
Con đường quanh co lên đồi trở nên thân thương quen thuộc. Khoảng cách dừng lại
để nghỉ chân như định sẵn: lên, nghỉ 3 lần; xuống, thì đi thẳng một hơi. Những
nơi vịn vào vách đá đều đã trở nên trơn tru bóng láng lưu lại vết tích
thân thương.
Bây giờ mỗi lần lên xuống tuy không còn cần phải vịn vào đá
như trước song nhà sư vẫn theo thói quen hơn là cần thiết, đưa tay vịn vào đá
như một cái bắt tay chào. Câu thơ của bà Huyện Thanh Quan chợt hiện về:
Đá vẫn bền gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Đã trở thành:
Đá và ta sẽ bền gan cùng tuế nguyệt
Biển và ta không cau mặt với tang thương
Con đường lên dốc ban đầu là con đường đầy gian khổ, hôm nay
trở nên quen thuộc thân yêu. Ngồi nhìn con đường dốc nhà sư để lòng mình nao nức
nhớ đến những lối mòn nơi quê hương. Nhất là những lối mòn xuyên rừng lên núi
chặt củi. Những con đường quanh co vị phải tránh cây, lách đá, men theo bờ suối,
băng vượt sườn non. Dấu chân con người đã làm mòn mép đá, đã vẹt thành lối đi.
Lối chân người theo năm tháng để lại trên mảnh đất núi rừng những con đường ngoằn
ngoèo, tránh cây, tránh đá, tránh cả những mô đất gò mối không cần đến sức khai
phá của con người. Đi trên đường mòn cũng bởi do thói quen, cũng bởi do có sẵn
cho nên người dân quê không bao giờ có ý định làm lại một con đường bằng phẳng,
phát quang bụi rậm, bắc cầu qua mương. Thời gian ở thôn dã dường như có thể co
giãn để thích hợp với nếp sống. Gặp một tảng đá thì họ lại đi vòng để tránh, gặp
một khúc sông cạn thì họ sẵn sàng lội qua.
Nhìn lối mòn lên dốc đảo, sư Viên Mãn nhớ đến thời ấu thơ, nhớ
đến những buổi sáng cùng bạn bè đi chặt củi. Gà vừa gáy sáng, tiếng hú gọi nhau
đi củi đã vang lên từ đầu xóm. Không rửa mặt, không ăn sáng (đâu có gì mà ăn) cả
bọn đã hội nhau hồ hởi đi vào núi. Trên đường đi, tiếng nói vang lên chen lẫn
tiếng cười dòn dã. Tuổi thanh niên thật tràn đầy vui vẻ. Thôn quê tràn đầy kỷ
niệm. Kỷ niệm đầy vui thú nhất là kỷ niệm của những con đường.
Có những con đường băng qua đồng lúa, “sương mai ướt đẫm cỏ
đường”. Những hạt sương long lanh dưới nắng ban mai như những hạt ngọc treo lơ
lửng trên các cọng cỏ chỉ, cỏ mần trầu, cỏ may v.v... Trên lòng đường bao giờ
cũng đầy những chướng ngại vật tùy theo vụ mùa. Mùa cấy thì cỏ và đất phát bờ
được dồn chứa tạo thành những mô lồi lõm. Mùa làm cỏ lúa, lòng đường lại
được bồi thêm một lớp cỏ. Chỉ có mùa gặt thì nhờ người qua lại tấp nập cho nên
lòng đường được phẳng phiu. Thời gian này lại có những con đường mới tạo, băng
qua những đám ruộng mới gặt, do đoàn người gánh lúa đi tắt, băng ngang.
Rồi mùa cày đến và trên lòng đường người lại đi, dưới ruộng
những con đường mòn trên gốc rạ biến mất nhường cho những luống cày đất phơi dưới
nắng vàng.
Bọn trẻ đã thuộc nằm lòng những con đường ruộng đi vào núi
nên chúng vừa đi vừa trò chuyện vui vẻ lòng không chút ngập ngừng. Sương
mai mát lạnh đôi chân trần. Gió mai thổi phơi phới tâm hồn. Con người nơi thôn
dã như sống chan hòa cùng thiên nhiên cho nên họ cảm nhận được những sự thay đổi
trên cánh đồng theo từng vụ mùa. Mùa cày, hương đất nồng dưới ánh nắng pha lẫn
mùi gốc rạ phơi khô. Mùa cấy cánh đồng có màu xanh chen lẫn với màu vàng
đất sét của những khoảnh ruộng mới cấy, nước ruộng đục ngầu. Cây lúa chưa bén rễ,
có nhiều lá úa vàng gãy cúp xác xơ trên mặt nước. Thế mà chỉ độ mươi ngày, ruộng
lúa đã xanh tươi rập rờn trước gió, buổi sáng lóng lánh giọt sương mai. Đến mùa
lúa trổ đòng đòng, các bông lúa ngẩng cao đầu phơ phất theo gợn gió. Trên
bông lúa những hạt nhụy trắng rung rinh đón mừng ánh nắng ban mai. Chỉ trong một
thời gian ngắn gié lúa đòng đòng đã ngậm sữa và trĩu mình đong đưa trước gió.
Màu xanh trên cánh đồng phơn phớt chuyển sang màu vàng. Rồi bất chợt vào một buổi
trưa, màu vàng hiện rõ dưới ánh nắng. Mùa lúa chín bắt đầu. Những gié lúa vàng
óng quằn trĩu hạt đong đưa rập rờn. Một biển đầy sóng vàng chạy dập dờn đến tận
cuối chân trời. Lúc bấy giờ lòng người nông dân cũng tràn ngập nỗi vui mừng vị
vụ mùa đã thành đạt. Mùa gặt lại bắt đầu. Mọi công việc hằng ngày tạm thời
ngưng lại và tất cả nhân lực dồn vào công việc gặt lúa mùa. Rồi vụ gặt qua và
công việc đi rừng lấy củi lại tiếp tục. Cánh đồng chỉ còn trơ gốc rạ nên trên
cánh đồng lại xuất hiện nhiều con đường đi tắt, băng qua các thửa ruộng. Chỉ
trong một vài ngày là con đường tắt đã được hình thành. Rồi đến mùa cày vỡ những
con đường mòn băng ruộng lại bị xóa đi. Con đường mòn trên bờ ruộng lại nhộn nhịp
bước chân người.
Mùa cày, cánh đồng có một màu xám chen màu vàng của đất. Cảnh
sắc trông đơn điệu nhưng âm thanh lại vui vẻ.Trong buổi ban mai còn nặng sương
sớm, trên ven lối cỏ đường đi, tiếng dế gáy rộn ràng trong những luống cày. Mùa
này là mùa của tuổi thơ. Mùa của bắt dế và đá dế. Trên các dãy ruộng khô cao,
trong mỗi luống cày đều có dế. Nơi nào có tiếng dế gáy thì nơi đó có ít nhất là
hai chú dế cồ đang rung cánh thách đố nhau. Chúng vừa thách đố nhau vừa
tranh gọi bạn tình. Cho nên khi lật một tảng đất lớn, nếu khi bắt gặp một cô dế
mái thì cứ kiên nhẫn lật tiếp các tảng đất kế bên thì chắc chắn sẽ gặp ngay ít
nhất là một chú dế cồ đang xù cánh tục mái hoặc gáy vang vang. Dế khác người ở
chỗ dế gáy có mục đích là gáy để kêu gọi bạn tình hay để so tiếng
cùng đối thủ. Còn người thì đôi khi chỉ hát nghêu ngao riêng cho mình, hát để
nhớ nhung, nhất là hát vì cảnh sinh tình. Còn hát để khiêu khích tình địch thì
rất hiếm khi xảy ra.
Thời gian đi băng ngang qua cánh đồng thường mau chóng. Đến
ven rừng, con đàng bao giờ cũng quanh co. Khi thì lượn qua các mảnh rừng thưa,
các đồi thấp cây cối cằn cỗi chỉ mọc lưa thưa một vài bụi chà là rừng, một đôi
chòm sim dại luôn luôn nở hoa màu tím. Nhìn xa thì hoa sim có màu tím đẹp song
khi nhìn gần thì chỉ có màu tím đẹp còn cánh hoa, nhụy hoa đều có hình dáng đơn
sơ, cứng cáp không dịu dàng bằng hoa hồng, hoa mai v.v... Hơn nữa hoa sim lại
không có hương. Cho nên hoa sim chỉ đẹp nhờ ở sắc tím màu phơn phớt, nhờ ở cây
sim nở trên sườn đồi, nơi hoang vắng. Tuy không hương nhưng hoa sim được màu của
hoa đã thay cho hương. Trước cảnh hoang sơ, trời cao đất rộng, màu tím gợi nhớ
đến một mối tình dang dở, một nỗi buồn nhớ nhung xa vắng, cho nên hoa không cần
phải có hương. Hoa mọc đúng chỗ, hoa nở đúng giờ là đủ cho lòng người rung cảm.
Trên con đường quạnh vắng thưa bóng người, qua khỏi một khu rừng hoang vắng bổng
gặp một ngọn đồi có hoa sim nở tím, nhất là trong khoảng thời gian về chiều thì
những kỷ niệm xưa lại tràn về theo gió. Màu tím hoa sim trong bài thơ của Hữu
Loan là màu tím của “chiều hoang biền biệt“, của mối tình tan vỡ, của nao nức
kiếp người. Tuy nhiên vẫn có thi nhân nhìn màu tím hoa sim trong niềm trong
sáng, trong tình tươi sáng sau cơn mưa, trong một khung trời xa vắng nhưng niềm
tin vui vẫn tràn đầy:
Mưa xửng rừng thêm vắng
Mong tìm một bóng chim
Gió rung cành rụng nắng
Bừng sáng cánh hoa sim.
(Cánh Hoa Sim - Quách Tấn)
Nơi thôn dã, màu tím hoa sim ít làm cho lòng người thôn quê bồi
hồi xúc động mà chỉ làm đẹp cho cuộc sống lao động. Nhìn hoa để thư giản tâm hồn,
để cảm nhận được là khắp đó đây vẫn luôn luôn tồn tại màu hoa, sắc lá. Đặc biệt
cành hoa sim tím chưa bao giờ được người dân quê cắm trên bàn thờ, chưng nơi
phòng khách, và nhất là lấy hoa cài lên mái tóc để trang điểm cho cô dâu hoặc cắm
hoa trong ngày vui, ngày hội. Có lẽ ngoài cái màu tím thi vị kia ra không còn một
nét đẹp nào chứa đọng trong cánh hoa sim. Cánh hoa thì mỏng và chóng héo tàn.
Nhụy hoa thì thưa thớt không có màu vàng như hoa mai mà chỉ là một màu xám đen.
Hoa sim vừa không có hương vừa chóng tàn. Hoa sim chỉ xinh đẹp khi đang nở trên
cành. Một khi hái xuống thì lẻ loi cô độc và úa tàn rất mau. Cho nên hoa sim chỉ
đẹp khi ở nguyên trạng thái trên cây, có mặt cùng nhau và nhất là chỉ đẹp khi
là một lùm cây trên đồi vắng, bên cạnh mương nước trong veo chen lẫn với các bụi
lau, bụi dứa. Hoa sim không đẹp khi được cắm vào độc bình có lẽ một phần vì lá sim
không được mịn màng xanh tươi mà lại có nhiều lông măng sờ đến nhám tay.
Tuy nhiên hoa sim lại đẹp và duyên dáng khi hoa ở vào trong
trạng thái hòa hợp với thiên nhiên. Qua khoảng đồng ruộng xanh rì sắc lúa bổng
nhìn thấy khóm hoa sim nở tím cả bờ mương, nước trong leo lẻo, lơ thơ mấy khóm
dứa dại đong đưa lá, chắc chắn du khách sẽ dừng chân thưởng thức vẻ đẹp của
hoa với màu tím đơn thuần của đồng quê mộc mạc. Du khách đi qua một truông vắng
không một hơi gió thổi, lồng lộng trên đầu một màu nắng gay gắt, bỗng nhiên gặp
một dãy đồi thoáng gió, mọc đầy các bụi sim nở đầy hoa tím. Thiên nhiên tươi đẹp
trong cảnh vật đa tình. Trên cành hoa sim, những cánh hoa hiu hiu rung động
trong cơn gió nhẹ nhàng đưa. Hoa như cười trong ánh nắng, hoa đang nhẹ nhàng phô
sắc, dịu dàng rung động trong yên tịnh của núi đồi. Cho nên muốn thưởng thức
cái đẹp của hoa sim, du khách cần phải đến nơi không gian của hoa sống, đến
đúng lúc con người cần đến loài hoa tím đẹp này. Một buổi sáng tinh mơ, một buổi
chiều tắt nắng, một buổi tạnh mưa trong nắng trưa... Hoa sim sẽ làm bừng nở
hương vị trong tâm hồn ta khi ta bất chợt gặp gỡ, khi ta không chờ mong mà gặp
gỡ, khi ta đang khô héo mảnh lòng.
Ước mong của nhà sư là sau này khi trên đồi có nước có cây cỏ
sinh sống thì trên lối mòn của chùa có đôi lùm sim dại, đôi nhánh hoa bìm
bìm để bốn mùa có hoa, có trái gợi nhớ đến đồng quê, đơn sơ mộc mạc.
Hình bóng quê hương không hề phai nhạt trong lòng vị sư. Quê
hương của nhà sư cũng khô cằn như ngọn đồi này song lại tràn đầy kỷ niệm thân
thương. Tự nhiên nhà sư mỉm cười sung sướng vì đi đâu mình cũng mang trong lòng
hình ảnh làng quê, vẫn thương vẫn nhớ về quá khứ. Trên đỉnh đồi khô cằn này
mình vẫn ước vọng lập một quê hương bé nhỏ mà mình đã từng sống trong những
tháng ngày thơ ấu. Nụ cười trên môi nhà sư nở tự nhiên. Một nụ cười vô ngại.
Vô ngại vì tự nó chợt đến và chợt đi trong khi trí không có thời gian suy
nghĩ phê phán. Hòn sỏi nằm bên sườn dốc trông giống hệt như hòn sỏi trên sườn đồi
chùa Đá Trắng. Nó nằm yên lành giữa cỏ cây, không bơ vơ lạc lõng và như đã từng
vượt qua ngàn dặm để theo thầy đến đây. Lòng nhà sư xao động như vừa gặp lại cố
tri. Mọi đất đá, cỏ cây trên Hòn Đỏ dường như là một phần của tạo vật trên chùa
Bửu Sơn nơi làng cũ đem phân chia cho nơi này. Cúi xuống nắm lấy một ít đất,
lòng nhà sư cảm thấy ấm áp vô cùng. Nhà sư thầm nhủ: ta không xa lạ và đơn chiếc
nơi này. Đất đá nơi này cũng là đất đá nơi quê hương chùa cũ, nơi ta đã quy y đầu
tiên. Đất đá nơi này đã chờ đợi ta từ lâu. Cuộc gặp gỡ ngày hôm nay chỉ là cuộc
trùng phùng sau nhiều tháng ngày xa cách.
Một nguồn cảm khái nhè nhẹ theo gió biển từ bể xa đưa
vào len trong tâm trí. Nhà sư đứng lên, lần theo triền dốc lên đỉnh đồi tiếp tục
công việc hằng ngày.
Đào giếng trên Đảo
Từ lúc lên khai phá Hòn Đỏ năm 1960, nhà sư chùa Từ Tôn đã phải
gánh nước từ bến đò lên đỉnh đồi ròng rã suốt sáu năm trường. Công việc
gánh nước đã thành một thói quen thường trực của cuộc sống trên đảo. Con đường
quanh co khúc khuỷu từ bến nước lên đến đỉnh đồi nay đã trở thành một lối mòn dễ
đi. Ngôi chùa đã hình thành tuy đơn sơ nhưng đầm ấm.
Thỉnh thoảng cũng có một vài du khách ghé thăm và có những đệ
tử từ các thôn xóm gần Hòn Đỏ lên chùa thắp hương và đàm đạo cùng vị sư thầy.
Càng ngày càng nhiều thiện nam tín nữ lên chùa.
Một hôm có hai bà cháu đến viếng chùa. Bà đã già trên 70 tuổi
và cháu chỉ khoảng mười hai. Sau khi lễ chùa, hai bà cháu bước ra sân đến ngồi
dưới bóng cây xoài bên hiên chùa, ngắm cảnh. Dười chân gốc xoài, nhà chùa có đặt
một vò nước trong mát. Người cháu đến múc nước đổ vào bát rồi bưng đến mời bà.
Bà cụ bưng bát nước uống một hơi ngon lành. Nước còn lại trong bát được người
cháu bưng uống tiếp một cách trân trọng. Nhìn thấy cảnh bà cháu uống chắt chiu
từng hớp nước, sư trụ trì lòng bỗng thoáng bâng khuâng. Cảnh tuy đơn sơ, mà tâm
lại dao động. Những kỷ niệm ở quê hương bỗng ào ạt tràn về.
Ở quê hương thôn dã, người dân bao giờ cũng thoải mái dùng nước
cho việc sinh hoạt. Nhà nào cũng có một giếng nước, khách qua đường khi đi
ngang qua thường được tự do sử dụng để uống hoặc rửa tay chân, mặt mũi. Nhất là
những ngôi nhà ở cạnh đường ven chân núi. Đó là nơi tạm dừng chân nghỉ ngơi khi
những người đi chặt củi ở trong núi ra khỏi rừng. Tự nhiên như người nhà họ
dùng gàu múc nước vừa uống vừa xối mát chân tay. Bên cạnh giếng, dưới gốc cây
có bóng mát chủ nhà luôn luôn để sẵn một vò nước tràn đầy, bên cạnh một cành
cây hoặc một trụ nhỏ móc sẵn một cái gáo bằng sọ dừa khô. Bao giờ chiếc gáo
cũng gọn gàng xinh xắn. Đó là một chiếc sọ dừa khô có màu đen bóng hoặc vàng đậm,
tay cầm là một cái cán dài thường làm bằng tre. Có đôi nơi cán làm bằng cây chà
rang nhỏ bằng ngón tay giữa, gỗ chà rang vừa thẳng tắp vừa có màu vàng óng rất
đẹp. Thêm một đặc điểm nữa là khi gần nước, gỗ không đổi màu và nhất là
không chóng mục nát dưới sự tàn phá của nước. Cán gáo chà rang và sọ dừa càng
dùng lâu, màu sẽ trở nên bóng loáng. Thân gáo không bao giờ đóng rong rêu và nhất
là không có mùi hôi khi dùng lâu với nhiều năm tháng. Còn vò dùng để đựng nước
thì thường dùng các loại vò đất nung còn sống, thường để nước thấm qua thành
thân vò. Vò lại được đặt dưới bóng mát và nơi có gió thổi. Như vậy nước mau
chóng bay hơi và gây nên sự hạ nhiệt làm cho nước trong vò luôn luôn mát lạnh.
Khách dùng nước uống xong đều dùng nước dư để rửa mặt, chân tay. Đó là hình ảnh
quen thuộc nơi thôn dã. Nước mát nơi lòng giếng hoặc trong vò nước là vật thể
hiện lòng hiếu khách của người dân thôn dã. Khi uống nước họ tự do uống thỏa
thích, không dè dặt, không tham lam dành riêng phần cho mình hoặc lấy một ít
làm phần của mình để đem về nhà. Chưa bao giờ có cảnh uống nước chắt chiu từng
hớp. Chưa bao giờ có cảnh tranh nhau, có cảnh ganh nhau vì uống nước giếng. Họ
luôn luôn bình đẳng và tự do trong việc sử dụng nước giếng dù không phải là giếng
riêng của mình.
Vì quen với nề nếp và cách sống như vậy nên khi nhìn thấy hai
bà cháu dùng dè dặt từng hớp nước một, sư Viên Mãn bỗng nhiên thấy lòng trĩu nặng
vì nhận thấy nhà chùa đã thiếu đi một sự thỏa mãn cho nhu cầu bình thường nhất
là thiếu nước uống. Vẫn biết là không bao giờ nhà chùa hạn chế nước uống song sự
dè sẻn dùng nước nơi này vốn do lòng thông cảm và tự nguyện của khách thập
phương. Từ sự trực ngộ này nhà sư chùa Từ Tôn lòng tự nguyện lòng là dốc
tâm đào cho được một cái giếng trên hoang đảo này. Trước đây một lần nhân đến
thăm chùa Thiên Đức cất trên ngọn đồi thôn Bình Tây xã Ninh Hải trong khu vực
Hòn Khói huyện Ninh Hòa, nhà sư đã được nghe chuyện Hòa thượng Liễu Đức, vị sư
đã khai sơn ra chùa. Chùa cất năm Minh Mạng nguyên niên (1820) Ngài Liễu Đức,
pháp hiệu là Huệ Giáo, người đương thời thường gọi ngài là Hòa thượng Đò. Gọi
như vậy là vị công của ngài đã bắt cầu cho dân chúng được qua lại thuận
tiện. Nhân vùng Bình Tây gần biển và là vùng ruộng muối nên nước uống có vị mặn,
nhà sư cố công đào giếng trên núi đầy đá tảng. Sau nhiều năm cần cù và kiên nhẫn
một giếng nước tuy sâu thăm thẳm song nước rất ngọt như nước cam tuyền, lênh
láng bốn mùa, giúp cho nhân dân quanh vùng đến lấy về dùng quanh năm. Giếng được
thành danh là giếng Thảo.
Theo gương của Hòa thượng Liễu Đức, sư trụ trì chùa Từ Tôn
quyết tâm đào giếng trên Hòn Đỏ. Ban đầu sư tự đào một mình song trải qua nhiều
tháng gặp quá nhiều trắc trở như thiếu dụng cụ đục đá và nhất là quá nhiều đá tảng
lo lớn. Giếng chỉ có thể đào rộng ra chớ không thể nào đào sâu xuống dưới được.
Nhà sư đem sự việc trở ngại kể lại với mẹ và bà cụ thuận cấp cho một số tiền để
dành lâu nay, thuê mướn thợ chuyên môn. Một nhóm thợ làm đá ở vùng chùa
Hang được nhà sư đến tận nơi mời tham dự. Công việc khởi sự vào dịp đầu
xuân. Nhà sư chỉ còn lo công việc chuyển nước từ đất liền ra hoang đảo để phục
vụ cho toán thợ đào giếng.Toán thợ làm việc cần cù siêng năng. Lớp đá ban đầu vị
nằm phía trên nên dễ dàng được nạy lên và lăn đi. Song càng xuống sâu thì
đá càng to lớn và miệng giếng vị hẹp nên công việc tiến triển khá chậm. Cuối
cùng vị khối lượng đá quá lớn nên thợ đào giếng đành phải dùng đến mìn để đục
đá. Tuy nhiên càng xuống sâu việc bắn đá cũng không thể nào giúp cho công việc
tiến triển khả quan. Sáu tháng trôi qua tuy giếng đã có độ sâu khoảng
5 mét song vẫn không thấy hiện tượng có nước mạch chảy ra. Công việc đào giếng
phải tạm ngừng vị mùa mưa đã đến. Năm ấy mùa mưa đến sớm hơn mọi năm. Có nhiều
trận mưa kéo dài đến nhiều ngày. Nước mưa trên đảo chảy tụ hội vào lòng giếng
chẳng mấy hôm thì giếng đầy nước. Lòng nhà sư Viên Mãn vô cùng vui sướng. Mỗi
sáng sau buổi kinh mai, sư đều ra thăm giếng nước. Nhìn mực nước có độ cạn rất
chậm sư trụ trì có rất nhiều hi vọng là giếng đã có thể giữ và chứa nước mưa
lâu như một hồ nước cho hải đảo Hòn Đỏ. Trong thời gian còn mưa thì giếng nước
này tích tụ nước và sau những cơn mưa thì nhà chùa có thể dùng tạm trong một thời
gian khá lâu. Quả như lòng ước mong, nhờ thành giếng toàn đá nên mực nước vẫn
luôn luôn tràn đầy. Những buổi trưa, sư trụ trì ra ngồi bên bờ giếng, nhìn chăm
chắm vào lòng giếng, nhìn mặt nước lặng yên thăm thẳm, lòng cầu mong
đây sẽ là một giếng nước thật sự. Sư mơ màng nghĩ đến mạch nước của chùa
Thiên Đức, mạch nước cam lồ nơi giếng Thảo của nhà sư Liễu Đức và lòng cầu nguyện
cho công việc đào giếng được thành công.
Nhưng rồi trời cũng hết mưa và toán thợ lại tiếp tục đào giếng.
Nhưng càng ngày công việc càng khó khăn và cuối cùng toán thợ đành thú nhận sự
bất lực của mình. Giếng đá được đào dở dang nay chỉ còn lại một hố sâu kỷ niệm
bao công khổ nhọc của những con người bất lực trước thiên nhiên.
Du khách đến thăm chùa, cúi nhìn lòng giếng thẳm sâu, nhấp
nhô đá nhọn càng cảm động nhớ đến công lao khổ cực của vị sư trụ trì có tấm
lòng đôn hậu muốn chia sẻ hạnh phúc tầm thường cho tất cả mọi người lên viếng đảo... Riêng khách đa tình trong làng thơ văn, lòng bồi hồi nhớ đến nguồn nước mưa chứa
trong lòng giếng và tưởng đến sự cảm nhận được âm thanh thánh thót của những giọt
nước từ trong các khe đá nhỏ giọt xuống lòng giếng. Các mạch nguồn của những
dòng nước sau những cơn mưa sẽ thấm sâu vào lòng đất để tháng ngày sau đó cùng
nhỏ những giọt nước trong vắt và ngọt lịm vào lòng giếng sâu thẳm như nhỏ vào
tâm linh của một ước vọng vị tha và bác ái. Một dòng thơ đã chảy ra và rơi đọng
vào trang thơ trong bài thơ Cây cảnh bằng lăng của nhà giáo Phong
Hương khiến lòng du khách cảm thấy nao nao:
“Giếng đá nhớ mưa nguồn”
Giếng đá nhớ mưa nguồn vị giếng đá kia có sự liên quan mật
thiết đến mưa nguồn. Các giếng nước trên khắp cõi đời này đều có mạch ngầm và
lòng giếng bao giờ cũng đầy ăm ắp nước. Riêng giếng nước trên Hòn Đỏ, phải chờ
đợi đến mùa mưa nguồn, phải có mưa nguồn, lòng giếng mới đầy nước. Sau những
cơn mưa nguồn, khách thập phương mới nghe được âm thanh tí tách của những giọt
nước từ trong khe đá nhỏ thánh thót vào lòng giếng. Trong những ngày nắng hanh,
mây trắng vẫn bay trên bầu trời trong xanh, sóng biển vẫn chập chờn quanh đảo,
gió vẫn rì rào trên cành lá xoài xanh nhưng ngồi trên bờ giếng, sư trụ
trì nghe như mơ hồ tiếng tí tách của giọt nước thánh thót rơi vào lòng giếng
như những giọt nhớ nhung rơi vào tim mình. Trong âm thanh mơ hồ sư nghe như tiếng
âm ỉ của những cơn mưa nguồn về tuôn nước trên thành giếng. Con người có thể
quên đi kỷ niệm quá khứ song lòng của sư trụ trì vẫn thương mến cái giếng đá
này, những tháng ngày hì hục đào đục gian lao. Lâu ngày thành ra thói quen, mỗi
khi có một cơn mưa nào tuôn xuống, vị sư lại ra đứng bên bờ giếng nhìn xuống
lòng giếng chờ mong nước ngập đầy như để chờ mong người bạn cố tri.
Mẹ
Hôm nay là ngày mười ba tháng tư âm lịch. Chỉ còn hai ngày nữa
là đến ngày Phật đản.
Sáng nay, sư Viên Mãn ngồi dưới bóng xoài, nhìn những chùm
xoài đong đưa trước gió, chùm xoài tượng đầu mùa thay đổi màu da và hình dáng
theo từng ngày. Mới hôm nào chùm trái xanh màu lá chuối non, thân bé bỏng đong
đưa theo làn gió ban mai mà bây giờ trái đã nõn nà, da xanh màu ngọc bích, trĩu
nặng dưới các cọng xoài thanh thanh. Trong nắng biển, màu da xoài xanh mặn
mà hơn. Bụi phấn mỏng sớm phai dần theo sắc nắng. Nhà sư lòng bỗng nhiên nhớ đến
mẹ già. Mùa xoài sắp đến. Sau lễ dâng hương Phật, sư định trong lòng sẽ về dâng
mẹ trái chín đầu mùa. Gió biển thổi về hiu hiu. Nắng vàng thắm đượm khắp nơi
trên Hòn Đỏ. Thốt nhiên, nhà sư nghe như có tiếng đá sỏi lăn nơi sườn dốc trên
đường đi xuống bến đò. Bóng lá xoài chập chờn như vẫy chào đón. Nơi đầu dốc
bóng mẹ già hiện ra nhòa mờ trong ánh nắng. Gương mặt mẹ khắc rõ nét trên nền
trời. Những nét nhăn trên trán, trên đôi gò má và nhất là cái miệng móm mém
đang vừa nhai trầu vừa như mỉm cười với trời đất. Những giọt mồ hôi chảy dài
theo các lằn nhăn trên má trên trán. Và trong hơi gió tiếng mẹ như thầm thì:
- Ở đây nhiều nắng quá. May lại cũng có nhiều gió.
Mẹ ra thăm con và đem cho con một trái mít chín cây mẹ vừa mới hái.
Nhà sư nhìn mẹ cảm động. Chưa kịp nói với mẹ một câu nào thì
bóng mẹ đã nhòa đi trong ánh nắng. Bóng mẹ đến thật nhanh và biến đi cũng thật
nhanh. Bỗng nhiên không khí trên đảo thơm lừng mùi mít chín. Mùi thơm ngọt
ngào, có sắc vàng óng như màu nắng. Một giấc mơ chợt thoảng như có như không.
Sóng biển như ngừng lại, mặt biển im lìm trải rộng. Màu xanh
của biển lẫn với sắc xanh của trời. Tâm nhà sư tự nhiên xao động và sư chắp tay
ngồi thiền định để nguôi đi lòng xao xuyến bâng khuâng.
Chiều hôm đó bé Xí con anh Sáu Sài Gòn ra đảo tin cho sư Viên
Mãn biết tin cụ bà bị té nặng và hiện đang nằm nơi chùa Kỳ Viên Trung Nghĩa tại
núi Sinh Trung. Không thể chờ đợi có đò đưa, nhà sư đã cởi áo quần lội biển vào
đất liền lên Sinh Trung thăm mẹ.
Trong một gian phòng nhỏ, sư Viên Mãn ngồi lắng nghe tiếng mẹ
kể bên tai:
Buổi sáng khi công phu xong mẹ ra sân quét lá. Chợt mẹ thoáng
ngưởi thấy mùi mít chín. Ngẩng đầu nhìn lên cây mít nơi đầu dốc mẹ thấy một
trái mít có màu da vàng thắm. Trái mít lớn chỉ khoảng bằng đầu một bé con song
có vẻ già như một trái mít đẹt. Mẹ đến gần thì ngửi thấy mùi thơm. Khi đưa tay
vỗ nhẹ lên trái mít thi có tiếng bịch bịch của trái mít chín vang lên. Đúng là
trái mít đã chín. Mẹ đưa tay vói hái. Bỗng nhiên mắt mẹ như có một lằn chớp
hoa lên rồi mẹ chới với ngã ngồi xuống đất. Cả bầu trời bỗng tối sầm và mẹ té nằm
xoài ra đất. Vừa may con bé Xí trông thấy bèn chạy vào chùa kêu mấy bà
đang làm công quả ra khiêng mẹ vào. Nhà sư cũng kể lại cho mẹ nghe câu
chuyện trông thấy mẹ khi sáng này. Hai mẹ con chỉ còn biết nắm tay nhau trong
im lặng.
Biết rằng mình không thể nào qua khỏi, mẹ nhà sư báo cho con
biết số vàng mà bà đã dành dụm suốt cả cuộc đời chôn nơi góc sân sau chùa. Số
vàng này không nhiều song đã giúp cho nhà sư tu bổ và xây dựng ngôi chùa Từ Tôn
ngày một khang trang.
Trong nơi thanh vắng ở một hải đảo khô cằn, sư Viên Mãn thấm
thía nhận ra được sự cần thiết tình mẹ thiêng liêng. Và người đã thầm tự
nguyện:
Mẹ tôi mất đi, tôi quyết tâm trụ lại chùa Từ Tôn vĩnh viễn vì
khi còn mẹ, tôi vẫn thường đi đi về về với chùa Kỳ Viên Trung Nghĩa.
Kể từ 1981 tôi đã đăng ký hộ tịch thường trú tại chùa Từ Tôn Hòn Đỏ.
Cuộc đời con người dù là thế thường hay tu hành, lòng nhớ
thương cha mẹ vẫn canh cánh bên lòng. Cuộc đời của tôi luôn luôn gắn liền với
biển đảo và tình mẫu tử thiêng liêng.
Có nhiều đêm tôi ra ngồi một mình đối diện với biển Đông (sống
trên đảo nhiều năm tôi ít khi ngồi trước biển) để suy tư về cuộc đời.
Đêm nay, sau buổi kinh tối, tôi ra ngồi nơi gành đá hướng
Đông. Biển chìm lắng trong màn đêm thanh thoát trong suốt như pha lê. Lòng tôi
bỗng nhiên nhớ mẹ tôi tha thiết. Không biết là vị nhớ đến mẹ mà tôi ra ngồi
nhìn biển đêm hay là vị ngồi nhìn biển đêm mà tôi nhớ đến mẹ tôi... Trước biển rộng
mênh mông lòng tôi lại thiết tha nhớ mẹ. Trong lòng tôi chợt vang lên câu hát
mà từ lâu tôi đã được nghe: “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình”. Bài hát này
tôi chỉ thích duy nhất có câu này.
Đêm đen trên biển không thăm thẳm mà lại có màu đen trong ngần,
có lẽ nhờ ánh sáng của bầu trời có các vị sao. Lòng nhớ mẹ thật mênh mông. Bây
giờ mẹ không còn nữa tôi mới biết được những giây phút gần mẹ là những giây
phút hạnh phúc nhất. Dù trước đây những tháng ngày bên mẹ là những tháng ngày
cơ cực nhất, nhưng bây giờ nhớ lại chính là những giây phút hạnh phúc nhất của
cuộc đời. Chỉ có mẹ tôi là nguồn vui, niềm an ủi cho suốt cuộc đời thơ ấu của
tôi. Và mãi mãi cho đến tuổi đời khôn lớn.Tôi đã sống dưới bóng mát của mẹ, hồn
nhiên như thở khí trời, thụ hưởng ánh sáng và cảnh vật chung quanh. Đến khi mẹ
mất, nỗi quặn đau tưởng đến đứt ruột, rồi niềm đau cũng qua đi nhưng nỗi buồn
chợt đền chợt về để tâm hồn như xót như xa. Nhờ lao động, nhờ tu niệm mà niềm
thương nhớ mẹ của tôi như tan lẫn vào không gian, vào khí trời quanh tôi. Hằng
ngày tôi đã nhìn thấy những khuôn mặt nhăn nheo, dáng đi khòm khòm trên chiếc
lưng còng cùng với đôi mắt lem nhem với cái miệng móm mém của các cụ bà theo
con cháu lên thăm chùa. Tôi đã thanh thản trong lòng vị tôi như đã gặp lại dáng
xưa của mẹ tôi.
Hôm nay ngồi trước biển lòng tôi bỗng nhiên nhớ đến mẹ tôi vô
cùng. Mẹ ơi! suốt khoảng đời ấu thơ của con, mẹ đã lao động cực nhọc để nuôi
con. Và đến khi con khôn lớn, mẹ vẫn còn lao động để giúp đỡ con miếng cơm manh
áo để khai hoang hòn đảo khô cằn này theo ước vọng của con. Những tháng ngày gò
lưng trên hải đảo trong nắng, trước gió, bao giờ con cũng có mẹ đứng sau lưng,
an ủi, động viên và giúp đỡ lương thực để con có thể khắc phục được gian khổ lập
nên một mái chùa, đem màu xanh trùm lên hòn đảo đầy gai, đầy đá này.
Giờ đây, chùa đang thành lập, đất vừa mới hết gai, cây
xanh đã phủ kín lối đi, con đã có nơi tu tập thì mẹ không còn nữa. Lẽ vô
thường vốn đã có sẵn trong trần gian nhưng tình thương nhớ, lòng biết ơn mẹ vẫn
không bao giờ vơi trong lòng con trẻ. Cũng như biển kia, nước khi vơi khi đầy,
nhưng lòng biển vẫn bao la, tình biển vẫn mặn nồng. Và lòng nhớ thương mẹ tuy
khi đậm khi lợt song vẫn đời đời thiết tha, sâu thẳm.
Có ngồi trước biển đông mới thấy lòng mình rộng mở. Có nhìn
thấy trời biển bao la mới hiểu được tấm lòng của mẹ. Trước biển trời bao la, mới
biết được con người cần có một nơi để nương tựa cõi lòng. Đó chính là tấm lòng
của mẹ. Tiếng sóng vỗ thầm thì vào vách đá như tiếng lòng của mẹ đang nói khẽ với
tôi lời thân yêu trìu mến. Có lẽ đã lâu rồi tôi không còn được nghe lời mẹ vỗ về
âu yếm cũng như bao nhiêu người đã xa biển cả, không còn giờ phút ngồi nghe
sóng vỗ rì rào nhưng tiếng thì thầm ngàn năm kia vẫn đêm đêm không ngớt đồng vọng
ngân dài trong cõi lòng chúng ta. Ta không nghe tiếng sóng vỗ hằng đêm, không phải
vì không còn sóng vỗ mà chỉ vì ta không có được một không gian, một thời gian,
một dịp nào để ngồi nghe sóng vỗ. Trong giây phút ấy ta sẽ gặp lại những kỷ niệm
xưa, những kỷ niệm về mẹ với tình yêu của mẹ, tiếng dịu dàng ấm êm của mẹ trong
tấm lòng bao la của mẹ.
Tôi đã sống nhiều năm trên đảo giữa trời biển bao la mà mãi đến
hôm nay tôi mới nghe được tiếng thì thầm mến yêu của mẹ trong tiếng sóng vỗ vào
bờ đá. Thì ra mẹ đã ở bên cạnh tôi mà tôi chưa hề có phút giây gặp gỡ.
Lâu nay tôi đã hờ hững với tình yêu của mẹ, tôi đã mịt mờ giữa cái mất, cái còn
của cuộc đời. Biển cả vẫn hàm chứa cái hữu thường và cái vô thường của cuộc đời.
Song tình yêu của mẹ vẫn chứa chan trong cái hữu thường và cái vô thường ấy.
Trong cái không còn, linh hồn mẹ vẫn còn, tình thương của
mẹ vẫn còn mãi trong nỗi nhớ thương của người con. Nhờ có biển cả, đêm nay tôi
mới thấy rõ được tình thương về mẹ. Biển cả mênh mông, sao trời rực rỡ, sóng vỗ
bềnh bồng như hòa đồng lòng nhớ mẹ của tôi vào cái rộng lớn mênh mông này. Tôi
cảm nhận được cái tôi như hòa đồng vào vũ trụ. Trong khoảnh khắc lòng tôi trở
nên thanh thản, thân tôi nhẹ nhàng, trí tôi phiêu diêu và tôi cảm nhận được Hòn
Đỏ như đang chìm dần vào lòng đại dương, như lòng tôi đã hòa tan vào lòng
thương mênh mông của mẹ. Thuở nhỏ không nhận biết được tình yêu của mẹ, lớn lên
theo thầy tu hành tôi lại phải xa tình yêu của mẹ, nhưng hôm nay trước biển cả
bao la, trước bầu trời đầy sao tôi mới thấu nhận được lòng mẹ bao giờ cũng bao
la như biển mà lòng con chưa có được những khoảnh khắc cảm nhận.
Lễ Vu Lan trên Đảo
Hằng năm cứ vào mùa Vu lan thì các đệ tử chùa Kỳ Viên Trung
Nghĩa trên núi Sinh Trung đều tề tựu đông đủ tham dự ngày đại lễ Vu lan.
Sư Viên Mãn cũng từ Hòn Đỏ về Sinh Trung chiều ngày mười ba tháng bảy. Sau đại
lễ, sư mới quay về chùa Từ Tôn. Năm nay sư về Hòn Đỏ hơi muộn hơn mọi năm.
Trăng mười bốn đã thắp sáng bầu trời. Biển Nha Trang mênh mông. Sóng gợn lăn tăn.
Hòn Đỏ lắng mình trong yên thắm. Lòng nhớ mẹ lại rạt rào tha thiết. Trong buổi
kinh chiều, sư đã nguyền khấn tạ ơn người. Tuy nhiên khi trực nhìn biển bao la
dưới ánh trăng huyền diệu, lòng nhớ thương mẹ lại xao xuyến tâm hồn. Tiếng sóng
vỗ vào bờ đá nghe rạt rào thắm thiết hơn mọi hôm, ánh trăng như trong hơn và biển
nồng nàn mùi muối mặn.
Đến đảo, sư không lên chùa mà lắng mình ngồi trên bãi đá,
nhìn về ánh đèn nhạt phía NhaTrang. Bóng núi Sinh Trung in hằn lên bầu trời
trong sáng. Hình bóng mẹ già chợt hiện ra giữa bầu trời cao rộng. Bỗng nhiên một
ý tưởng chợt hiện ra trong tâm tưởng: “Tại sao ta lại không thắp sáng một ngọn
nến thả trôi trên mặt biển để đón mẹ ta về với ta trên hải đảo cô đơn và vắng vẻ
này.”
Thực hiện ngay ý tưởng thương nhớ, sư Viên Mãn lần mò lên
ngôi chùa nhỏ và dưới ánh trăng sáng tỏ, nhà sư ngồi cặm cụi làm một chiếc đèn
hoa sen. Đế đèn là một tấm xốp cắt ra từ một nắp thùng xốp đựng vật dụng điện tử
mà nhà sư đã nhặt được ở dọc đường về. Đóa sen hồng là tờ giấy bìa hồng đỏ dùng
để viết các tờ sớ trong những dịp cúng kính cho các môn đồ tín ngưỡng dâng lời
cảm tạ mẹ cha và thân tộc. Tờ giấy hồng được cắt ra thành từng cánh hồng lớn và
được ghép lại bằng những chiếc gai dại mọc trên hoang đảo. Gắn vào đóa sen hồng
đơn giản một ngọn nến hồng bằng ngón tay cái và nhà sư đem chiếc đèn sen hồng
xuống tận bờ đá về hướng Đông.
Gió trên biển vẫn hiu hiu, trăng vẫn long lanh trên muôn ngàn
ngọn sóng nhỏ lăn tăn trên mặt biển. Trời và biển mênh mông. Chọn một khoảng đá
bằng, sư thắp lên ngọn nến và quỳ xuống đọc kinh cầu nguyện. Đọc xong lời khấn
nguyện, sư từ từ lội xuống nước và đẩy chiếc đèn sen hồng ra xa bờ đá. Đại
dương mở rộng lòng. Ngọn gió hiu hiu thổi nhẹ chiếc đèn hoa sen hồng ra
xa bờ hải đảo. Ánh nến bập bùng, chập chờn trong bóng trăng sáng dịu mông lung.
Lòng thương nhớ mẹ cứ theo chiếc đèn hoa và ngọn nến trôi xa, xa mãi.
Nhìn cánh đèn hoa sen lung linh, sư Viên Mãn lòng thốt ra lời
nguyện:
“Nếu sau này có dịp thì hằng năm hễ đến mùa Vu lan con sẽ tổ
chức một đêm phóng hoa đăng trong đêm mười bốn để các đệ tử con Phật đến
tham dự và mỗi người con Phật sẽ thả xuống lòng biển này một chiếc đèn có hình
dáng một đóa sen hồng với một ngọn nến cháy lung linh như lời nguyện cầu nhớ ơn
cha mẹ.”
Lời nguyện vừa dứt bỗng nhiên trước mắt nhà sư bừng
sáng lên khung cảnh các thuyền hoa chở đầy Phật tử bồng bềnh trên vịnh Hòn Đỏ
và cảnh thả hoa đăng tưng bừng mở hội. Các Phật tử lớp ở trên thuyền, lớp lội
dưới nước chung quanh Hòn Đỏ ân cần thả nổi trên biển những chiếc đèn hình hoa
sen có cắm ngọn đèn sáp cháy sáng. Gió hiu hiu thổi các đóa sen hồng trôi trên
sóng nước, tỏa rộng bồng bềnh khắp nơi trên mặt biển. Trên bờ nơi hải đảo, các
bà mẹ già không thể lội nước thả sen hồng thì cầm nến, lấy thân che gió để giữ
lấy mồi lửa cho con cháu. Cảnh đèn hoa bị gió thổi tắt và được vớt lên đi vội
vàng đến nơi các bà mẹ đứng che gió để mồi lại ngọn đèn. Đó là hình ảnh cảm động
của các bà cụ ngồi ôm lấy ngọn nến để giữ lửa cho đám trẻ đang thả hoa
đèn chuyển tấm lòng báo hiếu vào biển đông thắp sáng những tấm lòng thương nhớ
mẹ cha. Những người con hôm nay mới có dịp trở về gởi vào đại dương lòng thương
nhớ kính yêu của mình. Công ơn cha mẹ như trời biển. Một chiếc hoa đăng chở nặng
tâm tình trôi trên biển như là chở tình yêu của con về với tấm lòng bao
la của mẹ cha.
Đột nhiên sư Viên Mãn giật mình trở về với thực tế. Chiếc đèn
sen hồng chở ngọn nến hắt hiu trên biển rộng đã ra tít tận ngoài khơi chỉ còn
là một điểm hồng dưới ánh trăng rằm. Trong gợn gió hiu hiu nhà sư đang gởi lời
thì thầm của mình đến với mẹ:
Ngày trước, khi con ra hải đảo này, mẹ đã từng khuyến khích
con, mẹ đã từng nuôi nấng con, giúp đỡ con trong những ngày cơ cực thiếu thốn.
Mẹ đã từng chắt chiu mua cho con, lọ chao, chai tương, mớ rau và nhất là gạo hẩm
(gạo loại hai). Hôm nay con đã có một mái chùa, một khoảnh đất để trồng tỉa
nuôi sống thân con. Và mẹ đã không còn nữa. Mẹ đã không đến chia vui cùng con
trên đất Phật này. Vẫn biết rằng mẹ đã về lại cõi vĩnh hằng, mẹ đã gặp lại mọi
người thân yêu, nhất là cha. Nhưng con vẫn hằng nhớ đến mẹ. Nhất là trong đêm
Vu Lan này. Là người con đã xuất gia nhưng tấm lòng thương yêu kính mến mẹ con
vẫn hằng gìn giữ trong tâm. Trên hải đảo cô đơn này mẹ vẫn luôn luôn có mặt
trong tim con.
Ánh đèn sáng trong chiếc hoa đăng đang thắp sáng lòng con
đang hướng về với mẹ. Trong ánh lửa cô đơn kia chắc mẹ sẽ hiểu thấu tấm lòng
con và cầu xin mẹ giúp cho con chóng thành toại nguyện để hằng năm vào dịp lễ
Vu Lan không phải một mình con thả hoa đăng để thương nhớ mẹ mà hàng
trăm, hàng nghìn đệ tử cũng như những người con hiếu có dịp ra đảo Hòn Đỏ này
thắp sáng lên ngọn nến gởi tấm lòng vào đóa hoa sen hồng thả hoa trôi ra biển
khơi để nhớ thương và biết đến công ơn của mẹ. Trên thế gian này có hàng triệu
tấm lòng của những người con chí hiếu vẫn hằng mong muốn có dịp thể hiện
sự biết ơn và tưởng nhớ cha mẹ trong dịp Vu Lan.
Xin mẹ giúp cho con tròn ước nguyện tạo ra một dịp phóng hoa
đăng để nhớ đến công cha mẹ trên hải đảo Hòn Đỏ này. Bóng mẹ sẽ hiện về lấp
lánh trong những chiếc đèn hình hoa sen đỏ trôi bềnh bồng trên sóng nước trùng
dương dưới ánh trăng vàng rực rỡ.
Sáng hôm sau khi tỉnh giấc sư Viên Mãn nhặt được nơi hốc
đá khi hôm mình ngồi thả hoa đăng nhớ mẹ, hai bài thơ không đề tên tác giả:
Bài số 1
Thả một đóa sen hồng
Con thả đóa sen hồng
Trên mặt biển mênh mông
Giữa màu xanh của biển
Như màu xanh của lòng
Ngọn nến trôi bập bềnh
Ánh trăng vàng mông mênh
Đóa hoa trôi theo gió
Đưa lòng con lênh đênh
Theo con sóng lang thang
Ánh nến rung nhịp nhàng
Ru con từng bước nhẹ
Biển trời đêm Vu Lan
Nhớ ngày mẹ ra đi
Ánh mắt mẹ từ bi
Lòng con như mặt biển
Lao xao muôn sóng quỳ.
Thả một đóa sen hồng
Đưa ngọn nến mông lung
Ơn cao dày của mẹ
Hòa cùng ánh trăng trong.
Mùa Vu Lan nhớ mẹ
Xao xuyến tấm lòng con
Trôi trên biển chập chờn
Ngàn giọt trăng long lanh
Một ánh đèn hiu hắt
Sóng Vu Lan dìu dặt
Biển trời xanh trong xanh.
Đêm phóng nghìn hoa đăng
Dịu dàng trong ánh trăng
Mẹ đi trên sóng nhẹ
Mênh mông cõi vĩnh hằng
Vu Lan mùa Vu Lan
Trời thẳm xanh ngút ngàn
Như biển nơi Hòn Đỏ
Sen hồng trôi trong gió
Mẹ đã về trong ta
Lòng trời biển bao la.
Bài số 2
Đêm phóng hoa đăng
Con thả một đóa sen hồng
Trên mặt sóng mênh mông
Màu xanh của biển
Như màu xanh của lòng.
Ngọn nến bập bềnh
Dưới ánh trăng trong.
Đêm Vu Lan
Nghìn đóa hoa lòng trôi trong gió
Giữa những làn sóng nhỏ
Gợn dưới bước chân mẹ đi
Mẹ về với đời
Ánh mắt từ bi
Xao xuyến lòng con như mặt biển
Mênh mông hồn con như ánh trăng vàng.
Thả một đóa sen hồng
Với ngọn nến hắt hiu
Mùa Vu Lan lòng thương nhớ trăm chiều
Công ơn cao dày của mẹ.
Một giọt trăng long lanh trên sóng bể
Một ánh đèn hiu hắt giữa trùng dương
Mẹ yêu thương
Con gởi cả thế gian này
Để nhớ về công ơn của mẹ
Trăng mùa Vu Lan
Lấp lánh ánh đèn hiu hắt
Trên nghìn đóa sen hồng
Trôi bềnh bồng
Dưới ánh trăng trong
Trên đại dương nhẹ sóng
Mẹ đã về giữa trời biển bao la
Sóng Hòn Đỏ thao thức mãi lòng ta
Mùa Vu Lan mùa nhớ thương về mẹ.
Khóm mai
Mãi đến chiều mười sáu tháng tư sư Viên Giác mới được phép bổn
sư Thích Phước Ninh ra thăm chùa Từ Tôn nơi Hòn Đỏ. Gọi là chùa
song hiện chỉ là một túp lều tranh đơn sơ giống như một lều chăn vịt nơi thôn
dã. Đêm hôm ấy vành trăng mười sáu cùng trời mây cao rộng trên Hòn Đỏ chứng kiến
một lễ cúng đơn sơ nhưng vô cùng chân thiết. Tiếng tụng kinh hòa cùng tiếng mõ
đều đều của nhà sư làm ấm lại bầu không khí cô quạnh trên một hải đảo đìu hiu.
Mặt nước biển như xanh đặc quánh lại, lóng lánh sóng nước. Đôi tiếng chim mơ hồ
vọng lại dưới trời trăng. Sau chầu kinh, nhà sư lững thững đi một vòng trên sườn
núi. Đến bờ phía Tây gần con đường chạy quanh co xuống chân đảo nơi có bến đò tạm.
Dưới bóng trăng sáng vằng vặc nhà sư sửng sốt nhìn thấy nơi khóm mai độc
nhất trên đảo, nở hoa vàng ánh dưới trăng. Hoa trên cành nở vàng rực rỡ. Bóng
hoa vàng tươi sáng, ánh trăng vàng lung linh trên khóm mai. Gió biển hiu hiu thổi
về nhè nhẹ. Cành mai xao động, hoa lá rung rinh. Lặng lẽ đứng nhìn khóm mai nở
thạnh, nhà sư đắm mình trong thế giới mơ huyền. Màu vàng của hoa cùng với sắc
trắng trong của ánh trăng phủ kín cả khóm mai khiến cho nhà sư ngỡ là khóm mai
đang được khoác một chiếc áo cà sa vàng quí báu của đức Phật ban cho nhà sư Huyền
Trang khi đến được Tây phương Phật thỉnh kinh về Trung thổ.
Khi khai hoang hòn đảo sư Viên Mãn đã trông thấy khóm mai nầy.
Khóm mai không biết mọc từ năm nào song nhìn cội mai đã cằn và nhánh mai đã cỗi
thì sư biết là mai mọc ở đây đã từ lâu. Thân và cành có màu xanh đen mướt. Mới
thoạt nhìn cứ ngỡ là một khóm cây hoang dại song khi nhìn kỹ thì mới biết là một
khóm mai. Thân mai giống như loài mai núi nhưng cành mai thì suôn sẻ như giống
mai biển. Cành dài mà không khẳng khiu. Lá dày không mỏng như mai vườn. Thân lá
ngắn, xa trông giống như chè xanh lá lớn. Sắc xanh đậm đà, mới nhìn qua không
thể phân biệt được là mai hay chè. Tuy không biết chắc là khóm hoa mai nhưng sư
Viên Mãn vẫn để nguyên không phá đi vì đó là một cây xanh mọc giữa đám gai góc
trên đảo. Một màu xanh tuy nhỏ nhoi song sẽ làm dịu mắt nhìn trong ánh
sáng chói lòa trên hoang đảo.
Mùa xuân khóm mai nầy không nở hoa khiến cho nhà sư ngạc
nhiên và tưởng đó chỉ là một khóm cây có vóc dáng giống như là mai. Tuy nhiên
cây cũng được thường xuyên tưới nước và khóm cây cứ theo năm tháng mà nẩy nở.
Sư Viên Mãn rất ít khi ở luôn trên đảo mà chỉ lên một vài hôm rồi trở về chùa Kỳ
Viên Trung Nghĩa trên núi Sinh Trung. Hôm nay tình cờ nhà sư đi dạo dưới trăng
trên Hòn Đỏ rồi thình lình bắt gặp được cảnh mai nở vàng trong dịp lễ Phật Đản.
Thật là hi hữu, thật là kỳ lạ.
Khi còn theo học nơi trường Phật học Hải Đức tại đồi Trại Thủy,
sư Viên Mãn, một hôm tình cờ được nghe nhà thơ Quách Tấn ngồi đàm đạo cùng Thượng
tọa Thích Trí Thủ về rừng mai trên đồi Trại Thủy:
Khi xưa mai trên đồi Trại Thủy mọc đầy kín như một khu rừng.
Mùa xuân đến mai nở vàng cả núi cho nên núi có tên là Hoàng Mai Sơn. Khi mai nở,
hương mai hòa lẫn vào không gian khiến lòng người quanh vùng an tịnh và hứng khởi
đón hương xuân. Sau đó cuộc chiến giữa nhà Nguyễn Tây Sơn và nhà Nguyễn Gia
Miêu xảy ra trong vùng khiến cho rừng mai hao hụt khá nhiều. Đến khi phong trào
Cần vương nổi lên chống Pháp thì Bình Tây Đại tướng quân Trịnh Phong đóng quân
trên hòn Trại Thủy và trong một trận chiến oai hùng, hòn Trại Thủy bị đốt phá
và giống mai mọc trên núi lại thêm một phen bị tàn phá. Giờ đây núi không còn
mai mọc. Giống mai mọc trên núi là một giống mai pha lẫn giống mai núi và mai
biển. Mai biển cành suôn sẻ, hoa to cánh song lại mỏng và thưa. Còn mai rừng
thì cành khẳng khiu, hoa nhiều cánh nhiều tầng song lại nhỏ hoa hơn mai biển.
Mai trên đồi Trại Thủy là loại mai vừa có hoa lớn như hoa mai biển và cánh nhiều,
tầng nhiều như mai rừng.
Đứng lắng nghe một nhà thơ ngồi đàm đạo với một vị chân tu,
sư Viên Mãn thấy được sự hợp hòa giữa thơ và đạo. Nếu có sự hòa hợp thì không
có một xa cách gì đối với đời và đạo. Ý thơ và lòng đạo hoà nhập với nhau khi
hai người bạn ngồi nói chuyện tâm đắc như hai triết nhân tri kỷ.
Nhớ đến buổi bàn thơ trên đồi Trại Thủy giữa nhà thơ Quách Tấn
với Thượng tọa Thích Trí Thủ, nhà sư chăm chú quan sát khóm mai già. Có lẽ đây
là loại mai đã mọc trên đồi Trại Thủy ngày xưa, nay còn sót lại nơi hải đảo cô
đơn này. Như vậy khóm mai nầy có thể là giống mai đã từng sống trên núi Hoàng
Mai Sơn.
Hương mai càng về khuya càng nồng đượm. Ngồi xếp bằng dưới gốc
mai, sư Viên Mãn lắng nghe tiếng cánh hoa rơi rụng chung quanh mình cùng với
ánh trăng long lanh trên phiến lá. Ánh trăng khuya nơi hải đảo thật trong
sáng. Ngắm cảnh trăng trên biển, lòng cảm thấy thảnh thơi hơn nhìn trăng
trong thành phố. Khi lòng thanh tịnh, tâm sẽ thấm dần chân vị, chân hương của
thiên nhiên. Lòng du khách sẽ nhập vào thiên nhiên để chan hòa cùng thiên
nhiên. Nhìn xa thì biển cả mênh mông. Nhìn gần thì ánh trăng chập chờn cùng cây
cỏ. Trong gió có hương, dưới trăng có cảnh. Cảnh trăng là tướng. Ánh trăng là
tánh. Tánh bất biến, tướng tùy duyên. Cho nên nhiều khi ta chỉ nhìn ánh trăng
lung linh trên một giọt sương mà cảm nhận thấy được trăng mênh mông trên biển rộng.
Dưới ánh trăng, bên cụm mai già, nhà sư đã thấu hiểu được mọi
biến hóa của qui luật vô thường. Đồng thời nhà sư cũng đã hiểu được câu chuyện
mà nhà thơ Quách Tấn đã kể lại cho Thượng tọa Thích Trí Thủ nghe khi cùng bàn đến
các điển tích của cổ nhân có liên hệ đến hoa mai.
Đó là câu chuyện về nhà thơ Triệu Sư Hùng:
Triệu Sư Hùng đời Hán, khi đi ngang qua núi La Phù thì
trời sắp tối nên ghé vào nhà trạm bên đường để nghỉ chân. Một giai nhân y trang
toàn trắng ra đón tiếp. Đêm xuống dần dần, tuyết cũng đang rơi rơi. Trong nhà
trạm, một mùi hương thanh thanh dần lan tỏa. Mùi hương bay lan khắp vùng. Đêm mỗi
lúc một lạnh. Giai nhân bèn mời Sư Hùng sang quán rượu bên cạnh. Một thị nữ áo
xanh bưng rượu ra đãi khách. Dâng cho Sư Hùng một chén, dâng cho mỹ nhân một
chén. Vừa dâng rượu vừa múa vừa ca.. Sư Hùng cao hứng uống say lúc nào không
hay. Say quá gục lên bàn mà ngủ. Đến khi thức giấc thì tuyết đã ngừng rơi. Đưa
mắt nhìn khắp nơi thì quán không thấy mà trạm cũng không. Giai nhân cũng không
thấy mà chỉ thấy dưới bóng trăng sáng vằng vặc, một mình nằm tựa gốc mai già
hoa đang nở thạnh. Trên cành có con chim xanh đang chuyền cành, miệng hót líu
lo. Do đó, có nên câu chuyện người thơ gặp tiên trong rừng mai nở thạnh vào đầu
xuân.
Câu chuyện con chim xanh hót trên cành, xuất xứ từ một bài
thơ tứ tuyệt đời Nguyên có tên là Ức Mai.
Thiều thiều xuân tín cách Giang Nam
Tịch tịch phương tâm phụ tuế hàn
Thanh điểu bất lai tiên mộng diếu
Nguyệt minh không tự ỷ lan can.
Có nghĩa là:
Tin xuân vời vợi cách Giang Nam
Quạnh quẽ lòng hương phụ tuế hàn
Vắng bóng chim xanh xa bóng mộng
Lạnh lùng trăng sáng tựa lan can
(Thơ dịch của Quách Tấn)
Cũng cùng ngồi dưới bóng trăng bên cạnh khóm mai
mà tâm trạng của mỗi người một khác. Thế mới biết vô thường vốn nằm trong vạn vật.
Cũng tại nơi gốc mai này nhà sư Viên Mãn đã nhặt
được một bộ đồ đá gồm một lưỡi búa và một lưỡi rìu bằng đá có màu xám đậm
được bào mòn trơn láng. Bộ đồ đá này được nhà sư coi như là một vật quý, tàng
trữ tại chùa Từ Tôn nơi Hòn Đỏ.
Thích nữ Nhất Chi Mai
Mãi đến sáng ngày rằm tháng tư năm Đinh Mùi tức ngày 23 tháng
5 năm 1967, nhân đi vào xóm Cù Lao lấy nước sư Viên Mãn mới biết rõ được ngọn
ngành cái chết của nữ Phật tử Nhất Chi Mai.
Trong một gian nhà nhỏ, năm người tuổi trẻ đang ngồi quanh một
bàn gỗ tre cùng đọc chung một cuốn sách có nhan đề: “Chết Mới Được Ra Lời“.
Đây là cuốn sách ghi lại những bức thư của người nữ Phật tử đã tự thiêu
mình lúc 7 giờ 20 sáng ngày 8 tháng tư năm Đinh Mùi tức ngày Phật Đản thứ 2511.
Chị tên là Phan Thị Mai, sinh viên trường đại học Văn khoa Sài Gòn và đại học Vạn
Hạnh, đã tự thiêu tại chùa Từ Nghiêm.
Chị Nhất Chi Mai đã viết lời cuối cùng:
Tôi viết tất cả 10 bức thư để lại.
Ngày mai tôi sẽ lo lắng một mình tôi, buổi lễ tự thiêu.
Tôi cho các nhà báo, nhiếp ảnh hay và một ít bạn thân đến nơi
tôi dự định mà không cho họ biết trước chuyện gì sẽ xảy ra.
Tôi mua 10 lít xăng.
Địa điểm tôi chọn lựa là chùa Từ Nghiêm. Tôi có ý đến nhà thờ
Đức Bà hay một nơi công cộng có tính cách lịch sử một chút, mà thôi!
Phía trước mặt tôi, tôi đặt hai bức tượng:
Đức Maria với hai bàn tay đưa ra.
Đức Quán Thế Âm với đôi mắt dịu hiền.
Cả hai nhìn tôi và ban ơn cho tôi tròn ước nguyện.
Trước mặt và sau lưng tôi có hai biểu ngữ tôi viết:
Con chấp tay quỳ xuống
Xin Đức Mẹ Maria
Đức Quán Âm Phổ Hiền
Cho con tròn ước nguyện
Và
Xin đem thân làm đuốc
Xin soi sáng u minh
Xin tình người thức tỉnh
Xin Việt Nam hòa bình
Cầu xin cho tôi can đảm, bình tĩnh mà ngồi yên trong lửa đỏ.
Tôi sẽ quỳ xuống chấp tay niệm Phật và thầm gọi Việt Nam.
Người tự thiêu cầu hòa bình.
Thích Nữ Nhất Chi Mai tự Nhất Chi, pháp danh Diệu Huỳnh.
Sinh viên đại học Văn Khoa Sài Gòn.
Sinh viên đại học Vạn Hạnh.
Đây là bức thư ở cuối trong cuốn “lưu bút” dày 23 trang viết
một mặt của Phan Nhất Chi Mai. Nghe đọc xong lời tự thuật sau cùng của Nhất Chi
Mai, sư Viên Mãn vô cùng xúc động. Trước đây khi Hòa thượng Thích Quảng Đức tự
thiêu vào ngày 20 tháng 4 năm Quí Mão (tức 11/6/1963) để cúng dường Phật pháp
và thúc đẩy chính quyền Ngô Đình Diệm bình đẳng trong việc đối xử với Phật
giáo, thì lòng của nhà sư tràn đầy niềm hân hoan cảm phục một vị bồ tát đã hiến
thân cho chánh pháp. Khi nghe tin Nhất Chi Mai tự thiêu cho hòa bình và trên
báo chí chỉ đăng những khoảng trắng lớn với cái tên Nhất Chi Mai, lòng sư Viên
Mãn tự nhiên xôn xao cảm động. Cho nên khi nghe đọc đoạn văn trên nhà sư có
ngay một tâm nguyện: phải ghi, phải thuộc tất cả những bức thư tuyệt mệnh của
Nhất Chi Mai. Nhà sư đã tạm hoãn việc lấy nước lên cho đảo và đã chăm chỉ ngồi
chép lại các tư liệu về Nhất Chi Mai. Có hai bài thơ mà sau khi chép xong thì
nhà sư đã thuộc.
Bài thứ 1:
Lời trăn trối của người yêu Việt Nam
Việt Nam, Việt Nam ơi
Nghe chăng lời trăn trối
Của người yêu Việt Nam
Yêu tiền nhân cách mạng
Yêu lứa tuổi hai mươi
Yêu cô nhi, quả phụ
Yêu thương nhất tù đày
Yêu khắp dãy non sông
Yêu từng giọt máu hồng
Cả người hiền kẻ dữ
Việt Nam, Việt Nam ơi
Sao cứ mãi thù hằn?
Sao bắn giết mà vui?
Nhưng rồi ai thua đó?
Vinh nhục này ai mong
Bỏ danh từ nhãn hiệu
Chúng mình người Việt Nam
Chân thành tay mình nắm
Quên mình lo nước non
Việt Nam, Việt Nam ơi!
Thích nữ Nhất Chi Mai tự Nhất Chi di chúc
Sài Gòn
25.4.1967
Bài thứ 2:
Chắp tay tôi quỳ xuống
Sao người Mỹ tự thiêu?
Sao thế giới biểu tình?
Sao Việt Nam im tiếng
Không dám nói hòa bình.
Tôi thấy mình hèn yếu
Tôi nghe lòng đắng cay
Sống mình không thể nói
Chết mới được ra lời.
Hòa bình là có tội!
Hòa bình là Cộng sản!
Tôi vị lòng nhân bản
Mà muốn nói hòa bình!
Chắp tay tôi quỳ xuống
Chịu đau đớn thân này
Mong thoát lời thống thiết!
Dừng tay lại người ơi!
Dừng tay lại người ơi!
Hai mươi năm nay rồi
Nhiều máu xương đã đổ
Đừng diệt chủng dân tôi!
Chắp tay tôi quỳ xuống.
Thích nữ Nhất Chi Mai tự Nhất Chi
Kính cáo.
Trước đây vào lúc 14 giờ 30 ngày 26 tháng 1 năm 1965 tức 24
tháng chạp năm Giáp Thìn) tại vườn hoa trước tòa Hành chánh tỉnh Khánh Hòa cô
Đào Thị Yến Phi con của ông Đào Trọng Bình và bà Lê Thị Vượng ngụ tại số nhà
20/30 hẻm Lê Thánh Tôn đã tự thiêu trước hàng ngàn người tụ hội tại đây để phản
đối chính quyền Nguyễn Văn Hương. Đào Thị Yến Phi sinh ngày 6 tháng giêng năm Mậu
Tý (tức ngày 15 tháng 2 năm 1948) quê làng Đan Phượng tỉnh Hà Đông. Cô
là Phật tử có pháp danh Nguyên Thường tự Diệu Mai. Cuộc tự thiêu của cô do tình
nguyện và không được một đoàn thể nào tổ chức. Cô có để lại những bức tâm thư
song không được phổ biến rộng rãi trong nhân dân.
Ngồi ngắm nhìn biển cả nhà sư liên tưởng đến sự hy sinh của
hai nữ Phật tử. Cả hai đều là hai vị nữ bồ tát, công đức như nhau. Mỗi vị tùy
duyên mà thành sự nghiệp. Bể cả mênh mông có trăm nghìn con sóng, tùy gió to biển
động mà tạo thành, tuy nhiên sóng bao giờ cũng vẫn là sóng, tất cả vẫn thuộc về
với biển xanh.
Đêm ba mươi Tết
Chiều ba mươi Tết, sư Viên Mãn đã có mặt trên núi Sinh Trung.
Theo thông lệ tuy đã có chùa riêng để tiện viêc tu tập song các vị sư vốn xuất
thân từ chùa Kỳ Viên Sinh Trung đều hội tụ về chùa chính. Mỗi tháng đều có mặt
hai lần: ngày mồng một và ngày rằm. Cuối năm thường hiện diện trong các ngày
trước Tết để chăm lo Phật sự. Chiều ba mươi Tết sau khi chùa hành lễ
xong, các vị sư mới trở về chùa riêng. Năm nay sân chùa Kỳ Viên thiện nam
tín nữ tập trung đông hơn mọi năm. Buổi lễ diễn ra rất trật tự và trang nghiêm.
Khi mọi người ra về, sư chú Viên Mãn lên vấn an sư trụ trì và xin phép được về
lại chùa Từ Tôn Hòn Đỏ.
Cu Hùng (con anh Sáu Sài Gòn) vẫn ngồi trên chiếc thuyền
thúng đợi nhà sư. Buổi chiều ba mươi trên bến Hòn Đỏ dường như vắng lặng hơn.
Gió hiu hiu thổi bóng chiều trên sóng nước. Màu trời xanh thắm hòa cùng màu nước
biếc của trùng dương. Hòn Đảo cô đơn càng thêm xa vắng. Thuyền qua mau và trở về
đất liền cũng mau. Thời gian chiều cuối năm như vội vàng thu ngắn lại. Sư Viên
Mãn vẫn âm thầm nhẹ bước trên dốc mòn quanh co. Dáng đi thong thả trong bóng
chiều đậm nhạt, bên tiếng sóng thầm thì. Chiều cuối năm trên hải đảo Hòn Đỏ vẫn
quạnh hiu như những chiều thường nhật. Và buổi lễ cúng tất niên cũng đơn sơ và
trôi mau trong dáng chiều tan dần trên sóng biếc. Lễ tất niên để đón giao thừa đã
được chuẩn bị sẵn sàng, nhà sư ra ngồi nơi gành đá đăm chiêu nhìn về thành phố Nha Trang.
Tuy chưa đến giờ giao thừa song một đôi nơi trong thành phố
đã có đốt pháo mừng xuân. Có lẽ đó là tiếng pháo tiễn đưa năm cũ của những gia
đình làm lụng cực nhọc cho đến ngày cuối năm mới được rảnh rang đưa
tiễn ông bà.
Chiều nay biển khơi lặng sóng. Dáng núi Hòn Tre in đậm lên bầu
trời và mặt biển có màu xanh thẫm. Trong tiếng sóng vỗ chung quanh Hòn Đỏ có tiếng
reo vui, như sóng nước đang đón mừng năm mới sắp về. Mùa xuân rộng trải dáng
xuân trên mặt biển bao la. Ngồi trong nhà chúng ta chỉ thấy mùa xuân phảng phất
trên bàn thờ tổ tiên, trong khói trầm nghi ngút. Ngồi trên hải đảo Hòn Đỏ ta mới
nhìn thấy mùa xuân ôm trùm lấy quê hương trong sự dịu dàng đằm thắm. Màu xanh của
trời biển là màu xanh của mùa xuân, không riêng cho một ai, không dành cho một
ai. Mọi người đều đón nhận, mọi người đều chung vui và là của chung tràn ngập
cho tất cả mọi người. Trong hương nồng biển cả thoang thoảng mùi hương trầm tự
núi Chúa thoảng về. Nơi đỉnh Hòn Đỏ khói hương trầm từ Tháp Bà Thiên Y A Na thoảng
đến, khi có khi không. Lòng sư Viên Mãn tràn ngập niềm vui, tràn ngập hạnh phúc
của đất trời đem đến. Đêm đến trên hải đảo tự bao giờ. Màn đêm lặng lẽ bao
trùm, các ánh sao trời đua nhau bừng nở. Trời trong và biển cũng trong xanh.
Hương xuân mặn mà trong gió biển, âm thanh mùa xuân như thì thầm trong sóng biển
và lòng người như bao la cùng đại dương. Có ngồi trên Hòn Đỏ đón xuân, mới
thấu hiểu được niềm vui lớn của con người trước vũ trụ bao la, mới thấu hiểu được
sự yên lặng đón chào mùa xuân của các vị thiền sư khi nhập định: xuân có mặt khắp
nơi, trong từng khoảnh khắc thời gian, khắp vũ trụ. Xuân có trong 4 mùa, có
trong từng sát na bên cạnh chúng ta.
Năm nay tuy chưa đến giờ giao thừa mà tiếng pháo đón mừng
xuân mới đã rộn ràng, nổ rang rang. Bỗng nhiên khắp nơi đều vang lên tiếng
pháo. Xen lẫn có đôi tràng súng nổ. Xuân đã về. Xuân đã về.
Từ Hòn Đỏ, nhìn về đất liền ngoài những ánh chớp của pháo còn
có những lằn đạn đạo màu đỏ vạch chằng chịt lên bầu trời. Về hướng đồi Sinh
Trung thì hướng đạn đi từ trên xuống.Từ đồi Trại Thủy hướng đạn lại từ dưới lên
trên và cũng có hướng từ trên xuống dưới. Chen trong tiếng pháo lại có tiếng
súng nổ rõ mồn một. Người dân Nha Trang ngỡ rằng năm nay nhân dân đón mừng năm
mới cùng với quân đội trú đóng nơi phố phường. Mùi thơm của hương pháo lẫn với
mùi khét của khói đạn.
Người xuất hành du xuân đã xuất hiện trên các ngã đường đi về
hướng Tháp Bà hoặc chùa Long Sơn hay mọi ngã đường ra biển Nha Trang. Từng đoàn
xe gắn máy chạy nối đuôi theo nhau khắp ngã đường. Phần nhiều phía sau xe có
kéo theo những chiếc lon sữa bò, những chiếc lon coca cola hoặc những lon bia
trống lòng. Tại các khu quân sự có nhiều bóng người lặng lẽ như đang đứng chờ
xuân đến, trong bóng đêm, trong tiếng pháo rộn ràng.
Đúng 23 giờ 30 đêm giao thừa 29 Tết tại sân bay Nha Trang có
tiếng súng dòn dã và kho đạn tại sân bay bốc cháy. Bầu trời phía Tây Nha Trang
nơi vùng khu sân bay rực sáng do pháo sáng của đèn dù từ máy bay C47. Lệnh báo
động được được ban hành song rất ít người chú ý và cuộc đốt pháo đón xuân vẫn
náo nức tiếp diễn. Xe cộ chở người đi hái lộc trên đường phố vẫn rộn ràng. Phối
hợp với tình hình này, quân giải phóng tiến công vào các đồn bót đóng tại Nha
Trang theo ba cánh quân:
Cánh quân A là cánh quân chủ yếu có nhiệm vụ đánh vào 3 mục
tiêu quan trọng: Tỉnh đường,Tiểu khu và Bộ Chỉ huy Tiếp vận 5. Sau hơn 10 phút
các mục tiêu bị chiếm lĩnh.
Cánh B tiến chiếm đài phát thanh song vì lạc đường nên mãi đến
2 giờ sáng mới chiếm được căn cứ trên đồi Trại Thủy và tấn công chiếm đài phát
thanh, song không thành.
Cánh C có nhiệm vụ tiến chiếm tiểu đoàn 65 truyền tin, tiểu
đoàn vận tải và đại đội công binh cầu nổi. Trận chiến xảy ra ác liệt. Một trung
đội công binh có nhiệm vụ phá cầu Xóm Bóng bị phát hiện và có sự chống cự kịch liệt nên cầu không thể phá được. Tình hình chiến sự mãi đến sáng mồng hai
mới tạm thời lắng dịu.
Hằng năm, chùa Từ Tôn nơi Hòn Đỏ sáng mồng một, các bổn môn đệ
tử cùng khách du lịch hành hương đã tấp nập qua đò lên núi, thăm chùa. Đây là một
cuộc hành hương trong dịp đầu xuân giữa trời mây biển cả. Du khách đi từng toán
nhỏ, dạo quanh chùa, ngắm biển cả và nhất là để thắp nhang đầu xuân. Ngôi chùa
nhỏ nhắn nhưng tĩnh lặng trong hương khói uy nghiêm. Tiếng du khách nói thì thầm
với nhau như hòa cùng tiếng sóng vỗ nhẹ dưới chân đảo.
Năm nay (năm Mậu Thân) mãi đến ngày mồng năm mới có một vài đạo
hữu qua đò lên đồi thắp hương. Trên thực tế đêm mồng một chùa đã có ba vị khách
đặc biệt đến xông đất nhà chùa. Đó là ba chiến sĩ quân giải phóng thuộc trung đội
công binh có nhiệm vụ phá cầu Xóm Bóng để chặn quân từ trường Hạ sĩ quan Đồng Đế
sang tiếp viện cho thành phố Nha Trang. Lực lượng giải phóng từ Núi Sạn tiến
qua Ngọc Thảo, khi gần tiếp cận với cầu thì bị phát giác. Sau khi giao
tranh và nhận thấy hỏa lực địch quá mạnh nên trung đội công binh buộc lòng phải
rút lui về núi Sạn. Trong cuộc chiến có ba chiến sĩ bị lạc đồng đội và nương tạm vào nơi Xóm Bóng. Nhân thấy có một chiếc thuyền thúng cột neo dưới
nhà sàn nơi mé sông, ba chiến sĩ đặc công liền dùng làm phương tiện nhẹ nhàng
chèo qua Hòn Đỏ. Giấu thuyền nơi một hốc đá khuất lấp, ba chiến sĩ leo được lên
đến chùa Từ Tôn. Sư Viên Mãn đã tiếp đón ba chiến sĩ rất ân cần và tiếp tế thức
ăn (chỉ có mì chay lá vị trai). Tối hôm sau ba chiến sĩ xuống thuyền thúng rời
hải đảo Hòn Đỏ trở về đơn vị.
Sau này khi kể lại câu chuyện, nhà sư đã tâm sự:
Ban đầu khi gặp ba vị quân giải phóng, tôi rất ngạc nhiên. Ngạc
nhiên vị nơi hải đảo hẻo lánh và xa xôi này rất có ít khách tham quan thì làm
sao các anh bộ đội ở tận nơi chiến khu xa thẳm biết được nơi này có chùa, có
người trú ngụ mà ghé đến nương nhờ khi hoạn nạn. Sau khi trò chuyện, sư mới biết
đây chỉ là một sự tình cờ. Ban đầu các anh chỉ định tạm trú trong hang đá để tối
hôm sau lẻn về đất liền đi tìm đồng đội. Nhưng mờ sáng hôm đó nghe được
tiếng chuông tiếng mõ và tiếng tụng kinh vẳng từ trên chùa xuống nên ba chiến
sĩ quyết định lên xin chùa giúp đỡ vị đói và khát.
Gặp sư Viên Mãn các anh không giấu giếm thân phận mình và đã
được nhà chùa giúp đỡ. Được biết rằng chùa này chỉ có một mình sư Viên Mãn trụ
trì và với tình hình hiện tại thì sẽ không có ai ra đảo cho nên ba chiến sĩ giải
phóng yên tâm nằm đợi đến tối vào bờ trở về đơn vị.
Gần 40 năm trôi qua, sư Viên Mãn không gặp lại ba chiến sĩ
năm xưa nhưng kỷ niệm cuộc gặp gỡ ba người vẫn còn in đậm như sóng nước quanh hải
đảo Hòn Đỏ.
Nương chân trên Đảo
Con trăng thượng tuần nghiêng nghiêng về phía Tây. Màu trời
trong xanh như thẫm lại. Cuối phương trời một ánh sao rực rỡ. Biển đông trầm lặng
giữa đêm khuya. Dưới chân Hòn Đỏ tiếng sóng vỗ vào vách đá nhịp nhàng êm ả. Cảnh
vật trên đảo hoàn toàn yên lặng. Vừa xong buổi kinh khuya, sư Viên Mãn lặng lẽ
ra đứng dưới tàn xoài nhìn mảnh trăng khuya nương mình sau lưng pho tượng kim
thân Phật tổ trên ngọn đồi Trại Thủy. Ánh trăng mờ nhạt bao phủ khắp trời. Biển
khơi yên lặng triền miên dưới ánh trăng mờ nhạt. Bỗng nhiên trong không gian
yên lặng nổi lên một loạt súng và tiếng la ơi ới từ hướng đất liền. Tiếp theo
là tiếng máy thuyền nổ lớn và từ Hòn Chồng có bóng hai chiếc thuyền máy lướt
sóng chạy ra khơi. Chiếc trước chiếc sau như đang đuổi bắt nhau. Thoáng một lát
sau, tiếng động cơ như chìm hẳn vào lòng biển cả. Không gian lại trở nên yên lặng,
nhà sư chậm rãi về căn lều nằm kề bên hiên chùa.
Tờ mờ sáng hôm sau, đang nằm yên lặng trong cơn gió ban mai
hiu hiu mát, sư định trở dậy để tụng kinh sáng thì bỗng nghe như có tiếng động
sau hiên chùa. Trong không gian tĩnh lặng tiếng động tuy nhẹ nhàng song không
thể nào lẫn lộn với hơi gió sáng. Trăng đã khuất từ lâu và tuy đã gần mờ sáng
song màn đêm vẫn còn bao phủ lấy không gian hải đảo. Thắp vội ngọn đèn dầu leo
lét, sư trụ trì lần bước ra sân. Trên sân chùa có một thây người đang nằm sóng
sượt. Áo quần ướt đẫm, đầu tóc rối bời. Vội vàng bưng đèn đến soi tận mặt nhà
sư biết được là một người con gái còn đang thoi thóp. Dìu nạn nhân vào chùa và
lo phần cứu chữa. May mắn thay nạn nhân chỉ ngất đi vị quá mệt.
Sáng hôm sau khi tỉnh dậy nạn nhân cho biết mình là một kẻ
theo gia đình vượt biên, bị phát hiện và lên thuyền chạy trốn. Khi đến vùng biển
khu vực Hòn Đỏ thấy ghe không thể nào chạy thoát, đương sự đã khẽ lén chuồi
mình xuống biển và bơi vào bờ. Vào đến bờ, nương theo đợt sóng, bám được vào
đá, đương sự chui mình vào ẩn giữa một khe đá. Tuy đã mệt mỏi song vị lý do
sinh tồn nên đương sự đã cố gắng bò dần lên đến sân chùa và đã ngất đi.
- Thưa thầy, con tên là Liên. Gia đình con sống tại thành phố
Hồ Chí Minh, gốc của gia đình tại tỉnh Long An. Cha con đi lính cho chính quyền
miền Nam. Mẹ con là giáo viên dạy cấp một được nhà nước lưu dung song phải đi
phục vụ tại vùng kinh tế mới Minh Xuân. Gia dình con gồm 4 người, con là con
gái lớn duy nhất. Để giúp đỡ gia đình con tự thôi học năm lớp bảy, ở nhà theo
bà con lối xóm đi buôn. Con từ Long An ra Nha Trang mua lưỡi câu, nhợ câu. Mỗi
tuần đi một chuyến. Tiền lời kiếm được cũng đủ nuôi sống gia đình. Đi buôn được
vài chuyến thì con quen biết với gia đình ông chủ tiệm buôn, ông hứa giúp con
vượt biên cùng với gia đình. Thấy gia đình chủ hiệu thật lòng thương mến, nên
con đã về thưa với mẹ và tuy không muốn cho con ra đi tìm sinh kế nơi đất
khách quê người song tình cảnh gia đình hiện tại đang lâm vào cơn nguy biến
không có lối thoát nên mẹ con chấp thuận cho sự ra đi này. Gia đình ân nhân của
con chỉ còn có hai vợ chồng. Các người con đều đã ra nước ngoài bằng đường biển
hoặc bằng đường bộ qua ngõ Campuchia. Con ra Nha Trang ở được một ngày một đêm.
Đêm hôm qua con theo một đoàn người ra nhà một khách hàng ở cạnh Hòn Chồng.
Chiều đó chúng con lên thăm Tháp Bà và ăn cơm chiều nơi một quán ăn nhỏ trong
khu gần đường cái quan rẽ vào Hòn Chồng. Chúng con lặng lẽ đi từng người một ra
đến mé biển Hòn Chồng. Chúng con ngồi trong những hốc đá, trong các lùm cây,
yên lặng, hồi hộp. Gần khuya thì có tiếng ghe máy ghé vào bờ. Khi rời khỏi nơi ẩn
nấp con mới trông thấy còn có một số người đồng loạt xuất hiện. Chúng con lên
hai chiếc ghe máy. Mỗi ghe chứa hơn 10 người. Khi ghe nổ máy chạy ra khơi thì
trong bờ có tiếng người hò la kêu réo gọi ghe quay trở lại. Đồng thời có nhiều
lọat súng bắn lên trời. Sau đó có tiếng động cơ của ghe máy nổ giòn giã xông thẳng
về hướng ghe của chúng con. Chiếc ghe của bọn con chạy trước nhưng khi vượt qua
mõm Hòn Chồng thì động cơ bị trục trặc. Chiếc ghe thứ hai vượt qua mặt và cứ thẳng
tiến về hướng biển khơi. Chiếc ghe của con lại nổ được máy song chạy được vài
mươi mét thì máy lại đứng. Phía sau, ghe biên phòng đuổi gần kịp. Bỗng nhiên
toàn thể mọi người trên thuyền đều đồng loạt thốt lên tiếng khóc. Trong không
gian tĩnh lặng của biển cả về khuya, tiếng khóc vang lên đầy não nùng và đau khổ.
Kính thưa thầy, khi con nghe tràng tiếng khóc bi ai này thì lòng con chợt nhớ đến
cha mẹ và các em con. Con cảm thấy trong tiếng khóc bi thương có tiếng khóc của
gia đình con. Lòng thương yêu cha mẹ và gia đình lên đến tột cùng. Rồi bỗng
nhiên con lao mình vào lòng nước. Mọi người trên thuyền đang sống trong tâm trạng
lo sợ nên chắc đã tưởng rằng con bị ngã xuống biển trong cơn hoảng lọan. Thật
tình con đã vì nghĩ đến gia đình nên đành tìm cách thoát thân bằng cách liều
mình với biển cả, mong thoát được cảnh bị bắt khi vượt biên. Nhà con vốn ở gần
bên bờ sông rạch nên từ nhỏ con đã quen với việc bơi lội. Tuy chưa từng bơi ở
biển song con vẫn tin tưởng rằng nếu xuống được dưới nước thì con sẽ sống sót.
Cho nên khi con lặng lẽ tuột xuống mạn thuyền mà không một ai để ý đến và khi đến
mặt nước thì con âm thầm lặn ra xa chiếc thuyền đang bập bềnh trong tiếng khóc
tuyệt vọng của hơn 10 con người chỉ toàn là đàn bà con nít.
May mắn cho con là màn đêm còn giăng kín mặt biển và nhất là
bóng núi của Hòn Đỏ vẫn in hằn lên bầu trời thưa thớt ánh sao khuya. Tiếng khóc
la bỗng nhiên im bặt khi tiếng máy của động cơ thuyền biên phòng đến sát mạn
thuyền vượt biên. Và thuyền được kéo vào bờ. Con lặng lẽ bơi đứng một chỗ chờ
cho thuyền chạy đi xa mới nhắm hướng Hòn Đỏ bơi vào. Lúc này còn một mình trong
vùng đen của biển con mới thấy hoảng sợ và cô đơn. Tuy nhiên nhờ nơi lòng
thương mẹ cha và gia đình nên con cố gắng lội cho đến khi chạm vào mảng đá đầu
tiên trên Hòn Đỏ. Tuy mình đầy các vết xước vị hàu, vị đá nhọn song con vẫn tin
rằng con đã được Trời Phật hộ trì nên bơi được đến đảo. Nhờ ở ý chí muốn sống
mà con đã có đủ sức mạnh để nương theo những con sóng, trườn nhẹ lên bờ đá. Nhờ
vào những khe đá đầy hàu nhọn mà con bám được để nhoi mình lên khỏi mặt nước. Lần
mò con đã đến được hòn đá lớn đứng sừng sững bên mé nước. Dưới chân đá có bãi
cát, con biết rằng mình đã thoát chết và đã đến được chân đảo. Yên tâm là mình
được thoát nạn con nằm ngửa mặt nhìn bầu trời cao rộng. Rồi con thiếp đi lúc
nào không hay.
Khi con thức giấc thì biển nơi phương đông đã hừng sáng. Một
vài ngôi sao sáng rực trên vòm trời. Biết trời đã rạng đông và mình đã được sống
sót song cần phải cố gắng tìm cách lánh thân. Con vội vàng nhổm dậy và nương
ánh sao trời tìm hướng lên trên đồi. Trước đây con đã từng ra thăm Hòn Chồng và
mắt con đã nhìn thấy Hòn Đỏ chập chờn trên sóng nước và trên đỉnh đảo có một
ngôi chùa. Con hy vọng là nếu lên được đến chùa thì cuộc đời con sẽ thoát khỏi
sự bắt bớ vì vượt biên và sẽ an toàn trở về quê cũ. Hơn một giờ lần mò đi trong
ánh sao lờ mờ con đến được sân chùa. Con vừa quỳ xuống để tạ ơn đức Quán Thế Âm
Bồ tát thì bỗng nhiên con thấy trời đất chao đảo và con ngã xuống ngất
đi.
Sau một tuần tịnh dưỡng Liên đã rời chùa trở về Long
An.
Về thăm chốn cũ
Buổi trưa hôm đó nằm dưới bóng cây xoài bên hiên chùa, nhà sư
Viên Mãn đang trầm lặng nhìn bóng lá xoài lao xao trước gió. Bỗng nhiên nơi
hiên chùa một bóng người hiện ra đứng yên lặng trên đầu chiếc ghế nằm của nhà
sư.
- Bạch thầy, có lẽ thầy không còn nhớ con, nhưng con vẫn nhớ
đến thầy suốt gần bốn mươi năm qua. Con xin tự giới thiệu, con là một
trong ba người lính miền Bắc đã được thầy cứu giúp trong những ngày tổng
công kích Tết Mậu Thân. Anh em chúng con sống với sự che chở của thầy trong hai
ngày đêm và mãi đến hôm nay con mới có dịp trở lại nơi hòn đảo này để cảm ơn thầy.
Nhà sư vui mừng ngồi nhổm dậy, cầm lấy tay người khách phương
xa.
Qua câu chuyện hàn huyên nhà sư đã biết được rằng xưa kia có
ba người nay chỉ còn có một. Trên con đường chinh chiến họ không được ở gần
nhau và hai người kia đã anh dũng hi sinh nơi tiền tuyến.
- Bạch thầy, khi tổ quốc thống nhất con được phục viên và mãi
chăm lo sinh kế nên con không có dịp vào Nam thăm lại những người cũ, nhất là
những ân nhân đã giúp đỡ con trong những phút giây nguy biến. Hai người bạn năm
xưa nay không còn nữa. Con vì mãi lo sinh kế cho gia đình nên mặc dù rất
nhớ miền Nam song khó có dịp vào thăm. Nay con đã đầy đủ về mặt tài chánh nên
con nhất định vào Nha Trang thăm lại cảnh cũ cách đây gần bốn mươi năm.
Nhà sư yên lặng lắng nghe những nỗi niềm của chàng trai năm
xưa. Sự gặp gỡ đột nhiên này đã gây không ít cảm động trong lòng vị sư già. Kỷ
niệm gần bốn mươi năm xưa, mặc dù thời gian đã xóa đi nhiều chi tiết song khi
người xưa trở về đột ngột thì hình ảnh xưa lại vụt trở về một cách bất ngờ.
Tình cảm này giống như tình cảm ruột thịt của những người thân thương lâu ngày
xa nhau. Tuy gặp gỡ một thời gian ngắn song tình cảm thiêng liêng vì từ bi, vì
nghĩa vụ cho nên tình cảm này đã trở thành tình cảm thân thương vô cùng sâu sắc.
Người khách phương xa đã kể lại những tháng ngày chiến đấu trên khắp các chiến
trường, những chiến công, những mất mát trong cuộc đời quân ngũ. Và nhất là sự
thành công khi tìm đúng hướng đi trong việc mưu sinh.
- Được giải ngũ về lập gia đình và cả nhà đã vui lòng đi lập
nghiệp trên vùng núi rừng Tây Bắc. Ban đầu có những thất bại vị không có kinh
nghiệm và nhất là không có cơ sở kinh tế và tài chánh nên gia đình nhiều năm đã
lâm vào cơ cực. Mãi đến sau này gia đình mới thành công trong việc khai khẩn đất
hoang, trồng cây ăn quả, nuôi cá và chăn nuôi súc vật. Con cái bây giờ đã vào đại
học. Thu hoạch đã tạm ổn định. Cho nên con đã quyết định gởi nhà cho vợ và vào
Nam một chuyến dài ngày.
Từ đất liền, người phương xa đứng ngắm hình bóng hòn đảo tuy
đến có một lần song vô cùng thân thương. Những hình ảnh ngày xưa tị nạn bỗng chốc
hiện về khiến lòng nao nao như sóng vỗ quanh đảo. Ân tình tuy không lớn lao,
song niềm thương mến đã khắc sâu vào tâm khảm. Tình nghĩa quân với dân, đồng
bào với bộ đội trong những tháng ngày chiến đấu, nhất là những ngày biến động Tết
Mậu Thân. Một gói mì chay, một bát cháo trắng và nhất là một tấm lòng an lành
trìu mến của nhà sư. Không nói nhiều, chỉ chăm sóc trong thầm lặng, trong
khả năng của một nhà tu hành nơi hẻo lánh đơn sơ. Lặng lẽ như một chiếc bóng,
nhà sư vừa làm Phật sự vừa lo lắng cho sức khỏe từng người. Gần bốn mươi năm
qua mà như mới ngày nào khi người khách viễn phương gặp mặt lại nhà sư. Vẫn khổ
người nhỏ nhoi ốm yếu, tuy thời gian đã để lại nhiều nếp nhăn trên gương mặt, sự
chậm chạp trong dáng đi. Nhưng trí nhớ của nhà sư lại bền vững với thời gian. Vừa
gặp nhau nhà sư đã nhận ra và đã kể lại những gì đã xảy ra đêm hôm
đó. Nghẹn ngào vị cảm xúc, người khách phương xa cầm lấy tay sư cụ không thốt
được nên lời. Bỗng nhiên như không cầm lòng được, vị khách viễn phương ôm chầm
lấy sư cụ, miệng thốt nên lời: “Con không bao giờ quên được sư cụ. Rất nhớ
đến công ơn của sư cụ”. Rồi nghẹn ngào không nói được gì thêm.
Niềm thân thương khi gặp lại người ân nhân cũ vẫn trong khung
cảnh xưa, vẫn là con người xưa không có chút gì thay đổi. Ngọn đảo này vẫn sóng
và nắng bao quanh. Bóng mát chòm cây, ngôi chùa nhỏ nhoi vẫn không có gì thay đổi.
Lòng người khách viễn phương nao nao như được trở lại mái nhà xưa. Vị sư
già và khách cùng nhau đi chung quanh đảo như hai người bạn cố tri. Trong lòng
người khách có chút gì xao xuyến khi nhìn thấy những con sóng vỗ chập chờn lên
dãy đá có màu đỏ đặc biệt bao quanh hải đảo. Gần bốn mươi năm rồi mà những con
sóng này vẫn không có gì thay đổi, những dãy đá nằm phơi mình dưới nắng vẫn trơ
gan cùng tuế nguyệt, sư cụ có già đi song tấm chân tình vẫn còn làm con tim người
khách viễn phương tràn đầy trìu mến.
Trưa hôm đó hai người cùng nhau ngồi ăn dưới bóng cây xoài
bên hiên chùa. Thức ăn vô cùng đạm bạc: một dĩa đậu khuôn, một chút nước tương
và một lưng cơm trắng. Cả hai ăn trong niềm vui tương ngộ, trong niềm vui bất
ngờ có được của một kỷ niệm đã qua, tình cờ đến và cũng tình cờ thoảng qua như
bóng mây trôi trên hải đảo. Khi ba người lính giải phóng đến cũng như đi, không
hò, không hẹn và lòng của sư cụ không còn vướng bận sự có không. Hôm nay chỉ
còn có một người trở lại, hạnh phúc đoàn viên không được vẹn toàn song có vẫn
hơn không, tấm lòng cố tri vẫn tràn đầy như biển cả.
Không ở chơi lâu được với sư cụ, người khách viễn phương từ
giã lên đường. Đảo Hòn Đỏ vẫn cô đơn trên sóng biếc.
Trở lại thăm chốn ân tình
Một buổi ban mai nắng hồng vừa nhuộm thắm hòn Đỏ Từ Tôn thì
sư cụ được một thiếu phụ đến thăm .Trông hình dáng bên ngoài thì có vẻ một du
khách nước ngoài. Màu da trắng đỏ, đi đứng gọn gàng và nhất là cách ăn nói nhiều
văn phong lễ độ. Vừa trông thấy sư ông người thiếu phụ vội sụp xuống lạy. Cảnh
tượng lạy thầy thường xảy ra song hôm nay lòng sư ông bỗng nhiên có một cảm nhận
khác lạ. Người thiếu phụ lạ này gợi trong lòng sư ông một hình dáng quen thuộc.
Lạy xong người thiếu phụ bật lên tiếng khóc nức nở và rồi ôm chầm lấy sư ông. Sự
cảm nhận bỗng chợt đến. Nhà sư thốt lên:
- Có phải con là Liên đó không?
Ngưng ngay tiếng khóc, người thiếu phụ tên Liên sung sướng:
- Thưa ôn, chính con là Liên đây. Con là đứa con gái mà ôn đã
cứu vớt và cưu mang khi con từ cõi chết trở về.
Hai ôn cháu cùng ngồi dưới hiên chùa chuyện trò
thân mật. Thì ra sau khi từ biệt chùa Từ Tôn, Liên về lại quê nhà ở Long An và
sống lại cuộc đời lao động. Hai năm sau Liên tình cờ gặp lại gia đình người chủ
cũ đã mãn hạn tù vị tổ chức vượt biên. Họ lại tìm cách ra đi và lại đem theo
Liên. Cả ba đều được định cư tại Hoa kỳ. Rồi Liên có gia đình và có công việc
làm ăn cố định. Lòng bao giờ cũng muốn về thăm quê hương song cảnh nhà của Liên
ở Long An, cha mẹ không còn nữa và bà con cũng đã phân tán đi nơi xa. Bạn bè
thân quyến không có tin tức gì. Đó là nguyên nhân làm cho Liên tuy đã
trên 30 năm xa đất nước mà không có dịp trở về. Năm nay nhân có người con vừa tốt
nghiệp đại học và để chuẩn bị trước khi đi làm nên người con bèn đưa mẹ về
thăm lại quê hương. Quê hương Long An không còn ai là thân thuộc cho nên mẹ con
cốt ý ra Nha Trang để thăm lại vị sư và ngôi chùa trên hải đảo nơi mà mình được
cứu sống và cưu mang trong những ngày lâm nạn.
Cảnh trí trên hải đảo xanh tươi hơn lúc trước song mái chùa
xưa vẫn như ngày nào. Liên đã hứa cùng sư ông khi nào chùa đại trùng tu thì
Liên sẽ về đóng góp một ít nhiều công của. Rồi Liên từ giã sư ông trở về đất liền.
Người thứ ba trở lại
Mùa Vu Lan năm Phât lịch 2550 đảo Hòn Đỏ (Từ Tôn) người người
đến viếng thăm đông đảo. Một phần đi lễ chùa, một phần đi viếng cảnh.
Nhà sư Viên Mãn tuổi tuy đã già song vẫn còn ngồi tiếp chuyện
với các đệ tử viếng thăm. Trong số quan khách có một người ngồi đăm chiêu nhìn
ra trùng dương bát ngát xanh thẳm. Sư Viên Mãn chợt nhận ra và sau khi tiễn đưa
khách, nhà sư đã đi đến ngồi bên cạnh vị khách.
- Bây giờ tôi mới nhận ra ông là ông Phương. Ông đến
chùa đã hơn hai mươi năm rồi. Ngày đó còn thưa khách nên được nói chuyện với
ông, có rất nhiều thích thú.
Sư cụ cùng với Phương ra ngồi nơi ghế đá dưới cội bồ đề
phía đông Hòn Đỏ. Sau đây là câu chuyện của hai người tri kỷ về Hòn Đỏ và chùa
Từ Tôn (thật ra là chỉ có ý kiến riêng của vị khách mà thôi)
- Thưa sư cụ, hai mươi năm trước con lần đầu
tiên bước chân lên Hòn Đỏ, lòng con rất an nhiên và hạnh phúc vị con đã cảm nhận
được nơi này là một cảnh đẹp tự nhiên nhờ có công thầy mà nên dáng một thắng cảnh
của quê hương Khánh Hòa. Bên cạnh đó ngôi chùa Từ Tôn đơn sơ nhưng đầm ấm. Giữa
cảnh hoang vu và khô héo này có được một ngôi chùa, một vị sư lấy sức lao động
bản thân để xây dựng. Là một kỳ tích, là một minh chứng cho cõi đời đầy phức tạp
này có một công trình khiêm nhường nhưng rất đáng kính phục.
Hôm nay con trở lại nơi này, cảnh vật đã khác xưa nhưng con
có một vài ý nghĩ cá biệt. Bạch sư cụ, cảm nghĩ đầu tiên của con là cảnh chùa
hôm nay đẹp đẽ và tươi nhuận hơn mấy năm trước. Ở khắp nơi trên Hòn Đỏ đều có
hình tượng bóng dáng của các chư vị Phật. Hòn Đỏ hôm nay có đầy đủ uy thế của một
danh lam. Tuy nhiên con không khỏi nao lòng khi nhìn cảnh tượng khắp đó đây đều
lưu quá nhiều bút tích, tượng Phật trên bãi đá, vách đá, hốc đá. Đã biết rằng
nơi nào cũng là đất Phật, hiện thân của đấng từ bi hằng luôn có trong mọi nơi,
mọi chốn. Song lòng con không thể nào ngăn được ý nghĩ là chúng ta đã thế
tục hóa Hòn Đỏ. Trước đây con có một ý nghĩ rằng Hòn Đỏ là một thắng cảnh để du
khách đến chiêm ngưỡng cảnh trời mây biển nước và lắng lòng đón nhận hương vị
thiền khi từ thế giới thiên nhiên bước chân vào chốn thiền viện. Con vẫn hằng
ao ước rằng chùa Từ Tôn luôn luôn là một thiền viện, một ngôi chùa khiêm nhượng
chào đón du khách sau khi đã ngắm no đủ cảnh sắc thiên nhiên, để bước vào tĩnh
lặng của tâm hồn.
Con đã hằng ao ước chung quanh đảo, chung quanh
chùa có những hàng cây được trồng quy mô có ích cho chùa và cho cảnh quan, những
bãi đá để môn đồ ngồi tĩnh lặng tham thiền, để du khách có đôi phút giây ngồi
trút bỏ những bận rộn của thế gian trước trời mây biển cả.
Con vô cùng buồn bã khi con nhìn thấy nơi bãi đá trước kim
thân Quán Thế Âm Bồ Tát, nơi chòm cây, ghế đá, nơi có thể coi như là đẹp nhất của
đảo, đã có từng nhóm người ngồi ôm nhau, mùi cá thịt nướng xông bay nồng nặc lẫn
với những tiếng cười đùa phàm tục nghe đến buồn nôn. Con biết đây là một nỗi buồn
của nhà chùa, một bất lực không thể nào giải quyết, một thảm trạng của sự sa
sút tâm linh của một số thanh niên hiện đại.
Theo con, ngày trước con đã đi trong tĩnh lặng để nhìn
ngắm cảnh trí trên đảo, lòng đã gặp thiên nhiên, hồn đã gặp được nét u trầm của
chùa. Bóng chùa đã để lại trong hồn con một cảnh tượng xa xưa đã từng có trên
chùa Linh Phong (còn gọi là chùa ông Núi ở Phù Cát, Bình Định). Trong danh thắng
có danh lam. Trong bóng mát của rừng có bóng ẩn hiện của mái chùa. Còn bây giờ
thì dường như Hòn Đỏ đã bị thế tục hóa đi ít nhiều.
Vẫn nhìn ra ngoài biển cả mênh mông, sư Viên Mãn
chậm rãi nói trong suy tư:
- Tất cả đều là giả tạm. Cảnh con đang thấy trước mắt cũng là
giả tạm. Nay đang có thì ngày mai có thể không còn nữa. Tất cả những điều con
trông thấy là sự thật. Nhưng sự thật trong một giai đoạn nhất thời. Con nên biết:
tất cả đều là vô thường. Những tượng Phật trên bãi đá, trong hốc đá, dưới bóng
cây, trước đây bốn mươi năm không hề có. Rồi một mai cũng sẽ mất đi và chỉ còn
biển và đá, trời và mây. Tất cả đều là giả tạm. Cái còn lại, chỉ còn trong tâm
của con mà thôi. Để tâm hồn được yên tịnh, con nên suy ngẫm và chiêm nghiệm hai
câu thơ này:
Nước mây hằng tự tại
Vàng đá chẳng vô tri
Hãy tìm hiểu cho thật thâm sâu, con sẽ nhận thức được những ảo
diệu của câu thơ. Và thông suốt tư duy về cõi đời này.
Thay lời kết
Nơi vườn chùa, ngoài hoa cỏ tốt tươi còn có một cây cảnh bằng
lăng được trồng trong một chiếc thuyền thúng. Chiếc thuyền nầy đã từng đưa nhà
sư Viên Mãn qua lại từ đất liền đến Hòn Đỏ, nhất là trong công việc chuyển tải
nước, đất trồng trọt trong những tháng ngày mới khai phá và xây dựng hoang đảo.
Kỷ niệm ghi dấu ban đầu còn có cây bằng lăng mọc côi đơn trên đảo. Sau này chiếc
thuyền thúng theo thời gian mà tàn tạ, nhà sư Viên Mãn mới dùng làm chậu hoa trồng
cây bằng lăng để làm vật lưu niệm những tháng ngày đội nắng trên Hòn Đỏ.
Nhà giáo Phong Hương đã có đôi dòng xúc cảm:
Cây cảnh bằng lăng
Cây bằng lăng xưa
Khẳng khiu
Trong chiếc thuyền thúng
Nằm đơn độc
Bên cạnh vườn hoa
Chưa xóa nhòa
Cảnh nắng trưa
Nhà sư trần lưng gánh nước
Bước từng bước
Từ chân dốc lên đồi
Ôi! những giọt mồ hôi
Chảy dài trên lưng Bồ tát.
Nắng chói chang
Lòng vẫn luôn rào rạt
Ước mong xanh mát bóng chùa…
Từ Tôn, Hòn Đỏ hương đưa
Cây bằng lăng vẫn dáng xưa một lòng.
Trần Phong Hương
Nha Trang ngày 9 tháng 9 năm 2006
Quách Giao
Phụ bản
Hòn Đỏ
Từ đỉnh Sinh Trung phóng mắt nhìn về Đông Bắc, dưới chân dãy
núi Cù Lao, nằm cách chân núi vào khoảng 500 m có hòn đảo nhỏ chập chờn trên
sóng nước. Đảo vắng người vãng lai vì chung quanh chân đảo đá dựng chập chùng.
Màu sắc của đá, dáng hình của đá có hình thái khác mọi nơi. Đá trên đảo và ven
chân đảo phần nhiều đều có sắc đỏ. Nhiều nơi có từng mảng lớn màu đỏ như son
tàu. Có lẽ do trong đá có nhiều chất sắt bị ôxy hóa lâu ngày mà thành. Những
ngư dân từ biển cả bao la khi quay thuyền về bến cá Cù Lao trong ánh nắng bình
minh đã nhìn thấy hòn hải đảo nhỏ xinh này đỏ rực đón ánh chiêu dương. Lấy sắc
đá, nhìn cảnh đẹp lúc bình minh trên hải đảo, người dân chài đã gọi tên hải đảo
này là Hòn Đỏ. Được mang tên đơn giản như các đảo đàn anh Hòn Mun, Hòn Rùa, Hòn
Chồng, Hòn Én v.v... Người dân địa phương đã đặt tên các hòn đảo theo hình dáng,
theo sản vật có trên đảo. Một đôi khi lại có tên rất văn học, như đảo
Trí Nguyên, đảo Bích Đầm v.v...
Hòn Đỏ cũng được những người dân sống trên bờ gần đảo nhìn thấy
hoàng hôn xuống, phía trời Tây hừng đỏ ráng chiều chiếu trên những tảng đá lớn
đứng nơi bến đò làm cho đảo càng thêm đỏ thắm. Khi phương trời Tây sắc hồng đã
phai và sắc tím hoàng hôn ngự trị trên bầu trời thì màu đỏ của đá lại càng thêm
đậm đặc. Sắc đá không phai theo sắc trời, sắc biển mà dường như chứa đọng lại sắc
ráng chiều và như ráng chiều đã xuống nằm ngủ nơi vách đá. Nhân dân địa phương
đã nhìn cảnh mà đặt tên cho hải đảo: Hòn Đỏ. Khách văn chương lại đặt tên cho đảo
là Hòn Ráng Chiều. Khách phương xa đến viếng đảo đã gởi lại những vần thơ
kỷ niệm:
Một áng Đường thi:
Hòn Đỏ Từ Tôn
Hòn Đỏ nằm bên cạnh Đá Chồng
Một bên liền đất một bên không
Thắm tươi sắc đỏ nên danh hiệu
Nhuần đượm màu xanh kết dải đồng
Phương Bắc gió về xua nắng bức
Gành Đông hương thoảng đón trăng lồng
Trông vời mây nước đâu xa cách
Mà chỉ gần nhau một tấc lòng.
Vương Kiều Thu
Hai vần Ngũ ngôn của Lê Triều Phương:
Triền miên, triền miên sóng
Nền đá nhẵn hồng tươi
Hòn Đỏ tên người gọi
Lòng son tự muôn đời
Nghênh ngang gió lồng lộng
Rung cây cành ngả nghiêng
Vòm xanh nằm ẩn bóng
Mái Từ Tôn tịnh yên
Thời tiền chiến nhà thơ Đường Quách Tấn cùng các bạn Chế Lan
Viên, Yến Lan v.v... thường đi ghe nhỏ ra viếng Hòn Chồng. Sau khi ghé
thăm Hòn Chữ nằm giữa sông Cù cận Tháp Bà, thuyền lại vượt qua cửa biển Đại Cù
Huân. Đường đi trên sông nước, tuy rất ít người đi song cũng được nhà thơ giới
thiệu với khách du lịch:
Hỡi ai viếng cảnh Nha Trang
Muốn tìm dấu cũ thì sang Tháp Bà
Muốn trông trời bể bao la
Con thuyền nho nhỏ bơi ra Hòn Chồng…
(Xứ Trầm Hương)
Vượt qua cửa sông (cửa Đại Cù Huân) thì du khách thấy ngay
Hòn Đỏ trước khi đến Hòn Chồng. Bơi thuyền một vòng quanh Hòn Đỏ cảnh trí của
Hòn Đỏ từ dưới biển trông lên vô cùng ngoạn mục. Tuy cảnh đẹp, tình muốn lên
song vách đá dưới chân đảo lập nên dãy “vạn lý trường thành” nên khách du quan
đành rẽ nước thẳng đến Hòn Chồng. Phần đông khách du lịch đều đến Hòn Chồng bằng
đường bộ nên ít người được biết mặt Hòn Đỏ vị khi ấy chưa có con đường thuận tiện
đi ngang qua bờ bên kia đảo.
Hòn Đỏ nằm song song với Hòn Chồng cách xa không đầy một cây
số. Hòn Chồng thì thuận tiện đường đi, nằm nối với đất liền nên được khách du
quan thường xuyên lui tới, và trở nên nổi danh là một thắng cảnh của Nha Trang.
Trước đây khách đến Hòn Chồng với tấm lòng bâng khuâng man
mác trước trời biển bao la để ngắm nhìn dãy đá nằm nghiêng mình trên sóng nước.
Khách đến với Hòn Chồng từng đôi, từng nhóm, với một tâm hồn thanh thản, một niềm
vui hồn nhiên để tâm hồn rộng mở trước cảnh trời nước bao la. Từng
tảng đá, từng hang đá đều mang một câu chuyện huyền thoại một nguồn vui, gợi lại
trong lòng ta, một thời kỳ hồng hoang khi mà con người còn cùng với thiên
nhiên quấn quít thân tình. Thuở mà còn những bóng dáng học sinh cùng đến với trời
mây để cho lòng nhẹ nhàng cùng sóng nước. Thuở mà đôi lứa cùng đến để ngồi bên
nhau nghe sóng vỗ rì rầm, để cùng nhau đo xem bàn tay ông Khổng lồ lớn đến mấy
gang tay. Việc viết tên kỷ niệm trên đá hay vứt bừa bãi rác bẩn hay các lon nước
ngọt, lon bia xuống các khe đá không bao giờ xảy ra. Khách đến viếng còn để lại
cho hậu thế những vần thơ đầy cảm mến:
Đất nắn trời nung khéo định đôi
Hòn Chồng đực cái phối hai ngôi.
Ông xây nên móng cây trồi mụt
Bà đúc ra chuông đá mọc chồi.
Mây núi rũ giăng màn tịnh túc
Nước khe hầu rót chén giao bôi.
Non thề giai lão trơ trơ đó
Gió chẳng lung lay sóng chẳng dồi
Chí sĩ Trần
Cao Vân
Và:
Trời mây biển nước cảnh mênh mông
Chân núi giô ra đá mấy chồng.
Khắng khít thớt em nương thớt chị
Vững vàng hòn cháu đỡ hòn ông.
Sóng xô đẩy mãi bền gan sắt
Rêu buộc ràng thêm chặt dải đồng.
Gặp gỡ đá đây ta hỏi đá
Vá trời bao thuở mới nên công.
Quách Tấn
Hòn Đỏ đẹp hơn Hòn Chồng song vị đường đến đảo khó khăn nên đảo
được sống một thời gian dài tĩnh lặng. Hằng ngày, vào lúc trời chiều khi thủy
triều rút xuống, các rặng đá và san hô chung quanh đảo nhô cao thì người có thể
lội bộ mà ra đến đảo. Những lúc nước dâng cao thì phải có đò đưa sang.
Diện tích đảo Hòn Đỏ rộng hơn 4000 mét vuông. Đảo có hình một
củ khoai tây. Chiều dài từ Đông đến Tây độ 500 m, từ Bắc đến Nam dài độ 400 m.
Trên đảo đá nhiều hơn đất, cây con cằn cỗi, cây cổ thụ chỉ lưa thưa. Cảnh quan
trên đảo đầy vẻ hoang sơ, nhưng thơ mộng. Tuy chỉ cách đất liền không quá
500 m mà khi du khách đến viếng thăm đều có cái cảm giác như đang đặt
chân lên một hải đảo xa xôi cách đất liền hàng vạn dặm vị trước mắt ta chỉ
toàn là trời biển bao la. Trước kia vị không có đường đi rộng rãi từ đất liền
ra đến bờ bên kia đảo, nên vắng tiếng động cơ máy móc, tiếng ồn ào của phồn
hoa không bao giờ vọng đến. Cảnh đã tịnh mà âm thanh lại càng xa vắng
như có như không. Cho nên trước năm 1960 đảo dường như hoàn toàn vắng bóng
khách viễn du. Đến Hòn Đỏ ta chỉ nghe tiếng gió thì thầm cùng tiếng sóng vỗ dịu
dàng lên vách đá và đôi tiếng chim thưa thớt thoảng trong nắng ban trưa.
Trước trời biển bao la, hải đảo Hòn Đỏ trở nên nhỏ nhoi xinh xắn. Sắc đá, màu
cây trang trí cho đảo thêm phần diễm lệ.
Hướng Đông của đảo, trời nước bao la, màu xanh của biển hòa lẫn
với sắc biếc của trời. Cận tầm mắt là hải đảo Hòn Mun nằm oai vệ giữa biển
khơi trông như một áng bình phong nằm chắn gió cho Hòn Đỏ. Hòn Mun là nơi
ghé lại của tầm nhìn từ Hòn Đỏ ra bể khơi. Trước biển Đông, Hòn Đỏ không
cô đơn vị chung quanh còn có nhiều hòn đảo khác to lớn hơn, kỳ vĩ hơn. Giữa bầu
trời mênh mông với màu xanh của biển, của trời chen lẫn với màu trắng của mây,
của muôn ngàn con sóng trùng dương chập chờn tung bọt hoa trắng xóa, Hòn Đỏ vẫn
không thấy lẻ loi vì phía sau đảo còn có dãy núi Cù Lao, có Tháp Bà và xa hơn nữa
còn có Hòn Bà đang uy nghiêm dõi nhìn về bể Đông.
Buổi bình minh ở Hòn Đỏ, đẹp nhất là về hướng Đông. Thiên
nhiên đã tạo cho hòn đảo có một quang cảnh vô cùng diễm tuyệt. Bờ đá ở phía
Đông không cao mà lại dài, nằm trải rộng im lìm để mặc cho sóng nước vỗ về xoa
nắn. Mặt biển nhiều khi phẳng lặng như một mặt hồ mông mênh. Màu xanh của đại
dương như trong suốt hòa với màu trời có sắc xanh thẫm lác đác những vị sao tắt
muộn. Tuy mặt trời chưa rựng mọc song cái cảnh trong sáng của một bầu trời sắp
rạng đông đã mang lại cho biển một màu sáng mơ hồ để phân biệt được giữa ngày
và đêm.
Nhà thơ Lê Triều Phương sau một chuyến thăm Hòn Đỏ đã viết nên một bài thơ:
Bình minh trên Hòn Đỏ
Dạo chơi trên Hòn Đỏ
Cận kề bên biển Đông
Giữa lòng trời mênh mông
Màu xanh chen sắc trắng
Cánh buồm mây phẳng lặng
Ngắm hoa biển chập chờn
Thuyền xa về cô đơn
Sóng vỗ quanh đảo nhỏ.
Bước chân lên Hòn Đỏ
Gặp vách đá ngàn xưa
An lành cùng nắng mưa.
Bờ phía Đông ửng nắng
Lòng biển xanh phẳng lặng
Tình biển cả bao la.
Mặt trời tự phương xa
Ửng hồng chân mây thắm.
Ngồi trên hòn đá phẳng
Chờ đợi ánh triều dương
Đây là mảnh thiên đường
Buổi mai hồng dâng tặng.
Mây hồng phơn phớt trắng
Xanh biển xanh mặn mà
Vang vọng muôn lời ca
Đàn chim âu giăng cánh
Mặt nước hồng sóng sánh
Nâng ánh mặt trời lên
Hòn Đỏ bóng bồng bềnh
Cùng bình minh thức giấc.
Lê Triều Phương.
Cần phải có một đêm sống trên đảo Hòn Đỏ, du khách mới cảm nhận
được cái đẹp lúc bình minh, cái trong trẻo của ban mai và cái cảm giác của con
người trước vũ trụ sau một đêm đen dày đặc. Được sống, được cảm nhận, được đọc
thơ, lòng du khách mới cảm nhận được đầy vơi khi ngồi trên bờ đá nơi hướng Đông
Hòn Đỏ trong bầu trời bình minh.
Có ngồi đón bình minh nơi Hòn Đỏ, du khách mới tận hưởng được
màu sắc của đá để phân biệt được màu hồng của trời lẫn vào màu hồng của đá như
thấp thoáng màu hồng của da thịt con người, da thịt của một bé thơ vừa mới tắm.
Ngồi lắng lòng, mắt lim dim, du khách chắc chắn sẽ cảm nhận được, sẽ nhìn thấu
suốt được sắc hồng tươi tắn của thiên nhiên với một cảm nhận rung động nhẹ
nhàng giữa bình minh nguyên thủy trên hải đảo Hòn Đỏ Từ Tôn.
Trong thời gian từ lúc mặt trời lên cho đến khi đứng bóng, du
khách có thể men theo đường mòn, theo bờ cỏ dại, vượt qua những chòm đá nằm rải
rác im lìm dưới nắng để ngắm nhìn cảnh quan chung quanh đảo. Đến đâu cũng nhìn
thấy mặt bể bao la, bầu trời xanh ngắt. Nhiều nơi cận kề sát mé biển du khách
có thể trông thấy bờ vách đá nơi chân núi với sóng nhẹ vỗ lên bờ đá, với
hoa sóng tung tóe trên vách hồng của đá. Trước quang cảnh này du khách có cảm
tưởng là mình đã rời xa chốn bụi trần để hoàn toàn sống cùng với trời mây biển
cả.
Về phía Bắc đảo, du khách bắt gặp nhiều cảnh khác biệt. Nhìn
gần thì thấy bờ đá khẳng khiu có dáng khắc khổ hơn mọi nơi trên đảo. Vách đá dựng
đứng dưới nước, nhiều mũi đá nhọn nhô cao như một rừng chông bảo vệ cho đảo.
Trên đảo thì cỏ cây khô héo lúc hạ sang và đợi đến đông về mới xanh tươi
trở laị. Mùa đông những cơn gió bấc hợp với sóng biển vỗ mạnh vào đá khiến cho
đá phải lồi lõm, cây cỏ phải điêu tàn. Chỉ đợi đến mùa hạ đến thì mặt Bắc của đảo
mới hưởng được cơn gió nồm đem cái hiu hắt, cái cơn mát dịu dàng đến ấp iu cùng
hải đảo.
Nhìn xa xa du khách bắt gặp Hòn Chồng nằm trải dài từ bờ
ra đến biển. Nhấp nhô trên đá bóng những du khách dạo chơi ngắm cảnh đá nước
Hòn Chồng. Và xa hơn nữa là chập chùng núi biếc.
Về hướng Nam của đảo, thật ra là hướng Tây Nam, thành phố Nha
Trang nằm phơi mình trong nắng biển. Nắng biển không chói chang nên thành phố nằm
êm đềm trong tĩnh lặng. Thành phố NhaTrang không cần đến những chung cư, cao ốc vươn lên như chọc trời để khách du quan có thể từ hải đảo Hòn Đỏ ngắm nhìn pho
tượng Kim thân Phật tổ ngự trên đỉnh đồi Trại Thủy in hình trên nền trời xanh
thấp thoáng bóng mây trắng lững lờ bay quanh. Cùng lúc, chùa Kỳ Viên
Trung Nghĩa thắm đỏ trên ngọn núi Sinh Trung ngân đưa hồi chuông triêu mộ. Ngọn
núi Sinh Trung hôm nay không còn soi mình trên mặt nước đầm Xương Huân, lặng lẽ
nhìn bến nước Hà Ra lao xao trong nắng. Nhưng vẫn hiện diện cùng với trời mây
trên thành phố Nha Trang.
Từ Hòn Đỏ ban đêm nhìn về thành phố Nha Trang ta thấy thân mến
hơn, gần gũi hơn và nhất là rực rỡ hơn. Ánh đèn giăng mắc dọc theo bờ biển từ
Chụt gần đến Bãi Tiên. Chiếc cầu vồng hoa đăng Trần Phú như một dãi đăng ten kết
bằng sao trời lộng lẫy vắt ngang qua cửa sông Cù. Ban đêm từ hải đảo Hòn Đỏ
nhìn thành phố Nha Trang tuy không to lớn rực rỡ bằng Hà Nội, Sài Gòn mà
là một thành phố đủ thương đủ nhớ cho những du khách ghé lại một thời.
Trưa đến, khí nóng hừng hừng trên vách đá. Không thể phơi
mình ngoài nắng nóng du khách đành nương bóng mát của các cây me, cây đa phủ
bóng lên trên dãy đá.
Dưới bóng hai cành đa soãi mình trên lưng đá nơi hướng Tây
Đông, chiếc võng đong đưa nâng hồn du khách vào thế giới bồng lai. Gió từ biển
xa thổi về nhè nhẹ. Nằm nghiêng mình trên chiếc võng nhìn xuống vũng nằm giữa đảo
và đất liền du khách ngắm nhìn những con thuyền đánh cá neo đậu đang chập chờn
trên sóng nước.
Thuyền đậu không nhiều nhưng chứa đầy thơ mộng. Nó gợi cho ta
một bến nước xa xưa chỉ có một vài chiếc thuyền neo đậu nghỉ trưa nơi hải đảo
xa xôi. Khi nào lòng ta chán chê trước cảnh chen chúc đậu bừa bãi của các ghe
thuyền khi vào bến ở Cù Lao, Cồn Giữa, Cửa Bé v.v... thì ta mới nhận ra rằng
thấy một vài chiếc thuyền neo đậu nghỉ trưa nơi bến Hòn Đỏ, trí ta liền
nghĩ đến cảnh một bến Tiêu Tương nào đấy hay một nơi bãi vắng của một hải
đảo xa xôi, vắng vẻ khách phàm trần.
Qua khe lá ta bắt gặp được buổi trưa hè yên lành, buổi trưa của
thời trẻ dại, ta được nằm dưới vòm lá hiu hiu gió mát, từ cánh đồng lúa mạ non
thổi về. Ta sẽ nằm thiu thiu mà không ngủ để nghe chất mặn của bể khơi lẫn
trong hơi mát tự trùng dương thổi đến để lòng đón nhận cái mênh mông của đất trời
tỏa trên hải đảo. Tự nhiên lòng lại nhớ đến bài thơ của phu nhân nhà thơ Lê Triều
Phương đã cùng chồng đến du lãm Hòn Đỏ Từ Tôn:
Hòn Đỏ ban trưa
Trên cành đa vững chắc
Chiếc võng nhẹ đu đưa
Mơn man gió mát đừa
Hương nồng từ biển cả
Hòa cùng hơi mát đá
Nâng giấc nồng lên khơi
Mây trắng bay dạo chơi
Giữa trời xanh sắc biển
Muôn ngàn con sóng lượn
Quanh đảo nhỏ chập chờn
Niềm vui nào vui hơn
Buổi trưa nằm nghe sóng
Dưới biển sắc trời đọng
Trong gió lá thì thào
Cánh én vút trời cao
Đoàn ghe nằm trong vũng
Theo nhịp trưa xao động
Hiu hiu giấc trưa nồng
Hồn hòa cùng mênh mông
Một tiếng chim vừa hót
Như pha lê nhỏ giọt
Trên phím đàn trời xanh
Buổi trưa vàng yên lành
Hòn Đỏ đầy thơ mộng.
Đoàn Thị Gái
Trên chiếc võng đu đưa ta sẽ thiếp dần vào giấc ngủ cùng với
nắng vàng trên Hòn Đỏ đầy thơ, đầy mộng. Và khi tỉnh giấc hồn ta cảm thấy sảng
khoái, lòng ta cảm thấy vui vui để lắng nghe những câu chuyện hoang đường, những
huyền thoại vô cùng thích thú.
Trước tiên là của các hòn đá. Nơi hướng Đông có một hòn đá có
tên là Hòn Chị Em. Hòn Em to lớn hơn Hòn Chị lại nằm ở phía dưới trông
như đang nâng đỡ chị để cùng nhìn ra biển Đông.
Nơi phía Hòn Chồng có Hòn Chồng Cái gồm hai pho đá đứng song
song với nhau xứng với câu thơ của nhà thơ Quách Tấn:
“Khắng khít thớt em nương thớt chị”
còn ở đây thì tương hợp với câu:
“Khắng khít thớt em nâng thớt chị “
Vị ở gần nhau nên cùng chung hưởng một tình thơ.
Kế đến là hòn đá to lớn hình khối có tên gọi là Hòn Đá Trắp.
Gọi là trắp vị nó giống hình một cái trắp đựng sách của các nhà nho xưa. Đó là
cái trắp đựng các tập thơ của một vị tiên thường hay đến hải đảo Hòn Đỏ ngắm
trăng làm thơ. Kế bên Hòn Đá Trắp là Hòn Đá Bàn cờ. Từ Hòn Đá Bàn Cờ này sinh
ra câu chuyện Ông Khổng Lồ đánh cờ với tiên và thắng được Hòn Đỏ. Câu chuyện
như sau:
Nguyên xưa kia nơi đây, đảo được nối liền với dãy núi Cù Lao
nhô ra tận biển Đông. Cảnh đầy thơ mộng, có nhiều cây cổ thụ sống ngàn năm cùng
với suối tuôn màu thúy bạch và hoa cỏ thơm lừng. Cho nên các vị tiên mới cùng
nhau tụ hội để ngâm thơ ngắm trăng giữa trời nước mênh mông và đánh cờ trong những
ngày nhàn rỗi. Cai quản hòn đảo này là một vị tiên đầy tánh tình của
vị cờ tiên Đế Thích. Vị tiên thích đánh cờ đến nổi gặp ai cũng gạ
đánh với mình, thua được không bận tâm, chỉ cốt sao có người cùng ngồi đối diện
trước bàn cờ.
Một hôm đang ngồi buồn trên hải đảo Hòn Đỏ, vị tiên chợt
trông thấy ông Khổng lồ ngồi câu cá nơi Hòn Chồng. Thèm muốn có người
cùng đánh cờ nên vị tiên ông bèn bay đến Hòn Chồng, gạ ông Khổng lồ đánh cờ
cùng mình. Tánh ông Khổng lồ lại không giống vị tiên ông. Ông Khổng lồ chỉ
thích câu cá. Một bên thích lao động trí óc còn một bên lại thích lao động chân
tay. Ông Khổng lồ từ chối một cách dứt khóat. Mời không được, vị tiên ông bèn dụ
dỗ. Biết được thú vui duy nhất của ông Khổng lồ là câu cá nên vị tiên mời
ông Khổng lồ đến đảo Hòn Đỏ để câu cá. Nghe vị tiên ông tả cảnh cây cối rậm
rạp tươi mát của Hòn Đỏ cùng với đàn cá dầy đặc nơi bờ đá, ông Khổng lồ vui vẻ
dời chỗ ngồi câu sang bên Hòn Đỏ.
Trong lúc ông Khổng lồ ngồi câu cá thì vị tiên ông làm thơ và
uống rượu. Nghĩ được câu thơ hay, làm được một vần thơ ưng ý vị tiên ông lại đọc
cho ông Khổng lồ nghe. Tuy không thích thơ phú song ông Khổng lồ vị sợ mất
lòng vị tiên có tâm tốt cho mình ngồi câu nơi cảnh đẹp, cá nhiều này nên ông Khổng
lồ chú ý lắng nghe những vần thơ đắc ý của vị tiên ông. Nhiều lúc mải theo dõi
chiếc phao chập chờn trên mặt sóng ông Khổng lồ quên đáp ứng với lời thơ nên
nhiều lúc làm vị tiên ông mất hứng thú đọc thơ của mình cho bạn nghe. Mặc dù đã
thành tiên song vị tiên trên đảo vẫn còn lưu giữ cái tật của khách làm thơ là
luôn luôn muốn đọc thơ của mình cho người khác nghe và muốn nhận nơi người
nghe, lời khen tặng nồng nhiệt. Cho nên khi không thấy ông Khổng lồ khen tặng lời
khen tương xứng nữa thì vị tiên đâm ra ngán ngẫm cho vị thơ của mình và bỗng
nhiên thèm đánh một ván cờ. Sự đam mê nồng cháy đến độ giá lúc ấy có người chịu
cùng đánh cờ với nhau thì vị tiên ông có thể tặng cả thế gian này cho người
chơi cờ. Biết không thể nào nài nỉ ông Khổng lồ được nên vị tiên ông bèn nghĩ ra được một mưu kế. Thấy ông Khổng lồ câu được nhiều cá và tỏ ý thích thú
nơi này, vị tiên bèn đề nghị đánh cờ ăn cuộc: Nếu ông Khổng lồ thắng thì ông Khổng
lồ sẽ nhận được quyền sở hửu hải đảo Hòn Đỏ này. Còn nếu ông Khổng lồ thua thì
ông sẽ được đến đây câu cá thường xuyên. Nghe như vậy ông Khổng lồ thích
quá vị được thua gì mình vẫn có lợi. Cái chính là câu cá. Thế thì tại sao
ta lại không đánh cờ kia chứ. Ông Khổng lồ nghĩ vậy và chấp nhận vào cuộc. Bàn
cờ được bày ra vị tiên ông vừa uống rượu vừa ngâm thơ còn ông Khổng lồ vẫn
an nhiên ngồi câu cá, tâm không lưu ý đến bàn cờ.
Ván cờ vừa đi được ba nước thì có một con cá vượt tung mình
lên không trung ông Khổng lồ mắt luyến tiếc ngó theo tay hờ hững cầm lấy con cờ
chủ tướng. Rồi ông xuất tướng. Thoáng cau mày nhưng vị tiên lòng an nhiên trầm
tư suy nghĩ. Bóng chiều đã ngã về Tây. Hải đảo đỏ au lên trong ráng chiều.
Vị tiên ông ngồi yên lặng suy tư trong bóng hoàng hôn. Ông Khổng lồ gác cần
câu nằm gối đầu trên đá ngáy ầm ầm như cùng hòa âm với sóng chiều đang vỗ mạnh
vào vách đá.
Một đêm dài trôi qua. Ông Khổng lồ đã thức dậy từ lúc hừng
đông và tiếp tục câu cá. Vị tiên suốt đêm dài không ngủ, ngồi suy nghĩ đến nước
thứ 1000 mới gỡ được thế cờ xuất tướng của ông Khổng lồ. Cuộc cờ lại tiếp tục.
Khoan khoái vị vừa câu được một con cá đuối lớn bằng chiếc chiếu trải đình, ông
KhổnglLồ đem xe vượt sông, thí xe đổi lấy chốt đầu. Vị tiên ông lại phải ròng
rã ba đêm ngày suy nghĩ để hiểu nước cờ này và tìm ra cách phá.
Với những nước cờ tự nhiên không tính toán của ông Khổng Lồ,
với sự đắn đo suy tính của vị tiên ông, ván cờ kéo dài đến khi râu tóc của
vị tiên dài ra trắng xóa bay phơi phới trên bầu trời trong vịnh Nha Trang. Cuối
cùng vị tiên ông đành chịu thua ông Khổng lồ, tuy ván cờ chưa tàn cuộc. Vô
tâm đã thắng hữu tâm, Hòn Đỏ từ đấy thuộc về ông Khổng lồ. Khi rời đảo vị
tiên ông đã để lại cho ông Khổng lồ tất cả những vật chất cùng với
tinh ba của trời đất đọng chứa nơi hải đảo. Trên Hòn Đỏ, Hòn Đá Chị Em,
Hòn Trắp, Hòn Bàn Cờ vẫn mang tên, mang hương vị của hồn xưa, còn Hòn Ấn nằm
bên Hòn Bàn Cờ lại còn mang thêm vết tích của dấu xưa. Đó là dấu in ngón tay cái
của vị tiên ông đã ấn vào Hòn Ấn để làm bằng chứng nhường hải đảo Hòn Đỏ
lại cho ông Khổng lồ. Tại nơi Hòn Chồng còn vết bàn tay của ông Khổng lồ in sâu
vào đá và nơi hải đảo này còn lưu vết ngón cái của thần tiên.
Ngồi nghe câu chuyện thần tiên du khách lòng lại bâng khuâng
nhớ lời thơ của Cổ Bàn Nhân:
Chuyện đời tuy có mà không
Tuy không mà có chuyện ông Khổng lồ.
(Nước Non Bình Định)
Kể thêm một câu chuyện nữa về ông Khổng lồ cho vui. Có người
hỏi ông Khổng lồ rằng ông có tu đạo hay không? Ông Khổng lồ đã trả lời: Khi được
sinh ra, lòng ông vốn đã có đạo rồi. Sở dĩ con người cần phải có đạo vì đạo vốn
có trong lòng song con người lại quên đi và như vậy phải cần tu theo đạo. Lại hỏi
thêm rằng sao ông Khổng lồ đã có đạo trong lòng rồi mà còn bắt cá mà ăn trong
khi đó trên đảo có rất nhiều cây cỏ. Ông Khổng lồ cười mà rằng:
Tất cả cỏ cây, đất đá cũng đều là chúng sinh. Chúng cũng được
sinh ra và lớn lên. Mỗi chúng sinh đều có một cuộc sống, một hòa đồng cùng
chung với nhau, một sự liên hệ mật thiết nhưng vì vô minh nên chúng ta chưa hiểu
nhau mà thôi. Như vậy tránh không ăn vật này để ăn vật khác thì cũng không
tránh được sát sinh. Ta ăn cá vì ta thích câu cá và cá ta câu được bỏ đi cũng uổng
nên ta ăn đó thôi. Nếu ta ăn cỏ cây trên đảo thì còn đâu bóng mát cho ta ngồi,
màu xanh cho ta ngắm. Ta chỉ ăn khi cần và ăn theo tự nhiên, sẵn có gì thì ăn
cái ấy không kén lừa, không thích thú vì miếng ăn.
Nghe quan niệm coi cỏ cây như một sinh vật, biết thương yêu,
biết quyến luyến với con người, tôi bỗng nhớ đến một câu chuyện có thật đã được
nhà thơ Quách Tấn ghi trong tập Hồi ký Bóng Ngày Qua:
Khóm mận già
Đứng giữa sân trước phòng khách ngay ngõ bước vào. Ba gốc đứng
sít nhau. Tôi gọi là Khóm Mận Ba Nhành.
Khóm mận này do ông thân sinh người chủ cũ của ngôi nhà số 21
đường Bến Chợ trồng lúc người này còn nhỏ. Mà người chủ cũ lớn hơn tôi đến 25,
27 tuổi, thì cây mận sanh trước tôi ít ra cũng hai mươi năm. Tôi mua ngôi nhà
năm 1937, lúc ấy tôi đã 28 tuổi, thì cây mận ít ra cũng 48 tuổi rồi. Cho nên
lúc tôi dọn đến, thì gốc mận đã bị bộng ruột, cành chỉ còn lơ thơ. Nhiều người
bảo tôi đốn đi để trồng cây khác. Nhưng tôi không nỡ, cứ để đó, chừng nào gốc
thật mục, cành thật khô sẽ hay.
Tôi nhớ một chuyện xưa:
“Quan Thái Thú đất Giang Tây toan hạ một cổ thọ trước dinh. Một
hành nhân thấy thợ đang sắp sửa ra tay, liền đề nơi gốc cây một tuyệt:
Diêu tri thử khứ đống lương tài
Vô phục thanh âm phú lục đài
Chỉ khủng nguyệt minh thu dạ lãnh
Ngộ tha thiên tuế hạc quy lai
Nghĩa là:
Một đi nên cột nên rường
Không còn bóng cả lợp đường rêu xanh
Chỉn e thu lạnh lùng canh
Tuổi già nương bóng trăng thanh hạc về.
Quan Thái Thú xem thơ, cảm động, bèn sai thợ dừng búa.”
Nhớ đến bài thơ tôi càng thương quý khóm mận. Những buổi mai
buổi chiều đẹp trời, những đêm trăng sáng, tôi cùng vợ con bè bạn, thường bắc
ghế, kê giường nằm ngồi dưới gốc cây chung vui. Mấy tháng sau, những nhánh còn
sống sót tự nhiên đâm chồi nẩy lộc và to lớn lần lần. Gốc sanh một lớp vỏ mới mỗi
ngày mỗi dày thêm. Và không đầy một năm, cành lá đã xum xuê, che mát cả sân thềm,
mới trông qua ai cũng ngỡ là một khóm mận tơ chịu thủy thổ.
Thiên hạ trầm trồ. Kẻ thì bảo rằng: ”Vật chờ chủ”. Người có
óc phán đoán lại nói “Cây mận nhờ có người canh coi chăm sóc, lũ trẻ không bứt
lá bẻ cành, nên phát trở lại”. Người bạn Ấn Độ của tôi là Kicha Nassamy lại
giải thích:
Đó là nhờ sức nhân điện của anh và gia đình anh mà cây mận hồi
xuân.
Không biết lời nào đúng, tôi chỉ biết mừng được một cổ thụ
xanh tốt ở trong vườn.
Khi cành lá đã sung, hoa bắt đầu trổ. Hoa trổ kỳ nhất vào
tháng mười âm lịch. Đến Tết trái chín.
Khi trái kỳ nhất đã kết, thì hoa ra kỳ nhì vào tháng 11 và
trái chín vào tháng 2 hoặc tháng 3. Nhiều năm hoa thêm một kỳ thứ 3
nữa vào tháng giêng.
Hoa mận cánh trắng nhụy trắng. Mọi thứ hoa, hoa nào cũng đẹp
nhờ cánh. Hoa mận lại đẹp nhờ nhụy. Nhụy dài và thanh. Chữ gọi là ba tu, tục gọi
là râu mận. Khi hoa nở thì cánh bị râu che lấp hết trông vào như một chùm
ngân tuyến có mùi hương.
Những ngày hoa nở sắc trắng của hoa át hẳn màu xanh của lá.
Nhìn lên tàn mận, giống y mái đầu bà lão bảy mươi cúp bum bê. Nhụy
hoa cánh hoa rụng phơi phới như mưa tuyết. Mùi hoa ngòn ngọt như mùi hoa xoài.
Một buổi sáng thức dậy, nhìn ra sân tôi có cảm giác đang ngồi nơi tiểu đình
trên Phú Sĩ Sơn ở Nhật hay Mont Blanc ở Pháp.
Thật là thú. Nhưng lắm lúc man mác buồn vị có ý nghĩ “Không
có gì vĩnh viễn”, nhất là khi người nhà lo quét dọn sân hè. Để hứng vị không
pha lẫn cay chua, tôi bèn dặn con em trong nhà đợi tôi đi làm hoặc đi chơi rồi
mới quét râu mận. Tôi có mấy câu ngẫu thành, gởi gắm ít nhiều tâm sự:
Tuyết phủ đầy sân hoa rụng đầy
Hương sầu theo gió chập chờn bay
Em ơi! đừng quét... Em đừng quét
Ở Nha Trang mùa đông ít lạnh và ít mưa to gió lớn như các tỉnh
bạn. Tuy vậy trăm hoa, cả hoa giấy chắc gan đều “lánh mặt” chỉ riêng hoa mận là
“đua cười gió đông”. Cho nên tôi gọi hoa mận là hoa Tuế Hàn thay cho Bạch Mai của
cổ nhân mà Nha Trang không có.
Mùa đông ít hoa nên ong bướm cũng ít. Bởi vậy kỳ mận tháng 10
tháng 11 ít khi bị quấy rầy vì loài có cánh. Nhưng đến kỳ hoa tháng giêng thì lớp
ong lớp bướm, kéo nhau đến từng bầy. Ong phần nhiều là ong ruồi. Ong bầu cũng
có song chỉ năm bảy con mà thôi. Tôi không hiểu tại sao, khi mai nở chúng lại
kéo đến đông, còn lúc mận nở chúng chỉ “cử đại biểu” đến. Và đối với mai
chúng rất tàn nhẫn, còn đối với mận chúng lại có vẻ “biết điều”? Có người bảo rằng
vì hoa mận lớn, chúng nằm vào lòng hoa mà hút mật, mật lại nhiều nên không cần
phải dụng sức dụng công. Còn hoa mai nhỏ bị chúng ôm gọn vào lòng để hút mật,
vì mật ít nên phải vét cho “ráo máng cạn tàu” mới đủ no. Có người lại nói
rằng trên tàn mận ngoài ong bầu còn có ong ruồi. Ong bầu sợ ong ruồi nên không
dám “làm tàng” với hoa. Thuyết trước e đúng hơn.
Còn bướm thì “không thể chê” nhiều giống nhiều màu sắc. Con
thì vàng ánh như huỳnh kim. Con thì trắng phau phau như bông gòn. Con thì đen
nhánh như răng hạt huyền. Con thì nâu như lông cánh bìm bịp. Con thì cánh
trắng viền đỏ. Con thì cánh vàng sắc hỏa hoàng điểm những hạt cườm đen hoặc cườm
trắng. Con thì rằn rịt, con thì vá quàng v.v... Trông giấp giới như một rừng
phong lan.
Bươm bướm là giống phong nhã. Chúng đối với hoa lịch sự như
những chàng thanh niên có giáo dục đối với tình nhân, lúc nào cũng dịu dàng,
cũng nhẹ nhàng, ung dung, tự tín. Đậu vào hoa chỉ đậu phơn phớt, đưa vòi vào
nhụy hoa chỉ đưa một cách thưng thưng. Nhiều con chỉ bay lượn chung quanh
hoa dường như chỉ để hứng lấy hương chớ không màng đến mật. Lại có con bám theo
râu hoa rơi từ cành xuống đất, rồi chớp cánh bay trở lên cành. Rơi xuống một
cách nhẹ nhàng mà bay lên cũng một cách nhẹ nhàng như mảnh giấy bay theo gió. Đứng
trước cảnh đó tôi chợt nhớ đến bài thơ Haikai của Nhật mà Pháp dịch:
Illusion
Fleur tombée
Retournant à la branche?...
Oh! c’était un papillon!
Con tôi (Quách Giao) đã phỏng dịch thêm một lần nữa để
tôi ngâm trong lúc cùng cảnh chung vui:
Ảo ảnh
Hoa rơi vụt trở lại cành
Ồ! Con bươm bướm nặng tình với hoa.
Khi hoa đã thành quả thì ong và bướm bay đi hết, se sẻ lại
kéo đến đông đầy. Tiếng kêu chinh chích không bao giờ ngớt.
Bảo rằng se sẻ kéo đến không đúng. Mùa đông chúng sợ mưa gió
chui núp nơi trần nhà, ở dưới mái hiên. Lúc tạnh bay ra tìm mồi thì
bay lẻ tẻ và lặng lẽ như chiếc bóng qua ngang. Nếu không để ý thì
tưởng chúng đã bay đi nơi khác hết. Nhưng đến lúc xuân sang, nắng ấm, chúng rủ
nhau bay ra từng tốp, lớp bay lớp đậu, rộn rã tưng bừng. Chúng đông nhưng không
phá phách. Luồn qua lá mận, song không bao giờ đụng vào trái lúc chín cũng như
lúc còn xanh.
Bươm bướm là tài tử giai nhân, se sẻ là tao nhân mặc khách,
đem tình xuân trang điểm cho ngày xuân của khóm mận thêm xuân.
Cho nên trong mùa hoa nở, mùa trái chín, bạn bè thường họp
nhau dưới bóng mận. Và những lúc vắng người, tôi thường nằm nơi võng cột trước
hiên, nhìn cây mận để ôn lại chuyện xưa hay tìm hưởng thú mới.
Vị thế mà hình ảnh cây mận in sâu vào tâm khảm và tình mận
thường len vào tứ thơ, nhất là từ năm 1940 trở đi sau khi đã gặp Liên Tâm
và thường cùng Chế Lan Viên, Yến Lan, Quách Tạo chung bóng dưới trời trưa mùa
hè.
Khóm mận đối với tôi cũng rất có tình.
Năm 1943, tôi ra Đà Nẵng và Huế chơi hơn nửa tháng. Lúc ấy đã
gần cuối đông, hoa mận đã kết quả. Khi tôi về trên cành chỉ toàn lá. Tôi hỏi
người nhà:
- Sao hái mận sớm thế? Không đợi chín để ăn Tết?
Lũ nhỏ thưa:
- Ba đi được mấy hôm, hoa quả lần lần rụng sạch. Không
sót được trái nào cả!
Tôi cho là tại thời tiết.
Đến năm 1944, tôi đưa gia đình về Bình Định lánh nạn tàu bay
Mỹ khủng bố quân đội Nhật. Tôi gởi nhà cho ông Ba Lồ Ô ở trước ngõ. Khi tôi đi
thì mận lớp ra hoa, lớp kết quả, xum oằn cả cây. Nhưng một tháng sau tôi trở
vào thì mận không còn một trái nhỏ. Tôi trách ông Ba:
- Ông Ba ăn trái không nhớ kẻ trồng cây.
Ông Ba cười:
- Có được ăn trái nào đâu mà bảo nhớ với không nhớ. Bởi
thầy đi được ít lâu thì hoa lẫn trái già trái non rụng đầy đất!
Một ông bạn pha trò:
- Chắc cây mận sống lâu năm đã thành tinh và là tinh
đàn bà nên vắng hơi anh, tương tư chớ gì!
Tôi chợt nhớ lại khi bà thân tôi mất, hai cây trầu cùng mấy
cây cau bà trồng đều chết theo. Và khi bà nội của nhà tôi mất, cây cam của bà
trồng đương xanh tốt liền héo rồi chết đứng và vườn chuốí rủ lá rồi lụn dần!
Tôi lại nhủ:
- Thường ngày mình lân la bên mận, mận quen hơi quen
hám. Đến khi vắng mình, thiếu hơi hám đã quen, mận rụng trái rụng hoa; đó là việc
thường đối với người biết chút ít về khoa học thực nghiệm.
Nghĩ vậy để tự cho mình có óc thực tế, có óc khoa học. Đó là
trí nghĩ chớ trong thâm tâm tôi vẫn cho là “thảo mộc hữu tình”. Do đó tôi càng
thương yêu khóm mận. Đi xa nhớ nhà, hình ảnh khóm mận quanh quẩn bên vợ con
trong mơ, trong giấc.
Đến năm 1945, Nhật đảo chính Pháp tôi thôi làm việc ở tòa sứ
Nha Trang. Tôi cho mướn ngôi nhà số 21 để về Bình Định cùng với vợ con. Rồi bị
kẹt ở Bình Định gần 10 năm. Mãi đến ngày ký hiệp định Genève tôi mới trở lại
Nha Trang cùng gia đình.
Nhà cửa hư sơ sơ. Đồ đạc mất hết. Hoa kiểng tiêu tan, khóm mận
trước sân chỉ còn hai gốc, song vẫn xum xuê.
Tôi vào Nha Trang vào khoảng tháng 11 âm lịch, gặp kỳ mận ra
hoa. Nhân đó có bài thất tuyệt ký thác tâm sự:
Đời chia mưa nắng mấy năm qua
Vườn cũ thêm thương khóm mận già
Ba nhánh tình thâm tâm sự gởi
Không vị xa cách phụ phàng hoa.
Năm ấy hoa ra nhiều, quả kết cũng nhiều. Những người chung
quanh bảo nhau rằng “cây chờ chủ”. Một ông lão mắng:
- Mấy năm nay, cây không ai coi ngó, các ông các bà để trẻ
con phá từ lúc hoa mới ra thì làm sao có quả được. Chớ cây cối biết gì mà đợi với
chờ?
Tôi cười:
- Lời giải thích nghe có lý, song lại chứng tỏ rằng người
giải thích vô tình.
Ông lão phản đối:
- Sao lại vô tình?
- Vị không rầy giùm bọn trẻ, nỡ để cho chúng làm hư hết
hoa!
Ông lão cười ha hả:
- Không ngờ ông lạc hậu đến thế. Bọn trẻ bây giờ đâu
còn “tôn lão kính trưởng” còn tươi tốt như cây mận của ông à? Ông là chủ vườn
đó, để rồi xem ông có rầy nổi chúng chăng?
Nhờ lời cảnh cáo của ông lão mà tôi lo đề phòng nên cây mận
ít bị ná cao su bắn, kèo nèo giựt… Mỗi ngày tàn mỗi xum thêm, mỗi năm trái mỗi
nhiều thêm… Nhưng nhìn kỹ thì gốc cây mỗi ngày mỗi mục thêm và một gốc ngã xiên
xiên ra phía đàng cái. Năm nào đến mùa đông, mưa to gió lớn, lòng tôi cũng nơm
nớp sợ cho thân phận của cây. Tôi nghĩ cách chống. Song lấy gì chống cho nổi?
Đúc trụ bê tông cốt sắt thì không đủ tiền và cũng không đủ chỗ vị đất hẹp. Âu
đành nhờ trời thương đến ngày nào hay ngày nấy…
Mười hai năm qua kể từ khi tái hợp.
Mùa đông năm Bính Ngọ (1967) khóm mận ra hoa thạnh gấp bội mấy
năm trước. Nhánh toả ra ngoài đường. Người nhà đèn sợ cây chạm vào dây điện
đem thang, rựa đến trảy bớt nhánh. Nhưng thấy bông nhiều quá không nỡ xuống
tay. Rồi trời đổ mưa dầm gió bấc suốt mấy ngày đêm. Gốc mận ngã xiên, sà thêm
xuống thấp, cành lá chạm hẳn vào dây điện ngoài đường.
Sáng ngày 23 tháng 11 âm lịch tức ngày 23/11/1967 trời xửng
mưa, gió ngừng thổi. Tôi ra sân đứng nhìn khóm mận. Thấy gốc phía ngoài đã sà
nhiều quá, tôi tự nhủ:
- Nếu có một trận gió mạnh thổi đến thì nhất định
ngã chớ không thể gượng nổi nữa. Vừa nói tôi vừa đến gần. Tôi ngạc nhiên hết sức:
Thân cây run run và cành lá rung rinh mặc dù không có gió. Chợt một tiếng rắc
thật to nổi lên và gốc mận phía ngoài đường từ từ ngã xuống, ngã xuống phía đường
cái, ngọn nằm trên những dây điện đường. Coi lại thì gốc đã mục hết. Lâu nay
cây đứng vững chỉ nhờ lớp vỏ ngoài và một ít giác không lấy gì làm dày lắm!
Thế là khóm mận chỉ còn một gốc, ít cành và đứng thẳng. Lòng
tôi bị xúc động mạnh!
Tôi tự nghĩ:
- Có lẽ mận nuối mình tự khi hôm. Nên thấy mặt mình rồi
liền ngã.
Tôi có cảm giác mất một người bạn thân yêu! Một nỗi buồn
tràn ngập tâm hồn tôi….
(Trích Hồi Ký Bóng Ngày Qua. Đời Văn Chương tập
hai)
Câu chuyện kỷ niệm về cây mận trong vườn nhà số 12 đường Bến
Chợ Nha Trang của thi sĩ Quách Tấn đã làm ý vị thêm lời ông Khổng Lồ nói về cây
cỏ cũng có tâm hồn tình cảm như con người. Chẳng những chỉ có ở nước ta mà trên
thế giới cũng có những trường hợp như vậy. Nhất là ở Á Đông. Như câu chuyện
“Cây mai biết bay” của thi sĩ MICHIZANE (844-903) bên xứ Phù Tang:
Truyền rằng thi sỹ MICHIZANE đi xa, xuân đến không về nhà được.
Nhớ khóm mai trong vườn bèn sáng tác mấy vần thơ :
Nhắn mai vườn tôi
Ngọn nồm bay sang
Hương đưa dịu dàng
Ôi mai vườn cũ
Em dù vắng chủ
Lòng chớ quên xuân.
Khóm mai nơi vườn cũ, cảm thông tình nhà thơ đang đêm bay đến
nơi thi nhân trú ngụ, mọc ngay trước sân nhà trọ. Hoa nở xum cành. Hương bay
ngào ngạt.
Buổi sáng thức dậy, nhà thơ MICHIZANE bước ra sân, trông thấy
khóm mai của vườn nhà, lòng thê nhiên cảm động bèn ôm lấy gốc mai mà khóc. Khóm
mai cũng khóc theo. Những giọt lệ hoa nhỏ đầy trên mái tóc thi nhân. Nhà thơ bỗng
nhiên trở thành một khóm mai bằng ngọc nhưng lại biết làm thơ…
Câu chuyện chấm dứt cùng với ánh nắng ban chiều. Biển đông lại
ào ào muôn ngàn sóng dậy. Mặt biển cuồn cuộn muôn sóng bạc đầu. Chung quanh
chân đảo Hòn Đỏ sóng theo nhau vỗ vào vách đá tung tóe bọt nước trắng phau. Về
phía trời Tây mặt trời đã chìm sau dãy núi xa xăm, hất lên bầu trời sắc hồng rực
rỡ. Rồi bóng mặt trời khuất lấp và màu đỏ thay cho sắc hồng: Ráng chiều ngự trị
ở phương trời Tây. Đây là giây phút đẹp nhất của ngày tàn. Và ở nơi phía
Tây Hòn Đỏ dãy đá đứng ven theo mặt nước bên cạnh bến đò, sắc màu trở nên rực rỡ,
đỏ thắm rồi trở thành vàng tươi. Màu sắc cứ thay đổi nhanh chóng khiến cho người
ngắm cảnh ở trong trạng thái bâng khuâng không biết cảnh thực hay là mình đã thấy
cảnh trong mộng.
Nhà thơ Lê Triều Phương đã ghi lại cảm xúc và tình cảm trong
hai vần thơ:
Chiều trên Hòn Đỏ
Mây ráng trải mênh mông
Biển sóng sánh ánh hồng
Vòm cây chiều ủ mộng
Hòn Đỏ ngắm hư không.
Và:
Lung linh sóng lộng hoàng hôn
Tịnh yên Hòn Đỏ Từ Tôn soi mình
Vẳng ngân vách đá lặng thinh
Hồi chuông thanh thoát đượm tình cố tri…
Pho đá to lớn nhất tại bến đò như mặc áo hồng bào nghiêng
mình đưa tiễn du khách. Những mô đá nhấp nhô chạy dài theo chân đảo như một
đoàn đệ tử đứng sắp hàng ngay ngắn tiễn đưa khách du quan. Lúc bấy giờ bầu trời
phía tây bỗng trở màu tim tím, ráng chiều đã bay đi, đã tan vào hư không. Vách
đá vẫn còn tươi thắm như ráng chiều đã xuống đọng nơi chân đảo. Và vách đá đang
mở rộng lòng, lưu giữ màu sắc huy hoàng của ngày tàn. Cỏ cây như mỉm cườì đưa
tiễn, lòng du khách ngất ngây khi nhìn lại sắc thắm đỏ trên hòn đá cao to đứng
nghiêng mình trên bến để chợt nhớ rằng lòng mình đã thấu hiểu tại sao khách văn
chương gọi tên hòn đá này là Tịch Dương Thạch (Hòn Đá Chiều Vàng) và hải đảo
Hòn Đỏ còn mang tên là Đảo Ráng Chiều.
Ghi lại cảnh chiều nơi Hòn Đỏ nhà thơ Trần thị Phong
Hương đã có mấy vần:
Hòn Đỏ hoàng hôn
Biển ào ào dậy sóng
Mặt trời lặn về tây
Sắc hồng đọng ven mây
Ráng hồng giăng rực rỡ.
Trời phía Tây bừng đỏ
Tươi thắm cảnh trời chiều.
Hòn Đỏ bóng xiêu xiêu
Vách đá màu tươi thắm
Ráng chiều vừa xuống đọng
Trên da đá hồng tươi.
Màu đỏ trên bầu trời
Phút giây liền đổi sắc
Màu tím như đậm đặc
Hòa màu xanh mênh mông.
Sắc đá tỏa rộng lòng
Đón ráng chiều xuống đọng.
Chập chờn muôn hoa sóng
Màu đá ửng hồng tươi
Sắc đỏ như mỉm cười
Với hoàng hôn trên đảo.
Ôi! màu hồng huyền ảo
Làm đảo có thiện duyên
Mang một tên diễm huyền
Đến thăm đảo, có người về trong ngày và cũng có người ở lại
đêm. Nhất là những đêm có trăng, vào các ngày 17,18,19 âm lịch.
Trước lúc trăng mọc du khách được thưởng thức một khoảng thời
gian ngắn trong một không gian đầy thú vị trước biển Đông. Ngồi tựa mình nơi
vách đá nơi hướng Đông du khách lặng lẽ nhìn dãy đèn câu giăng mắc tận phía
chân trời. Khác với khi ngồi nơi bãi biển Nha Trang nhìn ánh đèn câu nơi góc biển,
ở đây du khách cảm thấy ánh đèn câu dường như gần gũi hơn, đầm ấm hơn. Màu biển
đen nhưng không tăm tối, biển và đảo cùng hòa chung nhịp sóng, ánh đèn câu là
nhịp nối giữa đảo với chân trời. Sao trời lấp lánh như muốn chia vui cùng các
con sóng chạy quanh đảo, vỗ vào vách đá rì rào. Tiếng rì rào chạy từ bờ đá này
sang bờ đá khác như chúng đang trao đổi chuyện tâm tình với nhau. Tiếng sóng
ban đêm dường như diụ dàng hơn tiếng sóng lúc ban chiều. Trong màn đen dịu ngọt,
trùng dương như đang ngưng thở chờ đón sự đổi thay.
Bỗng nhiên nơi phía chân trời xa một vùng ửng sáng rồi
lan rộng khắp trời phía đông. Ánh trăng như vừa thức giấc. Mặt biển như lặng
sóng và bóng trăng ló dạng nơi phía chân trời. Trăng vừa mới mọc, hải đảo Hòn Đỏ
khẽ chao mình chào đón. Mặt trăng từ từ nhô lên khỏi mặt nước. Bầu trời trong
sáng. Mặt đại dương lóng lánh long lanh. Ngồi trên đảo du khách thấy dưới chân
mình đại dương đang xao động, ánh trăng quyến luyến trên đầu và cỏ cây đang đùa
theo nhịp gió.
Trăng từ từ nhô cao rồi dịu dàng đi dần vào lòng trời trong
xanh có vấn vương đôi làn mây trắng. Hòn Đỏ mình nhuộm đầy ánh trăng nhập vào
nguồn sáng tươi mát của trời trăng. Những hòn đá nơi bờ đá như vươn cao, bờ đá
như nới rộng, mình đẫm ướt ánh trăng. Ánh trăng tắm ướt da đá, gội vàng lên các
tàng cây và long lanh trên những viên sỏi phơi mình trên các lối đi, trên các
đường mòn trên đảo. Dưới ánh trăng, hoa dại thầm tỏa hương thơm khiến cho du
khách ngờ rằng ánh trăng nơi hải đảo Hòn Đỏ có hương thơm.
Giữa khuya tiếng chuông nơi thiền tự Từ Tôn ngân nga đổ hồi.
Âm thanh trong suốt như ánh trăng, êm đềm như hơi thở của hoa lá, cùng với
hương khói trầm nhang lan tỏa khắp bầu trời. Trăng trên hải đảo nào cũng đẹp
cũng xinh cũng tươi thắm lòng người, nhưng trăng trên hải đảo Hòn Đỏ lại càng
thêm ý vị vị có tiếng chuông ngân trong niềm trong sáng của thiên nhiên khiến
lòng người thêm tịnh, thêm yên vui. Đêm trăng trên Hòn Đỏ gồm tụ những đêm
trăng trên bãi biển Nha Trang, trăng trên đồi Trại Thủy và trăng trên núi Sinh
Trung.
Trăng trên bãi biển Nha Trang, trong ánh trăng có bóng đèn đường
giăng mắc, có bóng người đi lại vui chơi cùng thiên nhiên. Trăng
trên đồi Trại Thủy có âm vang của tiếng chuông chùa Hải Đức. Trăng trên núi
Sinh Trung ngưng đọng hương khói từ trong chùa bay ra.
Nhà thơ Quách Tùng Phong đã viết về trăng trên Hòn Đỏ:
Trăng trên Hòn Đỏ
Mặt biển bỗng lặng yên
Màu hồng vừa thức giấc
Chân trời trăng rựng mọc
Hòn Đỏ đón hồng tươi
Cỏ cây ửng nụ cười
Ánh trăng hôn lên đá
Gió rung rinh cành lá
Trăng sáng khắp đảo rồi
Một nguồn sáng tinh khôi
Trong veo màu diễm tuyệt.
Mặt đá như đọng tuyết
Sắc hồng thắm màu tươi
Trăm vạn tình biển khơi
Tụ về trên đảo ngọc.
Tàng cây xanh xõa tóc
Lấp loáng ánh trăng ngà
Lối mòn thơm tình hoa
Bầu trời đầy hương Phật
Trăng tự trời Đẩu Suất
Rót ngọc xuống trần gian
Óng ánh giọt chuông vàng
Trăng ngân trên Hòn Đỏ.
Đây mới chỉ là thời gian và không gian trên hải đảo Hòn Đỏ.
Còn cái hồn, cái tinh túy đều lắng đọng nơi thiền viện Từ Tôn. Chùa được xây
trên đỉnh Hòn Đỏ. Mái ngói đơn sơ, vách gạch giản dị nhưng bên trong chùa được
bố trí trang nghiêm ấm cúng. Chùa mang dáng dấp một ngôi cổ tự ở thôn quê, ở thời
gian xa xưa khi mà lòng con người chưa chuộng cái vẻ hoành tráng bên ngoài, cái
đẹp nguy nga của những ngôi chùa trên tranh ảnh. Giữa trời cao biển rộng,
ngôi chùa không hề lẻ loi cô quạnh mà đầm ấm vô ngần. Chùa và đảo có mối tình
liên hệ thiêng liêng nên Hòn Đỏ được mang tên Hòn Đỏ Từ Tôn. Nhất là
khi đọc xong tập lược sử hình thành chùa Từ Tôn Hòn Đỏ của sư trụ trì
Thích Viên Mãn.
Suốt trên 40 năm cần cù lao động để khai phá hòn đảo đầy đá,
giữa nước mây hiu quạnh, thiếu nước thiếu bóng mát cây cao, sa môn Thích Viên
Mãn nhờ vào tấm lòng từ bi kiên nhẫn, sự giúp đỡ của gia đình người chài
lưới nghèo khổ (anh Sáu Sài Gòn) và các tín đồ Phật giáo đã xây dựng được ngôi
chùa Từ Tôn và khu đảo Hòn Đỏ. Sự xanh tươi ấm áp đã ngự trị trên hòn đảo nhỏ
nhoi và cô độc này nhờ ở tấm lòng vị Đạo vì người, vì quang cảnh thiên nhiên của
một nhà sư có một tâm hồn thông thoáng và yêu mến biển cả trời mây.
Có lẽ tại Nha Trang duy nhất có một ngôi chùa được
xây trên một hải đảo. Một ngôi chùa nằm giữa mây nước trùng dương mà lại không
mang tên có liên quan đến biển cả như Hải Đức, Giác Hải v.v... Chùa có danh hiệu
là Từ Tôn là danh hiệu của Phật Di Lặc.
Trong kinh Pháp Hoa có câu “Từ bi thị hiển Di Lặc tôn kính Phật”
hay nói gọn là “TỪ THỊ DI LẶC TÔN KÍNH PHẬT” và gọi tắt là TỪ TÔN .
Sau Thế Tôn là Từ Tôn. Ngài Di Lặc, tượng trưng
cho sự an Lạc, cho mai sau. Nụ cười Di Lặc là nụ cười hồn nhiên, nụ cười
cho mọi người, cho ngày mai. Và chùa Từ Tôn mang tên của vị Phật an lạc này với
tâm nguyện theo đường lối của ngài mang đến niềm vui cho người mai hậu,
an lạc cho mai sau. Một nụ cười an lành nở trên hải đảo.
Từ Tôn còn có thể gợi cho khách du quan một cảnh chùa
hiền từ nhưng tôn nghiêm giữa chốn trùng dương mây nước. Từ Tôn còn mang ý nghĩ
của người dân chất phác là từ từ tôn tạo. Bốn mươi năm cần cù lao động sa môn
Thích Viên Mãn và các đệ tử đã chứng nghiệm ý nghĩa này.
Từ Tôn, Từ Tôn
Di Lặc, Di Lặc
Đem an lạc
Cho mai sau
Đầy nhiệm màu
Nở nụ hồng trên hải đảo
Đóa hoa sen huyền ảo
Của Từ Tôn, Từ Tôn
Của Di Lặc, Di Lặc
So với các ngôi chùa khác, chùa Từ Tôn thiếu nhiều điều kiện
để trở thành một ngôi đại tự, để trở thành một danh lam. Tuy nhiên Từ Tôn đã có
một lịch trình xây dựng gian lao với hình bóng một vị sư lưng trần gánh nước từ
dưới bến đò lên đến đỉnh đồi trong nắng ban mai, giữa cái chói chang của trưa nồng
và còn để lại cho các đệ tử một câu chuyện của vị sư gặp khổ nạn không thể nào
quên.
Nguyên năm 1968 sư Viên Mãn từ đất liền ra đảo Hòn Đỏ. Không
có thuyền nên người phải dùng một tấm xốp trên đựng thức ăn và nước uống.
Sư Viên Mãn không biết bơi nên phải bám vào tấm xốp. Khi gần đến bờ đảo thì một
cơn lốc từ đất liền thổi ra biển khơi đã cuốn theo tấm xốp và người. Lênh
đênh trên biển cả suốt hai ngày đêm họ được một chiếc tàu quốc tịch Nhật Bản cứu
vớt và gởi thuyền đánh cá của ngư dân Xóm Cồn đưa về đất liền. Càng gặp gian
nan sư Viên Mãn càng bền chí khai hoang Hòn Đỏ và kiến tạo chùa Từ Tôn.
Cảnh gánh nước từ chiếc thuyền thúng chở nước ngọt từ trong đất
liền ra đảo phải gánh nhiều lần từ dưới bến lên đến đỉnh đồi theo đường dốc
quanh co khúc khủyu. Sáng gánh mãi đến trưa mới xong. Dùng nước ngọt này ngoài
việc phục vụ cho sinh hoạt ăn uống còn để tưới cho các cây lâu năm trồng
trên đảo. Bây giờ có được nước ngọt bơm từ đất liền lên đảo hằng mỗi tuần để chứa
trong các hồ xi măng to lớn nên khách du quan không thể tưởng tượng được cảnh
thiếu nước và gánh nước cực khổ đến dường nào.
Tham quan bên cạnh vườn chùa, du khách bắt gặp ngoài các chậu
hoa tươi đẹp còn có một cây kiểng bằng lăng bộng gốc được trồng trong một
chiếc thuyền thúng. Hình dáng cây kiểng bằng lăng và chiếc thuyền thúng gợi
nhớ đến những ngày chở nước và gánh nước lên đồi tưới cây của nhà sư Viên Mãn.
Bóng một nhà sư đơn độc gánh nước in hằn lên nền trời xanh nơi hoang đảo. Cô
liêu, vững vàng như cây bằng lăng còn giữ trọn dáng người xưa.
Cây cảnh bằng lăng.
Cây bằng lăng xưa
Khẳng khiu trong chiếc thuyền thúng
Nằm đơn độc bên cạnh vườn hoa
Chưa xóa nhòa
Cảnh nắng trưa
Nhà sư trần lưng gánh nước
Bước từng bước
Từ chân dốc lên đồi
Ôi! Những giọt mồ hôi
Chảy dài trên lưng Bồ tát.
Nắng chói chang
Lòng vẫn luôn rào rạt
Ước mong xanh mát bóng chùa
Từ Tôn Hòn Đỏ hương đưa
Cây bằng lăng giữ dáng xưa một lòng.
Trần Phong Hương
Ngoài ngôi Tam Bảo Từ Tôn, giếng đá, các hồ
chứa nước, vườn hoa, còn có nhiều công trình rất mỹ tú. Như tượng đức Quán Thế
Âm Bồ Tát đứng nơi Nghênh Phong Đài mặt ngó về phương Đông. Cũng nơi gành đá
này một quần cảnh hội tụ tượng Đức Quan Âm với đồng tử có rồng nghinh
bái, có đỉnh hương to lớn với tầng bậc thang xây bằng đá xuống sát mé biển
đông. Nơi đây công tạo tác của người đã hòa đồng với cảnh trí thiên nhiên thật
là tài ba duyên dáng.
Chất ngất giữa sườn non
Chập chờn đá mấy hòn
Biển xanh thuyền chao sóng
Trời thắm đảo chon von
Phật mẫu nhìn khổ hải
Đồng tử bái Quan Âm
Lư hương lồng mây khói
Rồng đến phục Xứ Trầm.
Tùng Phong
Hòn Đỏ Từ Tôn mãi đến tận hôm nay vẫn còn giữ được những nét
hoang sơ mặc dù có bàn tay con người trang trí. Mai sau ngôi thiền tự Từ Tôn dù
có được xây dựng nguy nga đồ sộ như những cảnh chùa khác, tôi mong ước rằng
chùa nên xây thế nào để hợp với dáng núi, với bóng hải đảo có bãi đá viền
quanh. Nên lấy cảnh núi của đảo làm chủ mà cảnh chùa chỉ là viên ngọc trong miệng
rồng.
Hãy giữ gìn cho da của đá vẫn còn giữ được bóng đỏ ráng chiều,
tránh không cho những bài thơ, những tên người ghi trên đá để làm kỷ niệm một
chuyến du hành, một mối tình dang dở v.v... Mong rằng khách tham quan
không để lại vết tích của mình trên thân đá, thân cây.
Từ Tôn là Di Lặc, là an lành, là mai sau hạnh phúc, là hồn
nhiên.
Những gì thiên nhiên sắp xếp hãy để yên, hãy giữ gìn trọn vẹn.
Chỉ cần thêm vào những chi tiết cần thiết cho cảnh thêm tươi, thêm hợp với
đời với đạo.
Muốn tham quan một cảnh chùa hoành tráng trang nghiêm thì nên
đến chùa Long Sơn. Muốn ngắm nhìn sự tham dự vào thiên nhiên của bàn tay con
người thì nên ra đảo Trí Nguyên hay Hòn Ngọc Việt. Đến Hòn Đỏ thì chỉ có Từ
Tôn, một ngôi chùa, một hải đảo của an lạc của nụ cười Di Lặc hồn nhiên.
Khi giã từ Hòn Đỏ Từ Tôn, lòng du khách bâng khuâng thương nhớ và hẹn ngày tái ngộ. Nhớ đến chùa Từ Tôn mỗi lúc lòng đời có điều xao xuyến,
khiến lòng ao ước trở lại thăm chùa xưa.
Đây 2 bài thơ tưởng nhớ:
Hòn Đỏ Từ Tôn
Như một đóa sen hồng
Ngưng đọng tình biển Đông
Nở trăm nghìn cánh đá
Ấp ủ chùa Từ Tôn
Màu biển xanh ngọc bích
Sắc đá đỏ ráng chiều
Hòn Đỏ Từ Tôn đảo
Tôn kính và mến yêu
Hòn Đỏ là màu sắc
Ráng chiều không phai màu.
Từ Tôn là Di Lặc
An lành cho mai sau
Đá cúi đầu đảnh lễ
Trời phảng phất hương trầm
Trăm nghìn con sóng bể
Về tụng Hải Triều Âm
Dốc cao thương lối cũ
Giếng đá nhớ mưa nguồn
Nền chùa xưa trăng đọng
Hòn Đỏ có Từ Tôn.
Cách xa ngàn vạn dặm
Lòng vẫn nhớ vẫn thương
Hòn Đỏ Từ Tôn đảo
Đẹp như đóa sen hường…
Và:
Chùa Từ Tôn Hòn Đỏ
Hải đảo trời mây trải nắng mưa
Từ Tôn Hòn Đỏ dáng chùa xưa
Trăng lồng mặt biển hồi chuông vọng
Hương thoảng sườn non ngọn gió đừa.
An lạc nhẹ bồng mây buổi sáng
Trần ai nặng gánh nắng ban trưa
Ra về sắc ráng hương còn đọng
Lưu luyến lòng ai lớp sóng đưa.
Quách Giao
Trong cuốn bút ký Người Gánh Nắng của nhà văn Quách
Giao do nhà xuất bản Hội Nhà Văn ấn hành năm 2007 có một thiên
nói về khóm mai mọc trên Hòn Đỏ. Khóm mai này có một đặc điểm là hoa không
nở vào mùa xuân mà chỉ nở hoa vào dịp rằm tháng 4 nhằm vào ngày Phật đản. Đây
là:
"Dưới bóng trăng sáng vằng vặc nhà sư sửng sốt nhìn thấy nơi khóm mai độc nhất trên đảo, nở hoa vàng ánh dưới trăng. Hoa trên cành nở
vàng rực rỡ. Bóng hoa vàng tươi sáng, ánh trăng vàng lung linh trên khóm mai.
Gió biển hiu hiu thổi về nhè nhẹ. Cành mai xao động, hoa lá rung rinh. Lặng lẽ
đứng nhìn khóm mai nở thạnh, nhà sư đắm mình trong thế giới mơ huyền. Màu vàng
của hoa cùng với sắc trắng trong của ánh trăng phủ kín cả khóm mai khiến cho
nhà sư ngỡ là khóm mai đang được khoác một chiếc áo cà sa vàng quí báu của đức
Phật ban cho nhà sư Huyền Trang khi đến được Tây phương Phật thỉnh kinh về
Trung thổ."
Cảnh mai nở thật là diễm tuyệt:
“Hương mai càng về khuya càng nồng đượm. Ngồi xếp bằng dưới
góc mai, sư Viên Mãn lắng nghe tiếng cành hoa rơi rụng chung quanh mình cùng với
ánh trăng long lanh trên phiến lá. Ánh trăng khuya nơi hải đảo thật trong sáng.
Ngắm cảnh trăng trên biển, lòng cảm thấy thảnh thơi hơn nhìn trăng trong thành
phố. Khi lòng thanh tịnh, tâm sẽ thấm dần chân vị, chân hương của thiên nhiên.
Lòng du khách sẽ nhập vào thiên nhiên để chan hòa cùng với thiên nhiên. Nhìn xa
thì biển cả mênh mông. Nhìn gần thì ánh trăng chập chờn cùng cây cỏ. Trong gió
có hương, dưới trăng có cảnh. Cảnh trăng là tướng. Ánh trăng là tánh. Tánh bất
biến, tướng tùy duyên. Cho nên nhiều khi ta chỉ nhìn ánh trăng lung linh trên một
giọt sương mà cảm nhận thấy được trăng mênh mông trên biển rộng.
Dưới ánh trăng, bên cụm mai già nhà sư đã thấu hiểu được mọi
biến hóa của qui luật vô thường.”
Đoạn văn này gây cho lòng chúng tôi bồi hồi xúc động. Cụm
mai chẳng những lạ thường vì đã nở hoa vào dịp lể Phật đản mà còn là một
cảnh đẹp có tánh vô thường nơi một hòn đảo xa vắng trong một đêm trăng sáng huyền
diệu. Tuy nhiên lòng thì có rung cảm song trí tôi vẫn không tin là cây mai có
thật trên Hòn Đỏ. Tôi vẫn nghi ngờ là đó chỉ là một cảnh tưởng tượng để
thơ mộng hóa cảnh vật trên Hòn Đỏ.
Cho đến sáng ngày 18 tháng 5 năm 2008 tức là ngày 14 tháng 4
năm Mậu Tý, ngày Phật đản và là ngày đặc biệt Liên hiệp quốc tổ chức mừng
Phật đản năm 2552 tại Việt Nam, tôi nhận được điện thoại của một bạn thân báo
cho biết một tin vui là khóm mai trên Hòn Đỏ đã nở hoa.
Tôi và vợ tôi vội vàng đi sang Hòn Đỏ. Nhập vào
đòan ngưòi đi trẩy hội chúng tôi đã được chứng kiến tận mắt khóm mai đang nở rộ
những cánh mai vàng dưới ánh nắng mai ấm áp của mùa Phật ra đời. Đứng lặng
yên trước cảnh tượng thiên nhiên đầy hứng thú và kinh ngạc, lòng tôi vô cùng hạnh
phúc. Mọi sự xãy ra trên cõi đời này đều có duyên quả. Phật đản năm nay được tổ
chức tưng bừng khắp non sông. Ngày vui chung thế giới Phật giáo thì nơi hải đảo
hoang vắng này hoa mai lại bừng nở để đón chào đức Thế tôn ra đời.
Nha Trang mùa Phật đản sinh năm 2552
Hương xoài trên Hòn Đỏ
Sau cơn bão số 1 năm 2009, cửa sông Cái Nha Trang vàng đục
màu phù sa của nước nguồn chảy xuống. Sau những ngày ủ dột, trời lại bừng sáng.
Lễ Phật Đản năm nay lại nhằm vào ngày thứ bảy. Người người kéo nhau đi thăm
chùa Từ Tôn, viếng cảnh Hòn Đỏ. Đò đưa khách thập phương được tăng cường thêm 3
chiếc. Vì nước lớn nên số lượng khách xuống đò được hạng chế. Không một chuyến
nào thưa khách cũng như chật đầy khách, nhờ ở sự sắp xếp của các chủ đò. Chiếc
này vừa đến bến thì chiếc kia lại tách bến, cho nên dù có phải ở lại để đi chuyến
sau, khách thập phương vẫn yên tâm chờ đợi. Nước triều cao, sóng biển chập chờn
nâng thuyền lên xuống nhưng khách ngồi trên đò vẫn an tâm...
Thành phần tham dự lễ đa số là các bà, các chị và trẻ em. Qua
đò thì nắng, leo dốc thì mệt nhưng lên đến đỉnh đồi thì thân tâm thanh nhoát nhẹ
nhàng. Bóng mát của vườn cây trên đảo ôm choàng lên khách thập phương.
Đôi tiếng chuông buông nhẹ; âm vang dịu dàng và ấm áp. Ánh nắng lóng lánh lao
xao trong vòm lá xoài xanh mát. Nơi đài chuông, bóng người đảnh lễ thấp thoáng
trong yên tỉnh. Những chùm xoài đong đưa trong nắng nhạt. Sư bà đang lặng lẽ
khua chuông. Quả đại hồng chung buông nhẹ tiếng. ngân vang như đong đưa, như
lay động những cành xoài trĩu quả, để đón chào khách thập phương. Đứng trước lễ
đài, thắp nén hương cúng Phật, nhìn những vòm lá xanh của vườn xoài, du khách
có cảm tưởng như mình được trở lại vườn xưa nơi quê hương thôn dã với mái chùa
nho nhỏ xinh xinh ẩn bóng dưới vòm xoài xanh mát. Khắp miền Trung, nơi đâu có
chùa là nơi đó có bóng xoài tỏa mát, có tiếng chim cu gù gáy giữa trưa hè.
Chung quanh chùa thường là cánh đồng lúa, xanh thắm màu mạ non hoặc vàng ươm
màu vàng lúa chín. Tại Hòn Đỏ, biển cả mênh mông xanh thẳm cùng với trời cao
bao quanh song có một vườn cây đa số là xoài có nhiều bóng mát gợi nhớ đến vùng
đất yên lành có chùa có cảnh.
Xoài được trồng trên đảo cách đây trên 40 năm. Ban đầu chỉ có
14 cây, lấy từ giống xoài chùa Đá Trắng ở Phú Yên (loại xoài ngon và quí nhất
miền Trung). Sau đó các giồng ở miền Nam được trồng thêm gây thành một vườn
xoài sum suê đầy bóng mát.. Xoài được trồng thành từng khu vực. Trước tiên là
khu gần chùa. hiện chỉ còn sống một cây duy nhất trong 14 cây được trồng đầu
tiên, đứng che tàn cạnh nhà bếp của chùa. Nhờ được gần gũi với người, được thừa
hưởng nước ngọt của khách đến viếng thăm chùa nên cây xoài tuy thân không to,
song tàn đủ rộng để che mát bếp chùa và trổ hoa kết trái hằng năm. Ngoài ra còn
có các khu chung quanh điện đài Nginh Phong nơi an tọa kim thân Phật Quán Thế
Âm, chung quanh điện Đại hồng chung, chung quanh hồ Tĩnh tâm và dọc theo con đường
từ bến nước đến ngôi chùa Từ Tôn.
Mùa lể Phật Đản năm nay (2553) hoa mai trên Hòn Đỏ nở hoa chỉ
lác đát vài nụ (có lẽ vì năm nay nhuần hai tháng năm), nhưng xoài lại sum đầy
trái. Không biết tình cờ hay duyên may mà các gia đình Phật tử ngày trước ngụ ở
Xóm Cồn lại đưa nhau về hội tụ nơi Hòn Đỏ đón mừng ngày Phật đản. Có gia đình
đưa cả ông bà con cháu về thăm lại chùa xưa.
Có nhìn thấy tận mắt cảnh những gia đình quần tụ dưới gốc
xoài, ăn uống, vui đùa, lòng ta mới hiểu đến sự cần thiết có một môi trường, một
khung cảnh thiên nhiên để con người ngoài việc sinh hoạt xã hội còn có giây
phút quây quần chung với nhau không những dưới một mái nhà mà còn dưới bầu trời
cao rộng và dưới bóng mát của thiên nhiên.
Giữa trưa nồng, trên chiếc võng đu đưa bên gốc xoài dưới
trời xanh cao rộng có tiếng sóng vổ rì rào lên hốc đá, vang vọng tiếng máy thuyền,
cụ bà nằm lim dim đôi mắt như nhớ lại những kỷ niệm ngày tháng đã đi qua. Trong
hơi gió, như mơ hồ vọng lại tiếng ru hời:
Gió đưa mười tám lá xoài
Mười hai lá mít lạc loài về đây.
Và cụ ông nhớ lại tiếng âm vang của máy ghe từng cùng theo
mình ra biển cả. Con thuyền nhỏ bé ngày nào bây giờ trở thành rộng lớn vững chắc
như núi non. Cảnh thiên nhiên tươi đẹp trời cao biển rộng mà mình đã sống
thưở thanh xuân, giờ đây như trở lại. Mắt lim dim nhưng hồn đang phơi phới..
Có nhìn thấy những em bé ngồi ngắm những quả xoài xanh
mướt, quằn cành, từng chùm đong đưa trước gió như hình bóng trẻ thơ trong
câu chuyện cổ tích, lòng ta mới nhận thức được là tuổi thơ cần đến thiên nhiên
như thế nào. Phải có những vườn xoài, những vườn cam, vườn bưởi sai quằn trái để
tuổi thơ được sống vui chơi, nhìn ngắm, để biết yêu mến cảnh thiên thiên. Nhờ
có hòa nhập vào môi trường thì kết quả giáo dục mới được thấm nhuần và sâu đậm.
Cảnh tượng các em bé, kính cẩn thắp nhan vái Phật, ăn cơm dưới bóng mát của tàn
xoài với vài miếng đậu phụ, một vài cọng rau muồng, ăn một cách ngon lành và
thơ ngây, ta mới hiểu được rằng tuổi thơ rất cần có những giây phút sống với
thiên nhiên rộng rãi, giữa một bầu không khí thanh nhàn là cần thiết đến ngần
nào..
Các bà mẹ, bà chị sau khi lễ chùa xong, đi vào đứng thứ tự
nơi bếp chùa lựa chọn gắp từng món thức ăn hợp vị vừa đủ một mâm cơm rồi bưng
ra cùng cha mẹ, con cháu, trải chiếu quây quần ăn uống với nhau dưới bóng mát của
tàn xoài. Ôi hương quê của những ngày xưa, tràn đầy trong bửa cơm chay đạm bạc
nơi hải đảo này. Suốt cả cuộc đời lao động, từ khi rời xa quê hương đi tha
phương làm ăn, hôm nay cả gia đình có một bửa ăn đầy hạnh phúc: Ăn cơm cùng gia
đình, cùng bà con lối xóm, dưới tàn lá thiên nhiên, trong tiếng mõ câu
kinh như vẳng từ trên tàn xoài vọng xuống. Hạnh phúc đến cho tất cả mọi người:
đơn giản mà sâu đậm biết là dường nào.
Có những đôi trai gái ngồi riêng rẽ cùng nhau dưới một bóng
xoài thấp, trái quằn xuống chấm vai như đang lắng nghe tiếng thì thầm của đôi
tim non trẻ.
Cảnh vật như thiêng liêng, trong sáng hơn.
Trong hơi gió nhẹ thoảng mùi trầm hương.
Bầu trời xanh cao rộng, âm vang sóng biển mặn nồng.
Bóng mát dịu dàng của vườn xoài tuy trái còn xanh song đã
thoáng hương vị ngọt ngào của mùa xoài chín.
Lòng những người con của Phật, hân hoan đón nhận hạnh
phúc tràn đầy trong ngày Phật đản năm 2553 (Kỷ Sửu) trên hòn đảo xanh tươi
này.
Nha Trang mùa Phật đản sinh năm 2553
Quách Giao
Công Phu buổi sáng
Ni Chúc Trí thức giấc vào lúc 3 giờ 30... Bầu trời trên hải đảo
Hòn Đỏ trong trẻo. Mặt biển còn đang đặc sánh màu xanh. Phía chân trời, hình
các ngọn đảo in hằn trên nền trời trong sáng.
Xách cây đèn bão trên tay Ni Chúc Trí lần bước đi theo con đường
men dốc xuống tòa gác chuông. Như chờ sẳn nơi thềm, hai con chó Sô Ni và Fu Si
lặng lặng đi theo Ni. Đây là hai con vật từ trong đất liền lội qua đảo và lên
chùa, rồi ở luôn không trở về thôn xóm cũ. Ban đầu chỉ có một con, nhân một
buổi chiều nước triều xuống, vũng biển từ đất liền ra đảo, nước cạn phô bày cát
đá, con vật theo chủ ra rạng. Chủ cặm cụi bắt ốc còn con vật lần mò chạy lên dốc
đá và vào tới chùa. Khi chủ ra về thì hoàng hôn đã phủ kín bầu trời. Trong cảnh
nhá nhem, chủ không nhớ đến con vật. Về nhà không thấy, mới biết là chó đã ở lại
nơi chùa. Sáng hôm sau chủ đi đò qua đảo. Gặp nhau chủ và vật vui mừng quấn
quít. Đến trưa chủ ra về. Con vật theo chủ ra đến tận bến, đợi chủ xuống đò rồi
quay mình chạy thẳng một mạch lên đến đỉnh sườn dốc như lẩn tránh tiếng gọi thất
thanh của người chủ. Lên đến đỉnh dốc chú chó quay lại đứng nhìn con đò tách bến,
vẩy vẩy đuôi. Trên đò người chủ nhìn xuống lòng nước tự nhủ: Nó có duyên với
nhà chùa thì nên để nó đi tu cũng được. Niềm thương yêu loài vật đã
chung sống với mình, chan hòa cùng lòng ái mộ đạo Phật, khiến sóng nước như bồi
hòi. Từ đó lại có nhiều con chó vượt biển cạn ra đảo lên chùa. Hiện nay có tất
cả là 6 con. Lạ một điều là chúng hoàn toàn ăn chay. Sự chọn lựa ở lại với chùa
giải thích việc chúng không còn mơ tưởng gì đến cá thịt, tuy chúng vốn sống
trong môi trường thôn xóm vạn chài. Sáu con đều là chó đực.Tuy ăn chay song con
nào lông cũng mướt, thịt vẫn đầy. Nhà chùa để cho chúng sống tự nhiên. Ăn uống
trong những đĩa bát riêng biệt không bao giờ lẫn lộn. Chúng tự động phân chia
nhau phận sự: Một con lớn tuổi luôn nằm dưới chân sư cụ Thích Viên Mãn. Ba con
thường xuyên chạy khắp các nơi trên đảo. Hai con thường theo Ni Chúc Trí, khi
thì đi thắp nhan nơi các bệ thờ Phật nằm rải rác khắp đảo, khi thì đi quét rác
dưới khóm cây trên đảo. Ban đêm chúng ngủ trước phòng Ni và theo Ni đi công phu
giấc sáng. Khi lên đến tòa gác chuông, hai con Sô Ni và Fu Si lẳng lặng
ngồi như để lắng nghe ni Chúc Trí cầu kinh và thỉnh chuông.
Sau mỗi câu kinh là một tiếng chuông. Trong cảnh yên tịnh dưới
bầu trời rạng đông, tiếng chuông, trong trẻo, vang xa. Khắp biển núi như chan
hòa niềm an lành thanh tịnh. Tiếng chuông không xáo động cảnh ban mai nhưng âm
thanh nhè nhẹ làm tăng thêm cảnh lặng yên. Nhờ nghe tiếng chuông vang lòng ta cảm
nhận được yên lặng của trời biển. Một hơi gợn lăng tăng, mới khơi
rõ sự xa vắng của hồ thu. Một tiếng khẻ đớp bóng của chú cá nhỏ, làm tăng
thếm sự im lặng của mặt hồ thu.
Trong sự êm ả của ban mai, tiếng chuông như xao động âm
ba gọi giấc bình minh từ từ sáng lên tận phía chân trời. Biển thức giấc sớm hơn
tất cả mọi nơi. Mép biển liền với chân trời có viền sáng trong trẻo, Dần dần
chuyển màu vàng rồi đỏ. Tiếng chuông chùa thong thả điểm hồi. Tiếng sóng vổ nhẹ
vào bãi đá như thì thầm cùng tụng lời kinh buổi sáng. Các cành xoài chung quanh
gác chuông, rơi rụng những giọt sương mai, tí tách điểm nhịp hòa cùng tiếng
chuông. Trong đất liền, trên ngọn đồi Sinh Trung, chủa tổ Kỳ Viên Trung
Nghĩa cũng vang tiếng chuông điểm công phu.
Vịnh Nha Trang, biển sóng sánh màu xanh, mây trời nhè
nhàng trôi trắng xóa. Âm thanh hồi chuông công phu buổi sáng của Hòn Đỏ Từ
Tôn hòa nhập trời đất với lòng con người thức tỉnh đón nhận buổi bình minh an
lành.
Quách Giao (Mồng ba tháng 6 năm Kỷ Sửu)
Đêm Hoa Đăng trên Hòn Đỏ
Mặt trời đã ngã về Tây, bãi đá Tịnh Tâm nơi hướng Đông đảo, ửng
hồng tươi thắm hơn mọi hôm. Tất cả dường như thay da đổi thịt.. Nơi tòa sen đấu
bãi trở thành một án kệ hai bên trang hoàng hai nhánh cây khô được vớt tự lòng
trùng dương biểu tượng cho sự mến yêu thiên nhiên nghìn năm quá khứ. Khi màu trời
đang hồng trở nên xanh thắm thì buổi lể bắt đầu. Chư vị thượng tọa, đại đức ở
Phú Yên được chùa Từ Tôn cung thỉnh vào Hòn Đỏ chủ trì cuộc đại lể, từ nơi sân
vườn chùa tiến từng bước ra đến lể đài. Trong gió chiều hiu hiu, bóng những
chiêc cà sa vàng in hằng trên nền đá đỏ, phơi phới dưới bầu trời trong xanh. Biển
trải dài nước biếc để cung nghinh đoàn con Phật. Các chư đệ tử trong màu áo lam
đứng hai bên gành đá chắp tay niệm Phật cúi đầu đảnh lể chào chư vị tăng già.
Giữa trời biển bao la, màu áo cà sa vàng như rực rở, màu áo
lam như cung kính khiêm nhường. Nước thủy triều đang xuống. Tiếng sóng nhẹ vổ
vào chân bãi đá như dịu dàng, như âu yếm của đại dương đón mừng buổi lể sắp bắt
đầu. Màn hoàng hôn phủ nhẹ lên đảo, sắc dỏ của bãi đá thẩm lại nâng bầu trời
dâng cao và cuộc lể bắt đầu. Âm vang lời kinh ngân vọng trong không gian
của đảo giửa trời mây nước khiến cho hàng ngàn những con Phật xao xuyến trong
lòng. Đây là một buổi cầu nguyện lần đầu tiên, dưới trời, giữa biển khơi và ấm
áp tình thương của những đệ tử Phật gia hướng về các linh hồn uổn tử, trầm
thủy không nơi nương tựa hiện đang bơ vơ trên sóng nước trùng dương. Trong lời
kinh tiếng mõ có chen lẫn tiếng kèn, tiếng đàn cùng tiếng trống khiến cho âm
vang hòa hợp gợi trong lòng người tham dự mối u hoài cảm thông tha thiết với
muôn cô hồn phiêu bạt khắp thế gian.
Cuộc lể gần đến hồi cuối thì các hoa đăng được sắp hàng dài từ
trên Nghênh Phong đài nơi an vị tượng Quán Thế Âm Bồ Tát xuống đến mé nước bãi
đá Tịnh Tâm. Những cánh hoa sen cứ bốn bông hoa được gắn trên một đài xốp hình
vuông, sắp hàng chạy dài từ trên đòi xuống đến mé nước, theo hình chữ S tượng
trưng cho hình thể nước Việt Nam. Đèn sáp trong các cánh sen vừa được thắp sàng
thì buổi lể tụng kinh chấm dức. Đại Đức Thích Chúc Minh, trụ trì chùa Từ Tôn
Hòn Đỏ phát biểu:
Buổi phóng đăng hôm nay là nhắm cầu nguyện cho những
oan hồn uổn tử trâm thủy, chiến sĩ trận vong, đồng bào tử nạn, hồn siêu lạc mộ
được nương ánh quang minh trí tuệ giải thoát mà sớm được siêu sanh về cảnh giới
an lành và chấm dức luân hồi. Mỗi ngọn đèn là mỗi nhân sinh được thắp sáng lên
trong chính mình ngọn huệ đăng phá tan màn vô minh đen tối.
Hương hoa đăng! Đó là đêm của ánh sáng và sức sống vừa được
giải thoát vô minh. Hôm nay, đêm của tục lệ phóng sanh đăng được trở về dành
cho sự sống an lành và ánh sáng trí tuệ huyền linh trở về với thiên nhiên vũ trụ.
Khi những ngọn đèn được thắp sáng lên chính là lúc vạn hữu được khơi nguồn tỉnh
ngộ cơn mê dài, từ cõi rừng sâu vô minh đen thẳm chuyển mình theo với ánh sáng
để trở nên thánh thiện, chở theo trong lòng những đóa hoa sen phóng đăng rực rỡ
thành một dòng ánh sáng muôn màu long lanh huyền diệu không cùng. Những ngọn
đèn trong đêm Hoa đăng là nét siêu hình đẹp nhất cho cõi đời hiện sinh: trao tặng
ánh sáng và sự sống trỡ lại cho trời đất và chúng sinh, dòng nước là Tâm thức
đang trên từng cơn sóng nhỏ đi vào thăm thẳm tâm linh vời vợi của bản lai, và mổi
ngọn hoa đăng nhấp nhô trên sóng nước vịnh Nha Trang hôm nay vừa là trí tuệ và
là tình thương chảy hoài không dứt.
Buổi lễ trang nghiêm hòa cùng những lời phát biểu cảm động,
làm thấm thía sâu sa ý nghĩa đêm phóng hoa đăng.
Dòng hoa đăng lấp lánh ánh đèn rung rinh như một suối đèn màu
chảy ngòng ngoèo, từ tòa điện Nghinh Phong xuống chân mép nước bãi đá Tịnh Tâm.
Mọi đệ tử, từ từ di chuyển, hàng ngủ trang nghiêm, hai tay nâng khay đèn, mắt
nhìn thẳng vào hoa đăng và miệng lâm râm cầu nguyện. Trong thời khắc này, lòng
yêu thương tôn kính của người sống chan hòa trong tình yêu thương đồng loại với
những kẻ khuất mặt. Trời biển mênh mông, tình thương yêu của con người lại càng
mênh mông... Dòng suối hoa đăng được lòng người chuyển đưa ra khơi. Trùng dương
trải lòng đón nhận. Ánh nến chập chờn. Âm và dương đã chan hòa cùng nhau trên mặt
nước bao la. Tình thương dào dạt, mỗi ngọn hoa đăng nhấp nhô trên sóng nước
vừa là trí tuệ vừa là tình thương chảy hoài không dứt.
Quách Giao (rằm tháng 7 năm Kỷ Sửu)
Về thăm chốn ân tình
(Việc bà Liên về thăm chùa Từ Tôn và Hòa thượngThích Viên Mãn
đã trôi qua. Tuy nhiên lời hứa của bà Liên đã được thực hiện.)
Hôm nay chùa Từ Tôn trên Hòn Đỏ tiếp một vị khách đặc biệt.
Có thể nói là rất đặc biệt. Đó là một thiếu nữ tuổi khoảng độ 25, người
nhỏ nhắn, tính tình rất tự nhiên. Trước tiên là cô gọi hòa thượng Thích Viên
Mãn là cụ.
- Thưa cụ, cụ có phải là sư trụ trì chùa Từ Tôn không ạ?. Cháu xin tự giới thiệu, cháu tên Hiếu, vừa từ Hoa Kỳ về thăm Việt Nam.Vốn yêu
thích thiên nhiên nên cháu vì thấy cảnh hòn đảo này đẹp nên cháu ghé thăm. Quả đây là nơi rất đẹp cụ ạ. Cháu thích nơi này lắm. Xin phép cụ cho cháu được thường
xuyên thăm viếng phong cảnh trên đảo trong những ngày dừng chân tại Nha Trang.
Rồi cô gái tự nhiên đi quan sát thăm viếng khắp nơi trên đảo.
Cảnh quan đầu tiên là đến thăm khóm mai sau khi được một
bạn đường kể lại:
Khóm mai này có một đặc điểm là hoa không nở vào mùa xuân mà
chỉ nở hoa vào dịp rằm tháng 4 nhằm vào ngày Phật đản. Đây là cảnh:
"Dưới bóng trăng sáng vằng vặc nhà sư sửng sốt nhìn thấy
nơi khóm mai độc nhất trên đảo, nở hoa vàng ánh dưới trăng. Hoa trên cành nở
vàng rực rỡ. Bóng hoa vàng tươi sáng, ánh trăng vàng lung linh trên khóm mai.
Gió biển hiu hiu thổi về nhè nhẹ. Cành mai xao động, hoa lá rung rinh. Lặng lẽ
đứng nhìn khóm mai nở thạnh, nhà sư đắm mình trong thế giới mơ huyền. Màu vàng
của hoa cùng với sắc trắng trong của ánh trăng phủ kín cả khóm mai khiến cho
nhà sư ngỡ là khóm mai đang được khoác một chiếc áo cà sa vàng quí báu của đức
Phật ban cho nhà sư Huyền Trang khi đến được Tây phương Phật thỉnh kinh về
Trung thổ."
Cảnh mai nở thật là diễm tuyệt:
“Hương mai càng về khuya càng nồng đượm. Ngồi xếp bằng dưới
góc mai, sư Viên Mãn lắng nghe tiếng cành hoa rơi rụng chung quanh mình cùng với
ánh trăng long lanh trên phiến lá. Ánh trăng khuya nơi hải đảo thật trong sáng.
Ngắm cảnh trăng trên biển, lòng cảm thấy thảnh thơi hơn nhìn trăng trong thành
phố. Khi lòng thanh tịnh, tâm sẽ thấm dần chân vị, chân hương của thiên nhiên.
Lòng du khách sẽ nhập vào thiên nhiên để chan hòa cùng với thiên nhiên. Nhìn xa
thì biển cả mênh mông. Nhìn gần thì ánh trăng chập chờn cùng cây cỏ. Trong gió
có hương, dưới trăng có cảnh. Cảnh trăng là tướng. Ánh trăng là tánh. Tánh bất
biến, tướng tùy duyên. Cho nên nhiều khi ta chỉ nhìn ánh trăng lung linh trên một
giọt sương mà cảm nhận thấy được trăng mênh mông trên biển rộng.
Dưới ánh trăng, bên cụm mai già nhà sư đã thấu hiểu được mọi
biến hóa của quy luật vô thường.”
Đoạn văn này gây cho lòng độc giả bồi hồi xúc động. Cụm
mai chẳng những lạ thường vì đã nở hoa vào dịp lể Phật đản mà còn là một
cảnh đẹp có tánh vô thường nơi một hòn đảo xa vắng trong một đêm trăng sáng huyền
diệu. Tuy nhiên lòng thì có rung cảm song trí tôi vẫn không tin là cây mai
có thật trên Hòn Đỏ. Tôi vẫn nghi ngờ là đó chỉ là một cảnh tưởng tượng để
thơ mộng hóa cảnh vật trên Hòn Đỏ.
Cho đến sáng ngày 18 tháng 5 năm 2008 tức là ngày 14 tháng 4
năm Mậu Tý, ngày Phật đản và là ngày đặc biệt Liên hiệp quốc tổ chức mừng
Phật đản năm 2552 tại Việt Nam, tôi nhận được điện thoại của một bạn thân báo
cho biết một tin vui là khóm mai trên Hòn Đỏ đã nở hoa.
Tôi và vợ tôi vội vàng đi sang Hòn Đỏ. Nhập vào
đòan ngưòi đi trẩy hội chúng tôi đã được chứng kiến tận mắt khóm mai đang nở rộ
những cánh mai vàng dưới ánh nắng mai ấm áp của ngày Phật ra đời. Đứng lặng yên
trước cảnh tượng thiên nhiên đầy hứng thú và kinh ngạc, lòng tôi vô cùng hạnh
phúc. Mọi sự xãy ra trên cõi đời này đều có duyên quả. Phật đản năm nay được tổ
chức tưng bừng khắp non sông. Ngày vui chung thế giới Phật giáo thì nơi hải đảo
hoang vắng này hoa mai lại bừng nở để đón chào đức Thế tôn ra đời.
(Nha Trang mùa Phật đản sinh năm 2552)
Sau nhiều lần tham quan Hiếu được sư cụ Viên Mãn tiếp chuyện
vài lần và được chuyện trò cùng Đại Đức Thích Chúc Minh, người được sư cụ Viên
Mãn giao cho việc quản lý chùa Từ Tôn vì sư cụ đã luống tuổi, sức khỏe suy yếu.
Sau khi kể sơ lược việc thành lập chùa và xây dựng vườn cây trên đảo, sư Đại đức
Chúc Minh trình bày kế hoạch xây dựng chùa và cây cối trên vùng đảo. Hiếu hết sức
cảm phục. Và nguyện ra công giúp chùa.
Về Sài Gòn lo xong công việc, Hiếu ra lại Nha Trang vừa dịp lễ
Phật đản năm 2553. Nhập vào đoàn người đi trẩy hội và sau khi hoàn tất các lễ
nghi Hiểu sửng sốt nhận ra một phong cảnh ngoạn mục có trên Hòn Đỏ:
Sau cơn bảo số 1 năm 2009, cửa sông Cái Nha Trang vàng đục
màu phù sa của nước nguồn chảy xuống. Sau những ngày ủ dột, trời lại bừng sáng.
Lễ Phật Đản năm nay lại nhằm vào ngày thứ bảy. Người người kéo nhau đi thăm
chùa Từ Tôn, viếng cảnh Hòn Đỏ. Đò đưa khách thập phương được tăng cường thêm 3
chiếc. Vì nước lớn nên số lượng khách xuống đò được hạng chế. Không một chuyến
nào thưa khách cũng như chật đầy khách, nhờ ở sự sắp xếp của các chủ đò. Chiếc
này vừa đến bến thì chiếc kia lại tách bến, cho nên dù có phải ở lại để đi chuyến
sau, khách thập phương vẫn yên tâm chờ đợi. Nước triều cao, sóng biển chập chờn
nâng thuyền lên xuống nhưng khách ngồi trên đò vẫn an tâm..
Thành phần tham dự lễ đa số là các bà, các chị và trẻ em. Qua
đò thì nắng, leo dốc thì mệt nhưng lên đến đỉnh đồi thì thân tâm thanh nhoát nhẹ
nhàng. Bóng mát của vườn cây trên đảo ôm choàng lên khách thập phương. Đôi tiếng chuông buông nhẹ; âm vang dịu dàng và ấm áp. Ánh nắng lóng lánh lao
xao trong vòm lá xoài xanh mát. Nơi đài chuông, bóng người đảnh lễ thấp thoáng
trong yên tỉnh. Những chùm xoài đong đưa trong nắng nhạt. Sư bà đang lặng lẽ khua
chuông. Quả đại hồng chung buông nhẹ tiếng. ngân vang như đong đưa, như lay động
những cành xoài trĩu quả, để đón chào khách thập phương. Đứng trước lễ đài, thắp
nén hương cúng Phật, nhìn những vòm lá xanh của vườn xoài, du khách có cảm tưởng
như mình được trở lại vườn xưa nơi quê hương thôn dã với mái chùa nho nhỏ xinh
xinh ẩn bóng dưới vòm xoài xanh mát. Khắp miền Trung, nơi đâu có chùa là nơi đó
có bóng xoài tỏa mát, có tiếng chim cu gù gáy giữa trưa hè. Chung quanh chùa
thường là cánh đồng lúa, xanh thắm màu mạ non hoặc vàng ươm màu vàng lúa chín.
Tại Hòn Đỏ, biển cả mênh mông xanh thẳm cùng với trời cao bao quanh song có một
vườn cây đa số là xoài có nhiều bóng mát gợi nhớ đến vùng đất yên lành có chùa
có cảnh.
Xoài được trồng trên đảo cách đây trên 40 năm. Ban đầu chỉ có
14 cây, lấy từ giống xoài chùa Đá Trắng ở Phú Yên (loại xoài ngon và quí nhất
miền Trung). Sau đó các giồng ở miền Nam được trồng thêm gây thành một vườn
xoài sum suê đầy bóng mát... Xoài được trồng thành từng khu vực. Trước tiên là
khu gần chùa. hiện chỉ còn sống một cây duy nhất trong 14 cây được trồng đầu
tiên, đứng che tàn cạnh nhà bếp của chùa. Nhờ được gần gũi với người, được thừa
hưởng nước ngọt của khách đến viếng thăm chùa nên cây xoài tuy thân không to,
song tàn đủ rộng để che mát bếp chùa và trổ hoa kết trái hằng năm. Ngoài ra còn
có các khu chung quanh điện đài Nginh Phong nơi an tọa kim thân Phật Quán Thế
Âm, chung quanh điện Đại hồng chung, chung quanh hồ Tĩnh tâm và dọc theo con đường
từ bến nước đến ngôi chùa Từ Tôn.
Mùa lể Phật Đản năm nay (2553) hoa mai trên Hòn Đỏ nở hoa chỉ
lác đát vài nụ (có lẽ vì năm nay nhuần hai tháng năm), nhưng xoài lại sum đầy
trái. Không biết tình cờ hay duyên may mà các gia đình Phật tử ngày trước ngụ ở
Xóm Cồn lại đưa nhau về hội tụ nơi Hòn Đỏ đón mừng ngày Phật đản. Có gia đình
đưa cả ông bà con cháu về thăm lại chùa xưa.
Có nhìn thấy tận mắt cảnh những gia đình quần tụ dưới gốc
xoài, ăn uống, vui đùa, lòng ta mới hiểu đến sự cần thiết có một môi trường, một
khung cảnh thiên nhiên để con người ngoài việc sinh hoạt xã hội còn có giây
phút quây quần chung với nhau không những dưới một mái nhà mà còn dưới bầu trời
cao rộng và dưới bóng mát của thiên nhiên.
Giữa trưa nồng, trên chiếc võng đu đưa bên gốc xoài dưới
trời xanh cao rộng có tiếng sóng vổ rì rào lên hốc đá, vang vọng tiếng máy thuyền,
cụ bà nằm lim dim đôi mắt như nhớ lại những kỷ niệm ngày tháng đã đi qua. Trong
hơi gió, như mơ hồ vọng lại tiếng ru hời:
Gió đưa mười tám lá xoài
Mười hai lá mít lạc loài về đây.
Ôi quê hương thanh bình xa vắng như về đọng lại ở nơi này.
Và cụ ông nhớ lại tiếng âm vang của máy ghe từng cùng theo
mình ra biển cả. Con thuyền nhỏ bé ngày nào bây giờ trở thành rộng lớn vững chắc
như núi non. Cảnh thiên nhiên tươi đẹp trời cao biển rộng mà mình đã sống
thưở thanh xuân, giờ đây như trở lại. Mắt lim dim nhưng hồn đang phơi phới..
Có nhìn thấy những em bé ngồi ngắm những quả xoài xanh
mướt, quằn cành, từng chùm đong đưa trước gió như hình bóng trẻ thơ trong
câu chuyện cổ tích, lòng ta mới nhận thức được là tuổi thơ cần đến thiên nhiên
như thế nào. Phải có những vườn xoài, những vườn cam, vườn bưởi sai quằn trái để
tuổi thơ được sống vui chơi, nhìn ngắm, để biết yêu mến cảnh thiên thiên. Nhờ
có hòa nhập vào môi trường thì kết quả giáo dục mới được thấm nhuần và sâu đậm.
Cảnh tượng các em bé, kính cẩn thắp nhan vái Phật, ăn cơm dưới bóng mát của tàn
xoài với vài miếng đậu phụ, một vài cộng rau muồng, ăn một cách ngon lành và
thơ ngây, ta mới hiểu được rằng tuổi thơ rất cần có những giây phút sống với
thiên nhiên rộng rãi, giữa một bầu không khí thanh nhàn là cần thiết đến ngần
nào..
Các bà mẹ, bà chị sau khi lễ chùa xong, đi vào đứng thứ tự
nơi bếp chùa lựa chọn gắp từng món thức ăn hợp vị vừa đủ một mâm cơm rồi bưng
ra cùng cha mẹ, con cháu, trải chiếu quây quần ăn uống với nhau dưới bóng mát của
tàn xoài. Ôi hương quê của những ngày xưa, tràn đầy trong bửa cơm chay đạm bạc
nơi hải đảo này. Suốt cả cuộc đời lao động, từ khi rời xa quê hương đi tha
phương làm ăn, hôm nay cả gia đình có một bửa ăn đầy hạnh phúc: Ăn cơm cùng gia
đình, cùng bà con lối xóm, dưới tàn lá thiên nhiên, trong tiếng mõ câu
kinh như vẳng từ trên tàn xoài vọng xuống. Hạnh phúc đến cho tất cả mọi người:
đơn giản mà sâu đậm biết là dường nào.
Có những đôi trai gái ngồi riêng rẽ cùng nhau dưới một bóng
xoài thấp, trái quằn xuống chấm vai như đang lắng nghe tiếng thì thầm của đôi
tim non trẻ.
Cảnh vật như thiêng liêng, trong sáng hơn.
Trong hơi gió nhẹ thoảng mùi trầm hương.
Bầu trời xanh cao rộng, âm vang sóng biển mặn nồng.
Bóng mát dịu dàng của vườn xoài tuy trái còn xanh song đã
thoáng hương vị ngọt ngào của mùa xoài chín.
Lòng những người con của Phật, hân hoan đón nhận hạnh
phúc tràn đầy trong ngày Phật đản trên hòn đảo xanh tươi này.
(Nha Trang mùa Phật đản sinh năm 2553)
Sau mùa Phật đản, Hiếu thường xuyên có mặt trên Hòn Đỏ.
Công việc đầu tiên của Hiếu là tự mình bỏ công ra tìm một số "bạn đồng hành" để cùng mình chung sức ra công giúp đỡ chùa, tô bồi cảnh
quan.
Thấy vấn đề vệ sinh trên chùa có phần phức tạp vì khách thập
phương không giữ được tinh thần tự giác bỏ rác vào một nơi nhất định để nhà
chùa tiện thu gom. Vì thế nên Hiếu quyết định bỏ tiền ra mua một số thùng rác
có nắp đem đặt vào các vị trí thuân tiện để góp công vào việc vệ sinh trên hòn
đảo xinh tươi này. Đồng thời Hiếu cũng đã động viên một số sinh viên đại học
Nha Trang bỏ ra một số thời gian vào ngày chúa nhật lên đảo nhặt rác làm sạch
cho đảo. Trong những chuyến đi ra đảo ngoài khơi đốn củi cho nhà bếp của chùa,
Hiếu đã có ý tưởng là chở về cho đảo những khúc cây khô từ trên nguồn sông
Cái được nước lũ trên nguồn cuốn trôi, dạt ra khơi tấp vào các đảo, đem về
bố trí trên các bãi đá Hòn Đỏ cho thêm phần đẹp cảnh quan.
Sở thích của Hiếu là được ngồi nơi bãi đá Tịnh tâm ngắm nhìn
mặt trời mọc vào buối sáng hoặc đón trăng lên vào những ngày trăng tròn. Thiên
nhiên như thấm sâu vào tâm khảm từ mắt nhìn, từ tai nghe. Trong buổi sáng tinh
sương ngồi nghe tiễng chuông công phu buổi sớm thật là hạnh phúc:
Ni Chúc Trí thức giấc vào lúc 3 giờ 30. Vệ sinh xong thì đúng
4 giờ. Bầu trời trên hải đảo Hòn Đỏ trong trẻo. Mặt biển còn đang đặc sánh màu
xanh. Phía chân trời, hình các ngọn đảo in hằn trên nền trời trong sáng.
Xách cây đèn bão trên tay Ni Chúc Trí lần bước đi theo con đường
men dốc xuống tòa gác chuông. Như chờ sẳn nơi thềm, hai con chó Sô Ni và Fu Si
lặng lặng đi theo Ni. Đây là hai con vật từ trong đất liền lội qua đảo và lên
chùa, rồi ở luôn không trở về thôn xóm cũ. Ban đầu chỉ có một con, nhân một buổi
chiều nước triều xuống, vũng biển từ đất liền ra đảo, nước cạn phô bày cát đá,
con vật theo chủ ra rạng. Chủ cặm cụi bắt ốc còn con vật lần mò chạy lên dốc đá
và vào tới chùa. Khi chủ ra về thì hoàng hôn đã phủ kín bầu trời. Trong cảnh
nhá nhem, chủ không nhớ đến con vật. Về nhà không thấy, mới biết là chó đã ở lại
nơi chùa. Sáng hôm sau chủ đi đò qua đảo. Gặp nhau chủ và vật vui mừng quấn
quít. Đến trưa chủ ra về. Con vật theo chủ ra đến tận bến, đợi chủ xuống đò rồi
quay mình chạy thẳng một mạch lên đến đỉnh sườn dốc như lẩn tránh tiếng gọi thất
thanh của người chủ. Lên đến đỉnh dốc chú chó quay lại đứng nhìn con đò tách bến,
vẫy vẫy đuôi. Trên đò người chủ nhìn xuống lòng nước tự nhủ: Nó có duyên với
nhà chùa thì nên để nó đi tu cũng được. Niềm thương yêu loài vật đã
chung sống với mình, chan hòa cùng lòng ái mộ đạo Phật, khiến sóng nước như bồi
hòi. Từ đó lại có nhiều con chó vượt biển cạn ra đảo lên chùa. Hiện nay có tất
cả là 6 con. Lạ một điều là chúng hoàn toàn ăn chay. Sự chọn lựa ở lại với chùa
giải thích việc chúng không còn mơ tưởng gì đến cá thịt, tuy chúng vốn sống
trong môi trường thôn xóm vạn chài. Sáu con đều là chó đực.Tuy ăn chay song con
nào lông cũng mướt, thịt vẫn đầy. Nhà chùa để cho chúng sống tự nhiên. Ăn uống
trong những đĩa bát riêng biệt không bao giờ lẫn lộn. Chúng tự động phân chia
nhau phận sự: Một con lớn tuổi luôn nằm dưới chân sư cụ Thích Viên Mãn. Ba con
thường xuyên chạy khắp các nơi trên đảo. Hai con thường theo Ni Chúc Trí, khi
thì đi thắp nhan nơi các bệ thờ Phật nằm rải rác khắp đảo, khi thì đi quét rác
dưới khóm cây trên đảo. Ban đêm chúng ngủ trước phòng Ni và theo Ni đi công phu
giấc sáng. Khi lên đến tòa gác chuông, hai con Sô Ni và Fu Si lẳng lặng
ngồi như để lắng nghe ni Chúc Trí cầu kinh và thỉnh chuông.
Sau mỗi câu kinh là một tiếng chuông. Trong cảnh yên tịnh dưới
bầu trời rạng đông, tiếng chuông, trong trẻo, vang xa. Khắp biển núi như chan
hòa niềm an lành thanh tịnh. Tiếng chuông không xáo động cảnh ban mai nhưng âm
thanh nhè nhẹ làm tăng thêm cảnh lặng yên. Nhờ nghe tiếng chuông vang lòng ta cảm
nhận được yên lặng của trời biển. Một hơi gợn lăng tăng, mới khơi
rõ sự xa vắng của hồ thu. Một tiếng khẽ đớp bóng của chú cá nhỏ, làm tăng
thếm sự im lặng của mặt biển lặng như mặt hồ thu.
Trong sự êm ả của ban mai, tiếng chuông như xao động âm
ba gọi giấc bình minh từ từ sáng lên tận phía chân trời. Biển thức giấc sớm hơn
tất cả mọi nơi. Mép biển liền với chân trời có viền sáng trong trẻo, Dần dần
chuyển màu vàng rồi đỏ. Tiếng chuông chùa thong thả điểm hồi. Tiếng sóng vổ nhẹ
vào bãi đá như thì thầm cùng tụng lời kinh buổi sáng. Các cành xoài chung quanh
gác chuông, rơi rụng những giọt sương mai, tí tách điểm nhịp hòa cùng tiếng
chuông. Trong đất liền, trên ngọn đồi Sinh Trung, chủa tổ Kỳ Viên Trung
Nghĩa cũng vang tiếng chuông điểm công phu.
Vịnh Nha Trang, biển sóng sánh màu xanh, mây trời nhè
nhàng trôi trắng xóa. Âm thanh hồi chuông công phu buổi sáng của Hòn Đỏ Từ
Tôn hòa nhập trời đất với lòng con người thức tỉnh đón nhận buổi bình minh an
lành.
(Mồng ba tháng 6 năm Kỷ Sửu)
Những khúc cây lâu năm do Hiếu đi san nhặc trên các hải đảo
xa đem về có đôi khúc được bố trí ngay trên đầu dốc từ bến nước lên chùa. Một
bài thơ được khắc vào để làm kỷ niệm.
Vừa xuống đò, bước chân lên Hòn Đỏ Từ Tôn, du khách đọc được
nơi chân dốc:
Tiếng chuông vang ngoài cửa Từ Tôn
Tiếng chuông dội bên bờ Hòn Đỏ
Trời Khánh Hòa bát ngát mây bay
Biển Nha Trang dạt dào sóng vổ
Những ai đang lạc nẽo mê dồ
Những ai muốn tìm về chính lộ
Nghe chuông ngân tìm lại chân tâm
Nghe chuông dội cùng quy Phật tổ.
(Giáo sư cư sĩ Vũ Khiêu)
Đây là một bài thơ thất ngôn bát cú tả tiếng chuông của
HÒN ĐỎ và chùa TỪ TÔN trước trời mây bát ngát.
Về hình thức là một bài bảy chữ tám câu song không phải là một
bài Đường luật chính thống. Trong một bài Đường luật thì các câu Khai, Thừa, Trạng,
Luận, Chuyển, Hợp, đều phải mang đầy đủ tính chất và nhiệm vụ của nó. Bài thơ
này duy nhất chỉ có cặp trạng là có hình thức về luật Đường vì có được
cái bề ngoài là một cặp đối nhau rất xứng:
Trời Khánh Hòa bát ngát mây bay
Biển Nha Trang dạt dào sóng vỗ
Tuy nhiên nếu xét luật, về nhiệm vụ thì cặp trạng này không
làm tròn vì không ăn sát với để là nói đến tiếng chuông. Nhiệm vụ và nội dung của
cặp trạng đã được hai câu Khai, Thừa làm giúp rồi.
Cặp luận tuy không tròn về hình thức (Những
ai không thể là hai từ đối nhau ở trong cặp luận được) song lại nói
lên được về phần nội dung cần thiết của cặp luận là nới rộng tình ý của bài
thơ.
Hai câu chuyển và kết rất tuyệt diệu. Hai từ Nghe chuông được
lặp lại trong hai câu chuyển và kết là một cố ý của tác giả và là ý chính trong
bài thơ.
Tóm lại bài thơ này tuyệt vời nằm ở nơi hai câu đầu và
hai câu kết:
Tiếng chuông vang ngoài cửa Từ Tôn
Tiếng chuông dội bên bờ Hòn Đỏ
Nghe chuông ngân tìm lại chân tâm
Nghe chuông dội cùng quy Phật tổ
Và nếu quên đi "tiếng" và "nghe" thì đây
là một bài lục ngôn tứ tuyệt:
Chuông vang ngoài cửa Từ Tôn
Chuông dội bên bờ Hòn Đỏ
Chuông ngân tìm lại chân tâm
Chuông dội cũng quy Phật tổ.
Bài thơ có thêm một đặc biệt là bỏ vần trắc. Phải chăng để diển
tả màu của Hòn Đỏ và âm thanh vang dội của tiếng chuông ngân vang từ một hải đảo
xanh tươi!
Cảnh đảo đẹp và lẫn vị Đạo. Tiếng chuông ngân vang, đồng
vọng tâm tình.
Đọc xong bài thơ du khách biết rõ là mình đang đến một
cảnh thiên nhiên có màu xanh của thi vị và màu đạo thắm thiền tôn.
Mang đầy cảm khái, du khách lại bước từng bước lên đến trên đầu
dốc. Và một bài thơ nữa chợt hiện ra khi du khách dừng chân đứng nghỉ bên một
khóm gốc cây khô được vớt từ biển khơi. Và bài thơ đã được khắc lên trên gốc:
Cảnh ban trưa
Nhà sư trần lưng gánh nước
Bước từng bước
Từ chân dốc lên đồi
Ôi! Những giọt mồ hôi
Chảy dài trên lưng Bồ tát
Nắng chói chang
Lòng vẫn luôn rào rạt
Ước mong xanh mát bóng chùa
(Phong Hương)
Tình bài thơ là những lời chân thật. Hình thức câu thơ dài ngắn
khác nhau, gập ghềnh như con đường lên dốc. Tuy nhiên không có câu nào dài trên
sáu chữ.
Đọc xong bài thơ, nước mắt trong lòng như muốn trào ra. Cảnh
lao khổ ban đầu khi dựng nghiệp, gói tròn trong ý nghĩa bài thơ. Những giọt mồ
hôi của du khách khi leo dốc, như tan loãng ra trước "Những giọt
mồ hôi chảy dài trên lưng Bồ tát". Vị mặn của trùng dương ngưng đọng
lại trước cơn gió hiu hiu.
Ôi! Hòn Đỏ thân thương, đầu con dốc có một bài thơ nói về tiếng
chuông và cảnh đẹp thiên nhiên và trên đỉnh cao con dốc cũng có một bài thơ biểu
dương tình nghĩa và công lao của người xây dựng đảo và chùa.
Cảnh hòn Đỏ đẹp và nên thơ. Có cảnh có tình thật là hữu
duyên.
Nhận thấy Đại Đức Thích Chúc Minh ngoài công việc tại chùa Từ
Tôn, sư còn tham gia tích cực các Phật sự khắp các nơi khi được yêu cầu đến.
Như tham gia cầu an cầu siêu, góp sức vào các tổ chức khánh thành dựng tượng
đúc chuông tại các chùa trong tỉnh và ngoài tỉnh. Các tư gia cần đến sự trợ giúp
của chùa, sư Chúc Minh đều sẳn sàng tham dự
Sư rất thông thạo và có kỷ thuật trong việc tổ chức và điều
hành các buổi lể tại các chùa và nơi công cộng. Nhiều lúc chỉ một mình, sư phải
vừa vác vừa di chuyển lên xe các dụng cụ phóng thanh đến các vị trí cách xa
chùa hàng chục cây số bằng xe hàng thuê mướn rất là vất vả cho nên sẵn phương
tiện xe con dùng để di chuyển trong những ngày trú ngụ tại Nha Trang đi về Sài
Gòn và khắp nơi trong nước Hiếu trước khi về Hoa Kỳ đã biếu xe lại cho nhà chùa
để dùng trong việc di chuyển làm Phật sự. Sự đóng góp tích cực vừa vật chất vừa
tinh thần của Hiếu khiến cho những kẻ có thành kiến với chùa Từ Tôn đã có những
nhận định sai lầm, những tin đồn thất thiệt. Tuy nhiên Hiếu vốn đã sinh trưởng
và học tập ở nước ngoài nên dư luận xuyên tạc này không làm nản chí quyết tâm
góp phần xây dựng hải đảo càng ngày càng xinh đẹp thêm lên du khách đến Nha
Trang thăm cảnh và viếng chùa.
Trước ngày Hiếu về lại Hoa Kỳ, Hiếu đã thực hiện một đêm thả
hoa đăng với ước nguyện cầu mong Phật tổ giúp cho Hiếu làm tròn phận sự của một
người con nước Việt mong muốn quê hương mình xinh đẹp trong cảnh thanh bình.
Đêm thả hoa đăng rất thành đạt. Hoa đèn trôi khắp vùng biển Hòn Đỏ đem đến tận
trùng dương lời ước nguyện của một thiếu nữ sống tự phương trời xa vì yêu mến
thiên nhiên mà cầu mong cho Hòn Đỏ mỗi ngày một xinh đẹp... Dư luận của những kẻ
xấu về sự hiện diện và làm việc cho cảnh quan của đảo sẽ được gió biển khơi làm
biến tan và chỉ còn lại nhịp sóng vổ rì rào chung quanh đảo. Trước đó vài hôm nhân
ngày lể thương binh liệt sĩ ( 27/7) chùa Từ tôn có tổ chức hai ngày lể cầu siêu
cho vong linh các anh hùng liệt sĩ đã mạng vong vì tổ quốc cùng với hương linh
các đồng bào tử nạn trong chiến tranh và một đêm thả hoa đăng trên biển Hòn Đỏ.
Buổi lể có đông đảo Phật tử tham dự:
Mặt trời đã ngã về Tây, bãi đá Tịnh Tâm nơi hướng Đông đảo, ửng
hồng tươi thắm hơn mọi hôm. Tất cả dường như thay da đổi thịt.. Nơi tòa sen đấu
bãi trở thành một án kệ hai bên trang hoàng hai nhánh cây khô được vớt tự lòng
trùng dương biểu tượng cho sự mến yêu thiên nhiên nghìn năm quá khứ. Khi màu trời
đang hồng trở nên xanh thắm thì buổi lễ bắt đầu. Chư vị thượng tọa, đại đức ở
Phú Yên được chùa Từ Tôn cung thỉnh vào Hòn Đỏ chủ trì cuộc đại lễ, từ nơi sân
vườn chùa tiến từng bước ra đến lễ đài.Trong gió chiều hiu hiu, bóng những
chiêc cà sa vàng in hằng trên nền đá đỏ, phơi phới dưới bầu trời trong xanh. Biển
trải dài nước biếc để cung nghinh đoàn con Phật. Các chư đệ tử trong màu áo lam
đứng hai bên gành đá chắp tay niệm Phật cúi đầu đảnh lể chào chư vị tăng già.
Giữa trời biển bao la, màu áo cà sa vàng như rực rở, màu áo
lam như cung kính khiêm nhường. Nước thủy triều đang xuống. Tiếng sóng nhẹ vổ
vào chân bãi đá như dịu dàng, như âu yếm của đại dương đón mừng buổi lể sắp bắt
đầu. Màn hoàng hôn phủ nhẹ lên đảo, sắc dỏ của bãi đá thẩm lại nâng bầu trời
dâng cao và cuộc lể bắt đầu. Âm vang lời kinh ngân vọng trong không gian
của đảo giửa trời mây nước khiến cho hàng ngàn những con Phật xao xuyến trong
lòng. Đây là một buổi cầu nguyện lần đầu tiên, dưới trời, giữa biển khơi và ấm
áp tình thương của những đệ tử Phật gia hướng về các linh hồn uổn tử, trầm
thủy không nơi nương tựa hiện đang bơ vơ trên sóng nước trùng dương. Trong lời
kinh tiếng mõ có chen lẫn tiếng kèn, tiếng đàn cùng tiếng trống khiến cho âm
vang hòa hợp gợi trong lòng người tham dự mối u hoài cảm thông tha thiết với
muôn cô hồn phiêu bạt khắp thế gian.
Cuộc lể gần đến hồi cuối thì các hoa đăng được sắp hàng dài từ
trên Nghênh Phong đài nơi an vị tượng Quán Thế Âm Bồ Tát xuống đến mé nước bãi
đá Tịnh Tâm. Những cánh hoa sen cứ bốn bông hoa được gắn trên một đài xốp hình
vuông, sắp hàng chạy dài từ trên đòi xuống đến mé nước, theo hình chữ S tượng
trưng cho hình thể nước Việt Nam. Đèn sáp trong các cánh sen vừa được thắp sàng
thì buổi lể tụng kinh chấm dức. Đại Đức Thích Chúc Minh, trụ trì chùa Từ Tôn
Hòn Đỏ phát biểu:
Buổi phóng đăng hôm nay là nhắm cầu nguyện cho những
oan hồn uổn tử trâm thủy, chiến sĩ trận vong, đồng bào tử nạn, hồn siêu lạc mộ
được nương ánh quang minh trí tuệ giải thoát mà sớm được siêu sanh về cảnh giới
an lành và chấm dức luân hồi. Mỗi ngọn đèn là mỗi nhân sinh được thắp sáng lên
trong chính mình ngọn huệ đăng phá tan màn vô minh đen tối.
Hương hoa đăng! Đó là đêm của ánh sáng và sức sống vừa được
giải thoát vô minh. Hôm nay, đêm của tục lệ phóng sanh đăng được trở về dành
cho sự sống an lành và ánh sáng trí tuệ huyền linh trở về với thiên nhiên vũ trụ.
Khi những ngọn đèn được thắp sáng lên chính là lúc vạn hữu được khơi nguồn tỉnh
ngộ cơn mê dài, từ cõi rừng sâu vô minh đen thẳm chuyển mình theo với ánh sáng
để trở nên thánh thiện, chở theo trong lòng những đóa hoa sen phóng đăng rực rỡ
thành một dòng ánh sáng muôn màu long lanh huyền diệu không cùng. Những ngọn
đèn trong đêm Hoa đăng là nét siêu hình đẹp nhất cho cõi đời hiện sinh: trao tặng
ánh sáng và sự sống trỡ lại cho trời đất và chúng sinh, dòng nước là Tâm thức
đang trên từng cơn sóng nhỏ đi vào thăm thẳm tâm linh vời vợi của bản lai, và mổi
ngọn hoa đăng nhấp nhô trên sóng nước vịnh Nha Trang hôm nay vừa là trí tuệ và
là tình thương chảy hoài không dứt.
Buổi lể trang nghiêm chan hòa tình thân ái cùng những lời
phát biểu cảm động, làm thấm thía sâu sa ý nghĩa đêm phóng hoa đăng.
Dòng hoa đăng lấp lánh ánh đèn rung rinh như một suối đèn màu
chảy ngòng ngoèo, từ tòa điện Nghinh Phong xuống chân mép nước bãi đá Tịnh Tâm.
Mọi đệ tử, từ từ di chuyển, hàng ngủ trang nghiêm, hai tay nâng khay đèn, mắt
nhìn thẳng vào hoa đăng và miệng lâm râm cầu nguyện. Trong thời khắc này, lòng
yêu thương tôn kính của người sống chan hòa trong tình yêu thương đồng loại với
những kẻ khuất mặt. Trời biển mênh mông, tình thương yêu của con người lại càng
mênh mông... Dòng suối hoa đăng được lòng người chuyển đưa ra khơi. Trùng dương
trãỉ lòng đón nhận. Ánh nến chập chờn. Âm và dương đã chan hòa cùng nhau trên mặt
nước bao la. Tình thương dào dạt, mỗi ngọn hoa đăng nhấp nhô trên sóng nước vừa
là trí tuệ vừa là tình thương chảy hoài không dứt.
Ngày trở lại Huê Kỳ Hiếu không có dịp tham dự buổi lễ cầu
siêu cho các nạn nhân gặp tai nạn trên đỉnh đèo Cả do chùa Từ Tôn tổ chức vào
ngày 24 tháng 6 âm lịch.(tức ngày 14/8/2009):
Xuất phát từ Nha Trang vào lúc 3 giờ sáng. Trời tháng hạ,
thành phố trầm lắng trong an lành. Bầu trời xanh dịu dàng. Đến đèo Cả
đúng 4 giờ 30. Chân trời nơi mé biển có màu phơn phớt đỏ. Bình minh đã ló dạng.
Người ta thường nói với nhau là muốn đón bình minh sớm nhất thường phải lên đèo
Cả. Tại đây có thể nhìn thấy mặt trời từ từ nhô lên khỏi mặt nước mà không chút
gợn mây che phủ.
Sáng hôm nay tôi mới thấy không thể có sự thật này. Vì đứng
trên đèo Cả nhìn về hướng đông tôi không thể thấy chân trời vì có một dãy núi
cao dài nằm che lấp. Ở đây là vịnh Vũng Rô. Được núi che chở nên Vũng Rô vừa
sâu vừa kín. Tuy không bằng Vịnh Vân Phong song Vũng Rô là một hải cảng đầy tiềm
năng.
Đoàn người hành lể vừa mới đến nơi đã lo dọn dẹp mặt bằng
để hành lễ. Khi xong thì mặt trời đã nhô lên khỏi đỉnh núi về hướng đông. Mặt
nước Vũng Rô ửng hồng trong sắc biếc. Bóng những chiếc thuyền đánh cá về neo đậu
hiện rõ trên mặt biển bao la. Sóng gợn lăn tăng, gió hiu hiu thổi.
Nơi hành lễ là một khu đất rộng nằm sát khúc quanh nơi quẹo
Đá Đen. Núi bên trong đứng cao vòi vọi. Sắc đá đen láng hợp với màu xanh đậm của
trùng trùng cổ thụ chen lẫn với các lùm cây rậm rạp. Bên dưới là mép biển Vũng
Rô. Đứng trên bở vực nhìn xuống, du khách trông rất rõ con đường sắt Bắc Nam vừa
chun ra khỏi con đường hầm dài nhất khu hầm xuyên đèo Cả. Từ Nam ra Bắc khi tàu
qua đèo Cả, đây là đoạn đường sắt đẹp nhất vì sau khi thoát ra khỏi một
đoạn hầm dài thì du kách được thấy bên hông tàu một vùng biển mênh mông. Gió biển
thổi ập vào, màu xanh mênh mông của biển cả hòa lẫn vởi trời cao rộng, xóa đi
khoãng thời gian bịt bùng trong u tối, dầy hơi bụi của khói tàu. Hạnh phúc thật
đầy đủ bất chợt đến khiến lòng ta bàng hoàng. Trong thiên nhiên và cuộc sống hằng
ngày có biết bao sự tình cờ gây cho ta đôi phút giây sửng sốt. Từ Nam ra Bắc,
đèo Cả là con đèo đầu tiên gây cảm xúc cho du khách khi qua hầm gặp biển để rồi
khi qua con đèo Hải Vân cảm xúc này được dàn trải nhiều đoạn hơn và thích thú
nhất là đoạn đến Lăng Cô. Cảnh đẹp nhờ núi biển giao hòa.
Dưới là hầm, trên là khúc quanh Đá Đen đứng bên bờ vực Vũng
Rô, đúng là một khu vực hiểm nguy quan trong. Nơi đây thường xuyên xãy ra tai nạn.
Khi thì người đi xe gắn máy, khi thì xe đò, xe chở hàng hay xe du lịch v.v... Khi qua cua thì vách đá ngăn chặn tầm nhìn, quanh khúc cua thì quá ngặt nên xe
xuống không nhìn thấy xe lên. Không kịp hảm tốc độ hoặc hảm thắng hoặc tránh
nhau mà xe đành phải lao ngay xuống vực. Những chuyện này thường xảy ra trước
khi khúc quanh này được sữa chữa nới rộng và có bản lưu ý. Ngày trước tai
nạn xảy ra thường xuyên nên nơi này người dân phải dựng tượng Quán Thể âm Bồ
tát, vừa để tưởng niệm vừa để lưu ý tài xế.
Thuở trước có lần nguyên cả chiếc xe hiệu Tiến Lực chở 49
hành khách lao xuống vực chỉ còn sống sót một khách nữ. Vị này được cứu sống nhờ
các ngư dân nghe tiếng gà gáy bên bờ vực (vì trên mui xe có chở gà) ghé ghe đến
xem vì có nhiều tiếng gà gáy, mới phát hiện ra xác chiếc xe và cứu cấp người sống
sót duy nhất. Khi ra khỏi bệnh viện, người đàn bà này trở lại thăm nơi xảy ra
tai nạn, trực ngộ ra sự may mắn duy nhất của mình nên tâm nguyện suốt đời che
nhà sống tại nơi đây để quanh năm hương khói cho các bạn đồng hành không được
may mắn như mình. Có một vài ngôi mộ của những nạn nhân được chôn tại chổ, có mả
được xây vôi song mới đây được giải tỏa di dời đi nơi khác, còn lại nền mộ bên
cạnh bức tượng Quán Thế Âm Bồ Tát đứng trên một nền xi măng cao gần một thước.
Người đàn bà nguyện suốt đời nương thân nơi xảy ra tai nạn, giờ đã không còn
cũng như ngôi nhà bà ở nay chỉ còn lưu nền cũ. Ngậm ngùi lòng du khách chợt nhớ
đến bài thơ Thăng Long thành hoài cổ của bà Huyện Thanh Quan:
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoát mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.
(Thăng Long thành hoài cổ)
Thay người cũ có một bà mới đến trú ngụ được vài năm nay tại
ngay dưới chân tượng đức Quán Thế Âm, ngày ngày giữ phần hương khói, nhận nơi
khách phập phương những hoa quả cúng lễ khi đi ngang qua khúc quanh Đá Đen ghé
lại cúng vái. Chăm sóc hằng ngày cho bà, có hai vợ chồng người cháu ngoại thường
xuyên đi Hon Da lên thăm viếng.
Đúng 8 giờ thì buổi hành lể bắt đầu. Vị sư trụ trì chùa Từ Tôn
(Hòn Đỏ) Thích Chúc Minh khai kinh, các tín hữu đứng ngay ngắn trước tượng đài.
Bóng những chiếc áo lam trong khói hương nghi ngút làm nổi bật chiến áo cà sa
màu nâu giữa trưa nắng trên đỉnh đèo Cả.
Đồng thời bên cạnh bức tượng Quán Thế âm, nơi sân cỏ được trải
rộng các chiếc chiếu, trên sắp xếp đầy đủ các vật phẩm cúng tế như cơm,
cháo, xôi chè, bánh kẹo, hoa quả và các vật tế lễ cô hồn. Chung quanh có các ngọn
nến cháy hắt hiu, các cụm nhan tỏa khói nghi ngút. (kèm theo hình ảnh)
Trong nắng mai của trưa hè nóng bức, tiếng tụng kinh nghe rõ
mồn một. Dưới ánh nắng chói chan, người hành lể nghiêm trang lắng hồn vàocầu
nguyện. Mồ hôi ướt đẫm lưng áo nhưng giọng đọc kinh vẫn trầm trầm lưu loát. Đầu
trần đội nắng, đoàn hành lể chan hòa trong trang nghiêm. Trong ánh sáng dương
trần có lẫn hơi khói âm trần, trong lời kinh tiếng mõ như có lẫn tiếng
thì thầm nức nở của người bên kia thế giới. Bên lề đường xe qua lại liên tiếp.
Từ xa các xe như đã trông thấy cảnh hành lể nên tránh không bóp còi và sự lưu
thông như chậm lại. Trong thông tục, các tài xế mỗi khi gặp cảnh hành lễ như
hôm nay các xe đều như chạy chậm lại để hưởng ứng lòng thành kính với buổi lễ,
như phân ưu với linh hồn người chết. Và như có thái độ lái xe dè dặt hơn, cẩn
thận hơn trên đường có nhiều rủi ro tai nạn. Có một vài tài xế dừng xe,
bước xuống thắp một cây nhang, vái ba vái rồi lại tiếp tục lên đường.
Xong lễ cúng bái nơi chân tượng Quán Thế Âm Bồ Tát thì khai lể
cúng bái cô hồn. Nắng trưa càng thêm gắt, vị sư chủ lể bây giờ đội thêm chiếc
nón lá và các phật tử tháp tùng hành lể đội thêm mũ nón vẫn trang nhiêm tiếp tục
dưới nắng trưa hè. Đến 10 giờ thì buổi lể chấm dứt. Dưới vực sâu, Vũng Rô gió
cuộn tròn khiến nước vực như đang sôi lên, như có muôn vạn linh hồn nhảy mừng
hò reo đón chào cuộc lễ, tiếp nhận phẩm lể.. Giây phút này âm dương như giao
hòa cùng nhau. Sự thông suốt cách trở được khai mở, giá trị tinh thần buổi lể cầu
siêu như được chứng giám. Trong khói hương nghi ngút có sự chan hòa cảm thông
giữa đôi đường âm phủ dương gian.
Có tham dự và chứng giám buổi cầu nguyện này lòng chúng ta mới
lý giải được những nhu cầu tinh thần của con người rất là cần thiết như thế
nào? Có đứng trước những nơi, bên này là vực thẳm bên kia là núi đá dựng
trùng trùng giữa con đường quanh co khúc khủy, tai nạn rất có thể xãy ra vì
tình cờ, vì sơ xuất ta mới thấy được cần đến sự an tâm trong lòng khi ngồi trên
trên chiếc xe qua những đoạn đường nguy hiểm.
Người tài xế lái xe, dù có kinh nghiệm, dù có khôn lanh mà
không có an lành trong tâm thì khi đi qua những đoạn đường nguy hiểm thường xãy
ra tai nạn, nên cần có sự cẩn thận lưu ý đề phòng hơn là khinh khi ỷ vào tài ba
lái xe của mình. An lành trong tâm là nguồn hạnh phúc là cơ nguyên cho sự an
toàn khi lái xe.
Cuộc hành lể cầu siêu cho các nạn nhân bị tai nạn trên đèo Cả
của chùa Từ Tôn Hòn Đỏ sau ngày lễ vía đức Quán Thế Âm Bồ Tát là một hành
động yêu thương, chia xẽ tình thương bằng việc cầu nguyện cho các linh hồn người
chết bất đắc kỳ tử, không người cầu nguyện hiện đang bơ vơ được siêu thăng, là
việc thực hiện một lời nguyện của chùa, là một việc làm gây ấn tượng cho
những người lái xe trên chặng đường dài cần lưu ý cẩn thận trong từng giây phút
vì sinh mạng của bao nhiêu hành khách ngồi trên xe.
Công việc tưởng nhớ, cầu nguyện cho những vong linh người đã
chết vì tai nạn dù thường xuyên hay chỉ một lần, giữa đất trời cao rộng, bên
núi bên biển, cũng đủ để lòng chúng ta bồi hồi cảm xúc.
Nam Mô A Di Đà Phật
Một hôm trên trang Email của tôi có đôi dòng đơn giản:
Bác Giao ơi!
Con đã đọc cuốn Người Gánh Nắng của bác. Rất cảm động
và chân thành. Cảm ơn bác đã viết về Hòn Đỏ, Chùa Từ Tôn và người đã lập
thành ra nó. Đó là cảm tưởng của các độc giả. Riêng cháu thì còn một lý
do rất tha thiết: yêu thiên nhiên, yêu cảnh quan và có nhiệm vụ phải tô bồi,
gìn giữ là việc phải thực hiện của cháu. Không màn đến dư luận, cháu đã nối tiếp
một chương trong cuốn sách: Đó là sự thực hiện lời hứa của cô Liên trong
chương Trở lại thăm chốn ân tình. Cô Liên là một nhân vật có thiệt, nhưng
khi về Mỹ thì một thời gian sau bị bệnh qua đời. Cháu đã thực hiện lời trối
lại. Bác có thể xem là cháu có liên hệ với người ở phương xa và cháu đang thực
hiện lời hứa của một người đã nhận nơi ôn Thích Viên Mãn và chùa Từ tôn một món
nợ ân tình không bao giờ trã được.
Nơi phương trời xa cháu luôn hướng về chùa Từ Tôn và đảo Hòn Đỏ,
cháu luôn luôn cầu nguyện cho sự phát triển và trương tồn của chùa và đảo.
Hiếu
Quách Giao
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét