Chương 1
Phần III
QUÂN SƯ ĐÀO DUY TỪ
HỒI THỨ NHẤT
Núi Ngọc con côi gặp ẩn sĩ
Hoa Trai mẹ goá khóc trong mơ
Chiều tắt nắng. Đỉnh núi Ngọc đã ngậm già nửa mặt trời. Rừng
cây xào xạc lá. Tắc kè lục cục ném lưỡi vào thinh không. Tu hú gọi bầy trên những
lùm cây dẻ nở đầy hoa vàng.Những con suối nhỏ trườn mình qua các tảng đá hoa
cương bám đầy rêu mốc, rì rào đổ nước vào ngòi La, bọt tung trắng xoá. Xa xa,
phía làng Hoa Trai mọi nhà đã nổi lửa cơm chiều và trên mỗi nóc
nhà tranh lãng đãng bay lên từng vạt khói mỏng tang. Men theo sườn
núi, trên con đường mòn dốc đứng có hai chú bé lặc lè gánh củi trên vai. Cả hai
chừng đã thấm mệt, lưng áo bệt bợt mồ hôi hoà lẫn bụi đất. Đi trước là cậu Hữu
Dư, ước độ 15 tuổi, vóc người săn chắc và đen trũi. Theo sau là Duy Từ hổn hển,
chùng gối dò dẫm bước một, khoảng 12 tuổi, nom gày gò và trắng trẻo. Gánh củi
to hơn người cậu cứ lắc lư trên vai như muốn lật nhào kéo theo cậu
cùng lăn xuống dốc. Thỉnh thoảng Hữu Dư lại dừng bước ngoái nhìn Duy Từ, khẽ thở
dài thương xót. Cậu đã khuyên Từ đừng nên cố sức mà Từ chẳng chịu nghe. Lúc ngồi
bó củi trên núi, Từ bảo:
- Đệ sắp phải đi học. Mùa đông sắp đến, thân mẫu ở nhà một
mình chắc sẽ rét lắm. Đệ phải kiếm thật nhiều củi cho bà đỡ vất vả.
- Lo gì, đệ đi vắng vẫn còn có ta thi thoảng chạy sang giúp
bá mẫu.
- Đành rằng vậy, nhưng từ nay đến hôm rằm, đệ cố kiếm thêm ít
nào hay ít ấy.
- Vài ngày kiếm củi bõ bèn gì cho cả mùa đông. Người nghèo
đói ăn thì rét càng thêm rét.
Hữu Dư chợt thấy mắt Duy Từ rớm lệ. Cậu biết mình lỡ lời nên
ngừng nói, lẳng lặng giúp Từ nhấc gánh củi lên vai rồi hai đứa cùng xuống núi.
Lòng Dư tràn ngập nỗi thương cảm, chỉ lo bạn trượt ngã dọc đường. Đã quen leo
núi, Dư hiểu khi gánh nặng thì xuống dốc khổ hơn leo dốc. Sức Từ lẻo
khẻo, non gân, chịu làm sao thấu. Dư thầm ước mình lớn bổng thành lực sĩ để
gánh cả Từ lẫn củi chạy băng xuống núi như các sơn thần trong truyện cổ tích.
Đôi bạn dìu nhau, chẳng mấy chốc đã xuống chân núi Ngọc. Đến bờ ngòi La, Hữu Dư
đặt gánh xuống bãi cỏ bảo Từ:
- Nghỉ thôi. Sắp tới nhà rồi.
- Vâng. Đệ cũng muốn tắm táp một lúc. Nước trong và mát quá!
- Ấy đừng. Chờ ráo mồ hôi rồi hãy tắm. Đang còn ướt mồ hôi mà
xuống nước dễ bị cảm lạnh, Từ ạ!
Duy Từ ngước nhìn Hữu Dư thầm biết ơn. Mấy ngày qua, nghe tin
Từ sắp đi học xa, Dư luôn tìm cách gần gũi ân cần chăm
sóc Từ. Tuy Dư không nói ra lời, nhưng Từ biết cả hai đều rất buồn. Rồi đây xa
Dư, một mình theo học ở tận chùa Đàn Xuyên, Từ biết lấy ai bầu bạn. Những ngày
học ở trường thầy đồ Mậu trong làng, Từ luôn bị đám cậu ấm con nhà giầu khinh rẻ,
nhiếc móc thân phận con nhà phường hát. Mỗi lần bị chúng gây sự kiếm cớ đánh đập,
Từ đều được Dư kịp thời bênh vực. Chữ Nho Dư học chỉ loàng xoàng, nhưng rất giỏi
võ nên đám cậu ấm con xã trưởng hay phú hộ đều phải nể sợ. Hai nhà cách nhau một
giậu cúc tần nên Dư với Từ thân thiết như tình ruột thịt. Hồi Từ mới lên năm,
thân mẫu bận việc ngoài đồng đều phải sang nhà nhờ Dư cõng em bé đi chơi quanh
làng. Ai cho bắp ngô hay củ khoai nướng, Dư đều nhường cho Từ phần hơn. Phụ
thân Dư là tướng quân Nguyễn Hữu Danh, từng theo Nguyễn Kim sang Ai Lao phò
giúp vua Lê Trang Tông kéo quân về lấy thành Nghệ An. Từ ngày Nguyễn Kim chết,
Trịnh Kiểm nắm giữ binh quyền, ngầm giết hại Nguyễn Uông và chèn ép Nguyễn
Hoàng, nên ông nghĩ mình đã hết thời bèn thác bệnh về quê cày ruộng. Ông vốn là
bạn thân với Đào Tá Hán, phụ thân của Duy Từ. Hơn 10 năm qua, nhờ ông bỏ tiền
mua cho Từ một suất đinh của làng nên thân mẫu của cậu mới được xã trưởng cho
nhận cấy rẽ năm sào ruộng công. Mỗi năm, vào lúc nông vụ chí kỳ, ông còn đem
trâu sang cày bừa giúp, có năm còn đỡ thêm mạ hoặc thóc giống. Suốt đời Từ sẽ
không quên cái ngày được ông Danh dắt đi bái kiến thầy đồ Mậu. Năm ấy Từ vừa
tròn bảy tuổi. Thân mẫu nhiều năm dành dụm, ao ước cho con trai được đi học chữ
thánh hiền, nhưng xã trưởng và các quan viên, chức dịch trong làng đều răn đe
thầy đồ, cấm không được nhận con nhà phường hát vào học chung với con cái họ. Từ
đi chăn trâu thường hay ghé qua trường học, rình nghe thầy đồ Mậu giảng chữ Nho
cho đám con cái các nhà giầu hay có thế lực trong làng. Cậu thuộc lòng từng chữ,
nhập tâm lời giảng của thầy. Ra đồng cậu lấy que tập viết trên nền đất. Rồi cậu
nghĩ cách lấy lá nhọ nồi vò ra làm mực, viết chữ vào gốc cây hay tảng đá. Tối về
cậu lân la sang nhà ông Danh học chung với Hữu Dư. Ông Danh từ lâu buồn bực vì
đứa con trai độc nhất của mình chỉ ham tập võ, còn chữ Nho học trước quên sau,
chữ tác đánh chữ tộ, ngữ nghĩa thì chàng màng lõm bõm. Từ khi có cậu bé Duy Từ
sang học chung, Hữu Dư tiến bộ trông thấy. Ông quan sát thấy con trai mình viết
các bộ “liễu leo”, bộ “thuỷ” hay bộ “tâm” đã mềm mại dần. Các nét sổ ngang hay
sổ dọc cũng mạch lạc và đều đặn. Rồi một đêm ông nằm thao thức, chợt nghe hai đứa
trẻ kể cho nhau nghe về các mẩu giai thoại của “Thất thập nhị hiền” ghi trong
sách “Luận ngữ”. Duy Từ say sưa giảng giải cho Hữu Dư về ý nghĩa chiếc trâm bằng
cỏ thi của người đàn bà cắt cỏ bên sông. Cậu bảo rằng cả gánh cỏ thi kia đều vô
nghĩa với người đàn bà vì chiếc trâm bằng cỏ thi ấy là kỷ vật của thân mẫu để lại
lúc lâm chung. Đức Khổng Tử muốn nhắc nhở học trò rằng mọi vật trên đời không
phải chỉ nhất thiết đo đếm bằng tiền bạc mà có khi ý nghĩa của một vật tầm thường
còn quý giá hơn châu báu, ngọc ngà, không gì thay thế được. Ông Danh cảm động ứa
nước mắt, choàng dậy ôm hai đứa trẻ vào lòng. Sáng hôm sau, ông sang nhà hàng
xóm xin phép bà Nguyễn Thị Mạch được nhận Đào Duy Từ làm nghĩa tử, nguyện với
vong linh người bạn cũ Đào Tá Hán sẽ bảo lãnh và chu cấp cho đứa con nuôi học
thành tài. Thế rồi ông sai người nhà sửa lễ, khăn áo chỉnh tề, dắt Từ đi bái kiến
thầy đồ Mậu. Có tướng Nguyễn Hữu Danh bảo lãnh, nghe ông kể lại chuyện đêm trước,
thầy đồ Mậu không còn e ngại gì, hồ hởi thu nhận Duy Từ vào học. Thoắt đã năm
năm trôi đi, Từ đến trường học bao nhiêu điều lạ. Thầy đồ Mậu thương Từ nhà
nghèo nên không nhận tiền, nhận gạo, còn giúp Từ giấy mực. Ông quý cậu học trò
nghèo từ khi chăm chăm ngồi lén nghe giảng bài qua khe liếp, rồi khi cậu vào học,
mỗi ngày ông lại phát hiện thêm tư chất thông minh, học một hiểu mười, luôn có
những câu hỏi hoặc ý tưởng lạ. Ông nhớ có lần giảng về chữ Nhân trong đạo Nhân
của Khổng Tử. Vì sao chữ Nhân lại bao gồm bộ nhân đứng và hai vạch sổ ngang? Bộ
nhân đứng chỉ người, còn hai nét ngang chỉ trời và đất. Người có đạo Nhân có thể
cảm động đến trời, thấm nhuần ân đức vào đất. Con người là trung tâm của vũ trụ.
Trong bộ tam tài gồm Thiên - Địa - Nhân thì người là vật nối thông giữa trời với
đất. Làm người có đạo Nhân hay bất nhân đều có trời soi xét, đất kiểm chứng...
Ông đang say sưa giảng, chợt thấy một bàn tay nhỏ ở cuối lớp rụt rè giơ lên.
- Thưa thầy, chữ Tiên gồm bộ nhân đứng với bộ sơn, còn chữ Phật
gồm bộ nhân đứng với bộ thiên là nghĩa thế nào?
- Bộ nhân đứng đương nhiên là chỉ người. Khi con người thoát
khỏi cám dỗ cõi phàm, lên núi tu luyện sẽ thành tiên, tâm hồn trong như con suối
đầu nguồn. Nhưng tiên còn thấp hơn Phật một bậc, bởi Phật có cái tâm bao cả trời.
Trúc Lâm Thiền tổ Trần Nhân Tông nói “Phật tức tâm” là theo nghĩa đó.
-Vậy thưa thầy cho con hỏi tiếp.
-Con cứ tự nhiên, ta biết đến đâu sẽ giảng cho các con hay,
chữ thánh hiền rộng nghĩa lắm.
-Thưa thầy, con vẫn thường tự hỏi, vì sao chữ Nhân chỉ người
lại chỉ có hai nét tựa như một ngã ba sông?
- Điều con hỏi, thầy còn chưa thật rõ lý do vì sao chữ Nhân lại
như vậy. Có lẽ vì chữ Nho có gốc gác từ bên nước Tàu. Thời cổ xưa, con người
mông muội, ăn lông ở lỗ, chẳng khác thú rừng là bao. Từ khi con người rời bỏ
hang đá đi về phía các dòng sông lớn như Hoàng Hà, Dương Tử bên Tàu hay sông Nhị
Hà bên ta để quần cư cấy lúa, dựng nhà thì lúc đó con người mới thực sự sống một
kiếp người trọn vẹn. Mỗi con sông đều có dòng chủ lưu và rất nhiều phụ lưu. Tại
những nơi có ngã ba sông, đất đai trù phú, loài người quần tụ đông đúc thành bộ
lạc, quốc gia, nên có lẽ chữ Nhân vì thế mang hình dáng như ngã ba sông. Phải
chăng Chu Công khi xưa mơ thấy Hà đồ, Lạc thư mới làm ra kinh dịch cũng vì lẽ ấy.
- Thưa thầy con lại có cách lý giải khác.
- Con hãy thử nói cho ta và các bạn nghe.
- Chữ Nhân khởi thuỷ đúng như thầy đã dạy. Nhưng chữ Nhân
mang hình ngã ba sông còn có nghĩa là người ta sống ở trên đời luôn phải lựa chọn
giữa chính- tà, giữa thiện- ác. Dòng chủ lưu là chính, là thiện, sẽ dẫn dắt ta
ra biển rộng, trời cao, làm người quân tử hữu ích cho muôn dân, bách tính. Dòng
phụ lưu là tà, là ác, sẽ lôi kéo ta vào rừng rậm không biết lối ra, suốt đời
làm kẻ tiểu nhân hại dân, nhục nước. Trong bộ tam tài thày vừa dạy, loại người
đó không có trong chữ nhân mà là chữ quỷ. Ác thay, thời nào cũng vậy, quỷ nhiều
hơn nhân nên đã có sách của Mạnh Tử lại cần thêm sách của tuân Tử, Hàn Phi Tử.
Dòng chủ lưu dẫu mênh mang vẫn chỉ có một, còn dòng phụ lưu thì nhiều vô kể. Điều
này nhắc ta trên con đường đại nghĩa luôn gặp điều tà ác vây bủa, cám dỗ, buộc
ta phải lựa chọn, tranh đấu với chính mình. Quyền càng to, danh vọng càng nhiều
thì con người càng dễ bẻ nhánh sang dòng phụ lưu kia…
Thầy đồ Mậu sững người kinh ngạc nhìn trò Đào Duy
Từ. Ông không dám tin ở tai mình vì cái điều phát hiện mới lạ chưa hề có trong
sách thánh hiền ấy lại được nói ra từ miệng đứa trẻ 12 tuổi. Xưa nay đọc sách
hiểu được đã khó, nhưng lý rộng ra ngoài sách như chú bé Đào Duy Từ này, thầy đồ
Mậu chưa từng thấy. Là bạn học của quan trạng nguyên Phùng Khắc Khoan, ông có cảm
giác chú bé này không thua kém gì trạng Bùng lúc nhỏ hay trạng Hiền thời xưa.
Ông tự thấy vốn liếng chữ nghĩa của mình đã cạn dần theo lực học của đứa trò
yêu, nhỏ tuổi, gầy yếu nhất lớp này. Ngay chiều hôm đó, thầy đồ Mậu vội khăn áo
chỉnh tề đến nhà tướng quân Nguyễn Hữu Danh. Hai người thi lễ ngoài hiên rồi dắt
nhau vào trong nhà uống trà, đàm đạo. Hết một tuần trà, thầy đồ Mậu cầm tay
Nguyễn Hữu Danh nói:
- Tôi sang đây muốn bàn thêm với tướng quân về việc học của
lũ trẻ.
- Chắc Hữu Dư hay Duy Từ có điều gì thất lễ, khiến thầy phải
buồn lòng?
- Thưa không. Hữu Dư học chậm nhưng chắc và rất trung thực,
khảng khái, có thể theo gót tướng quân sau này làm nên nghiệp võ.
- Thế còn Duy Từ?
- Mừng cho tướng quân đã thâu nhận một nghĩa tử khác thường.
Đứa trẻ này chỉ trong mấy năm đã nuốt sạch vốn liếng của một ông đồ quê mùa nơi
thôn dã như tôi. Nó cần phải có thầy dạy uyên bác, ngang tầm với các ông trạng
Trình, trạng Bùng mới thoả sức học.
- Nhưng thầy cũng là bậc túc Nho, dư thừa học vấn để dạy cho
một đứa trẻ như Đào Duy Từ.
- Tôi tuy là bạn học với trạng Bùng thủa hàn vi, nhưng tự lượng
được sức của mình, giỏi lắm là đóng khung cái hiểu biết trong các câu chữ của
sách Luận Ngữ, Trung Dung, Đại Học... mà thôi. Nơi cửa Khổng sân Trình, việc học
là vô cùng vô tận. Người trí giả phải biết vượt ra ngoài sách, thâu tóm lấy điều
tinh tuý nhất của đạo thánh hiền và biến nó thành kiến giải cho riêng mình mới
mong vận dụng nó để hành đạo. Xưa nay các bậc tuấn kiệt đều coi hành đạo trọng
hơn học đạo. Mạnh Tử cũng đã từng nói: “Nếu xét lẽ trước sau thì học đạo trước
mới biết để hành đạo. Nếu đem lẽ nặng nhẹ mà cân thì hành đạo nặng hơn học đạo.”
Học mà không hành thì học để làm gì? Hôm nay tôi chợt nhận ra cái thiên năng hiếm
có của đứa trò yêu. Nó đã vượt thầy về cách kiến giải một chữ Nhân, ắt sẽ còn
vượt thầy ở nhiều chỗ khác. Không thể để một nhân tài như thế giam mình trong
xóm nhỏ Hoa Trai hẻo lánh này.
- Vậy theo thầy thì ta nên cho Duy Từ đến học ở đâu?
- Ngoài phủ Trường Yên, trên núi Quế Trường có đại sư Duy
Giác ngồi vi thiền tập định ở chùa Đàn Xuyên. Ngài là bậc chân tu, quyền năng tối
thượng. Về Phật học ngài tinh thông cả Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng. Còn về
các mặt Nho - Y - Lý - Số, ngài cũng uyên thâm không thua gì trạng nguyên Nguyễn
Bỉnh Khiêm. Võ thuật của ngài lập nên hẳn môn phái Đàn Xuyên, lấy nhu thắng
cương, biến ảo khôn lường thành những tuyệt chiêu. Tôi còn nghe đồn rằng đại sư
Duy Giác tuy xa lánh thế tục, vẫn đau xót vì nước nhà chìm đắm trong cảnh loạn
ly, thường khuyên các đệ tử nếu có cơ hội nên nhập thế, độ dân, cứu khổ, đem lại
cảnh thái bình cho trăm họ.
Nghe thầy đồ Mậu nhận xét về đại sư Duy Giác, tướng
quân Nguyễn Hữu Danh bồi hồi xúc động. Từ lâu ông vẫn coi thầy đồ Mậu là một
danh Nho, ẩn sĩ, không thiết tha với chốn quan trường, về dạy học ở Hoa Trai, Hữu
Dư và Duy Từ được theo học người thầy như vậy đã là may mắn lắm rồi. Không ngờ
trong dân gian còn có nhiều bậc phi phàm, xuất chúng. Hữu Dư nông cạn, võ biền
đã đành một nhẽ. Nhưng Duy Từ, đứa con nuôi của ông, giọt máu của người bạn đã
khuất Đào Tá Hán, là đứa trẻ có nhiều triển vọng, nếu được theo học đại sư Duy
Giác, nhất định sẽ thành tài, giúp ích cho đời. Là người theo nghiệp võ, ông có
nhiều bạn bè trong giới giang hồ. Họ đã từng ca ngợi võ công của đại sư Duy
Giác và môn phái võ thuật ở chùa Đàn Xuyên. Họ còn kể với ông rằng, đại sư Duy
Giác đã dày công nghiên cứu binh thư của Tôn Tử, Gia Cát võ hầu và Trần Hưng Đạo,
nhưng chưa hề truyền dạy cho ai. Có lẽ ngài chưa tìm được học trò ưng ý chăng?
Nếu cơ duyên, phúc phận dành cho Đào Duy Từ cái vinh hạnh được ngài truyền cho
binh pháp bí truyền, sẽ đắc dụng gấp nhiều lần học võ đơn thuần.
Luật vua ban từ thời Hồng Đức đã cấm con nhà phường hát dự vào khoa bảng. Duy Từ thông minh, giỏi giang đến mấy cũng không có cơ hội bước chân vào trường thi. Vả chăng, theo quan niệm của ông, trai thời loạn đọc sách thánh hiền cốt hiểu đạo lý, còn muốn giúp đời thì phải học võ và nắm vững binh pháp. Ông gửi gắm hy vọng vào đứa con nuôi Đào Duy Từ. Nó thành đạt sẽ dắt dẫn Hữu Dư làm nên sự nghiệp rạng danh dòng họ Nguyễn Hữu ở Hoa Trai. Chợt ông nhớ tới chiếc túi vải do sư bà Diệu Minh ở chùa Thiên Phúc trao cho bà Nguyễn Thị Mạch hơn mười năm trước. Hôm làm lễ nhận Duy Từ làm nghĩa tử, bà Mạch đưa lại cho ông giữ và kể: “Ngày thiếp mang con trốn khỏi phủ An Trường, giữa đường gặp nạn, được sư Diệu Minh cứu sống cả hai mẹ con. Sư bà xem tử vi rồi quả quyết rằng cháu Duy Từ sau này sẽ có lúc cần thầy dạy cả văn lẫn võ. Đến lúc ấy cứ mở túi này ra khắc rõ.” Tướng quân Nguyễn Hữu Danh vội đứng dậy, lập cập chạy vào buồng trong lấy ra chiếc túi vải nâu, cùng thầy đồ Mậu mở ra xem. Trong túi có một vuông lụa trắng, ghi mấy câu thơ:
Luật vua ban từ thời Hồng Đức đã cấm con nhà phường hát dự vào khoa bảng. Duy Từ thông minh, giỏi giang đến mấy cũng không có cơ hội bước chân vào trường thi. Vả chăng, theo quan niệm của ông, trai thời loạn đọc sách thánh hiền cốt hiểu đạo lý, còn muốn giúp đời thì phải học võ và nắm vững binh pháp. Ông gửi gắm hy vọng vào đứa con nuôi Đào Duy Từ. Nó thành đạt sẽ dắt dẫn Hữu Dư làm nên sự nghiệp rạng danh dòng họ Nguyễn Hữu ở Hoa Trai. Chợt ông nhớ tới chiếc túi vải do sư bà Diệu Minh ở chùa Thiên Phúc trao cho bà Nguyễn Thị Mạch hơn mười năm trước. Hôm làm lễ nhận Duy Từ làm nghĩa tử, bà Mạch đưa lại cho ông giữ và kể: “Ngày thiếp mang con trốn khỏi phủ An Trường, giữa đường gặp nạn, được sư Diệu Minh cứu sống cả hai mẹ con. Sư bà xem tử vi rồi quả quyết rằng cháu Duy Từ sau này sẽ có lúc cần thầy dạy cả văn lẫn võ. Đến lúc ấy cứ mở túi này ra khắc rõ.” Tướng quân Nguyễn Hữu Danh vội đứng dậy, lập cập chạy vào buồng trong lấy ra chiếc túi vải nâu, cùng thầy đồ Mậu mở ra xem. Trong túi có một vuông lụa trắng, ghi mấy câu thơ:
Núi Ngọc có ẩn sĩ
Hết chữ dạy trò yêu
Nên sư huynh Duy Giác
Phải nhọc công sớm chiều.
Hai người lặng nhìn nhau bàng hoàng sung sướng. Hồi lâu, Nguyễn
Hữu Danh nhờ thầy đồ Mậu xem tuổi Đào Duy Từ rồi bấm lịch, chọn ngày rằm tháng
mười sẽ cho cậu xuất hành ra phủ Trường Yên, tìm chùa Đàn Xuyên trên núi Quế
Trường để bái kiến đại sư Duy Giác...
Duy Từ ngâm mình giữa dòng ngòi La trong vắt, mải mê với bao
ý nghĩ ngổn ngang trong đầu. Cậu không hề biết Hữu Dư đã tắm xong, lẳng lặng
lên bờ mặc quần áo. Dư lại gần gánh củi của mình lấy ra dăm củ măng và nắm rau
rừng buộc thêm vào gánh củi của Từ.
- Từ ơi! Về thôi, sắp tối rồi - Dư gọi.
-Vâng. Đệ thật vô ý để huynh phải đợi lâu.
Dư ân cần đưa quần áo cho Từ mặc. Đôi bạn cùng nhấc gánh, nhằm
hướng làng Hoa Trai rảo bước. Dọc đường Dư bảo Từ:
- Đống củi bên sân nhà đệ cũng đã tạm đủ dùng. Nếu thiếu, ta
sẽ kiếm thêm cho đệ sau. Ngày mai, hai đứa mình vào rừng lấy vầu về đan phên,
thay mấy tấm liếp cũ cho bá mẫu che gió mùa đông, Từ ạ!
- Đệ cũng toan nói với huynh điều ấy. Cứ nghĩ đến việc phải
đi xa, để thân mẫu một mình vò võ trong túp lều tranh, lòng đệ thấy xót xa.
- Đi học cũng là cách báo hiếu. Đệ phải cứng rắn lên, uỷ mị
thế phỏng có ích gì. Ở nhà, phụ thân ta đã nhận đệ làm nghĩa tử, tất biết cách
lo liệu giúp đỡ bá mẫu.
- Đệ chịu ơn của nghĩa phụ và huynh, biết bao giờ mới báo đáp
được!
Hoàng hôn thẫm dần theo từng bước chân của đôi bạn nhỏ. Núi rừng
chìm vào bóng tối. Mấy con dơi núi chạng vạng bay giữa bầu trời bao la. Con đường
về làng sương rơi đầy mép cỏ...
Bà Nguyễn Thị Mạch trằn trọc không sao ngủ được. Bà vùng dậy,
lại gần chiếc chõng tre, ngắm nhìn đứa con trai đang say sưa giấc điệp. “Tội
nghiệp con tôi!” - bà khẽ thở dài. Liền mấy ngày qua, nó thương mẹ, suốt ngày
lên núi Ngọc kiếm củi, đào măng và củ mài, tối về mệt lả, ngủ vùi, không biết
trời đất là gì nữa. Số phận bắt nó phải mồ côi cha từ lúc chưa đầy một tuổi.
Đào Tá Hán chàng ơi! Nếu có linh thiêng, chàng hãy về phù hộ cho Duy Từ, con của
chúng mình. Nó thông minh, hiếu thảo mà sao cái ách con nhà phường hát lại xiết
chặt vào thân phận, bịt lối công danh, ngăn đường khoa bảng. Nếu không có tướng
quân Nguyễn Hữu Danh, bạn cũ của chàng bao bọc, dìu đỡ hơn mười năm qua, liệu
thiếp có còn cơ hội nuôi con khôn lớn thành người? May mà ở Hoa Trai này còn có
danh Nho, ẩn sĩ như thầy đồ Mậu thu nhận nó vào trường dạy cho chữ nghĩa. Nhưng
ông Danh, thầy Mậu đều bảo thiếp phải cho Duy Từ đi tìm thầy học lên nữa kẻo uổng
phí cái tài của nó. Thiếp chỉ là cô đào hát ở đất làng Se. Bao năm, thiếp cùng
chàng theo đuổi nghiệp cầm ca là bởi chúng mình tha thiết yêu nghề, sống chết với
nghề. Đó là thứ nghề thanh cao mà ông trời chỉ ban phát cho một số người như
thiếp với chàng, những kẻ tầm thường dễ gì có được. Vua chúa và các bậc vương
công, quý tộc đều đã từng mê mẩn bởi tay đàn của chàng, giọng hát của thiếp,
sao còn chê nghề này là thấp hèn! Cao xanh hỡi, hãy phân xử giùm cho thiếp, vì
sao luật Hồng Đức từ thời vua Lê Thánh Tông đã bất công gạt bỏ người con nhà
phường hát ra khỏi trường thi? Thiếp là đàn bà không hiểu chính sự, nhưng sinh
thời lúc trà dư tửu hậu, chàng và các bạn bè thường đàm tiếu về Nguyễn Hoá văn
dai như chão, chữ vuông như hòm, dốt đặc kinh nghĩa mà tốt tiền lo lót vẫn đậu
thám hoa thời Mạc Phúc Hải. Hắn bị các danh sĩ Bắc Hà khinh bỉ, tẩy chay nên chạy
vào theo Trịnh Kiểm, hiến cả vợ yêu cho ông ta, rồi sau lại khéo nịnh Trịnh
Tùng nên mới được cất nhắc làm quan thượng thư Bộ Hộ. Như thằng Bá Sinh, quan
tri phủ An Trường thì thiếp còn lạ gì. Cả ban nhạc trong cung vua Lê Anh Tông đều
khinh bỉ hắn. Hồi ở làng Se hắn đã từng ve vãn thiếp, còn tài chơi đàn nhị của
hắn sao bì được với tiếng sáo và tiếng Nguyệt cầm của chàng. Hắn không lấy được
thiếp, ganh với tài của chàng nên hồi cùng ở ban nhạc cung đình luôn kiếm cớ
gây sự và chèn ép vợ chồng mình, nịnh bợ quan trưởng ty giáo phường[1]. Thế rồi khi xảy ra sự biến năm Quý Dậu
(1573), hắn đã bán rẻ vua Anh Tông, khai với Nguyễn Hoá việc Vua và Thái tử bàn
bạc với tướng quân Lê Cập Đệ để tước binh quyền của Trịnh Tùng. Ngày cha con
vua Anh Tông bị tướng Tống Đức Vị giết chết ở thành Lôi Dương, cũng là lúc Nguyễn
Hoá tiến cử Bá Sinh với tể tướng Trịnh Tùng xin cho làm tri phủ An Trường. Nước
nhà đến hồi mạt vận nên chốn quan trường mới lắm thằng tiểu nhân, bất tài, nịnh
bợ như Bá Sinh, Nguyễn Hoá. Lạ cho cái triều đại mà lúc hết giặc thì các bậc
công thần như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn đều bị chết thảm, nên đất nước thái
bình được một thời gian đã rối ren, loạn lạc. Nhà Mạc cướp ngôi, rồi chiến
tranh Nam - Bắc triều đã mấy chục năm đẩy dân đen vào vòng binh lửa,
chết chóc, đói nghèo thê thảm. Chàng chết vì vua, còn thiếp bỏ nghề ca hát, về
quê làm ruộng nuôi con đã đành một nhẽ. Nhưng Duy Từ, con của chúng mình có tội
tình gì mà sớm phải mồ côi cha, học hành lận đận?...
Nguyễn Thị Mạch thẫn thờ bên đứa con trai, lòng dạ bời bời.
Thương con, cám cảnh phận mình, bà lại nhớ chồng da diết. Đời người
là kiếp sống tạm. Dễ gì trong cõi tạm ta tìm được bạn lòng tri kỷ, tri âm. Ông
trời đã ghép đôi cho hai người nghệ sĩ một đàn một hát. Sênh phách, nhịp trống
đã hoà quyện hồn bà với Đào Tá Hán từ thủa gặp nhau buổi đầu trên chiếu ca trù ở
làng Se năm ấy. Ông năn nỉ với song thân, nhờ người mai mối, đem cơi trầu sang
làng Se hỏi bà làm vợ. Cuộc sống lứa đôi ấm nồng hạnh phúc dưới mái tranh
nghèo, ngập đầy tiếng Nguyệt cầm của chồng, giọng ca của vợ. Ông đã viết tặng
bà bao ca khúc có sóng nước ngòi La, bóng mây núi Ngọc. Ông đệm đàn hay gõ nhịp
trống cho bà hát đến tận lúc tàn canh. Hội làng, hội tổng hay các đám rước dâu,
các lễ ăn khao khắp huyện Ngọc Xuân, người ta đều tha thiết mời ông bà đến cầm
trịch cho đêm hát hội. Hai người như đón bắt được từng ý nghĩ, tâm sự của nhau.
Thế rồi Nguyễn Kim đi tìm dòng dõi nhà Lê để dấy cờ nghĩa, làm cuộc trung hưng đã qua làng Hoa Trai. Ngài vốn sành âm nhạc, mê hát ca trù nên nghe tướng Nguyễn Hữu Danh giới thiệu đã mời vợ chồng Đào Tá Hán đến quân doanh hát liền mấy đêm. Sau này, khi Nguyễn Kim phò vua Lê Trang Tông về lấy được hai xứ Thanh - Nghệ, lập hành dinh ở phủ An Trường, đã sai người về đón Đào Tá Hán để lập ban nhạc cung đình. Bà Mạch không muốn xa quê, nhưng lệnh vua khó cưỡng. Vả chăng, chất nghệ sĩ đã thấm vào máu, vào hơi thở của đôi vợ chồng trẻ, nên ông Hán cũng muốn tiếng đàn của mình, giọng ca của vợ bay bổng đi khắp thiên hạ. Nào ngờ gần bệ ngọc của vua thì lành ít, dữ nhiều. Cái chết của ông Hán trong sự biến năm Quý Dậu đã cướp đi của bà chỗ dựa áo cơm, thần tượng nghề nghiệp và đẩy mẹ con bà vào cảnh khốn khó, cùng đường phải về quê. Đã thế, hết Bá Sinh ở An Trường, lại đến xã trưởng Đặng Phấn ở Hoa Trai, luôn tìm cách tán tỉnh, ép buộc bà tái giá làm tì thiếp cho họ. Lâu nay có Duy Từ bên cạnh làm cớ thoái thác, bà được tạm yên với xã trưởng. Từ hôm ông Danh sang bàn bạc việc gửi Duy Từ theo học đại sư Duy Giác, bà thấy phấp phỏng trong lòng vừa nhớ con, vừa lo tai hoạ sẽ ập đến bất ngờ. Bà chẳng dám mong Duy Từ đỗ đạt, bon chen giữa chốn quan trường hiểm ác. Bà chỉ mong nó học thông chữ nghĩa với thầy đồ Mậu, rồi theo gót thầy dạy chữ trong làng hay làm lang y chữa bệnh cứu người là đủ rồi. Nhưng cả ông Danh và thầy đồ Mậu đều khuyên giải nên bà phải dằn lòng nghe theo sự sắp đặt của ông Danh.
Thế rồi Nguyễn Kim đi tìm dòng dõi nhà Lê để dấy cờ nghĩa, làm cuộc trung hưng đã qua làng Hoa Trai. Ngài vốn sành âm nhạc, mê hát ca trù nên nghe tướng Nguyễn Hữu Danh giới thiệu đã mời vợ chồng Đào Tá Hán đến quân doanh hát liền mấy đêm. Sau này, khi Nguyễn Kim phò vua Lê Trang Tông về lấy được hai xứ Thanh - Nghệ, lập hành dinh ở phủ An Trường, đã sai người về đón Đào Tá Hán để lập ban nhạc cung đình. Bà Mạch không muốn xa quê, nhưng lệnh vua khó cưỡng. Vả chăng, chất nghệ sĩ đã thấm vào máu, vào hơi thở của đôi vợ chồng trẻ, nên ông Hán cũng muốn tiếng đàn của mình, giọng ca của vợ bay bổng đi khắp thiên hạ. Nào ngờ gần bệ ngọc của vua thì lành ít, dữ nhiều. Cái chết của ông Hán trong sự biến năm Quý Dậu đã cướp đi của bà chỗ dựa áo cơm, thần tượng nghề nghiệp và đẩy mẹ con bà vào cảnh khốn khó, cùng đường phải về quê. Đã thế, hết Bá Sinh ở An Trường, lại đến xã trưởng Đặng Phấn ở Hoa Trai, luôn tìm cách tán tỉnh, ép buộc bà tái giá làm tì thiếp cho họ. Lâu nay có Duy Từ bên cạnh làm cớ thoái thác, bà được tạm yên với xã trưởng. Từ hôm ông Danh sang bàn bạc việc gửi Duy Từ theo học đại sư Duy Giác, bà thấy phấp phỏng trong lòng vừa nhớ con, vừa lo tai hoạ sẽ ập đến bất ngờ. Bà chẳng dám mong Duy Từ đỗ đạt, bon chen giữa chốn quan trường hiểm ác. Bà chỉ mong nó học thông chữ nghĩa với thầy đồ Mậu, rồi theo gót thầy dạy chữ trong làng hay làm lang y chữa bệnh cứu người là đủ rồi. Nhưng cả ông Danh và thầy đồ Mậu đều khuyên giải nên bà phải dằn lòng nghe theo sự sắp đặt của ông Danh.
Đêm chìm vào sâu. Không gian bốn bề tĩnh lặng. Bà Mạch quay về
giường mình, ngả lưng nằm nghe con trai thở đều. Bà thiếp đi và trong giấc ngủ
chập chờn bà mơ thấy Đào Tá Hán. Nước mắt bà ướt nhòe mặt gối...
Chú thích:
Chú thích:
Chương 2
HỒI THỨ HAI
Đàn một bên và con một bên
Gánh tang bồng trĩu đè vai mẹ
Xã trưởng Đặng Phấn ngồi ngả lưng trên ghế tràng kỷ khảm
trai, khoan khoái thở làn khói xanh để tận hưởng thú đê mê sau điếu thuốc lào
buổi sáng. Người hầu gái mới mua của nhà tá điền mắc nợ thuế ruộng, thuế đinh của
làng đã quen dần với phận sự của kẻ tôi đòi. Cô chải tóc, búi tó củ
hành cho chủ rồi chạy vào buồng lấy áo the, khăn xếp và đôi giày vải, cẩn thận
đặt tất cả lên chiếc sập gụ kê chính giữa nhà. Xã trưởng chìa tay đón chén trà
hoa ngâu nóng hổi do cô hầu trẻ măng đưa mời, mắt hấp háy cười. Từ ngày vợ chết,
ông ta đã thay mấy lượt hầu gái trẻ măng, nhưng chưa một lần ưng ý. Chỉ vài
tháng là ông ta đã chán ngấy, đuổi họ ra đồng làm việc hay băm bèo nuôi lợn hoặc
chăn thả đàn dê dưới chân núi Ngọc. Trong lòng xã trưởng, không có cô gái quê
nào có thể sánh với Nguyễn Thị Mạch. Nàng có nước da trắng mịn, vóc người thon
thả, giọng nói như hát. Dân gian có câu: “Gái một con trông mòn con mắt” quả
không sai chút nào. Xã trưởng đã từng ngẩn ngơ nhìn nàng đưa ngón tay búp măng
uyển chuyển lướt trên sáu dây tơ của cây Nguyệt cầm gia bảo do Đào Tá Hán để lại,
giữa tiếng trầm trồ của đám đông quan khách trong những ngày hát hội. Mỗi điệu
hát chầu văn qua giọng hát như chim oanh chim yến hót ngân, luyến láy theo nhịp
trống khiến xã trưởng nhiều phen hồn phách bay lên tận mái đình, ngọn tre. Người
đàn bà như thế, đến quan phủ Bá Sinh trên phủ An Trường còn phải lặn lội về tận
Hoa Trai nghe đàn hát cũng là lẽ thường tình. Ngài đã nhiều lần lệnh cho xã trưởng
tìm cách o ép, đánh bật mẹ con nàng ra khỏi làng. Nhà ấy không có ruộng, nên
cái uy lực của xã trưởng là đám ruộng công cho dân nghèo cấy rẽ nộp tô cho
làng. Ác một nỗi, tướng quân Nguyễn Hữu Danh đã vì tình bạn với ông Đào Tá Hán
đứng ra bảo lãnh cho Nguyễn Thị Mạch. Ông ấy tuy đã cáo quan về làng, nhưng là
cận thần từ đời vua Trang Tông và tướng quốc Nguyễn Kim, khiến ngài Bá Sinh còn
phải nể sợ, thì một viên xã trưởng quèn sao dám trái ý. Âu cũng là cớ để xã trưởng
Phấn bẩm lại với quan trên và lẳng lặng giữ phần cho mình. Quan thì xa, bản nha
thì gần. Dân làng Hoa Trai không vượt tầm mắt ra khỏi luỹ tre làng, nên với họ,
xã trưởng là ông vua con, bảo gì mà họ chẳng phải nghe. Tướng quân Nguyễn Hữu
Danh không là gỗ đá, ắt có khi đau yếu nằm bệt trong nhà. Đợi khi ấy Phấn này sẽ
ra tay xem nàng Nguyễn Thị Mạch xoay sở cách nào. Vật cản lớn nhất trên bước đường
chinh phục người đẹp có giọng ca vàng lại chính là thằng bé Đào Duy Từ. Xã trưởng
nghĩ vậy và nhếch mép cười. Nghe nói ông Danh đã bàn với Nguyễn Thị Mạch quyết
chí cho Duy Từ đi học xa tận chùa Đàn Xuyên, trên núi Quế Trường thuộc phủ Trường
Yên. Đất ấy là nơi giáp ranh giữa quân nhà Mạc với nhà Lê, thuộc quyền tướng Mạc
Kính Điển cai quản. Chỉ riêng điều ấy mà đem bẩm với quan trên là Bá Sinh có thể
loại bỏ Nguyễn Hữu Danh, nhưng xã trưởng không làm, cứ lờ tịt đi. Đây là cơ hội
trời cho để ông ta tách Duy Từ ra khỏi người mẹ goá. Hôm nay xã trưởng dự định
sẽ đến nhà người đẹp báo trước cho nàng biết, vụ tới sẽ thu hồi mấy thửa ruộng
đạc điền, đổi cho nàng sang cấy lúa ở chân ruộng bạc mầu nơi bờ tre xó luỹ. Bước
đầu hãy thử đánh động cho nàng như vậy để thăm dò ý tứ người đẹp. Đợi khi ông
Danh vắng nhà, dắt Duy Từ đi bái kiến thầy học ở xa, Phấn này sẽ dấn thêm từng
bước chinh phục nàng. Xã trưởng Phấn lấy làm đắc ý về kế hoạch của mình. Luân
chuyển ruộng công cho người cấy rẽ là việc thường xảy ra, ông Danh sẽ không có
lý gì để can thiệp, còn Nguyễn Thị Mạch sẽ tá hoả trong lòng, cuống lên lo vụ tới
sẽ thiếu thóc ăn vì thóc thu hoạch ở các chân ruộng bờ tre xó luỹ chỉ bằng một
phần ba ở ruộng đạc điền. Không những thế, sức đàn bà làm sao cày bừa trên những
thửa ruộng như vậy.
Mặt trời đã lên tới ngọn tre. Vạt nắng thu vàng soi gần kín
cái sân gạch rộng thênh. Đàn chó dữ canh nhà con vàng, con đen, con vện rủ nhau
ra nằm phơi nắng. Xã trưởng Phấn ra đến hiên còn tần ngần ngắm lại bộ cánh khá
tươm tất chỉ được dùng vào những buổi ăn khao ngoài đình làng. Ông ta gật gù hồi
lâu ra chiều mãn ý, chống gậy, thẳng lưng, ưỡn ngực đi về phía cuối làng, nơi
có căn nhà của mẹ con Đào Duy Từ. Vừa đi Phấn vừa nghĩ cách mở đầu câu chuyện với
bà Mạch sao cho tự nhiên như thể vô tình ghé qua mà thuận mồm nói công việc của
làng cho đúng danh phận xã trưởng. Đến nơi, ông ta gõ nhẹ chiếc gậy vào cửa vài
tiếng rồi hắng giọng hỏi:
- Trong nhà có ai không?
- Ai đó? -Tiếng bà Mạch hỏi lại.
- Tôi xã trưởng đây. Có chút việc công muốn báo lại để bà rõ.
- Xin ngài đợi một lát, tôi ra ngay đây.
Bà Mạch ra mở cổng, khép nép chào xã trưởng. Ông ta đủng đỉnh
bước vào sân, đảo mắt nhìn sang bên kia giậu cúc tần, quan sát ngôi nhà ông
Danh, buông lời lấp lửng:
- Ngày xưa, tôi với ông Hán và tướng quân Nguyễn Hữu Danh vẫn
thường đuổi bắt chuồn chuồn, châu chấu đậu trên giậu cúc tần này. Thoắt đã vài
chục năm có lẻ.
- Vâng. Lúc nhỏ ông Hán không rõ thân phận mình nên mới dám
cá mè một lứa với các quan. Ngài xã trưởng hôm nay hạ cố đến nhà, chắc có điều
muốn dạy bảo. Mời ngài vào trong nhà xơi nước cho thiếp hầu chuyện.
Xã trưởng khẽ mỉm cười, liếc nhìn bà Mạch, hất hàm về phía đống
củi:
- Ở đâu ra lắm củi thế? Không chặt phá bừa cây cối trong làng
đấy chứ?
- Dạ thưa, hai cháu Từ và Dư phải lên tận núi Ngọc kiếm về suốt
mấy ngày đấy ạ!
- Thằng nhỏ đi đâu rồi?
- Dạ, cháu nó theo anh Dư vào rừng chặt cây vầu về đan phiên
liếp từ mờ sáng.
- Trong rừng nhiều hổ dữ lắm, bà phải nhắc lũ nhỏ cẩn thận, đừng
có vào sâu.
- Cám ơn ngài xã trưởng đã chỉ bảo. Xin rước ngài vào trong
nhà xơi nước.
Xã trưởng gật gù theo bà Mạch bước vào ngôi nhà tranh xiêu vẹo.
Đồ đạc bên trong sơ sài nhưng sạch sẽ, ngăn nắp. Chiếc Nguyệt cầm treo trên
vách, bên cạnh đó là bức đại tự ghi sáu chữ “Thiên hạ đệ nhất cầm ca”, bút tích
Nguyễn Kim đề tặng Đào Tá Hán, khi Ngài ghé làng Hoa Trai, trên đường dò tìm
tung tích vua Lê Trang Tông. Nhờ bức đại tự này và sự bảo lãnh của Nguyễn Hữu
Danh nên xã trưởng chưa dám mạnh tay o ép mẹ con Đào Duy Từ theo lệnh Bá Sinh.
- Nhà kẻ tiện dân xềnh xoàng, chẳng có lấy một chỗ ngồi tử tế
cho khách. Xin mời xã trưởng ngồi tạm lên chiếc chõng tre ọp ẹp này.
Bà Mạch lật đật trải chiếu lên chõng tre, lấy bình tích rót
bát nước chè tươi mời khách. Xã trưởng đón bát nước, cố tình nắm lấy bàn tay chủ
nhà.
- Sang hèn là cốt ở người chứ đâu phải đồ vật. Nàng là báu vật
của làng Hoa Trai, muốn đổi phận giàu sang đâu khó.
- Ấy chết, ngài xã trưởng lượng thứ. Thiếp là gái đã có chồng.
Phận mẹ goá con côi, dám đâu đũa mốc lại chòi mâm son.
Việc đổi cách xưng hô từ bà sang nàng và cử chỉ sỗ sàng của
xã trưởng Phấn khiến bà Mạch giật mình cảnh giác. Bà rút vội bàn tay, lùi lại
vài bước. Phấn biết mình lỡ lời, sửa ngay tư thế, ngồi vắt chân chữ ngũ, nghiêm
giọng nói:
- Bà cấy rẽ mấy sào ruộng công gần đầm sen đã lâu rồi đấy nhỉ?
Thuế má nộp cho làng đủ chứ?
- Bẩm ngài, được hơn mười năm. Nhà thiếp neo đơn, thóc lúa
không được bằng người khác, nhưng chiêm mùa hai vụ vẫn nộp đủ tô thuế, không
dám chậm trễ hay thiếu nợ một đấu nào.
- Nhưng ruộng công có loại nhị thục điền, loại nhất thục điền[1],
chiểu theo lệ làng, phải luân phiên phát canh cho các nhà tá điền, bà biết
không?
- Đội ơn ngài xã trưởng và các vị chức dịch trong làng đã chiếu
cố đến cảnh mẹ goá con côi, thiếp chưa phải luân chuyển sang loại nhất thục điền.
- Thế đấy. Bấy lâu làng xã nể tình ông Hán là nhạc công của
triều đình, lại có tướng công Nguyễn Hữu Danh bảo lãnh, bỏ tiền ra mua suất
đinh cho thằng Từ nên chưa bắt bà đổi ruộng cho nhà khác. Nay nghe nói thằng Từ
nhà bà sắp đi học xa, làng sẽ chiểu theo lệ trong hương ước mà đổi ruộng.
- Ngài xã trưởng định cho nhà thiếp sang cấy rẽ ở chân ruộng
nào?
- Mé tây làng, sát luỹ tre có mấy sào ruộng công loại nhất thục
điền sẽ dành cho nhà bà cấy rẽ tính từ vụ chiêm sắp tới.
- Xin ngài xã trưởng xem lại. Ngài đã thương thì thương cho
chót, đã vót thì vót cho tròn. Chân ruộng ấy lâu nay cả làng không ai nhận cấy
vì rễ tre ăn bạc đất, lại bị lẫn sỏi và cớm nắng, thiếp lấy gì sống qua ngày.
- Tôi chưa nói hết. Làng sẽ giảm thuế cho nhà bà từ một quan
xuống sáu tiền một mẫu. Như thế làng đã ưu ái bà lắm đó. Lẽ ra thằng Từ đi học
thì làng sẽ cắt luôn suất ruộng công cấy rẽ của bà mới đúng. Ai bảo bà không chịu
biết điều. Thằng Từ thân phận con nhà phường hát đã bị cấm vào trường thi cơ
mà. Nó học thầy đồ Mậu là quá đủ, sao còn bầy đặt tìm thầy học xa.
- Mẹ con thiếp tự biết thân phận hèn kém chẳng dám màng công
danh phú quý. Ông Danh, thầy Mậu bảo sao thì thiếp nghe vậy. Cháu Từ học thêm
được chữ thánh hiền để hiểu đạo lý làm người. Ngài xã trưởng rộng lòng xem xét,
cho thiếp được cấy rẽ ở chân ruộng cũ, ơn ấy thiếp sẽ không quên. Người nhà
nông, ngoài ruộng đất ra, thiếp biết bám vào đâu để độ nhật qua ngày và nuôi
con ăn học.
- Có đấy. Người tài sắc như nàng muốn ăn trắng mặc trơn, có kẻ
hầu người hạ dễ lắm.
Xã trưởng Phấn lại ỡm ờ đổi cách xưng hô, nhìn bà Mạch thăm
dò rồi nói tiếp:
- Chỉ cần nàng chịu về sống với tôi thì sẽ tha hồ sung sướng.
Đã nhiều lần tôi nhờ người đánh tiếng sao nàng cứ thờ ơ? Về với tôi nàng sẽ có
tất cả, lại được tự do đàn hát, thằng Từ muốn gì tôi cũng sẽ chiều. Nàng nghĩ
cho kỹ đi.
Đặng Phấn đứng dậy, tiến dần về phía bà Mạch. Vẻ oai vệ của
viên xã trưởng biến mất, chỉ còn lại gương mặt si mê và ánh mắt khẩn cầu, chờ đợi.
Bà Mạch hoảng hốt, luống cuống lùi về phía cửa. Chợt có tiếng chân người gấp
gáp chạy ngoài sân. Thục Nga, con gái thầy đồ Mậu xuất hiện, tay cầm tập giấy
và nải chuối vàng ươm. Con bé chừng 10 tuổi, là con út của thầy đồ Mậu. Nó với
Từ và Dư hợp thành bộ ba thân thiết từ lâu. Nga bước lên hè, khép nép chào xã
trưởng và bà Mạch. Xã trưởng bực bội, nhìn Thục Nga từ đầu đến chân, khiến con
bé sợ hãi nép vào sau lưng bà Mạch. Ông ta liếc sang bà Mạch, gằn giọng:
- Việc cấy rẽ ruộng công là ý của làng, việc nhà quan không
nói hai lời đâu. Bà liệu thu xếp, tính toán cạn nhẽ rồi trả lời cho làng biết
nhận hay không nhận. Điều cần nói, tôi đã nói hết rồi. Sướng khổ là ở như bà
quyết định. Tôi về.
Bà Mạch lễ phép cúi mình, chắp tay chào xã trưởng. Ông ta hầm
hầm chống gậy bước ra sân, miệng còn lẩm bẩm những gì nghe không rõ. Bà thở dài
nhìn theo bóng xã trưởng Phấn khệnh khạng bước. Bên kia giậu cúc tần, ông Danh
đang lững thững dạo gót quanh hòn núi non bộ và mấy chậu cây cảnh. Bóng dáng
ông oai nghiêm, tự tại. Miệng ông khẽ ngâm những vần thơ hào sảng của quan tư đồ
Nguyễn Trãi mà thầy đồ Mậu vừa chép tặng ông:
Kim cổ vô cùng giang mạc mạc
Anh hùng hữu hận diệp tiêu tiêu
Thầy đồ Mậu đã rất hiểu, tâm trạng của ông nào khác gì tiên
sinh Nguyễn Trãi khi xưa cáo quan về ở ẩn trên núi Côn Sơn, đau xót nhìn cảnh
dân chúng lầm than, triều đình vừa qua khỏi chiến tranh đã sớm lục đục, mục
nát. Kim cổ không cùng dòng sông lặng lẽ, và người anh hùng có lúc chỉ còn biết
ôm hận nhìn lá lao xao, tả tơi rơi đầy trong vũ trụ khôn cùng. Ý tứ của hai câu
thơ đang vận vào hoàn cảnh của ông lúc này. Một thời theo Nguyễn Kim xông pha
nơi trận mạc để rồi ghê sợ chốn quan trường hiểm ác, đành lui về sống cô độc
trong làng Hoa Trai heo hút. Những loại tiểu nhân như xã trưởng Đặng Phấn làm
sao hiểu được cội nguồn mọi nhẽ tận thẳm sâu trong tâm thế của ông. Chính trường
chẳng qua chỉ như bàn cờ thế, càng tàn cuộc càng nhiều mưu sâu, kế hiểm, thủ đọan
tàn ác nhằm triệt hạ lẫn nhau mà thôi. Mới hôm qua anh và tôi cùng nằm gai nếm
mật, niềm vui xẻ nửa, nỗi buồn nhân đôi, nhưng hôm nay quyền đã về anh, ngôi
cao đang tới thì tôi sẽ là vật cản đầu tiên để anh giẫm đạp, là kẻ thù không đội
trời chung để tôi băm nát. Nơi chốn quan trường: trung quân là thứ bàn thờ mục
để kẻ tiểu nhân đễ bề vu họa hoặc lợi dụng tài trí của kẻ ngu trung mà đắc lợi;
ái quốc là câu lừa mị cho người quân tử chui sâu vào bẫy, xả thân vì một thứ xa
vời, mục nát hay mở ruột phơi gan nói lời ngay thẳng vì bách tính khốn cùng để
kẻ thù dèm pha, sàm tấu ghép vào tội chết. Kể từ ngày Nguyễn Kim chết rồi, họ
Trịnh nắm quyền, ông càng hiểu sâu thêm mình đã bị lừa, xả thân cho một thứ bàn
thờ mục vua Lê mà thực ra là đang cúc cung tận tụy cho những mưu đồ quyền lực tạm
nấp vào bóng tối mà vẫn ngấm ngầm tranh giành, cắn xé lẫn nhau. Sớm muộn gì ông
cũng chết, không phơi xác ở chiến trường với nhà Mạc vẫn sẽ chết oan bởi các
phe phái phò Lê mà thực đang ngầm tiếm quyền về tay họ. Ông Danh cáo quan về quê
ngỡ tưởng yên bề cày ruộng, chăm sóc vợ con người bạn quá cố Đào Tá Hán, nào ngờ
nơi chốn quê mùa lại càng phơi bày sự lỏng lẻo của vương quyền, sự thối rữa của
chiếc bàn thờ mục mà bấy lâu ông tôn thờ, xả thân vì nó…
Đặng Phấn đứng ở mép hiên nhà bà Mạch, liếc nhìn qua bờ giậu
cúc tần sang phía nhà ông Danh nhếch miệng cười mát. Hắn nghĩ, cái lão khờ thất
thế, cáo quan về vườn ma còn làm bộ làm tịch. Song hắn lại chợt ngán vì có lão
khờ bên cạnh nhà người đẹp, thật khó o bế nàng… Xã trưởng đi rồi, Nga vẫn
thấy bà Mạch ngồi thẫn thờ bên chiếc chõng tre, nhìn ra ngoài. Mắt bà rưng rưng
lệ. Nó cảm thấy có điều gì chẳng lành. Nga chạy lại ôm lấy lưng bà, rụi đầu vào
nách bà nũng nịu:
- Bá mẫu làm sao thế? Ông xã trưởng có xúc phạm bá mẫu không?
Hay ông ấy ngăn cản việc Duy Từ đi học?
- Không... không có gì, con ạ! Chuyện ruộng đất của người lớn
ấy mà. Nga sang chơi hay có việc gì mà chạy như ma đuổi thế? Thầy đồ bên ấy có
khoẻ không?
- Thầy đồ nhà con được người ta biếu mấy muôn giấy dó, bảo
con mang sang một muôn cho Duy Từ tập viết. Nải chuối kia để bá mẫu cúng rằm, cầu
trời khấn Phật cho Duy Từ đi đường may mắn.
- Con về bên nhà cho ta có nhời cảm ơn thầy đồ.
- Duy Từ đi đâu hở bá mẫu?
- Nó và Hữu Dư vào rừng từ mờ sáng. Hai anh em rủ nhau đi chặt
vầu đan phên liếp để sửa nhà.
- Lúc nào chẻ vầu, con sẽ sang làm giúp.
- Thôi, ở nhà nấu cơm hầu hạ thầy đồ. Con ngoan quá !
Thục Nga còn nấn ná ở lại chuyện trò và dọn dẹp nhà cửa giúp
bà Mạch. Bà âu yếm kéo Nga vào lòng thủ thỉ mọi chuyện và cố quên đi nỗi ấm ức,
lo âu sau cuộc gặp xã trưởng. Nga đi rồi, bà lại thấy căn nhà trống hoác, lòng
buồn tủi, cô đơn. Bà thèm muốn giữ lại hơi ấm, giọng nói của Thục Nga. Con bé
thật xinh và ngoan nết. Chẳng ngày nào là nó không quanh quẩn bên
Duy Từ và Hữu Dư. Nga với Dư lâu nay đều xem bà như mẹ, cũng hiếu thảo chẳng
kém Duy Từ. Chúng đều thiếu tình cảm của mẹ, còn Duy Từ lại thiếu vắng bóng
cha. Những ngày mưa gió, bà thường hay rang ngô cho ba anh em và kể chuyện, đàn
hát cho chúng nghe. Bà ấp ủ một hy vọng mong manh, mơ hồ với Thục Nga. Xét về mặt
môn đăng hộ đối thì ông Danh với thầy đồ Mậu sẽ tương xứng hơn. Nhưng con bé Thục
Nga lại tỏ ra quyến luyến Duy Từ có phần trội hơn với Hữu Dư. Thầy đồ Mậu vốn
thâm trầm, kín đáo mà đôi lúc cũng tỏ ra quý mến khác thường với con trai bà. Mỗi
lần ghé thăm trò Từ, thầy đồ đều mang theo Thục Nga đi cùng, hẳn đã có chủ ý
vun vào cho hai đứa trẻ. Thật ra ông Danh đối với mẹ con bà ơn trọng như núi,
còn Hữu Dư cũng khác gì con bà dứt ruột đẻ ra. Dư hay Từ sau này tác hợp với
Nga đều tốt cả. Dẫu sao bà vẫn hy vọng ông trời sẽ xe duyên Nga về cho Từ. Nếu
ông Hán còn sống chắc cũng hả lòng mát dạ. Bất giác bà chạnh lòng thương nhớ chồng.
Câu chuyện xảy ra vừa rồi với xã trưởng càng làm bà tủi hận, lo nghĩ mông lung.
Bà định chờ Duy Từ về sẽ dắt con sang nhà ông Danh, nhờ can thiệp giữ lấy mấy
sào ruộng loại nhị thục điền ở gần đầm sen, tiếp tục cấy rẽ. Riêng việc xã trưởng
bờm xơm, ve vãn và gợi ý thì bà tạm giấu kín trong lòng. Nói ra việc ấy chỉ
thêm phiền phức cho bà và Duy Từ. Đành ngậm trái bồ hòn làm ngọt mà tương kế tựu
kế, mình bà ứng xử với xã trưởng vậy thôi. Nếu khăng khăng từ chối dứt
khoát, ông ta sẽ tìm cách đẩy bà sang tay của Bá Sinh sẽ còn tồi tệ hơn. Nghĩ đến
Bá Sinh, bà Mạch lại thấy ruột gan bầm uất. Chính hắn đã dồn ép, bức
tử chồng bà trong cái năm Quý Dậu kinh hoàng ấy. Sự việc xảy ra thoắt đã hơn mười
năm nhưng bà còn nhớ như in. Đào Tá Hán chàng ơi! Sao thân phận đàn bà của thiếp
lại bị xô đẩy đến nông nỗi này? Trời cao đất dày ơi! Tài tình chi lắm cho đời
ganh ghét, lắm kẻ mưu toan chiếm đoạt? Bà Mạch gục mặt xuống đùi, giàn dụa nước
mắt. Bà vật vã cấu ngực, dậm chân mà khóc. Hồi lâu bà đứng dậy với cây Nguyệt cầm,
kỷ vật của chồng, thẫn thờ bật từng dây tơ. Sáu dây đàn căng mảnh rung lên như
tiếng nấc của trời, tiếng than của đất. Ôi, những tiếng tơ lòng làm nhói buốt
tâm can người goá phụ đơn côi, tơi bời, ngơ ngác giữa cuộc săn đuổi của số mệnh
và những gã đàn ông! Trong ký ức của bà Mạch hiện dần lên hình ảnh người chồng
trong đêm mưa giông, chớp giật vào năm Quí Dậu, khi Duy Từ vừa tròn một tuổi.
Đêm ấy đất trời ở phủ An Trường run rẩy trong tiếng trời gầm,
mưa rơi xối xả. Tin dữ về vụ thảm sát cha con vua Lê Anh Tông và tướng Lê Cập Đệ
từ thành Lôi Dương bay về đã khiến nhạc công Đào Tá Hán ngã bệnh nằm liệt giường
suốt mấy ngày. Sinh thời, vua Anh Tông rất yêu tiếng đàn Nguyệt cầm và tay cầm
dùi trống cầm chịch cho các đêm hát chầu văn của Đào Tá Hán. Ngài thường ban
thưởng rất hậu cho ông sau mỗi đêm diễn. Vua chết rồi nghĩa là đã mất đi một
đôi tai nghe nhạc sành điệu, liệu còn ai biết thưởng thức tài năng của người
nghệ sĩ. Điệu nhạc ông soạn ra, tiếng đàn ông gảy, nhịp sênh phách do tay ông
gõ chắc gì còn được có người trân trọng. Nhưng tất cả những điều ấy chỉ làm ông
buồn. Cái điều làm ông thất vọng nhất là triều Lê vừa được trung hưng, mới thu
phục mấy xứ Thanh Nghệ và Thuận Hoá, hiện đang còn nhà Mạc ở phía Bắc, mà nội bộ
rối ren, tể tướng Trịnh Tùng dám làm điều nghịch đạo giết vua, đưa Duy Bang mới
năm tuổi lên ngôi để thâu tóm hết quyền bính. Vua mất thiêng, lòng người ly
tán, nên bạn ông là tướng Nguyễn Hữu Danh đã nhìn thấy từ lâu và sớm cáo quan về
Hoa Trai cày ruộng. Ở An Trường ngoài vua Anh Tông và tướng Nguyễn Hữu Danh,
ông không còn ai hiểu mình. Đã thế, sự ưu ái của vua dành cho ông lâu nay đã
làm cho Bá Sinh căm ghét. Là bạn nghề với nhau, nhưng hắn bất tài, luôn đố kỵ với
ông, lại thêm mối hận không lấy được bà Mạch từ khi hắn còn ở làng Se, sát ngay
nhà của người đẹp. Trong giới nghệ nhân, kẻ bất tài thường lắm mưu mẹo, luồn
lách ngoi lên tìm kiếm danh vọng và quyền lực bằng thủ đoạn thấp hèn. Bá Sinh
đã rình nghe trộm vua Lê mật đàm với tướng Cập Đệ định truất quyền của Trịnh
Tùng. Hắn đã báo với Nguyễn Hoá toàn bộ kế hoạch và ngày giờ khởi sự của tướng
Lê Cập Đệ từ Nghệ An đem quân ra vây phủ An Trường, kết hợp với quân ngự lâm do
thái tử chỉ huy đánh vào dinh tể tướng. Kẻ tiểu nhân nỡ rắp tâm bán
vua cầu lấy thưởng, nay lại công khai đánh tiếng sẽ tính sổ với vợ chồng Đào Tá
Hán. Ngày nhận chức tri phủ An Trường, hắn gọi mấy nhạc công cùng phe cánh
trong ban nhạc cung đình đến uống rượu và bảo rằng sẽ cho Đào Tá Hán thân bại
danh liệt mới hả giận. Nỗi buồn vì thế sự và mối lo tai hoạ giáng xuống gia
đình đã làm ông Hán sinh bệnh trầm uất, lo nghĩ, thổ ra hàng chậu máu. Bà Mạch
phải bán hết tư trang lo thuốc thang chạy chữa cho chồng mà bệnh lao tâm vẫn
ngày thêm trầm trọng.
Lại một đêm khác, cơn mưa đổ hồi vần vũ trên các ngọn cây,
mái nhà. Ngôi nhà nhỏ bên cung vua Lê của vợ chồng Đào Tá Hán tơi tả trong gió
rít, mưa gào. Ngọn nến đầu giường người bệnh cứ lập lờ leo lét như muốn tắt. Mấy
người bạn trong ban nhạc đến thăm, kể chuyện xác vua Anh Tông và Thái tử được
bó trong manh chiếu rách, chở trên xe ngựa đưa về cung đã làm cho ông Hán đau
xót, đứt từng khúc ruột. Khách ra về, ngôi nhà chìm trong bóng đêm
cô quạnh. Ông Hán thấy ngực nhói đau, đôi chân lạnh dần, mắt ông nhập nhoè đầy
hoa lửa. Ông gọi bà Mạch bế con lại gần, vuốt ve vầng trán của Đào Duy Từ. Đứa
bé ngủ ngon như đang mỉm cười.
- Tôi sắp đi rồi, mình ơi! - Ông thều thào với vợ.
- Đừng... chàng đừng làm thiếp sợ - Bà nghẹn ngào.
- Tội nghiệp con tôi. Nó mới vừa tròn một tuổi! - Ông thở
dài.
- Chàng phải sống! Nhất định chàng phải sống với con và thiếp.
- Số tôi đã hết, muốn cũng chẳng được. Chỉ thương nàng goá bụa
nuôi con. Đứa bé này, hôm đầy tháng, thầy tử vi trong cung vua Lê phán rằng nó
sẽ không cam chịu phận thấp hèn mãi đâu. Nàng cố nuôi nó ăn học thành người.
- Bệnh tình rồi sẽ qua khỏi, thiếp van chàng đừng nghĩ quẩn.
- Tôi vừa nhìn thấy thần chết có khuôn mặt giống hệt Bá Sinh,
nhưng mọc sừng trên đầu, lưỡi dài thè lè và đen kịt cứ liếm vào hai bàn chân của
tôi lạnh toát. Đằng sau hắn là cả bầy quỷ dữ đầu trâu, mặt ngựa, toát ra đầy âm
khí. Người ta nói, mơ thấy quỷ là lúc sắp về trời.
- Tại mấy người bạn lúc nãy kể lể việc vua Lê chết thảm làm
chàng mê hoảng đấy thôi...
- Nàng đừng khóc kẻo con thức giấc. Hãy đặt nó nằm vào võng rồi
lấy cây Nguyệt cầm lại đây cho tôi.
- Để làm gì, hở chàng?
- Đời nghệ sĩ, tôi muốn chết trong tiếng đàn của mình.
- Không... Thiếp không thể...
- Nhanh lên... Tôi cầu xin nàng... Thời gian còn ít lắm.
Bà Mạch cắn chặt làn môi, giàn giụa nước mắt, đỡ chồng ngồi dậy
và đi lấy cây Nguyệt cầm. Ông nở một nụ cười buồn như ráng chiều lịm tắt, đỡ lấy
cây đàn. Chợt mắt ông sáng bừng, dồn hết tâm lực vào đôi bàn tay lướt trên sáu
dây đàn. Mở đầu là điệu nhạc du dương và ông nhìn thấy cánh đồng làng Hoa Trai
lúa vàng trĩu bông, mẩy hạt. Ngòi La uốn mình quanh làng dưới ánh trăng sáng bạc.
Đỉnh núi Ngọc chờn vờn mây phủ. Bầy trẻ thơ nô đùa quanh các đống rơm và các cô
thôn nữ đập lúa, các bà mẹ bỏm bẻm nhai trầu. Rồi tiếng đàn chợt vút lên bay bổng,
âm hưởng mênh mang đưa hồn ông phơi phới bay theo cùng biển rộng, sông dài. Ông
như cánh chim đại bàng ở tận chín tầng mây nhìn thấu từ dãy Hoàng Liên Sơn đến
núi Hồng Lĩnh và núi Hoành Sơn. Tiếng đàn đưa ông di du ngoạn ra miền Đông Bắc
bát ngát những cánh rừng đại ngàn, lên cao nguyên Mộc Châu mênh mông đồng cỏ
hay những xóm làng trù phú ở châu thổ sông Nhị Hà. Có lúc những sợi dây đàn dưới
tay ông dồn dập biến tấu, vang lên những điệp khúc hùng tráng. Ông mơ thấy các
bậc tiên liệt: Lý Thường Kiệt duyệt binh trên bến sông Như Nguyệt; Trần Hưng Đạo
đuổi quân Nguyên trên sóng nước Bạch Đằng; Nguyễn Trãi đọc Đại cáo bình Ngô...
Đang say sưa tấu lên những giai diệu hùng tráng, mênh mang, ông Hán lặng đi và
đôi bàn tay ông run rẩy miết vào những dây trầm, làm bật lên khúc nhạc thê
lương. Tiếng đàn kéo ông về với thực tại mấy chục năm chiến tranh Lê - Mạc, dân
chúng điêu linh, Mạc Kính Điển và Trịnh Tùng như đang vật nhau, bơi trong một
biển máu. Đàn như kể lại vụ việc Tống Đức Vị theo lệnh Trịnh Tùng giết vua ở
Lôi Dương, xác bó chiếu đưa về An Trường. Đàn nguyền rủa đám nịnh thần, tham
quan, ô lại như Bá Sinh, Nguyễn Hoá. Đàn khóc thương những số phận nổi nênh, kiếp
người trôi dạt...
Cây Nguyệt cầm buột khỏi tay ông Hán rơi xuống nền nhà. Một
dây đàn đứt, làm nhói lên một nốt nhạc khô đanh và lạnh sắc. Ông Hán từ từ gục
xuống, trút hơi thở cuối cùng, con tim ngừng đập. Bà Mạch ôm chầm lấy ông gào
lên thảm thiết. Bé Duy Từ giật mình, oà khóc theo mẹ. Cả xóm nghệ nhân cung
đình đêm ấy ngậm ngùi thương cảm. Họ nhớ mãi tiếng đàn chứa đầy huyết lệ của
Đào Tá Hán lúc lâm chung...
Hơn mười năm qua đi, không đêm nào bà Mạch không nghe thấy tiếng
Nguyệt cầm của chồng. Cuộc viếng thăm bất thường của xã trưởng Phấn hôm nay làm
bà suốt ngày như kẻ mộng du, chìm đắm trong bản nhạc trước giờ ly biệt ấy. Nó dắt
dẫn hồn bà ra khỏi thân xác đi vào cõi âm gặp lại người chồng yêu dấu, thần tượng
âm nhạc của bà. Người như xã trưởng làm sao hiểu được mối tình sâu đậm ấy. Bà
nghĩ, có lẽ tiếng đàn của ông Hán đã cảm động đến trời phật nên mới xui khiến
cho bà gặp sư Diệu Minh ở chùa Thiên Phúc. Hồi đó, chôn cất cho chồng mồ yên mả
đẹp xong, bà Mạch đi chào từ biệt hết lượt bạn nghề trong xóm nghệ nhân để đưa con
về quê sinh sống. Bà đặt Duy Từ vào một bên thúng, còn đầu đòn gánh bên kia là
chiếc thúng đựng cây Nguyệt cầm và ít quần áo, tư trang. Đặt gánh
lên vai, bà âm thầm nuốt lệ, luyến tiếc nghiệp cầm ca, nhằm hướng Hoa Trai đi mải
miết. Dọc đường đói ăn, khát uống, ngày đi, đêm nghỉ mà bé Duy Từ không hề quấy
khóc. Hôm ấy về chiều, gặp đoạn đường vắng có nhiều giặc cướp, bà Mạch nghe có
người chỉ dẫn, gánh đàn và con đi tắt qua cánh đồng. Nào ngờ bà càng đi càng bị
mất phương hướng, loanh quanh mãi đến tận tối mịt vẫn chưa ra khỏi cánh đồng.
Trời đổ mưa to, bà vội lấy chiếc áo tơi bằng lá gồi quây kín một đầu đòn gánh
che mưa cho Duy Từ. Chiếc thúng đựng đàn và hành lý bà phủ lên mấy tầu lá chuối
khô. Riêng bà đầu trần, chân đất, gánh con băng đồng chạy thục mạng. Mưa táp
vào mặt như ném đá. Sấm chớp rượt đuổi, bủa vây tứ bề. Đến một gốc cây đa to,
bà mệt lả, đặt gánh xuống ngồi khóc. Nước mưa làm bà ngấm lạnh mê man. Lát sau,
trong cơn mê mệt, bà lờ mờ cảm nhận có đoàn người cầm đuốc đến cứu. Bà sốt li
bì, mê man liền mấy ngày, tỉnh dậy thấy mình đang nằm ở chùa Thiên Phúc, có sư
Diệu Minh đang ngồi chăm sóc. Sư kể rằng nửa đêm như có tiếng ai năn nỉ bên
tai, xin sư bà mở lượng từ bi cứu giúp vợ con ông ta đang mắc nạn giữa đồng. Sư
Diệu Minh choàng dậy, tất tả chạy vào xóm tìm người khoẻ mạnh đi cứu nạn. Vừa
hay ra khỏi cổng chùa một quãng, sư bà gặp tốp trai làng đốt đuốc ra đồng soi bắt
ếch. Họ sốt sắng cùng sư bà đi soi từng bờ ruộng, cuối cùng đã cứu được hai mẹ
con bà Mạch... Duy Từ nếu được theo học thành tài ở chùa Đàn Xuyên của đại sư
Duy Giác cũng là nhờ sư bà Diệu Minh tiên đoán và chỉ bảo từ lần gặp gỡ cách
đây 10 năm đó. Tháng trước, ông Danh mở túi cẩm nang của sư Diệu Minh đã bảo với
bà như vậy. Chư Phật có lẽ đã để mắt đến Duy Từ chăng?...
Chú thích:
[1] nhị
thục điền: ruộng hai vụ; nhất thục điền: ruộng một vụ.
Chương 3
HỒI THỨ BA
Chùa Đàn Xuyên tâm linh khai mở
Núi Quế Trường văn võ luyện rèn
Ngày rằm tháng mười năm Giáp Thân (1584), nhằm giờ Sửu, trăng
sắp tàn, gió heo may phơ phất ngọn lau bên bờ ngòi La, sương rơi ướt đầm mái
tranh nghèo trong làng Hoa Trai, ông Danh khởi hành đưa Duy Từ ra phủ Trường
Yên. Tiễn đưa hai người, ngoài bà Mạch còn có thầy đồ Mậu, Thục Nga và Hữu Dư.
Duy Từ quỳ lạy mẫu thân rồi quay sang bái lạy thầy đồ. Bà Mạch ôm chầm đứa con
trai duy nhất, không muốn rời xa. Mắt bà đẫm lệ, tay run run xoa đầu Duy Từ, miệng
lắp bắp chẳng nói nên lời. Mọi người đúng vây quanh, ai cũng nghẹn ngào thương
cảm. Thục Nga ôm gói hành lý của Từ thút thít khóc. Hữu Dư cứng rắn hơn, cố
ghìm lòng đỡ Từ đứng dậy, kéo bạn ra bờ giậu cúc tần thì thầm những lời tâm huyết.
Thầy đồ Mậu cũng lựa lời nhẹ nhàng khuyên giải, động viên bà Mạch. Ông Danh chờ
mọi người vơi cơn xúc động, gọi Duy Từ vào nhận gói hành lý từ tay Thục Nga và
nói với mọi người:
- Thôi chia tay nhau như thế đủ rồi. Đừng quá bịn rịn, yếu mềm
cho con trẻ thêm lo nghĩ. Đi học là việc đại cát, mọi người phải vui lên mừng
cho nó mới phải.
- Dọc đường trăm sự nhờ ông Danh chăm sóc, bảo ban cháu Từ hộ
thiếp - Bà Mạch gạt lệ nói.
- Trò đi mạnh giỏi, giữ bền nhân cách, gắng học thành tài cho
thầy được thơm lây. Nhờ trò bẩm với đại sư Duy Giác, ta ngưỡng mộ tài năng, đạo
hạnh của ngài, mong có cơ được hạnh ngộ - Thầy đồ Mậu ân cần dặn Từ.
Thục Nga và Hữu Dư nằng nặc đòi đưa Từ một đoạn đường. Ông
Danh lúc đầu mắng át đi, sau nhờ bà Mạch và thầy đồ nói đỡ nên chúng được toại
nguyện. Con đường từ làng Hoa Trai ra đường cái quan chạy men theo ngòi La. Nước
trôi lững lờ dưới ánh trăng loáng bạc. Những ruộng mía lao xao theo chiều gió.
Xa xa núi Ngọc mờ trong màn sương. Từ làng Hoa Trai vọng lại tiếng gà gáy báo
canh tư. Ông Danh lặng lẽ đi trước, lưng gài thanh đoản kiếm. Bóng ông lừng lững
oai nghiêm và trầm tĩnh. Ba đứa trẻ đi sau ông, cách chừng mười bước, chuyện
trò ríu rít. Hồi lâu Nga nũng nịu đòi Từ thổi sáo. Hữu Dư nhăn nhó gạt đi,
nhưng Từ chiều ý Nga lấy sáo vừa đi vừa thổi một khúc dân ca. Tiếng sáo bay cao
giữa không gian bốn bề vắng lặng chở đầy kỷ niệm tuổi thơ và nỗi lòng cậu bé xa
quê...
Ở chùa Đàn Xuyên trên núi Quế Trường, đêm trước hôm rằm, đại
sư Duy Giác trằn trọc không sao ngủ được. Ngài linh cảm thấy từ cõi giới vô
hình, đức Phật đang phát ra một tín hiệu, trao cho ngài sứ mệnh cao cả. Nhưng
đó là sứ mệnh gì, ngài còn chưa rõ. Ngài chỉ thấy trong tâm mình nôn nao, rạo rực
khác thường. Đạo Phật Thiền tông mà ngài tu luyện bấy lâu lấy việc đốn ngộ
thành Phật để rồi trở lại nhập thế, giáo hoá chúng sinh, kiến tạo thế giới đại
đồng, kiêm ái, tương lợi. Ngài đã kiên tri vi thiền tập định, vật ngã đều quên
để đạt được cái tâm yên tĩnh, tuệ giác thoát phàm, minh triết khai mở. Khi tâm
còn bất an thì người mới vọng động. Nhưng khi tâm đã an, minh triết đã rạng ngời
tâm thức, lại có tín hiệu từ cõi giới vô hình khơi cho tâm rạo rực, chính là
lúc cõi đời dưới chân núi đang thỉnh cầu kẻ tu hành nhập thế, độ dân, cứu khổ
chăng? Ngài tự hỏi mình như vậy, rồi Ngài chiêm nghiệm lại tâm trạng của mình từ
buổi vô tình ghé chùa Thiên Phúc, cùng sư bà Diệu Minh đàm đạo. Ngày ấy cách
đây đã lâu. Sư bà Diệu Minh trong lúc đàm đạo với ngài về Phật pháp và giáo lý
của Trúc Lâm tam tổ, đôi lúc thường hay xen vào những mẩu chuyện chính sự kể từ
khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi, Nguyễn Kim phò Lê và chiến tranh Nam - Bắc triều
giữa hai họ Lê - Mạc diễn ra liên miên suốt mấy chục năm. Đại sư nhớ hôm đó,
nhân lúc kể lại sự biến năm Quí Dậu (1573), sư bà Diệu Minh có nhắc đến cái chết
trong tiếng đàn của một nghệ sĩ cung đình có tên là Đào Tá Hán. Điều lạ lùng là
sau đó, vào một đêm mưa gió, sư Diệu Minh đã nhận được tín hiệu từ cõi giới vô
hình, mách bảo sư bà đi cứu đứa bé Đào Duy Từ đang gặp nạn. Câu chuyện ngỡ vô
tình mà sao hình ảnh đứa bé Đào Duy Từ luôn ám ảnh đại sư Duy Giác. Theo lời của
sư Diệu Minh thì tướng mạo và cung số tử vi của đứa bé này có nhiều điểm lạ. Đến
năm nó tròn một giáp sẽ rời quê theo thầy học đạo. Hình như có một thứ nhân
duyên vô hình cứ xui khiến đại sư Duy Giác ao ước có một ngày gặp mặt chú bé
Đào Duy Từ. Ngài đọc trong ánh mắt của sư Diệu Minh cũng ngầm ý giới thiệu cho
ngài một đệ tử xứng đáng truyền đạt hết cái sở học của mình.
Đêm trên núi Quế Trường tĩnh lặng và huyền bí. Trăng mười tư
tháng mười có quầng tán vàng viền quanh như viên đá ngọc khổng lồ treo lơ lửng
giữa trời cao. Đại sư Duy Giác đứng ở sân chùa, phóng tầm mắt ra những vách núi
đá vôi điệp trùng lô xô chạy tít đến chân mây. Ngài thấy lâng lâng, xao xuyến,
muốn nhập hồn vào vũ trụ bao la. Dẫu không phải giờ nhập thiền theo thông lệ,
nhưng cảnh vật đêm nay thôi thúc ngài ngồi xuống tảng đá phẳng lì, bên gốc cây
tùng. Đại sư Duy Giác ngồi xếp bằng tròn, nén hơi, thở đều, khép hờ đôi mắt và
tưởng tượng hồn mình đang thoát khỏi xác cưỡi sóng ra biển Đông Bắc quê nhà. Họ
Trần của ngài là dòng dõi Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, thuộc chi nhánh Hưng
Ninh Vương Trần Quốc Tảng, định cư ở vùng biển Đông Bắc đã mấy trăm năm. Thời
Trần, gia tộc Ngài được truyền đời tập tước, thay nhau trấn giữ vùng lãnh hải
trọng yếu từ cảng Vân Đồn đến cửa sông Tam Bạc. Sang thời Lê, trong họ tộc của
Ngài cũng nhiều đời vượng phát cả văn lẫn võ. Ngài thuộc lòng sách “Binh thư yếu
lược” và “Vạn kiếp tông bí truyền thư” của tổ phụ Trần Quốc Tuấn, lại tinh
thông cả 18 ban võ nghệ. Học vấn của Ngài uyên thâm, bao chứa sự quảng bác của
Nho giáo, vi huyền của Lão giáo, vi diệu của Phật giáo. Thủa thiếu thời, còn
chưa xuất gia làm kẻ tu hành, Ngài đã từng là bạn vong niên của Bạch Vân cư sĩ
Nguyễn Bỉnh Khiêm. Giữa buổi loạn ly, cái ác lộng hành, thói gian bung nở, Ngài
không chọn cách sống ẩn dật như Bạch Vân cư sĩ mà tìm đến cửa Thiền, những mong
nối nghiệp Trúc Lâm tam tổ, giáo hoá và phổ độ chúng sinh. Nhưng giang sơn Đại
Việt đang đắm chìm trong cảnh hỗn độn tranh bá đồ vương khiến dân chúng lầm
than, ly tán. Có lúc Ngài muốn hạ sơn, trút bỏ cà sa, dấn thân vào thế cuộc để
thay trời hành đạo, nhưng lòng đã nguội lạnh từ lâu, đành như thi sĩ Lục Du nước
Tống “u nhân chẩm bảo kiếm”, gối đầu lên thanh kiếm báu mà ngủ vùi. Nay giữa
đêm thanh tịnh, trên núi Quế Trường, khí thiêng của trời đất dồn tụ thành tín
hiệu đánh thức trong Ngài niềm khát khao nhập thế. Ngài cần phải nhập thế giúp
đời theo cách riêng của kẻ tu hành, sao cho đúng giới luật mà vẫn thoả chí bình
sinh. Chưa bao giờ trong lúc ngồi thiền Ngài thấy mình nhẹ bẫng trong cảm giác
siêu trọng lượng như lúc này. Cảm hứng tìm ra phương cách đem đạo vào đời đã
đưa Ngài vào giấc mơ kỳ lạ. Đại sư Duy Giác thấy mình đằng vân trên vịnh Bái Tử
Long, rồi sau đó phi như gió về phía Yên Tử. Bước chân Ngài lướt trên ngọn cỏ,
chưởng lực của ngài thoát ra từ vầng trán và lòng bàn tay, va đập vào các vách
đá toé lên ánh hào quang như các tia chớp. Cứ thế, Ngài băng lên núi, qua chặng
đường tùng và đậu xuống tháp tổ, qua chùa Hoa Yên, từ đó lững thững rẽ lau, đạp
cỏ, bước vào chùa Vân Tiêu. Đại sư Duy Giác thắp nhang, thỉnh chuông, ngồi trước
điện thờ lầm rầm tụng kinh, cậy nhờ Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông khai mở
tâm linh chỉ đường nhập thế. Bát nhang bốc cháy và bức tượng cựa mình đứng dậy.
Trần Nhân Tông hiện ra giữa muôn ánh hào quang.
- Duy Giác con, vì sao chậm thế?
- Thưa Điều Ngự Giác Hoàng! Con chưa nghe lệnh gọi.
- Ta đã phát tín hiệu gọi con về đất tổ thiền được vài canh
giờ.
- Điều Ngự Giác Hoàng có gì dạy bảo?
- Con bấy lâu tu luyện ở chùa Đàn Xuyên có lưu tâm dõi nhìn
thế cuộc, hãy nói cho ta nghe.
- Thưa Điều Ngự Giác Hoàng! Nhà Lê truyền ngôi báu đến đời Uy
Mục, Tương Dực thì chính sự mục ruỗng, xã hội rối ren còn tệ hại hơn cả Nghệ
Tông, Thiếu Đế khi xưa. Mạc Đăng Dung theo gương Hồ Quý Ly cướp ngôi, ban hành
nhiều cải cách tiến bộ, nhưng sĩ phu Đại Việt vốn quen nếp sống giáo điều, cuồng
tín, ngu trung với một chính thể đã đồi bại, suy vong. May cho nước nhà vì ở
phương Bắc nhà Minh lúc này cũng đến hồi mạt vận, thấy ở bên ta Lê - Mạc lục đục
mà không còn đủ sức diễn lại trò xưa, đã từng lấy cớ giúp Trần diệt Hồ, ồ ạt
kéo quân sang đô hộ. Nhưng hoạ ngoại xâm chưa đến thì nội chiến đã xảy ra giữa
hai họ Lê - Mạc ròng rã mấy chục năm chưa dứt. Đã thế, ở Đông Đô, nhà Mạc qua
vài đời đã hư đốn, còn ở Thanh - Nghệ thì vua tôi cũng bắt đầu lục đục, tranh
giành quyền lực. Đệ tử nhìn giang sơn đổ nát, dân chúng lầm than mà đau xót,
quên ăn biếng ngủ.
- Ta ở trên cõi giới vô hình quan sát thấy con kiên trì tu
luyện, đạt đến cái tâm vô vi, thuần khiết, hư vô, không che không chứa, ngõ hầu
có thể cảm thông được thiên hạ. Việc học của con đã lầu thông kinh sử, trên hiểu
thiên văn, dưới tường địa lý. Võ nghệ và binh pháp của con kế thừa được tinh
hoa của dòng tộc nhà Trần ta. Vậy hà cớ gì con không tạm quên giới luật để ra
giúp đời? Thiền phái Trúc Lâm của ta lấy việc nhập thế làm trọng cơ mà!
- Đệ tử không màng công danh, chỉ muốn giấu tên trong sách sử.
- Đạo Phật Thiền phái Trúc Lâm của ta quan niệm vô ngã rồi phải
tự giác - giác tha, đem đạo vào đời để hoá cải thiên hạ đâu phải vì công danh
mà vì sứ mạng thế thời phải thế. Cuối thời Bắc thuộc, Lý Phật Tử được dân trong
động Dã Năng miền Tây Bắc suy tôn lãnh đạo khởi nghĩa đánh đuổi quân nhà Lương,
giành độc lập hơn 30 năm. Đầu triều Trần, Thái Tông hoàng đế và ta đều coi ngai
vàng quyền lực như chiếc giầy rách, vứt bỏ đi lúc nào cũng được. Nhưng Thái
tông khi cần vẫn rời am cỏ trên Yên Tử về Thăng Long điều hành chính sự, còn ta
cũng có lúc hạ sơn vào tận đàng trong giáo hoá dân chúng hai nước Chiêm Thành,
Chân Lạp và kiến tạo mối bang giao hoà hiếu giữa hai nước ấy.
- Thưa Điều Ngự Giác Hoàng! Đệ tử đã xuống tóc tình nguyện
theo tam quy ngũ giới nên muốn tìm phương cách giúp đời mà không phải cưỡi ngụa
múa gươm, điều binh khiển tướng hay trực tiếp can dự vào việc triều chính.
- Ta hiểu ý con định sẽ gián tiếp nhập thế giúp đời bằng việc
dạy dỗ, rèn cặp học trò của mình. Như vậy cũng tốt, con làm đến đâu rồi?
- Đệ tử đã thu nhận hàng trăm học trò. Hầu hết đều vì cảnh ngộ
éo le phải xuống tóc đi tu. Vài người trong số học trò đến xin học văn luyện võ
nhưng xem ra tài trí còn chưa đủ cho đệ tử yên tâm truyền dạy và gửi gắm hy vọng.
Chẳng lẽ thời nay tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá mùa thu hay sao?
- Chưa có rồi con sẽ có. Việc đời có 12 thứ nhân duyên, quy kết
lại thành chân lý đơn giản là “không ham thì được, không tìm thì thấy, không hẹn
thì gặp”. Sắc sắc không không là như vậy...
Đại sư Duy Giác bừng tỉnh sau giấc mộng Thiền. Rừng cây vách
đá trên núi Quế Trường còn đang chập chờn giữa cõi mơ và thực. Miệng Ngài chợt
mấp máy gọi lên ba tiếng "Đào Duy Từ"...
Lúc này, trên đường đi, ông Danh và Duy Từ bỗng cảm thấy từ
đâu đó giữa không trung vang lên tiếng gọi. Hai người chân bước nhẹ tênh, lòng
đầy phấn khích, mải miết ngày đi đêm nghỉ, đói ăn khát uống, không hề mệt nhọc
hay vướng vân suy nghĩ. Dường như có Phật phù hộ nên tiết trời mưa nắng điều
hoà mát mẻ. Những nơi ngủ trọ họ đều gặp người mến khách, hết lòng giúp đỡ. Qua
các đồn canh, trạm gác họ cũng không gặp điều gì phiền phức. Ngày cứ qua nhanh,
chẳng mấy chốc hai người đã đến phủ Trường Yên, hỏi đường lên núi Quế Trường,
vào chùa Đàn Xuyên. Ông Danh đứng trước cổng chùa có đắp nổi mấy chữ "Đàn
Xuyên tự ” bằng các mảnh bát sứ. Nét chữ chân phương và cứng cáp. Ngôi chùa nằm
giữa khuôn viên rộng và bằng phẳng trên núi Quế Trường. Từ cổng chùa nhìn xuống
thung lũng bên trái là cả một rừng mơ và bên phải là rừng trúc, gió reo vi vút.
Xa xa, chếch về mé Tây, quãng lưng chừng núi đá, có ngọn thác ào ào đổ nước xuống
con suối nhỏ. Cảnh vật nên thơ và hùng vĩ. Ông tần ngần hồi lâu, chưa dám bước
vào sân chùa, chợt gặp chú tiểu lớn hơn Duy Từ độ vài tuổi, gánh nước từ trong
rừng mơ về. Chú tiểu vừa đi vừa hát:
Câu có câu không
Lập chỉ lập tông
Dùi rùa đập ngói
Trèo núi lội sông
Câu có câu không
Chẳng có chẳng không
Khắc thuyền tìm gươm
Bản đồ kiếm ngựa
Câu có câu không
Đắp đổi hay không
Nón tuyết giầy bông
Ôm cây đợi thỏ
Câu có câu không
Từ nay từ xưa
Quên trăng giữ ngón
Chết đuối trên bờ
Câu có câu không
Như vậy, như vậy...
Duy Từ nghe hát mỉm cười thích thú. Cậu chạy lại hỏi chú tiểu:
- Huynh tên gì?
- Ta là tiểu Tuệ Năng, còn thí chủ?
- Đệ là Đào Duy Từ. Huynh hát bài gì lạ thế?
- Bài thơ trong lần giảng đạo ở chùa Sùng Nghiêm của vua Trần
Nhân Tông, có nhiều sự tích và giáo lý nhà Phật, người phàm tục như thí chủ
không dễ gì hiểu được đâu.
- Còn bài nào nữa, huynh hát cho đệ nghe với.
- Nhiều lắm. Ví dụ bài "Đắc thú lâm tuyền thành đạo
ca" của Ngài có đoạn:
Trúc hóa nên rồng
Một hai là hoạ
Bởi lòng vờ vịt
Trỏ Bắc làm Nam
Nhất chỉ đầu thiền
Sát na hết cả...
- Huynh dậy đệ hát nhé?
- Thí chủ rồi khắc biết. Thí chủ đây lên núi quy y hay xin học
văn, học võ?
- Đệ xin vào học thầy Duy Giác.
- Thế thì phải làm việc công quả cho nhà chùa trước đã.
- Có lâu không hả huynh?
- Cũng còn tuỳ người, sư phụ sẽ cho học sớm hay muộn. Làm việc
công quả cho chùa để rèn chữ Nhẫn và chữ Xỉ. Sư phụ dạy rằng Nhẫn là cốt yếu của
học, còn Xỉ là cái gốc của hành. Biết kiên trì và nhẫn nại mới học thành tài.
Biết xấu hổ thì mới hành đạo giúp đời được.
Lúc này Tuệ Năng đã nhận ra ông Danh đang ngồi dưới gốc cây đại
ở cổng chùa, bên cạnh là đống hành lý. Tuệ Năng lại gần ông Danh chắp tay trước
ngực:
- Mô Phật! Lão thí chủ đây hẳn là phụ thân của tiểu thí chủ
Duy Từ?
- A di đà Phật! Chú tiểu thật lanh lợi, thông minh và hát rất
hay những câu kệ của Điều Ngự Giác Hoàng. Tôi là nghĩa phụ của Duy Từ. Nó mồ
côi cha từ nhỏ, nay lên chùa ăn nhờ cửa Phật, theo học đại sư Duy Giác.
- Vậy lão thí chủ chính là tướng quân Hữu Danh?
- Sao chú tiểu biết?
- Sáng nay, lúc đem thùng đi gánh nước, sư phụ có dặn nếu gặp
tướng quân Hữu Danh dắt theo Duy Từ đến xin học thì đón về chùa.
- Ngài biết trước việc này sao?
- Vào lúc canh năm, sư phụ đọc sách đến câu “Hữu danh vô tướng,
vi cầu sở đắc” trong kinh Pháp Hoa thì nghe có tiếng chim khách kêu nên ngài
đoán vậy.
- Vậy chú tiểu mau đưa ta vào bái kiến đại sư.
- Xin lão thí chủ theo cháu vào ngồi đợi ở nhà khách.
Tuệ Năng hớn hở gánh nước vào chùa. Ông Danh hồi hộp cùng Duy
Từ đi theo. Tuệ Năng mời hai người ngồi đợi trên ghế tràng kỷ bằng tre, rót trà
hoa cúc vào hai chén sành mời, rồi tất tưởi chạy lên trai phòng của sư phụ. Hồi
lâu, một cụ già tiên phong đạo cốt, mặc áo cà sa, chống gậy trúc bước ra. Ông
Danh vội đứng dậy, vòng tay xá:
- Bạch cụ, tiểu bối là Nguyễn Hữu Danh ở Hoa Trai đến bái kiến
tôn nhan.
- Mô Phật. Bần tăng nghe nói tướng quân theo Nguyễn Kim phò
giúp vua Lê Trang Tông, sao lại đến đây?
- Bạch cụ, việc ấy có thật, nhưng tiểu bối đã cáo quan về cầy
ruộng lâu rồi. Nay có nghĩa tử là Đào Duy Từ thông minh, sức học hơn người, được
sư bà Diệu Minh mách bảo nên tiểu bối dẫn nó lên chùa ra mắt đại sư.
- Tướng quân muốn nó quy y hay đến xin học?
- Bạch cụ, tiểu bối cũng có một đứa con trai xấp xỉ tuổi với
Tuệ Năng, nhưng nó thô lỗ, tối dạ không dám phiền đến đại sư. Duy Từ là con
trai của Đào Tá Hán, với tiểu bối tình như thủ túc. Tiểu bối coi con bạn cũng
như con mình, mong sao nó được theo học đại sư làm người hữu dụng cho xã tắc
sau này.
- Tướng quân có lòng nghĩa hiệp như vậy, bần tăng sao nỡ chối
từ.
Ông Danh sung sướng gọi Duy Từ bước ra quỳ lạy sư phụ làm lễ
nhập môn. Đại sư Duy Giác ngắm nhìn đứa học trò nhỏ hồi lâu, quan sát tướng mạo
và gật đầu mãn nguyện. Ngài gọi Tuệ Năng đi thu xếp chỗ ăn nghỉ cho ông Danh và
Duy Từ. Ông Danh vội xin phép đại sư ngồi đàm đạo thêm nửa canh giờ rồi sẽ lập
tức trở về lại Hoa Trai. Hai người trò chuyện rất tâm đắc. Lúc chia tay, ông
Danh còn nấn ná xin đại sư đoán xét hậu vận. Ngài chỉ tủm tỉm cười, tặng ông
Danh mấy câu kệ:
Người giồng cây phúc
Tích đức ba đời
Cây rồi kết trái
Nọ phải số trời
Tiễn ông Danh đi rồi, đại sư phác qua trong đầu những dự định
thử thách đứa trò mới của mình. Tối hôm đó, Ngài cho gọi Duy Từ và Tuệ Năng lên
trai phòng. Đại sư ân cần hỏi chuyện gia cảnh và việc học của Duy Từ ở trường
thầy đồ Mậu. Ngài ngậm ngùi chia xẻ nỗi lòng với cậu bé mồ côi, luôn bị người đời
coi rẻ vì thân phận con nhà phường hát. Quay sang Tuệ Năng Ngài bảo:
- Con có nhân duyên là người đầu tiên gặp Từ trên núi Quế Trường.
Vậy ta giao Từ cho con kèm cặp trong những ngày làm việc công quả cho nhà chùa,
luyện rèn chữ nhẫn, chữ xỉ. Hai con phải coi nhau như anh em liền một khúc ruột.
- Con xin ghi tạc lời dạy của sư phụ - Tuệ Năng đáp.
- Này Duy Từ - Ngài gọi.
- Sư phụ có điều gì nhắc nhở, xin cứ dạy bảo.
- Đạo học của ta lấy thường nhật thực hành làm trọng chứ
không câu nệ tầm chương trích cú để khoe mẽ, loè người. Trước tiên con phải
kiên trì từng việc nhỏ, không cần quá sức, nhưng ngày hôm nay phải làm tốt hơn
ngày hôm qua, tốt rồi phải tốt mãi. Hãy lấy việc gánh nước ta sẽ giao cho con bắt
đầu từ ngày mai. Trong rừng mơ dưới kia có một mạch nước quí lộ ra ở sườn núi.
Thứ nước ấy vừa ngọt vừa mát, có thể bồi bổ nguyên khí cho người. Trong chùa có
gần trăm người đều uống thứ nước tinh khiết ấy, nên cần mỗi ngày hai chục gánh.
Đường đi rất trơn và dốc đứng. Sức con yếu gầy, có thể ngày đầu chỉ được một hoặc
hai gánh. Con cố sức được đến đâu thì hay đến đó. Con gánh được một, Tuệ Năng bớt
đi một gánh, được hai bớt hai, được ba bớt ba... cho đến khi con gánh đủ nước
dùng thì Tuệ Năng sẽ yên tâm đi làm việc khác. Nhà chùa còn có nhiều việc khác
phải làm như bổ củi, nấu ăn, cuốc đất, trồng rau, tỉa bắp... Khi con gánh nước
xong mà vẫn dư thời gian lại phải biết tự giác mà tìm việc làm giúp đỡ Tuệ
Năng, không chờ ta sai bảo. Hãy tập sao cho suốt ngày con chỉ nghĩ đến công việc,
vận động không ngừng, lập tức sẽ quên nỗi nhớ nhà, cái tâm sẽ yên tĩnh. Thử
nghĩ mà coi, lúc con ở nhà chơi trò con quay với chúng bạn sẽ thấy quay càng
tít càng như nó đứng yên một chỗ. Trong tĩnh có động, trong động có tĩnh, chí [1] tĩnh
ắt sang động, chí động ắt sang tĩnh. Đó là cái lẽ vi huyền của vũ trụ và của
tâm linh con người. Minh triết chỉ được phát ra khi tâm hoàn toàn tĩnh lặng. Nếu
con rèn luyện đến mức tự điều khiển cho tâm tĩnh lặng bầng sự vận động ở bên
ngoài thì ta bắt đầu dạy con học chữ, học đạo lý trong Nho, Phật, Lão giáo.
Đại sư Duy Giác tạm ngừng lời, ung dung ngồi uống trà. Ngài
cho phép Tuệ Năng dắt Duy Từ đi dạo quanh chùa chừng nửa canh giờ để làm quen với
hết thảy mọi người. Đợi khi hai trò quay lại trai phòng, Ngài ôn tồn giảng tiếp:
- Bài học nhập môn cho Duy Từ hôm nay có hai phần, lúc nãy là
chữ Nhẫn, giờ tiếp đến chữ Xỉ. Xấu hổ là bản tính tự nhiên của con người khác với
loài cầm thú. Này trò Duy Từ, hãy nghe ta lấy việc ăn của người và câm thú là
điều ví dụ: con ruồi đậu trên đống phân, con quạ mổ miếng thịt thối rữa so với
các bậc vương tôn, quí tộc ngồi quanh bàn tiệc đều có khoái cảm như nhau; nhưng
con người bưng bát cơm lại hoàn toàn khác với con lợn sục mõm vào máng đựng
cám, ấy là bởi chỉ có người mới biết xấu hổ trước sự cám dỗ của khoái cảm. Người
biết xấu hổ càng nhiều thì tính thiện càng lớn, nhân cách càng cao. Người biết
xấu hổ càng nhiều sẽ càng cảm thông, trân trọng sự xấu hổ người khác, nhờ đó mà
thế giới đại đồng, kiêm ái, tương lợi. Ta mong sao con biết đem sự xấu hổ của
mình ra thực hành ở mọi nơi mọi lúc. Muốn vậy con phải tuân thủ nghiêm ngặt
phép ứng xử lục hòa bao gồm: thân hòa, khẩu hòa, ý hòa, kiến hòa, giới hòa và lợi
hòa. Thân hòa có nghĩa mọi việc làm lớn nhỏ con đều tự hỏi làm như vậy có xúc
phạm hay làm người khác xấu hổ hay không. Khẩu hòa, ý hòa, kiến hòa không có
nghĩa a dua theo mọi người, mà phải xem lời nói, ý nghĩ, cách nhìn của con có
xúc phạm hay làm người khác xấu hổ hay không. Giới hòa có nghĩa dù nghề nghiệp,
địa vị, học vấn có khác nhau thì con vẫn cần tôn trọng người ta, cũng chính là
giữ thể diện cho mình. Lợi hòa là điều nói thì dễ làm thì khó, con chỉ làm được
nếu biết tự xấu hổ.
Đêm ấy, Duy Từ thao thức suy ngẫm lại bài học nhập môn. Tuệ
Năng bảo cậu rằng đã có hàng trăm đệ tử đến đây học, nhưng chưa hề có ai được
sư phụ giảng kỹ về hai chữ nhẫn và chữ xỉ như với Đào Duy Từ. Mỗi lời của đại
sư đã khai mở hồn cậu, đem đến cho cậu nghị lực và quyết tâm.
Những ngày sau đó, Duy Từ miệt mài rèn luyện theo lời dạy của
sư phụ. Tuệ Năng luôn theo sát, động viên, chăm sóc cậu như em ruột. Chẳng bao
lâu Duy Từ được đại sư tin tưởng, cho nghỉ làm việc công quả, chuyên tâm vào học
tập. Ngày chẵn cậu học văn, ngày lẻ học võ. Sớm tối cậu chuyên cần, dù mưa bão
hay giá rét vẫn không hề sai lịch. Đại sư mỗi ngày lại phát hiện ở đứa học trò
yêu khả năng tự học và sáng tạo. Ngài thầm cảm ơn trời phật đã cho Ngài cơ hội
nhập thế và gửi gắm nhiều hy vọng vào Duy Từ. Mỗi lần nhớ lại giấc mộng lên Yên
Tử gặp Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông, lòng Ngài rộn lên niềm vui, khao
khát muốn truyền thật nhanh, thật kỹ cho học trò các sở học của Ngài. Cứ như vậy,
Duy Từ sống, học tập và lớn lên trong tình yêu thương, chăm sóc của đại sư, của
tiểu Tuệ Năng và mọi người trong chùa. Đáp lại, cậu học hành tấn tới, luyện võ
ôn văn, thấm nhuần tinh thần lục hoà của đại sư dạy dỗ trong buổi nhập môn. Bốn
mùa xuân - hạ - thu - đông, cậu luôn tâm niệm học để đền ơn sinh thành của mẫu
thân, báo hiếu phụ thân, trả nghĩa thầy đồ Mậu và ông Danh. Mỗi khi nhớ về Hoa
Trai, cậu lại hiểu mình đang học thay cả phần của Hữu Dư, Thục Nga. Lời hẹn của
Dư và ánh mắt của Nga theo Từ vào giấc ngủ. Núi Ngọc, ngòi La hiện lên trong
trí tưởng tượng bay bổng của Từ mỗi sớm ngồi thiền, tập luyện khí công. Hơi thở
của mẫu thân, giọng nói của thầy đồ Mậu, nụ cười của ông Danh cứ đêm đêm dồn tụ
vào ngọn bấc cháy leo lét trong đĩa dầu lạc, soi rõ cho cậu ngồi đọc sách...
Chú thích:
[1] Chí:
cực, cùng.
Chương 4
HỒI THỨ TƯ
Giấc mơ lạ Duy Từ xuống núi
Thoắt đã hơn tám năm Đào Duy Từ theo học đại sư Duy Giác.
Ngày lại qua ngày, thời gian đắp đổi, rừng cây tám mùa thay lá, mái chùa Đàn
Xuyên tám lần én về xây tổ. Duy Từ đã thành chàng trai văn võ song toàn, được
sư phụ dày công truyền thụ cho binh pháp bí truyền trong gia tộc họ Trần của
Ngài. Cuộc chiến xảy ra giằng co, ác liệt giữa quân của Mạc Đôn Nhượng và quân
của Trịnh Tùng đã ngăn cản không cho chàng một lần về Hoa Trai, tin tức quê nhà
cứ thưa dần rồi bặt hẳn. Chàng nôn nao nhớ mẹ, nhớ thầy cũ, bạn xưa. Đã nhiều lần
chàng xin phép sư phụ, toan liều chết băng qua trận tuyến hai bên Lê - Mạc để về
thăm nhà. Tuệ Năng hết sức can ngăn, khuyên giải chàng. Đại sư Duy Giác rất hiểu
và thương chàng, nhưng Ngài chỉ chắp tay mô phật, ngồi trầm ngâm hồi lâu, rồi
khẽ khàng đọc cho trò nghe câu thơ thiền của Trần Nhân Tông viết bằng chữ Hán:
Vạn sự thủy lưu thủy
Bách niên tâm dĩ tâm
Duy Từ hiểu rằng sư phụ muốn nhắc mình hãy cứ thản nhiên cho
thế cuộc tự nhiên trôi xuôi như dòng nước và kiên nhẫn nuôi dưỡng ý chí, lòng
nhủ lòng phải chờ thời đợi lúc, sớm muộn gì cũng sẽ có ngày hạ sơn. Chàng nghe
sư phụ, cố ghìm nén, nhưng càng ghìm nén thì nỗi nhớ, niềm mong càng thêm chất
chứa, khiến chàng khắc khoải đêm ngày.
Thế rồi vào năm Quí Tỵ (1593) nhà Lê thắng thế. Các đạo quân
của Trịnh Tùng ào ạt tiến ra Bắc, dồn tướng Mạc Đôn Nhượng trong thế bị vây ép,
co cụm dần về Đông Đô. Hai sứ Thanh, Nghệ nhờ đó tạm yên. Nhân xuống núi cầu
siêu cho nhà phú hộ có lão tiền bối vừa qua đời, nhà sư trẻ Tuệ Năng lân la dò
hỏi rồi hớn hở về báo cho Duy Từ biết đường về Hoa Trai đã thông suốt.
Duy Từ xiết bao mừng rỡ, tưởng tượng giờ phút sum họp với mẫu thân, ông Danh,
thầy đồ Mậu, rồi Hữu Dư, Thục Nga và bao bạn bè khác từ thủa ấu thơ. Suốt đêm
chàng không ngủ, lòng rạo rực mong trời sáng để xin phép sư phụ về quê. Đêm ấy
dài hơn mọi đêm. Chùa Đàn Xuyên chìm trong bóng đêm huyền bí. Không gian trên
núi Quế Trường im lặng như tờ, thoảng nghe tiếng vượn hú hoặc tiếng hoẵng kêu
thảng thốt bên bờ suối cạn. Rừng trúc dưới thung lũng lao xao trong gió nhẹ,
khơi gợi Duy Từ hồi nhớ lại bao kỷ niệm êm đềm của tuổi thơ, bên những người bạn
như Hữu Dư, Thục Nga. Một cơn gió lạnh khác thường chợt thoảng qua, mang nhiều
âm khí. Duy Từ nhìn thấy bà Mạch lờ mờ hiện ra ở đầu giường. Chàng hỏi gì cái
bóng ấy cũng không trả lời, chỉ lắc đầu, nước mắt chảy ròng. Nhìn kỹ, chàng thấy
áo quần và tóc mẫu thân ướt sũng. Duy Từ vùng dậy, ôm lấy cái bóng thì bà biến
mất. Chàng nhìn thấy một vũng nước lênh láng dưới nền nhà. Lát sau vũng nước biến
thành một con mèo ướt sũng, tiếng kêu ai oán. Chàng nhớ mẫu thân tuổi Mão. Phải
chăng đây là oan hồn của bà hiện về báo mộng cho con trai về một cái chết oan
nghiệt? Khi xưa, lúc còn ở nhà, chàng vô tình nghe bà tâm sự với ông Danh, có
nhắc đến xã trưởng Đặng Phấn. Bà nói: “Thiếp sống là dâu họ Đào, chết làm ma họ
Đào. Nếu vạn nhất xảy ra chuyện thất tiết với Đào Tá Hán, thiếp sẽ gieo mình xuống
ngòi La". Lời nói ấy của bà lại văng vẳng bên tai, khiến chàng lạnh toát sống
lưng, sa sẩm mặt mày và gào lên nức nở: “Mẫu thân ơi! Mẫu thân đừng bỏ con...”
Tuệ Năng nghe tiếng kêu choàng tỉnh giấc, thấy giường bên Duy
Từ đang vật vã khóc than, vội chạy lại hốt hoảng lay gọi:
- Duy Từ!... Duy Từ, tỉnh dậy đi! Đệ sao thế?
- Mẫu thân của đệ chết rồi. Sư huynh!... Trời phật ơi!...
- Mô Phật. Đệ đừng nói gở.
- Không! Rõ ràng bà vừa hiện về báo mộng.
- Tại đệ nôn nóng về quê nên sinh mê loạn, đừng vội tin. Nào,
đệ hãy uống miếng nước cho bình tĩnh lại, rồi kể sự tình cho ta.
Tuệ Năng đỡ Duy Từ ngồi dậy uống cạn bát nước, lấy vạt áo cà
sa lau sạch mồ hổi trên trán cho chàng. Bát nước lạnh và bàn tay ấm nóng của Tuệ
Năng giúp Duy Từ hoàn hồn. Nhưng giấc mộng hãi hùng cứ ám ảnh chàng. Nỗi đau lặn
vào gan ruột, dồn khí uất lên miệng chàng đắng ngắt. Hai người dắt nhau ra sân
chùa thủ thỉ tâm sự đến sáng...
Duy Từ bước vào trai phòng không thấy sư phụ bèn ra gốc cây
tùng, thấy Ngài đang ngồi thiền sớm hơn mọi ngày. Chàng không dám kinh động, chắp
tay trước ngực, đứng đợi sau lưng sư phụ. Đại sư Duy Giác nhận ra không gian
quanh mình có luồng khí lạ xâm nhập phía sau. Ngài vận công lực đón bắt những
suy nghĩ phát ra trong đầu đứa học trò yêu quí. Trường khí công của Ngài thâm
nhập trở lại vào não bộ của Duy Từ, đánh thức những vùng nhậy cảm, khiến chàng
lâng lâng sảng khoái, minh mẫn khác thường. Đại sư Duy Giác muốn dùng công lực
thiền khí của mình mở toang luân xa số sáu ở vùng thiên nhãn, khai thông tuệ
giác cho Duy Từ trước lúc trò truyện. Ngài biết đã đến ngày cho đệ tử xuống
núi, cần kiểm tra lại lần cuối về học vấn và thăm dò chí hướng của Duy Từ. Có
nhiều điều đại sư Duy Giác dự đoán sẽ xảy ra, nhưng huyền cơ không thể tiết lộ
mà Ngài chỉ có thể gợi xa cho đệ tử tự mình suy diễn và dấn thân thể nghiệm nó.
Đợi cho Duy Từ đứng khoảng một canh giờ, đại sư Duy Giác mới
thu pháp thuật, xả thiền và khoan thai đứng dậy. Ngài đưa mắt ra hiệu cho đệ tử
theo vào trai phòng. Tuệ Năng đã pha sẵn ấm trà hoa ngâu, trịnh trọng rót ra
hai chén sành rồi chắp tay xin phép sư phụ ra ngoài.
- Con tìm gặp ta sớm có tâm sự gì chăng? - Đại sư ôn tồn hỏi.
- Bạch sư phụ, con muốn về quê.
- Đường về Hoa Trai đã yên chưa?
- Bạch sư phụ, bữa trước sư huynh Tuệ Năng dò hỏi tin tức dưới
núi về cho con biết, từ đây vào Hoa Trai không có gì nguy hiểm, trắc trở nữa.
- Về quê rồi, con sẽ đi đâu, làm gì?
- Có lẽ con sẽ ra Bắc Hà chu du một chuyến để kết giao, học hỏi
thêm các bậc thức giả ở Đông Đô.
- Rồi sau đó thì sao?
- Bạch sư phụ, con còn chưa rõ, nhưng chắc rằng ở chốn ấy sẽ
không có cơ hội cho con lập thân.
- Kinh đô là nơi hội tụ các anh tài kiệt xuất của cả nước.
Con ra đó tầm mắt sẽ mở rộng, sáng tỏ nhiều điều, ích lợi cho con sau này nhiều
lắm. Vì sao con không có ý định lập thân ở Đông Đô? Kìa, ngồi xuống đi con, sao
còn đứng chắp tay giữ lễ. Ta cho phép con ngồi ngang hàng đàm đạo, bởi con đáng
được như vậy.
Duy Từ khép nép ngồi xuống, hồi hộp nhìn đại sư Duy Giác. Hồi
lâu chàng ngập ngừng nói:
- Đệ tử ngồi trước núi Thái sơn, chỉ khao khát nghe lời chỉ
giáo của sư phụ, đâu dám thưa thốt, nói gì đến luận đàm vì đã luận đàm là có
tranh biện.
- Nói đi. Ta bảo con nói đi, nói hết những điều sở nguyện và
kiến giải của con về thế cuộc, bắt đầu từ việc con không có chủ ý lập thân ở
Đông Đô.
- Bạch sư phụ, con không hề mảy may tự ti về thân phận hèn mọn
con nhà phường hát. Phụ thân con kiêu hãnh chết trong tiếng đàn. Mẫu thân con
đêm qua về báo mộng, bà đã chết vì hai chữ tiết hạnh. Những kẻ tầm thường sao
có thể so bì với song thân của con. Sở dĩ con không có chủ định lập thân ở Đông
Đô là vì một nhẽ khác. Mùa hè năm nay Trịnh Tùng kéo quân ra Bắc chiếm được
Đông Đô, chiến tranh Lê - Mạc tạm thời chấm dứt. Nếu tính từ năm Đinh Hợi
(1527) bắt đầu cuộc nội chiến, đến nay là năm Quí Tỵ (1593) thì Đại Việt ta đã
chìm đắm liên miên suốt 66 năm loạn lạc. Cuộc chiến này đã khiến nước nhà kiệt
quệ về nhân tài vật lực, phong hoá suy đồi. Nhưng mầm loạn lạc hiện nay vẫn còn
chưa dứt, đang nhen nhóm tại ba trung tâm quyền lực. Ở Đông Đô, Trịnh Tùng
chuyên chế, chèn ép vua Lê, ắt rồi sẽ xảy ra không ít cuộc nội loạn. Trên miền
biên ải Cao Bằng, vua Mạc Kính Cung thua chạy về đó vẫn còn binh nhiều, tướng
giỏi, chưa chịu cam tâm nằm yên cai quản các tộc người Mèo, Mán, Tày, Nùng...
Phía đàng trong, Nguyễn Hoàng đang gây dựng nghiệp bá ở hai xứ Thuận- Quảng,
tuy bề ngoài tạm chịu khuất phục họ Lê, họ Trịnh, nhưng sẽ có lúc mạnh lên,
chưa biết đâu mà lường hết được. Trong cái thế thiên hạ chia ba như vậy, kẻ thức
giả cần có thời gian dò xét, suy đoán mệnh trời mới có thể nhập cuộc, lập thân
độ dân cứu khổ và nên tìm ai làm minh chủ để phò tá.
- Nói như vậy là đôi chân con sẽ không dừng ở Đông Đô mà sẽ
đi khắp cả nước?
- Bạch sư phụ, đó chính là hoài bão của con.
- Trong ba thế lực hiện thời, chí con nghiêng về đâu?
- Triều đình Lê -Trịnh là thứ quái thai của lịch sử. Người
quân tử ở Đông Đô lúc này đang bế tắc giữa ngã ba đường. Trung với vua Lê là
ngu trung với một lý tưởng đã lỗi thời, thối rữa. Ngả theo họ Trịnh là ngấm ngầm
nuôi dưỡng, ủng hộ một thứ siêu quyền lực ở đàng sau ngai vàng mà lại quyết định
hết thảy.
- Thế còn nhà Mạc?
- Khí số nhà Mạc đã sắp hết. Con thật lòng tiếc cho những cải
cách thời Mạc Phúc Hải đã không có cơ hội phát triển. Nay Mạc Mậu Hợp chết, Mạc
Toàn càng ngu hèn, sa đoạ nên các tướng Mạc Kính Điển rồi đến Mạc Đôn Nhượng vốn
là tướng tài vẫn thất bại trước Trịnh Tùng. Họ Mạc ở Cao Bằng mới ba năm đã qua
ba đời vua, giỏi lắm chỉ có thể kéo dài sự khốn cùng thêm vài chục năm nữa mà
thôi. Họ Nguyễn ở Thuận - Quảng, theo con, đang là một nhân tố mới của lịch sử
nước Đại Việt. Nguyễn Hoàng chưa thể tranh giành với họ Trịnh đàng ngoài, tất
phải nghĩ cách mở cõi vào Nam. Nếu họ Nguyễn mở cõi thành công, rất có thể
nước Đại Việt ta sau này sẽ thống nhất thành một quốc gia rộng lớn gấp bội so với
hiện nay. Dù lúc đó vương quyền về tay dòng họ nào thì giang sơn ấy vẫn là
giang sơn Đại Việt.
- Ta nghe nói Nguyễn Hoàng hiện đang có mặt ở ngoài Bắc, giúp
Trịnh Tùng đánh giặc tàn quân của tướng Mạc Đôn Nhượng được vua Lê Thế Tông
phong tước Đoan quận công.
- Đó là kế nép mình, nhẫn nại chờ thời giống như Câu Tiễn
xưng thần với Phù Sai hay Lưu Bị có lúc tạm về dưới trướng Tào Tháo, vờ rơi đũa
trong bữa tiệc luận anh hùng ở vườn mơ. Con rất muốn gặp Đoan quận công xem có
thực ngài mang phong độ đế vương như lời đồn đại.
- Khi nào ra đến Đông Đô, con thử ghé thăm chùa Tiêu Sơn cách
kinh thành chừng hai chục dặm, thuộc phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc. Chùa này nằm
trên ngọn núi nhỏ đơn độc giữa bốn bề là ruộng lúa bao la nên cảnh trí rất đẹp
và thơ mộng. Nguyễn Hoàng là người yêu thiên nhiên và sùng đạo Phật. Vừa vào trấn
nhậm Thuận Hoá được mấy năm, ông ấy đã cho xây nhiều chùa chiền, có ý muốn đem
những giáo lý của Phật tổ thay đổi phong hóa cho các tộc người ở phương Nam.
Người như vậy chắc không chịu bỏ lỡ dịp vãn cảnh chùa Tiêu Sơn. May ra con có
nhân duyên hạnh ngộ với Nguyễn Hoàng ở đó.
- Bạch sư phụ, con xuống núi lần này chưa biết còn có dịp nào
được thấy lại tôn nhan. Vậy mong sư phụ ban cho đôi lời dạy bảo thêm, khai mở nốt
những góc tối trong tâm linh, chỉ lối cho con qua dòng mê về bến ngộ. Kể từ lúc
này con xin khoanh tay ngồi nghe, ghi tạc từng lời của sư phụ.
- Những điều kiến giải của con vừa rồi rất hợp với ta. Chỉ tiếc
con sinh ra giữa thời buổi quá nhiễu nhương, hỗn loạn và trời phật cũng quá khắt
khe, thử thách con nhiều năm nữa. Chữ nhẫn ta dậy con buổi đầu nhập môn rồi đây
có thể đeo bám con vài chục năm. Rất may là con đã có sẵn ý nguyện đi khắp
thiên hạ. Đi để quan sát thế cuộc, hiểu rõ dân tình, am tường địa lý, âu cũng
là cơ hội giúp con đúc rèn ý chí, chiêm nghiệm lại mọi điều con đã học. Nay đã
đến lúc con xuống núi thay ta nhập thế giúp đời, hãy nhớ kỹ ba điều ta dặn:
Thứ nhất, việc chính sự xưa nay có hai thuật vương đạo
và bá đạo. Người theo thuật bá đạo thì lừa dân, ép dân và thí dân. Nhưng người
ta có thể lừa dân dăm năm, thậm chí dăm chục năm chứ không lừa được dân mãi
mãi; có thể ép dân làm theo mệnh lệnh chứ dân không phục và không biết xấu hổ;
có thể thí mạng dân để được quyền lực, sau rồi mới vỡ lẽ mất dân rồi thì quyền
lực với ai. Ngược lại người theo thuật vương đạo thì chăn dân, giáo dân và thân
dân. Nếu ta hết lòng chăn dân thì dân giàu nước mạnh; hết lòng giáo dân thì dân
tự giác nghe lệnh, phục tùng và biết xấu hổ; hết lòng thân dân thì dân yêu lại,
quyền lực nhờ đó mà lâu bền.
Thứ hai, việc quân sự cốt ở tinh nhuệ và mưu lược. Binh
pháp của ta truyền dạy con đều nhằm vào hai điểm ấy nên mới chia ra ba phần: Tập
Nhân, Tập Thiên và Tập Địa. Tập Nhân bàn về đạo làm tướng có những tiêu chuẩn bất
biến từ Tôn Tử, Ngô Khởi đến Hưng Đạo Vương đều tâm đắc, đòi hỏi con phải tự
rèn luyện mới theo được. Tập Thiên bàn về cách đánh trận trên bộ, dưới nước,
vây thành, giữ thành... và cách chế ra những loại vũ khí, đắp luỹ, dựng trại.
Những điều nói trong Tập Thiên luôn biến đổi, đòi hỏi con phải không ngừng học
hỏi, bổ sung và sáng tạo. Tập Địa bàn sâu về cách dùng binh theo từng loại thế
đất sao cho có lợi với ta thì dùng, bất lợi cho kẻ địch thì dụ nó đến. Ta mong
binh pháp sẽ được con dày công nghiên cứu thêm, đúc kết lại và viết thành sách
để lưu truyền hậu thế.
Thứ ba, việc mở cõi vào Nam phải theo mệnh trời
và sao cho các tộc người hoà hợp chung sống với nhau theo đạo hạnh của Phật tổ,
Bồ tát. Nếu ta tàn sát các tộc người Nam quá nhiều sẽ tổn hao âm đức, di lụy đến
đời sau hàng trăm năm vẫn không hết cảnh nồi da xáo thịt cho dân nước Đại Việt
đâu, con nên ghi nhớ...
Đào Duy Từ bồi hồi xúc động. Chàng quỳ lạy đại sư Duy Giác rồi
vội thu xếp hành trang. Tám năm học tập ở chùa Đàn Xuyên để lại trong chàng biết
bao ân tình và kỷ niệm. Chàng nhớ những ngày cùng Tuệ Năng gánh nước, bổ củi,
trồng rau, tỉa bắp... Chàng nhớ những đêm miệt mài đọc sách dưới mái hiên chùa
hay nghe sư phụ giảng bài trong trai phòng của Ngài. Chàng quên sao được những
bữa cơm chay, những bài tập võ, những dịp theo sư phụ vào rừng luyện binh
pháp... Tìm khắp nơi không thấy Tuệ Năng, đoán bạn chờ mình dưới
chân núi, chàng đành bịn rịn chia tay với các huynh đệ, xuống núi.
Con đường mòn càng đi càng thấy lòng bịn rịn, khiến Duy Từ mấy
lần ngoái nhìn chùa Đàn Xuyên, rưng rưng ứa lệ. Chàng đi gần xuống núi, gặp một
dòng suối cạn, hai bên bờ lau sậy mọc um tùm. Bỗng từ trong bãi lau xuất hiện
năm tên cướp vận toàn đồ đen, khăn trùm kín đầu và mặt, chỉ hở ra đôi mắt.
Chúng dàn hàng ngang chặn dường nhưng Duy Từ không hề nao núng. Chàng lùi lại
dăm bước, đảo mắt quan sát rồi khoanh tay im lặng. Tên cướp cầm đầu có dáng
hình vạm vỡ, hùng hổ bước lên quát to:
- Thằng kia! Muốn sống mau đặt hành lý xuống đất nộp tiền mãi
lộ.
- Nếu không nộp thì sao? - Duy Từ thủng thẳng đáp.
- Hỗn xược! Thằng tiểu tử này định vuốt râu cọp. Ta sẽ cho mi
tàn đời.
Lúc này bốn tên cướp còn lại nhao nhao nói:
- Đại ca không cần phải ra tay, để nó cho chúng tiểu đệ dạy
luật giang hồ.
- Sức nó lẻo khẻo thế kia, chịu được mấy chưởng?
- Đại ca thích chúng tiểu đệ bẻ giò hay móc mắt nó?
- Tiểu tử ơi, mi hết muốn sống rồi con ạ!
Gã cướp cầm đầu thích chí cười vang. Hắn đá hòn sỏi văng về
phía Duy Từ và đứng sang một bên mép đường bảo đồng bọn:
- Các tiểu đệ xuống đòn đi, ta sẽ đứng canh chừng.
Những tên cướp kia chỉ đợi có thế, liền xông lên theo hình
cánh cung bao bọc lấy Duy Từ. Chúng chưa ra đòn mà dậm chân, múa quyền thị uy
khiến bụi cát bay mù, tiếng bàn tay chém gió nghe rợn người. Duy Từ đã có chủ định,
chàng tảng lờ trước sự đe doạ, nhưng rất nhanh nhận ra đường quyền vụng về của
một tên cướp bên trái. Chàng từ từ bước chéo kheo, đi bài hầu quyền, xỉa hai
tay vào mặt tên cướp bên phải và bất ngờ tung chân đá mạnh vào sườn tên cướp đứng
bên trái. Hắn loạng choạng, chưa kịp kêu đã lập tức bị Duy Từ chộp lấy bờ vai
điểm huyệt làm cho hắn đau nhói gập cong người, nửa thân tê dại, ngã chúi dụi
vào bờ lau. Thừa lúc ba tên kia đường quyền đang rối loạn, chàng chuyển sang thế
tiến công vũ bão bằng bài phi thiên cước. Đôi chân chàng quay đảo đá dọc, đá
xiên tạo nên một trận cuồng phong làm đối phương chóng mặt, ù tai, dính đòn
liên tiếp, ngã như cây chuối đổ. Gã tướng cướp cầm đầu thấy vậy liền gầm lên nhẩy
vào trợ chiến. Hai bên quần thảo với nhau hơn mười hiệp vẫn cân sức, cân tài, bất
phân thắng bại. Duy Từ càng đánh càng giật mình cảm thấy ngờ ngợ về hành tung
tên cướp. Hình như hắn không có ý đánh ngã kẻ địch mà chỉ chờn vờn thử tài, đọ
sức. Chàng xuất chiêu thức nào, hắn cũng xuất chiêu ấy, đôi bên như thuộc bài của
nhau, đánh mà như diễn tập. Đến chiêu cuối cùng trong bài lưỡng xà quyển địa,
tên cướp chợt nhảy ra xa, cười khanh khách và giật chiếc khăn che mặt. Duy Từ sững
người một lát, chợt reo lên:
- Trời... Sư huynh Tuệ Năng!
- Duy Từ khá lắm. Đệ không hổ danh là người của môn phái Đàn
Xuyên.
- Thế còn mấy người kia? - Duy Từ hỏi
Bốn người cùng bỏ khăn che mặt để chàng nhận rõ từng gương mặt
thân quen trong số các sư đệ của Tuệ Năng, mới được thu nhận vào chùa Đàn
Xuyên. Duy Từ chắp tay mô phật, tạ lỗi với họ. Tuệ Năng ôm Duy Từ xúc động nói:
- Khi đệ vào bái biệt sư phụ, ta chợt thấy bứt rứt trong
lòng. Ta lo cho đệ dọc đường thân đơn, thế cô nếu không may gặp cướp hay bị người
dữ, kẻ xấu gây chuyện sẽ không có ai trợ giúp. Bầy ra chuyện thử sức với đệ thế
này là ta đã đắc tội với sư phụ. Dẫu sao, biết đệ học vấn đã hơn người, lại
tinh thông võ thuật, ta rất yên lòng.
- Đệ dù đi đâu, làm gì vẫn sẽ không quên sư huynh. Từ giờ đệ
sẽ đổi tên là Trần Năng.
- Ta chúc đệ thượng lộ bình an, sau này làm nên sự nghiệp,
mang vinh hạnh cho chùa Đàn Xuyên và sư phụ.
- Các huynh đệ ở lại thay Từ chăm sóc sư phụ. Từ đi kẻo muộn.
Hẹn với các huynh đệ có ngày tái ngộ.
Chia tay Tuệ Năng, Đào Duy Từ tiếp tục lên đường. Suốt năm
ngày đêm chàng không hề chợp mắt, chỉ mong nhanh chóng về được Hoa Trai, biết
tin tức mẫu thân, ông Danh và tất cả mọi người mà chàng gắn bó từ tấm bé. Sang
ngày thứ sáu, chàng đến một thị trấn nhỏ ở nơi ngã ba đường cái quan, một rẽ đi
phủ An Trường, một rẽ về Hoa Trai. Duy Từ nấn ná hồi lâu, hỏi thăm đường vào
chùa Thiên Phúc. Chàng muốn đến tạ ơn sư bà Diệu Minh. Bụng đói, chàng tìm một
quán nhỏ ven đường định vừa ăn vừa hỏi dò. Mấy ngày qua, mỗi lần vào quán ăn, sờ
đến nắm bạc lẻ, chàng lại thầm biết ơn và cảm phục sự chu đáo của Thục Nga. Năm
ấy, trước khi rời chùa Đàn Xuyên, ông Danh đã khẩn khoản xin đại sư Duy Giác nhận
mấy nén bạc mà ông dành dụm để sung công đức cho nhà chùa. Sau đó, ông còn đưa
cho Duy Từ một chiếc túi vải đựng ít bạc lẻ và nói: "Đây là tiền của Thục
Nga nhờ ta giao cho con cất đi đợi khi trên đường về thăm quê có tiền mà chi
dùng, độ nhật. Con phải giữ gìn cẩn thận kẻo phụ tấm lòng của Thục Nga". Số
tiền ấy chàng tiêu đã gần một nửa với những bữa cơm rau hay củ khoai, bát cháo.
Duy Từ bước vào quán gọi một bát canh rau muống, mấy quả cà pháo và một niêu
cơm nhỏ. Chàng nhẩn nha uống nước ngồi đợi. Chủ quán là một bà lão phúc hậu,
đon đả chào mời, tiếp chuyện với khách. Bà kể gần đây có một toán cướp hung dữ,
giết người cướp của giữa ban ngày ban mặt trên các đoạn đường vắng. Quan binh
trên phủ An Trường đã mấy lần về đánh dẹp vẫn không được. Hôm qua, có một tráng
sĩ mặt đẹp như ngọc, vóc người thon thả như con gái, không rõ từ đâu tới. Tráng
sĩ ấy một mình một ngựa, múa tít thanh kiếm, đánh cho lũ cướp một trận tơi bời.
Bà lão còn đang say sưa kể chuyện, chợt thấy chàng tráng sĩ nai nịt gọn gàng, dắt
ngựa đến trước quán. Chàng buộc ngựa vào gốc cây xoan đào, khoan thai bước vào,
chào bà chủ quán. Giữa trưa nắng gắt, má chàng đỏ hồng, trán đẫm mồ hôi, càng
ngời lên ánh mắt long lanh, đen láy như mắt người thiếu nữ. Tráng sĩ mua một
trái dừa, ngửa cổ uống cạn liền một hơi rồi hỏi đường ra mạn Bắc, tìm chùa Đàn
Xuyên trên núi Quế Trường.
Duy Từ nghe giọng nói, ngắm kỹ gương mặt của tráng sĩ nọ, cảm
thấy bồn chồn, xao xuyến. Chàng cứ phân vân chắc đã gặp và thân thiết với tráng
sĩ từ lâu. Linh cảm mách bảo chàng như vậy, nhưng lý trí vội phản bác lại vì từ
khi lên núi Quế Trường, chàng chưa hề quen biết ai ngoài Tuệ Năng và các sư,
các tiểu trong chùa Đàn Xuyên. Đến khi nghe tráng sĩ hỏi thăm bà chủ quán, có ý
muốn đi tìm chùa Đàn Xuyên, Duy Từ càng thêm thắc mắc. Chàng lại gần thi lễ :
- Chào tráng sĩ! Tại hạ vừa được nghe chuyện tráng sĩ một
mình vung ba tấc kiếm đánh tan giặc cướp, lòng rất ngưỡng mộ.
- Huynh khen quá lời. Chuyện có gì đáng kể đâu. Tại hạ còn
chưa rõ quí danh, quí tính của huynh?
- Tại hạ họ Trần tên Năng, còn tráng sĩ?
- Tại hạ họ Đào tên Tá.
- Vừa rồi Đào tráng sĩ hỏi thăm đường đến chùa Đàn Xuyên. Tại
hạ đã từng theo học đại sư Duy Giác ở đó. Vậy xin tha lỗi cho sự tò mò, tráng
sĩ muốn đến chùa vãn cảnh hay vì lẽ khác?
- Tại hạ tìm một người họ Đào.
- Ai vậy?
- Đào Duy Từ. Huynh đã theo học đại sư Duy Giác chắc biết người
này.
Duy Từ nghe nói lặng đi, bàng hoàng xúc động. Chàng ngầm quả
quyết tráng sĩ Đào Tá chỉ là tên giả, giống như chàng mạo nhận họ của sư phụ và
tên của Tuệ Năng. Ở Hoa Trai, bạn cùng trang lứa, thân thiết với chàng tới mức
dùng họ Đào của chàng và tên là chữ đệm của phụ thân chàng ắt chỉ có hai người
là Hữu Dư và Thục Nga. Hữu Dư cao to, lực lưỡng, miệng rộng, mắt sâu, lông mày
lưỡi mác, không có nét gì tương đồng với dung mạo tráng sĩ Đào Tá. Chẳng lẽ đây
lại là Thục Nga đóng giả trai? Gái đóng giả trai thường thay tên đổi họ. Hơn nữa,
ngắm kỹ gương mặt Đào Tá, chàng nhận ra nét thân quen của người bạn gái thủa ấu
thơ. Việc Thục Nga giỏi võ nghệ có thể do nhờ ông Danh và Hữu Dư dạy cho. Ôi! Nếu
vậy thì...
Tráng sĩ lúc này cũng tỏ ra lúng túng, hồi hộp nhìn kỹ con
người bí ẩn có tên Trần Năng. Người này có gì lạ đâu mà sao vừa nhác trông thấy,
tráng sĩ đã nôn nao trong dạ với bao kỷ niệm tuổi thơ. Tại sao khi nghe nhắc
tên Đào Duy Từ, người ấy mặt biến sắc?... Hai người nhìn nhau chằm chằm, đầu óc
ngổn ngang những điều thắc mắc và suy đoán. Đào Duy Từ liên tưởng đến giấc mơ
vào đêm trước ngày xuống núi, chợt nhận ra có nhiều uẩn khúc. Ruột gan chàng
nóng như lửa đốt. Chàng đánh bạo ghé tai vị tráng sĩ thì thầm :
- Ta chính là Đào Duy Từ. Nếu tráng sĩ là Thục Nga cải dạng
nam nhi xin cho biết.
- Muội đây... Thục Nga đây... Chuyện dài lắm... Huynh hãy
theo muội ra chỗ vắng hàn huyên, ở đây nói không tiện.
Thục Nga dắt ngựa, cùng Duy Từ ra khỏi quán, đi về phía bãi
dâu ven sông. Đến một gốc cây gạo vắng vẻ, nàng ôm chầm lấy Duy Từ nức nở khóc
ròng. Duy Từ vỗ về Thục Nga như dỗ dành người em gái, nước mắt trào
ra.
- Nín đi, Thục Nga. Muội đi đâu, lên chùa tìm huynh có việc
gì, sao lại phải cải dạng, đổi tên, phiêu bạt giữa chốn giang hồ?
- Huynh xa nhà biền biệt ngần ấy năm trời, có biết đâu ở Hoa
Trai xảy ra bao chuyện đau buồn.
- Nào, muội hãy kể cho huynh nghe rõ mọi chuyện. Đừng khóc nữa...
Muội đừng khóc cho huynh thêm sốt ruột.
- Hữu Dư vừa mắc tội giết chết xã trưởng Đặng Phấn, hiện
đang bị giam trong đại lao ở phủ An Trường, chờ ngày đem ra hành quyết.
- Vì sao có chuyện tày đình ấy?
- Oán thù giữa Hữu Dư với xã trưởng có từ lâu, rất sâu nặng.
Tướng quân Hữu Danh sau ngày đưa huynh lên chùa Đàn Xuyên trở về bị xã trưởng với
Bá Sinh tri phủ An Trường hãm hại. Chúng vu cho tướng quân đi liên lạc với Mạc
Đôn Nhượng ngoài Trường Yên để về Hoa Trai chiêu mộ dân chúng khởi loạn, chống
vua Lê và tể tướng Trịnh Tùng. May vì không có chứng cớ để khép tội, tướng quân
Hữu Danh lại là cựu thần có công theo Nguyễn Kim đưa vua Lê Trang Tông từ Ai
Lao về nước, được quan trạng nguyên Phùng Khắc Khoan hết sức bênh vực nên triều
đình nương nhẹ, chỉ tịch thu gia sản, quản thúc tại quê nhà. Hàng tháng tướng
quân phải ra đình làng trình diện xã trưởng, bị hắn hạch sách nên buồn rầu,
sinh bệnh trầm uất, rồi qua đời đã được bốn năm, vừa cải cát vào tháng mười năm
ngoái. Tướng quân Hữu Danh mất đi, phụ thân của muội mất đi một người bạn tâm
giao, cảm thấy cô độc và chán nản trước thời thế loạn lạc, nhiễu nhương. Nhiều
đêm người mất ngủ ngồi uống rượu, làm thơ, chợt cười chợt khóc, thân thể hao gầy,
tinh thần sút kém. Người nho nhã, nghiêm trang như phụ thân của muội bỗng chốc
hoá thành ông lão ngây ngô, tính khí thất thường, hình dung tiều tuỵ và lôi
thôi quên cả búi tóc. Học trò trong trường nhìn thấy sợ hãi, lớp học thưa dần,
khiến phụ thân muội càng buồn rầu, đau xót. Người mất trong một đêm giông gió
chỉ sau tướng quân Hữu Danh không đầy một năm. Duy Từ ơi! Huynh có thấu chăng cảnh
tình côi cút, bơ vơ của muội và Hữu Dư. Mấy năm qua Hữu Dư làm lụng vất vả để
nuôi cả muội và đỡ đần bá mẫu bên nhà, sao huynh cứ biền biệt, mịt mờ bóng chim
tăm cá... Dân làng Hoa Trai kể từ ngày tướng quân Hữu Danh quy tiên đã không
còn ai che chở. Xã trưởng Đặng Phấn ỷ thế Bá Sinh trên phủ An Trường nên thả sức
vơ vét tiền sưu thuế, địa tô công điền và đè nén dân đinh, cưỡng hiếp con gái
nhà lành. Nhưng hắn chưa thoả lòng ham muốn, vẫn đeo đuổi bá mẫu, ép bà về làm
tỳ thiếp trong nhà. Hữu Dư đã nhiều lần toan cầm dao xông ra định giết hắn, trừ
hoạ cho mọi người, nhưng bá mẫu và muội hết sức can ngăn. Thế rồi tai hoạ ập đến
bất ngờ, vô cùng bi thảm. Hôm đó muội ra đồng làm cỏ chăm sóc lúa chiêm, còn Hữu
Dư lên núi Ngọc săn thú, kiếm củi. Đặng Phấn thừa cơ trong nhà vắng vẻ, xóm giềng
bận bịu việc nông tang đã lẻn đến nhà ép bá mẫu đánh đàn, hát ca trù. Hắn vừa
nghe vừa uống rượu, cử chỉ rất suồng sã. Bá mẫu đã phải nén giận đàn hát, ngầm
có ý chờ Hữu Dư hay muội về giải cứu, không ngờ Đặng Phấn uống rượu vào nổi cơn
thú vật... Khi muội nghe tin, chạy từ ngoài đồng về, chỉ thấy bá mẫu đập đầu xuống
đất, khóc than vật vã. Đêm xuống, chờ muội ngủ say, bá mẫu ra ngòi La trẫm mình
tự vẫn. Hữu Dư chôn cất bá mẫu xong, gầm lên phẫn uất, vác thanh đại đao gia bảo
của tướng quân Hữu Danh đi khắp làng tìm giết xã trưởng Đặng Phấn. Xác hắn bị Hữu
Dư băm nát trong cơn cuồng nộ...
Thục Nga vừa kể vừa khóc. Đào Duy Từ cắn răng ngồi nghe, nước
mắt giàn dụa, môi chàng tứa máu và trong đầu như có lớp bùn nhão sủi bọt òng ọc.
Hai người ôm nhau nhìn ra dòng sông. Đất trời quay cuồng như muốn đổ sập. Một
con quạ đen bay đến, đậu trên cây gạo, tiếng kêu đầy tang tóc. Bãi dâu cuộn lên
trong gió như muôn lớp sóng ào ạt xô đến, muốn nhấn chìm đôi bạn trẻ mồ côi.
Mấy ngày sau, dân chúng khắp phủ An Trường đồn đại về hai người
trẻ tuổi một trai, một gái đã ngang nhiên vào tận dinh quan phủ để giải thoát
cho tử tù Nguyễn Hữu Dư. Cô gái đẹp như đoá quỳnh, có giọng hát ca trù mê ly
không thua gì bà Nguyễn Thị Mạch ở đất làng Se. Chàng trai có phong độ cao nhã
như văn nhân, thi sĩ, tay cầm dùi trống giữ nhịp sênh phách cho cô gái hát làm
người nghe tưởng nhớ đến nghệ sĩ tài hoa Đào Tá Hán năm xưa, trong ban nhạc
cung đình. Hai người không rõ từ đâu xuất hiện và đàn hát mua vui ở tửu điếm Bạch
Ngọc, gần dinh quan phủ, được các tiểu lại và thương nhân tán thưởng, đua nhau
mời mọc và cho tiền rất hậu. Quan phủ Bá Sinh sai người gọi vào, lại cắt cử
thêm mấy nhạc công đến phụ giúp cho họ trong đêm diễn ca trù ngay tại hoa viên
của ngài. Khách khứa được mời đến toàn hạng có máu mặt trong vùng đông tới trăm
người. Họ đến thưởng thức tài nghệ và nhìn ngắm mỹ nhân, cũng là dịp để quà
cáp, nịnh bợ quan phủ. Đêm diễn đương lúc náo nhiệt, chợt cô gái bật dậy, rút
thanh đoản kiếm giấu trong người, xông đến khống chế Bá Sinh và quát mọi người
dạt hết sang hai bên. Chàng trai cũng lăm lăm tay kiếm nói lớn:
- Mọi người im lặng, ai ngồi đâu hãy nguyên như cũ, nếu có
hành động gì quan phủ sẽ chết trước tiên - Chàng quay sang Bá Sinh quát - Ngài
là quan phụ mẫu mà không biết lo việc nước, chỉ hà hiếp dân, ăn chơi xa xỉ, nay
muốn toàn mạng sống hãy gọi cai ngục đến đưa ta xuống nhà lao cứu người vô tội.
- Xin tráng sĩ bảo cô nương nhẹ tay - Bá Sinh lắp bắp.
- Đừng có nằm mơ! Nếu mi giở trò thì mũi kiếm này sẽ chọc thủng
yết hầu ngay lập tức - Cô gái nói gằn từng tiếng.
- Vâng... vâng, ta sẽ làm theo ý hai người.
- Hãy ra lệnh cho tất cả lính trong phủ hạ khí giới, đứng
nghiêm và đưa hai tay ra sau gáy - Chàng trai nói.
Bá Sinh run rẩy gật đầu, mặt xám ngắt. Hắn hốt hoảng giục người
nhà gọi cai ngục cùng chàng trai trẻ đi mở khoá nhà lao thả Nguyễn Hữu Dư. Ba
người áp giải Bá Sinh ra cổng phủ, hạ lệnh tắt hết đèn rồi biến vào bóng đêm. Họ
đi xa rồi, Bá Sinh mới kịp hoàn hồn. Người con gái, lúc mới gặp hắn đã ngờ ngợ
là Thục Nga, con của thầy đồ Mậu ở Hoa Trai mà xã trưởng Đặng Phấn đã nhiều lần
nhắc tới. Vậy thì chàng trai kia hẳn không ai khác ngoài Đào Duy Từ, con của
Đào Tá Hán. Hèn gì nhịp trống và điệu hát ấy cứ gợi cho Bá Sinh nhớ lại ban nhạc
cung đình thời vua Anh Tông. Lập tức lệnh truy nã ba người được truyền đi và
hình ảnh họ được vẽ lại, dán đầy các ngả đường, chợ quê trong vùng.
Duy Từ và Thục Nga đưa Hữu Dư chạy một mạch trong đêm về hướng
sao Bắc Đẩu. Gần sáng họ đến chân dãy núi đá vôi, trên đó có một hang sâu mà
Duy Từ đã thám thính từ trước khi vạch phương án cướp tù, cứu Hữu Dư. Ba người
leo dốc vào hang, đốt lửa nghỉ ngơi. Trong hang đã trữ sẵn một ít thức ăn và đồ
dùng tạm đủ cho ba người ẩn nấp dăm ngày để nghe ngóng tình hình. Thục Nga lẳng
lặng đi nấu cơm để Duy Từ và Hữu Dư hàn huyên sau bao ngày xa cách. Đôi bạn ôm
nhau nghẹn ngào tâm sự. Tám năm nhớ nhung, chiến tranh chia cách, họ đâu ngờ
lúc gặp lại thì gia đình tan nát, bản thân bị truy đuổi chưa biết đi về đâu.
Duy Từ càng xót xa, đau đớn vì không thể về quê thăm mộ mẫu thân, ông Danh và
thầy đồ Mậu. Chàng hiểu hoàn cảnh éo le, số phận nghiệt ngã buộc chàng phải thế.
Nhưng tận trong sâu thẳm đáy lòng, chàng vẫn ân hận mình mang tội bất hiếu với
song thân, vô ơn với thầy cũ và nghĩa phụ. Ngay từ lúc gặp Thục Nga, chàng đã
nhất quyết đòi về Hoa Trai thắp mấy nén nhang lên từng ngôi mộ. Những lời
khuyên giải, động viên của Thục Nga và sự an nguy đến tính mạng của Hữu Dư đã
giúp chàng tỉnh táo bầy mưu tính kế đột nhập tư dinh quan phủ Bá Sinh. Nay việc
xong rồi, chàng cảm thấy hụt hẫng, chơi vơi trong nỗi đau và niềm tủi hận. Thân
phận chàng từ thủa lọt lòng đã quen với bao nỗi đoạ đầy, uất hận, tử sinh.
Chàng chỉ thương Hữu Dư và Thục Nga sớm vì chàng mà khổ lây, chuốc vạ. Mấy ngày
chuẩn bị kế hoạch giải thoát Hữu Dư, trong lòng chàng đã nhen lên một tình cảm
mới lạ với Thục Nga. Nghe nàng tâm sự, nhìn ánh mắt và cử chỉ âu yếm của nàng,
Duy Từ cũng đoán được tình cảm sâu nặng của cô bạn gái năm xưa dành cho mình. Lạ
thay, tình yêu vừa chớm hé bỗng thành nỗi lo vò xé tim chàng. Đường đời của
chàng sẽ còn lắm chông gai, chí hướng và mộng ước đang giục giã đôi chân của
chàng đi khắp thiên hạ, chưa cho phép chàng vướng bận thê nhi. Vả chăng, mấy
ngày ẩn nấp trong hang đá, Duy Từ chợt nhận ra tình cảm của Hữu Dư dành cho Thục
Nga cũng rất sâu nặng. Lúc này, xét từ nhiều phía, Thục Nga cần cho Hữu Dư hơn.
Hai người nếu được sống bên nhau sẽ có hạnh phúc. Tình yêu là sự trao gửi, hoà
đồng để mưu cầu hạnh phúc. Duy Từ hiểu rằng nếu chàng ngỏ lời với Thục Nga sẽ
là ích kỷ, làm khổ một đời người bạn gái thân thiết từ thủa ấu thơ. Duy Từ quyết
định sẽ chia tay với Thục Nga và Hữu Dư...
Lương thực trong hang đá cạn dần. Ba người bàn bạc hồi lâu để
tìm phương cách xuống núi. Hữu Dư muốn ba người cùng đến nương nhờ một người bà
con trong họ Nguyễn Hữu. Lúc sinh thời, tướng quân Nguyễn Hữu Danh kể rằng dòng
họ Nguyễn Hữu còn một chi nhánh ở làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn cũng thuộc địa
hạt phủ An Trường. Từ khi có loạn lạc, mất mùa đói kém, gia tộc Nguyễn Hữu này
di cư vào xứ đàng trong. Hiện ở đất Quảng Nam có Nguyễn Hữu Tâm làm
lang y chữa bệnh cứu người và mở thêm lò luyện võ khá nổi tiếng. Hữu Tâm có người
con trai Nguyễn Hữu Dật kém Hữu Dư dăm tuổi, đang làm chức võ quan nhỏ trong phủ
đệ của Nguyễn Phước Nguyên, con trai thứ sáu của Đoan quận công Nguyễn Hoàng.
Đào Duy Từ cho rằng trong hoàn cảnh bị truy nã, Hữu Dư và Thục Nga tìm đường vào
xứ đàng trong, gây dựng sản nghiệp ở vùng đất mới là rất hợp lý. Riêng chàng muốn
ra Đông Đô tìm bạn kết giao, học hỏi thêm rồi sau đó sẽ chu du nhiều nơi khác.
Thục Nga khăng khăng đòi đi theo Duy Từ, nhưng chàng khuyên nàng nên cùng đi với
Hữu Dư sẽ an toàn hơn. Hoàn cảnh Duy Từ phải lang thang nay đây mai đó, không hợp
với thân phận đàn bà con gái. Hơn nữa Hữu Dư vào vùng đất mới, phong thuỷ chưa
quen, tập tục còn lạ lẫm, rất cần có người ở bên động viên, chăm sóc. Hữu Dư
không đồng ý, chàng nói:
- Hiền đệ với ta bây giờ khác nào anh em một nhà, sướng khổ,
vinh nhục cùng hưởng. Đệ đi chu du khắp nơi như thế, ta với Thục Nga sao yên
tâm. Vả chăng ở đất Bắc Hà, đường công danh khoa bảng của đệ mờ mịt, ra đó phỏng
có ích gì.
- Huynh nói sai rồi. Chí hướng của đệ không phải ra Đông Đô
nuôi mộng công danh bằng khoa bảng. Nơi đó là đất đế đô, có nhiều danh nho,
danh tướng quần tụ. Đệ chỉ muốn kết giao với họ để học hỏi thêm và qua đó tìm
hiểu nhân tình thế thái hiện nay. Đệ còn muốn lên miền biên ải Cao Bằng thuyết
phục vua Mạc Kính Cung không sang cầu viện nhà Minh và vận động các bậc anh tài
đang cùng đường quẫn chí bỏ nhà Mạc vào xứ đàng trong mở mang bờ cõi. Nếu có dịp,
từ Cao Bằng, đệ sẽ vượt sông Hiến hay sông Bằng để sang đất Tàu dò xét tình
hình nhà Minh ở Long Châu. Đệ nhớ khi xưa nghĩa phụ Hữu Danh từng dạy, làm trai
thời loạn muốn giúp ích cho xã tắc phải học thêm binh pháp. Những ngày ở chùa
Đàn Xuyên, đệ đã học được nhiều điều cơ bản trong phép dùng binh qua đại sư Duy
Giác. Mỗi lần giảng bài cho đệ, sư phụ đều nhắc di nhắc lại: người làm tướng phải
trên hiểu thiên văn, dưới tường địa lý. Đệ đi chu du khắp nơi không chỉ để ngắm
cảnh mà còn muốn nắm rõ phong tục, tập quán từng vùng lãnh thổ và vẽ lại bản đồ
địa lý các nơi đã đi qua. Trước giờ đệ xuống núi, sư phụ không nói rõ hẳn,
nhưng đệ ngầm hiểu sư phụ đã dùng phép dịch biến trong sách Chu Dịch để dò đoán
mệnh trời và có ý khuyên đệ vào Nam đi mở cõi. Đệ chưa rõ sẽ lưu lại ngoài Bắc
Hà bao nhiêu năm, có thể rất lâu, nhưng chí hướng của đệ đã nhằm về
phương Nam. Đệ tin sẽ có cơ hội gặp lại huynh và Thục Nga...
- Huynh nỡ bỏ muội mà đi sao? - Thục Nga khóc.
- Phải xa đại huynh Hữu Dư và muội ta rất buồn, nhưng biết
làm sao khác được, âu đây cũng là định mệnh, muội ạ! Muội hãy vì ta hết lòng
chăm sóc đại huynh. Cầu trời cho hai người gặp nhiều may mắn, được vậy thì ta
cũng bớt đi niềm ân hận chưa đền ơn đáp nghĩa thầy đồ và nghĩa phụ.
- Duy Từ đã nói vậy, ta cũng nên chiều lòng muội ạ! - Hữu Dư
thở dài nói.
- Nhưng muội thương Duy Từ lắm - Thục Nga nấc lên.
- Thôi, muội nín đi. Đại huynh đã bằng lòng thì ta yên tâm
chia tay rồi - Duy Từ bùi ngùi an ủi Thục Nga.
- Đường từ đây về kinh đệ định thế nào? - Hữu Dư hỏi.
- Đệ sẽ đổi tên là Trần Năng để luôn tưởng nhớ họ Trần của sư
phụ và pháp hiệu của sư huynh Tuệ Năng trên chùa Đàn Xuyên. Trước khi ra Đông
Đô, đệ dự định đến chùa Thiên Phúc một chuyến để cảm tạ ơn cứu mạng của sư Diệu
Minh, còn chỉ dẫn đệ tìm đại sư Duy Giác học đạo lý, ôn văn, luyện võ và trau dồi
binh pháp. Cái ơn ấy khác nào sư bà đã tái sinh cho đệ, đưa đệ vượt qua dòng mê
về bến ngộ. Sau đó, tuỳ theo tình hình, đệ sẽ về kinh trước hay lên miền biên ải
Cao Bằng trước.
- Chùa Thiên Phúc gần phủ An Trường, đệ về đó phải hết sức cẩn
trọng.
- Thế còn đại huynh và Thục Nga?
- Duy Từ hãy cho ta lời khuyên, nên đưa Thục Nga vào xứ đàng
trong theo đường thuỷ hay đường bộ? - Hữu Dư hỏi lại.
- Đi đường bộ thôi các huynh ạ! Muội không chịu được sóng biển,
dễ say sóng lắm - Thục Nga nói chêm vào.
- Thục Nga đã nói vậy, đại huynh nên đi đường bộ. Hồi còn học
tập ở chùa Đàn Xuyên trên núi Quế Trường, mỗi khi dạy đệ bày ra các trận “Bát
môn kim toả” hay “Chu thiên hồn nguyên”, sư phụ đều trải tấm bản đồ
Đại Việt từ đất Thanh - Nghệ vào đến Thuận - Quảng, bao gồm cả nước Ai Lao và
nước Xá Lợi trên dãy Trường Sơn. Nhờ tấm bản đồ này, đệ nắm khá rõ lối vào đàng
trong có hai đường. Con đường cái quan ven biển dễ đi nhưng nguy hiểm vì hai
người đang bị truy nã. Tốt nhất là đi theo đường xuyên qua vùng rừng già phía
Tây, tuy hiểm trở nhưng an toàn. Những thương nhân đi buôn trầm hương, gỗ quí,
sừng tê giác hay các lâm sản khác vẫn đi theo con đường này. Từ đây vào thung
lũng Con Cuông đi chếch hướng Tây Nam, rồi sau đó theo hướng Đông Nam, sẽ qua một
vùng đất đai trù phú nằm kẹp giữa ngã ba sông Ngàn Sâu và Ngàn Phố. Nếu đến đấy,
vì gì do gì chưa đi tiếp được thì đại huynh và Thục Nga có thể tạm lưu lại đó
sinh sống qua ngày. Gặp thuận lợi thì từ ngã ba của hai con sông ấy, đi đường
núi theo hướng chính Nam chừng hơn trăm dặm sẽ vào địa giới nước Xá Lợi
của các tộc người thượng du rất tốt bụng, thuần phác. Từ nước Xá Lợi đi xuống
phía Đông dãy Trường Sơn vào vùng đất Thuận hay đất Quảng đều rất an toàn, thuận
lợi. Sau này, nếu thời cuộc đẩy đưa, xui khiến đệ vào đàng trong lập thân dựng
nghiệp, đệ cũng sẽ đi theo con đường này. Dọc đường may ra đệ có thể thăm dò được
tin tức hai người.
Ba người bàn bạc kỹ lưỡng suốt một ngày ròng. Đợi đêm xuống
bao phủ cảnh vật ngoài hang đá, Duy Từ nghẹn ngào chia tay Hữu Dư và Thục Nga,
mang hành lý đi trước. Hữu Dư lưu luyến cầm tay Duy Từ, cố ghìm lòng cho nước mắt
khỏi trào ra. Hai người đều hiểu lần chia tay này mang nhiều dấu hiệu của sự biệt
ly đằng đẵng, số phận long đong và tương lai mờ mịt đang chờ họ, thật là khó
đoán nổi bao lâu, trong hoàn cảnh nào sẽ được sum họp. Hoàn cảnh éo le, thân phận
nổi trôi giữa thời loạn lạc đã gắn bó họ thành huynh đệ mà sao cứ phải chia
lìa, thương đấy mà bất lực, mong nhớ đấy mà tuyệt vọng nhiều hơn hy vọng. Nga
bưng mặt khóc tức tưởi. Nàng muốn tiễn đưa Duy Từ một cung đường thật dài để bộc
bạch hết nỗi lòng nhưng không thể, bởi đây là cuộc chia ly của những kẻ bị săn
đuổi, hiểm hoạ khôn lường.
Đào Duy Từ cắn răng nuốt lệ, bước đi trong bóng đêm dầy đặc.
Trời không trăng sao. Mặt đất đẫm sương, gồ ghề và trơn nhớt. Núi rừng im ắng,
kỳ bí, chứa đầy sự hăm doạ những thân phận côi cút, bất hạnh. Chàng ra đi, mang
theo chiếc khăn đẫm lệ của Thục Nga và thanh đoản kiếm sắc lạnh của dòng họ
Nguyễn mà Hữu Dư tặng mình để hồn thiêng của tướng quân Hữu Danh luôn chở che,
hộ mệnh cho kẻ mồ côi giữa chốn giang hồ, trên đường lữ thứ. Chàng vận hết nội
công, lao mình về phía trước, băng băng phi hành suốt đêm. Rạng sáng đến chùa
Thiên Phúc, chàng mới hay sư bà Diệu Minh nằm mộng đã biết trước cuộc viếng
thăm của chú bé con người đàn bà ca kỹ khi xưa, đang ngóng đợi chàng. Gặp được
ân nhân chàng xiết bao mừng tủi. Cậu bé một tuổi năm nào nằm lọt trong chiếc
thúng ướt đầm giữa đêm mưa nay đã thành một trang tuấn kiệt khiến sư bà bồi hồi
xúc động. Bà lưu Duy Từ ở lại chùa vài ngày vì bà cảm nhận được chí hướng của
Duy Từ và muốn sắp đặt cho chàng gặp mặt Lê Thời Hiến, con trai một thí chủ có
công với nhà chùa. Từ lâu bà rất quý mến chàng Nho sinh học vấn uyên bác, nay vừa
đỗ đầu bảng thi hương ở Thanh - Nghệ, chuẩn bị lên kinh đô dự thi đình. Bà
nghĩ, tài học và danh tiếng của người này có thể cầm chắc danh vị tiến sĩ hay
thám hoa, bảng nhãn. Bà muốn Duy Từ làm thân với Lê Thời Hiến, hy vọng đây sẽ
là cầu nối để Duy Từ kết giao, học hỏi các anh tài, tuấn kiệt ở đất Đông Đô. Cuộc
hội ngộ giữa Thời Hiến và Duy Từ như có chư Phật an bài nên hai người nhanh
chóng làm thân, chuyện trò tâm đắc. Duy Từ nói rõ thân phận của mình và hoàn cảnh
bị truy đuổi nhưng Thời Hiến chẳng hề e ngại, tha thiết mời chàng về nhà cùng
nhau đọc sách, ngâm vịnh, luận bàn đạo lý và thời cuộc.
Duy Từ nể trọng tài học và khả năng thi phú của chàng nho sinh họ Lê, còn Thời Hiến hết sức khâm phục vốn kiến thức sâu rộng về nhiều mặt, đặc biệt về binh pháp của người học trò đại sư Duy Giác trên núi Quế Trường. Tiếng tăm của đại sư đã vang khắp thiên hạ, giới thức giả ai ai cũng biết, thì người học trò xuất sắc của đại sư thật đáng để Thời Hiến ngưỡng mộ. Duy Từ lưu lại tư gia của Lê Thời Hiến, được phú ông họ Lê hết lòng khoản đãi, mừng vì con trai mình đã kết giao được với bậc kỳ tài còn rất trẻ đã thông kinh vạn quyển, văn võ song toàn. Ông muốn giữ Duy Từ ở lâu, chờ ngày cùng con trai mình lên kinh đô dự cuộc thi đình, nhưng Duy Từ nóng lòng đi trước, phòng có kẻ phát giác tung tích sẽ liên lụy đến đường công danh của bạn. Hai cha con phú ông họ Lê nài nỉ không được, đành dứt lòng để chàng lên đường...
Duy Từ nể trọng tài học và khả năng thi phú của chàng nho sinh họ Lê, còn Thời Hiến hết sức khâm phục vốn kiến thức sâu rộng về nhiều mặt, đặc biệt về binh pháp của người học trò đại sư Duy Giác trên núi Quế Trường. Tiếng tăm của đại sư đã vang khắp thiên hạ, giới thức giả ai ai cũng biết, thì người học trò xuất sắc của đại sư thật đáng để Thời Hiến ngưỡng mộ. Duy Từ lưu lại tư gia của Lê Thời Hiến, được phú ông họ Lê hết lòng khoản đãi, mừng vì con trai mình đã kết giao được với bậc kỳ tài còn rất trẻ đã thông kinh vạn quyển, văn võ song toàn. Ông muốn giữ Duy Từ ở lâu, chờ ngày cùng con trai mình lên kinh đô dự cuộc thi đình, nhưng Duy Từ nóng lòng đi trước, phòng có kẻ phát giác tung tích sẽ liên lụy đến đường công danh của bạn. Hai cha con phú ông họ Lê nài nỉ không được, đành dứt lòng để chàng lên đường...
Nhờ Lê Thời Hiến viết thư giới thiệu với thầy học Phùng Khắc
Khoan nên Duy Từ vào Đông Đô nhanh chóng kết giao được với nhiều vị túc nho ở
Chiêu Anh Quán [1].
Chàng đã nói trước với Lê Thời Hiến ý đồ thay tên đổi họ, do đó ở Chiêu Anh
Quán bấy giờ đồn đại nức tiếng một nho sinh có tên Trần Năng. Nhiều vị văn
quan, võ tướng trong triều nghe tiếng đồn, viết thư mời chàng đến tư dinh đàm đạo.
Qua họ, chàng hiểu thêm nhiều điều về chính sự trong cung vua, phủ chúa và tâm
trạng của nhiều sĩ phu Bắc Hà. Chàng không quên lời dặn dò của đại sư Duy Giác,
nhiều lần đi vãn cảnh chùa Tiêu Sơn trên Kinh Bắc. Quả như lời dự đoán của đại
sư, ở đó chàng đã gặp được Đoan quận công Nguyễn Hoàng. Mọi người ở kinh
đô đều đinh ninh chàng là Trần Năng, đồ đệ của đại sư Duy Giác ở
chùa Đàn Xuyên trên núi Quế Trường. Duy có Nguyễn Hoàng, sau buổi đàm đạo với
chàng ở chùa Tiêu Sơn đã sai người đi dò xét, biết chàng tên thật là Đào Duy Từ.
Ấn tượng lớn nhất trong chuyến ra Bắc giúp Trịnh đánh Mạc của Đoan quận
công không ngờ lại là một chàng Nho sinh mới ngoài hai mươi tuổi.
Chú thích:
[1] Chiêu
Anh Quán: tên gọi Quốc Tử Giám thời đó.
Chương 5
HỒI THỨ NĂM
Chân bước qua nước non ngàn dặm
Trở về kinh, minh chúa vào Nam
Dinh thự của Đoan quận công Nguyễn Hoàng thuộc phường Hoè
Nhai phía Tây Bắc thành Đông Đô, trên nền đất cũ xưa kia Lý Thường Kiệt đã chọn
làm nơi xây cất phủ Thái uý. Nguyễn Hoàng muốn thừa hưởng phúc trạch của vị
danh tướng thời Lý mà ông hằng ngưỡng mộ. Ông sai thuộc hạ thân tín mua đất xây
nhà ở đây, làm nơi nghỉ ngơi sau mỗi lần xuất quân đi đánh dẹp tàn quân của tướng
Mạc Đôn Nhượng còn lẩn quất trong các vùng đầm lầy trên khắp châu thổ sông Nhị
Hà. Lần này ông ra Bắc, thế cuộc đã khác xa so với lần trước, cách đây 24 năm, ở
phủ An Trường, vào năm Đinh Mão (1567). Hồi ấy Trịnh Kiểm còn sống, vua Anh
Tông còn đôi chút quyền hành. Mãi đến khi xẩy ra sự biến năm Quý Dậu, Trịnh
Tùng giết vua Anh Tông, lập Lê Duy Bang mới bẩy tuổi lên ngôi, hiệu là Thế Tông
thì triều đình đã nằm hết trong tay họ Trịnh ở An Trường. Phải thừa nhận cha
con Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng đều là những tướng soái tài ba nên mới dần dần đè bẹp
các đạo quân của danh tướng nhà Mạc là Kính Điển rồi đến Đôn Nhượng. Nay Trịnh
Tùng đã chiếm được Đông Đô, quyền uy bao trùm khắp Đại Việt và có trong tay
binh hùng tướng mạnh, Nguyễn Hoàng tự lượng sức mình không dễ gì cự lại được.
Phải nhún mình ra Bắc xưng thần với vua Lê Thế Tông cũng chính là chấp nhận tạm
phải theo lệnh của Trịnh Tùng. Ông muốn kéo dài sự hoà hoãn để củng cố quyền
cai trị trong đất Thuận - Quảng. Thoắt đã bẩy năm kể từ ngày ra Bắc lần thứ
hai, ông đã lập nhiều công trạng, trọn phận bề tôi, nhưng vẫn nơm nớp trong cảnh
cá chậu chim lồng. Đem con gái yêu gả cho thế tử Trịnh Tráng là bài toán ông đã
tính kỹ để làm yên bụng Trịnh Tùng. Tuy vậy, con người đa nghi như Trịnh Tùng vẫn
luôn sai người dò xét trong quân doanh của ông, sẵn sàng trừ bỏ ông bất cứ lúc
nào. Đông Đô có hai phường Hoè Nhai và Bích Câu là nơi ở của nhiều danh sĩ Bắc
Hà và các vị tướng tài ba, có thể thăm dò lôi kéo họ theo ông vào đằng trong mở
nước. Nguyễn Hoàng không chọn Bích Câu mà đặt dinh thự tại Hoè Nhai là do gợi ý
của một chàng nho sinh rất trẻ mà ông đã có cơ may hạnh ngộ ở chùa Tiêu Sơn
cách đây mấy năm. Con người ấy uyên bác mà lại rất thực tế, có tầm nhìn xa
trông rộng, mưu lược hơn người. Chàng đã phân tích cho ông rõ Bích Câu gần
Chiêu Anh Quán nên suốt ngày ồn ào, mọi cuộc tiếp xúc của ông đều dễ bị người của
Trịnh Tùng theo dõi. Hoè Nhai đường phố yên tĩnh, thưa vắng, thích hợp cho các
cuộc mật đàm. Hơn nữa Hoè Nhai ở gần sát bờ đê sông Nhị Hà, vạn nhất xảy ra biến
động sẽ có thể nhanh chóng và bí mật rút êm theo đường thuỷ ra ngoài biển Đông
rồi giong buồm vào Nam. Sau lần gặp Trần Năng, ông đã sai người tìm hiểu cặn
kẽ lai lịch, biết chàng có tên thật là Đào Duy Từ, kết bạn với quan thị lang ở
bộ hộ là Lê Thời Hiến. Kiến thức của Duy Từ vượt trội Lê Thời Hiến, có thể sánh
với Phùng Khắc Khoan, lại có tài thao lược, tinh thông binh pháp, thoắt ẩn thoắt
hiện như hiệp khách trong chốn giang hồ. Nghe theo lời khuyên của Đào Duy Từ,
ông đã bố trí một thuyền buôn tơ lụa và đồ sành sứ luôn neo đậu trên bến sông gần
kinh thành làm trạm liên lạc bí mật. Ở ngoài cửa Ba Lạt thuộc châu Cổ Lễ có một
hoang đảo nhỏ, ông đã sai Nguyễn Hữu Dật, một tướng tâm phúc của Nguyễn Phước
Nguyên đem một toán quân tinh nhuệ từ Quảng Nam ra chờ sẵn, để bắt liên lạc với
thuyền buôn của ông và khi cần sẽ đưa ông vượt biển vào Nam. Mưu kế này cũng do
Đào Duy Từ gợi ý cho ông ở chùa Tiêu Sơn. Xem ra chàng ẩn sĩ kỳ tài ấy không
thiết tha gì lập công danh ở trên đất Bắc, nhưng Nguyễn Hoàng đã tha thiết mời
vào Nam mà chàng vẫn chưa nhận lời. Từ ngày ra Bắc, Nguyễn Hoàng chỉ
canh cánh bên lòng nỗi lo tuổi tác đã cao, sự nghiệp còn dài, muốn tranh thủ cơ
hội tìm kiếm ở đất đế đô những nhân tài có thể phò giúp họ Nguyễn đến đời con,
đời cháu. Ông đã tiếp xúc với rất nhiều danh nho, danh tướng và cảm thấy thất vọng
vì người thực tài đã hiếm, lại hết lòng ngu trung với họ Lê, còn lại đa phần là
hạng người khoa trương, sáo rỗng. Nếu ông có được Đào Duy Từ, khác nào Lưu Bang
có Trương Lương, Lưu Bị có Khổng Minh hay Lê Lợi có Nguyễn Trãi. Đáng tiếc và
cũng thật khó hiểu, vì sao Đào Duy Từ còn lưỡng lự, rồi biệt vô tăm tích. Nguyễn
Hoàng vò đầu suy nghĩ bên án thư, hồi tưởng lại buổi gặp gỡ với Đào Duy Từ ở
Chùa Tiêu Sơn nhiều năm trước đó...
Hôm ấy, Nguyễn Hoàng thắp hương lễ Phật xong bước ra sân
chùa, lòng thấy nhẹ tênh, thanh thản sau chuỗi ngày căng thẳng, khi bận việc
quân, lúc lại lo đối phó với Trịnh Tùng. Ông chợt nhìn thấy con đường nhỏ từ
sân chùa dẫn lên đỉnh núi, trên đó có cây bồ đề cổ thụ cành lá xum xuê, chim
sáo bay về từng đàn líu lo ca hót. Ông muốn một mình lên ngắm cảnh, không muốn
bị ai quấy rầy, bèn quay lại bảo đám tuỳ tùng:
- Các ngươi ở lại tất cả đây, nghỉ ngơi và ăn cơm chay với
nhà chùa. Chốn Phật tôn nghiêm. Lòng Phật bao la che chở cho chúng sinh. Ta
không cần ai hộ vệ.
- Bẩm, chúa công đã cao tuổi, trên đó lộng gió không có lợi
cho sức khoẻ - Viên tướng theo hầu nói.
- Đừng lo. Ta đâu đến nỗi già, sức còn đủ địch muôn người.
- Vậy xin chúa công giữ gìn cẩn thận. Tiểu tướng sẽ cho lính
đi tuần dưới chân núi phòng thích khách.
- Không cần đâu. Làm như vậy sẽ kinh động đến dân chúng, khiến
họ sợ hãi. Ta từ xứ đàng trong ra, chưa có ân đức gì với dân, sao lại nhiễu
dân.
Nguyễn Hoàng phẩy tay, ung dung bước lên dốc. Ông đứng lặng
dưới tán cây bồ đề say sưa nhìn ra bốn bề mênh mông, đồng lúa chiêm xanh mướt,
đương thì con gái. Xa xa cánh cò chớp trắng, chở nắng bay đi. Những người nông
phu làm lụng cần mẫn trên các thửa ruộng. Quả như mấy chữ nôm trên bức hoành
phi treo trước điện thờ Phật trong chùa "Sòng sơn viễn vọng", ông
đã lên tới đỉnh núi và ông đã nhìn xa, thấy rất xa, bát ngát tận chân mây. Cảnh
vật đẹp như tranh, và nỗi lòng khao khát cầu hiền tài làm nẩy thi hứng trong
ông. Nguyễn Hoàng cao giọng ngâm:
Vó ngựa sườn non đá chập chùng
Cầu hiền lặn lội biết bao công
Chợt ông phát hiện có bóng người đang ngồi bên bụi tầm xuân ở
mé đông sườn núi. Chàng trai trẻ ăn mặc nâu sồng, nhưng tướng mạo khôi ngô, tao
nhã. Phản xạ quen đề phòng thích khách khiến ông giật mình, nắm chặt chuôi kiếm
toan rút ra khỏi vỏ. Chàng trai vẫn ngồi mơ màng ngắm cảnh và thản nhiên ngâm
tiếp hai câu nối vần vào hai câu thơ của ông, thành một bài thơ hoàn chỉnh:
Đem câu phò Hán ra dò ý
Lấy nghĩa tôn Lưu để ướm lòng
Nguyễn Hoàng tay buông chuôi kiếm, miệng cười sảng khoái. Hồi
lâu ông bước lại gần hỏi:
- Tiên sinh là ai xin cho biết quí danh? Nghe hai câu xướng
hoạ đủ thấy tâm sự khắc khoải cùng non nước?
Chàng trai vẫn không hề quay lại, mắt đăm đăm hướng về phía
thôn trang ở phía xa dưới chân núi. Chàng thong thả mở túi vải lấy ra cây Nguyệt
cầm đặt lên tảng đá trước mặt, so dây đánh đàn, miệng hát theo điệu ca trù:
Gẫm xem thánh nọ hiền kia
Tài này nào có khác gì tài xưa
Làu thông trận pháp binh cơ
Lược thao đã học, thất thư lại bàn
Huyền vi làu biết thế gian
Vận linh trời đất tuần hoàn làu thông
Thảo lai trong có anh hùng
Miếu đường chống vững vẫy vùng tài cao
Có phen xem tượng thiên tào
Kìa ngôi khanh tướng, nọ sao quân thần
Có phen binh pháp diễn trần
Điểu xà là trận, phong vân ấy đồ
Có phen thơ túi rượu hồ
Thanh y sớm chực, hề nô tối mời
Trốn trong danh giáo cho vui
Bàng nhân chẳng biết rằng người ẩn tiên
Hùm ngâm gió thổi tự nhiên
Chúa tôi sao khéo hợp duyên thay là
Ngạc thư mở phút tâu qua
Xe loan tạm khuất hai ba phen vời
Dốc lòng phò chúa giúp đời
Xoay tay kinh tế, ra tài đống lương
Cá mừng gặp nước Nam Dương
Rồng bay Thiên Hán vội vàng làm mưa
Chín lần lễ đãi quân sư
Phấn vua lây bén móc mưa gội nhuần
Hai vai gánh nặng quân thần
Chín phần ở thảo, mười phần trọn ngay
Binh quyền việc nẩy đương tay
Lâm cơ thế thắng, một này địch muôn
Trận bày Bác Vọng thiên đồn
Bạch Hà dụng thuỷ Hầu Đôn chạy dài
Ra cờ mới biết sức trai
Có tài thiệt chiến, có tài tâm công...
Nguyễn Hoàng ngây ngất trước tiếng đàn. Ông bồi hồi xúc động
vì ca từ viết bằng lối thơ lục bát dân dã, nôm na, nhưng lời lẽ cao sang, ý tứ
thâm trầm, sâu sắc. Ông ngỡ mình là Lưu Huyền Đức trên đường tới lều tranh của
Khổng Minh đang lạc bước giữa đồi Ngoạ Long, chỉ thấy cảnh vật đượm nét thần
tiên và nghe những bài hát từ miệng ẩn sĩ Thôi Châu Bình. Chẳng lẽ chàng trai
này là Ngoạ Long tiên sinh tái thế chăng? Trong lòng Nguyễn Hoàng rộn ngợp niềm
vui khôn xiết. Ông quên hẳn địa vị cao sang, oai danh lừng lẫy của mình, bước
vòng ra trước mặt chàng trai trẻ, vòng tay xá và nói:
- Xin tiên sinh hãy ngừng đàn để ta thưa chuyện.
- Không dám, không dám! - Chàng trai đứng dậy đáp lễ.
- Ta là Đoan quận công Nguyễn Hoàng. Tiên sinh là ai xin cho
biết danh tính.
- Tiểu sinh là Trần Năng, trót thất lễ, xin ngài tha tội.
- Ban nãy nghe tiên sinh xướng hoạ rồi lại vinh hạnh được
nghe tiên sinh đàn hát, ta biết tiên sinh không phải người tầm thường.
- Tiểu sinh chỉ là kẻ quê mùa, ham vui nên những lúc ngồi buồn
hay rỗi rãi có làm bài Ngoạ Long Cương vãn dài hơn 60 câu lục bát, thỉnh thoảng
đem một vài đoạn ra đàn hát ngông nghênh qua ngày. Đoan quận công là bậc anh
hùng, chân mạng đế vương, xin đừng bận tâm đến mấy vần thơ, điệu hát vô bổ ấy.
- Tiên sinh quá khiêm nhường. Ta lâu nay đỏ mắt mong gặp hiền
tài, nay gặp tiên sinh ở đây muốn cùng tiên sinh đàm đạo.
Lúc này viên tướng theo hầu Nguyễn Hoàng nghe có tiếng người
lạ vội cầm gươm chạy từ sân chùa lên trợn mắt nhìn chàng trai. Nguyễn Hoàng gọi
hầu tướng lại ra hiệu không có chuyện gì, sai đi lấy chiếu cói và rượu để hai
người ngồi nhâm nhi, trò chuyện. Nguyễn Hoàng vốn người cẩn thận, chu đáo và rất
kín kẽ. Lúc này gặp chàng trai trẻ, bỗng như có trời phật xui khiến, ông say
sưa bộc bạch hết mọi điều uẩn ức, lo nghĩ chất chứa trong tâm can với chàng.
Đào Duy Từ, con người bí ẩn, giấu mình sau cái tên là Trần Năng ấy lúc đầu còn
ngập ngừng, e dè, lấp lửng. Nhưng càng về sau, chàng nói chuyện càng hào hứng,
sôi nổi, góp nhiều ý kiến độc đáo cho Đoan quận công Nguyễn Hoàng. Ông thành
tâm ngồi nghe, ghi nhớ từng lời của chàng, chợt thấy sáng bừng tâm thức, trút
đi gánh nặng bấy lâu. Ông nài nỉ chàng theo về tư dinh, chờ ngày vào Nam,
hứa sẽ trọng dụng, khoản đãi không kém Lưu Huyền Đức đãi Gia Cát Khổng Minh.
Chàng trai vẫn một mực lắc đầu từ chối. Chàng nói:
- Đoan quận công có lòng chiêu hiền đãi sĩ ắt sẽ gây dựng nên
nghiệp vương bá ở đất Thuận - Quảng. Tiểu sinh gần đây xem thiên văn, thấy ở
phương Nam có chùm sao sáng rực rỡ, ứng với họ Nguyễn nhiều đời nối nghiệp mở
cõi, xưng hùng, vô cùng hiển hách ở xứ đàng trong. Hiềm nỗi tại hạ còn muốn tiếp
tục chu du đây đó, ngày tháng tiêu dao cùng cỏ cây, sông núi, chưa thể theo
ngài vào Nam lo dựng nghiệp lớn.
- Giờ là lúc kẻ sĩ người hùng xông ra đảm đương việc nước, độ
dân cứu khổ, chấn hưng Đại Việt, sao tiên sinh lại cố chấp, quay lưng với thế
cuộc?
- Tiểu sinh không quay lưng cố chấp, nhưng nuôi chí đi khắp
thiên hạ, không chỉ trong bờ cõi Đại Việt mà sẽ còn sang Tàu, vào Chiêm Thành,
Chân Lạp và lên tận những nơi rừng thẳm của nước Xá Lợi, Lâm Ấp trên dãy Trường
Sơn, đất nước của dũng sĩ Đam San.
- Vì sao phải như vậy?
- Vận nước rồi đây có nhiều biến đổi to lớn khôn lường. Tiểu
sinh đi để nâng thêm tầm hiểu biết, chọn hướng giúp đời sao cho hợp mệnh trời,
đắc thuận nhân tâm.
- Nếu tiên sinh đã quyết vậy, ta không nài ép, chỉ mong sẽ được
tái ngộ ở Thuận - Quảng.
- Tiểu sinh tin sẽ có ngày gặp lại Đoan quận công hoặc thế tử
của ngài.
- Vậy ta chép lại bốn câu thơ vừa rồi cùng tiên sinh xướng hoạ.
Nếu trời cho ta diễm phúc sống đến ngày gặp gỡ tiên sinh thì tốt còn nếu không,
ta sẽ dặn lại con cháu căn cứ vào bút tích này để nhất mực nghe lời tiên sinh
chỉ dạy....
Hình ảnh cuộc gặp gỡ với Đào Duy Từ hiện ra rõ nét khiến Đoan
quận công bồi hồi xúc động. Tình hình rất khẩn trương, buộc ông không thể tiếp
tục nán đợi thêm nữa, chỉ còn cách gài người ở Đông Đô tìm kiếm Duy Từ. Mọi kế
hoạch bí mật vào Nam ông đã theo kế của Duy Từ chuẩn bị hoàn tất.
Phan Ngân là bộ tướng của Mạc Đôn Nhượng từ lâu đã liên lạc với Nguyễn Hoàng
xin theo vào Thuận - Quảng, hiện đang chiếm giữ vùng đầm lầy ở châu Cổ Lễ thuộc
phủ Thiên Trường. Từ đây có thể thông ra cửa Ba Lạt hội quân với Nguyễn Hữu Dật
ngoài hoang đảo. Qua tết Canh Tý (1600), Nguyễn Hoàng lệnh cho Phan Ngân dấy
binh nổi loạn, mở rộng địa bàn đến sông Ninh Cơ rồi phao tin sẽ tấn công chiếm
phủ Thiên Trường, bao vây Đông Đô. Người của Nguyễn Hoàng đóng giả
làm dân chạy loạn từ Cổ Lễ phao tin quân binh của Phan Ngân rất đông và hung dữ.
Sau đó Nguyễn Hoàng thân đến phủ chúa bẩm với Trịnh Tùng xin đi đánh dẹp, được
Trịnh Tùng tâu lên vua Lê chuẩn tấu. Trong Nam, các chiến thuyền lớn do Tống
Phước Trị và Mạc Cảnh Huống chỉ huy đang neo đậu ở cửa sông Nhật Lệ, sẵn sàng
xuất phát đi đón đoàn quân Bắc phạt trở về. Mặt đường bộ, có Nguyễn Ư Dĩ giúp
Nguyễn Phước Nguyên dàn binh, canh phòng cẩn mật ở hẻm núi Đâu Mâu hiểm trở,
phòng quân Trịnh từ Nghệ An tấn công vào.
Nguyễn Hoàng họp mặt các tướng ở tư dinh, ban bố tướng lệnh
“phò Lê diệt Mạc”, chờ giờ hoàng đạo sẽ khởi hành đi đánh dẹp “loạn quân” của
Phan Ngân. Lúc này ông đã ở vào thế ngồi trên lưng cọp, không có đường lui, mà
sao vẫn nấn ná, chờ đợi và hy vọng Đào Duy Từ quay về kinh đô? Lòng ông phân
vân, xao xuyến nhớ tiếc một tài năng xuất chúng trong giới sĩ phu Bắc Hà. Cầm
lòng chẳng đặng, ông viết một lá thư dài, tâm huyết, dặn thuộc hạ bí mật chờ
trao cho Duy Từ. Đạo quân của ông mở cờ, giong trống, bừng bừng khí thế nhằm hướng
Cổ Lễ ra đi. Dọc đường Nguyễn Hoàng không nguôi nhớ chàng trai trẻ. Đôi lúc ông
ngoảnh đầu về Đông Đô ngâm bài thơ xướng hoạ giữa hai người:
Vó ngựa sườn non đá chập chùng
Cầu hiền lặn lội biết bao công
Đem câu phò Hán ra dò ý
Lấy nghĩa tôn Lưu để ướm lòng
Vào thời khắc quyết định ấy, Nguyễn Hoàng không ngờ rằng con
người có máu giang hồ như Duy Từ đã từng lên biên ải tìm gặp vua tôi nhà Mạc,
sang thăm dò cả bên kia biên giới thuộc đất nhà Minh đang suy yếu trước cuộc
chiến tranh với người Mãn và phải nhiều năm sau đó, Đào Duy Từ mới thoát khỏi
nhà lao ở Long Châu bên Tàu. Phải đợi tiếp nhiều năm nữa, thế tử Phước Nguyên mới
có cơ hội gặp chàng…
Chương 6
HỒI THỨ SÁU
Ly quê tiếng sáo đau mồ cỏ
Nuốt lệ làm thơ khóc mẫu
thân
Duy Từ thoát khỏi nhà lao Ung Ninh về nước, máu giang hồ còn
chưa dứt, lại mất thêm ba năm ròng đi khảo sát dấu tích chiến luỹ Đa Bang của Hồ
Nguyên Trừng năm xưa. Chàng rất khâm phục và kinh ngạc trước một công trình đồ
sộ dài 600 dặm kéo từ bờ phải Đà Giang thuộc châu Kỳ Sơn của người Mường, uốn
lượn qua ngã ba sông ở Bạch Hạc, rồi chạy theo bờ phải sông Nhị Hà đi suốt ra
biển Đông. Công trình ấy Hồ Nguyên Trừng đã lợi dụng mặt đê và tôn cao thêm để
làm chiến luỹ ngăn giặc tiến vào Tây Đô. Điều kinh ngạc là Hồ Nguyên Trừng đã
huy động binh lính và dân phu hoàn thành nó chỉ trong vòng một năm rưỡi. Nhưng,
chiến lũy ấy, cộng với thuyền chiến hai tầng và súng thần công do Hồ Nguyên Trừng
sáng chế ngỡ là bất khả xâm phạm, ngờ đâu chỉ vì thiếu lòng dân mà mau chóng
tan tành trước hoạ xâm lăng. Mới hay chân lý đúc kết từ ngàn xưa rằng “chở thuyền,
lật thuyền cũng là dân” sao mà đúng vậy. Duy Từ đã đi qua rất nhiều bản Mường ở
thượng du Đà Giang và các xóm chài ven sông Nhị Hà ở phía hạ lưu.
Chàng tìm hỏi chuyện các bô lão và các vị thức giả trong dân gian để hình dung ra cách đắp lũy, điều động dân binh đi tuần phòng và những trận chiến xảy ra giữa nhà Hồ và quân Minh. Nhớ lời đại sư Duy Giác lúc chia tay dặn rằng phải bổ sung vào binh pháp những điều mắt thấy tai nghe trên bước đường chu du thiên hạ, chàng đã hỏi kỹ các bô lão và từ đó tưởng tượng rồi vẽ lại bản thiết kế thuyền chiến hai tầng và súng thần công của Hồ Nguyên Trừng. Chàng còn phát hiện ra những sai lầm phạm vào điều tối kỵ trong binh pháp của cha con Hồ Quý Ly, Hồ Nguyên Trừng. Chiến luỹ Đa Bang tự nó đã thể hiện ý đồ co cụm phòng thủ trong thế bị động trước sức mạnh của quân Minh. Nhà Hồ đã tự nguyện bỏ đất thánh Đông Đô và cả vùng lãnh thổ rộng lớn từ Mục Nam Quan đến châu thổ sông Nhị Hà đông dân, trù phú, hỏi làm sao ngăn giặc như nước lũ tràn bờ vượt qua chiến luỹ Đa Bang, tiến vào Tây Đô? Việc căng mỏng các đội quân trên chiến luỹ dài sáu trăm dặm cũng phạm vào điều cấm kỵ trong binh pháp... Dẫu sao, chàng đã học được nhiều điều bổ ích từ tài tổ chức lập chiến luỹ và những sáng chế tuyệt vời của Hồ Nguyên Trừng. Với tài năng ấy, giá như nhà Hồ biết học theo Lý Thường Kiệt, dựa vào dân, chủ động phòng ngự trên tuyến sông Như Nguyệt thì chắc gì quân Minh đã dễ dàng thắng nổi.
Chàng tìm hỏi chuyện các bô lão và các vị thức giả trong dân gian để hình dung ra cách đắp lũy, điều động dân binh đi tuần phòng và những trận chiến xảy ra giữa nhà Hồ và quân Minh. Nhớ lời đại sư Duy Giác lúc chia tay dặn rằng phải bổ sung vào binh pháp những điều mắt thấy tai nghe trên bước đường chu du thiên hạ, chàng đã hỏi kỹ các bô lão và từ đó tưởng tượng rồi vẽ lại bản thiết kế thuyền chiến hai tầng và súng thần công của Hồ Nguyên Trừng. Chàng còn phát hiện ra những sai lầm phạm vào điều tối kỵ trong binh pháp của cha con Hồ Quý Ly, Hồ Nguyên Trừng. Chiến luỹ Đa Bang tự nó đã thể hiện ý đồ co cụm phòng thủ trong thế bị động trước sức mạnh của quân Minh. Nhà Hồ đã tự nguyện bỏ đất thánh Đông Đô và cả vùng lãnh thổ rộng lớn từ Mục Nam Quan đến châu thổ sông Nhị Hà đông dân, trù phú, hỏi làm sao ngăn giặc như nước lũ tràn bờ vượt qua chiến luỹ Đa Bang, tiến vào Tây Đô? Việc căng mỏng các đội quân trên chiến luỹ dài sáu trăm dặm cũng phạm vào điều cấm kỵ trong binh pháp... Dẫu sao, chàng đã học được nhiều điều bổ ích từ tài tổ chức lập chiến luỹ và những sáng chế tuyệt vời của Hồ Nguyên Trừng. Với tài năng ấy, giá như nhà Hồ biết học theo Lý Thường Kiệt, dựa vào dân, chủ động phòng ngự trên tuyến sông Như Nguyệt thì chắc gì quân Minh đã dễ dàng thắng nổi.
Đào Duy Từ cảm thấy cơ hội vào Nam đã chín muồi.
Chàng bí mật trở về Đông Đô chia tay với Lê Thời Hiến và nắm thêm nội tình vua
Lê chúa Trịnh. Vừa đặt chân lên đất Đông Đô, chàng đã gặp người lái buôn người
phương Nam dưới thuyền lén trao bức thư rồi biến mất. Chàng đọc thư bồi
hồi xúc động trước những lời tâm huyết của Nguyễn Hoàng. Hai năm lặn lội trên
miền biên ải, vượt bao nỗi hiểm nguy thuyết phục được Mạc Cảnh Dinh, Nguyễn Tú,
Trần Bảo và nhiều danh nho, danh tướng khác bỏ Mạc Kính Cung theo về với Nguyễn
Hoàng thật không uổng phí. Chàng chỉ ân hận thời gian vượt sông sang đất Long
Châu bên Tàu đã mắc một sai lầm khiến chàng chịu cảnh tù đày lỡ mất cơ hội gặp
lại Nguyễn Hoàng ở Đông Đô. Chuyện đã qua, nghĩ lại âu cũng là do tuổi trẻ bồng
bột và dòng máu nghệ sĩ lưu truyền từ Đào Tá Hán trong huyết quản của chàng.
... Năm ấy, thành Long Châu tưng bừng náo nhiệt đón tết
Nguyên Tiêu. Chàng ăn tết nguyên đán ở Cao Bằng xong, chia tay với Mạc Cảnh
Dinh, sang Long Châu dò xét tình hình của triều đình nhà Minh ở vùng Lưỡng Quảng,
kết hợp tìm hiểu các phong tục của người Hán, người Choang. Tri phủ Long Châu
là Hoàng Chí Bân mở tiệc ăn mừng tuổi lục tuần nhập thọ rất linh đình suốt bảy
ngày đêm không dứt. Hoàng Chí Bân là người có phong độ hào hoa, giỏi cả văn lẫn
võ và rất ngưỡng mộ đại đô đốc Chu Du của nước Ngô thời Tam quốc. Ông ta thường
thích nghe thuộc hạ nịnh bợ, gọi mình là Hoàng Công Cẩn vì hai chữ Công Cẩn là
tên hiệu của Chu Du, chỉ những người thân thiết mới dám gọi. Hoàng Chí Bân có một
người con gái rất xinh đẹp, tuổi vừa độ trăng tròn là Hoàng Thục Anh. Trong bữa
tiệc mừng thọ, Hoàng Chí Bân cao hứng ra điều kiện nếu ai gẩy khúc nghê thường
bằng Nguyệt cầm khiến tất cả các quan khách nín lặng rồi lại múa kiếm theo điệu
Song kiếm rỡn nguyệt được tiểu thư Thục Anh thừa nhận không thua kém gì Chu
Công Cẩn thì bất kể sang hèn đều xứng làm rể họ Hoàng. Hôm sau tin ấy truyền đi
khắp thành Long Châu, làm xôn xao đám công tử mệnh danh "Nam Tử Hán".
Nhiều chàng "Nam Tử Hán" xin vào biểu diễn đều quay về với bộ dạng
thiểu não. Có kẻ còn bị phạt mười roi vì không biết võ mà dám múa liều, vừa sai
nhạc, vừa gây nguy hiểm cho người xem. Đào Duy Từ trong lúc cao hứng đã quên mất
thân phận mình là người Việt. Chàng xin vào biểu diễn, không ngờ tiểu thư Thục
Anh đã mê mẩn vì tiếng đàn, điệu múa kiếm lại càng say đắm vẻ khôi ngô, tuấn tú
của chàng. Nàng cười rạng rỡ, ném quả cầu đỏ thắm cho Duy Từ, chọn chàng làm
người tri kỷ, kết tóc xe duyên. Lúc đầu, chàng nhận mình là Trần Năng quê ở
thành Nam Ninh, đến Long Châu buôn bán đang phải về quê gấp vì mẫu thân ốm nặng,
sắp qua đời, người sắp chịu tang không thể làm việc hỉ. Thục Anh không tin, nhất
quyết đòi theo chàng về quê ra mắt mẫu thân. Từ chối mãi không xong, cực chẳng đã,
chàng đành thú nhận mình là người Việt. Hoàng Chí Bân nghi chàng là gian tế của
nước Nam, sai quân đến quán trọ khám xét hành lý, tìm thấy nhiều tấm bản đồ
trên lụa do chàng vẽ địa hình, đường xá vùng biên ải giữa hai nước. Tang chứng
đã rõ, chàng không còn cách nào để thanh minh, đành chịu lĩnh án tù khổ sai,
đày đi nhà lao Ung Ninh xa lắc suốt mười năm ròng.
Đọc thư Nguyễn Hoàng, Duy Từ không dám tin đó là sự thật. Suốt
những năm chàng chịu cảnh lao tù nơi đất khách quê người vì một sai lầm tuổi trẻ,
đâu ngờ Nguyễn Hoàng ở Đông Đô vẫn khắc khoải đợi chàng. Lúc vào Nam, bận
việc binh, lo đối phó với Trịnh Tùng mà ông vẫn viết lá thư dài, chân thành,
tha thiết đón Duy Từ ở Thuận - Quảng. Chàng muốn theo người lái buôn tâm phúc của
Nguyễn Hoàng lên thuyền vào Nam. Nhưng chàng lại nghĩ lần này ra đi không
hẹn ngày về, nhất thiết phải trở lại quê nhà Hoa Trai, thắp nén nhang lên phần
mộ mẫu thân, ông Danh, thầy đồ Mậu. Mặt khác, chàng đã hẹn với Hữu Dư và Thục
Nga nếu vào Nam sẽ đi đường bộ qua thung lũng sông Ngàn Sâu, Ngàn Phố. Mang nặng
nỗi u hoài, chàng lững thững tìm đến tư dinh của quan thị lang bộ hộ Lê Thời Hiến
để chia tay với người bạn cũ.
Lê Thời Hiến đang ngồi đọc sách, chợt có lính hầu vào bẩm ngoài
cổng có người xin gặp. Chàng đã chán ngắt mấy vị đồng liêu trong bộ hộ huênh
hoang, dốt nát thường hay đến tán chuyện phiếm, không cho chàng giữ nếp đọc
sách đúng giờ qui định trong ngày nên gắt:
- Khách là ai vậy?
- Bẩm quan, người ấy không chịu xưng danh.
- Bộ dạng ông ta thế nào? Bao nhiêu tuổi?
- Bẩm quan, ông ta chừng 40 tuổi, ăn mặc xoàng xĩnh nhưng sạch
sẽ, dáng vẻ thư sinh.
- Khách không chịu xưng danh, nhưng có nói thêm gì không?
- Bẩm quan, ông ta chỉ nói, vào bẩm quan thị lang có bạn cũ
thủa hàn vi đến chơi. Con nghe giọng nói đoán ông ta cũng người xứ Thanh.
Lê Thời Hiến giật mình, linh cảm mách bảo chàng có lẽ khách
là Đào Duy Từ. Đã một tháng nay chàng mong ngóng tin tức Đào Duy Từ, thầm lo
cho bạn. Hôm ấy trong buổi chầu ở phủ chúa, chàng và quan trạng nguyên Phùng Khắc
Khoan hết sức tiến cử Đào Duy Từ với Trịnh Tùng. Các quan trong triều
thì người khen, kẻ chê bai hay bới móc thân phận con nhà phường hát của Duy Từ.
Trịnh Tùng nghe Phùng Khắc Khoan ca ngợi đại sư Duy Giác và tâu rằng Đào Duy Từ
là học trò xuất sắc của đại sư nên đang ngần ngừ, lưỡng lự. Không ngờ quan hành
khiển Nguyễn Hoá từ đầu ngồi im, bỗng lên tiếng can ngăn chúa. Ông ta kể tội
Đào Duy Từ vừa xuống núi đã can dự vào vụ cướp ngục ở An Trường. Quan phủ Bá
Sinh đã tróc nã nhiều năm chưa bắt được. Không rõ ông ta lấy tin từ đâu, còn quả
quyết Duy Từ chính là kẻ bầy mưu giúp Nguyễn Hoàng trốn vào Nam theo cửa Ba Lạt.
Trịnh Tùng quắc mắt hỏi:
- Tài của Đào Duy Từ theo ngươi thế nào?
- Khải chúa, qua vụ Nguyễn Hoàng đủ thấy Đào Duy Từ cũng là
nhân vật đáng gờm nhưng nên giết đi.
- Ngươi hãy nói cho rõ thêm!
- Khải chúa, theo thần kẻ có tài mà ta không muốn dùng thì
nên giết đi để trừ hậu hoạ. Thám mã của thần gần đây phát hiện thấy Duy Từ đang
trên đường đi về phía kinh thành.
- Chúng gặp Duy Từ ở đâu?
- Khải chúa, thám mã gặp y ở Lục đầu giang cách đây chừng một
tuần trăng.
- Hãy truyền lệnh ta khám xét tất cả cửa ngõ vào kinh thành,
gặp người khả nghi lập tức bắt ngay.
Lê Thời Hiến và Phùng Khắc Khoan liền nhìn nhau, trán vã mồ
hôi, không dám hé răng nửa lời. Chàng thừa nhận lời Nguyễn Hoá không phải là
không có lý. Nhớ khi còn thời vua Trang Tông, Trịnh Kiểm đã không muốn dùng
Nguyễn Hoàng lại không nỡ giết. Sau đó, Nguyễn Hoàng nghe theo lời khuyên của cụ
Trạng Trình, “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân” [1] mà
tìm cách vào Nam, chuyên chế riêng một vùng Thuận - Quảng, kéo theo cả Nguyễn Ư
Dĩ, Tống Phước Trị và Mạc Cảnh Huống, đều là những nhân tài hiếm có. Chàng bồn
chồn, lo lắng cho tính mạng của bạn.
Đào Duy Từ ung dung bước vào phòng khách. Lê Thời Hiến sững
người nhìn vẻ phong sương, gầy yếu của người bạn cố tri sau hơn mười năm xa
cách. Thời gian đã rắc những hạt muối tiêu lên mái tóc của Duy Từ, cày những nếp
nhăn lên vầng trán, chỉ có đôi mắt vẫn còn sáng rực. Chàng chạy lại, ôm chầm lấy
Đào Duy Từ nghẹn ngào nói:
- Đệ mong huynh đã mỏi mắt. Sao huynh tiều tuỵ thế?
- Có sao đâu, một chút sương gió phong trần đắp choàng lên kẻ
giang hồ, lữ khách thôi mà.
- Huynh còn nói đùa được sao! Đệ lo cho huynh thắt ruột.
- Có chuyện gì thế? Nghiêm trọng lắm sao?
- Phủ chúa đã ban lệnh tróc nã huynh. Tất cả lối vào kinh
thành và trên phố, trong chợ đều có thám mã của Nguyễn Hoá chực sẵn để đón bắt
huynh.
- Ta có làm gì nên tội đâu?
- Tài của huynh chính là trọng tội. Kẻ có tài mà bề trên
không muốn dùng thì phải giết.
- Nếu vậy ta phải đi ngay tránh liên luỵ đến hiền đệ.
- Không được. Bây giờ đã quá ngọ sang mùi. Huynh phải ở lại
đây hàn huyên với đệ, chờ tối hẳn mới đi được. Huynh có võ công, nên tìm chỗ vắng
vẻ, kín đáo mà phi thân vượt qua tường thành mới mong thoát được.
- Ta xa hiền đệ ngần ấy năm trời, nay bỗng chốc xuất hiện
trong hoàn cảnh éo le, thật phiền cho hiền đệ.
- Thôi. Huynh vào phòng với đệ cho kín đáo. Lính hầu và người
nhà của đệ sẽ canh chừng, ngăn không cho người lạ bén mảng đến.
Hai người dắt nhau vào trong. Người quản gia trung thành bưng
rượu và thức ăn lên rồi quay ra, nhẹ nhàng khép kín cửa phòng. Duy Từ bàng
hoàng trước tin dữ bất ngờ. Lê Thời Hiến nhìn bạn, thở dài, im lặng hồi lâu.
Không gian đặc quánh nỗi buồn lo. Chàng cầm tay Duy Từ, mắt ngấn lệ và hỏi:
- Rời khỏi kinh thành rồi, huynh sẽ đi đâu?
- Vào Nam theo Nguyễn Hoàng.
- Đệ thấy Nguyễn Hoàng nửa đời lận đận gây dựng sự nghiệp.
Nay ông ấy tuổi đã cao, liệu thế tử sau nay nối nghiệp có biết trọng tài của
huynh?
- Thời cuộc biến đổi không ngừng. Người quân tử phải biết tùy
nghi. Ta cũng không dám chắc mọi điều, hiền đệ ạ!
- Mai đây, hai ta mỗi người thờ một chủ, lỡ gặp nhau giữa chiến
trận sẽ phải chém giết nhau chăng?
- Số phận đã an bài không sao cưỡng được. Tôi trung không thờ
hai chúa, lương tướng không vì tình riêng, ấy là lẽ đời. Miễn sao ta với hiền đệ
đều hết lòng vì xã tắc, muôn dân. Nếu ta vào Nam được chúa Nguyễn trọng dụng sẽ
hiến kế cho chúa Nguyễn mở cõi vào Nam, còn mặt Bắc chỉ hết sức phòng thủ,
tránh cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, máu xương bên nào cũng của con dân
nước Đại Việt.
- Đệ mừng vì huynh đã có chủ định như vậy. Ở ngoài này đệ hứa
sẽ hết sức can ngăn chúa Trịnh không khởi binh đánh Nguyễn.
- Hai ta giao ước vậy nhé!
- Có trời đất, quỉ thần chứng giám cho lòng của đệ.
- Ta xem thiên văn biết nhà Nguyễn sẽ hưng thịnh, hùng cứ khắp
dải đất phương Nam rộng lớn. Nếu tạm thời hai bên ngăn chia giới tuyến,
cùng ganh đua chăn dân, khuyến nông, khuyến công, khuyến thương cho dân giàu nước
mạnh há chẳng tốt lắm sao. Dân muốn là trời muốn. Ắt có một ngày dân chúng sẽ
phán xét bên hay bên dở và đồng lòng theo về một phía, nước nhà sẽ thống nhất,
bờ cõi được mở mang, cho dù khi ấy ta với hiền đệ chẳng còn sống, nhưng tiếng
thơm để lại muôn đời.
- Huynh vẽ ra một viễn cảnh thật xa vời!
- Đúng. Nó xa vời, rất xa vời, nhưng sẽ thành hiện thực. Ta bấy
lâu đi chu du khắp thiên hạ cũng vì mơ ước ấy.
Đào Duy Từ quên hết mọi hiểm nguy đang rình nấp, vây bủa bên
ngoài. Chàng say sưa thổ lộ hết tâm can với bạn. Chẳng mấy chốc màn đêm buông
xuống kinh thành. Lúc chia tay, Lê Thời Hiến đã sai người nhà chuẩn bị mười lạng
bạc và ít quần áo, lương thực, cố nài ép Duy Từ nhận bằng được. Hai người ôm
nhau, xúc động không nói lên lời. Duy Từ băng mình ra đường phố. Trời lất phất
mưa bụi. Cơn gió bấc đầu mùa lồng lộng thổi trên các vòm cây, nóc nhà. Chàng
nhanh chóng vượt qua một góc tường thành, lầm lũi đi trong bóng đêm đầy mưa
gió. Ngày lại qua ngày, chàng đi quên mỏi. Vào đến xứ Thanh, chàng ghé thăm
chùa Thiên Phúc. Sư bà Diệu Minh tuổi đã cao, lưng còng chống gậy ra sờ nắn khắp
người Duy Từ, thân thiết và cảm động như tình mẫu tử. Chàng nán lại chùa chừng
một canh giờ rồi bái lạy sư bà Diệu Minh, nhằm hướng làng Hoa Trai rảo bước.
Quê hương sau nhiều năm ly biệt vẫn đói nghèo xơ xác. Chẳng ai trong làng còn
nhận ra chú bé Duy Từ năm xưa. Lòng chàng xót xa cô độc, trĩu nặng u buồn. Duy
Từ ngồi chết lặng bên bờ ngòi La, hồi tưởng lại bao kỷ niệm thời thơ ấu. Nơi
đây chàng đã cùng Hữu Dư bắt ốc mò cua, ngâm mình hụp lặn sau mỗi ngày kiếm củi
trên núi Ngọc. Bên dòng nước ngòi La, ngày ra đi, chàng đã thổi sáo cho Thục
Nga nghe giai điệu dân ca của xứ Thanh quê nhà. Ngòi La, hỡi ngòi La hiền lành,
sao có ngày dìm đắm mẫu thân để hôm nay đứa con bất hiếu trở về bơ vơ, côi
cút... Ơi nghĩa phụ Hữu Danh, ơi thầy đồ Mậu, Duy Từ đã về sao ông trời nỡ để
âm dương cách trở, khiến nỗi lòng đứt đoạn từng cơn!... Chàng lặng lẽ ra cánh đồng
làng thắp nhang lên từng nấm mộ, nghe con tim thổn thức. Quê hương sau bao
tháng năm đằng đẵng, nay chàng trở về, ba ngôi nhà thân thương chỉ còn trơ nền
đất cũ, hoang sơ đầy cỏ dại. Không còn người thân, không còn mái ấm che đầu,
chàng ngậm ngùi ra đình làng ngồi viết bài ai điếu đọc trước mộ mẫu thân:
Hỡi ôi!
Mộ cỏ đơn côi, Hoa Trai mây ủ, mắt nhìn gốc tử, dạ bời bời
thương xót biết nào nguôi.
Thổi sáo ly quê, làm thơ xót nghĩ, con càng thêm hổ. Chí làm
trai chốc đã 40 niên công danh chưa thoả, mảy may chưa vẹn đạo thần hôn. Nay
con phải cáo biệt mẫu thân, lìa từ đường, rời quê tổ phụ.
Nhớ mẫu thân xưa sắc tài vẹn đủ, nghề mọn cầm ca ăn sầu nuốt
khổ, lâm nạn lìa chồng, bên đàn bên con quẩy một gánh tang bồng, há sợ mưa
giông hay chớp giật. Nơi phủ An Trường, phụ thân con chết trong tiếng đàn, nhịp
sênh phách vẫn còn bầm sôi, hận uất. Đất Hoa Trai mẫu thân tần tảo nuôi con, sống
kiệm, mần cần muôn thủa mảnh gương còn tỏ. Cội phúc vo tròn quả phúc, mầm nhân
vun quén vườn nhân, quyết chí cho con lên chùa Đàn Xuyên, mài nghiên rửa bút,
sao con vẫn nửa đời lận đận.
Ngao ngán thay cho con tạo lá bay. Trách vì phận, giận vì
duyên, tội tình chi cho trời xanh ghét bỏ. Hết sức người mới hiểu mệnh trời, dời
chân đi biết đến đâu hay đến đó, rồi sẽ có ngày. Con đã quyết đem thân hồ hải,
vượt ải vào Nam, theo phò chúa Nguyễn, lấy đỉnh chung đền đáp song thân,
đem tài trí cùng nước non trả nợ.
Dù mai đây con thóc đường hoạn lữ, bơ vơ đất khách quê người,
xót mẫu bầm gan, thương phụ buốt ruột, tấc lòng vàng như nấu như nung.
Ôi thôi thôi! Nguyệt ám vì mây. Hoa tàn bởi gió. Sống thác là
ngọn đèn kim cổ. Mất còn là kiếp phù du biết đâu mà tỏ.
Mong mẫu thân chốn non bồng nước nhược, hồn về đây phò giúp
con côi.
Hỡi ôi! Bái lạy, bái lạy!...
Duy Từ đọc xong bài ai điếu, nước mắt chảy ròng. Chàng nâng
cây sáo thổi khúc ly quê. Tiếng sáo bay lên cao vợi giữa tầng mây, lâm ly, réo
rắt. Núi Ngọc tối sầm trong tiếng sáo trúc, hoàng hôn lịm tắt. Ngòi La rì rầm,
nén cơn thổn thức. Xóm làng Hoa Trai mờ trong sương đục. Chàng ra đi nuốt lệ, đầu
không ngoảnh lại...
Ghi chú:
[1] Hoành
sơn nhất đái, vạn đại dung thân: Một dải Hoành sơn có thể náu mình gây dựng sự
nghiệp muôn đời.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét