Nửa đêm sực tỉnh
Nhớ lại những mối tình
Em đâu rồi? Tìm em nỏ thấy
Bên cây chợt rộn tiếng em đàn
Ô hay nửa giấc! Đêm sực tỉnh
Nhớ buổi trăng lên, bóng xịch dần...
Chương I
CŨNG CÓ MỘT TÌNH ĐẦU
Một trong hai người bạn gái nhỏ của báo Tuổi trẻ đến
thăm tôi, đột ngột hỏi:
− Đời nhà thơ đã mấy lần yêu rồi, có nhớ hết không?
Một câu hỏi vẻ như đùa, làm tôi sửng sốt, tôi thẫn thờ một
lúc lâu, đâu phải một câu hỏi để mà trả lời.
Tập "Hồi tưởng" của tôi đánh máy đã gần xong,
tôi sẽ đọc lại một lần nữa, rồi trao lại người ngồi cạnh. Cuộc đời và chuyện
văn chương đâu phải dễ dàng đơn giản thế, đâu phải sẵn bút mực, đẩy vài dòng, cứ
hết dòng này tiếp dòng khác cho đến hết một chương lại chấm một dấu hết. Báo
cáo: Chương mối tình đầu đã xong!
Sao tôi thích câu thơ của Chu Mạnh Trinh đến thế, khi động đến
mối tình của Kiều:
Ngàn liễu rung cương sóng gợn tình...
Một cái rung cương trên mình ngựa, mà sóng dậy không bờ: ngàn
cây, vó ngựa, lòng người. Chao ôi! Xa gần, cao thấp, trong ngoài, bốn bể, trời
đất, cỏ hoa, như rung, như gợn... Tôi chẳng nhớ rõ trái tim thơ dại của tôi,
rung cái rung động đầu tiên tự bao giờ. Hẳn không phải là trời giá lạnh đêm
đông lắng, tôi nằm chen vào giữa đám đông các anh tôi, nghe họ cười cười nói
nói với nhau, biết bao say sưa thú vị, mà tôi chỉ nghe mơ màng một hồi là mắt
nhắm ngủ liền.
Cũng chưa hẳn là buổi chiều ấy, một chiều hè, một mình tôi nằm
trên chiếc võng trước hiên nhà, hai chân đưa mãi không thôi; gió phây phẩy vào
ngực vào tóc tôi, như đưa hồn tôi đến tận các vì sao, xa xa lấp loánh những
viên ngọc trai trên núi xanh, lúc bấy giờ tôi đã 12-13 tuổi, lần đầu tiên chạm
đến một câu thơ Kiều:
Có người viễn khách sang chơi
Tôi, một đứa con trai vừa "vỡ giọng", tưởng đang
mang một tâm hồn một cô gái dậy thì.
Thầy tôi là một ông quan hưu, có lần tôi được theo thầy tôi đến
thăm một ông quan huyện nhà, huyện Bố Trạch, lần đầu tiên tôi nghe xầm xì đến
tên hai cô gái của ông huyện, cô chị tên Nguyệt, em là Vân. Hồi đó tôi học lớp
nhất trường tỉnh. Đã thành một thói quen là cứ chiều thứ bảy, Nguyệt, Vân từ tỉnh
về huyện, tôi đứng nép sau cây bên đường đợi chiếc "xe nhà" Nguyệt,
Vân đi qua... Trời mưa lâm thâm, diềm xe che lửng, tôi chỉ thấy phía trên hai
khuôn mặt, hai chiếc kiềng vàng, làm sao tôi quên được những đôi mắt ấy? Đôi mắt
ấy, ai là Nguyệt, ai là Vân? Một phút rung động vào lòng, mà thật ra như đại
dương gợn sóng. Tuy sức học tiếng Pháp còn yếu, tôi tìm đọc cuốn truyện tình nổi
tiếng lúc bấy giờ Graziella của Lamartine, chuyện một nhà thơ Pháp
yêu một cô bé thuyền chài 16 tuổi. Nhà thơ đã viết lên một khúc tình ca da diết.
Ngồi một mình tôi buột miệng ngâm bốn câu thơ tình mà Nguyễn Mạnh Bổng đã dịch
ra:
Ai run rủi cho ta đến đó
Khiến lòng người nhớ độ năm xưa!
Giấc chiêm bao khéo hững hờ...
Người xưa cảnh cũ bây giờ là đâu?
Nhất là câu thơ Mười sáu tuổi xuân, em vội tách miền
dương thế! càng du dương càng lâm ly lòng tôi say sưa thấm thía...
Thủa ấy, tôi đi quanh miền ảo tưởng có lúc tự bịa ra những mối
tình, mơ màng những cuộc gặp gỡ... có bao giờ tôi quyết bước cả hai chân vào
cõi thật? Đúng là tôi phất phơ giữa hai miền ảo − thật và lấy nước mắt
trong chiêm bao làm nước mắt mình mà chẳng bao giờ tự biết!
Bị đuổi khỏi trường Quốc học Huế, tôi lại xin học ở trường
Dòng ở trường Súng, không chịu nổi cảnh dạy ở đây lại bỏ đi lang thang. Bao bận
ghé ăn nghỉ ở nhà cụ Phan Bội Châu, cụ Phan đặt cho biệt hiệu "Hy
ký", "Lư" là lừa không đi chậm như lừa mà ngày phải đi vạn dặm
như ngựa ký... Rồi cuối cùng tôi đến với anh Bình con cụ Võ Liêm Sơn. Và cũng từ
đấy tôi ăn dầm nằm dề ở ngôi nhà cụ Võ ở trên dốc Bến Ngự, cạnh chùa Từ Đàm.
Nghe ông Võ Bình, con trai cụ Võ bảo: "Cứ chờ đấy, sẽ có chuyến đi".
Đi đâu nào biết! Hàng ngày tôi được cụ Võ nói cho nghe những chuyện "hài
đàm" của cụ; nhưng làm say lòng tôi nhất lúc bấy giờ là cuốn tiểu thuyết Cô
lâu mộng do cụ Võ viết... Cụ Võ có một cháu gái tên là Ngọ ở với cụ, cô ta
hồng hào, trắng trẻo, Ngọ không có cái duyên Huế, nhưng có cái mặn mòi xứ Nghệ.
Ngọ thẳng thắn, chân thành, cũng như tôi, Ngọ say đọc truyện Cô lâu mộng,
trong lúc tôi không hiểu hết ý nghĩa của ba chữ Cô lâu mộng thì Ngọ rất
thú vị và đồng tình với cụ Võ: Con gái có đẹp như tiên, rồi cuối cùng chỉ trơ
ra như một bộ xương người! Làm sao một nhà thơ tương lai là tôi có thể chấp nhận
một chân lý thô thiển như thế? Nhưng Ngọ cũng như tôi rất say mê cặp tình nhân
trong truyện, những lời "từ" của người thư sinh bất hạnh là Khái Sinh
trong truyện, nỗi đau thương đồng cảm làm cho tôi đổ bao nhiêu nước mắt, thì
cũng làm cho Ngọ khóc tấm tức bấy nhiêu... Nhất là trước những câu những chữ,
có lẽ cụ Võ cũng phải chuốt nhiều nước mắt mới sáng tạo nên được! Trong chiêm
bao có lẽ Ngọ và tôi gào lên những câu: "Trời khó hỏi, đất khó hỏi sự
thế đảo điên, kiếp người chìm nổi" hay "Thôi, thôi, thôi
thánh thần, thôi tiên Phật, thôi hào kiệt, thôi anh hùng: ngàn năm sự nghiệp nước
về đông...". Ai lòng nấy, nhưng chúng tôi đã gần gụi nhau đến mức nào bây
giờ tôi cũng không nhớ rõ, chỉ biết anh Võ Bình và những người bà con cụ Võ muốn
ghép Ngọ với tôi, hình như điều mà cả hai bên không không ai nghĩ tới. Lúc chia
tay, chúng tôi cứ nghĩ bình thường như mọi người, hôm qua biết nhau mai sau gặp
lại... Đến nay, tôi vẫn không biết Ngọ đi đâu, số phận ghép vào ai, chết hay sống
chốn nào. Có một điều an ủi tôi là mỗi khi tôi nhớ, tôi đọc câu thơ cụ Võ, tôi
tưởng như trong đó có nỗi niềm của cô gái chân thành xứ Nghệ: "Cùng mơ hão
cái đau buồn trong mơ", sao mà gắn bó đến thế!
Tôi từ giã Huế ra Hà Nội học tiếp. Tin xin vào trường Cao đẳng
tiểu học Nguyễn Du, một trường tư, giám đốc là ông Hoàng Cơ Nghị, một tri thức
Hà Nội lúc bấy giờ. Vợ ông ta là bà Esévérie... người Pháp, bà đang giảng về Cinna [a] chương trình lớp đệ tứ, tôi có thích
gì Corneille, tôi đang nghĩ đâu đâu, bà bắt tôi thuật lại, tôi không thuật được,
bà mắng tôi, từ đó, tôi chẳng thấy thú vị gì để ở lại cái trường học này...
Bấy giờ thầy tôi đã mất, các anh tôi làm ra nhiều tiền, sẵn
sàng nuôi tôi ăn học cho đến nơi đến chốn, mỗi môn tôi tìm học một thầy, tôi học
tiếng Pháp với bà giáo có tên là Ghê-jen-nếc. Bà dạy tôi theo cách của bà, tôi
làm theo cách của tôi. Ở thư viện Trung ương, đường Trường Thi, có một phòng
sau khá rộng để bảng chữ to "Văn học nước ngoài" (Littérature
Étrangère) tôi làm quen với Dostoievsky từ đấy, tôi chả hiểu gì lắm, nhưng
"Đốt" đã nắm tóc tôi. Một nhà thơ nữa, nhà thơ Ba Tư Omar Khayam,
người đồng thời của Pascal, một nhà khoa học đồng thời là một nhà thơ lớn, tác
giả 70 bài thơ ngắn nói về rượu, về người đàn bà... đã mê hoặc tôi. "Tất cả
hiểu biết của con người chỉ là những chữ rỗng không". Người đàn đẹp
ư? Omar Khayam gửi vào cuốn sổ nhỏ của tôi, vào hồn tôi, vào đời tôi
một tứ thơ kỳiệu:
Hàng tỷ, hàng tỷ năm mặt trời mọc ở phương Đông.
Hàng tỷ, hàng tỷ năm, mặt trời lặn ở phương Tây.
Hãy nhẹ bàn chân, nhẹ bàn chân với!
Dưới chân, người sẽ đạp phải, đạp phải hạt bụi của mắt người
đẹp nhất trần gian!
Và chính nhà khoa học, nhà tư tưởng lớn Pascal cũng lại bảo: Hãy
ngu xuẩn đi hỡi con người... Và cạn đi hỡi người... giọt nước thánh...
Thế đấy, một cái bánh mì to giòn nuôi tôi mỗi ngày và mỗi
ngày tôi gửi hồn tôi nơi thư viện...
Nhưng rồi tôi cũng không thể giam mình mãi nơi cái phòng giam
đẹp ấy, nơi những nhà thơ nhân loại đã cuốn hút cả tâm tư tôi, cả hồn phách
tôi. Nhà bà giáo Ghê-jen-nếc nơi tôi mỗi tuần tới trả bài và nghe giảng, bà cho
tôi ngồi học ở một căn phòng nhỏ, có một tủ sách. Dưới hầm nhà, học sinh trưa
chiều ngồi vào yên ổn, đọc sách hay làm bài. Tủ sách quá nghèo nàn, ngoài một
ít sách học khô khan, chẳng mang lại cho tôi một hào hứng nào, vì từ bao giờ
cha sinh mẹ đẻ cầm quyển sách trên tay, đâu phải để mài giũa một chút công
thành danh toại?
Nhưng tôi đã gặp ở đây, không phải chỉ những trang chữ mốc
meo, sặc mùi danh lợi, mà là bóng một người con gái... Không phải bóng người mà
là một gương mặt, một mái tóc, một đôi mắt!
Không biết Loan - tên người con gái - đến
đây làm gì? Sau, tôi mới hay là Loan theo một lớp tiếng Anh do bà giáo
Ghê-jen-nếc phụ trách...
Buổi đầu, hai ghế đối diện, cách nhau một cái mặt bàn không rộng...
Loan chỉ nghiêm túc cúi đầu vào trang sách, hay ít ra cũng làm ra vẻ chăm chú đọc
sách... Còn tôi, mắt không rời những trang sách "Những đêm trắng" của
Đốt vừa mượn được ở thư viện Trung ương.
Câu độc nhất Loan ngỏ với tôi là một câu hỏi: Anh chắc giỏi
Anh văn (ông hay anh tôi không nhớ đích). Tôi đáp: Vừa nhập môn... mong chị (chị
hay cô tôi không nhớ rõ) giúp đỡ. Tiếng nói của Loan cũng dễ mến, nhưng giá lặng
im, giá âm trầm "thiền định" thì Loan đáng yêu hơn nhiều... Nhưng
tình thế buộc thế - đối mặt mà lặng im - Tôi biết được nhà
Loan ở 59 phố Hàng Cót, bố có hai vợ, Loan là chị cả; Loan cũng biết gốc tích của
gia đình tôi; ông tôi họ hàng có người làm quan đến Thượng thư trong triều, có
người khoa bảng. Loan hay hỏi tôi về Huế. Cái điều làm Loan đôi chút suy tư là
sao tôi cứ đọc tiểu thuyết Nga, nhất là truyện Dostoievsky. Tôi nói với
Loan "Thằng ngốc" là ai, là gì, tôi không hiểu, nhưng tôi vẫn
thích, Loan sửng sốt, tôi kể với một giọng say sưa... chuyện thằng ngốc mà cũng
là một ông thánh.
Loan cũng biết tôi có viết một vài bài văn nhỏ, nửa như báo,
nửa như thơ, gửi đăng ở tạp chí nào đó... Những bài tôi ký bằng một biệt hiệu,
có vẻ hơi lố... "Tuyết Lư em". Sao không ký là "Em Tuyết"
hay là tên thật của tôi? Thêm chữ "Lư" có vẻ là để khoe với bạn, tôi
cũng có chút gì để làm cho người đời chú ý. Tôi đang ráo riết chuẩn bị thi tú
tài Pháp, mỗi lần viết thư cho các anh, tôi đều nói như thế, không nói thế làm
sao có tiền để mua sắm những bộ complet? Tôi nhớ lúc 17 tuổi, chụp một
"pô" ảnh tại một nhà ảnh người Trung Quốc, tôi ngắm mãi tôi, sao yêu
đôi mắt thật thà sáng trong của mình đến thế! Liệu cô Loan có yêu mình như mình
yêu mình không? Làm sao tôi có thể ngắm vào đôi mắt mình, gương mặt mình được...
Chỉ có thể ngắm ảnh trong gương thôi. Nhưng ảnh chụp và bóng trong gương đâu hẳn
là giống như mình ở ngoài.
Cái tiền đồ thi cử của tôi không gì hấp dẫn, may ra có một
chút tên lên báo để giới thiệu mình với đời... Có thể lúc bấy giờ tôi có chút hợm
mình đó chăng? Được có tên mình trên báo nhất là tờ báo Phụ nữ Thời đàm mà
chủ nhân là ông Nguyễn Văn Sá một nghị viên, một nhà giàu sang, là bố của hai
cô, chị là Xuyến, em là Vân đẹp nổi tiếng...[b] Có được tên dính trên tờ báo ấy,
cũng cho đó là một vinh dự?
Tất nhiên Loan cũng đọc những bài báo nhỏ ấy, lúc bấy giờ tủ
sách của bà Ghê-jen-nếc... không phải chỉ cun cút một bóng người, mà Loan đã
kéo nhiều bạn bè trong đó có Oanh. Loan không giới thiệu tên thật của tôi, mà thích
giới thiệu "Tuyết Lư em". Khi một mình với tôi trong hầm, Loan có lần
đã đùa, gọi tôi chỉ một chữ đuôi: Em.
− "Em" lấy giùm Loan quyển sách...
− "Em" rót giùm tách nước...
− "Em" xem sáng nay hoa hồng bà Ghê-jen-nếc nở
đẹp chưa?
Loan gọi một chữ Em ngọt xớt, mặc dù ít ra Loan cũng kém tôi
3 - 4 tuổi...
Một hôm tôi kể chuyện Năm đêm trắng [c] xong, Loan nhìn sững vào mắt tôi, và
đôi mắt Loan như chớp chớp...
− Đời buồn quá anh nhỉ! Anh nên tìm truyện vui mà đọc.
Loan hỏi thăm tôi về chuyện gia đình, và hay nhìn trộm tôi!
Không hiểu vì lý lẽ gì, mấy hôm nay, Loan không hỏi chuyện, đọc vài trang sách,
gấp lại, lại mở đọc...
Những lần tôi đi qua nhà Loan... không bao giờ thấy Loan ở tầng
dưới... Một hôm gặp Loan cùng mẹ lên chùa... Đầu vấn khăn nhung, trông Loan già
và nền nã hơn... Chuyện gì đã xảy ra, nỗi đau đã hiện đầy trên gương mặt! Giá
thấy tôi, chắc Loan sẽ không cầm được nước mắt!
Ba hôm sau, chờ mãi, đến hôm thứ tư Loan đến, tôi hỏi có chuyện
gì mà trông Loan buồn thế, Loan im lặng.
Hôm sau, Loan đến... Với một bức thư đặt vào giữa trang sách
tôi đang đọc, rồi về ngay...
Thế ra chúng tôi yêu nhau rồi ư? Nào biết Loan đau buồn chuyện
gì, nhưng cái đau buồn của Loan đã lây cả vào hồn tôi!
Bức thư chả dài lắm. Tôi đọc đi, đọc lại đến nát.
"Tuyết Lư em!"
Mở đầu Loan gọi tôi như một lời đùa thế! Lời đùa của mỗi
ngày... Nhưng bức thư thật thống thiết... "Loan có người em gái nhỏ 5 tuổi
không ngờ trở bệnh nhanh bác sĩ đến thì chậm mất rồi! Anh xem cuốn sách hình vẽ
trên bàn... mà chừ Sơn đã nằm dưới đất rồi, em không sao chợp mắt, suốt đêm trố
mắt nhìn bốn cọc màn, giá được khóc với anh!"
Tôi đọc đi rồi đọc lại, bức thư chỉ nói về cái chết đứa em
gái Loan, mà chẳng khác nào một bức thư tình da diết!
Mỗi lần ở "tủ sách" dưới căn hầm của bà giáo
Ghê-jen-nếc Loan như nán lại đến chậm, mỗi phút đợi chờ của tôi đã dài như một
buổi, một ngày; nghe tôi báo là sẽ nghỉ hè về Huế, Loan tỏ ra bồn chồn... Chúng
tôi đã nói đến sự chia ly, và gần như tạo ra cho mình một thứ sầu chia ly... để
mà buồn, mà nhớ...
Chương II
MÂY BỐN PHƯƠNG TRỜI
Ngày tôi trở về quê, càng đến gần, tôi càng buồn mà hình như
Loan cũng có một cái buồn nén đi. Loan hẹn ra tiễn tôi ở ga Hà Nội, lúc ấy tàu
tốc hành Hà Nội - Sài Gòn mở máy vào giờ hoàng hôn. Tôi đưa mắt trông
mãi, không thấy bóng Loan. Tôi đang thất vọng khi không phải Loan mà Hoan, người
bạn gái thân của Loan đến. Hoan cho biết Loan không đến được và ngỏ ý với tôi
là Hoan sẽ cùng đi với tôi đến Huế. Hoan vào tìm Thuần, người yêu của Hoan.
Hoan cho biết buộc phải bỏ nhà ra đi vì gia đình bắt ép Hoan lấy một người công
chức mà Hoan không quen... Đồ đạc quần áo, Hoan mang theo chỉ gồm một "cặp"
nhỏ, tiền bạc không có bao nhiêu. Tôi hỏi Hoan có nên đánh điện vào Huế cho Thuần
không? Hoan rưng rưng nước mắt, không đáp. Tôi bảo quê tôi ở Quảng Bình, tôi phải
xuống ga Ngân Sơn. Đến ga này, chẳng nói chẳng rằng Hoan cứ lẳng lặng xuống
theo tôi. Anh chị tôi ở bên sông. Một chiếc thuyền nhỏ đưa chúng tôi qua sông.
Nước sông phẳng lặng lạ lùng. Không chút sóng gợn. Mặt trời xuống nhanh sau
núi... Hoan nhìn tôi hỏi một câu bằng tiếng Pháp:
− Tôi yêu hoàng hôn. Anh có yêu không?
Tôi sửng sốt, cúi đầu không đáp... Về nhà anh chị, tôi ở lại
một hôm, tôi xin thêm tiền... rồi lại lên tàu, đưa Hoan vào Huế, tôi thuê cho
Hoan một cái phòng nhỏ và xin được về nhà bạn nghỉ... Hoan khóc bảo đất lạ, tôi
vất Hoan một mình ở một nhà hàng hay sao? Tôi buộc ở lại... Đêm, kê ghế nằm nghỉ
không sao ngủ được. Hoan cả đêm cũng không ngủ.
Sáng hôm sau, tôi ngồi viết mấy dòng cho Loan ở Hà Nội kể hết
sự việc xảy ra... Và tất nhiên tôi chân thành... nói nỗi lòng thương nhớ Loan,
đồng thời lại có ý trách Loan vô tình không lên ga tiễn tôi! Viết xong bỏ vào
phong bì không dán, tôi nói với Hoan: Viết thêm mấy chữ cho Loan đi!
Hoan có viết thêm gì không, tôi không rõ. Ý tôi chỉ mong Hoan
đọc được những lời tôi viết cho Loan, rõ được tấm lòng chung thủy của tôi đối với
Loan, có ý nhắc Hoan không nên đi quá giới hạn...
Nhớ câu hỏi: "Em yêu hoàng hôn, anh có yêu không?",
tôi vừa ngượng vừa giận. Lúc nào Hoan nhìn thẳng vào mắt tôi, tôi rất lúng
túng... Một tối, Hoan đòi tôi dẫn đi chơi núi. Tôi từ chối. Hoan mỉa tôi: Nhà
thơ gì, không yêu trăng? Cuối cùng rồi tôi cũng phải dẫn Hoan đi. Khi lên dốc,
Hoan ho, có khi ngồi xuống không bước tiếp được, tôi buộc đưa tay đỡ Hoan đi.
Những ngày ở Huế, tôi mong Thuần ở Quảng Trị đến gặp Hoan, nhưng vẫn không thấy
bóng Thuần, tôi buộc phải dẫn Hoan ra Quảng Trị tìm cho được Thuần. Ông Phủ
thân sinh ra Thuần tiếp chúng tôi quá lạnh nhạt. Thuần sợ bố, cũng không dám nhận
Hoan là người yêu của mình. Hôm chúng tôi trở về Huế, Thuần tránh mặt. Nhưng
Bình, anh của Thuần, đã dám trốn nhà đi theo chúng tôi. Bình là con vợ bé của
ông Phủ nên không được bố đối xử như Thuần. Anh bất chấp thái độ của ông bố và
của Thuần. Bình cũng là bạn của tôi, rất bất bình về thái độ của em mình, khi
trốn theo chúng tôi vào Huế trong túi anh không có một đồng xu... Bình nói với
Hoan: "Bố tôi không từ tôi, thì tôi cũng bỏ nhà". Cũng may, ở Huế
chúng tôi có một người bạn mở hiệu sách "Thắng Thiên" nhận Hoan và
Bình làm công cho mình, thế là tôi được "thoát thân" để trở về quê với
các anh chị tôi. Trong hai tháng hè, mỗi tuần tôi viết cho Loan một thư, có kèm
địa chỉ cho Loan trả lời. Nhưng tuyệt nhiên tôi không được một dòng nào từ Hà Nội.
Ở nông thôn vắng vẻ nên lòng càng suy nghĩ lan man, không hiểu chuyện gì đã xảy
đến cho Loan. Hết hè, tôi trở ra Hà Nội. Trong thư viện bà giáo Pháp, đã đành
không thấy Loan... mà mỗi lần đi qua nhà Loan vẫn không thấy bóng Loan ra vào.
Có lúc đứng thần người một góc phố. Viết thư này, tiếp thư khác vẫn không chút
hồi âm. Tôi nhớ có lần Loan đã nói với tôi là Loan có một người bạn học Luật,
người miền Trung, thường đến nhà chơi. Có lần tôi hỏi một câu hỏi vu vơ:
"Bao giờ thì xác pháo đỏ trước nhà". Loan cười…
Đến bây giờ thì một bức màn bí ẩn như trùm lên tôi từ đầu đến
chân. Tôi không hiểu ra sao cả! Có hôm, tôi ngồi ở một quán nước cách nhà Loan
độ mấy nhà, tôi hỏi ngươi chủ quán: Hè này, phố bà được nghe mấy lần pháo nổ?
Vô duyên! Tôi làm sao mà có thể dám mở miệng hỏi một câu vu vơ như thế?
Loan có một người bạn gái ở đường Sinh Từ tên là Hạnh. Tôi đến
thăm Hạnh. Hạnh thấy tôi, cười hỏi: "Anh giấu Hoan đâu rồi?". Trời sụp!
Tôi lúng túng không biết đáp thế nào… Nhưng câu hỏi của Hạnh cho tôi sức mạnh để
hỏi thẳng điều mình muốn biết. Hạnh, cô gái nhanh nhảu ấy như đọc hết cả lòng
tôi, đã mở miệng trước tôi: "Chim mới ra ràng, có người bắt mất rồi!".
Thấy tôi hoang mang, Hạnh đẩy thêm: "Loan vốn chúa ghét chuyện lăng
nhăng". Thương hại tôi, Hạnh nói thêm: "Ông cụ Loan hai vợ. Loan từng
than rằng: nhà mình chẳng được một ngày yên ổn hạnh phúc!".
Câu chuyện đến thế đủ cho tôi hiểu cả rồi, không cần đi sau
thêm nữa. Mỗi ngày một cái bánh mì, tôi lại ngồi ở thư viện Trung ương, từ trưa
cho đến 9 giờ tối… Về đến nhà, giở cái thư độc nhất ra đọc. Cứ thế, cho đến lúc
cái thư nát bẩn. Có lúc tôi khóc, có lúc tôi như điên lên được. Cuối cùng tôi bấm
vào thịt da mình, kiểm tra lời ăn tiếng nói của mình: quả mình vẫn sáng suốt mà
trái lại, tại sao cứ tưởng tượng như nàng đã tự ý đi vào một nhà điên hay một
nhà tù! Suốt ngày tay nàng nắm những song sắt, và qua song sắt nhìn ra ngoài… tìm
ai…
Không phải hôm nay tôi mới làm thơ, mà từ buổi mười lăm, mười
bảy tôi đã sáng tạo nên cả một chùm thơ mộng:
Xin rước cô em bước xuống thuyền
Thuyền tôi sắp trẩy chốn thần tiên.
Có lúc như cùng với người yêu cùng bay trong mộng. Từ trong mộng,
thuyền bay, sợ chóng mặt lại kêu "thả neo, cắm thuyền lại". Chưa bao
giờ tôi cầm một bàn tay đẹp nào mà tôi đã cứ tưởng tượng, mình có người yêu tên
là Vân, rồi thương, rồi nhớ!
Nhìn đám mây chiều lại nhớ Vân.
Hoặc khi ngồi trên bãi biển, trên cát lấy tay viết một chữ
"Vân" - chờ cho sóng biển tràn vào, xoá đi tên yêu, để rồi
ngồi thương khóc!!!
Có những gặp gỡ và chia ly trong mộng, rồi đến khi tỉnh mộng:
Ta mơ trong đời hay trong mộng
Vùng cúc bên ngoài động dưới sương.
Đó là vùng cúc động dưới sương, và đây là nỗi đau của ta liền
da thịt, nỗi đau của ta không phải là của ai khác:
Ta dí ngón tay vào mảnh kính
Giật mình quên hết cả đau thương.
Sự tác động trở lại quá bất ngờ, nỗi đau của tôi áp vào mảnh
kính - như một viên thuốc thần, làm cho nỗi đau chợt tan sạch.
Cái "sốc" kỳ diệu đầu tiên đó, tôi gọi là tình đầu.
Một thứ tình đối với tôi, nửa mơ nửa thật. Một thứ tình không chăn không gối,
chẳng hẹn bể thề non mà vẫn gọi là: Trăm năm chẳng bạc đầu.
Cái chuyện có thật đó sao thoáng qua như một giấc mơ. Và đâu
phải chỉ một lần mà tôi gọi là "tình đầu". Hà Nội - Huế rồi
Huế - Hà Nội, tôi coi như "môi trường" của cuộc đời mơ mộng
của tôi. Huế… trên hai bờ sông Hương, phượng vĩ đỏ chưa tàn… và tiếng ve rắng rỏi
suốt mùa. Bến đò Thừa Phủ phất phơ những màu áo tím nữ sinh trong những sớm, những
chiều… Một lần từ bên nội thành, tôi qua đò, rồi thẳng đến ga xe lửa. Tàu tốc
hành từ Sài Gòn ra đến Huế vào buổi sáng. Tôi sắp bước lên tàu, thì gặp Miên… một
người bạn quen nhau giữa Hà Nội, nói thân cũng được mà nói sơ cũng chả sai,
nhưng ít nhiều có cảm tình với nhau. Miên đưa một cô em gái lên tàu tốc hành đi
Hà Nội. Miên nói với em: "Nhà thơ đấy! Thế là Cúc có người cùng đi Hà Nội
rồi nhé". Miên quay lại nói với tôi: "Dọc đường giúp em một
chút", một giọng thân tình quá! Chúng tôi cùng lên tàu và ngồi bên nhau, cạnh
một cửa tàu.
Cúc có tiếng nói Huế đài các, có đôi mắt buồn, đồng thời là một
vị thiên thần có má lúm đồng tiền. Suốt đường dài chúng tôi chẳng có gì mà nói
với nhau nhiều, chỉ biết nhìn nhau thôi.
Khi đến Hà Nội, tôi thấy trên mặt Cúc đượm một chút lo… Tôi hỏi:
Cô về đâu, Cúc đáp: 18 Phạm Phú Thứ…
− Ở phía nào?
− Em chưa biết ở mô hết. Lần này lần đầu tiên em ra Hà Nội.
Cúc sợ muốn khóc lên, một cô bé mà! Tôi nói với mình: Thôi
tôi sẽ đưa cô đến tận nơi phố Phạm Phú Thứ.
Có ngờ đâu cái tên ấy đã thành chữ tên khắc vào lòng tôi suốt
một mùa đông. Tôi đưa Cúc lên tận gác, nơi có những người chị, người bạn của
Cúc đang ở. Rồi tôi chia tay với Cúc. Khi vừa xuống gác, ra đến đường thì gặp
Phạm Hầu, người bạn nhỏ của tôi lúc bấy giờ đang học ở trường Cao đẳng Mỹ thuật.
Tôi hỏi: Chú ở đâu?
Hầu chỉ lên một cái gác. Tôi theo Hầu lên gác ấy. Tôi mở cánh
cửa sổ, thì ra bên kia là phòng của Cúc. Tôi giật mình. Tôi nói với Hầu:
"Mình sẽ ở luôn với cậu được không?". Hầu đáp: "Có chi mà không
được! Ở đây, anh cùng ăn cơm tháng với em".
Tôi đặt va-li của tôi cạnh va-li của Hầu, và cẩn thận đóng lại
cánh cửa mà tôi vừa mở.
Ai chọn cho tôi cái cửa sổ này nhỉ? Tôi không thể nào tin
chính là tôi.
Thế là từ đấy, tôi cùng ở một phòng với Hầu, con người mà sau
này tôi gọi là "con nai nhỏ" của tôi… Hầu chỉ biết vẽ, đọc sách và
đôi khi làm thơ rụt rè: thơ cũng như người. Rồi chẳng bao lâu, Hầu như xoá mình
đi hẳn, tôi trở nên người chủ của căn phòng này. Cúc học ở trường Thăng Long,
cùng học với Cúc có chị Hoạt sau này là phu nhân của một vị Đại sứ nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở Liên bang Xô Viết, có chị Thân Trọng Quế cũng
người Huế và là vợ của một bác sĩ y khoa.
Rõ ràng, Cúc đã biết tôi ở bên phòng này bởi lần đầu, khi tôi
mở cửa ra thì đã thấy cửa bên kia rõ ràng là Cúc, cô em nhỏ trên tàu, và bên
này cửa rõ ràng cũng là tôi, người anh "dẫn đường" nàng, trong gần một
ngày… Cặp mắt Cúc mở to, nhìn vào mắt tôi rồi mỉm cười.
Lúc ấy, sau này, thật lạ lùng là mỗi lần khi tôi bất thần mở
cửa sổ, y rằng tôi lại thấy Cúc: khi thì đang ngồi đọc sách ôn bài, khi thì
đang rứt một cánh hoa trên bàn. Có khi Cúc chẳng làm gì, ngồi suy tư hay mơ mộng.
Lại có khi ở trường về, tôi chợt nghe một tiếng ho nhẹ. Tôi nhẹ nhàng mở hé một
cánh cửa. Không phải chúng tôi chào nhau mà nhìn nhau một lát, rồi cúi đầu, e
thẹn. Thường thì Cúc không để cho cái phút nhìn nhau đó được kéo dài. Cúc vụt đứng
lên, rời cửa sổ kèm thêm một tiếng thở dài có vẻ như bực dọc. Tôi nhớ có lần,
khi tôi mở cửa sổ, Cúc không ngước lên nhìn tôi, rồi cứ thế, cho đến lúc cánh cửa
sổ như tự nó lại khép lại. Dầu tôi có viết đoạn "tình sử" này đến một
vài trăm trang, thì cũng bấy nhiêu việc lặp đi lặp lại… Cũng chả có điều gì khác:
Cửa sổ mở rồi lại đóng, đóng rồi lại mở. Thế mà cái nhìn, cái trông, cái đợi đã
thấm vào ruột gan từ ngày nào rồi. Một mùa đông đã trôi qua. Làm sao tôi nhớ được
biết bao lần Cúc đã vào trong giấc mơ của tôi. Nhớ sao hết được những tiếng ho.
Ấy thế mà lại kêu gào lên như giữa một ngàn trùng xa cách:
Em là dải Ngân Hà
Anh là chim Ô Thước
Sẽ bắc cầu nguyện ước
Một đêm một lần qua
Cái gì đã xảy ra vậy? Với cũng chẳng muốn với tới, lui cũng
chẳng thể lui cho. Và qua mấy mùa đông, từ hai đầu dây cũng chỉ còn một kết luận:
Em chỉ là người em gái thôi!
Người em sầu mộng của muôn đời
Tình em như tuyết giăng đầu núi
Vằng vặc muôn thu nét tuyệt vời!
Cúc lại mỗi sáng cắp sách tới trường, ở trường về, ném qua
tôi một cái nhìn đầy sóng gió, có phần như trách giận tôi nhiều lắm. Tất cả tội
lỗi đổ cho tôi hết. Tôi lấy gương nhỏ soi mặt nhìn đôi mắt mình… Vẫn mình đó,
hiền khô. Nếu Phạm Hầu là con nai nhỏ của tôi, thì bây giờ tôi cũng chỉ là con
nai lớn của Phạm Hầu. Tôi nhớ tấm ảnh 17 tuổi của tôi chụp ở Khải Xương… sao mà
vô tội đến thế. Tôi mà làm nên tội cho ai được? Tôi làm bài thơ "Một
mùa đông", chuyện người trong mộng ảo rồi cuối cùng có nỗi đau thật,
có giọt nước mắt thật, nước mắt người!
Quả nỗi buồn đã đến, và có phải, cái buồn đã dẫn tới cái giận?
Dẫu sao tôi cũng đã tìm lời biện hộ cho mình:
Ai bảo em là giai nhân
Cho đời anh đau khổ?
Ai bảo em ngồi bên cửa sổ
Lý lẽ đến buồn cười! Làm giai nhân là một cái tội ư? Lý lẽ
còn buồn cười hơn nữa, ngồi bên cửa sổ cũng có thể là một cái tội? Nếu cửa sổ
tôi không mở thì đâu có chuyện thi nhân! Trong Chartreuse de Parme (a) sau này tôi có đọc, tôi thấy giữa
cửa sổ, qua vách có đục, có khoét và có giăng giây giữa anh chàng và chị chàng,
nếu có tội, thì tự ý hai người đã làm nên tội. Còn tình yêu ở đây, có cơ sở lý
luận riêng của mình.
Khi tôi viết:
Anh sẽ theo cánh gió chơi vơi
hoặc:
Anh là mây bốn phương trời.
Thì tôi không phải là mây gió giữa trời nên cuối cùng, đành lấy
tuyết trong mà phủ cho người em gái! Đó là tất cả nguyện ước thật sự của người
ghé chân bên cửa sổ một chiều đông. Mộng và đời là hai sợi chỉ ngang dọc trên
khung cửi. Đời đẻ ra mộng và mộng lại dệt nên đời. Thái Can vừa là một bác sĩ y
khoa vừa là một bạn thơ của tôi. Can cũng là bạn của bác sĩ Cẩm Chương chồng chị
Thân Trọng Quế. Có phải là do hai anh bàn với nhau hay chỉ là một sự ngẫu nhiên
nên có một cuộc đi chơi ở chùa Thầy để rồi kết thúc lạnh lùng một câu chuyện
cũng được gọi là một câu chuyện tình. Khi ấy đến giờ đã hẹn, chúng tôi tập
trung ở chùa Thầy. Từng cặp, từng cặp xuống hang. Tôi thấy Cúc chả đi với ai.
Tôi cũng không biết theo ai. Rồi tôi cũng ngẩn ngơ đi bên Cúc. Đường xuống hang,
trên từng mô đá gập ghềnh mà chúng tôi tưởng như đạp trên mây; tránh mọi sự đụng
chạm vào nhau. Đến trưa chúng tôi mới trở về sân chùa. Chúng tôi trải giấy nhật
trình, bày bữa ăn trưa. Có ít gà quay và vài chai rượu vang Pháp. Thấy tôi uống,
Cúc cũng bắt chước đưa cốc rượu chạm vào môi. Người em gái tuyệt vời khi trên
đôi môi nhuốm màu nho tươi và hồng đôi má, rồi để rơi trên trán vài sợi tóc cô
đơn vô tình tạo thành một hình tượng nghệ thuật khó phai. Cúc nhìn tôi với nước
mắt khẽ rơi, có phải một cơn gió giận đã gieo những giọt lệ vào trong khoé mắt
nàng? Cuối cùng từ trong lòng như có một lời cảnh báo:
Anh muốn van em đừng uống nữa
Lệ buồn sẽ nhỏ trong đêm nay
Tôi có cảm giác như bị dồn ép vào một tình cảm nghẹt thở. Năm
1973, 1974 gì đó, Cúc ở Paris về Hà Nội. Người em gái bé bỏng ngây thơ hôm nào
đã là bà Điềm Phùng Thị, bỏ cả nghề y (bà là một bác sĩ nha khoa) trở nên một
nhà điêu khắc nổi tiếng… Trong bài tựa một cuốn sách nhỏ, bà đã nói nguồn gốc
nghệ thuật của bà. Bà kể lại như một đứa trẻ: "Tôi thăm một người bạn, thấy
đất ướt, bạ đâu tôi vất đấy. Thờ ơ tôi vất đất xuống bộc cửa sổ, đất lấy hình,
đất thành cái này, cái nọ, con này, con nọ"… Những bài thơ thủa nhỏ của
tôi, nói cho cùng, cũng thế thôi: Một chút hồn mộng vất chỗ này một chút, vất chỗ
kia một chút, nó thành hình gì thì nó là cái ấy. Hôm ấy, Hội nhà văn mở tiệc mừng
các tri thức, nghệ sĩ ở nước ngoài về, trong đó có bà Điềm Phùng Thị và hoạ sĩ
Mai Trung Thứ là người đã say vẽ một bức chân dung lúc 17 tuổi của Mừng, - nhân
vật chính của cuốn Hồi tưởng tình yêu này của tôi. Bức chân dung ấy
theo kháng chiến đã tan nát đâu rồi bên những đèo suối nào? Còn Điềm Phùng Thị
tức Cúc là đối tượng của một bài thơ của tôi.
Hôm ấy Nguyễn Tuân dắt Cúc lại ngồi một bàn với tôi và vợ tôi
là Mừng. Tuân cười xì xì: "Đây rồi, đối mặt ngâm gì thì ngâm đi!". Tất
cả chúng tôi cùng cười với nhau vui vẻ, tưởng như cuộc sống, chẳng có điều gì xảy
ra, có khi thật mà như đùa vậy.
Trong đời, có được một câu thơ nào, hình như đều do cuộc đời
gợi ý cho. Tuy vậy, cũng có những bài thơ đôi khi một mình ngâm lại vẫn không
biết từ đâu tới.
Với bài thơ: Khi thu rụng lá, nào có biết mình nhớ
ai, mình thương, mình mong, mình đợi ai? Có thể người chẳng bao giờ gặp, có thể
người đã đi qua như một cái bóng nghiêng nghiêng không nhìn rõ. Cũng có thể lướt
qua, rồi mất hẳn… Bài thơ này không phải là một bài thơ hay của tôi, và chẳng
có vẻ gì sáng tạo rõ nét. Nhưng sao tôi yêu đến thế, khi chỉ một mình, tôi thường
ngâm:
Cười chim cợt gió nào ai biết
Chua chát lòng anh biết mấy tình
Từ trong man mát hư không mà bị chích, bị châm, bị xé, lấy
cái đau xót làm cái đau xót của mình, như một tín đồ lấy đó làm hạnh phúc trời
cho, được triền miên sống trong hạnh phúc yêu thương mãi mãi.
Ngày tháng anh mong chầm chậm lại!
Hững hờ em mặc tháng ngày qua…
Yêu thuần chất, mộng thuần chất, đẻ ra thơ thuần chất… Sẽ đẩy
lui những ý xấu, đắp thêm mộng đẹp cho tâm hồn.
Trong thơ có thu lạnh, có hè ấm để rồi chờ cho đông đến, một
cách đột ngột cướp đi cái bóng yêu vất trả cho nhà chồng…
Mùa đông đến ở bên sông
Vội vã cô em đi lấy chồng…
Em có biết chăng? Ngày hạ thắm!
Tình anh lưu luyến một bên lòng?
Tuổi thơ của tôi thật là tuổi mộng, - đến lúc xin
giơ tay cao: Chào bạn nhé! Vĩnh biệt chào bạn thì anh bạn nhỏ ơi,
tình duyên đâu còn là chuyện đùa bỡn được, nếu khi trong cuộc đời mình một con
người thật đã đến, trên mái tóc thật sự chia sẻ với mình từng nỗi đắng cay.
Sau khi rời nơi có hai khung cửa sổ đầy kỷ niệm, tôi về ở với
hai người bạn mới là Thái Can và Lê Trọng Huyến ở phố Ngọc Hà, Hà Nội. Lê Trọng
Huyến, em nhà học giả Lê Thương, học đâu nhớ đấy, "nói tiếng tây như
gió", nhưng mấy lần đi thi "Bắc một" [b] không thấy khoe đỗ. Huyến là một người
lạc quan lạ lùng, lúc nào cũng đùa giỡn, và muối cà Nghệ rất ngon. Giữa một
ngày hè Hà Nội, Huyến nói cho tôi biết một "cô gái Huế" sắp đến thăm
tôi… Cũng không hiểu sao, Huyến lại bảo cô ấy được coi là cô gái Huế? Và cũng
không hiểu sao Huyến dám quyết đoán là khách của tôi.
Người con gái đó là Thanh Thủy, mặc một áo dài trắng và che một
cái ô màu. Thanh Thủy quê ở Hội An, một lần ra Huế, có gặp tôi, cùng với vài
người bạn, chúng tôi đã đi chơi hồ Tịnh Tâm. Đi chơi một vòng quanh hồ, nghe tiếng
chim trên đầu, hai người không nói với nhau một lời. Lúc chia tay, Tài (tên thật
của người con gái) hỏi tôi: Sao anh làm thơ nói chuyện đâu đâu, lại ký tên
"Thanh Thủy", lại dám đăng báo? Tôi cười không biết thế nào mà trả lời...
Tài cũng cười một cách độ lượng, Thanh Thủy cũng hỏi tôi có trở ra Hà Nội
không. Tôi bảo là có. Tôi gửi địa chỉ. Quả, Tài ra Hà Nội thật và tìm đến tôi.
Tài có người anh ở Hà Nội, và Tài ra Hà Nội lần này để quảng cáo cho dầu
"Thanh Thủy" của mình. Nguyên có người quen cũng đã tìm hiểu cách chế
tinh dầu tràm, Tài cũng hùn vốn sản xuất dầu và tung ra thị trường. Tôi cũng chẳng
hiểu gì lắm về sự kinh doanh của Tài. Chỉ biết hôm đi hội chợ ở Đấu Xảo (nay là
cung văn hóa hữu nghị Việt-Xô) chúng tôi cùng đi bên nhau. Bọn trai Hà Nội
tung "xéc-păng-tanh" [c] lên đầu Tài. Tài chỉ nhìn mọi người
một cách độ lượng. Khi Tài ở Hà Nội, ngày nào chúng tôi cũng đi chơi với nhau.
Có lần, tôi đưa cho Tài xem mấy bài thơ mới làm của tôi. Tài đọc một cách thích
thú. Lúc chia tay, chúng tôi cũng chẳng gửi trao một điều gì cụ thể. Tôi bảo, Tết
này, tôi về ăn Tết ở làng. Và tôi lại gửi lại nàng cái địa chỉ của tôi.
Tết tôi về làng. Lệ làng tôi sáng mồng một Tết có lễ "cướp
cù". Làng chia ra hai giáp. Giáp trên cướp về phía trên. Giáp dưới cướp về
phía dưới. Tôi không hiểu động lực gì làm cho người làng say mê hăng hái đến thế?
Có thể nói hàng trăm, hàng trăm người, già có trẻ có, lao vào tranh nhau một
hòn cù to bằng gốc chuối sứ. Nếu có những thanh niên nào, mặc áo sạch sẽ đứng
ngoài xem, tức thì có những ông già và những cô gái trẻ ném bùn vào áo mới của
người thanh niên đó buộc họ nhảy vào cuộc... Có người dũng cảm bám theo hòn cù,
lưng thịt bị nát nhừ, có khi bị đứt tóc, rách mặt mà vẫn ôm níu lấy cù. Là con
quan, thư sinh, tôi cũng không thể đứng ngoài nhìn. Tôi đã xông vào, đến lúc
chiều tối, "thanh la" đã xổ ba hồi, báo kết quả được thua, thì mọi
người mới ra về... Tôi cũng như mọi người, mặt mũi bết bùn, áo quần rách nát.
Tôi nằm chết một nơi trên ổ rơm, không nói được, không đi được, không thở được.
Bỗng em gái tôi chạy lại, một tay cầm một phong thư, một tay lấy nước xối vào mặt
tôi cho tỉnh rồi nói: "Thư anh đây". Tôi xé phong bì, chao ôi, Thanh
Thủy - tóc búi, áo hoa, một kiểu ngồi gần Sài Gòn hơn Huế... càng xa
Bắc. Người còn dính bùn, tôi trố mắt nhìn ảnh nàng rồi tôi ôm vào ngực!
Sau ảnh, kèm mấy chữ: "Chưa đi đâu, mời anh vào nhà chơi
một chuyến. Nhà số 4, đường Nhật Bản, Faifoo".
Vâng! Một tấm ảnh, chưa hẳn là một người thật, nhưng không
còn là ảo mộng!
Mùa hè, tôi đi vào Faifoo [d] của Tài, gia đình Tài
vui vẻ, chân thành tiếp đón tôi. Lần đầu tôi gặp người anh cả của Tài - một
"trợ giáo" có tên trong "sổ đen" đang bị mật thám theo dõi.
Và tôi được gặp người chị gái của Tài là dâu cụ Nguyễn Hiệu, một lãnh tụ của
phong trào Cần Vương, một nhà khoa bảng lớn, đã bị Pháp mang chém ở An Hòa. Tài
có một người bạn tên là Hạnh - một người con gái rất vui, xinh, cười
nhiều hơn nói... Faifoo là một thị xã cổ kính đầy màu sắc Á đông... Thế rồi tại
cái thương cảng cổ xưa ấy tôi và Tài quyết định sống với nhau... Nhà gái yêu cầu
điều kiện thủ tục gì tôi cũng chấp nhận. Trong đám cưới, tôi cũng chịu mặc áo gấm,
đội khăn xếp và lạy bao nhiêu lạy trước ông bà tổ tiên. Cưới được ít lâu, chúng
tôi về Quảng Bình. Chúng tôi có một ngôi nhà nhỏ ở bên sông Gianh, sớm leo núi,
chiều bơi thuyền. Những lúc rảnh, tôi viết. Trong bài Túp lều cỏ tôi
khoe rằng tôi giàu hơn ông Thạch Sùng ngày xưa. Sự sáng tác từ đây cực kỳ phong
phú. Tôi làm thơ, tôi viết tiểu thuyết, viết cả lý luận. Ở núi Ngân Sơn quá hẻo
lánh, sống thanh đạm, khi tiền vốn cạn dần, chúng tôi dọn vào Huế, để mở rộng
xã giao hơn, và để tìm đường sinh sống. Tôi gặp lại Hoài Thanh lúc ấy đang ở Huế
làm một công việc rất khiêm tốn: sửa "mo-rát" cho nhà in Đắc Lập, một
nhà in ở Huế. Ông Cao Xuân Huy, con cụ Cao Xuân Dục, một trung thần triều đình,
chính là giám đốc nhà in này. Những tiểu thuyết và thơ tôi đã viết ở núi Ngân
Sơn tôi đưa cho Hoài Thanh xem. Không ngờ truyện Người sơn nhân lại
gây một ấn tượng mạnh ở Hoài Thanh. Hoài Thanh liền trao cho Cao Xuân Huy, một
người vốn tốt nghiệp cao đẳng sư phạm đồng thời là người đang say Trang-Lão.
Ông Huy viết một bức thư cho Hoài Thanh khẳng định đây là một sự sáng tạo mãnh
liệt, lấy tư cách giám đốc, ông Huy sẽ đứng ra bảo lãnh cho quyển sách được in
chịu ở nhà in Đắc Lập. Thế là "Ngân Sơn tùng thư" ra đời và Người
sơn nhân được xuất bản. Cả thơ lẫn truyện ngắn của tôi được tập hợp in
sách đều do Hoài Thanh giới thiệu. Tập truyện ngắn đã được nhiều báo Tây, ta,
lúc bấy giờ hết sức chú ý, nhất là bài phê bình của cụ Phan Khôi [a] đã đưa cuốn truyện của tôi lên tận
mây xanh! Ông Phan Khôi cho rằng văn đoàn đến nay chưa có một tác phẩm nào có
giá trị sáng tạo như thế! Được những lời khen tôi đâm ra hoang mang. Nhưng từ đấy,
tôi cảm thấy con đường văn chương đã rộng mở trước mắt tôi. Cùng lúc ấy những
bài "thơ mới" của tôi cũng đã bước đầu làm xôn xao dư luận. Một hôm
anh bạn Bửu Tuất hiện đang cộng tác với một hãng tiết kiệm lớn của Pháp, ngỏ lời
mời gia đình tôi ra Hà Nội, nơi có một môi trường hoạt động lớn rộng hơn. Như
con chim lông cánh chưa đầy đủ, vừa mới ra ràng chúng tôi đã dám vỗ cánh bay một
mạch ra khỏi tổ ấm.
"Ngân Sơn tùng thư" đã chết yểu nhưng tiếng tăm của
tôi xa gần có người biết tới. Rời Huế chúng tôi kéo cả một tổ ấm treo vào Hà Nội,
không hay gì số phận một chiếc thuyền nan bé nhỏ giữa ngàn sóng đại dương. Hà Nội,
với chúng tôi, là cả một thế giới lạ lùng, nhiều ánh sáng mà đầy bóng tối.
Thích ứng được với dòng nước mới này, con cá cũng phải trầy da tróc vẩy bao
phen... Có lần chúng tôi như ở một địa ngục. Ở trong cái địa ngục ấy, đôi khi
chúng tôi cũng tìm được một dòng Ngân Sơn trong vắt. Giữa Hà Nội, đôi khi chúng
tôi cũng được thấy ánh trăng xanh. Giữa cuộc sống vẩn đục bị đau quật từ bốn phía,
tôi vẫn đi tìm lại những dòng thơ trong sáng nhất:
Còn đâu ánh trăng vàng
Mơ bên làn tóc rối
Chân nâng trên đường sỏi
Hoa lá đổ rộn ràng
Trăng nội vẫn mơ màng
Trên những vòng tóc rối
Đêm ấy xuân vừa sang
Em vừa hai mươi tuổi....
Chương III
TỪ TRONG NỖI ĐAU SINH NỞ
Nói về chuyến đò, chuyến tàu, cũng là một cách nói... Nhưng
cũng có một cách nói khác: một chuyện đau qua, lại nảy ra giữa đời một nỗi đau
mới. Cuộc đời đang "chuyển bụng". Cuộc đời bao giờ chả thế: mãi mãi
chuyển bụng... đẻ ra những đứa con "sinh đôi" đứa tốt, đứa xấu... Khi
chúng nó nhắm mắt ngủ, nhìn thấy đứa nào cũng đẹp, cũng lành, cũng thánh thiện...
Nhưng khi chúng nó tỉnh dậy mỗi đứa đi một đường, đời tôi cũng mang dấu vết của
nhiều đau thương!
Từ Hà Nội ghé về làng, nơi tôi có cái "đụng chạm thiêng
liêng" mà tôi sẽ kể ở chương sau, tôi lại trở ra Hà Nội, lại để làm thơ,
làm văn, làm báo. Tôi đã đụng vào cặn bã của xã hội. Không phải những cặn bã ở
dưới đáy trồi lên, mà từ trên mặt lắng xuống, những cặn bã của tầng lớp
"buôn người mới", buôn văn chương, buôn đạo lý, buôn "thế thái
nhân tình", - giới tôi tiếp xúc nhiều là giới xuất bản, giới
buôn văn!
Cũng có những nhà xuất bản tốt, và những nhà xuất bản xấu. Có
những người thật lòng giúp đỡ gia đình tôi, nhưng cũng có những kẻ biết che
nanh, giấu móng... đón tôi với nụ cười hồ đồ khó hiểu, có người khoác áo
"Mạnh Thường Quân". Chả là lúc bấy giờ sau khi ở Huế tôi cho xuất bản
" Ngân Sơn tùng thư" và bộ ba truyện ngắn của tôi, đã làm
cho cụ Phan Khôi và nhiều nhà phê bình trên báo chí chữ Việt và chữ Pháp khen
ngợi, nhất là khi anh Nhất Linh đã cho in những bài "Phi lộ" của tôi
về "Thơ mới" (kèm theo những bài thơ mới của tôi) trên báo Ngày
nay, thì rõ ràng tôi có một cái tên và bắt đầu tôi trở nên một "món
hàng". Tôi đã gặp nhiều người tìm tôi để mua lúa non! (Mua lúa khi mới trổ
đòng đòng). Có người đưa cho tôi ba trăm đồng Đông Dương, họ nói: "Gia
đình cần mua sắm... ông cầm lấy chút đỉnh...", tôi đã cầm lấy như cả niềm
hạnh phúc bất ngờ trời cho, họ chẳng đòi ở tôi một trang bản thảo nào cả... Họ
nói thêm: "Khi hứng ông viết vài câu để lại cho đời". Với ba trăm đồng
tiền trên, cả gia đình tôi cũng sống tàm tạm một năm!
Những đồng tiền "cố nông" như sau này tôi thường
nói, - "cố nông" là hạng người ở nhà mặc dù rách nát nhưng
khi ra chợ thấy con cá chép, con cá tràu béo là chìa tiền mua luôn... Những tên
địa chủ, phú nông trố mắt nhìn... Cái nhà anh "cố nông" coi đời không
có ngày mai...
"Đời buồn lắm mày ơi!" - Có những nhà văn,
nhà thơ rủ nhau đi đến tiệm ăn, tiệm hút bằng một câu kêu ca như thế. Và những
đêm mưa to gió lớn chúng tôi lại rủ nhau xuống xóm "chị em" nhìn những
bàn tay gọt táo và nghe những khúc "Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách...".
Những tên buôn, khi chúng đánh hơi thấy "đồng tiền nhà
văn", sắp "đội nón ra đi", cái đói, cái thiếu, cái túng đã ngấp
nghé bên ngoài cửa sổ, ấy là lúc bắt đầu "thời kỳ những hợp đồng", - những
hợp đồng "tiền chao cháo múc", rồi những hợp đồng giữa sự túng bấn...
Đồng tiền giữa con người và ma quỷ! Thời kỳ những "hợp đồng nghiệt
ngã!"... Bên những bài thơ trong sạch là một Khói lam chiều, Con voi
già của vua Hàm Nghi, Cầu sương điếm cỏ, v.v... lương tâm nhà văn đã qua
những bước chán chường, mệt mỏi... Tôi sẵn sàng viết những tiểu thuyết để làm
vui lòng những tiểu thư, những "bà lớn", những cô gái tân thời...
Lúc đó, ở châu Âu, những đội quân phát xít Hít-le đã rầm rập
giậm chân trên những biên thuỳ quốc gia lớn bé... Ở Hà Nội quân phát xít Nhật
đã đến. Những ngọn đèn dọc phố đã bị che lại. Tôi được người ta yêu cầu dịch những
tài liệu chiến tranh, nói về chiến tuyến Ma-gi-nô của Pháp, Xi-éo-rép của Đức
Quốc xã. Tiền người ta đưa đã lấy tiêu mà ngòi bút của mình thì cứ chần chờ...
Không nộp những trang bản thảo đúng kỳ, tôi suýt bị kiện, bị tống vào nhà giam,
nếu không có sự giúp đỡ kịp thời của các nhà báo, nhà văn, của các "Mạnh
Thường Quân" già trẻ...
Cả người vợ của tôi lúc bấy giờ cũng không nỡ nhìn tôi loanh
quanh với sự bất lực. Nhờ bạn bè giúp, chúng tôi đã mở cửa hàng ở phố Hàng
Bông, làm đại lý một hãng bán các loại phấn son của Pháp, của Mỹ. Chả sành nghề,
vợ tôi đã thất bại, cũng như tôi đã thất bại... trong cái trò văn chương rẻ tiền
làm vừa lòng các cô gái tân thời... Là nhà văn nhà thơ, chúng tôi không phải
lúc nào cũng cao khiết.
Nhưng những ngày tháng tiếp theo, hết chuyển nhà từ phố này
qua phố khác, từ phố Huế đến Ngã Tư Sở, cam chịu nghèo thiếu mà không dễ dàng tự
túc. Chúng tôi đã làm người khách quen dễ sợ của chú "khách" trọc đầu
ngồi "ghi-sê" nhà "cầm đồ" ở phố Hàng Chiếu.
Lạy Chúa, những ngày giờ khốn cùng ấy, tôi vẫn tiếp tục nhìn
những ánh sao lạc vào cửa sổ và làm những bài thơ, không phải để cầm để bán cho
ai, mà là những bài thơ làm đẹp lòng người...
Thủa ấy, những bài thơ của Xuân Diệu đã làm náo động các ký
túc xá nam nữ. Xuân Diệu phải làm còm-mi Đoan,[a] Vũ Hoàng Chương làm thanh tra xe lửa,
những cái mặt công chức cao cấp đó không phải dễ dàng thêm son phấn cho thơ
mình, mà thơ tự nó là "vàng mười" của cuộc sống, chỉ có thơ thật là
thơ mới đội mũ vinh quang cho nhà thơ!
Sau này, Mừng kể lại với tôi: "Có lúc em ước mơ một điều
tưởng như quái gở thế mà em vẫn tâm niệm: được đi khắp thế giới, được gặp các
nhà thơ, những đứa con "cưng" của Thượng đế, được nhìn, được thưởng
thức những câu những chữ, mà người thường chưa bao giờ thốt ra! Chính đó là
vàng ngọc, thời gian không gì làm hoen rỉ được".
Vì tình yêu đất nước, tình yêu thiêng liêng của con đối với
cha mẹ, tình yêu vợ chồng, tình yêu hoa cỏ trăng sao, v.v... ta đã phong cho họ
hai chữ "nhà thơ".
Vì cái ảo vọng đó, những cô gái nghèo cũng như những tiểu
thư, dầu cách ly trăm tầng cửa khóa vẫn tìm. Họ bắt gặp chút hương nồng của mơ
mộng, của tình yêu...
Họ cũng không biết rằng: có lúc chúng tôi, những nhà thơ giữa
đêm rét, không có một thanh củi để sưởi, phải gom góp đốt những tờ báo, những tờ
nhật trình. Nếu biết những điều này, họ sẽ cảm thông hơn!
Không phải chỉ có những cô gái khuê các mà cả những chị em bất
hạnh ở trên đời cũng muốn gắn mình vào thơ! Đặc biệt với những người bất hạnh
này, chúng tôi đã thành một đội ngũ sống bên lề xã hội, những người "cùng
một kiếp bên trời lận đận", cùng hội cùng thuyền, chúng tôi những nhà văn,
nhà thơ là con "cưng" của họ. Nguyễn Tuân là "ông hoàng" của
chị em! Họ cũng biết chia những đau buồn của chúng tôi, có người trong bọn họ
đã nói với chúng tôi: "Nào chỉ phải các anh, chúng em cũng chọn nhầm thế kỷ".
Ấy thế mà trong những ngày túng thiếu của chúng tôi, có một người đàn ông đến
tìm tôi tận trên gác xép của Ngã Tư Sở nói: "Thơ văn như thế đã đủ, ông
nên chuyển qua một bước ngoặt mới". Bề ngoài ông ta có vẻ trí thức...
nhưng cặp mắt rất sắc, nhanh, thạo làm "áp-phe" trong cái xã hội mới
lúc bấy giờ... Hình như trước khi anh Long (tên người đàn ông ấy) đến gặp tôi,
anh đã điều tra kỹ cuộc sống của tôi ở Hà Nội. Anh tự giới thiệu anh là hiệu
trưởng một trường tiểu học, trường "đạo" của giáo phận Thanh Hóa. Anh
mời tôi vào dạy học ở trường ấy, anh hứa với tôi, là anh bảo đảm cho gia đình
tôi cuộc sống đầy đủ về vật chất, ổn định về tinh thần. Anh lại bảo: "Tuổi
ông không có quyền làm khổ vợ con và đầy đọa thân xác ông nữa...".
Anh lại còn cho tôi biết: Ở Thanh Hóa nhà Chung sẽ mở một trường
Cao đẳng tiểu học, anh sẽ làm hiệu trưởng trường tương lai ấy... anh sẽ gặp Đức
cha Đơ-cơ-man, mọi sự sẽ trôi chảy. Anh Long nói: "Đức cha mà biết có một
nhà thơ như ông sẽ cộng tác với tôi, ngài sẽ rất vui lòng". Thì ra thế,
nhưng ở một trường đạo tôi sẽ dạy gì? Tôi sực nhớ lại sau khi bị đuổi học khỏi
trường Quốc học Huế... tôi đến xin học ở trường Pellerin, một trường đạo và học
được đúng ba tuần thì tôi tếch... Tôi nhớ, cứ đến giờ toán, thầy giáo vừa đọc
xong bài ra, thì độ vài phút sau là ông lấy thước gõ, gõ liên hồi... Thế là học
trò đạp nhau đi nộp bài ngay, còn tôi vẫn ngậm bút, chưa viết được một chữ; tôi
nghĩ: chịu thôi! Suốt ba tuần, đêm nào, ngày nào cũng đọc kinh, luôn luôn chỉ
vào trái tim mình mà thú tội: "Tội của tôi, tội của tôi, tội lớn của
tôi; Péché, Péché o mon grand Péché". Tôi lại nghĩ: Chết thôi,
ngày nào cũng đẻ ra tội mà xưng, người ta bắt tôi xưng tội tổ tông... mà tôi chẳng
hiểu tổ tông là gì? Tôi nghĩ: Tội của tổ tông thì tổ tông xưng, sao lại bắt tôi
xưng? Lại lúc bấy giờ tôi bị đuổi khỏi trường Quốc học Huế, mà tôi là học sinh
được "học bổng", người ta tung tin nhà trường bắt tôi trả lại hết học
bổng mà tôi đã nhận, tôi hoảng... Nhân lúc thầy tôi ốm, rồi thầy tôi mất, tôi
liền tếch ra Hà Nội.
Hôm nay anh Long làm tôi hồi tưởng lại những tiếng thước gõ ở
trường Pellerin. Tôi mỉm cười nói với anh: "Chịu thôi". Nào anh có hiểu
được... tôi "chịu thôi" là chịu cái gì? Tôi nói chịu thôi là chịu
không học, không dạy theo kiểu các trường đạo. Anh ta nói dai như đỉa: Ở Thanh
Hóa đời sống ổn định hơn, mà ông vẫn cứ làm thơ... Chắc anh Long cũng không hiểu
sâu cái số phận của tôi, dạy ở một trường đạo ra làm sao, tôi đã biết mùi rồi,
nhưng cuối cùng tôi cũng không từ chối. Sống trong một trường công giáo đối với
tôi thật ra không phải là điều quan trọng. Nếu không vừa ý, tôi lại đi nơi
khác... Điều quan trọng lúc này là tôi phải rời Hà Nội vào Thanh Hóa... nơi có
anh bạn Bửu Tuất. Anh Tuất đóng trụ sở chính tại Thanh Hóa, vẫn còn bên anh chiếc
xe con và trong xe, hẳn còn nguyên đó... chỗ ngồi của tôi. Lại có những chuyến
đi...
Thanh Hóa còn là nơi đóng đô của người "xê dịch"
Nguyễn Tuân, tôi không hiểu sao số mệnh lại "vất" hắn vào đời tôi...
Nếu có vài điểm giống giữa hắn và tôi, đại để thì tôi là cái mặt trái của Nguyễn
Tuân và ngược lại... Chỗ Tuân rộng lượng dung tha thì tôi ích kỷ; chỗ Tuân ích
kỷ thì tôi dung tha. Nhưng hắn là một trong số người tôi không thể thiếu được.
Tôi vốn ăn thế nào, mặc thế nào cũng được, trái lại Nguyễn Tuân ăn theo kiểu Tản
Đà, chỗ ở phải là tổ của phượng hoàng và mặc thì phải như ông hoàng tây. Một
nghệ sĩ vốn nòi giống "ưu du" (dilettante).[b] Có những lúc giữa hai chúng tôi có
những cuộc xung đột ngấm ngầm ghê gớm! Một bữa tiệc, của những người "bạn
lớn", trên bàn đầy rượu; tôi vốn không uống rượu, chỉ uống khi tôi thích
và uống xong tìm chỗ ngủ, chờ ai đó vạch lên trán một vạch vôi... đến khi tỉnh
rồi, thì tôi chỉ còn là một người thường, chả gì hấp dẫn nữa. Lúc bữa tiệc bắt
đầu... trước mặt người khách, một cái bát không để nguyên không ai đụng tới,
tôi là người đến để ăn. Thấy tôi tự xới cơm, mặt Tuân đỏ lên; tôi bảo: Chưa uống
mà đã đỏ đến thế rồi ư? Tôi tiếp tục bữa cơm của tôi còn Tuân vùng vằng, quay mặt
đi rồi cuối cùng quay mặt lại, cụng chén với ai cụng chén. Nhiều ngày sau chúng
tôi lại gặp nhau, và "hắn vẫn là hắn" mà hắn lại chẳng chịu tôi là
tôi. Tuân cứ trách tôi ăn mặc quá tùy tiện, nhưng cũng có lúc chúng tôi phải
nhân nhượng nhau. Quả thật tôi ăn mặc quá tùy tiện, hắn đã dạy tôi: "Thôi
thì tùy tiện mấy cũng được, cái áo, cái quần của mày có thể nhàu nếp, tóc có thể
rối bồng... mày có thể ngồi xuống cỏ, xuống đất mà chén cũng không sao... Nhưng
phải giữ cái cổ áo sơ-mi cho trắng, cái cờ-ra-vát phải hợp mốt, đôi bít-tất đừng
để rách, và giày đừng để vẹt gót, dây giày phải thắt hết nút và nhất là mũi
giày da thật bóng loáng người ta có thể soi mặt vào đó được..."
Trong phong trần mà giữ được vẻ cao sang là thế đấy. Tôi cũng
chả thèm cãi, vì tôi là tôi. Trước cách mạng, chúng tôi rất khác nhau, mà sao vẫn
"cặp kè" nhau, nhất là những đêm mưa to gió lớn, chúng tôi không thể
đóng cửa trùm chăn... Văn chương của tôi, Tuân cũng chả thú gì, thơ tôi hắn
không thuộc một câu nào. Có lẽ chỉ đoạn văn trong Dòng họ (hồi ký của
tôi) hắn còn tủm tỉm cười khi nhắc đến đoạn "trong buổi kinh chiều xóm
Thanh Lãng, thầy tôi tìm đến ông bạn già nói với nhau vài câu cợt nhả".
Còn Vang bóng một thời của Tuân, đối với tôi chỉ là loại văn chương nửa
ta nửa Tàu, lổm cổm, cầu kỳ.
Sau cách mạng, tôi vẫn là đứa "chồm chồm", Tuân vẫn
là "thằng ngất ngưởng" không thể ngồi bên nhau lâu... Mặc dầu tôi vẫn
phục hắn là tay sành ngôn ngữ. Hắn xử ngôn ngữ như những mũi tên. Sau này hắn
đã xỉa vào đầu thằng cướp Mỹ những mũi tên sắc bén có tẩm độc. Còn thủa ấy, trước
cách mạng, Tuân đang trấn ở tỉnh Thanh Hóa! Tôi muốn về Thanh vì Tuân với Tuất,
còn một lẽ nữa: Thanh Thủy vợ tôi lúc bấy giờ có người chị ruột lấy chồng là
"thư ký" ở sở Cẩm Thanh Hóa. Anh Hà là con trai của ông Nguyễn Hiệu,
một nhà khoa bảng, cầm đầu phong trào Cần Vương ở Quảng Nam và đã bị Tây chém,
người anh em "cọc chèo" với tôi tuy được làm công chức, nhưng vẫn bị
"nhà nước Pháp" nhìn với cách nhìn nào đó... Nhà anh chị Hà khá rộng,
chúng tôi có thể cùng ở chung với gia đình anh chị được. Về Thanh Hóa tôi được
nhà Chung Thanh Hóa chấp nhận là thầy giáo ở một lớp trong trường, ngoài ra tôi
còn được một trường Cao đẳng tiểu học (tư thục) gọi là trường Bắc An Nam mời tới
dạy, mỗi tuần mấy giờ.
Anh Long hết sức săn sóc gia đình tôi, có thể nói những ngày tháng ở Thanh Hóa, chúng tôi đã sống một cuộc đời ổn định, về mặt tinh thần và cả vật chất. Chúng tôi sống giữa xóm công chức... và thật sung sướng, bề ngoài có thể tôi là một công chức... ngày đi ra đường, tôi có đội mũ phớt, đêm tìm tới nhà nào đó đánh mạt chược. Tối thứ bảy hay ngày chủ nhật, ngày lễ... nhà chúng tôi là nơi quây quần của đám công chức tỉnh lẻ. Vợ tôi tham gia đánh bài tứ sắc, và tôi cũng có khi ngồi rìa. Anh Long lại dẫn tôi đến gặp Đức cha Đơ-côn-man. Hẳn là khi nhà Chung mở thêm những lớp Cao đẳng tiểu học, tôi lại được dạy nhiều giờ. Đời sống khấm khá hơn, cứ nhìn vào đôi mắt của vợ tôi... So với thời ở Hà Nội có chút gì yên ổn hơn, nhưng chúng tôi vẫn luyến tiếc nhớ một cái gì ở ngoài ấy. Có lẽ nào tôi dễ dàng trở nên một viên chức? Một điều mà từ bé đến lớn khôn, tôi chưa bao giờ nghĩ đến. Lúc 7 - 8 tuổi sau khi mẹ tôi mất, tôi vẫn cùng mấy đứa bé trong xóm, sục sạo, leo trèo bắt tổ chim, chạy ngoài đồng... Áo quần lem luốc, lại đến khi thầy tôi mất... tôi lại chẳng khác nào một đứa bé con hoang, một con chim sổ lồng.
Anh Long hết sức săn sóc gia đình tôi, có thể nói những ngày tháng ở Thanh Hóa, chúng tôi đã sống một cuộc đời ổn định, về mặt tinh thần và cả vật chất. Chúng tôi sống giữa xóm công chức... và thật sung sướng, bề ngoài có thể tôi là một công chức... ngày đi ra đường, tôi có đội mũ phớt, đêm tìm tới nhà nào đó đánh mạt chược. Tối thứ bảy hay ngày chủ nhật, ngày lễ... nhà chúng tôi là nơi quây quần của đám công chức tỉnh lẻ. Vợ tôi tham gia đánh bài tứ sắc, và tôi cũng có khi ngồi rìa. Anh Long lại dẫn tôi đến gặp Đức cha Đơ-côn-man. Hẳn là khi nhà Chung mở thêm những lớp Cao đẳng tiểu học, tôi lại được dạy nhiều giờ. Đời sống khấm khá hơn, cứ nhìn vào đôi mắt của vợ tôi... So với thời ở Hà Nội có chút gì yên ổn hơn, nhưng chúng tôi vẫn luyến tiếc nhớ một cái gì ở ngoài ấy. Có lẽ nào tôi dễ dàng trở nên một viên chức? Một điều mà từ bé đến lớn khôn, tôi chưa bao giờ nghĩ đến. Lúc 7 - 8 tuổi sau khi mẹ tôi mất, tôi vẫn cùng mấy đứa bé trong xóm, sục sạo, leo trèo bắt tổ chim, chạy ngoài đồng... Áo quần lem luốc, lại đến khi thầy tôi mất... tôi lại chẳng khác nào một đứa bé con hoang, một con chim sổ lồng.
Đến khi làm thơ, viết báo, thì hồn tôi lúc này một lần nữa
thêm lông bông. Còn có sợi dây nào buộc nổi chân tôi? Những ngày ở Thanh Hóa,
tôi xem như những ngày nghỉ "cánh": tôi chưa bán, cũng chưa bao giờ định
bán cho ai cái "cốt cách giang hồ". Bửu Tuất vẫn còn những "chuyến
đi" đầy lý thú. Những chuyến đi từ Đạm Thủy đến châu Hòa Lạc. Vẫn có những
"Đêm xòe", rượu cần, cạnh nàng "tiên nâu" do các ông quan
thết đãi... Và Nguyễn Tuân nhà cách nhà tôi mấy phố, Nguyễn Tuân có một
"thư trang" có gia đình ở tỉnh Thanh, Nguyễn Tuân người không biết từ
lúc nào sáng tạo ra hai chữ "xê dịch" thay cho hai chữ "giang hồ"
của tôi... Tôi quên sao được cái chiều hôm ấy hoàng hôn... Tuân kéo tôi đi, bất
chấp sự phản đối của vợ tôi. Đi đâu? Tuân không cho tôi biết, mà tôi cũng chả
đoán được! Tuân kéo tôi lên một góc thành Thanh Hóa kiểu xây như thành Hà Nội.
Tuân chọn một góc thành, Tuân đưa ra một chai rượu mạnh của Pháp, rượu
"rum". Tôi uống bằng nắp chai, còn hắn thì dốc hẳn chai vào miệng ừng
ực, hắn nhìn vào phía tường còn ánh nắng, một làn mây đang bay nhanh. Thế là
tôi cũng uống rượu, cũng nhìn với hắn, nhìn theo mắt hắn, tên giang hồ hụt. Sao
mà mặt mày hắn hào hùng thế?
Sau buổi uống rượu, nhìn mây ở một góc thành tỉnh Thanh, lại
một lần nữa, hắn nhận được một món tiền nhuận bút, kéo tôi đi vào tận Quỳnh
Lưu. Ai cũng biết hồi đó có một tên Tri phủ khét tiếng chọc tiết máu người... Mỗi
lần được thăng chức, là hắn đòi những cô đào đẹp nhất vùng vào tận phủ đường phục
vụ hắn. Chúng tôi vào Quỳnh Lưu, một "xóm" đúng lúc có trát quan đòi,
với những khách như chúng tôi "các chị em" dẫu chưa quen, đã là
"thân quen", đã "cùng một kiếp bên trời lận đận"... Những
chị em tài ba có nhan sắc... thấy chúng tôi tới thăm rất mừng, thấy quan đòi
cũng sợ. Nhưng với cái mũi dùi xuyên tâm, cái tài kể chuyện của Tuân không phải
một hôm, mà ba hôm liền, chúng tôi đã giữ lại những chị em đẹp nhất... chỉ
buông cho tên Tri phủ uy quyền kia vài chị em chưa sạch mặt đi thay cho những kẻ
có tài hoa. Chúng tôi không mất một đồng tiền mà chị em vẫn quấn quít bên chúng
tôi. Và trong một trận đánh không giáp mặt, không gươm đao, chúng tôi đã thắng.
Tuân nói: "Từ ngoài Hà Nội, chúng ta vẫn trấn các địa phương". Cũng
như bao giờ, chúng tôi vẫn đến với những con người bất hạnh nghèo túng, chúng
tôi đến với sự mến thương chân thành. Tuân là người đánh trống cự phách, mắt
Tuân sắc, tướng Tuân oai, đôi tay Tuân dẻo. Tuân là một sự hấp dẫn đối với những
người này.
Một chút sóng gió vẫn tạm yên trong lòng, một cuộc sống im lặng
ở tỉnh lẻ này, nhưng trong mức độ nào còn giữ lại cái chút "động lòng bốn
phương" của nhưng người "xê dịch"?
Thế rồi một hôm, vào buổi chiều (tôi quên ngày tháng) tôi
đang dạy một bài sử Việt Nam ở lớp đệ tam trường Bắc An Nam, mà hiệu trưởng
Phùng Văn Lau cũng là người bạn của tôi, thì người lính lệ đưa cho tôi cái lệnh
của ông Chu Ngọc Liễn, bang tá, một tay có học, anh ruột của nhà viết kịch Chu
Ngọc...
Tôi ngơ ngác, sau anh Phùng Văn Lau giải thích với tôi: có lệnh
trên, tôi bị giải hồi nguyên quán là bị giải về quê tôi ở tỉnh Quảng Bình. Tôi
nhìn đám học sinh bàng hoàng như muốn hỏi: nào trong giờ dạy sử Việt Nam, tôi
có một câu nào thúc giục các em đứng lên... đuổi giặc Pháp không? Trong đám học
sinh có em nhìn tôi, thương cảm, có em cúi đầu để giấu một giọt nước mắt, người
ta còng tay tôi trước mặt học sinh và người hiệu trưởng.
Tôi bước ra khỏi lớp học... nghe như tiếng sách sột soạt kêu
khi xếp lại đồng một lúc để tiễn tôi. Tôi bị giải về Sở Cẩm, nơi người anh
"cọc chèo" của tôi đang làm thư ký cùng với ông Quản Dương là người đồng
thủ trưởng của Sở Cẩm. Đêm ấy, tôi được ăn một bữa cơm tù và bị giam ngay trong
phòng giam của Sở Cẩm... Khuya, người anh em "cọc chèo" mới vào thăm
tôi, mang cho tôi ít tiền. Vì có mặt bọn lính, anh ấy chỉ nháy mắt với tôi như
bảo: anh đã hiểu vì lẽ gì, tôi đã bị bắt... Tôi nghĩ rằng: Anh Long có vào gặp
Đức cha Đờ-cô-man, chỉ có ông này mới có thể can thiệp được. Tôi sực nhớ trước
đây không lâu trường Cao đẳng tiểu học tư thục Lam Sơn ở tỉnh Thanh tạm thời bị
đóng cửa vì trường có khuynh hướng cộng sản. Thế mà tôi chưa bao giờ được may mắn
hiểu thế nào là chủ nghĩa cộng sản!
Bao nhiêu câu hỏi tôi tự đặt ra thật khó giải đáp. Có lẽ do
được tin trường Cao đẳng Lam Sơn bị đột ngột đóng cửa, nhà Chung chưa kịp thời
phải chuẩn bị ngay, mở gấp những lớp cao đẳng tiểu học để đón lấy các học sinh
đang bị rơi vào cảnh lêu lổng không nơi học. Anh Long hỏi ý tôi: "Nên thế
nào?". Tôi chỉ nói: Ai lại thế, các anh bên Lam Sơn dầu sao cũng là bạn
quen của mình, thừa lúc người ta bị hất cẳng mình nhẩy vào đón "khách
hàng" sao tiện? Anh Long hoàn toàn đồng ý với tôi và đã gặp các cha lãnh đạo
ở nhà Chung, lấy lý do là chuẩn bị không kịp, phải đợi nghỉ hè xong mới mở...
Có lẽ nào điều này đã đưa đến "họa" cho tôi? Tôi khó tin, nhưng vì lẽ
gì tôi bị đuổi khỏi đất này? Tôi cố nhớ lại những giờ dạy ở các lớp... tôi có
buộc lỗi của Mẫu Quốc, ném một câu, một chữ bất lợi cho tôi? Hay là tên Tri phủ
Hồ Mậu Trinh, một con cưng, một đầy tớ trung thành của Pháp đã ghi tên tôi vào
cuốn sổ đen của hắn. Lại cái tên bang tá trí thức đã từng ngồi với tôi ở bàn mạt
chược, nhân đây muốn có chút tâng công, − vì lẽ này lẽ nọ hay tất cả
những lẽ ấy cộng lại làm nên cái "thải hồi nguyên quán" của tôi. Thải
hồi một con nai hiền lành mà chính quyền Pháp phải mất công đến thế?
Ngày hôm sau, vào giờ xe lửa tốc hành đến ga Thanh, tôi lại
được "còng tay". Vợ tôi và đứa con trai đầu lên sáu, không kịp lên ga
tiễn tôi!
Lại một chuyến tàu, muốn mang tôi đến đâu thì đến. Tôi chẳng
mỉm cười với số phận mà cũng chẳng khóc với nó! Chỉ thương người vợ trẻ và đứa
con thơ đã "vô cớ" tạm thời tách ra khỏi chuyến tàu cô đơn của tôi. Đến
ga Thuận Lý, tôi bị dẫn lên tỉnh lỵ Đồng Hới, được lệnh trên họ dẫn tôi đến Tòa
sứ, và sẽ được trực tiếp gặp Công sứ tỉnh tên là Gây-hay Đuy-ken-ne. Tôi chuẩn
bị để đối đáp với ông ta. Tôi sẽ trình bày hết sự việc đã xảy ra. Ông Công sứ
thoạt thấy tôi, đứng lên bắt tay, nhìn tôi có vẻ như cười cười. Ông nhìn tôi
như một thanh niên quá trẻ, tôi toan trình bày... Nhưng ông xua tay nói:
"Gia đình anh, tôi biết rõ, có lẽ ông La-gờ-re-đơ muốn cho ông về lại tỉnh
nhà... để được tỉnh nhà săn sóc chu đáo hơn". Ông ta nói tiếp: Tôi hiểu,
ông thân sinh ra ông là một cố vấn tỉnh được trọng vọng... Nhìn tận mắt tên
công sứ này, tôi nhớ lại hồi thầy tôi mất, quan tài quàn tại nhà, mặc dù trên bốn
mươi cây số, ông ấy đã đến từ biệt thầy tôi lần cuối cùng. Bấy giờ anh em chúng
tôi mặc áo sô, đầu đội mũ rơm, chống gậy tre, chúng tôi cúi rạp, đầu gối quỳ xuống
đất, rồi lại chống gậy cúi đầu đáp lễ, cái ông công sứ người Pháp...
Cái câu “Về đây để được săn sóc hơn!” thật là ngọt như mía
lùi. Nhìn lại cổ tay đang còn dấu ấn của cái "cùm", tôi vội cướp lời:
Thưa ngài tôi muốn đi đâu cũng tùy ý chứ? Ông Công sứ cười: Vâng, ông muốn đi
vào Nam ra Bắc, đi đâu tùy ý, chỉ trừ việc trở lại đất Thanh Hóa của ông La-gờ-re-đơ...
Dầu sao thì tôi cũng cám ơn ông Công sứ có những lời đẹp đẽ
nói với tôi. Tiếng Pháp không thiếu những từ đẹp. Tôi không về thẳng làng, cách
tỉnh lỵ 40 cây số. Tôi như bay giữa thị xã Đồng Hới, con chim vừa thoát ra khỏi
lồng, nơi tôi đã ở học gần hai năm trời hồi nhỏ.
Tuy là con quan, nhưng là quan nghèo, ở lớp nhì, lớp nhất,
tôi được học bổng mỗi tháng hai đồng Đông Dương, đủ nuôi tôi, nhớ mãi cái dáng
dấp rụt rè của người học trò nghèo lại học giỏi, được thầy cưng. Lúc bấy giờ
hay cụ Phan về nước,[c] từ Nam chí Bắc những cậu học trò, lớn
có bé có, đều sôi động hẳn lên, tôi được cô giáo Trâm, một cô giáo có tư tưởng
mới, gọi tới nhà cùng một số học trò khác đêm đêm cô dẫn ra tận động cát Nhật Lệ.
Trời tối đen như mực, biển thì cứ gào không biết mỏi... Cô xúc động, cứ nói,
chúng tôi chả nhớ rõ cô nói những gì, chúng tôi cứ im lặng lắng nghe, cô
vừa nói vừa khóc, chúng tôi cùng gục vào vai nhau mà khóc to!
Lòng yêu nước lúc bấy giờ đối với chúng tôi là thế, nhưng sau
hai mươi năm, chả hiểu vì sao, tôi đã bị cùm tay, lãnh cái án gọi là "thải
hồi nguyên quán".
Hôm nay một mình ngồi đây trên động cát, trước mặt sóng biển
cứ gào... Rồi sau đây tôi sẽ làm gì? Ở đâu, hỡi cái gọi là "định mệnh",
cái gọi là chính quyền Pháp, cái gọi là "Mẫu quốc". Hỡi người vợ trẻ,
đứa con thơ của tôi, tôi chờ cái gì đây?
Lại nhớ những năm cuối thập kỷ hai mươi, lúc ấy tôi đang học
trường tư ở Hà Nội, trọ ở nhà 42 Hàng Đồng, nghe một tiếng bom nổ, do Ký Con vất
ở bót Hàng Đậu. Rồi một đêm khác, mười ba anh hùng Yên Bái lên đoạn đầu đài. Cô
Giang, cô Bắc, người bị bắt, người tự tử, rồi "Xô Viết Nghệ Tĩnh" bị
đàn áp mà tôi chẳng được kịp hiểu "chủ nghĩa cộng sản" là thế nào? Một
tâm trạng chán chường đã dẫn vào tôi cái nghiệp làm văn, làm báo, dạy học tư...
Những nghề được gọi là "nghề tự do" đấy! Tự do ư? Tôi chỉ là con chim
được tự do bay trong cái lồng. Rã cánh, trầy lông, vẫn cứ mãi bay!
Chương IV
NÚI TẬN SÔNG CÙNG
Tôi biết tin vợ tôi bán đồ đạc và từ Thanh Hoá mang con về Hội
An, quê vợ tôi. Chả biết hôm vợ tôi lên tàu, có những ai ra tiễn… Vợ tôi trong
thư không viết cụ thể. Tôi muốn biết có người học trò nào của tôi ra tiễn không
và ngoài những người thân yêu ruột thịt, có cái ông bang tá ấy không, người đã
có lần đánh "tứ sắc" với vợ tôi hay có đôi lần trao đổi với tôi về một
vài vấn đề thơ văn dân tộc.
Trên đường đi Hội An, tôi có ghé Huế, gặp anh Lưu Kỳ Linh,
người anh ruột của tôi. Ông là rể của một ông quan thanh liêm, suốt đời chỉ
thích nghiên cứu về chữ "Quốc ngữ". Không hiểu sao ông La-gờ-re-đơ,
Công sứ Thanh Hoá, một tay rất phong nhã quen một lúc cả chị lẫn em của một gia
đình vào hàng quý tộc hoàng gia, lại cũng rất thân quen với một ông quan thanh
liêm này.
Anh tôi giục ông nhạc viết thư cho quan sứ tỉnh Thanh xin được
biết về tôi, vì lẽ gì bị thải hồi nguyên quán và có được trở lại tỉnh Thanh nữa
không? Tôi tới thăm ông nhạc của anh tôi, tại huyện Thanh Thuỷ (gần Huế) nơi
ông nhậm chức Tri huyện… ông cho tôi biết là ông La-gờ-re-đơ có trả lời thư
ông, đại ý cho rằng: "Lưu Trọng Lư ở Thanh Hoá được các quan chức không phải
là người Pháp cho hay rằng: anh ta gần gũi những người cộng sản, và tự anh ta
đã tuyên truyền cộng sản". Tôi tuyên truyền cộng sản ư? Tôi chưa bao giờ
được đọc một quyển sách, một trang sách nào của các ngài thuỷ tổ cộng sản cả.
Ông Mao Trạch Đông, tôi còn tưởng là một ông quân phiệt như kiểu Phùng Ngọc Tường,
Trương Trác Lâm, v. v… mà tôi được đọc tên trên báo Thực nghiệp hay Trung
Bắc tân văn. Có một người bạn học ở trường "Noóc-man" quá tin tôi có
lẽ vì thấy tôi khóc khi nghe tin cô Giang chết, mà trao cho tôi một tập tài liệu
khá dày. Anh bảo "kín" đó, giữ cho khéo. Anh còn nói thêm một câu tiếng
Pháp "Phải giữ cho khéo cái lưỡi của mày". Tôi đọc qua mấy tiêu đề,
trong đó có Vấn đề dân cày.[b] Và có một tập tài liệu nào đó có
tên anh Võ Nguyễn Giáp, người bạn của anh tôi. Tôi mừng quýnh, gói cả một gói đút
vào cặp. Nghĩ bụng rằng, chuyến này về ăn Tết ở quê nhà, hẳn là một cái Tết vui
vẻ.
Trong tập sách "Ngân Sơn tùng thư" của tôi,
tôi có đăng một bài về "người ăn mày" không ngờ lập trường bài thơ lại
là lập trường cộng sản… Nói cho cùng, nếu trong bài tôi viết có đôi chỗ, đôi đoạn
nào giống với cái giọng cộng sản là vì tôi đã từng nghe xung quanh, có người
nói về điều này, điều nọ về chủ nghĩa cộng sản, đại thể cộng sản là người khố
rách áo ôm… chống lại mọi áp bức… Tết ấy về quê, tôi không cất tài liệu vào
va-li mà nhét vào cặp xách tay. Khi tàu qua ga Vinh, tôi thấy ở đầu tàu có đèn
pin nhấp nháy. Khách trên tàu xốn xang cả lên: "Cò Tây đang lục
khám". Tôi thấy rõ một thằng cò Tây đang chỉ huy lính… đang lục những
va-li đồ đạc, tôi hoảng quá, chợt thấy phía sau lưng sân ga trời tối đen, tôi
bèn vứt tập tài liệu ấy. Nếu tôi không vứt thì biết đâu tôi có thể đã khác cái
"của nợ bông lông" mà tôi đã gắn mình… Có thể… đời tôi từ lúc bấy giờ…
đã nhảy lên "một chuyến tàu khác". Nghĩ mà buồn cười, không hề biết một
chữ "cộng sản bẻ đôi" mà đã mấy lần đi dạy học bị còng tay, ra báo mấy
lần bị cấm.
Hôm nay được mấy chữ gán cho là "tuyên truyền cộng sản"
và lĩnh vực một cái án "giải hồi nguyên quán" có vẻ như trêu đùa tôi.
Vợ tôi ở Hội An, nơi này cũng có một trường Cao đẳng tiểu học, cũng lại là một
trường tư thục. Về đây tôi gặp một vài bạn mới, cùng làm nghề dạy học tư, nên họ
dễ thông cảm với số phận của tôi, đã đấu tranh với ông giám hiệu để nhận tôi
vào dạy học ở trường của ông. Những ngày tháng dạy học ở trường Viên Minh này,
học trò cũng rất mến tôi…
Tôi thường lành tính nên bọn học trò con gái mỗi lần gặp chào
tôi hay cười cười. Sau này, một em đã trở nên bác sĩ ở nhà thương mắt Hà Nội kể
lại với Mừng, người bạn đời của tôi sau này: Học trò không sao quên nổi cái
chuyện tôi đang giảng bài trên bảng, tôi vô tình đưa cái khăn chùi phấn lên lau
mũi như lau với chiếc khăn "mùi-xoa". Có thể đây là một giai thoại,
chúng bịa ra để tặng tôi. Bấy giờ, tôi viết một vở kịch thơ ngắn nhan đề Ngọc
Du, Ngọc Duệ do chính tôi đạo diễn, và hai cô đẹp nhất lớp đệ tam diễn.
Cuộc sống vật chất của nhà tôi lúc này rất khiêm tốn, không
thể so sánh với đời sống văn thơ ở Hà Nội, nơi có những buổi ăn chơi thả dàn, đồng
thời lại có lúc, có gì cầm lấy để có được một bữa ăn sáng ăn tối bình thường.
Gia đình nhỏ của tôi ở Hội An dồn cả về nhà vợ tôi. Vợ chồng anh Hà, anh của vợ
tôi, chả hiểu vì lẽ gì cũng đổi về đây. Một người chị lớn lấy chồng ở Đà Nẵng
đã có một bầy con, cũng đùng đùng xin bỏ chồng về với cha mẹ đẻ. Người anh cả của
gia đình, bạn cùng nghề của anh Khương Hữu Dụng, cũng dạy học, có tên trong
"sổ đen" chống đối nhà nước, mới được lệnh phải nghỉ việc không
lương, có một bầy con với người vợ trước, lấy vợ mới lại cho ra một đàn con mới,
cũng kéo về Hội An. Nhà vốn chỉ có hai ông bà già với đứa con gái út chưa chồng,
giờ đây tất cả lớn bé chất vào gian nhà trước với gác lầu sau, chật ních.
Những năm trước, bình thường cứ mỗi lần Tết đến, anh chị em
khắp nơi cùng về vui như ngày hội, đèn chong chơi bài tận sáng. Cả nhà kéo nhau
đi cửa Đại tắm biển và ăn cả chục bánh tráng. Nếu mãi được như thế, cuộc đời
đáng sống biết bao nhiêu… Nhưng dần dần cả tổ ấm đông đúc, lúc nhúc những người…
đã trở nên một chiến trường thầm lặng. Những người thân nhìn nhau bằng sự soi
mói, giành giựt nhỏ nhoi về chỗ chơi, nơi nằm. Gia đình nhỏ của tôi đã mất cái
gác đêm có ánh trăng rọi vào cửa sổ bởi sự chen chúc ấy. Và từ trong con mắt của
hai cái đầu bạc bố mẹ vợ tôi (trên 70 tuổi) đã thoáng thấy nhiều lo âu... Đêm
hôm lâu lâu, tôi nghe có đôi tiếng thở dài. Hội An là thành phố xưa cổ kính, những
người Nhật đầu tiên đã đến đây, và những người Minh Hương đến đã trở nên giàu
có, có những phong tục, nề nếp cao sang. Thủa trước ông nhạc tôi còn có chút
quyền hành, tất nhiên là dựa vào những quyền hành đã có từ những liên hệ cao
sang với các gia đình Trung Hoa giàu có.
Bây giờ những gia đình ấy tường vách đã rêu phong và từng
viên gạch tưởng chừng như rữa nát dần... Tôi có một đứa con trai, lại thêm một
đứa con gái nữa. Ở đây không phải như khi ở Hà Nội, bữa cơm sang nghèo không phải
hàng phố ai cũng biết. Dầu muốn dầu không, gia đình nhỏ của tôi đã trở nên một
gia đình tiểu công chức, mỗi lần chắt bóp dè xẻn là một lần nhức nhối...
Nhưng gia đình tôi vẫn là gia đình "lính tính
quan", nói một cách khác, tôi vẫn mang hồn nghệ sĩ. Từ Hà Nội, có được một
món tiền nhuận bút là "đốt" ngay không ngoài một tuần. Dần dà sau
này, mỗi lần tôi đến trường Viên Minh, nơi tôi dạy, không hiểu sao ông giám hiệu
tiếp tôi không vui như những ngày đầu. Một hôm, người anh rể giáo học của tôi
được tên Rây-nơ, chủ sở an ninh gọi lên "dặn dò" và một thời gian sau
tôi cũng được ông chủ sở gọi lên hỏi: Có muốn trở ra Thanh Hóa không? Tôi không
nói gì, nhưng rất hiểu ý của ông ta. Không thể nào ở lại Hội An được nữa. Một
cái tổ quá nhỏ, mà bao nhiêu con chim lạc loài như bị gió bốn phương thổi bạt về.
Thanh Thủy, vợ tôi bảo tôi: đi đâu được cứ đi! Lúc ấy, trên một bãi biển, tôi gặp
được anh Phan Bá Lân. Trong đời tôi, được gặp mọt người như anh Phan Bá Lân,
tôi phải rút ra một bài học xử thế. Ngày nay anh đã trôi dạt ở đâu hay chết mòn
ở một trại tập trung nào, thì tôi cũng vẫn nghĩ đến anh như nghĩ đến một ân
nhân. Anh đã đến gặp tôi lúc khó khăn. Anh có một trường trung học ở Đà Nẵng.
Biết tôi là người có tên tuổi ít nhiều, anh mời tôi về cộng tác với anh. Anh
cho mượn tiền trước (không phải mua lúa non) giúp đỡ chuyển gia đình tôi ra Đà
Nẵng. Có lần Bửu Tuất ghé nhà tôi ở, thấy buồng nằm có chút phong lưu, hắn cười
mỉm mỉm: "Định mệnh cột chân rồi hử". Nói "cột cánh" thì dễ
chịu hơn. Nếu chỉ có đối xử đẹp với một nhà thơ (từ lời nói đến việc làm) điều ấy
chưa đủ để tôi đánh giá một nhân phẩm. Hồi ấy, tôi có nhà gần ga xe lửa. Lính
Nhật cũng có mặt ở đây rồi. Trong lúc này máy bay Mỹ đã nhiều lần thả bom nơi
đây. Tôi thấy trong lúc Mỹ thả bom, thì những người lính Nhật tự cột chân mình
vào cỗ pháo. Một hôm giữa giờ học, máy bay không phát hiện được, còi báo động
chưa có mà bom Mỹ đã nổ. Bom thả ngay quanh trường Chấn Thanh.[c] Tôi thấy anh Lân vẫn chạy xua học
sinh xuống hào. Anh bình tĩnh đi từ nơi ẩn này đến nơi ẩn khác của học sinh. Mọi
người đã xuống hào cả mà anh cứ đi lại như không. Xét người cũng như xét một
người lính, phải từ trong chiến địa. Không có mảy may lo âu với từng sinh mệnh,
con người, từng cái chết sống của học trò mình, làm sao giữa trận địa vẫn ngẩng
cao đầu như thế được? Tôi nói may gặp được anh Phan Bá Lân, người đã đưa tôi về
Đà Nẵng... nhưng cũng có thể nói "không may" khi chúng tôi "dời"
cái số mệnh chúng tôi về đây. Đà Nẵng không phải là tỉnh Thanh. Đà Nẵng là một
thành phố mới, một cảng mới, có thể nói: một Hà Nội nhỏ, một Sài Gòn nhỏ. Tôi
có thể nhìn thấy một xóm chị em "cùng một kiếp bên trời lận đận", một
xóm từ Hà Nội chuyển vào. Những tiếng đàn tiếng trống chói tai người địa
phương, nhưng có thể nói vui lòng một số người khách lạ quê ở miền Bắc...
Lúc này là lúc người ta nói nhiều đến cuộc bầu cử dân biểu, lắm
tên "trưởng giả" xuất đầu, những tay giàu mới lộ diện... thèm khát
danh tiếng hẳn nghĩ rằng: những ông nhà văn nhà báo nhiều mồm mép có thể giúp họ
được chăng. Những áp-phe hợp đồng đã bắt đầu mặc cả ở những nơi ăn chơi. Trong
những người đồng nghiệp của tôi ở trường hoặc một vài bạn mới ở ngành khác đã bắt
đầu quanh quẩn bên nhau trong những đêm trác táng. Tôi nhớ có một người bạn là
anh Trương Đình Cử, - tôi gặp lại ở Sài Gòn giải phóng, và anh đã tặng
tôi mấy quyển sách dịch Dostoievsky của anh.
Thủa bấy giờ tôi đã thấy người dịch "Đốt" ấy một
mình nằm lơ mơ ở một góc nào đó mà không nói một lời. Khi buộc phải nói thì anh
ta chỉ nhỏ nhẹ một câu "Không phá thì làm gì ở cái thời Tây Nhật
này". Nhiều kẻ đã thở ra cái giọng lợm mình ấy... Khi cách mạng đến, một số
chúng tôi rẽ tới con đường khác, thì các anh ấy kẹt lại trong này... để rồi
trên sách trên báo mới có cái giọng đáng sợ: "Đời chua lè, phá!". Thủa
ấy khi người vợ nghiêm chỉnh của tôi, thấy tôi bắt bạn với những "ông ấy"
thì trong mắt có cái nhìn lo âu mà đôi khi không giữ mình được, phát ra những lời
một ngày một nghiêm khắc, cả khi trước mặt bạn bè. Thời kỳ này, tôi thật ra chẳng
có chuyến "xê dịch" nào đáng sợ.... Tôi đã xa Nguyễn Tuân, Bửu Tuất đến
hàng nghìn dặm. Tôi "cô quạnh" ở đây và trong gia đình tôi, vợ tôi
không còn độ lượng. Nhà tôi, ngoài hai vợ chồng, hai đứa con, thêm một người
vú... cũng được gọi là đầy đủ, với một công chức hạng trung. Nhưng bên tôi mỗi
ngày thêm những ông bạn "bốc trời" mới. Có khi ba bốn đêm tôi không về
nhà, ngủ nhờ một người bạn nào đó, sáng hôm sau đi thẳng tới trường. Tôi cũng
ít làm thơ, ngay việc dạy học, tôi cũng không làm tròn nhiệm vụ.
Trong lúc tôi đi vắng, vợ tôi đã cảm lạnh, tại người vú mang ở
chợ về vài món ăn không tươi. Ấy là sau này có người bên hàng xóm nói với tôi
như vậy. Khi tôi về thì bệnh đã nặng hơn. Tôi đưa vào bệnh viện và nhắn cho các
chị tôi ở Hội An ra. Bấy giờ, ông bà đã mất rồi, có vài người ra nhưng đã muộn...
Người vợ vô tội của tôi đã ra đi lặng lẽ, chỉ nhìn lặng lẽ chồng và hai con.
Đám ma một phần nhờ nhà trường bạn bè lo chu đáo. Hai cháu được
các chị tôi cho về bên ngoại ở Hội An.
Tôi ở lại nhà này trong một thời gian. Một hôm, tôi vừa mở
cánh cửa tủ ra, từ trong ngăn áo xông lên một mùi hương cũ. Tôi ngồi xuống bên
cạnh tủ... tưởng chừng không gượng dậy được nữa. Từ trong phấn son trang điểm
còn sót lại một chút hương lòng mà tôi sững sờ. Tôi ăn ngủ ở nhà bạn, khi chỗ
này khi chỗ kia. Áo quần tôi thay ra mắc đó. Có khi người hàng xóm đi qua thường
mang về giặt, rồi phơi ra sân nhà tôi. Cũng có thể có người nói "Tội nghiệp
thầy giáo".
Tôi bán rẻ bán tháo giường chiếu, bàn ghế và các thức đồ đạc...
rồi chẳng bao lâu, tôi từ biệt căn nhà này và không ở lại Đà Nẵng nữa. Sau này
tôi viết bài thơ dài Mười năm tình nghĩa đăng ở Phổ thông bán
nguyệt san, kể lại quãng đời, quãng tình đã qua ấy.
Mỗi con người làm chủ cái thân xác mình. Mỗi chủ nhân gia
đình phải canh giữ lấy hạnh phúc của những người trong nhà. Nhưng không biết từ
lúc nào, có những cái bẫy đã giăng ra... tôi nhớ những ngày còn nhỏ: cùng với
trẻ trong xóm, tôi trét nhựa vào những cành cây rồi chờ nhìn những cô ả chuồn
chuồn... màu sắc rực rỡ vô tình dính cánh vào...
Ôi! Những chiếc cánh ngao du, dần dần đã bị nhựa dính. Sau
khi vợ chết, cái số phận của tôi lúc bấy giờ, có điều cũng giống như thế. Cũng
có thể nói: tôi tự nguyện nộp mình vào các thứ bẫy, sa vào đâu sẽ kẹt đến đấy!
Chương V
TRO TÀN GIẤY BAY
Có phải từ đây, một chương mới của đời tôi đã mở ra? Cuộc đời
đâu phải là chuyện giở từng trang, hết trang này đến trang khác... Đúng ra nên
là dây chuyền, một dây xiềng hết khâu này đến khâu khác. Khâu này đẻ ra khâu
khác. Cái đau này đẻ ra từ trong cái đau nọ. Trong tình cảnh vợ chết, tôi không
có cách gì khác là tạm gửi hai đứa con của tôi lại cho các chị em của gia đình
vợ tôi ở Hội An chăm nom.
Không phải tôi là một người hoàn toàn vô trách nhiệm. Tôi chỉ
để tạm hai con ở đó và tôi ra đi. Đi đâu? Trong ý định của tôi lúc bấy giờ cũng
là tìm cách gì có tiền để gửi về nuôi chúng. Nhưng tìm tiền bằng cách gì?
Lúc này chính quyền Nhật đã thay chính quyền Pháp. Ông Phan
Bá Lân đóng cửa trường Chấn Thanh và đi về hướng nào, làm gì, tôi không rõ. Tôi
chỉ còn trông vào cây bút của tôi để sống. Tôi vẫn làm thơ và có ý đồ viết một
cuốn tiểu thuyết hay hồi ký. Hồi ký thì tôi đã viết Chiếc cáng xanh, lại với
thêm Dòng họ cạn nguồn rồi, mà tôi không có tài viết tiểu thuyết ăn
khách như kiểu Ngựa đã thuần rồi mời ngài lên.[d] Tôi chỉ viết được Huyền không
động rồi Con đười ươi, kịch ngụ ngôn bắt những con cáo, con lợn rừng
làm trò nhân sự. Những chuyện này cũng không ăn khách nữa. Chuyện đời mù mịt,
chuyện làm tiền bế tắc. Tôi cũng không biết viết làm vừa lòng các tiểu thư son
phấn, vừa lòng các chàng công tử rửng mỡ... Chịu! Ngàn lần chịu!
Tôi chỉ còn những vần thơ rạch ruột gan gửi đời. Không phải
là nỗi đau thế kỷ, thì cũng là những bi lụy tình trường. Làm người dân mất nước,
làm người con không nhà, làm cha, làm chồng không trọn. Tựa vào đâu, trốn vào
đâu không biết!
Tuổi ba mươi ngồi tính lại những năm tháng đã qua, chỉ còn là
những trận mưa dài giữa trần thế. Chỉ có cái buồn, cái đau, cái tuyệt vọng để
bán, liệu có ai mua không?
Sau này tôi đọc thơ chữ Hán của Tố Như, mới biết Tố Như cũng
đã có trận mưa dài rả rích quanh giường nằm. Ông đã phải kêu lên: "Không
chịu được nữa rồi". Xõa tóc, hát cuồng đi phương nào, bên này hay bên nọ,
phương nào cũng đi. Ông nhẹ nhàng bảo mình: "Chết được rồi". Vâng,
tôi cũng có những câu thơ rả rích như những hạt mưa đêm gắn mình lại với cuộc đời.
Một hôm, đi qua thị trấn Vĩnh Điện, một thị trấn nhỏ, trên đường Đà Nẵng - Hội
An, nơi tôi có nhiều bạn bè, có một số người quý mến tôi. Trước công chúng
không đông, tôi đã đọc lại một số đoạn, trong vở kịch Ngọc Du, Ngọc Duệ của
tôi. Tôi là người xúc động nhất trước câu thơ thất vọng của tôi. Và trong
giây phút bất thần, tôi sực nhớ đến nhà thơ nổi tiếng của Pháp Alfred de Vigny,
tác giả vở kịch nổi tiếng Chatterton. Một vở kịch nói về số phận nhà thơ
có tài bị cuộc đời, người đời phụ rẫy, không còn một chỗ ngồi, chỗ đứng, một nẻo
đi... chỉ còn cách, tự mình đem đốt tác phẩm của mình để trả thù cuộc đời. Nhớ
đến người xưa tôi không ngăn được nước mắt... Như không tự kiểm soát được mình
nữa, sẵn có bao quẹt trong túi, tôi đốt luôn tập kịch thơ của tôi trên tay.
Giấy đã ra tro, mà kịch chưa hạ màn, tôi không muốn rút lui.
Tôi vốn xưa nay là một người không có tài ứng khẩu... Cũng có bài thơ tôi viết
một mạch, nhưng thường là tôi ngâm đi ngâm lại một mình, tôi bào đi bào lại với
từng ý thơ, dày vò mảnh giấy cho tới khi dập nát. Thế mà không hiểu sao, lúc bấy
giờ như có thần linh hỗ trợ, tôi ứng khẩu đọc cả một đoạn thơ dài như vô tận.
Những điệu vần, lên xuống, đối ứng dập dềnh... chẳng khác nào một cánh chim đập
giữa trời, những vần thơ chìm nổi.
Tôi ứng khẩu xong một đoạn dài nói về số phận của tôi, từng
bước chìm nổi của tôi. Rồi im lặng nhìn lại chút tro tàn đang bay... Tôi ngồi
xuống sàn rồi quay đầu như để giấu đi những giọt nước mắt. Đó là một sự kiện chỉ
xảy ra một lần trong đời văn học của tôi.
Đoạn kịch thơ ứng khẩu đó, cũng không bao giờ tôi cố ghi chép
lại.
Việc này xảy ra với tôi chẳng khác nào như một giấc mộng. Sau
đó các bạn tôi đưa tôi về một gian nhà ngói mới làm ở cánh đồng gần thị trấn
Vĩnh Điện. Anh Đảnh, một người trẻ hơn tôi độ bốn, năm tuổi, là chủ nhân của
ngôi nhà ngói xinh đẹp này, mới làm nhưng đã có một vườn, nhiều hoa và trĩu
trái. Anh Đảnh mồ côi cha khi anh còn trẻ. Anh cũng tập tễnh làm thơ... Anh đã
đọc nhiều thơ của tôi. Nhưng anh quý tôi hẳn không phải chỉ vì thơ. Người
"Mạnh Thường Quân" bé bỏng của tôi rất ít nói ít cười, một gương mặt
hiền lành, phúc hậu. Anh có bước đi rất nhẹ nhàng như con gái, anh sợ đạp lên từng
con ốc con nhái, anh bao giờ cũng nhón nhón gót chân. Anh Đảnh và cả mẹ anh nữa,
tha thiết đòi tôi ở lại với gia đình anh.
Bên một cửa sổ nhìn ra đồng, nơi thường xuyên có ngọn gió đồng
thổi tới, anh Đảnh đặt một cái bàn nhỏ... và anh bảo "bàn nhà thơ" đấy!
Ngày, có thể có những người bạn tới quấy rầy, nhưng đêm chỉ có trăng và ngọn
gió đồng. Nếu cuộc đời là đáng sống, thì cái bàn này quả là một hạnh phúc của
tôi. Anh Đảnh bảo: "Anh viết đi". Nhưng tôi biết viết gì trên những tờ
giấy trắng tinh vô tội này. Anh Xuân, một bạn nữa của tôi, cũng hết lòng săn
sóc tôi, cũng bảo tôi: Viết đi! Nhưng tôi viết gì đây? Viết những gì để trở
thành tro tàn ư? Chữ "nanh vuốt" không phải là chữ của tôi, nhưng cuộc
đời quả có nanh vuốt đó. Bên ngoài cửa sổ, cuộc đời vẫn nhe nanh vuốt nhìn tôi.
Dù phong cốt tôi có nghìn lần giang hồ, tôi không thể không nghĩ đến hai giọt
máu của tôi. Tôi viết lại mấy chữ cho Đảnh, rồi đi xe ra Vĩnh Điện đón xe về Hội
An. Từ khi vợ tôi mất, đây là lần thứ hai, tôi trở về thăm hai đứa con tôi. Lần
trước về chỉ có đau thương thảm thiết, lần này mọi người nhìn tôi một cái nhìn
khó hiểu. Đứa bé nhất không đến bên cha. Hẳn là vì, lần này quá lâu tôi không về
với nó... Cái nhìn của nó vừa mừng vừa trách. Chị Thông một người rất thương
hai cháu, người chị cả trong gia đình đã hỏi tôi về "bác Song" của
hai cháu: "Nghe nói bác ấy bây giờ giàu lắm phải không?". Tôi gật đầu:
Giàu! Vô tâm đến đâu tôi vẫn hiểu ý câu hỏi. Hôm sau tôi đi xe lên Kỳ Lam, nơi ở
của anh Song, người anh ruột của tôi.
Kỳ Lam cách Hội An 20 cây số. Một đêm đi thuyền là đến nơi.
Anh tôi thôi làm công chức mà nhảy vô làm "thầu khoán", kiếm được nhiều
tiền, mua nhà, mua vườn. Nhà khá lớn, vườn khá rộng. Trong nhà chất nhiều chum
đường. Anh em gặp lại, cũng chẳng có điều gì không vui. Nghe tôi tỏ ý muốn gửi
hai cháu lên với hai bác, vì nhà gần trường tiện việc học hành. Anh tôi đưa mắt
hỏi vợ, chị dâu tôi đã tiếp nhận một cách đon đả. Tôi trở về Hội An mang hai
cháu lên, cả nhà coi như một việc đương nhiên. Lúc chúng tôi từ biệt xuống ghe,
các chị của vợ tôi tất nhiên trìu mến, nhất là chị cả, người trực tiếp săn sóc
hai cháu, lo từng miếng ăn, giấc ngủ cho hai cháu, cố giữ vẻ bình tĩnh... nén
đi từng giọt nước mắt... Tình cảnh gia đình bên vợ tôi mỗi ngày một sa sút, dù
có muốn giữ hai cháu cũng không thể nào giữ được, cuộc sống vẫn có những quy luật
tàn nhẫn của nó, không thể cưỡng lại được. Trong nhà, Hài, cô gái út người đen
xấu, ăn nói rất vụng về, có chuyện gì xảy ra không hay, các chị đều đổ lên đầu
người con gái đen đủi bạc mệnh này. Trong phút chia tay, Hài không giấu, không
muốn giấu từng giọt nước mắt, từng cái giày vò đau xót của mình. Người dì bạc mệnh
này muốn giữ chặt hai cháu vào lòng. Hài gặp riêng tôi, chẳng chút sượng sùng,
e lệ nói với tôi: "Không đi đâu hết, cứ để hai cháu đó em nuôi, cha mẹ chết
rồi, em còn được một chiếc kiềng vàng trên cổ. Em sẽ trao cho anh bán đi nuôi
hai cháu". Ngày thường, Hài không phải là người gần gụi, săn sóc hai cháu
nhất. Nhưng trong lúc chia tay này, tôi mới hiểu thế nào là tấm lòng của người
con gái bất hạnh ấy, vì nhan sắc kém cỏi không đẹp như các chị, không được học
hành nhiều, ăn trơn mặc trắng như các chị. Dầu túng thiếu đến đâu, tôi cũng
không thể nào nhận lãnh cái tấm lòng vàng của người em vợ.
Năm 1975 đất nước được giải phóng, tôi vui mừng trở về thăm lại
gia đình ngoại của hai cháu. Hài không còn nữa. Tôi không sao cầm được nước mắt.
Tôi cũng không hỏi, mà cũng chả ai nói cho tôi biết: Hài chết lúc nào, chết ở
đâu, vì lẽ gì? Có lẽ cái chết đến với người con gái, một cái chết tự nhiên như
mọi người thôi. Nhưng khi viết mấy dòng này, tôi có một chút gì như ăn năn hối
hận. Hài ít học, không hiểu gì thơ văn... Nhưng suốt gần 10 năm trời, mỗi lần
tôi ghé vào nhà họ Trương, không một lần tôi đã làm được một việc gì đẹp hay
nói một câu gì ý nghĩa với Hài... Nhưng con người xấu xí, đen đủi bạc mệnh đó
không bao giờ chết trong thương nhớ của tôi.
Có phải đời có những sự bất công mà người đời đã vô tình bỏ
qua, không nghĩ tới khi nhận ra?
Lúc chia tay ở bến sông, Hài chỉ ngồi xuống đất, gục đầu
không muốn nhìn theo. Lúc nằm với hai cháu trên chiếc ghe nhỏ đi Kỳ Lam, cũng
như khi gửi lại hai cháu cho hai bác của cháu, đến bây giờ có nhớ lại, tôi
không sao nhớ được mình đã nghĩ những gì rõ rệt. Nhà anh chị tôi vào loại khá
giả, lúc ấy con cũng chỉ có hai đứa thôi. Hẳn khi bước ra khỏi cổng nhà ít nhiều
tôi cũng có đôi chút yên tâm. Có phải cuộc đời đã đập cho mấy trận, mà tôi vẫn
tin ở cuộc đời! Người đời hay khen tôi là một nhà thơ đãng tính, vô tâm, không
biết thù, không biết hận. Biết đâu vô tâm mà tội lỗi đầy mình!
Thu xếp xong chuyện con cái, có phần rảnh rang, tôi tìm trở về
với anh Đảnh, nơi bên cửa sổ có ánh trăng xanh đang chờ. Khi tôi đã châm lửa, đốt
những gì từ trong gan, trong ruột toát ra, có nàng trăng nào dại dột đến, đập cửa
bên song của tôi? Vẫn có đấy, một vầng trăng mát tươi và dũng cảm.
Chương VI
DƯỚI NGÀN SAO
Chuyện đời, đối với tôi có đổi thay, nhưng số phận của tôi
không thay đổi nổi... Dầu rằng chúng tôi có gang tấc bên nhau, chúng tôi không
dễ dàng với tay được. Nếu tôi có tục huyền thì sự tục huyền của tôi không bao
giờ hướng về cái bóng đẹp đã có lần vụt hiện ra trước mắt tôi, từ cái buổi sáng
ấy. Trong đầu óc, bất kỳ lúc nào, tôi không hề có nơi để tôi đặt vào cái ý nghĩ
ấy. Con đường của kim chỉ dưới đại dương là con đường của ý chí. Con đường nối
chúng tôi chỉ là con đường của vô thức. Cho rằng một ngày gặp nhau trăm lần, vẫn
không dễ đã gần nhau. Nhưng thôi, đó là chuyện tôi sẽ kể ở một chương sau, còn
bây giờ, tôi ngồi sáng tác ở cái bàn anh Đảnh đã xếp đặt. Bạn bè lại đến với
tôi. Quả tình tôi cũng có bạn bè... mà biết bao thứ bạn bè. Có bạn bè gần gũi
như Hoài Thanh, xa như Nguyễn Đỗ Cung... gặp nhau chỉ là nói chuyện văn chương
nghệ thuật, chuyện lịch sử, chuyện ngôn ngữ, chuyện chính trị.
Chị Phan Thị Nga vợ anh Hoài Thanh vốn là người rất nghiêm khắc.
Đến giờ ngủ là phải tắt đèn... Cả những tiếng thì thầm chị cũng không dung thứ...
Đèn tắt rồi, chúng tôi rón rén bước ra ngoài hiên, đóng cửa lại. Trên một manh
chiếu trải ngoài cái hiên hẹp, chúng tôi ngồi khít bên nhau... rì rầm, rì rầm
có khi đến gà đầu gáy. Chúng tôi có ý xách theo cái điếu cày, thủa ấy, cả Hoài
Thanh và tôi đều hút thuốc lào. Khi hút chúng tôi cũng khéo che ngọn lửa và kéo
từng điếu im ro. Tiếng nước trong điếu cũng lọc bọc thì thầm không nghe được.
Có lúc chị Nga nói thẳng với chúng tôi: "Các ông say nhau, say chi mà lắm
thế?"
Thủa dân còn mất nước, ai mà chẳng có cái say chùng say
lén... Chả phải là chuyện bí mật quốc sự, bí mật gì đâu, mà toàn là bấy nhiêu
chuyện trên kia, nói một đời không hết.
Đối với Nguyễn Đỗ Cung, so với Hoài Thanh, tôi không gặp nhiều...
Cung không chỉ là một họa sĩ, mà còn là một nhà bác học nhiều mặt. Có lần tôi
theo anh đến các đình chùa. Tôi hiểu được con rồng Việt Nam là nhờ anh. Khi tôi
ở Đà Nẵng anh có đến thăm tôi. Có lần anh cùng với tôi đi trên bãi biển Sơn
Trà. Thấy một viên sỏi, một hòn đá nhỏ anh cũng nhặt. Anh ngắm mãi trên tay...
Anh ngắm từng mảnh đá đến hàng giờ. Anh thông thái như một nhà địa chất. Nhưng
anh không tư duy địa chất mà tư duy nghệ thuật. Nhân nói về nghệ thuật Trung Quốc
khác với nghệ thuật Việt Nam như thế nào, một kết luận bất ngờ của anh làm tôi
sửng sốt. Anh nói bằng tiếng Pháp cho rõ... "Nghệ thuật Trung Hoa bay bướm,
thiên thần, còn nghệ thuật Việt Nam khỏe, bình lặng như đá". Anh nói thêm
"khỏe, khỏe, nghệ thuật Việt Nam khỏe". Trong lúc tôi đi bên anh trên
bãi cát, tôi đang nhìn mây, nhìn chim, đầu óc tôi đầy những chuyện mơ màng...
Anh Hoài Thanh không bao giờ bước ra khỏi nơi anh đọc sách,
nơi anh dạy học, xa cái giường nghèo nàn đơn sơ của mình. Anh chưa bao giờ tới
"xóm chị em" và cũng không biết chúng tôi làm gì ở những nơi ấy...
Anh Cung đôi khi cũng có mặt ở những nơi trác táng nhưng cũng chỉ nằm nhìn.
Sáng dậy chúng tôi về, anh cùng về với chúng tôi, với đêm trác táng của chúng
tôi, anh giữ một niềm kính mến thủy chung không hề đả kích, phỉ báng.
Đối với Vũ Trọng Phụng, Vũ Hoàng Chương, với hai người này từ
khi còn sống đến khi không còn nữa, tôi vẫn giữ một niềm thương mến. Nhưng nói
chung, từ khi tôi rời Hà Nội, rời Thanh Hóa, Huế, tôi đã cắt đứt với môi trường
văn nghệ sĩ...
Nhưng hôm nay, trong cái thị trấn nhỏ này bên mình tôi chỉ có
những người bạn nhỏ. Thật ra, trong đời tôi, lúc nào tôi lại không có những người
bạn nhỏ như thế? Họ chưa có tên tuổi trong các văn đoàn, nhưng họ yêu văn, yêu
thơ. Không phải chỉ vì họ yêu thơ tôi mà họ đến với tôi... mà vì họ còn yêu nỗi
đau buồn của tôi, yêu cái tính thật thà ngây ngô của tôi nữa.
Chúng tôi quen với họ không phải như đối với Lan Khai, Vũ
Hoàng Chương... gặp ở một cuộc họp tòa soạn báo, ở một nhà xuất bản, ở một quán
ăn, hay "dưới xóm". Những người em nhỏ của tôi, có khi còn ngồi ở ghế
tiểu học, đại học... con quan tuần, con nhà giàu... và có cả những kẻ thất học ở
nông thôn, những người công chức trẻ, những người đi buôn chuyến v.v... thuộc rất
nhiều thơ, trong đó có thơ tôi... Có lúc tôi gọi họ là những "con nai nhỏ"
của tôi... vì họ ngây ngô trong sáng lạ thường.
Ở cái thị trấn nhỏ này, tôi cũng có những người bạn nhỏ như
thế, khi học đọc thơ cho tôi nghe... họ đỏ cả mặt như lần đầu tiên nhìn một cô
gái.
Bình thường tôi ngồi bên bàn, im lặng, năm ba bạn trẻ đến với
tôi. Có khi họ xách cho tôi một nải chuối, một vài cây mía. Có khi một bông hoa
đẹp ngắt từ vườn mình... Có khi vài cuốn tiểu thuyết vừa mua ở hàng sách. Lâu
ngày, thấy tôi chưa kịp thay áo... họ dẫn tôi về nhà, múc từng gáo nước đổ vào
chum... Áo quần tôi thay ra, họ tự giặt và phơi ngoài sân. Có khi họ đánh hơi
thấy tôi sạch túi, họ kéo tôi đi ăn cháo lòng hay cháo lươn, góp từng đồng nhỏ
nhét vào túi áo tôi...
Chả phải họ là những người Tiểu Mạnh Thường Quân của tôi đó
sao? Vài ba anh em bàn về tôi, lặng lẽ lo cho tôi, như thế. Đảnh thường dắt tôi
qua một phố chợ... và chỉ cho tôi nhìn vào cửa hàng thịt lợn, nơi có một
"cô bé" hồng hào, béo tốt. Cô gái có lẽ cũng đã quá tuổi ba mươi.
Khách hàng của cô lúc nào cũng đông... Cô gái múa cái dao trên tay, xẻo từng thớ
thịt đặt lên cân. Có lần anh Đảnh mở miệng hỏi tôi: "Được chứ anh? Chị em
chú bác của em đấy". Xuân, một bạn khác, một hôm nói thẳng với tôi:
"Thằng Đảnh muốn gả người chị họ của nó cho mày đấy. Con một, mồ côi cha,
hai cha mẹ tậu được ba mẫu ruộng".
Những người bạn nhỏ đã rõ tình cảnh của tôi. Họ lo tính sắp đặt
đời tôi như việc nhà của họ. Tôi không nhà cửa, chỉ có hai đứa con không mẹ
đang gửi cả anh chị tôi ở một nơi xa. Cái ăn, cái mặc, cái tiêu phí tôi không
phải lo nghĩ. Vui hứng thì làm vài câu thơ đọc cho bạn bè nghe... Một đời lưng
chẳng lom khom cầu cạnh ai.
Ấy thế mà cái điều giản đơn đó, tôi coi như chưa ai nói với
mình cả. Tôi thầm lặng cảm tạ những người bạn nhỏ của tôi. Sau này đất nước giải
phóng, tôi trở về mong gặp lại những gương mặt nho nhỏ đó của Hầu, Bách, của Đảnh.
Nhưng bao giờ tôi còn được nhìn vào đôi mắt trong trẻo của những con nai nhỏ của
đời tôi nữa? Họ lạc đâu, chết đâu cả rồi? Có ai bên ở bên kia bán cầu nghe tiếng
gọi của tôi không? Hay sóng át lời nói của tôi? Còn những gương mặt đã vui dưới
tầng đất, hẳn không còn bao giờ nữa, mở mắt ra nhìn tôi!
Mất các bạn, nỗi vui đoàn tụ mất đi gần một nửa, các bạn có
biết không? Các bạn là tất cả tuổi trẻ của tôi, và mãi mãi là tuổi trẻ của tôi.
Trong bao đau thương đen tối của đời tôi,các bạn là những điểm sáng.
Tôi nhớ rõ... hôm tôi từ biệt Vĩnh Điện ra Đà Nẵng, rồi từ Đà
Nẵng tôi bước xuống một chiếc ghe bầu để ra Huế, trong cái khăn gói của tôi, chỉ
vài manh áo mỏng, còn thơm mãi cái hương thơm của hơi tay, của hồn trẻ các bạn,
các bạn biết không?
Trên chiếc ghe bầu ra Huế đó, một cụ già cầm lái. Vừa nhìn
sao, vừa đón gió, ông cụ hát tuồng. Chưa bao giờ tôi thấy trên đầu tôi, trời đầy
sao đến thế! Tôi từ biệt những người bạn trẻ, tôi đi tìm chi?
Trong đầu tôi, hình như có một ngôi sao nhỏ dẫn dắt.
Không phải là một chuyện mơ hồ...
Đời tôi đã được thấy một cái bóng... Bóng một người con gái
đã từng bước một vòng cung, đi trước mặt tôi. Một bóng người bước vào thế giới
tâm tư của tôi. Và cũng không phải là trong giấc chiêm bao, có lần tôi đã chạm
đến da thịt của nàng. Cái đụng chạm bất ngờ đó lẽ nào có thành số kiếp trong
cái trống rỗng của hồn tôi, của đời tôi, một ngôi sao nào như từ dĩ vãng xa mờ,
lại xuất hiện, vẫy tay tôi.
Từ đây, tôi đi giữa đời như dưới một bàn tay vẫy nào đó. Có
phải vậy không?
Một cơn gió mới như thổi vào ngực tôi, như thổi vào một cánh
buồm lại căng lên giữa biển khơi.
Chương VII
"MỘT BÓNG NGƯỜI LƯỚT QUA THEO ĐƯỜNG VÒNG CUNG"
Cố gắng đến đâu, không tài nào tôi nhớ được năm nào, tháng
nào, ngày nào, cái bóng người ấy đi qua trong đời tôi. Chỉ nhớ chắc là một buổi
sáng mai, một sáng Huế.
Thủa ấy, sau khi bị đuổi học khỏi Collège Quốc học Huế, tôi
ra học tiếp ở một trường tư thục: trường Nguyễn Du ở Hà Nội. Chả là lúc ấy thầy
tôi đã mất rồi, các anh tôi lúc ấy đang làm ra tiền, sẵn sàng nuôi tôi ăn học.
Muốn học đâu, học đến đâu, tùy... rồi tiện chân tôi bước vào ngành văn ngành
báo lúc nào không hay. Tôi là một người tự do. Nhưng tôi đâu có làm chủ nổi bản
thân tôi. Người dẫn dắt tôi đúng là cuộc sống. Bấy giờ tôi đã viết vài bài báo
và đã là tác giả của một số bài thơ... Thơ đã ở trong hồn tôi. Tôi có người bạn
người Huế dòng hoàng gia yêu tôi chẳng khác nào một người tình, không làm thơ
nhưng anh rất thích thơ. Với tôi, anh là một "Mạnh Thường Quân" nho
nhỏ... Anh làm "thanh tra" của một hãng Tiết kiệm, một hãng Pháp gọi
là "Etdoccapi". Hãng này có nhiều đại lý khắp nơi trên đất nước Việt
Nam. Anh có một chiếc xe Citroel kiểu du lịch... Bất thùng chi thình, nổi hứng
anh xách xe đi, muốn đi đâu thì đi, muốn ngừng lúc nào thì ngừng. Đương nhiên
trong những "chuyến đi" như thế, không mấy khi tôi không có mặt. Anh
bảo: "Không có Lư, chiếc xe cũng đâm ra ngớ ngẩn". Tôi thích được ở
bên anh, còn hơn anh thích được sống bên tôi. Những chuyến đi cơ hồ không định
trước. Chúng tôi săn từng chuyện bất ngờ, từng bóng người đẹp. Tôi thường trao
đổi với anh về một triết lý sống mà anh hoàn toàn chia sẻ. Tôi nói: "Mày
sinh ra tuổi Tuất. Mày là thằng Tuất...
Nếu mày ra đời sớm hơn, hoặc chậm hơn, mày không còn là mày nữa". Cho nên khi xe xuất phát trễ với giờ đã hẹn, đến hai, ba tiếng đồng hồ hay một vài buổi, anh vẫn đón tôi với một nụ cười. Anh hiểu rất sâu điều này: Đi chuyến này, thì nghỉ chỗ này, gặp người này, đi chuyến khác thì nghỉ chỗ khác. Gặp ai là điều mình không thể định được. Nhưng gặp ai đó hay không gặp ai, là chuyện quyết định cả một đời mình. Người đời hay nói: Một chuyến đò, một chuyến tàu là thế... Không phải chỉ Hồ Xuân Hương mà người con gái nào chẳng "lênh đênh chiếc bách giữa dòng". Ôi những chuyến đi trập trùng của chúng tôi có vẻ như những chiếc thoi đưa trong mầu nhiệm, có vẻ như lạc biển trệch bờ. Đời tôi xiết bao lần cứ để mặc cho đời trôi dạt, không mất công tìm hiểu! Có một chuyến đi cũng chẳng hiểu vì sao, anh bạn tôi ghé lại một nhà thờ ở Quỳnh Lưu. Một vị linh mục quen, béo tốt, hống hào, trẻ, đưa ra một chai rượu, đãi chúng tôi... Liếc thấy chai "rượu lễ" (vin de messe) bạn tôi nháy mắt nhìn tôi. Có rượu nào trên đời sánh được với rượu lễ này. Tôi không hề muốn mượn rượu để làm một người khác, nhưng mấy chén rượu hôm ấy, làm tôi lâng lâng chập chờn, tôi không còn nhận ra tôi nữa. Ngồi trên xe với tốc độ 100 km một giờ, tưởng chừng như ngồi trên một chiếc "xe mây". Tôi nói: "Ở đời cứ một lần đi xe bay như thế này cũng thấy đã đời". Tuất cãi "Sao chỉ một lần? một lần mà chịu à?". Tôi hiểu thêm bao nhiêu là chuyện nữa về các vị linh mục, giữa cuộc đời. Tôi nhớ lại lúc còn học trường tiểu học ở Đồng Hới, chiều tối tôi gặp những mục sư một mình đi ra ngoài bãi cát...
Nếu mày ra đời sớm hơn, hoặc chậm hơn, mày không còn là mày nữa". Cho nên khi xe xuất phát trễ với giờ đã hẹn, đến hai, ba tiếng đồng hồ hay một vài buổi, anh vẫn đón tôi với một nụ cười. Anh hiểu rất sâu điều này: Đi chuyến này, thì nghỉ chỗ này, gặp người này, đi chuyến khác thì nghỉ chỗ khác. Gặp ai là điều mình không thể định được. Nhưng gặp ai đó hay không gặp ai, là chuyện quyết định cả một đời mình. Người đời hay nói: Một chuyến đò, một chuyến tàu là thế... Không phải chỉ Hồ Xuân Hương mà người con gái nào chẳng "lênh đênh chiếc bách giữa dòng". Ôi những chuyến đi trập trùng của chúng tôi có vẻ như những chiếc thoi đưa trong mầu nhiệm, có vẻ như lạc biển trệch bờ. Đời tôi xiết bao lần cứ để mặc cho đời trôi dạt, không mất công tìm hiểu! Có một chuyến đi cũng chẳng hiểu vì sao, anh bạn tôi ghé lại một nhà thờ ở Quỳnh Lưu. Một vị linh mục quen, béo tốt, hống hào, trẻ, đưa ra một chai rượu, đãi chúng tôi... Liếc thấy chai "rượu lễ" (vin de messe) bạn tôi nháy mắt nhìn tôi. Có rượu nào trên đời sánh được với rượu lễ này. Tôi không hề muốn mượn rượu để làm một người khác, nhưng mấy chén rượu hôm ấy, làm tôi lâng lâng chập chờn, tôi không còn nhận ra tôi nữa. Ngồi trên xe với tốc độ 100 km một giờ, tưởng chừng như ngồi trên một chiếc "xe mây". Tôi nói: "Ở đời cứ một lần đi xe bay như thế này cũng thấy đã đời". Tuất cãi "Sao chỉ một lần? một lần mà chịu à?". Tôi hiểu thêm bao nhiêu là chuyện nữa về các vị linh mục, giữa cuộc đời. Tôi nhớ lại lúc còn học trường tiểu học ở Đồng Hới, chiều tối tôi gặp những mục sư một mình đi ra ngoài bãi cát...
Một lần khác... xe đi đến địa hạt huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh:
trước mắt chúng tôi một mặt trời sắp lặn đỏ lạ lùng. Chưa bao giờ tôi thấy một
mặt trời đỏ như thế và to bằng một cái nia! Chúng tôi có ý định vượt Đèo Ngang
lúc chập choạng. Nhưng Tuất dẹp lại ngay cái ý ngông. Tuất cho xe "xịch"
một cái đậu ngay vào sân một quán bên đường. Chúng tôi ăn cơm chiều ở đây... và
đêm, Tuất nhờ chủ quán gọi một đám "nhà trò" cạnh huyện, gồm một kép
già và hai cô đào trẻ ăn mặc theo kiểu tranh tố nữ. Lần đầu tôi được nghe tiếng
hát "nhà trò". Tôi lặng nghe, lặng nhìn, từng khúc hát, từng điệu bộ...
Tôi không rõ họ diễn tích nào... vẫn cứ mở mắt theo dõi. Sáng hôm sau tôi hỏi bạn:
"Sau khi kết thúc, có người "ả đào" quay lưng về phía chúng ta.
Sao mày lấy quạt đập mấy cái "rẹt" vào cái đít núc ních của ả để làm
gì? Tuất cười: Thú thật cả ngày lái mệt quá, tao ngủ một mạch khi tiếng hát vừa
cất lên cao, không sao cưỡng được. Tôi nghĩ như một đứa bé ngây thơ "còn
biết bao giờ mày gặp họ để xin lỗi cho được". Có phải vì thế mà đời tôi
sau này mỗi lần bước vào một "xóm chị em" tôi biết trân trọng ít ra
như vào nơi có "rượu lễ". Lại một lần sáng đi từ Hà Nội, chúng tôi
đêm đến Huế... Tuất có nhà mẹ ở Vĩ Dạ. Sáng hôm sau, Tuất hỏi tôi: "Cậu có
muốn ghé thăm ai ở Huế, mình lái cậu đi". Bất thần từ trong vô thức, tôi
trả lời như điều đã định trước: "Mình có một người bà con xa ở Bến Ngự,
bên chùa Linh Quang", người bà con xa này tôi vẫn nhớ được họ tên... Đỗ xe
ở chùa Linh Quang, rồi chúng tôi leo một cái "dốc đồi", cây trước ngõ
rất xum xuê... chúng tôi bước vào một khoảnh vườn. Một nhà ngói đơn sơ với một
nhà cầu thẳng xuống một nhà ngang. Người bà con xa không già lắm. Khoảng trên
dưới tuổi 50... nụ cười rất duyên dáng, đôi bàn tay trắng trẻo... ông tiếp
chúng tôi trên bộ ngựa... chúng tôi khai lý do cuộc đến thăm, ông vui thật vì
được nhận bà con. Câu chuyện xoay quanh vấn đề âm nhạc ở "Thần Kinh".
Ông cho chúng tôi hay: một quan võ Nhật Bản vừa đến xin nghe mấy điệu đàn quen
thuộc ở Huế... Nghe xong, hai bên chụp với nhau một tấm ảnh. Chúng tôi nói chuyện
với nhau giữa mùi mít vừa chín tới. Ngoài mùi mít chín, chúng tôi chẳng thấy
hương vị nào khác. Có thể chỉ có vài tiếng chim. Tuyệt đối không nghe một tiếng
động, một tiếng ồn từ nhà trên hay nhà dưới... Chợt trong một lúc, cả hai chúng
tôi cùng nhìn về một phía. Thấp thoáng một bóng người con gái đang di chuyển.
Không phải lướt qua giữa sân, gần trước mặt chúng tôi, mà là bóng người rón
rén, nhẹ nhàng lướt giữa hàng cây, xa xa vạch một đường vòng cung... Một màu áo
trắng, một vành nón nghiêng nghiêng và mái tóc dài mướt. Chúng tôi chờ cho bóng
người hút qua, mới trở về với câu chuyện... Lúc về, khi ngồi vào xe, tôi mới hỏi
bạn: "Thế nào?". Bạn tôi chỉ mủm mỉm cười. Lúc nào, chuyện gì anh
cũng mủm mỉm cười như thế. Có vẻ quan tâm, anh hỏi "Tôn thất à? Hệ mấy?".
Tôi đùa: "Hệ một trăm", ý nói đi hàng vạn cây số cũng chưa đến được.
Còn đối với tôi! Quả là một bóng người con gái như thế, lần đầu lướt qua trước
mắt tôi. Thật ra, không phải lần đầu tiên tôi mới biết đến người con gái ấy.
Tôi đã biết cả tên nàng, ít nhiều tôi đã nghe các anh tôi nói đến "người
bà con xa", đến người con gái ở xóm Trường Cửi. Họ nói đến như một người mệnh
bạc nào đó!
Thầy tôi trước khi cáo quan về dạy học, có mấy năm làm Tri
huyện Phú Lộc thuộc tỉnh Thừa Thiên. Thầy tôi có một nàng hầu ở đây. Người
"thiếp" của thầy tôi chính là con chú con bác của người nghệ sĩ nổi
tiếng ở Huế: Ông Chủ Văn có nhà ở Trường Súng, và năm người con, ba trai, hai
gái đều là nghệ sĩ nhạc truyền thống, nhiều người biết tiếng.
Người tiếp chúng tôi hôm ấy, là con của cụ Chủ Văn, và là người
cha của người con gái... có một cái bóng vừa đi qua, vốn từ trong trứng nước
cũng là một nghệ sĩ. Tên người con gái, đã dội lên trong gia đình tôi, như một
tiếng thân quen. Lúc chưa thấy mặt, cái "số phận" ấy đã len lỏi vào hồn
tôi... Tôi đã nghe các anh tôi nói đến cái nỗi đau thương đã sớm đến với
nàng... Nói đến nỗi lòng tuyệt vọng của nàng...
Nhưng tuyệt đối sáng nay, khi nghe anh bạn hỏi tôi có muốn
thăm ai ở Huế, tôi nhận câu hỏi mà thờ ơ có một câu trả lời như thế, chứ sáng ấy
mảy may tôi không có ý tìm nàng. Tôi cũng từng quan tâm đến từng bóng đẹp đi
qua, nhưng tôi không có ý săn bóng nàng. Điều ấy có lý do... Khi tôi vào khoảng
17 - 18 tuổi, như trên đã nói, tôi có chụp một cái ảnh hiệu Khải Xương, ở ngã
giữa Đông Ba... Tóc không chải nếp, cổ áo đăng-tông, chẳng chút gì chuẩn bị cho
tấm ảnh 9 x 12 của tôi. Sau này Nguyễn Thị Manh Manh, cô gái Sài Gòn, người đồng
hành quý báu của tôi trong bước đầu của "Phong trào thơ mới", một hôm
ra Huế vào thăm tôi, ở căn nhà tranh trong nội thành, đã xác nhận với Phan Thị
Nga bạn của cô như vậy, về đôi mắt quá ngây thơ của tôi. Nhìn vào ảnh tôi, tôi
cũng có thể nói với tôi như vậy: "không dứt lặng". Tôi yêu cái lành,
cái sáng của đời tôi đến mức tôi không muốn cho hồn tôi động đến một trang giấy
nào đen bóng chữ.
Tôi chỉ muốn tôi thuộc về những hồn ai còn trong sáng tinh
khôi! Tôi không đi tìm những vết thương... Đời Mừng đối với tôi, không phải là
cánh cửa đã mở toang. Lim dim, mắt tôi qua cửa hé, đã thấy chút bóng đen
trùm... sau này tôi không hề tìm hiểu... Nhưng dần dần tôi cũng biết được với
tôi đây là cả một mối tình đầu của Mừng. Mặc dầu trước đó có một người rất yêu
Mừng, người đó là một giọt máu Hoàng gia... một dòng trong hai dòng Vương, đã
được truyền trong câu thơ nổi tiếng Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh đường, nghĩa
là thơ hay đến như ông Tùng, ông Tuy có thể làm mất đời Thịnh Đường. Tùng đây
chính là Tùng Thiện Vương, con trai của vua Minh Mạng, tác giả 2.000 bài thơ để
lại cho đời, không phải chỉ là một bậc thầy trong thi ca, mà là cả một tấm lòng
vàng, đối với những người bất hạnh, đối với nhân dân thống khổ. Sau này, tôi đã
viết một bài giới thiệu thơ người. Và một lần qua Huế, Mừng và tôi có đến thăm
nhà thơ và vái trước chân dung to lớn của người: Hoa có trăm cánh cao thấp khác
nhau, dẫu có xa gần cao thấp vẫn cùng một gốc... Đó là điều cấm kỵ trong luật
vua. Nhưng một bên là một thư sinh, một trí thức, một bên là hoa vừa nở. Sau
này, chúng tôi đã yêu nhau, có lần Mừng nói với tôi: "Trên một chiếc thuyền
sông Hương, có nhiều người đẹp ở Huế, có những cô con dâu các vị đại thần... Em
cũng dự vào ngồi giữa đám ấy...".
Thật ra chẳng có gì phải ngạc nhiên. Quyền uy vua chúa đang
tàn, chút mùi vương giả cũng còn đôi chút phảng phất lưu luyến... Xưa nay, những
chuyện ông hoàng bà chúa với nhau trong cung đình, ngoài có lính gác, ai cũng
biết. Những chuyện thế này, trong Hoàng tộc chẳng ai muốn xé to...
Nhưng một tin đăng trên báo Tràng An gợn lên một
làn sóng bất ngờ trong Tôn nhơn. Cũng chỉ vì những kẻ bình thường trong phủ
cũng sợ một điều: "Tây biết được, không khéo Tây lại bắt mọi người phải nộp
sưu, nộp thuế, như những dân thường", không còn được hưởng chút ân huệ bé
bỏng cuối cùng. Cho nên việc mới dội ra, đã phải tìm cách dập đi! Thật ra, ngay
trong dinh Tùng Thiện Vương, cũng chẳng ai nỡ lòng cản trở... Người dâu của
Tùng Thiện Vương vốn là người mẹ của người đã có ý yêu Mừng, đã từng viết mấy
câu thơ tặng con, tỏ thái độ tán thành kia mà!
"Nghe tin anh chẳng được đi thi
Thôi vậy sang năm cũng kịp thì
Sung sướng trở về cùng hợp mặt
Trăm năm duyên thắm mối tình si"
Cha là người thư sinh chưa đủ tuổi để thi vào đại học canh
nông, người mẹ chúc anh sang năm gắng thi cũng còn "kịp thì" rồi khi
tốt nghiệp xong đại học, hai bên lại họp mặt, − chuyện trăm năm duyên
vẫn thắm nồng.
Một dòng sông bị chắn, lại trở dòng... cũng là câu chuyện
năm, bảy giọt nước mắt để ngăn tờ giấy... trắng tinh.
Sau này có lần vô tình hay hữu ý, Mừng để cho tôi xem một
phong bì với mấy hàng đề địa chỉ người nhận... tôi cũng chỉ liếc qua, như liếc
mắt qua một số phận bên cạnh. Thế thôi! Mãi sau này, khi chúng tôi dẫu chưa
thành đôi lứa, lần đầu tiên tôi nhẹ bước vào thế giới tâm tư của Mừng, và một
hôm tôi nghe Mừng đàn... tôi cũng gợn bâng khuâng... Bài thơ sau này in vào
trong tập Tiếng Thu nhan đề: Hoa lan, nghe rất trang trọng. Thật
ra, có lúc tôi tự nói đùa với mình: Một chuyện "co giật". Lúc này đối
với Mừng, tôi đã có hai câu thơ làm phương châm xử sự:
Ta thương cỏ, ngùi hương phận cỏ
Nguyện ngày mai làm gió bên đường.
Nguyện ngày mai làm gió chớ không phải là kiếp này. Ấy thế mà
một chút ghen giận đã xảy ra. Đêm ấy, tôi ngồi đu đưa trên một cái thang tre, dựa
vào cây cau... Tôi không nhớ Mừng đàn bài gì... Nửa chừng hay đã xong một khúc,
Mừng buông tơ... cúi đầu, không chịu đàn lại nữa... tôi cho rằng: Hồn Mừng đã
xa vắng... Sau này tôi viết:
Hoa lan quên nở bên giàn,
Nhớ ai em để tiếng đàn ngừng đưa...
Tiếc gì em nửa đường tơ!
Cho hoa quên nở, trăng mờ quạnh soi...
Chờ em đêm đã khuya rồi,
Rộn ràng lá rụng, vàng rơi đầy thềm!
Rõ ràng là ý đẹp mà vẫn là cơn giận! Kỳ quặc! Sao tôi lại đòi
ở Mừng một điều tôi đã từng tha thứ cho tôi?...
Và khi Mừng bước vào giấc mơ đầu tiên của mình, Mừng hay đâu
đã có tôi ở trên đời... Giọt nước mắt bật ra khỏi mí mình, đó cũng chỉ là giọt
sương để vướng vào tay áo, khi tôi len lỏi giữa hàng cây.
Giọt sương ấy cũng chẳng khác gì cái dáng người trong sáng ấy,
đã vạch một vòng cung trước mắt tôi. Dẫu tôi có biết chút ít về dĩ vãng của Mừng,
sáng ấy tôi cố thu cái dáng đẹp lướt qua, như một ống kính mắt đã thu giữ sự thật
khách quan. Thế thôi! Một vành nón nghiêng nghiêng, mái tóc dài, sợi dây vòng
vàng trên ngực óng ánh, đã vô tình mở ra một trang đầu của cuốn sách dài hơn ba
phần tư của cuộc đời tự giác của tôi và... mãi mãi, nó sẽ không tàn phai đi
trong cõi ảo mờ...
Nguyễn Du khi ngập ngừng bước vào một cuộc sống mới, đã ghi lại
những hình ảnh tuyệt diệu:
Hộp phấn bằng ngà vừa mở nắp...
Và thêm đó, trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng đã viết: "Mày
ai trăng mới in ngần". Tôi muốn tin rằng: dẫu lúc bấy giờ, lòng chúng
tôi chưa "có" nhau, mọi sự đã bắt đầu từ cái giây phút ấy: một dáng
người đã lướt qua trước mắt, đã biến thành "thiên thu". Dáng người đi
sau, mà bóng của người đã chiếu trước vào gương. Tôi ghi lại đây như chuyện một
chiếc bóng đi trước hình vậy.
Chương VIII
MỘT CHỮ THƯƠNG
Lúc tròn mười tuổi, ở trong làng tôi, cách Đồng Hới độ 50km,
cách Huế độ gần 150km, tôi đã nghe thầy tôi nói đến ông Chủ Văn một tài tử
phong lưu… một danh cầm ở kinh đô. Nhà ông là một bảo tàng nhỏ về nhạc Huế. Ông
cũng có một phòng riêng trưng bày nhạc cụ phương Tây, từ nhạc dây đến nhạc gió.
Người ta nói đến cái xe sắt nổi tiếng của ông. Là một chủ sự, một ông quan nhỏ ở
Phủ Tôn Nhơn, xe sắt của ông đi sớm về khuya, từ dinh to đến ngõ hẹp của kinh
thành. Không phải để len lỏi vào những nơi quyền cao chức trọng của triều đình,
chạy chọt chút danh lợi đỉnh chung.
Thuở ấy, cũng có bánh xe cao su, nhưng còn hiếm, với một chiếc
bánh xe gỗ trên đường đá, đã khua động những đêm khuya… Hai ba giờ sáng, trong
cái im lặng của thành phố, người quét đường hay khách chơi khuya còn nghe tiếng
lạch cạch xe ông.
Ông từ cuộc hòa đàn nào ở Hầu Biền hay ông Cả Soạn, hay từ
danh cầm nào đó, bước ra… Hay cũng có thể trăng sắp lặn, gà cồn đã gáy, ông từ
một chiếc đò bên sông bước lên, chia tay một tiếng ca, tiếng hát. Có khi trời
sáng bạch, ông mới về đến ngôi nhà của ông ở Trường Súng, nơi bến có bụi tre là
ngà. Cũng có lúc, từ Trường Súng, không đi đâu xa, lạch cạch đến dốc Nam Giao,
ông lên nhà vườn, một cảnh vườn xum xuê cạnh chùa Linh Quang, dành cho người
con thứ hai của ông, một nghệ sĩ tài hoa, người sinh ra Mừng. Cả nhà đã ngủ rồi.
Mẹ Mừng thức giấc chợt nghe tiếng lạch cạch, kêu lên…: “Ô ông… Ô ông vô”. Bà gọi
tất cả mọi người dậy. Ai nấy không kịp dụi mắt, vội vàng sửa khăn sửa áo đón
ông…. Đã thành lệ, bất kể khuya hay sớm, ông vô là theo lệnh ông phải có cuộc
hòa đàn, kẻ tranh, người tỳ… ông thổi tiêu. Ông người to như hộ pháp, nhưng với
chiếc tiêu nhỏ trên tay. Mừng cũng phải dậy tưng tưng mấy tiếng đàn tranh cho
ông vừa lòng… Tiếng tiêu cũng véo von thăng trầm… Cả người mẹ của Mừng không hề
biết đàn cũng nghiêm túc thành kính ngồi nghe. Cuộc hòa đàn kéo dài đến khuya,
cho đến khi ông cháu mệt mỏi, mọi người nghe tiếng xe lách cách đã xa, mới lên
giương ngủ tiếp. Có khi trên đường đi của ông, ông gọi người con trai là chú Hướng
và người con gái là cô Huyền vào dự cuộc hòa đàn lớn của “Tam đại đồng đường”,
hòa đủ cả năm cây. Ông lúc trẻ có mua một người hầu nít, cũng là để xoa bóp tuổi
già… Nhưng từ lúc nào, cô hầu nít đó học được ông dạy cho đàn, và đã là vợ hầu
của ông và thành một thành viên của đại gia đình nghệ sĩ.
Đến nay, không ai biết rõ người nghệ sĩ hộ pháp ấy làm
cho cả nhà sợ như cọp dữ đã đi đến cây sáo, cây tỳ, cây nguyệt như thế nào.
Nhưng ông có lúc là rể của một gia đình giàu có “địch quốc”. Dưới bến sông của
nhà “địch quốc” đó, quanh năm đầy những bè gỗ quý kéo ngăn cả dòng sông đào xuống
An Cựu. Những đền tạ, những lầu các của vua chúa đã dựng lên một phần. Hẳn nhờ
có gỗ của ông, chở từ các nguồn về…
Người con gái yêu của vị “địch quốc”, đã ở trong danh sách những
cung phi tiến dâng vào cung vua… Sự đời lại không xảy ra như thế. Người con gái
nhà giàu không chịu vào cung nên cha bị vu chứa những đồ quốc cấm. Người sinh
ra nàng đã phải trả giá đắt bằng cả sinh mệnh của mình: ông bị mang ra chém đầu
ở cửa An Hòa, phía Nam kinh thành. Còn người con gái thoát chết trở nên vợ của
một người, bề ngoài không có dáng gì một nghệ sĩ, đó là ông Chủ Văn.
Ông Chủ Văn là một ông quan của phủ Tôn Nhơn, một cơ quan lo
việc nội bộ của những người Hoàng tộc, gồm những kẻ tôn thất từ đời Nguyễn
Hoàng đến những hàng vương tử cao sang gần gũi với những vua Nguyễn đương thời.
Dẫu sao, thì ông cũng cho đời bốn đứa con cũng đều là nghệ
sĩ… Người con trai đầu cây đàn nào cũng biết chơi, mặc dù không thật hay. Người
con trai út, tiếng đàn “nhu mì” khiêm tốn, dễ thương, không hề muốn chơi trội.
Ông chỉ là công chức Tòa sứ tỉnh, con rể người dạy con vua, và chính ông là người
bạn cọc chèo của vua Duy Tân yêu nước bị Tây đày đi xứ lạ.
Người con gái là vợ của một bác sĩ, và nổi tiếng về vụ án ly
dị của bà… Bà thường vào dạy đàn cho bà Từ Cung, vợ của vua Khải Định và là người
mẹ của Bảo Đại (một bà “mẹ vua” của một ông vua ăn lương tháng của Tây). Bà
thích đánh bạc, có khi thua bạc cũng túng thiếu như ai… Cô giáo dạy đàn… với
“tài nghệ” của mình (không phải chỉ về nghệ thuật) đã trở nên người không những
kín đáo đi vay mượn, cầm đồ vàng ngọc cho Từ Cung, mà còn là một người mối lái
biết bán từ cái phẩm chức nhỏ bé cho dân quê đồng thời là một người nghệ sĩ nổi
tiếng trong kinh đô, có những điệu đàn xao xuyến những người tuổi trẻ… Bà chết
trong âm vang tiếng chuông, tiếng mõ của Phật.
Còn người con trai thứ hai tên là Tôn Thất Kiêm sành cả năm
cây, nhưng thường ôm say cây tỳ. Ông là một quan nhỏ bộ Lễ, một nhà nho, một
nhà thơ thường mở rộng giao du với những nhà thơ trẻ tân học. Trên hết mọi sự,
ông là tác giả của một “tác phẩm” sinh động, độc đáo: Mừng. Mừng, người con gái
của ông dầu muốn dầu không đã trở nên “nhân vật” chính của tập “Hồi tưởng” này
của tôi.
Ông Chủ Văn cũng như các nghệ sĩ kinh thành lớp trước đều
trân trọng, trang trọng cái đúng đắn, nghiêm túc của điệu “Nam ai cổ”. Lúc còn
là đứa học trò nhỏ tôi đã nghe các anh tôi nói, đêm mưa, Cả Soạn đàn, bên vách
ngoài thềm như có ma quỷ ngấp nghé nhìn nghe. Có phải cái vẻ hàn lâm cổ điển,
cái nghiêm túc của nghệ thuật xưa đã làm cho thần khóc, quỷ sợ! Trái lại điệu
“Nam ai mới” của ông Thừa Kiêm khác với giọng đàn của ông Chủ Văn, cha mình,
nghe như buông thả, lơ lửng… Ông muốn đẩy hồn ra mà lại như muốn hút tới. Hoài
Thanh có lần đã viết: rất say cái buông lỏng của điệu “Nam ai mới”. Đội Trát một
nghệ sĩ lớn tài ba với một ca nữ nổi tiếng đương thời trên sông Hương đã đàn ca
thể hiện cho chúng tôi nghe cả hai làn điệu cổ, mới đó. Thật ra tôi đều thẫn thờ
trước cả hai làn điệu. Có lần nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba đã phân tách cho tôi một
cách khoa học sự xuất hiện và sự phát triển của một làn điệu nhạc dân tộc. Vấn
đề nghệ thuật là vấn đề tâm hồn, là cái tế nhị ẩn sâu trong đáy hồn của người
thể hiện cũng như của người cảm thụ. Một lần tôi hỏi ý Mừng thích làn điệu nào,
Mừng đáp một câu gọn: “Em thích cái buông lỏng của cha”.
Trong tập “Hồi tưởng” này lẽ nào tôi không dành phần
rộng lớn cho cái tâm hồn khoáng đạt, thoải mái của người cha ấy?
Mặc dầu khi giữa tuổi còn trẻ người nghệ sĩ đã gieo không ít
đau thương cho gia đình, cho người vợ, và cho bầy con thơ dại, trong đó có Mừng.
Giữa cái tuổi xuân của vợ, người nghệ sĩ chợt ra đi, để lại một
mảnh vườn rộng cô quạnh giữa đời, một bầy con dại. Người nghệ sĩ ấy với cây đàn
đã đi đâu?
Từ Huế ông vào tận Lục tỉnh. Đâu có tiếng đàn, tiếng ca, tiếng
tri âm, tri kỷ thì ông đến. Không một bức thư gửi về, không một lời nhắn lại.
Sau này, Mừng kể lại: “Ông thì ở Trường Súng, cô chú thì ở quanh chùa Từ Đàm,
đêm đông ở nhà thật kinh sợ. Nhà vắng, vườn rộng, mẹ con co lại trên manh chiếu.
Mẹ nằm ở giữa, sờ bên phải, bên trái, sờ lên đầu dưới chân, bàn tay không ngủ,
có động đến thịt da, tóc tai bầy con, lòng mẹ mới yên. Cửa chốt chặt mà như giữa
vườn hoang, mẹ con nhiều lúc không ngủ, dò nghe từng tiếng động, từng tiếng
chân đi, tưởng chừng lúc nào kẻ gian cũng vào được”. Người mẹ đã nuôi những đứa
con của mình như thế. Cũng vì thế mà người chồng khi trở về không để cho ai động
đến giấc ngủ của vợ. Nhưng phải ngoài bốn mươi tuổi, người cha, người nghệ sĩ bốn
phương ấy mới trở về. Chỗ ngồi của người lại nguyên như cũ. Trên vách lại đủ
năm cây đàn, và nhờ dòng máu, người nghệ sĩ được trên ban cho ít phẩm trật. Ông
đã thành một quan nhỏ coi lăng tẩm. Những ngày lễ lạt, người khác được vui chơi
riêng ông lại bận rộn nhất. Cả nhà vợ con cũng rộn theo những ngày ấy. Nếu xe của
cụ Chủ Văn bánh còn bằng gỗ, thì ông Thừa Kiêm lại có một chiếc xe nhà bóng
loáng bánh cao su. Chủ yếu ông Thừa Kiêm trông coi Khiêm Lăng, lăng Tự Đức – một
lăng đẹp nhất cách kinh đô độ mười cây số. Đường lên lăng đồi núi trập trùng.
Ông thường cùng với người kéo xe từ nhà đi ra lúc gà đầu chưa đập cánh. Trên đường
đi ông còn gặp những tên ăn trộm đêm, đang trên đường hành nghề, chúng chào ông
như chào một ông quan tuần cảnh.
Mỗi tháng trong hai kỳ sóc vọng như thế, trong chiếc áo xanh
rộng, ông đi lạy các lăng vua, cung kính nghiêm túc bao nhiêu thì khi ngồi một
mình cạnh cây đàn, hai bên những tri âm tri kỷ của ông, ông thoải mái buông
lòng bấy nhiêu. Ông biết buông mình. Khi nỗi đau đến giữa lòng ông, ông như tìm
được ngôn ngữ đời sống. Không phải chỉ có khúc điệu dễ dàng toát ra từ đường
tơ, dưới những ngón tay luyến láy…. mà cũng không phải một chữ, một câu ca thơn
thớt từ trên đôi môi cố vặn duyên dáng mà cuộn từ trong gan ruột lên. Chính lời
ca, lời thơ của ông, ấp ủ và thoát ra từ nỗi đau da thịt của mình. Từ trong
tình cảnh ngang trái mà ông đã trải qua, ông đã viết lên những lời thơ thắm thiết,
da diết để rồi hòa vào từng điệu khúc Nam bình, Nam ai… Sống giữa vợ con bình
thường, ông vẫn chập chờn trong từng cơn sóng mộng, điếng lên vì từng vết
thương do mình tự tạo lấy. Tôi vốn trân trọng điệu Nam bình cất lên trong sóng
gió dòng Hương, nhưng khi giọng Nam bình riêng của ông cất lên, tôi đã thẫn thờ
xao xuyến….
Ngán thay trò tạo đa đoan
Mảnh trần doan (duyên)
Ghẹo người khuê các
Rồi:
Lịu địu đôi đàng
Ấy công đầu ôm cầu thẹn kẻ gieo cầu
Yêu nhau nào biết cho nhau
Xoàng đôi chén đập tan gương sầu
Với người cha của Mừng tôi mới thấm sâu những từ trần
doan (duyên), lịu địu, xoàng đôi chén… cũng chỉ là một mối tình ngang
trái mà trần duyên đưa lại chỉ để ghẹo nhau chơi. Hai bên đều có nơi có chốn đã
lịu địu hai đàng rồi mà “cầu” kia còn cắc cớ ôm gieo thêm cho tội nợ. Thôi thì
đã vậy âu đành vậy, rượu đâu nào ta xoàng với nhau đôi chén, cái mảnh gương sầu
kia ta hãy đập tan ra từng mảnh. Ý tình trên chữ nghĩa thì ai cũng hiểu như thế.
Nhưng trong cái giọng Huế, thì ta nghe như một giọng đùa rỡn với cái đau chết
người…. Bỗng phựt như một tiếng dây đứt một cái bóng phồng lên chợt xẹp lại….
Cái duyên Huế là thế… có khi nghe xong nước mắt bật ra lúc nào chẳng biết.
Ở ông Tôn Thất Kiêm thơ với nhạc như đôi bạn song đôi. Chính
ông là người đẻ ra các khúc điệu song đôi ấy cũng như ông đã sinh ra người con
gái tên Mừng: như một sản phẩm mang nhiều dấu ấn của ông.
Ông quả tình là một nhà thơ trong cảnh vườn này… không phải
chỉ có mùi mít chín mà những đêm hè… một chút hương ngọc lan, bất thần tỏa ra.
Khi ông ngâm những bài thơ Đường và truyền đạt cái đẹp ấy cho người con gái
mình, ông đã mang về đây những vị ngọt ngào hiếm có, rất Việt Nam. Nơi đây
chúng tôi có những đêm thơ, Mừng cất tiếng ngâm:
Tích nhân dĩ thừa Hoàng Hạc khứ
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu…
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Giọng ngâm nga hồn người con gái cứ man mác, man mác hoài
trong tôi. Những tình cảnh qua lời dịch của Tản Đà, phảng phất cái thi vị Á
Đông mà thơ Tây phương không thể có được, rất Trung Hoa mà cũng rất Việt Nam.
Thương nữ bất tri vong quốc hận
Cách giang do xướng Hậu đình hoa…
Thương nữ biết chăng niềm hận nước
Ý thơ, vì dân, vì nước, chuyển qua Mừng, người con gái ít nhiều
bướng bỉnh này, ngâm lên như một nỗi đau thúc bên hông. Những ngày tháng đi
trên mảnh đất mình, gò đống mình, sông bãi mình, không giật mình sao được. Vì một
nỗi đau thúc bên hông ấy, từ những đầu bạc hay những mái tóc còn xanh…. người
nghệ sĩ này tuy có mặc áo rộng xanh để kiếm sống độ nhật, vẫn không hề biết ton
hót, quỵ lụy… trước bất kỳ ai… Ở cái vườn nhỏ này, khi vầng trăng đã treo lên
trước ngõ, khi hai ba bạn thơ cùng xum vầy bên những cốc rượu, có cả không khí
“chụm đầu nhau ngoài lề xã hội”. Tôi có những người anh ruột có tên trong Thi
nhân Việt Nam: [c] Lưu Kỳ Linh,… cũng là một tay gần gũi với
vườn thơ… lúc gặp gỡ, lúc chia tay. Người ra đi (đi đâu người trong cuộc cũng
không biết), để lại một bài thơ, người ở lại, trong trìu mến họa lại 1 bài.
“Chừ đây” chú lại sắp ra đi,
Chả biết quà đi những món gì
Thôi hái quả trăng mà nhắm rượu
Say sưa tiễn chú một “Cung tỳ”…
“Trăng đang sáng mấy đám mây che lấp...” Rồi lại
vài hạt mưa thưa, thơ lại tiếp:
Cung tỳ tôi tiễn quá say sưa
Nhỏ giọt bên thềm mấy hạt mưa
Thôi chú ngồi, thêm thêm chút nữa
Đợi cung tỳ dứt hạt mưa thưa…
Khi tôi không còn là người họ xa của gia đình Mừng, có lần mượn
chén rượu, người nghệ sĩ thân sinh ra Mừng đã nói với tôi: “Cụ mự họ sống, các
đời cụ mự sống ra sao mặc họ, chúng mình cứ sống cuộc đời chúng mình”. “Cụ mự”
đây là những vị đại thần trong triều: trước và cả sau cái chuyện tày
đình: “Năm cụ khi không rớt cái ình” [d] xảy ra ở Huế. Đời của chúng mình là
vầng trăng, chén rượu… và vài vần thơ hào hứng!
Người cha không phải là một ông quan áo rộng xanh, mà thật sự,
ông là người thợ vườn. Ông đã để lại cho con cháu một tấm gương lao động chân
tay tuyệt vời.
Mỗi ngày, nhà nghệ sĩ Trường Cửi dậy sớm hơn mặt trời. Khi uống
xong một tuần trà tự mình đun nước và pha lấy mà uống… và đi từng giường đánh
thức các con dậy với lời dặn: “Đi nhè nhẹ nghe con, để cho mẹ ngủ”. Tất cả người
nhà cùng với người giúp việc đều cùng một lúc bắt tay vào lao động với ông. Tự
mình, ông tưới hoa, ông lồng trái, ông bắt sâu, tỉa cành… những việc nặng nhọc
nhất, trước hết thuộc về phần ông.
Ông đào, trục cả hàng tre già để lấy đất trồng dừa, trồng
tiêu… Ông bắt người nhà mua từng bó “bổi”, đào từng hố sâu, ủ gốc cho những
hàng cau. Riêng những bàn tay yếu ớt ông phân cho trồng trầu.
Chỉ có một người ông không bao giờ động tới … đó là người vợ
duyên dáng yêu thương cuả mình, người luôn luôn có nụ cười trên môi… người
không hề nặng lời với ai, người tưởng như không có việc gì làm trong nhà, nhưng
là người chủ thật sự của gia đình.
“Nào! Nhẹ chân cho mẹ mày ngủ”, trừ người đàn bà ấy đã chịu
nhiều đau thương vì ông, ông nghiêm khắc ra lệnh cho mọi người…
Tất cả mùa hè cũng như mùa đông, mọi người đều phải dậy trước
lúc mặt trời mọc, và không lâu sau mặt trời lặn, phải lên giường… gìn giữ từng
hơi sức cho ngày hôm sau. Tất nhiên mỗi tháng, mỗi tuần, ông cũng giành những
lúc rỗi rảnh, gió mát trăng trong, không oi ả, một mình sửa phím so dây, một
mình tâm sự với mình. Những ngày mưa, ông bắt các con lấy đàn ra họa. Người
mẹ không biết đàn miễn khỏi học đàn. Nhưng những buổi học đàn của con, người mẹ
vẫn ngồi bên cạnh. Mừng sau này kể lại cho tôi: “Khổ nhất là những buổi dạy lên
dây, phân biệt cho từng tiếng nhạc, họ, xự, xàng, xê, líu…”. Mừng cũng không đến
nỗi có lỗ tai điếc đặc… âm nhạc, nên đã qua những buổi học đầu tiên này một
cách trôi chảy và suôn sẻ. Thương nhất người anh và người chị của Mừng, không
sao qua nổi buổi học kéo dài này… Người cha có lúc không giữ nổi bình tĩnh trước
một sự sai lầm hay chậm hiểu của học trò, có lần… đã vất cả con dao vào con
mình. Người mẹ vẫn bình tĩnh như không, chỉ buông nhẹ một câu: “Mỗi đứa một khiếu,
đứa nào không học được đàn thì học cái khác…”; người chồng đành ngồi im.
Mừng sau này có nói với tôi: “Thật ra em từ nhỏ cũng chả
thích gì âm nhạc. Trừ phi vì nghĩ vụ phải xây dựng một tổ ca Huế cho Đài phát
thanh Trung ương… em phải cầm lấy cây đàn…”.
Nhưng dẫu sao, tuổi nhỏ Mừng đi vào âm nhạc dân tộc chẳng
khác nào một việc đương nhiên, một định mệnh.
Chín tuổi biểu diễn ở trường Đồng Khánh. Mừng đã phải dạy đàn
cho những người quý tộc… Có học đàn, Mừng càng yêu ba, hiểu ba hơn. Mừng đã
mang gần nửa tâm hồn người cha nghệ sĩ trong mình. Tiếc rằng, vừa qua tuổi 50,
ông đã vĩnh viễn từ biệt vợ con, cha anh, bạn bè mình… Ông đã chết trên tay Mừng,
người con gái yêu nhất của ông… Những giây phút sau cùng của người cha, Mừng đã
dành cho người những gì đẹp nhất.
Sắp đến giờ liệm, một việc bất ngờ đã xảy ra trong gia đình.
Nguyên trước đây, ông có mua tặng cho con mình một cái áo gấm… Cả nhà muốn lấy
cái áo gấm ấy liệm cho người ra đi. Người ông biết chuyện đã tỏ ý không bằng
lòng, ông nói: “Hà tất cứ phải liệm cho được áo gấm. Áo ấy tao mua cho nó, nay
nó chết rồi, thì dành cho thằng Hường em nó”. Xưa nay ông nói gì như một lời lệnh
ban ra, cả nhà im lặng không dám nói gì. Duy có Mừng vụt đứng lên thưa:
“Thưa ông, cha cháu một đời biết kính thương cha mẹ, hết lòng
dạy dỗ con cái. Nay cha cháu ra đi… Một chiếc áo đẹp ông nỡ nào còn tiếc với
cha cháu”. Người ông chồm lên như một con cọp dữ, nói gọn một câu: “Ta chặt đầu
mi”. Mừng không nao núng, trong nước mắt đi lại bên ông, buông một câu: “Đầu
cháu đây, ông chém đi”. Mọi người có mặt đều hoảng sợ… Người ông đứng sững! Chỉ
có người mẹ của Mừng đi lại bên Mừng, cũng trong nước mắt cúi đầu nói với con:
“Mừng ơi! Mạ lạy con”, hẳn muốn xin con đừng trái ý người ông, nhưng cuối cùng
thì ý nguyện của Mừng được thực hiện.
Mất cha, Mừng mất gần nửa tâm hồn, nhưng từ nay, trọn vẹn Mừng
có mẹ. Người mẹ mà Mừng vẫn coi là một tấm gương sáng của đời… Thuở hai bên
“môn đăng hộ đối”, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, cũng không rõ hai người đến với
nhau như thế nào… Người mẹ không hề động tay đến một tơ đàn… Nhưng có buổi hòa
đàn nào, người chịu thiếu mặt. Tưởng người nghe, ngồi im như pho tượng, nhưng một
bài Nam bình hay một bài phủ lục… từng điệu láy luyến… động đến ruột gan người.
Xưa theo từng tiếng đàn của chồng, nay lại dõi từng tiếng đàn
của con.
Người mẹ không hề lấy nước mắt để đối phó với cuộc đời… Sau
trước vẫn nụ cười ấy trên môi. Ngày rằm, ăn mày đến đầy ngõ, mẹ tự tay với từng
người một, phát từng đồng tiền. Bà con có ai cho con chép, con tràu… cũng bảo
con mang thả xuống sông An Cựu… Cả những lúc tiền lương đã cạn túi, trên mâm vẫn
đủ màu sắc, chỗ nằm vẫn êm ấm… Khách xa khách gần đều muốn ở lại… Đôi khi
thoáng một nỗi lo trên mắt người chủ, nhưng một lát sau, Mừng xách rổ, lẻn đi
phía sau không ai biết. Nhưng lúc về đã thấy bó rau tươi, con tôm con cá đang
quậy…
Với kẻ thân nhất, bà mới có chút thổ lộ: “Hắn ra chợ… thấy
con cá ngon, cũng mua cho mạ thời”… Bà cười: “Không có tiền hắn cũng mua được.
Có lúc túng thiếu, một mình hắn lo liệu, đồng vàng mang đi cầm, đứa khác mỏi miệng
chỉ nhận được một, không nói gì mà nó được mười”.
Sau này, Mừng kể lại với tôi: “Một hôm mạ nói với dì Tôn, em
nghe được: cả nhà dì coi, chỉ một mình nó… không phải chỉ nơi chợ búa mà lúc
nhà gặp bước khó khăn, cũng lại một mình nó lo toan, chạy chọt… Cả nơi quyền
cao chức trọng, nó cũng dám xông vào. Cả nhà này, con Mừng là đứa hiếu thảo nhất!”
Đứa hiếu thảo nhất ư?
“Hiếu thảo nhất mà để rồi sau này hắn đành lòng bứt áo ra đi,
mặc mẹ ở lại, da bọc lấy xương đó!”. Mừng đã bao lần nhắc lại câu nói này của mẹ,
trong một cái mỉm cười mà nước mắt dàn dụa không sao ngăn được.
Hiếu thảo nhất là nó! Và chính từ Mừng bao sóng gió. Cuộc đời
giữa những người thương nhau đến thế lại đùng đùng nổi lên bao sóng gió ư? Cuộc
đời của mấy người như một tờ giấy trắng. Cả đất trời im ắng… Có phải từ mỗi số
phận, mỗi tính cách, mỗi bản lãnh mà sóng gió từ đấy nổi lên?
Người cha đã chết trên tay Mừng và gửi nửa hồn mình lại cho
con, Mừng thường nói thế. Sau khi người nghệ sĩ tài hoa vĩnh biệt ra đi, người
mẹ cứ mỗi chiều trong tiếng chuông chùa Linh Quang lại đi quanh mộ chồng. Mừng
dõi theo từng bước người đi tìm lại lối xưa trong ráng chiều bàng bạc. Vốn
không hay làm thơ Mừng cũng lẩm nhẩm mấy câu:
Chiều xuống, chiều ơi, chiều ơi chiều lại xuống
Bên chùa Linh động tiếng chuông ngân…
Trong tiếng chuông chùa ngân chiều đó, khoan thai man mác buồn…
lòng người mẹ hay lòng người con có bao giờ nghĩ là đang ẩn giấu những sóng
gió?
Đổ cho một sự xung đột nào đó về tư tưởng, chế độ, âu cũng dễ
thôi…
Hai với hai không phải bao giờ cũng bằng bốn. Nhà thơ lớn Gớt
hàng giờ ngắm viên sỏi trong tay, có ai cười ông là ngớ ngẩn?
Viết những trang hồi ký tưởng như vô tình mà vô tận này, tôi
không muốn nghĩ mình đang kể lại chuyện xảy ra gần nửa đời, chuyện một
cành hoa nở trước mặt, hoa nở hai lần, phải chăng sự sống đang tái tạo, mỗi
ngày mới thật là sự sống.
Bạn đọc vô cùng thân mến của tôi.
Tôi mong rằng: Mỗi trang tôi viết ở tôi ra cũng là mỗi trang
sẽ dính vào thịt da các bạn. Giữa chúng ta một sự sáng tạo chung, liên hồi
không thể nào đứt đoạn.
Nhưng những chuyện của thơ văn của nghệ thuật luôn phức tạp. Ngay
người vợ không sành âm nhạc cũng đã để lại trong lòng mình một điệu “phú lục” của
chồng, một điệu “phú lục” mà chồng thường đánh và mình từng thành kính lắng
nghe, rồi kết lại trong hồn mình một kỷ niệm đầy tâm tư, không phai mờ được.
Nhưng nói cho cùng tất cả đây cũng chỉ là những câu chuyện của những tâm hồn, của
những con người… của người ông, người cha, người chồng, người vợ, người mẹ, người
con… trong những mối quan hệ chằng chịt lấy nhau.
Đẹp lắm trên đời những vấn vương
Chao ôi! Thiên lý một con đường
Đi trong trời đất từ duyên ấy
Sớm tối không rời một chữ: THƯƠNG.
Cái gọi rằng buồn, vui, đau, giận, thậm chí ghét thù đi nữa,
tôi cũng coi như là trăm nghìn biểu hiện của cuộc sống, trăm nghìn mối tơ vương
đó thôi. Có nổi, có chìm, có sống, có chết, tôi vẫn gọi nó là tơ tằm. Có nước mắt,
nhưng tôi vẫn gọi là “long lanh nước mắt”.
Viết lại sự thật đã qua có cho người cho là tự truyện. Nhưng
như một nhà văn Pháp đã nói: “Tôi, là một người khác”. Sự xung đột giữa tôi và
người khác vẫn là tôi đó, thì cũng là mối chằng chịt vấn vương giữa con người với
con người, giữa tâm hồn với tâm hồn, giữa tri lự với tri lự, - vẫn là
cái sự thật sống động, khách quan, quen là "cuộc sống" đó thôi.
Chương IX
“CÁI ĐỤNG CHẠM THIÊNG LIÊNG”
Sau buổi gặp cái bóng vút qua sân, tôi không được gặp lại Mừng,
nhưng mỗi mùa xuân trôi qua Mừng lại thêm một tuổi. Những người bà con xa, lại
gần thêm, tôi được những người trong gia đình Mừng gọi bằng “chú”. Người cháu
ruột tôi lấy người chị của Mừng… và thêm người chị con chú con bác với Mừng lại
làm vợ người em của anh rể tôi. Trăm thứ dây mối như chằng chịt thêm. Mừng và
tôi, mỗi con thuyền riêng lẻ đó như chúi theo số mệnh của mình…
Lâu lâu tôi ghé qua nhà, ăn với gia đình một bữa cơm, ngủ lại
nơi nhà vườn ấy một đêm, đọc một vài câu thơ và nghe một tiếng đàn…
Thật ra những năm ấy tôi không ghé ở Huế nhiều. Lúc ở Hội An,
lúc ở Thanh Hóa, lúc ở Hà Nội, tôi làm thơ, viết báo, dạy học, làm chồng rồi lại
làm cha…
Làm thơ, viết báo, dạy học tư, thường tình người ta gọi đó là
những “nghề tự do”. Nhẹ nhàng thế thôi. Như những chương trên tôi đã thuật đầy
đủ… thế nào là một chữ “thơ” một chữ “báo”. Trong một thời đại kỳ quặc mà chúng
tôi đã bảo là đã “chọn lầm” thì làm cái nghề vốn rất nghiêm chỉnh xưa nay là
nghề dạy học, tôi cũng chỉ là một đứa con hoang. Những năm ấy, biết bao lần trời
đã sụp trên đầu, đất đã lở dưới chân. Cả tâm hồn tôi trở nên một cái hang tối
bưng. Dẫu khi có ngọn gió thông thổi qua, một tia sáng chớp vào, mình vẫn không
biết mình là ai, mình ở đâu!...
Lại mấy chữ “gia đình”, quen gọi là tổ ấm, nơi mình che mưa, ẩn
nắng… lại “xã hội”, nơi mình vẫy vùng đôi cánh, ngang dọc mái chèo, đó là một
thứ văn chương hoa mỹ lừa gạt mình không nổi, hoặc đờ đẫn “đi trên chân người
khác”.
Những đêm “giang hồ”, tưởng chừng không phải của mình mà thuộc
về ma quỷ, đến khi mặt trời lên, cuộc đời mới trả lại cho mình đôi chút: ngọn
bút lao lực cày trên từng trang giấy, đầu bút cúi trước những trang sách đẹp.
Lòng muốn trở về với những tình cảm trong sáng, chân thật… muốn được làm con
người, người chồng, người cha… muốn có ngọn đèn suy tư… những vần thơ những ý
nghĩ toát từ da tóc: lay quản bút, tung trang giấy… Quả tình là những ngày
tháng đắng cay, hiu quạnh, trên những tấm ván chòng chành.
Còn Mừng? Những năm tháng qua ấy đối với mỗi xuân qua… Mừng
cũng mất đi những mùa xuân. Mái tóc, tâm hồn, con người vượt quá tuổi hoa mà
không biết. Chẳng mấy khi Mừng và tôi được ngồi chung một khoang thuyền, nhưng
tiếng sóng quanh thuyền Mừng vẫn luôn luôn vọng đến bên tai tôi. Cũng có lúc giật
mình tự hỏi: “Chờ con thuyền ấy đang hướng về phương nào, đã cắm neo bến gần
xa… hay đã cứ để mặc từng làn sóng lăn tăn, rập rềnh đưa đẩy?”
Nếu có lần nào, tôi bị giạt ra Huế, thì tuy cùng một con sông
Hương ấy, kẻ bến này, người bến nọ… chẳng kịp tìm nhau… cái vẫy tay nhau chẳng
có!
Có lần đi qua nhà anh Tôn Thất Dung, mút ở đầu Tràng Tiền,
tôi ngừng lại một lát, để ngắm cái ảnh phóng to, bốn cái nón nghiêng nghiêng, bốn
mái tóc, bốn kiềng vàng, bốn cặp mắt, vẻ nhìn duyên dáng… Ngừng lâu hơn trên khuôn
mặt “người bà con xa” như muốn vào tìm một số phận…
Nhưng ảnh đâu phải là người… Toan chạy vội qua cầu Tràng Tiền,
trở lại thăm vườn Trường Cửi, nhưng chỉ cần gặp một người bạn xa gần nào đó
trên đường là chân để mất hướng đi… Hụt đi một bước chân, lại có thể lạc xa hay
để chậm đi nhiều năm tháng… có khi mất đi cả những mùa nắng hay mùa mưa.
Một lần khác tạt vào Huế, tôi từ Thượng Tứ đi ra, thì một cái
xe nhà đi vào… thành. Một chiếc xe nhà do người kéo. Ở Huế, trên những
chiếc xe như thế, nếu không phải là ông quan khăn đóng, bài ngà, thì cũng là
mái tóc vấn trần hoặc tóc búi, hoặc bím tóc thề buông lỏng. Một vòng kiềng Huế
với màu áo tím nữ sinh. Tôi vừa nhận ra được cái người phu xe đã khuất mà hình
như tôi đã gặp một vài lần. Chiếc xe đã khuất sau cửa thành kiểu Vauban, trong
có thể nhìn ra ngoài mà ở ngoài thì chẳng nhìn vào trong được.
Một phút gặp gỡ bâng quơ… như trong mộng… bắt mình phải
nghiêng lòng trên số mệnh… cái bóng đẹp vút theo đường vòng cung ấy.
Cái thế giới hình tượng là một thế giới không lời, sao mà cả
thời gian có muốn chùi đi cũng không chùi được. Hoặc có chùi lại thì càng sáng
thêm.
Một buổi chiều nào đó, dưới ánh tà, một chiếc lá vàng… lặng lẽ
rơi mà sao không quên được một giọt nước mắt, chợt vương đúng vào tay áo mình
ráo ngay … muốn tưởng tượng cái ngấn ướt lạnh cũng không sao tưởng tượng nổi.
Tuy tôi không hỏi đến số phận của những giọt nước mắt đó, tôi cũng nghĩ rằng:
những giọt nước mắt ấy, cũng như bao nhiêu giọt nước mắt như thế, - cũng
chẳng thể thấm đượm lâu…
Không tìm hỏi mà sao tôi đều như đều biết cả…
Những tin tức về Mừng, đã bay khắp nẻo… cũng chẳng hề lạc mắt
tôi…
Sau cái bóng vút qua, không phải nhìn vào đâu cũng là trống
không lạnh lẽo… Trong nhiều năm tháng, dẫu không gặp lại, tôi vẫn biết Mừng vẫn
là cô gái ở Trường Cửi… Trường Cửi xóm nào, không ai biết tới nhiều nhưng chợ Bến
Ngự, dốc Bến Ngự người ta đều biết tới… gần như cả Huế cũng biết đến người con
gái ấy! Người ta nói tới người con gái ấy… Ra ngoài phố thì ngồi trên xe, nhưng
ở nhà thì là một người thợ làm vườn, một cô gái cần cù, siêng năng. Có việc lao
động nặng nề nào trong nhà mà nàng không làm được!
Mùa mít, nàng là người ngồi lẫn vào giữa những cô chủ hàng
rau quả khác… Người khác chợ chiều vẫn ngồi xua đuổi ruồi nhặng. Nhưng nàng vừa
đặt thúng quả xuống, nháy mắt đã bán xong, rồi một lúc tìm vài miếng thịt, con
cá ngon mua về cho mẹ… bán cũng dễ, mua cũng dễ… Cũng chẳng phải nhờ miệng lưỡi
mà chỉ vì cái duyên, cái số… cái nụ cười tươi trên môi.
Từ ngày cha mất nhà mỗi tháng mất đi đồng lương của cha, mà
cái lộc nhỏ cũng chẳng có, cuộc đời vẫn khó khăn, nhưng cuộc đời vẫn trên đôi
tay… Vẫn là cô giáo dạy đàn, cũng có khi theo người cô vào tận gối bà Từ Cung…
Nhưng không để phai màu dân dã… Trong xóm không ai không biết đến cái tính bướng
bỉnh của Mừng. Một hôm từ trên xe Mừng nhảy xuống đường… can thiệp vào một việc
bên đường. Mừng đã cản một người đàn ông… kéo tóc hắn, lôi ra… để cho một người
đàn bà đứng lên thoát khỏi tay hắn. Tôi chẳng cậy gió, gió vẫn mang về bên tai
tôi những chuyện về Mừng.
Tôi được biết: Mừng vẫn là người con gái đẹp, không phấn,
không son… Nhưng mỗi bước đi ra đều uốn sóng từ sợi tóc trên trán… đi trên đường
vẫn chỉ nhìn thẳng mà bước. Cả khi ngồi trên xe, những người trai quanh xóm,
trên đường vất vào xe Mừng những bức thư ngỏ… Mừng vẫn cung kính nhận. Có một
công chức đã làm nhà trước nhà Mừng để khi đi khi về được gặp mặt nàng. Thấy
chàng vòng tay cung kính chào hỏi, thì Mừng cũng từ trên xe, cung kính cúi mình
đáp lễ… Người ta có cách nghĩ về Mừng thì Mừng cũng có cách nghĩ về người ta.
Nàng không hề quyến rũ người mà cũng không hắt hủi một ai…
Trên đời cũng có ít nhiều biểu hiện tình cảm chân thành trong sáng… Mừng vẫn ngồi
đàn cho ai tha thiết muốn nghe mình đàn… Mừng, bóng một cô gái Huế… có khi ngày
này qua ngày khác, Mừng ngồi cho người vẽ… thu từng dáng nét của mình… Người
giáo sư hội họa vẫn là nghệ sĩ tài hoa… đã gửi niềm say mê của mình vào trong bức
tranh.
Trước khi đi Paris, người họa sĩ ấy gửi lại bức thư nhỏ tỏ
lòng mình… Mừng cung kính mà không đáp lại. Một sự im lặng kéo dài cho đến gần
ba chục năm sau… Người họa sĩ đó đã trở về Hà Nội… thăm lại quê hương. Trong một
bữa tiệc chiêu đãi do Hội nhà văn tổ chức với những văn nghệ sĩ ở nước ngoài về
thăm quê… khi chia tay, người họa sĩ nổi tiếng đó đã bước ra trước, đứng bên cửa
… chờ Mừng đi qua, anh đã xin được một cái hôn trên trán Mừng, Mừng cũng không
nhận, không từ,… để mặc đời. Hôm nay cũng như những ngày còn là người con gái
Huế, Mừng vẫn trân trọng đối với cuộc đời… Mặc dầu lúc nào Mừng cũng vẫn là Mừng…
Thật ra thuở bấy giờ sau những giọt nước mắt nụ cười của Mừng đã đượm ít nhiều
chua chát mỉa mai. Thuở bấy giờ nghe “tiếng” Mừng, có nhiều nhà giàu có từ xa
tìm đến… có cả con cháu của những “người mười vạn” đánh tiếng… Sau này Mừng nói
với tôi:
− Có lúc em muốn “đặt giá” miễn là, sau khi ba không còn
nữa, điều ấy có thể mang lại niềm vui cho mẹ… Cả khi người ông sắp tắt hơi, bắt
em phải lấy một người nào làm chồng, − em đã đùa một câu, em còn nhớ
mãi đến bây giờ: “Ông ưng ai, cháu lấy người ấy.”
Đâu hẳn đó là những lời tuyệt mệnh của một mối tình tuyệt vọng!
Sau những năm những tháng như xa như gần Mừng đó, nàng đã để lại trong hồn thơ
tôi một bóng dáng tuyệt vời. Một Tết, từ Hà Nội về, tôi ghé lại gia đình tôi,
nơi làng quê của tôi thì cũng là cái Tết ấy, Mừng từ Huế ra thăm anh rể và chị
ruột của mình!
Bất ngờ tôi đã được gặp người con gái trên đất mà tuổi trẻ của
tôi đã lớn lên qua từng ngày từng mùa từng năm. Một mảnh đất, trên mỗi bước
chân, đầy những tuổi thơ tôi. Chúng tôi gặp nhau nửa thân, nửa xa, nửa quen, nửa
lạ… Về tôi, tôi có thể nói được gặp lại, sau quãng đời đầy sóng gió… Khi tôi mất
hết vẻ thanh tân… của người trai trẻ, trong đôi mắt không còn tràn đầy những vẻ
ngây thơ… khờ dại… Khi tôi đã là một nhà thơ nặng trĩu những đau thương và hối
hận, trong nhiều năm tháng, tôi đã làm khổ nhiều cho đời lẫn cho tôi. Đã đành…
những biểu hiện về tình cảm của tôi, bao giờ cũng trong sáng chân thành,
có làm khổ, nhưng trái lại cũng bị đời trấn lột trăm điều. Không tính rõ tôi đã
được những gì, nhưng quả tình những cái tôi mất không phải nhỏ… Lòng tôi đã bắt
đầu ngờ vực và đã nhiều lần, tôi đã trở nên người vô trách nhiệm, tôi đã buông
thả lòng mình, buông hồn, buông xác vào những cuộc trác táng, đã đánh lừa mình…
gọi rằng: Thả buông mình những xiềng xích mới… Những xiềng xích cho xác, cho hồn
mình. Tôi đứng trước Mừng, có nhiều ngơ ngẩn, sững sờ, chả biết xưng hô thế
nào… còn Mừng vẫn gọi tôi một điều “chú” ngon lành thoải mái.
Giữa những ngày xuân, anh em chúng tôi rủ nhau lên đỉnh núi Kỳ
Phong, núi cao nhất của làng tôi, để thăm nghĩa trang gia đình lớn của chúng
tôi: thầy mẹ tôi và các anh chị tôi đều nằm ở đây.
Tất nhiên, Mừng, người khách quý của gia đình cũng được mời
đi thăm…
Đường lên núi không có gì mệt nhọc… Tuổi tôi có lớn nhưng
chưa đến ba mươi. Tôi vẫn đi chạy giữa bạn trẻ. Khi đến nơi tôi tách ra ngồi cạnh
một cái giếng gọi là giếng Mây… giếng không sâu, không rộng nhưng nước trong vắt
lạ thường.
Tôi đang soi mình xuống giếng, thì chợt thấy trên đầu tôi, một
chiếc nón nghiêng, một màu áo trắng và ánh sáng trên cổ, sâu thăm thẳm là một
“phông” trời xanh. Trong đáy nước không gợn tôi nhìn vào đáy mắt của Mừng. Mừng
vô tình hay cố ý, đến soi mặt vào dưới đáy giếng Mây? Tuy những cái bóng không
biết nhìn nhau, nhưng chiếc bóng đã chú ý soi đáy giếng. “Giếng Mây” là một kỷ
niệm tuổi thơ tôi.
Tôi nhớ những năm tôi học ở trường Quốc học Huế, nghỉ hè tôi
về làng và mở lớp dạy thêm cho những học trò trong làng hay làng bên cạnh. Tôi
dạy thêm cho chúng về tiếng Pháp, nhưng đồng thời, tôi cũng mang tác phẩm của cụ
Phan Bội Châu dạy cho chúng “ Dậy! Dậy! Bên án một tiếng gà vừa gáy”.
Thầy trò ngâm tập thể những bài như thế, thuở bấy giờ, nào
chúng tôi đã đâu biết hát. Chiều ăn xong, tắm nước giếng, tất cả ra về… Duy tôi
thường hay ở lại một mình… Ngồi một mình nhìn núi, bể xung quanh… dưới ánh sáng
cuối cùng của mỗi ngày. Dãy Hoành Sơn (Đèo Ngang) như sừng sững trước mặt. Lại
phóng một vòng mắt ra biển khơi, ngắm “Cù lao nón” khi những đợt sóng thần
không dứt, hay khi biển như một tấm gương mênh mông phẳng lờ.
Tôi nhìn lớp xanh xanh kia và tự hỏi: “Sau cái xanh xanh đó
là gì?... là gì?”. Tôi ngẩn ngơ trước câu hỏi mà mình đặt ra… Thuở ấy tôi không
còn mẹ, con người thân thiết nhất trên đời. Tôi sẽ sống với ai, tôi sẽ đi đâu?
Từ bản thân tôi, tôi nghĩ đến con người, kiếp người… Nhớ mẹ, tôi hay ngâm lại
hai câu thơ của Lamartine mà Phạm Quỳnh dịch:
Tấm thân đứng giữa trần hoàn
Cầm bằng giọt nước giữa làn biển Đông
Và tôi khóc một mình trong hoàng hôn của núi Kỳ Phong… đến
khi chợt thấy một bầy heo rừng con lúc nhúc theo mẹ ra kiếm ăn, tôi mới hoảng sợ…
trốn chạy về nhà. Đâu phải gần ngay trước mặt, nghĩa trang gia đình tôi cách
nhà tôi cũng đến hai cây số.
Cái nỗi “băn khoăn” siêu hình đã đến với tôi quá sớm. Giọt nước
mắt đầu tiên là khóc mẹ, khóc cuộc đời, khóc mình. Cha tôi sớm từ quan về dạy học.
Hồi hai cụ Phan về nước, hai anh tôi học Quốc học Huế, đều “bãi khóa” bỏ học về
nhà. Đến tôi vào trường Quốc học… Có vào đây nhưng lòng vẫn gửi nơi khác. Tôi
cũng có những bài thơ đầu về đất nước… Nhưng thơ tình của tôi, cũng như những vần
thơ về đất nước của tôi, tôi có thể nói chúng đã được đẻ ra từ cái băn khoăn
siêu hình, đều mang một cái đau buồn và lẽ sống chết của kiếp nhân sinh. Khi
trưởng thành, học ở Hà Nội, phải làm những bài luận về văn hoc, buộc phải đọc
những đoạn văn, trang văn của Hugo, tôi đã dựa vào cái ý của ông thầy này mà
làm nên những câu thơ sau đây:
Đủng đỉnh chiếc thuyền con
Trăng lên đầu ngọn núi
Vũ trụ ngó bao la
Nên cười hay nên tủi
Có lần tôi viết về hồn người con gái Chiêm Thành, hiện hồn về:
“Chỉ nghe gió thổi mà chẳng nghe lời nàng nói”. Đó là những tứ thơ xuất phát từ
bên giếng Mây này.
Hôm nay, vào tuổi 27 - 28… lại trở về với “giếng Mây”, dáng
người mệt nhọc hồn trĩu nặng đau thương.
Một tình cờ kỳ quặc, nơi đây lại gặp người con gái Huế ấy…
Tôi cũng viết mấy câu, dường như vơ vẩn nói về một người nào đó. Biết Mừng từ
Huế ra và Mừng là máu thịt của cái bóng người lướt một vòng cung ngày nọ… mà lời
thơ tôi sao vẫn chập choạng hồ đồ. Tôi hỏi:
Quê em ở Xá
Tên em là gì?
Rồi cùng dắt tay nhau vào rừng ăn sim, và cùng soi bóng dưới
đáy giếng nước trong. Câu thơ hôm nay có phần như muốn rực sáng lên chăng? Thật
ra tôi cũng chẳng nhớ cụ thể: tôi nghĩ thế nào về Mừng và Mừng nghĩ thế nào về
tôi, trong cái buổi gặp gỡ như thực như ảo này? Giếng Mây là một cái giếng có
thật ở làng tôi mà đối với tôi vẫn như là một cái giếng thần thoại của đời tôi.
Có thật hai bóng người vắt qua bờ giếng. Có thật là bên nàng tôi đang đi lên
thăm ngôi chùa làng, thăm những dấu vết còn lại của Thành Hời (Chiêm Thành).
Vâng, ở đây vẫn còn những tên gọi “phố”, rõ ràng là chúng tôi cùng nhau bước
lên trên những nền hoa đá, những mô đất, xưa kia qua bao thế kỷ có những cô gái
Chiêm Thành đi qua…
Những ngày giờ bên Mừng đây có phải tôi đã đọc vài vần thơ về
giếng Mây cho Mừng nghe? Thế rồi một ngẫu nhiên kỳ quặc nữa lại xảy ra là sau
buổi thăm giếng Mây thăm chùa, chúng tôi cùng mọi người đi trên một chiếc thuyền
tới phiên chợ Đồn. Đêm trăng, chúng tôi cùng ở trong một khoang thuyền… Sự ngẫu
nhiên kỳ quặc là chúng tôi được ngồi kề bên nhau...
Những ngón chân đã đụng những ngón chân và chúng tôi cứ để
yên như thế, coi như là chuyện trời xui đất khiến đưa đẩy. Chúng tôi nhớ lại sự
đụng chạm thiêng liêng đêm ấy như một ân huệ trời Phật ban cho. Mừng như một
chiếc thuyền chúi mũi bởi định mệnh nào đó, còn tôi lại là một chiếc thuyền
khác chúi mũi đến một định mệnh khác.
Trời bể mênh mông sao dám nói chuyện bến bờ gặp gỡ? Khi ở
chùa Trà Am, tôi nhớ có một câu kệ trong kinh Phật: “Qua đại dương trùng điệp,
một sợi chỉ dài tìm đến một lỗ kim”, duy nghe có tiếng nhau, có thấy mặt nhau,
mà ngược xuôi vận mạng… Cuộc hành trình kim chỉ dưới đáy đại dương nào có ai
đưa dẫn? Ấy thế mà bến bờ như chỉ cách nhau nửa mái chèo đưa đẩy! Làm sao có thể
khác được? Phách lạc hồn rơi cũng phải tìm nhau mà đến! Sức hút này nghìn lần mạnh
hơn định mệnh.
Chương X
MỘT ÁNH SAO VẪY GỌI
Gian nan mày cứ quật ta đi! Khi vào đời có cái nhìn trong
sáng, thì lúc ra đời sẽ lại nhìn đời với cái nhìn trong sáng ấy. Một cái nhìn
chẳng bao giờ chết được. Đêm ấy không có trăng chỉ có sao thôi, ông già cầm lái
hát tuồng xong, lại ngồi im nhìn những đợt sóng dưới những sao trời. Ôi! Một
cơn gió mênh mông phả vào mắt ta, hồn thơ ta như đôi cánh chim được cất cao,
nhưng lúc ấy quên hết mọi sự đời. Ngồi trên chiếc ghe bầu này, ta không thể nào
nghĩ ta đang nghĩ gì và đi tìm cái gì.
Dưới trời sao, ta một nhà thơ ngồi cạnh một ông già, có lẽ
hai tâm hồn ấy già trẻ bên nhau cũng như đôi cánh của một con chim giang hồ.
Trong túi ta lúc này có lẽ không đủ cái rỏng rẻng trả công cho một chuyến “quá
giang”. Giá ai cho ta mười lần, trăm lần hơn ta có, cũng không đổi được chiếc
áo ta đang mặc. Cho ta thêm một gian nhà rộng, mấy sào ruộng với một số lợi tức
thu tô hàng năm, ta đã chắc đâu có một tổ ấm hay một chỗ đứng của trời đất mà
ta chưa có được.
Có phải tôi muốn tìm biết cái ngôi sao nào chiếu vào số mệnh
của tôi chăng?
Ngôi sao ấy đâu phải lẫn vào ngàn ngôi sao trên trời hay nó
đang ở trong lòng tôi chiếu ra!
Là một nhà thơ, từ bao giờ, tôi đã mang trong mình một khát vọng,
một khát vọng không bao giờ thỏa mãn…
Một cái gì như ảo ảnh nhiều màu sắc chập chờn mãi trước mắt
tôi… Nhất là những khi đau buồn bị dày xát về một điều gì; hay khi túng thiếu
phải đối phó với cuộc sống. Nhớ khi dật dờ giữa cái sống cái chết, trong đầu lại
hiện ra những giấc mơ đẹp tuyệt vời.
Sau một thời kỳ dài đời tôi đã xảy ra quá nhiều điều đau đớn,
tưởng như mình rũ được thân xác, đêm nay giữa biển cả ngàn sao, tôi nghĩ đến Mừng.
Cái bóng đẹp đã qua. Mừng lại hiện ra trong giấc mơ của tôi. Một cuốn phim về Mừng
chiếu ra trước mắt tôi, bắt đầu từ cái bóng của người con gái lướt một vòng cung.
Nếu kể từ ngày tôi bị giải hồi nguyên quán, tôi ghé Huế, tôi có một lần được gặp
Mừng. Lúc ấy vào buổi sáng, tôi đi từ Bến Ngự đi lên còn Mừng ở trên dốc Bến Ngự
đi xuống. Mừng không đi xe mà đi bộ. Tôi thấy Mừng chạy lại: “Ôi chú” mặc dù ngạc
nhiên vì sự có mặt của tôi quá bất ngờ, Mừng cũng không giấu được chút vui mừng
khi gặp lại người chú.
Mừng có gầy hơn so với lúc gặp ở làng. Nhưng vẫn là cô gái
không son phấn ấy.
− Chú lên cháu đấy chứ, chỉ có mạ cháu ở nhà thôi. Thôi
đi luôn với cháu!
Mừng mạnh dạn kéo tay tôi đi. Tôi cũng chả nói đi đâu, miễn
là vẫn đi bên Mừng, Mừng đi đâu tôi cũng đi theo.
Chúng tôi lên An Cựu và dừng lại trước một ngôi nhà không lớn
lắm nhưng xinh đẹp, có bồn hoa vừa mới trồng. Mừng thản nhiên nói với tôi:
− Nhà chị cháu đấy!
“Chị cháu” cũng như “chú cháu” không rõ thân sơ thế nào, người
nghe muốn hiểu sao thì hiểu!
Một người hầu đưa chúng tôi vào phòng khách khá sang trọng rồi
nói: “Xin lỗi cô đang tắm dở”.
Mừng rất tự nhiên và giới thiệu với tôi:
− Biệt thự này là của cô Thượng, cụ Thượng vừa làm tặng
cho cô hầu của mình.
Chồng cô là cụ Tôn Thất Quảng, thượng thư bộ Lễ. Sau
khi “năm cụ khi không rớt cái ình”, cụ Thượng thư bộ Lễ này là một
trong năm cụ thay thế những cụ bị rớt. Ngon nhất là bộ Lại rơi vào tay cụ Thái
Văn Toản nổi tiếng về người vợ đẹp hơn là bản thân mình. Nhà báo, nhà văn Phạm
Quỳnh từ Hà Nội vào nhậm chức Thượng thư giáo dục. Bộ Lễ có lẽ là bộ lành nhất.
Nhưng Mừng lên đây làm gì? Mừng cười nói với “chú”: “Cháu có việc!”. Dẫu Mừng
chẳng nói ra, tôi cũng có thể đoán được. Mấy ông bà con ở Thừa Lưu, Nước Ngọt
có tiền có ruộng muốn mua chút danh tước gì đây để ăn trên ngồi trốc ở làng… Muốn
có được một chút “cửu bát”, “võ giai” hay “văn giai” cũng phải mất đứt vài trăm
bạc! Người cháu gái ngây thơ của tôi đáp lại lời tôi, cũng không che được chút
ngượng ngùng:
− Cháu đã nhờ một lần rồi, cũng trôi cả. Nhà chẳng ai chịu
làm phải đến tay cháu thôi.
Lúc bấy giờ Mừng đã dạy đàn cho Hảo, con gái Phạm Quỳnh. Vào
ra các nơi dinh thự, Mừng cũng đã quen rồi.
Giọng nói của Mừng có vẻ buồn buồn. Tôi cũng biết rằng: sau
khi bố mất, gia đình gặp nhiều khó khăn hơn. Tôi không muốn nhìn thẳng vào mắt
Mừng để tỏ rằng: chuyện gì đã đến với nhà Mừng, tôi cũng quan tâm. Giữa lúc này
thì cô Thượng từ trong buồng trong bước ra, tóc ướt còn buông dài… không già lắm,
như tôi nghĩ, chân bước nhẹ nhàng… ít nhiều có dáng “một cô hầu lớn”, lưng vẫn
rất thẳng. Gặp Mừng, dáng vẻ của cô xuề xòa, thân quen, cái vẻ quan chỉ mới tập,
giọng nói vẫn chưa sạch vẻ quê. Chúng tôi được giữ lại ăn cơm. Bữa cơm rất Huế.
Là vợ hầu của một cụ lớn, ít ra mỗi tuần cụ cũng về đây mấy lần, nên món ăn
cũng phải hợp với khẩu vị một vị đại thần. Trưa hai người kéo nhau vào buồng
trong. Tôi ngồi ngoài, chỉ nghe tiếng cười đùa… Tội nghiệp, sau khi miền Nam giải
phóng, chúng tôi vẫn tìm được nơi cô Thượng ở, nơi ở vẫn đơn sơ và không thấy
chút “hầu non, vợ nít” trên gương mặt, trong dáng vẻ của cô, không phải vì cô
đã có tuổi.
(Cô Thượng kể lại cho chúng tôi nghe những đoạn đời gian
truân của mình sau cách mạng: “Làm sao mà chị không theo cách mạng được em? Còn
chút vàng trên tay cũng bán hết để nuôi bộ đội”. Chị cũng có đứa con hi sinh
cho cách mạng! Mừng ôm lấy cô Thượng, cả hai dàn dụa nước mắt)
Sau bữa cơm trưa ấy, chúng tôi lại kéo nhau về. Hai chú cháu
đi bên nhau, cứ im lặng bước đi. Thật ra những điều gì xảy ra cho người này,
người nọ đều biết… đều có người kể lại cho biết. Tôi có đứa cháu ruột học trường
Khải Định, cũng ở nhà Mừng, biết được điều gì đều kể tôi nghe.
Tôi biết có lần một đám công chức bắn tin muốn đến dạm hỏi Mừng.
Mẹ Mừng hỏi ý Mừng, để rồi thưa lại với người ông nội ở ngoài Trường Súng. Mừng
chả ra đùa chả ra thật thưa với mẹ: “Con lớn rồi, ông ưng người nào, con lấy
người ấy”. Mừng bằng một giọng tuồng rất ngoan ngoãn nói tiếp: “Ông bảo cháu nhảy
vào lửa cháu cũng nhảy”.
Hôm ấy lúc lên dốc Bến Ngự, sắp chia tay nhau, sực nhớ đến
câu nói rất ngộ của Mừng, tôi nhắc đùa một câu: “Biết ý ông rồi, có gì đừng
quên chú nghe”. Mừng quay lại đáp luôn “Không quên chú đâu”. Mừng tươi
như hoa.
Buổi sáng thăm nhà cô Thượng chỉ có ý nghĩ làm cho hai tâm hồn
chất phác, thật thà gần nhau thêm một bước nữa. Và có điều gì làm cho tôi
thương Mừng, chính là chuyện người con gái ăn nói có duyên cứ phải bắt mình làm
những việc đau đớn: chạy chọt từng chút chức tước để vẫn giữ nếp nhà lúc sa
sút. Mặc dầu ở thời ấy, xã hội ấy, những việc làm như thế là việc quá bình thường.
Thuở ấy ai cũng đút, ai cũng ăn, nhưng động đến hai chữ ấy như động đến tên
cúng cơm của cha mẹ, coi chừng…
Tính từ cái buổi ăn cơm ở biệt thự cụ lớn, từ cái buổi gặp kỳ
quặc ấy, đến hôm nay, tôi từ xứ Quảng ra tìm Mừng, dễ thường đã gần hai năm rồi.
Hai năm mỗi người đi một đường chẳng nghĩ đến nhau. Chẳng hiểu thời gian ấy là
ngắn hay dài, mau hay chậm. Nhưng hôm nay, như tỉnh khỏi một cơn đau, có lúc
như nóng ruột nóng gan, tôi muốn đến với Mừng.
Trước khi đến với Mừng, có người vừa quen tôi, vừa quen Mừng,
cũng đã cho tôi biết “Mừng vẫn thế”. Vẫn thế, nghĩa là thư vẫn vất vào xe mà Mừng
vẫn một mình ngồi trên xe vẫn không son phấn như xưa. Người ta còn kể một chuyện
rất cụ thể: Một hôm (lúc ấy lính Thiên Hoàng đã đến sống chung với lính
Pê-tanh),[a] Mừng đang đi trên đường phố, một
người đeo gươm “võ sĩ đạo” đi thẳng tới bên Mừng, cầm lấy bàn tay Mừng. Mừng cứ
để yên, hai mắt nhìn thẳng vào đôi mắt hắn. Có lẽ hắn thấy ớn lạnh, lặng lẽ tự
ý rút tay về. Tôi không tin có chuyện ấy nhưng nếu có tôi cũng chẳng ngạc
nhiên.
Từ dưới đò lên, tôi qua nhà chụp ảnh Tôn Thất Dung liếc qua
cái ảnh “bốn cô” (tôi thường nói với tôi như thế) rồi chạy qua sáu nhịp Tràng
Tiền, tôi đi lại con đường thuở học sinh tôi thường đi. Tôi lên dốc Bến Ngự qua
chùa Linh Quang. Nhìn đồng hồ, giờ này hẳn Mừng chưa đi chợ. Vắng lặng không một
bóng người. Bước vào nhà, tôi chào người mẹ một tiếng rất to: “Chào chị” bởi vì
tôi tin rằng lúc nào người mẹ cũng ở nhà. Người mẹ thấy tôi mừng quá, ngồi dậy
tiếp chuyện tôi. Hỏi trăm thứ chuyện, chuyện chưa biết, kể cả chuyện biết rồi.
Hỏi đâu tôi thưa đấy. Tôi nghe chăm chú, tôi thưa kính cẩn. Nhưng lâu lâu tôi lại
ngẩng nhìn ra phía ngõ. Bà buột miệng nói: “Cháu Mừng đi chợ sắp về”. Có thể bà
nói một cách vô tình, nhưng câu nói vô tình đó thiếu một đường làm tôi đổ mồ
hôi hột. Tôi hoảng sợ cái gì vậy? Thật tình tôi cũng chẳng rõ, tôi đến gặp Mừng
chờ Mừng chẳng vì một mục đích cụ thể.
Tôi rất bực bội với mình, và để tỏ ra mình “cứng cáp” đột ngột
tôi đứng lên xin về. Bà giữ mãi, tôi cũng đòi về, hẹn một lúc khác sẽ lên thăm.
Tôi còn cứng cáp hơn nữa: “Chị, chị nói với Mừng tôi có lên”.
Nhưng cái câu tôi định hỏi về chuyện chồng con của Mừng, tôi quên phứt không hỏi.
Tôi chưa bao giờ thấy đường từ nhà Mừng đến chùa Linh Quang, bước chân của tôi
sao mà rề rà, chậm rãi đến thế. Tôi biết Mừng đi chợ Bến Ngự, không đi đường
cái mà đi đường tắt trong lối xóm, qua một cái giếng xây. Tôi vừa đặt chân vào
đường tắt thì một cái bóng hiện ra trước mặt. Mừng đi chợ đã về. Mừng ở trước mặt
tôi, Mừng mặc một chiếc áo thô đen. Trên cổ vẫn ánh một vòng vàng, đôi tai một
chút xanh xanh. Tất cả những màu sắc như tôn lên cả con người. Gặp lại Mừng tôi
vui như một đứa trẻ, còn Mừng khi gặp tôi, như có vẻ ngượng ngùng. Tôi nghĩ: Vắng
tôi, ít ra vài lần Mừng đã đón tôi trong giấc mơ.
Tôi chưa bao giờ thấy Mừng đẹp như thế. Tôi không chịu được
giây phút kéo dài, không nói một điều gì ngoài sự bâng quơ, ngụy trang, những
con mắt nhìn nhau mà không cúi xuống. Mừng không có ý đợi tôi cùng đi. Tôi cũng
chả muốn theo Mừng về nhà, cái khoảng cách ấy dầu đã vượt qua, vẫn giữ không
cho vượt qua. Mừng chào tôi về. Tôi ngồi lại bên giếng. “Ôi, cái giếng trong đầu
làng” mà tôi đã nghĩ tới nhiều lần, đã ngân lên trong tâm hồn như một lời thơ.
Tôi muốn ngồi lại trên tảng đá bên giếng, tôi muốn ngồi lại
cho đến chiều, đến tối. Đến khi những ngôi sao trên trời đã xuất hiện và trong
đêm soi mình vào tận đáy giếng trong. Tôi bắt đầu hiểu thế nào là cái long lanh
của tâm hồn, của tình yêu, của cái đẹp giữa trần gian. Cái long lanh của những
ngôi sao trời!
Và tôi đã hiểu thế nào là “con người thơ” trong tôi, tôi đã
làm bao nhiêu thơ trong đời tôi, nhưng có được bao câu thơ đã nói lên cái long
lanh và cái run rẩy của tâm hồn tôi? Muốn gọi gì thì gọi, tôi không thể phủ nhận,
đó là một cành hoa hạnh phúc mà con người muốn đưa tay vươn tới.
Và từ cái buổi gặp lại ấy tôi đã có ấn tượng trong những giấc
mơ trên biển cả, dưới ngàn sao - những sự thật trong mơ đó từng bước
một, thành hiện thực giữa đời.
“Giếng Mây” - cái “đụng chạm” thiêng liêng ấy, lắm
lúc với tôi như một điều tiền định, cả cái bài thơ Buổi chiều
mơ như đã thành một dây buộc!
Kỳ hoặc! Kỳ diệu! Cái sợi chỉ với cái lỗ kim nói trong kinh
Phật… sẽ gặp nhau. Cái cuộc hành trình của kim chỉ dưới đáy đại dương đã có vẻ
như sẽ thể hiện trên những đầu ngón tay của chúng tôi!
Không biết tự lúc nào, trong túi tôi đã có một tấm ảnh nửa
hình của Mừng, lúc một mình, chùng lén tôi ngắm soi.
Chương XI
TAY TRONG TAY
Hôm ấy Phạm Quỳnh đi nói chuyện ở Di Luân về vấn đề “Phục
hưng đất nước”, ông đội khăn xếp và mặc áo dài đen có đeo một bài ngà. Ông nói
bằng tiếng Pháp. Đám trí thức ở Huế tới nghe khá đông, tôi ngồi cạnh một anh bạn,
anh ta rỉ tai tôi: “Có người đi hỏi rồi, cậu biết chưa?”. Tôi hỏi lại: “Chuyện
gì?”.
− Cậu còn vờ hỏi nữa.
Thật ra tôi đã hỏi vờ. Người bạn của tôi cũng là thầy dạy học,
nhà ở dốc Bến Ngự. Tôi cũng biết, anh ta là một trong những người vứt thư vào
xe Mừng, những khi anh đi dạy về, trên đường thường để mắt xem chờ…
Quả tình việc có người đi hỏi Mừng, tôi cũng đã biết, nhưng cụ
thể là ai? Chính anh bạn hôm ấy đã thuật lại cho tôi, tôi mới hay rõ tên họ,
nghề nghiệp, chức tước của người đi dạm. Anh còn nói rõ ngày, giờ bên nhà trai
đi hỏi, không ra vẻ hậm hực cũng không ra vẻ vui mừng ngạc nhiên.
− Đến nhà cháu cậu, nhà gái đã đòi tiền dạm hỏi, cụ thể
là 500 đồng Đông Dương, món tiền cũng lớn đấy chứ nhỉ!
Và với một giọng chua xót mỉa mai;
− May mà tớ không lọt vào mắt xanh của Mừng.
Giọng nói của anh như đượm chút đau xót.
Nhìn lên cái khăn đen áo dài của diễn giả, lủng lẳng cái bài
ngà với những điệu bộ đường hoàng, lại nói thứ tiếng Pháp cao sang thao thao bất
tuyệt, bất giác tôi muốn phì cười…
Đã mấy tháng rồi, không ai nghe thấy tiếng bánh xe sắt của
người nghệ sĩ già. Cũng có người nói, người nghệ sĩ tuổi cao ngày một yếu đi…
Có lần ông ốm suýt ra đi. Có thể gia đình cũng muốn chấp nhận
nhanh đám hỏi cho ông yên lòng.
Mặc dầu suốt buổi cụ Phạm Quỳnh nói, tôi cũng không rõ cái vấn
đề chủ yếu cụ muốn nói là gì. Nhưng tôi vẫn ngồi cho đến lúc cuộc nói chuyện kết
thúc, tôi vẫn cùng với cử tọa vỗ tay, rồi cùng mọi người ra về.
Một mình tôi đứng lại bên lan can cầu Trường Tiền, như muốn
phanh ngực đón hết ngọn gió mát từ dưới sông lên.
Việc Mừng là một việc đương nhiên, tôi không thể viện một cớ
gì mà buồn. Nhưng sự thật đứng một lúc bên cầu, tôi thấy lòng nao nao. Tôi định
sáng hôm sau lên thăm Mừng. Nhưng lên ngay có vẻ không tiện, phải đợi một tuần
sau tôi mới lên được.
Từ khi tôi trở về Huế, anh Hoài Thanh có mở với tôi một lớp
giảng quốc văn ở hội Quảng Tri. Anh Hoài Thanh giảng Kiều, tôi giảng Chinh
phụ ngâm. Hai người giảng để kiếm chút tiền cho tôi tiêu hàng ngày. Tôi cũng phải
có thời giờ chuẩn bị “tử tế”, - Hoài Thanh nhắc tôi như vậy.
Một tuần sau, vào một buổi chiều, tôi lên nhà Mừng. Tôi bước
vào, người mẹ như tìm dò một điều gì trên gương mặt tôi, trong từng điệu
bộ của tôi. Và vui vẻ báo lại tin vui của Mừng cho tôi nghe:
− Chú mừng cho cháu đi!
Tôi không đóng kịch được. Thật ra tâm trạng tôi lúc bấy giờ rất
phức tạp. Buồn thì cũng buồn… nhưng không phải là không vui. Tuổi xuân của Mừng
ngày một qua đi. Tôi cũng như ông trời, không thể giam tuổi hoa của một người
con gái. Tôi linh tính rằng “Mừng vẫn có ở nhà”, tôi có nghe một tiếng ho nhè
nhẹ:
− Chú mừng cho cháu một bài thơ đi!
Tôi đáp một cách bình tĩnh lạ thường:
− Hôm nào cháu về nhà chồng?
Thơ mà cũng thiu hở trời! Mừng muốn lấy cái bướng bỉnh ngổ
ngáo che cái tâm trạng thật của mình. Nhưng có bao giờ Mừng biết che đậy là gì.
Tôi cũng muốn Mừng đi lấy chồng. Thật sự Mừng cũng có cái vui một tấm chồng. Mừng
phải được hưởng một đêm tân hôn, một đêm động phòng, những gối nệm trắng tinh,
những ngọn nến xếp từng hàng.
Cái đỉnh cao hạnh phúc đó, Mừng cũng phải được hưởng như mọi
người. Huống nữa là một người đẹp như Mừng.
Vâng, không phải để cất trong tráp một bông hồng nở kín rồi
tan đi trong bóng tối. Một bông hoa phải được ngắt, cầm trên tay, phải được có
người ngắm ở trên đời. Mừng phải có được một người yêu mình… phải thuộc về một
người trẻ trung, trong trắng nào đó. Tôi chưa thấy ai giản dị như Mừng. Mừng chấp
nhận một cách giản dị, một chân lý giản dị như thế. Đương nhiên Mừng không thể
đưa tay gánh lấy một thứ nợ đời nào.
Tôi đã qua một đời vợ, tôi lại có hai đứa con. Mừng phải được
ai yêu và yêu ai đó… Tôi, cũng phải chịu một niềm vui với Mừng, cái cách suy
nghĩ đó của tôi, cũng là lẽ thường tình. Nhưng tôi vẫn sợ Mừng chấp nhận cái
chân lý giản đơn ấy: Mừng cũng như mọi kẻ trên trần gian, vui có được một tấm
chồng.
Tôi tin rằng, Mừng vốn không ưa cái xa xôi, lãng mạn. Để coi!
Rồi Mừng cũng sẽ sống như thế đấy, như mọi người… Cái thứ hạnh phúc đơn sơ sẽ đến
với Mừng. Điều ấy cũng giản dị như là làm một điều gì yên lòng mẹ, thỏa mãn
chút ước mong của người ông.
Tôi hỏi người mẹ:
− Đến bao giờ thì chị cho cưới?
Người mẹ vui thực sự:
− Tùy Mừng, muốn hôm nay là hôm nay, muốn ngày mai là
ngày mai.
Mừng nhẹ nhàng cãi lại:
− Sao lại tùy con… tùy ở ông, con đã thưa với mẹ nhiều. - Mừng
vẫn nói cái giọng rất thản nhiên ấy… Nói xong Mừng đưa đưa hai chân.
Bỗng khắp nơi trong xóm, tiếng người kêu ơi ới: “Máy bay, máy
bay” lẫn với tiếng chó sủa, tiếng gà cục cục, tiếng heo sau chuồng.
Những con người nãy giờ không thấy bóng, giờ chạy qua sân.
Mẹ Mừng cũng từ lúc nào dắt một cháu gái xuống hào trong vườn…
Mừng nhìn tôi:
− Chú xuống hầm đi chú!
Tôi nhìn thẳng vào mắt Mừng: “Ủa còn Mừng”… Mừng mỉm cười:
“Nhật cũng không sợ, sợ chi Mỹ”. Tiếng bom, tiếng liên thanh đã nổ như gần bên
xóm. Tôi kéo tay Mừng: “Xuống đi”. Mừng đáp một câu gọn: “Không”.
Mừng dứt tay tôi ra và nhìn chòng chòng vào mắt tôi. Tôi nhớ
đến hai câu thơ tôi làm khi đứng tựa lan can trên cầu trong cái đêm nhận được
tin nàng đã nhận đám hỏi… Cái đêm ông Phạm Quỳnh khăn đen áo dài như nhà nho,
thao thao nói tiếng Pháp:
Ta thương cỏ, ngùi thương phận cỏ
Nguyện ngày mai là gió bên đường
Nguyện ngày mai chứ không phải kiếp này là ngọn gió thổi trên
ngọn cỏ đau thương. Không biết từ lúc nào tôi lấy trộm được một tấm ảnh của Mừng,
phía trái tấm ảnh tôi đã chép lại hai câu thơ đó.
Phức tạp, lãng mạn chính là Mừng. - Tôi nghĩ bụng
thế, từ trên trời, tôi chẳng còn nghe tiếng máy bay nữa. Bàn tay của Mừng đã từ
lúc nào ở trong bàn tay tôi. Tôi ngắm tay Mừng nằm thu trong tay tôi. Mừng chẳng
rút ra và tôi cũng để vậy… Tôi nhớ lại cái đụng chạm thánh thần của ngón chân Mừng
với ngón chân tôi, đêm trong một con thuyền. Cái đụng chạm diệu kỳ không thể có
được mà tôi đã ví với điều đã nói trong kinh Phật. Sự gặp gỡ diệu kỳ của một sợi
chỉ với một mũi kim qua cuộc hành trình dưới đáy đại dương!
Điều diệu kỳ ấy xảy ra một lần trong số phận của chúng tôi.
Nay một lần nữa, không tìm, không kiếm, không trôi, không giạt, không chạy,
không bay mà cứ đến với nhau. Sao lại thế này? Đâu phải là chuyện trong hai người
chúng tôi đã muốn! Không phải ý thức, không phải thịt da, không phải số mệnh.
Chả lẽ tôi ngẩng lên cảm tạ người lái máy bay ở trên chín tầng mây ư?
Đột ngột, Mừng nhẹ nhàng rút tay mình ra khỏi tay tôi…
“Không, không thể được”. Tôi biết Mừng rất yêu mẹ, không bao giờ lỗi một lời hứa
với mẹ, nhất là khi không còn cha. Mừng chỉ còn có một mình mẹ ở trên đời… Mà
người mẹ hiền từ ấy, có bao giờ dám làm ngược lại sự đời? “Không, không bao giờ”.
Nhưng tôi vẫn bình tĩnh đưa tay vào túi rút ra cái ví, có tấm ảnh và hai câu
thơ đưa cho Mừng…
Máy bay Mỹ đã bay xa. Người mẹ cùng đứa cháu từ dưới hầm đã
lên gần chúng tôi mà chúng tôi chẳng dè chừng. Không rõ bà từ hầm lên lúc nào
và bà có dịp thấy động tác nào của chúng tôi không?
Bà gần như mất cả vẻ bình tĩnh vốn là đặc tính của người mẹ,
kêu lên:
− Mừng, con này liều thật.
Liều, có nghĩa là máy bay đến không sợ, cũng có nghĩa là dám
ngồi với nhau thế đấy ư? Tôi thấy rõ cái tức tối của bà có sự ngờ vực…
Mừng đáp lại chẳng luống cuống chút nào:
− Con sợ cóc nhái đụng dưới chân, chứ quân ấy bay trên
trời con không biết sợ… Mạ nờ.
Một tên sĩ quan Nhật loạng choạng bước vào. Mặt hắn đỏ gay.
Máy bay bay rồi, chắc hắn đi kiểm soát trận địa… Hắn chả chào
hỏi, gác súng vào giường rồi ngả lưng xuống giường, lấy khăn che mặt. Lúc này mặt
trận phương Tây đã thay đổi rồi. Tụi lính Nhật đã linh tính được sự thất bại
không tránh khỏi của quân phiệt Nhật. Thừa lúc tên Nhật vào, Mừng kéo tay tôi
đi ra. Mẹ hỏi “Đi đâu”. Mừng bình tĩnh như không: “Con ra chùa Thiên Minh” và
nói với tôi: “Cháu dẫn chú ra thăm mộ Phạm Hầu”. Giọng Mừng đường hoàng chưa!
Phạm Hầu là con một ông quan to trong triều, cụ Phạm Liệu cha
anh đậu đại khoa, là một ngũ phụng ở đất Quảng. Anh là một họa sĩ nhỏ hơn tôi độ
7 - 8 tuổi. Tôi ở chung một nhà với anh ở Hà Nội. Anh lành lắm, chỉ nhìn mà ít
nói… chỉ biết thương yêu, nhường nhịn giúp ích cho đời, đúng là một con nai nhỏ
của tôi. Trong con nai thu của tôi, không chỉ có cái ngơ ngác của tôi mà thôi.
Trong tập thơ Tiếng thu của tôi, anh có một bức tranh nai, nét
vẽ sơ sài, dại dột, thật thà, và nó trở thành thật thà, dại dột hơn khi tôi đặt
những bức tranh ấy bên những bức tranh già dặn có tính Picasso của Nguyễn Đỗ
Cung, người minh họa chính cho tập thơ tôi. Anh Hầu còn dại khờ, đáng yêu hơn cả
thơ và tranh của anh. Tứ thơ anh động mạnh là bay mất. Tình thương của anh nhẹ
nhàng kín đáo lắm, không để ý không thấy, dễ tưởng như phơn phớt vô tình. Anh ở
bên tôi lâu ngày, lúc anh đi nơi khác lâu ngày tôi mới cảm thấy được sự trống rỗng
anh để lại bên tôi. Nhưng nhẹ nhàng chúng tôi vẫn từ biệt nhau, mỗi người mỗi
đường.
Dễ thường anh không biết tôi ở đâu, mà tôi cũng chẳng biết
bao giờ tiếp được dòng thơ của anh. Sau này có một lần tôi gặp người đàn bà nấu
cơm tháng cho chúng tôi, bà cho hay anh đã về Huế. Mãi đến hôm nay trong buổi
chiều phức tạp có máy bay Mỹ bắn phá, tôi mới nghe Mừng nhắc đến tên người em
nhỏ của tôi.
Chúng tôi đi qua chùa Linh Quang xuống dốc Bến Ngự, rồi đến cổng
có bậc tam cấp gạch cao. Chúng tôi đi thẳng vào vườn, quanh vườn một lúc rồi bước
đến một ngôi mộ nhỏ. Tôi đọc tên người quá cố, ngày sinh, ngày mất. Mừng cho
tôi biết đó là vườn của cụ Thượng Phạm.
Mừng là bạn của người em gái Phạm Hầu. Qua người em gái đó, Mừng
mới biết Hầu đã mất năm ngoái Hà Nội, thi thể của Hầu đã chở xe lửa về đây. Có
thể ý nguyện của Hầu muốn chôn ở đất này chăng? Khi ở chung với Hầu ngoài Hà Nội,
có lần tôi đã nói với Hầu về người cháu gái “họ xa” của tôi ở Huế.
Qua lời nói của tôi, không biết Hầu đã hình dung về cô gái Huế
ra làm sao. Theo lời em gái Hầu nói lại thì Hầu đã biết tên người con gái Bến
Ngự và tìm ra chỗ ở của Mừng. Một lần xe Mừng lên dốc, Hầu đã nhìn rõ người
trên xe. Có lẽ chẳng phải một lần, gương mặt của Mừng đối với Hầu đã thân quen.
Hầu cũng như bao người khác đã chú ý đến Mừng, đã yêu Mừng. Ngày một ngày hai
thấm từng nét người yêu vào hồn mình. Hình ảnh thấm sâu đã thành sự sống.
Rồi bao nhiêu chuyện người ta thêu dệt quanh đời Mừng, sợi
ngang, sợi dọc lầm lẫn. Người ta đồn rằng: Mừng đã có một đứa con riêng, và một
hôm gặp Mừng ẵm đứa bé trên tay. Chuyện người chị Mừng, người ta lắp qua cho Mừng…
Hầu tưởng như đó là một sự đau thương. Càng chân thành, càng nhức nhối nỗi đau
của người đã trở thành nỗi đau trên da thịt mình, trong tâm hồn mình. Để cho
vơi nỗi đau, Hầu tránh mọi con đường ngày thường qua lại, Hầu tránh Bến Ngự, Hầu
tránh cả Huế, không ở với gia đình nữa. Hầu ra Hà Nội, Hầu ở một gác ba phố
Săng-om, trên gác nhỏ, la liệt những bức tranh phác họa, tranh vật lẫn tranh
người.
Người bạn gái của Mừng không cho Mừng biết nguyên do cái chết
của Hầu, cả cách kết liễu đời mình. Đến hôm thi hài Hầu về đến ga Huế, người ta
mới tin cho Mừng để Mừng ra đón. Mừng chưa bao giờ thật sự đối mặt với Hầu. Những
gì Hầu đã vẽ và viết về Mừng, Mừng không hề biết đó là một người đã vẽ, đã viết,
đã mơ về Mừng…
Mừng đi quanh vườn, ngắt một bông hồng đưa cho tôi… tôi để
trên tay nhìn một giây lâu rồi trao cho Mừng. Mừng rút một cuốn sách nhỏ từ
trong túi, giở ra giữa một tờ giấy trắng tinh không chữ rồi ép mạnh và lại bỏ
vào túi áo. Tôi hỏi bâng quơ: “Mừng giữ một vần thơ nào của Hầu?”. Mừng đáp gọn
với cả một sự nhấn mạnh: “Không, không”. Nhìn thẳng vào mắt tôi, một giọt nước
mắt bật ra khỏi mi mắt Mừng. Tôi hiểu: “Không là không”. Cái kỷ niệm hôm nay, Mừng
đã ép giữa trang sách… Nhưng Mừng sẽ không chệch con đường số mệnh.
Nỗi đau đã nghiền nát giữa hàm răng, nỗi đau chứ đâu phải số
mệnh.
Tôi không dũng cảm bằng Mừng… và từ đây tôi không bao giờ có
ý lay chuyển cái quyết tâm của Mừng.
Không phải chỉ bàn tay đặt giữa lòng bàn tay. Ngày hôm nay,
những giọt nước mắt của Mừng đã rơi vào giữa đời tôi. Những ngày chúng tôi đã
đuổi theo bóng ngôi sao của tôi và đỉnh trời tôi đã gặp: còn điều gì đáng gọi
là nghi ngờ? Văn chương ruổi dong thoải mái. Cuộc sống lại nghìn lần sống phức
tạp hơn thế nhiều.
Khi đứa cháu tôi khẳng định cái điều người ông đang chờ chết
gọi Mừng đến bên mình hỏi Mừng một lần nữa: Ông sắp ra đi, cháu yêu của
ông có nghe lời ông không? Và Mừng đã ngoan ngoãn đáp lời ông: “Ông bảo cháu nhảy
xuống đống lửa cháu cũng nhảy”. Đâu phải Mừng dối ông. Những giọt nước mắt của
chiều nay, và cánh hoa Mừng ép kỹ vào trang giấy trắng. Mừng đã tránh cái nhìn
của tôi. Mừng vốn là người chẳng thích gì, chẳng chịu nổi: cái cảnh tầm thường
“đường ngang, sợi dọc”. Mừng từng ngâm câu“Thương nữ bất tri vong quốc hận…”
lại hay đuổi bắt cái mộng khác thường ấy.
Và ai yêu mẹ bằng người con gái hiếu thảo ấy? Chỉ vì một chút
vui lòng mẹ, Mừng sẽ chẳng từ… Còn tôi… hồn tôi dong ruổi giữa trời mà tôi có
thể bỏ tầng mây, chúi đầu vào một ngõ hẹp rối rắm.
Phượng hoàng với gà què thường sống lẫn trong một con người.
Tôi chỉ nhớ hôm ấy, tôi từ chùa Thiên Minh tiễn Mừng đến ngõ nhà Mừng. Ngõ đã
cài rồi, mà những ngón tay, thông qua hai thanh gỗ hở vẫn níu lấy nhau, níu mãi
lấy nhau cho đến khi không còn níu lấy nhau được nữa.
Giữa, khi nào con chim đang đi và khi nào con chim đã cất
cánh rồi, có một ranh giới thật lung linh kỳ diệu…
Chương XII
TÓC HUYỀN HƯƠNG BAY
Thuốc phiện là gì?
Khi đọc sử thế giới, tôi cũng biết có một cuộc chiến tranh
thuốc phiện ở cuối thế kỷ XIX. Bọn buôn người Anh bắt người Trung Hoa phải xài
cái thuốc độc này, chúng chở từ Ấn Độ qua. Cản đường chúng, chúng dùng sức mạnh
của súng để mở đường.
Nhưng vua quan Trung Hoa đã không cản đường chúng lại, đã cho
con cháu mình rước bàn đèn về nhà. Từ Trung Quốc, thuốc phiện lấn đường qua An
Nam.
Tôi lớn lên đã thấy nhà tôi rước bàn đèn. Ông chú tôi, một vị
Thượng thư, từ kinh đô Huế rước về. Thầy tôi về già cũng đốt sáng “tội ác” này
trước mắt chúng tôi.
Tôi viết tập truyện ngắn Người Sơn nhân, cụ Phan
Khôi cho tôi là người viết truyện ngắn giỏi nhất, từ Hoàng Ngọc Phách đến Tự Lực
văn đoàn không ai hơn tôi. Tôi đâu phải như thế! Tôi biết rõ sự kém cỏi của
tôi. Người Sơn nhân của tôi là một sự bế tắc dày đặc của tâm hồn tôi,
nhưng tôi không bao giờ rẫy ơn cụ Phan Khôi người thật lòng đề cao tôi.
Tôi được vào Sài Gòn gặp cụ Phan Khôi. Cụ cho tôi đi thăm “Đại
Thế Giới”: đập đầu khỉ, xơi món óc khỉ, rồi sà vào một tiệm hút, tôi không nhớ
rõ đường nào… một thế giới âm u ánh sáng.
Cụ Phan giới thiệu tôi với những vị khách quý, nhà báo, nhà học
giả nổi tiếng lúc bấy giờ như Đào Trinh Nhật, Bùi Thế Mỹ… Tôi có thể nói, nghiệp
vận của tôi mở đầu ở Huế, ở Ngân Sơn (Quảng Bình) và chủ yếu lớn lên ở Hà Nội,
nơi tôi đã tiếp xúc với những nhà văn, nhà thơ lớn tuổi như Tản Đà, Nhượng Tống
và những người hơn tôi 5 - 7 tuổi hay cùng lứa tuổi của tôi, hay kém tuổi tôi
đôi chút. Người đàn anh của tôi như Tản Đà, hay ngang tuổi tôi như Vũ Hoàng
Chương, đều là hai người say lớn. Một người lấy rượu làm niềm an ủi, một người
làm bạn với nàng tiên nâu (một cách nói đẹp đẽ lúc bấy giờ). Cái say của hai vị
đã để lại dấu ấn sâu trong cuộc sống, trong thơ văn.
Những Thế Lữ, Lan Khai, Vũ Trọng Phụng,… đã chấp nhận cái say
thứ hai này một cách thoải mái.
Có hôm trong tiệm hút, Lê Văn Trương chỉ cho tôi hai người
đàn anh thật sự của tôi, mũ kéo sụp xuống, cổ áo “pac-đơ-xuy” kéo lên bước vào:
Khái Hưng và Nhất Linh… những người lúc bấy giờ có những cuốn tiểu thuyết đẹp
lòng tôi. Họ cũng như tất cả chúng tôi sao? Sao họ lại có thể khác chúng tôi được,
có thể họ không sống cuộc sống “thất thường” của chúng tôi, thì họ cũng sống
theo kiểu thất thưởng của họ. Văn nghệ sĩ lúc bấy giờ, từng nhóm nhỏ thích sống
với ai thì sống với người ấy. Có nhóm Trương Tửu, Nguyễn Vỹ. Có nhóm Thế Lữ,
Đoàn Phú Tứ; có nhóm bút già nhiều tinh ma sống với nhau, có những nhóm trẻ
trong vắt mà được phong cho là nhóm “mới trắng” như nhóm Xuân Diệu, Huy Cận;
ngây ngô chưa biết đời là gì ở Quy Nhơn có nhóm Chế Lan Viên…
Khi tôi ở Hà Nội thì cặp kè với Lê Tràng Kiều, Vũ Trọng Phụng,
Nguyễn Xuân Huy, hoặc ở chung nhà với Vũ Hoàng Chương ở phố Hội Vũ. Tiêu tiêu
chung, áo mặc chung. Ở Huế, tôi không thể rời Hoài Thanh. Đúng là đêm với Nguyễn
Tuân hay với người nào đó, mà ngày nhất thiết là phải ở bên cạnh Hoài Thanh.
Hoài Thanh không bao giờ biết đến “xóm chị em” nhưng chuyện văn chương, chuyện
chính trị, chuyện đời thì tôi không thể nào không khăng khít với Hoài Thanh.
Có nhà văn nào đã tự nguyện vứt mình ra ngoài lề xã hội mà
không say! Say để tỏ thái độ bất mãn đối với đời, kiêu ngạo đối với loài hống
hách, để xù lông nhím ngay giữa cuộc đời và như có người nói… để lấy cái hứng lớn
cho thơ văn. Khi mới vào nghề văn, tôi cũng có lần uống rượu, nhưng uống
xong tôi chỉ say nằm rồi ngủ thiếp đi, mặc cho ai đó vạch lên trán vài vạch
vôi cho tôi sớm tỉnh. Say có nghĩa là ngủ thì có ý nghĩa gì! Có lần vì nể, tôi
ngồi hầu rượu Tản Đà từ 9 giờ sáng đến 15 giờ chiều. Khi Tản Đà đứng dậy múa kiếm
thì tôi đã rút lui không kiếu lỗi.
Còn tại sao … cả một lớp nhà văn, nhà thơ lúc bấy giờ một số
lớn đi theo vết nàng tiên nâu?
Mỗi chúng tôi đều khó quên cái kỷ niệm thú vị hay đắng cay lần
đầu tiên đến với nàng tiên nâu. Một chút màu nâu thấm vào phổi vào máu đã đưa lại
cho hồn mình một khoái cảm mơ màng như thế nào và đưa lại cho xác mình một sức
mạnh về chân tay như thế nào, khó mà quên được. Những ngày ấy có bao giờ nghĩ đến
tên quỷ sứ dữ dội núp sau vạt áo của nàng, một ngày nào đó sẽ tác oai tác quái!
Sau cái buổi chia ly đầy ảm đảm với Mừng, nếu không trở lại với
Hoài Thanh thì tôi lại tìm đến những người bạn của mình trong những giờ trác
táng.
Ở Huế lúc bấy giờ có những chuyện làm cho dư luận trí thức
xôn xao, đó là sự xuất hiện của một ả đào nổi tiếng, một ả đào từ Cổ Đạm Nghệ
Tĩnh vào đất vua và mở một cửa hàng. Nhan sắc và tiếng hát của nàng đã có tiếng
vang trong dư luận và cuốn hút những khách ngũ lăng trẻ hay đã về già.
Trong sổ hồng của ả, có những bài thơ hay thư từ của những
ông hoàng… những ông quan lớn và những khách văn thơ.
Lại trong thành phố, những kẻ trác táng “cao cấp” đôi khi đã
rời những bàn đèn nhà … tìm đến một vài tiệm hút cao cấp rất thanh lịch, để
nhìn những bàn tay gọt táo, hay tiêm những điếm phù dung.
Bạn bè tôi đã dẫn tôi đến một nơi ăn chơi như thế, dưới cầu
Đông Ba. Tôi đã gặp ở đây những ông khách nước ngoài, những ông Phủ, ông Huyện,
ông Phán, ông Thông, chủ nhà in lớn, những ông thầu khoán kếch xù… và ở đây tôi
ngồi viết những bài thơ.
Và ở đây một người đàn bà cùng lứa tuổi tôi, ăn mặc sang trọng,
trên tay mấy chiếc nhẫn một lúc. Khi bà ấy biết rằng tôi là một nhà thơ, ngay từ
phút đầu bà có cái nhìn khác, dầu qua câu chuyện tôi có thể biết bà chưa đọc
bài thơ nào của tôi. Một người không đẹp, không xấu, không trẻ, không già.
Nhưng khi gặp một nhà thơ, là nhận thấy niềm kiêu hãnh.
Trong đám người đến tiệm, bà không quen một kẻ giầu sang nào,
mà chỉ muốn gần tôi. Có người nói với tôi về lý lịch phức tạp của bà. Tôi không
muốn tìm hiểu… tìm hiểu để làm gì?
Bà mời tôi về một cái buồng sang trọng của bà. Cam táo không
lúc nào là không có trên bàn và thuốc phiện thì lúc nào cũng thừa mứa. Có người
lại nói bà là người giầu mới của thời Nhật. Những người cháu gái của bà ở Vinh
vào thăm đều có vẻ sang trọng. Qua câu chuyện của họ, tôi biết họ quen thân với
đám quyền thế ở tỉnh (Vinh). Mùa cam Xã Đoài, một chuyến tàu lửa chở hàng chục
giỏ. Vừa để bán, để ăn, để biếu. Bà tha thiết mời tôi về nhà, mấy tháng gần gụi,
quen biết, tôi thấy ở bà cái gốc gác nghèo nàn và dáng điệu của một “trưởng giả
học làm sang”. Bà đã điều tra rõ về gia đình tôi, về cuộc sống hàng ngày của
tôi. Bà cho tôi biết: nếu tôi ở lại với bà thì một đời sung túc, an nhàn được đảm
bảo. Bà biết tôi đã có hai đứa con. Một đêm khi mọi người đã ngủ, tôi thấy bà đặt
giữa trời một mâm cúng thịnh soạn. Bà khấn lầm rầm, vái lia lịa, hương đàn sáng
rực một góc sân. Tự nhiên tôi thấy sợ về một điều gì đó. Nhưng sống bên một người
như thế tôi không có điều gì lo nghĩ. Tôi chỉ nằm đọc sách và kháo chuyện với
vài người bạn. Bà đối xử với tôi cũng có thể nói là chu đáo. Một cuộc sống như
thế này chả phải là điều những người bạn nhỏ Đảnh và Xuân đã từng mong ước cho
tôi sao? Khi ở Vĩnh Điện, họ muốn giới thiệu cho tôi người con gái hồng hào, chủ
nhân của một hàng thịt đó sao? Mấy em nhỏ của tôi, muốn tôi có một cuộc sống ổn
định.
Một cuộc sống như thế sẽ rũ cho tôi mọi điều lo âu, nhưng đó
đâu phải là kiểu sống của một nhà văn… một cuộc sống không hề đến trong giấc mơ
của tôi, trong giấc mơ của tuổi trẻ tôi.
Thuở nhỏ, như trên tôi đã nói, có lần tôi với người cháu cùng
tuổi, liền ba tháng tự nguyện ăn cơm với muối… đâu phải rồi một ngày có cuộc sống
ấm no giàu sang… Tôi có bao giờ mơ đời tôi sẽ có những bàn tay giàu sang, cuốn
từng sợi tóc của tôi.
Tôi sẵn sàng đi vào gió bụi, nghĩ rằng một người như tôi gió
bụi sẽ không buông tha sự giàu sang hay những đêm ngày hành lạc của tôi ở đây, ở
đó, trong buồng thơm hay trên sông nước đều là tạm bợ. Vì thế trong nhiều ngày
tôi và Hoài Thanh đọc sách, nói chuyện văn chương. Rồi tôi lại đi tìm những bạn
Phong, Quế, hai bạn trác táng của tôi. Chúng tôi thuê một chiếc đò theo dòng
sông Hương, lướt qua trên bóng hoàng thành, lắng nghe đâu đây tiếng ca, tiếng
đàn cất lên. Người chủ đò của chúng tôi làm những bữa cơm rất Huế, ở trên thuyền
mà có được một bát canh cá phác lác, một đĩa rau muống chấm nước tôm kho đánh.
Ngày sống ở trên đó, tôi thấy như mình có được đôi cánh chim nhạn chim én đập
giữa trời.
Đò thường đậu ở nhịp giữa cầu Tràng Tiền. Lúc đứng tựa trên cầu
tôi gọi tên chị lái, lập tức không chị thì anh lái liền có mặt. Chỗ đò đậu thì
chỉ có tôi và vài người biết thôi. Cả bà ấy… tuy có ngờ tôi xuống đò, nhưng
không biết chỗ nào. Thật lòng, tôi không muốn nói câu gì làm cho bà ấy phải lo
sợ. Tôi đến dễ dàng, mà ra đi cũng nhẹ nhàng. Đó là quy luật xê dịch của tôi… Về
chuyện tôi ở đò hay ẩn mình ở một phòng kín nào, tôi không hề cho ai biết hết.
Nhưng giá có ai hỏi thì có thể tôi không giấu. Chả bao giờ Mừng
muốn tìm hiểu chút gì về kiểu sống của tôi lúc bấy giờ. Nhưng mỗi lần từ phố xuống
đò, tôi vẫn nhìn trước nhìn sau. Đã mấy tháng rồi, tôi tập sống như không có Mừng
ở trên đời. Nhưng đôi khi tôi cũng muốn ai mách cho tôi: Mừng đã trải qua những
gì; những gì đã xảy ra với Mừng. Tôi vẫn tin rằng: “Lễ cưới đó chưa xảy ra”…
người ông vẫn chưa vĩnh viễn “ra đi” cũng chưa đến giờ hấp hối. Nếu có sự này,
hẳn sẽ có cái “cưới chạy tang”.
Thỉnh thoảng bị nháy mắt, tôi lo đó là điềm Mừng về nhà chồng…
hoặc có điều xảy ra cho hai con tôi chăng: hoặc Trường Cửi có chuyện khác thường
đến với Mừng. Thường ngày tôi vẫn tin giữa những con người có một sự “thần giao
cách cảm”. Nhưng mà chuyện gì ngoài chuyện đám cưới của Mừng? Không có điều gì
khác xảy ra được… tôi tin như vậy, nhưng mỗi khi xuống đò, lên đò tôi vẫn nhìn
quanh nhìn quẩn. Giá lúc này xe Mừng dừng lại đây bất ngờ…!
Tôi vẫn đi qua xưởng ảnh của anh Tôn Thất Dung, ngắm qua, liếc
qua tấm ảnh “bốn cô” bốn chiếc vòng vàng, bốn cặp kính râm, bốn chiếc nón
nghiêng nghiêng. Không, ảnh không bao giờ thay người được. Có phép gì, nơi đây
xuất hiện Mừng bằng thịt bằng da. Không có người nào khác mang tên người nào
khác. Một lần tôi vừa lên đò, thì người cháu ruột học trường Quốc học, chạy lại
ôm lấy tôi kêu lên sung sướng: “Chú! Chú! Chú! Trên nhà ai cũng mong chú, nhưng
không biết chú ở đâu”. Như có ma quỷ núp rình đâu đó ghé tai rỉ với tôi: “Chị Mừng
không hiểu có việc gì, mấy hôm nay muốn hỏi tin chú, chị ấy nóng ruột lắm”. Tôi
tự bảo: “Hèn chi mình thấy cháy ruột”. Liên (tên người cháu ruột của tôi) nói
thêm: cả bác gái cũng hỏi tên chú. Tôi hỏi lại: “Bác gái?”. Liên gật đầu: “Bác ấy
nói đã lâu chú Lư đi đâu, không thấy lên”.
Tôi nghĩ: “Người mẹ ấy đã ngờ vực chúng tôi bây giờ đã nhắc đến
tên tôi ư?”. Ông Chủ Văn còn khỏe. Đêm đêm, tiếng xe sắt vẫn lách cách, ông
thăm mộ bác trai rồi về, − Liên kể tiếp.
Tôi cũng yên tâm hỏi lấn:
− Chị vẫn dạy đàn?
− Không dạy nữa, chị đi buôn lụa với chị Hương… chị vừa
đi một chuyến đầu vào Quảng Nam Đà Nẵng. Chị bảo cháu còn đi đâu nữa… thôi chú
lên nhà thăm chị một chút, thăm chị ấy một chút thôi.
Một chút thôi, nghĩ lại tôi cũng rất sợ. Tôi nhớ mãi
câu thơ của Kiều: “Ngó ý tơ lòng”. Một câu thơ đẹp, đầy chân lý, nhưng bây
giờ tôi lại sợ nó. Trong khi tôi chần chừ chưa lên nhà được, thì một hôm, từ
trên cầu một tiếng người phụ nữ gọi xuống, gọi đúng tên chị lái đò. Giọng người
quen. Tôi nhìn lên: Mừng! Mừng thịt da chứ không phải ai khác. Tôi bảo ghé đò,
đoạn tôi chạy lên, tôi vẫn nhìn trước sau đề phòng mọi thứ cẩn thận. Mặt Mừng
tái xanh có lẽ là vì Mừng đã gọi đúng tên người lái đò, và quả không ai khác,
chính tôi đã nghe tiếng gọi và bước lên với Mừng. Tôi nói: “Mừng xuống đò”. Mừng
lắc đầu. Tôi nói thêm: “Dưới đó chẳng có ai đâu”. Mừng mỉm cười: “Có ai thì
sao? Em không xuống đâu”. Lần đầu tiên Mừng xưng em với tôi: “Em không xuống
đâu, em chỉ nói với anh vài câu thôi, về ngay kẻo mạ chờ”. Dưới mé đầu cầu, Mừng
cho tôi biết là Mừng vừa đi Kỳ Lam về: “Em đã gặp chúng nó, chúng nó vẫn khỏe”.
Nhưng Mừng nói thêm: “Không thể để Hải, Nguyệt ở lại đấy được. Không thể được.
Hôm nào gặp lại, em sẽ bàn kỹ với anh”. “Không thể để Hải, Nguyệt ở lâu đó được.” - Mừng
nhắc lại thêm và từ biệt tôi, đi một thôi không ngoảnh lại. Có thật là Mừng đã
đi Quảng Nam Đà Nẵng, đi buôn chuyến vải lụa đầu tiên! Tiền đâu? Có thể là một
phần trong 500 đồng bạc Đông Dương, tiền “ăn hỏi” của bản thân mình. Đã chắc
đâu Mừng đã đi buôn trên xe lửa một mình? Mà chắc gì Mừng đi buôn thật… mục
đích chính có thể là đi thăm Hải, Nguyệt hai đứa con tôi ở Kỳ Lam, nơi nhà anh
ruột tôi, cách Đà Nẵng không đầy 20 cây số.
Những vấn đề của bản thân tôi, tôi không nghĩ tới thì Mừng lại
hết sức băn khoăn… Làm sao Mừng lại kêu đúng tên chị lái đò tôi thuê? Mừng như
rình núp đâu đó, chuyện gì về tôi Mừng đều biết cả. Giữa một trưa hè, tôi lên
thăm Mừng. Cả nhà nhất là mấy đứa cháu, thấy tôi reo mừng cả lên.
Nói chuyện với tôi xong chúng nó đi học, mẹ Mừng chưa ngủ dậy,
đứa cháu nào làm ồn, Mừng ra dấu bảo chúng nói khẽ, con Thúy hay khóc Mừng ẵm
xuống nhà dưới trao đồ chơi cho Thúy, Thúy chơi một mình. Mừng trở lại bên tôi.
Tôi giục Mừng kể lại chuyến đi buôn của Mừng. Chuyện Mừng gặp hai đứa con tôi.
Mừng chỉ nói nhỏ với tôi: “Ngày mai… em đi Quy Lai, em sẽ nói chuyện tất cả cho
anh nghe. Đúng 4 giờ chiều, em lại gọi anh ở chỗ hôm nọ, anh nhớ nghe”. Mừng
không nói thêm gì nữa và đứng dậy đi ra sân sau… tôi nhìn thấy Mừng lúi húi một
mình, chùi một chậu sành… rồi mang vào buồng tắm… đi đến bên tôi nói nhỏ một
câu để cho tôi nghe thấy: “Em sửa soạn cả rồi, anh vào tắm đi”. Tôi sửng sốt
nhìn Mừng. Mừng giục thêm: “Vào đi”. Tôi chỉ còn một cách vâng lệnh Mừng. Mỗi
gàu nước xối lên đầu làm tôi rùng mình. Bên ngoài Mừng vẫn đi đi lại lại, chuyển
thêm cho tôi từng gàu nước.
Tôi nuốn khóc lên được, lau xong mình, tôi trở ra với Mừng…
có phải đây mới thật là tình yêu ở đời! Mừng đâu phải lấy quyền uy, sắc đẹp để
bắt một nhà thơ quỳ gối. Mừng không phải đặt mình vào trung tâm vũ trụ, bắt một
cành hoa, một ngọn cỏ cũng phải cúi phục mình. Tình yêu thương chả có nghĩa gì
khác với hai chữ: “vì người” tất cả “vì người mình yêu, tất cả!”.
Không phải thân mình tôi tắm gội… mà cả tâm hồn tôi, cả cuộc
đời tôi được dội mát. Hồi ấy tôi chưa đọc truyện Người thầy đầu
tiên của Aitmatov,[a] tôi không nghĩ rằng: đời tôi, Mừng
đã biết hết từ chân tơ, kẽ tóc. Mừng đâu phải như ông thầy học bắt người học
trò đầy bụi bậm, đầy đau khổ phải trút cả vào dòng suối trong xanh.
Tôi chỉ biết Mừng săn sóc tôi, thân tôi, đời tôi như từng bộ
phận máu thịt của Mừng… “Mình” có lẽ tiếng ấy sau này đã được Mừng dùng đầu
tiên và mãi mãi mỗi khi gọi tôi. Nắng đã xế chiều. Chúng tôi ngồi bên nhau…
không nói, bỗng như giật mình nhớ đến mẹ. Mẹ đang đi gõ từng trái mít, xem có
quả nào bán được, sẽ hái mang cho Mừng xuống chợ. “Mạ ơi, mai con đi Quy Lai,
không đi chợ được. Hãy để ngày kia, ngày mốt con về mạ sẽ hái…”
Người mẹ chẳng nói gì đi lên vườn. Mừng nói với tôi: “Mạ đang
đi lên thăm mộ ba đấy, ngày nào chả thế”. Mừng chạy vào nhà xách cây đàn tranh
ra ngồi so dây và nói với tôi: “Mại thích đàn bài “phú lục” cho nghe”. Người mẹ
bước tới nhìn tôi ngồi bên Mừng: “Con đàn đi cho chú nghe”. Mừng vặn dây xong,
vút lên mấy tiếng đàn dạo. Mỗi tiếng đàn dạo qua trước khi vào bản nhạc chính,
tôi tưởng như trời vừa thổi qua một cơn gió tươi mát lạ lùng.
Anh Nguyễn Chí Thanh cũng như anh Tố Hữu thường nói với tôi:
“Đàn của Mừng rất lạc quan, rất tươi”. Nhưng Mừng không bao giờ cho mình là một
nghệ sĩ và có tâm hồn nghệ sĩ. Mừng không chuyên tâm nhiều vào nghề nghiệp.
Nhưng chiều hôm ấy, khi Mừng đánh lên bài “phú lục”, tôi thấy bâng khuâng lạ
lùng, mặc dù tôi chẳng sành âm nhạc dân tộc lắm.
Mừng đàn xong lúc nào tôi không biết… tôi cứ ngồi thẫn thờ ra
mãi. Mẹ của Mừng vốn thích bản nhạc này, nên cứ ngồi lặng đi, bà nói, chẳng biết
nói với ai: “Hôm qua lại thấy ba về”. Tôi chỉ qua tiếng đàn mà nghĩ bâng quơ đến
điều này điều nọ. Tôi chỉ muốn khóc lên một tiếng. Nhưng vì sao tôi lại muốn
khóc? Có phải qua bài “phú lục” này, Mừng lại nhắn thêm một lời từ biệt với
tôi? Thôi hãy đợi đến ngày mai… ngày mai, trên con thuyền đi Quy Lai, một làng
cách Huế chừng 15 cây số, Mừng sẽ báo hiệu cho tôi về những điều hệ trọng về đời
của Mừng. Mừng theo tôi ra đến ngõ. Tôi gieo từng bước đi nặng trĩu mà trên đầu
như cả một trời trĩu đè xuống. “Ngày mai, 4 giờ đúng hẹn nhé”. Tiếng Mừng dễ
thương và như đầy hạnh phúc. Rõ ràng là một tiếng hẹn của tình yêu. Tôi quan trọng
hóa mọi điều chăng? Đâu phải là chuyện ngày mai, tôi sẽ nghe một lời tuyên án
trước tòa.
Chương XIII
ĐÊM QUY LAI
Rất đúng hẹn Mừng đến với tôi. Mừng quả có xách theo một xấp
vải để bán cho nhà một người quen ở Quy Lai. Nhưng đâu phải vì việc đó mà Mừng
có mặt với tôi, hôm nay trên chiếc tàu kín mui này.
Thuyền chúng tôi đã giữa con sông, buồm căng băng theo một luồng
gió thuận, trời đang vào hoàng hôn. Những ánh nắng đang tắt dần, lại những ngôi
sao đầu tiên bắt đầu xuất hiện trong vòm trời. Giờ này là giờ những người con
trai và các cô gái tụ nhau sau một ngày vất vả. Họ gặp những ngôi sao để nói
chuyện với sao… tâm sự với những ngôi sao…
Những ngôi sao xa xôi như bay song song với con thuyền của
chúng tôi.
Mừng ngồi trên mạn thuyền, trước ngọn gió, những vòng tóc Mừng
thường đưa tay uốn tròn trên trán, trên đôi má cũng tung bay. Tôi dựa vào mũi
thuyền đứng ngắm Mừng, dưới tia sáng cuối cùng của mặt trời sắp tụt hoàn toàn
sau núi. Kỳ diệu, bây giờ trên gương mặt Mừng chỉ còn những nét hớn hở, vui
tươi trong mắt, qua giọng nói.
Còn sao nữa? Chẳng phải là Mừng hôm nay đến với tôi trong con
thuyền này, lòng Mừng đầy hạnh phúc? Và cũng chỉ mang lại cho tôi một niềm hạnh
phúc…
Nỗi đau của Mừng như đã trút đi đâu hết rồi, có lẽ đã trôi
theo những giọt nước mắt. Lúc này ở đầu mũi thuyền, chỉ có một cô lái đò… và
trong khoang thuyền chỉ có tôi với Mừng…
Mừng đã kể lại cho tôi, cái chuyến đi ngụy trang dưới một
chuyến đi buôn vải lụa ở Quảng Nam. Mừng đã đến nhà anh chị tôi ở Kỳ Lam. Khi Mừng
đến, chúng nó đang ăn cơm. Chúng nó không chỉ có Hải và em gái nó là Nguyệt,
con bé có con mắt lành đầy lo nghĩ giữa tuổi lên 6… mà còn Nhiệm, con một người
anh khác của tôi, bằng độ tuổi Hải, cũng được mang gửi đến ở đó.
Khi Mừng đến, ba đứa nhỏ cùng ngồi một mâm. Còn hai đứa con
trai của người anh có lẽ đã ăn rồi với cha mẹ… Mừng kể:
− Trời sắp tối em nhìn kỹ xem mâm cơm có những gì… sáng
hôm sau, em thấy áo chúng chỗ rách chưa vá… Nhiệm và Hải đã bắt đầu làm những
việc nặng….
Mừng không nói gì nữa, chỉ ôm mặt khóc… Tôi nói với Mừng:
− Không nên trách ai… tội ở anh cả. Em có biết trong lúc
đó anh đang làm gì không?
Mừng đáp gọn:
− Sao em không biết?
Thì ra cả cách sống của tôi, Mừng đã biết hết cả rồi… Ở với
ai, lên đò xuống đò Mừng đều biết cả.
Tôi nghĩ đến cái hôm giữa trưa, Mừng múc từng gàu nước chuyển
vào chậu cho tôi tắm. Tôi giật mình… tôi cứ nói chẳng khác nào một cái máy:
− Tại anh cả!
Mừng mỉm cười, đau xót đáp gọn:
− Tại anh, còn đời anh phải làm gì nữa… anh làm thơ, văn
cho đời, thế con chưa đủ sao?
Tôi nhớ sau này, có lần Mừng nói với tôi: “Thơ anh, không phải
bài nào em cũng thích. Nhưng anh làm thơ là để cho đời… Lần đầu tiên em gặp
anh… em nhìn vào đôi mắt anh, em nghĩ: đời anh tuy có đôi khi phá phách, nhưng
bàn chân anh không đạp lên ngọn cỏ, anh không giết nổi một con kiến dưới tay.
Thật tình trong lúc tôi đau xót tôi không muốn Mừng nói như
thế… Nhưng Mừng nhìn vào đôi mắt tôi và nói tiếp:
− Anh muốn làm gì, đi đâu tùy anh… em hiểu và không một
lời trách móc… nhưng khi anh thuộc về em… tất nhiên Hải, Nguyệt không thể như
thế được và cả anh nữa… không thể như thế mãi được.
Và như sợ tôi hiểu lầm, Mừng nói như khẳng định:
− Em cũng sẽ đi vài chuyến buôn ở Đà Nẵng nữa. Nhưng mà
ai biết được sẽ thế nào? Anh có tin vào số mệnh không?
− Sao lại không tin?
− Cho nên hôm nay, chỉ biết hôm nay. Em đã nói dối mạ để
được đi với anh.
Với một động tác nhanh gọn, dứt khoát, Mừng lau khô những giọt
nước mắt trên má Mừng và cả trên mi tôi. Mừng đỡ tôi dậy và kéo tay tôi ra:
− Ra ngoài một chút anh.
Mừng nhìn đồng hồ:
− Mấy giờ rồi em?
− Bảy giờ ba phút.
Chúng tôi ra ngoài mũi thuyền. Mừng ngồi, tôi đứng ngắm Mừng.
Thì ra từ lúc nào, gió đã thổi… và chị lái đã căng buồm lên. Gió không lớn
nhưng buồm vẫn căng.
Thế đấy, chúng tôi cùng ra nhìn sao trời. Hết đứng ngắm, tôi
lại đến ngồi bên Mừng. Những chiếc vòng tóc uốn tròn của Mừng đã bay trên mặt
tôi.
Từng đám sao như thể chạy trên đầu tôi và dưới chân tôi nước
sông Hương gợn sóng, tôi lại đến ngồi bên Mừng; Mừng cầm tay tôi nhắc tôi:
− Vào khoang đi thôi. Gió lạnh rồi.
Tôi vâng theo lời Mừng như một đứa trẻ… tôi dìu Mừng vào
khoang thuyền…
Đêm đó là đêm 19/1/1944, cái đêm mà tôi gọi là đêm động phòng
của chúng tôi. Của hai con người yêu nhau mà chẳng bao giờ biết những cái gọi
là “lễ hỏi”, “lễ cưới” ở trên đời.
Đêm ấy gió cứ thổi. Thuyền cứ trôi. Chúng tôi không cần biết
thuyền ngược lên Tuần hay xuôi tới Cửa Thuận.
Nếu tình yêu có đỉnh cao, thì đây là đêm thiên thai của chúng
tôi. Tất cả những nỗi đau buồn của chúng tôi đã rũ hết… cả một thể xác trong một
thể xác, cả một tâm hồn trong một tâm hồn. Sáng dậy, chị lái đò bảo chúng tôi:
− Quy Lai đây rồi.
Quy Lai có nghĩa là thiên đường hay địa ngục, - chúng
tôi không cần hỏi.
Đến Quy Lai, Mừng xách xấp vải lên bến. Chị lái đò cùng đi với
Mừng.
Tôi ngồi lại một mình trong thuyền. Mặt trời đã lên cao. Kỳ
diệu, tôi nhìn lên phía chênh chếch đối diện với mặt trời… một mặt trăng bạc phếch…
một mảnh trăng khá tròn nhưng không ánh sáng.
Có thể trong đêm hạnh phúc của chúng tôi… vầng trăng đã đi một
vòng trên trời mệt lả mà chúng tôi không hề biết. Cuộc hành trình của vầng
trăng vất vả, lao đao, nhưng bây giờ về đây sao quá duyên dáng dễ thương…
Một lúc sau, Mừng trở về, xấp vải đã bán rồi. Chị lái đò đã
xách từ chợ về một cái giỏ khá đầy.
Mừng nói với chị lái: “Xong việc rồi đấy, giờ ghé vào bến nào
tùy chị… Chúng ta lo bữa cơm sáng…”
Thong thả, nhởn nhơ, từ từ, miễn là chúng tôi trong ngày hôm
nay về đến Huế.
Không nhớ là bến nào, chúng tôi đã ghé ăn bữa cơm. Những món
ăn Huế, những món ăn tôi đã quen từ bàn tay Mừng làm ra.
Chúng tôi mời mọc mãi, chị lái đò vẫn không ngồi với chúng tôi,
như cố để chúng tôi hưởng cái hạnh phúc riêng. Đường về không gặp gió… thuyền cứ
nhởn nhơ… càng nhởn nhơ, Mừng càng thích. Khi thì Mừng đưa chân hắt nước vào
tôi, khi thì đưa tay vốc từng vốc nước để cho nhỏ từng giọt trên đầu tôi.
Mừng trẻ lạ lùng, và tôi là một nhà thơ, có bao giờ tôi lại
chẳng trẻ? Cả những khi đau khổ lút người, tôi vẫn hồn nhiên như một đứa trẻ
con. Hình như những bài thơ buồn của tôi, Mừng không thích lắm. Những bài thơ Mừng
thích là những bài thơ nào vậy? Tôi nhớ có lần Mừng đã nói thẳng với tôi: “Thơ
anh không phải lúc nào cũng là anh”. Tôi hiểu: Mừng thích tôi hơn thơ tôi nhiều…
Thuở ấy, Mừng đối với tôi quá độ lượng chăng? Dù mái chèo có nhởn nhơ đến đâu,
đến trưa thuyền của chúng tôi cũng về đến Huế. “Gần tối tối em về nhà cũng được”.
Mừng nói liều lĩnh như thế… liều lĩnh đến mức, Mừng muốn đi với tôi giữa phố
đông người. Chúng tôi qua cửa Thượng Tứ đến hồ Tịnh Tâm, chúng tôi cầm tay nhau
đi dưới những hàng cây cao, có những đứa trẻ trêu chúng tôi, mặc chúng…
Chao ôi… những tiếng chim kêu ở Tịnh Tâm! Hồ của các đời vua
xưa để lại, không còn sửa sang nhiều. Nhưng những con chim quen với tiếng im lặng
của các triều đại đã qua, mỗi khi ném ra một tiếng kêu, thật là tiếng vàng tiếng
ngọc. Mỗi khi tôi muốn tìm ở Mừng một chút vương giả, một chút Hoàng gia, nhưng
tôi chỉ thấy một nét mộc mạc dân quê. Và trái lại khi tôi muốn tìm ở Mừng một
chút dân giã quê mùa thì tôi lại vấn vương một vẻ hào hoa, quý phái. Có lần tôi
nói: “Đàn Mừng chả vương giả”, Mừng nói: “Em là cô gái Chiêm Thành”. Có một lần
tôi đã làm thơ về Mừng:
Em là chim ý nhi
Vơ vẩn dưới gốc thùy
Vấn vương tình nghệ sĩ
Ngần ngại lúc chia ly
Em chở một hồn đầy
Khối hận người Chiêm quốc
Lặng thinh và u uất
Hay đâu cơ sự này?
Dám nghĩ chuyện đâu đâu
Nhìn nhau sầu cách sầu
Tay rời tay lại nắm
Lòng đau quặn thêm đau.
Nhưng sau này Mừng có đọc tới bài thơ đó, Mừng bảo đâu phải
là mình trong thơ. Biết thế nào mà chiều được. Bảo rằng đau này chỉ có thế ư? Ừ,
dỗi vậy thôi. Mà bảo rằng tươi, hẳn nàng cũng không chịu.
Trong thơ, quả thực tôi có nói đến cái đau thương sâu lắng,
cái uất ức Chiêm nữ… Nếu thơ là người, người là thơ, thì hà tất phải có thơ. Mừng
như có lúc đã bước thực vào trong cái thế giới “không thơ” của tôi. Trái lại,
tôi đã lầm khi nghĩ rằng: Mừng là một người con gái lãng mạn, “Chà, được đi nước
này nước nọ, mỗi nước được gặp một nhà thơ”. Mừng quả có nói như thế thật. Tôi
không nhớ đích thực là tôi có phảng phất nghĩ đến Mừng khi làm bài thơ Vầng
giai nhân! Bài thơ này không có trong tập Tiếng thu, nhưng, tôi
đã nói với Tố Hữu, đó là bài thơ tôi thích nhất. Trong lúc đó, Tố Hữu gặp tôi
thì hay đọc lại: Bên thành con chim non…, Thanh Đạm cũng vậy,
thích Con chim non bên thành, Lưu Trọng Văn hay đùa nghịch hình như lại
thích bài Mưa, mưa mãi và Còn chi nữa. Liệu Mừng có thích
được bài Vầng giai nhân này không?
Lúc này tôi đi lang thang nhiều nơi mà không định đâu cả.
Trên đất nước nô lệ, người với ngựa cùng say bước:
Ước gì ta có ngựa say
Con sông bên ấy, bên này của ta
Ta say ngựa cũng la đà
Trời cao xuống thấp núi xa lại gần
Ta say ngựa cũng tần ngần
Trên lưng ta “quẩy” một vầng giai nhân…
Lúc tôi mười mấy tuổi, ở Đồng Hới, cô giáo Bùi Thị Trâm dắt
vài đứa học trò chúng tôi ra động cát bên cầu Mụ Kê, cô kể về cái giận vong quốc.
Lớn lên, tôi đã từng ở nhà cụ Phan Bội Châu và nằm một nhà với cụ Võ Liêm Sơn…
Nhưng những ngày tháng này lòng tôi đã chết hết mọi giấc mơ tráng sĩ… Trong lúc
đó, khi tôi gặp Mừng, Mừng hay ngâm hai câu thơ:
Thương nữ bất tri vong quốc hận
Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa…
Cô gái trong thơ không quên được cái hận mất nước. Mừng lúc
này cũng rất hào hứng với nỗi đau này. Còn như trên lưng ta quẩy một vầng
giai nhân, tôi đắc ý bao nhiêu thì Mừng vô tâm bấy nhiêu…
Mừng không muốn hiểu hai chữ “giai nhân” chăng… mấy lần tôi đọc
Mừng nghe bài thơ này, nhưng Mừng rất hững hờ… Trong buổi chiều Tịnh Tâm này, lại
ước mơ: giá có cách gì cột Mừng theo ta sau lưng ngựa. Không muốn rời Mừng nữa.
Không muốn rời Mừng được nữa trong chuyến đi quá đầy đặn, chan chứa yêu thương
này, chúng tôi đi đến bên hồ, giữa hồ có một cái lều đã sụp nát, chiếc cầu gỗ
đi ra cũng gập ghềnh mất hết tay vịn rồi.
Mừng vụt đứng dậy, tôi không kịp gọi lại. Mừng ra giữa cầu ngắt
một đóa hoa sen trắng đầu mùa, Mừng đặt vào tay tôi, tôi cúi xuống hôn cánh
hoa, rồi đưa lại cho Mừng, Mừng cũng cúi xuống hôn da diết cánh hoa, rồi lại
đưa trả lại trên tay tôi…
Ôi... những chiếc hôn da diết tưởng chừng như làm rách nát
cánh hoa. Và những cánh hoa rách nát như bay tan tác dưới một trận gió nào…
Đâu phải thế! Hồ Tịnh Tâm vẫn im ắng lạ thường. Tôi muốn kêu
lên: Có ai sung sướng hạnh phúc như chúng tôi không? Tôi muốn thách thức với từng
cơn gió thời gian...
Như chỗ không người, chúng tôi ra cửa Thượng Tứ lại xuống đò.
Đò chở Mừng về đến tận bến Trường Súng để Mừng lên trước, đi con đường gần nhà
nhất. Tôi bảo Mừng “Sửa lại tóc tai”. Mừng cười “Cứ để thế”. Khi Mừng lên bờ,
tôi nhắc lại câu nữa: “Từ nay, thuyền không đậu ở giữa cầu nữa, mà sẽ đậu ở bên
Tòa Khâm nhớ nghe…”.
Tôi trở vể đò được ba ngày rồi… Tôi đọc sách… và dày vò với ý
nghĩ làm sao mà đưa sớm hai đứa con tôi ra với tôi… và với cuộc đời, tôi nghĩ
phải cắt bớt dần những mối liên hệ…
Ngày thứ ba, vào buổi chiều, tôi nghe có tiếng gọi. Liên đứa
cháu tôi, người liên lạc của tôi đã đến. Liên đưa cho tôi một phong bì rồi chạy
luôn, dường như không muốn tôi hỏi thêm điều gì nữa…
Đây là bức thư ngắn của Mừng:
“Anh!
Em về nhà hơn sáu giờ, mạ chỉ nhắc em ăn cơm đi… một đêm em
ngủ đầy đủ… không mơ và thức giấc nửa chừng… sáng hôm sau em dậy trưa… em mặc
áo xách rổ định ra chợ mua con cá gì nấu canh cho mạ. Ra đến giữa sân mạ gọi lại:
Mừng vào đây tao hỏi. Một buổi chiều, một ngày, một đêm mày đi với ai, mày đi
những đâu… Đừng nói nữa tao biết cả rồi. Dưới nhà “anh ấy” cũng biết cả rồi, khỏi
phải nói. Mày đi với “chú mày”, mày đi giữa phố có thèm tránh ai đâu… Từ lúc
nào mạ chuẩn bị một thanh củi. Cứ thế mạ phang vào em, bên hông bên trái, bên
hông bên phải. Em nói: mạ cứ đánh đi… em lỳ lắm nhưng em cũng biết tránh. Giá
không biết tránh thì em cũng bị gãy mấy cái xương sườn. Nếu không thì giờ này,
có lẽ em đang nằm bệnh viện. Mạ giựt tóc em, bứt từng khuy áo em… giựt cả vòng
ngọc em đeo nơi cổ. Những hạt ngọc văng ra tung tóe. Em lượm từng hạt. Em cố
nén từng giọt nước mắt.
Em ngước lên vách, nơi có treo tấm ảnh em chụp từ năm 17 tuổi đó. Người ta muốn xóa em khỏi nhà chăng? Em đứng lên không nổi… loạng choạng đi vào giường em, không biết người mẹ mà em thương nhất đời đó, đánh cho hả nư hả giận bây giờ nằm đâu rồi? Những vết thương trên mình em tím bầm, cựa một cái là nhức nhối, không phải vết thương rên xiết trên mình em mà cả trên mình anh đó. Nỗi đau của em của anh sẽ tăng lên gấp trăm nghìn lần. Hãy dũng cảm lên như em… Và bây giờ nằm trên giường nhớ anh, nước mắt không thèm nén để mặc nó tuôn ra như một trận mưa.
Em ngước lên vách, nơi có treo tấm ảnh em chụp từ năm 17 tuổi đó. Người ta muốn xóa em khỏi nhà chăng? Em đứng lên không nổi… loạng choạng đi vào giường em, không biết người mẹ mà em thương nhất đời đó, đánh cho hả nư hả giận bây giờ nằm đâu rồi? Những vết thương trên mình em tím bầm, cựa một cái là nhức nhối, không phải vết thương rên xiết trên mình em mà cả trên mình anh đó. Nỗi đau của em của anh sẽ tăng lên gấp trăm nghìn lần. Hãy dũng cảm lên như em… Và bây giờ nằm trên giường nhớ anh, nước mắt không thèm nén để mặc nó tuôn ra như một trận mưa.
Em khóc với anh, em chỉ khóc với anh thôi, em không có gì hối
hận về chuyến đi Quy Lai… Em đã trách nỗi đau hối hận của Thúy Kiều đối với Kim
Trọng. Không bao giờ phải hối. “Biết thân biết đến lạc loài, nhụy đào thà bẻ
cho người tình chung”. Em đã dâng cả hồn em xác em cho anh. Giờ đây em bị giam
như kẻ có tội. Trận đòn của mạ đó, không thể chuyển nổi lòng em. Mạ sẽ hỏi cung
em nhiều lần, sẽ còn truy em đến cùng, trong lúc này anh không được lên thăm
em. Lên đò, xuống đò anh phải cẩn thận nhé. Thư từ tin tức sẽ qua Liên. Liên
không hiểu gì những việc chúng ta làm. Nhưng Liên là người tốt, rất yêu thương
chúng ta. Tin được…
Anh đừng đi đâu, giữ gìn sức khỏe.”
Tôi đọc xong bức thư nguệch ngoạc của Mừng, tôi như điên lên…
Giá như tôi có một cái súng trên tay, tôi sẽ nhắm mắt bắn bất kỳ vào đâu. Tôi
biết rõ đây là cuộc chiến đấu giữa những người yêu nhau. Chính vì thế, trận đấu
càng đáng sợ. Tôi không ngờ tôi cảm thấy đau quặn đến thế. Tôi muốn băng lên với
Mừng, đến tận phòng giam của Mừng….
Đọc đến đây, chắc những người bạn trẻ của tôi sau một hai thế
hệ hay bốn năm thế hệ sẽ sửng sốt đến buồn cười. Cánh hoa đẹp trước mắt các bạn,
thích là các bạn đưa tay hái. Nhưng hỡi ôi! Những ngày tháng của chúng tôi,
chúng tôi đã đi tới một cái cầm tay, một cái hôn, một đêm dài hạnh phúc như thế
đấy… Còn tôi, một “nhà thơ” nghĩa là một người tự do trong tư tưởng, cũng không
nghĩ được gì để cứu thoát được mình, tôi thường tự phong là người có khí cốt
giang hồ… Có đêm trời mưa bão… tôi với Nguyễn Tuân rủ nhau thuê xe đi, đi đâu
thật cũng không rõ. Bão lớn chúng tôi cứ đi, trời tối như mực, cột điện đổ, dây
điện giăng đầy… Chúng tôi cứ đi giữa phố phường Hà Nội. Lại có lần chúng tôi đi
từ Thanh Hóa vào Quỳnh Lưu để cà khịa với bọn quan lại ăn thịt người. Thế mà mấy
hôm rồi, tôi như bị cột ở trong chiếc đò. Đọc sách không nổi, làm thơ cầm bút
lên, vất bút xuống… Có hôm đến cầu Bến Ngự rồi trở lại với chiếc đò thuê. Tôi
chẳng dám đến gần Mừng. Chiếc đò cũng bị xích lại dưới chân tôi. Tôi cũng đã mấy
lần vào tù… Nhưng chưa bao giờ biết có cái từ này. Rõ ràng tôi nát ruột bào gan
nhưng quả tình tôi là một kẻ bất lực… Tôi chỉ biết ngồi chờ Mừng đối phó, chờ Mừng
hành động. Tôi bị gạt ra ngoài vùng lo toan, mưu kế của Mừng. Tôi tin rằng: Trước
bao sự dọa dẫm hay dọa nạt của người mẹ, Mừng chẳng đầu hàng… Đau đớn nhiều, Mừng
càng gắn bó với tôi, chung thủy với tôi…
Qua dòng thơ ngắn Mừng mới viết cho tôi, viết trong lúc gấp
gáp (vẫn do Liên vội vàng chuyển cho tôi), đại thể Mừng cho biết: Mừng vẫn ở
nhà, không đi đâu, vẫn bình thường và nhắc tôi cũng đừng đi đâu và giữ gìn sức
khỏe. Thế thôi…
Chương XIV
SAU TRẬN PHỦ ĐẦU
Chỉ sau này, Mừng kể lại tỉ mỉ tôi mới hiểu rõ: sau trận phủ
đòn “phủ đầu”, người mẹ không uy hiếp nổi Mừng… Nhưng từ đây Mừng đã qua cuộc
thử thách ghê gớm, luôn luôn căng thẳng… Mừng đã phải đặt lại chữ “Hiếu”… nhìn
mẹ với cặp mắt khác nhiều trước đây.
Có thể tình yêu của Mừng đối với một người như tôi, bà mẹ
không sao hiểu được, cho nên trước sau Mừng không động tới, không phân bua,
không giải thích…
Nhưng một người mẹ hiền như người mẹ của Mừng lại có thể
phang bất kể vào thể xác con: nếu không may đánh vào chỗ hiểm, Mừng tử thương đời
sẽ nghĩ thế nào?
Có thật hoàn toàn vì hạnh phúc của con hay vì những lý do
khác: chẳng hạn vì quyền lợi gia đình mà bà bắt Mừng hy sinh… Cũng có thể vì một
danh giá hão, hay vì những lời tiếng này nọ chăng? Thật tình chúng tôi đau đớn
nhiều hơn giận.
Mừng rất gan, đi ra đi vào không nhìn mẹ, không chào hỏi ai hết.
Ăn được Mừng vẫn gắng ăn, ngủ được cố gắng ngủ, tuyệt đối không dọa dẫm ai hết.
Sau này Mừng nói với tôi: “Em thèm ra thăm vườn quá như những
ngày nào, em muốn đi gõ vào những quả mít, tưới nước vào những gốc tiêu… Nhưng
em vẫn phải tự nén mình, cũng là để tỏ một thái độ với cả nhà, trước hết là với
mạ.”
Cuối cùng không phải Mừng mà là người mẹ đã thỏa hiệp trước,
có thể vừa vì thương con thật, cũng khéo léo dùng thủ đoạn kéo con trở về. Bà
đã đấu dịu dỗ dành Mừng. Tuy rằng đến lúc này Mừng vẫn không phản đối lễ cưới…
Đôi khi trong đầu óc Mừng muốn tìm cách hoãn lễ cưới lại ít
lâu.
Cũng chỉ vì nỗi đau trên da thịt và trong tâm hồn mình, Mừng
sợ tôi bơ vơ, không chống nổi cuộc đời. Có lúc Mừng như dao động. Ngay trong
gia đình mình, bên này, bên nọ, cũng đã có những nanh vuốt chĩa ra. Có lúc Mừng
phải kêu lên từ trong gan ruột: “Xa em anh sống làm sao được! Không phải chỉ
hai con, bỏ rách đói, mà ngay anh, một người thật thà như anh, làm sao sống nổi
với đời!”.
Vì thế khi mẹ dỗ dành, thuyết phục, Mừng chỉ nghe và khóc
thôi, không hề cãi lại, không hề phản đối. Cách đối phó của Mừng ít nhiều đã có
kết quả. Có lúc người mẹ tưởng như con đã biết ăn năn, biết tội.
Mừng tuy có hứa với bà là tìm cách xa tôi, nhưng bà không tin
lắm. Bà chỉ muốn tin rằng: Mừng đã ăn phải bùa ngải của tôi, - ít ra
cũng là bùa ngải văn chương. Bà bắt Mừng phải đến thề ở đền “Quan thánh Trần”.
Thánh Trần đây là Trần Hưng Đạo, vị tướng nổi danh đã hiển thánh. Ngài đã đánh
tan họa giặc Nguyên-Mông, làm cho bọn giặc dữ phải khiếp sợ. Ngài muốn "vật
ai chẳng được". Khắp trần gian ai cũng nói đến uy linh của ngài.
Đền ngài ở mãi An Cựu. Mừng phải sửa soạn đi theo mẹ, đến tận
đền ngài. Đến đó, mẹ bảo làm gì Mừng sẽ làm nấy, Mừng không phải lo sợ. Đã lâu
bị giam không ra khỏi nhà, nay Mừng lấy gương ra soi, thấy mặt mình xanh quá,
không ngăn được nước mắt. Nhỡ ra đường gặp tôi, cũng tội nghiệp. Mừng vẫn mặc
cái áo thô đen mà tôi rất thích. Lần này Mừng không đeo chiếc kiềng vàng mà xâu
chắc chuỗi hạt ngọc xanh. Mừng sẽ đến trước ông Thánh Trần với cái chuỗi hạt ngọc
xanh ấy, bị mẹ bứt. Hỏi có lời thề nào bứt nổi cái vòng hạt đã được xâu lại một
cách chắc chắn đó?
Khi bước tới trước ban thờ đức Thánh Trần, khói hương nghi
ngút, Mừng cũng hơi kinh sợ. Mừng đứng bên mẹ, mỗi người cầm một thẻ hương vái
trước bàn thờ, vừa vái vừa khấn. Như đã hứa trước, Mừng khấn theo. Mẹ nói gì, Mừng
lặp lại như thế. - “Mạ bắt em phải thề là tôn trọng lễ hỏi, phải chịu
cưới xin. Mạ đọ tên người chồng, em đọc theo, nhưng khi mạ bắt em thề bỏ anh,
nói xấu anh, bôi nhọ anh, em tức quá muốn khóc lên. Nhưng em nghĩ, thề trên môi
thôi, chứ phải tự lòng mình đâu mà sợ. Khi nói xấu anh, có lúc em toan phì cười.
Nhưng đức Thánh Trần là một ông Thánh, một người yêu dân yêu nước sao mà đùa được.
Em vẫn nghiêm túc, khấn từng câu, khấn từng câu như mạ. Nhưng đến khi mạ đi xa
rồi, em còn dừng lại khấn thầm thêm một câu nữa, khấn xong, mạ hỏi: “Con
còn khấn thêm điều gì với ngài?” Em nhanh trí nói dối là em khấn thêm xin
ngài phù hộ cho mạ được bình an vui khỏe. Thật ra đâu có như vậy. Lúc bấy giờ,
em nghĩ đến Đức Thánh đang nghĩ sai về mình; em khấn thêm với ngài là bị mạ con
bắt ép, con phải nghe theo, chứ thật ra đây không phải lòng con. Em trước sau vẫn
yêu anh… xin ngài phù hộ cho! Thật là một buổi thề vất vả, làm em đổ mồ hôi hột,
nhưng nhờ đó, mạ thật lòng tin ở em”.
Đúng là như vậy, cũng nhờ mấy lời thề đó mà Mừng lấy lại được
tự do hơn. Mừng đã được hái từng quả mít chín trong vườn, đem ra chợ bán. Mừng
vui vì mỗi ngày Mừng được múc nước tưới cây, gõ từng quả mít như xưa. Nhất là
khi Mừng được phép trả lời từng bức thư của người chồng chưa cưới ở Vinh gửi về.
Mừng đã đọc cho mạ nghe một bức thư của “chồng”… Trong đó có nói chuyện hoãn
ngày về nghỉ phép.
Không phải được buông lỏng hẳn. Nhưng Mừng đã được đi buôn
vài chuyến ở Quảng Nam, Đà Nẵng. Tuy lần nào cũng có người anh chị em chú bác
đi cùng. Có phải Mừng nhân những chuyến đi buôn mà tới gặp hai con tôi ở Kỳ Lam
hay cũng có thể là những chuyến đi buôn thật sự để có lãi. Mừng kiếm tiền để
làm gì, tôi cũng không được biết. Một tháng rồi, kể từ một chuyến buôn của Mừng,
tôi có gặp Mừng ở Đà Nẵng, đến giờ Mừng không gặp tôi, không viết thư cho tôi.
Mãi đến một hôm, tôi không ở thuyền nữa mà ở nhà một người bạn dạy học. Liên ra
tìm tôi và đưa tôi một bức thư ngắn:
“Ngày… Em đi chuyến tàu Huế - Tourane. Một chuyến
đi quan trọng. Em đi từ ga Huế. Anh lên ga xép An Cựu, nếu nhỡ tàu, anh tìm em ở
chỗ cũ Đà Nẵng. Trả lời ngay.”
Tôi viết nhanh hai chữ: “Đồng ý ” đưa cho Liên.
“Một chuyến đi quan trọng”, tôi có thể đoán được… vì như trên
đã tiết lộ, trước đó một tháng tôi đã vào Đà Nẵng…
Lần ấy, cùng đi với Mừng có chị Hương, người dâu nhà họ Lưu,
vốn không hề phản đối sự liên hệ tình cảm giữa chúng tôi.
Mừng để chị Hương ở lại giữ hàng ở khách sạn. Chúng tôi kéo
nhau ra bãi biển. Tôi nhớ đêm ấy trăng sáng lạ lùng. Chúng tôi ra ngồi dưới một
rặng thông. Gió từ biển thổi vào từng cơn nhè nhẹ đều đều, nhưng hơi lạnh, có lẽ
vì sương rơi nhiều…
Lần ấy là lần thứ nhất, từ chuyến đi Quy Lai, chúng tôi mới lại
được gặp nhau. Không tính bao nhiêu ngày, bao nhiêu đêm đã xa cách. Nhưng cả
hai đứa đều có ấn tượng là đã xa nhau hàng năm mới lại được gặp nhau. Đánh giá
tình yêu thế nào cho đúng…?
Tình yêu cũng phải tính bằng ngày tháng. Nhưng những ngày
tháng của người yêu nhau không thể đếm được ngắn dài.
Một ngày Quy Lai quá ngắn vì đầy hạnh phúc. Những ngày tháng
sau Quy Lai đã dài lại càng dài hơn, vì chúng tôi chờ mong, chúng tôi trông đợi,
chúng tôi nhớ thương…
Biển mà yên lặng thì chẳng khác nào một chiếc khăn lụa nhỏ, một
chiếc khăn trùm đầu. Nhưng khi biển đập bờ, biển kêu lên, mới thấy biển cao cả
đang đến với mình. Đột nhiên tôi hỏi Mừng:
− Ngày nào, tháng nào anh ấy về làm lễ cưới?
Mừng ôm hôn tôi rồi đáp trong nước mắt:
− Anh ơi, không, không. Không bao giờ còn có ngày ấy nữa.
Đã mấy lần đời tôi, tôi nghe Mừng nhấn từng tiếng: “Không”.
Tôi biết đấy là sự thật, là định mệnh nhưng tôi vẫn cứ hỏi:
− Không có việc cưới xin ấy nữa sao?
Mừng cười:
− Không lẽ ta mang cái định mệnh ra đùa với nhau sao?
Thật ra, có lúc tôi cũng nghĩ ngợi như Mừng là làm sao mình cứ
phải cam chịu một bề? Nhưng tôi vẫn cứ như đợi Mừng một sự quyết định. Có số mệnh
nào ngoài Mừng?
Sau khi kể cho tôi nghe những gì đã xảy ra… những ngày giày
vò mà Mừng đã chịu đựng. Mừng giải thích cái lẽ vì sao hôm nay Mừng phải xóa
cái lễ cưới giả tạo của mình, phải quyết định lại cái chiều hướng của đời mình.
Tất cả xuất phát từ một cách nghĩ rất đơn sơ và giản dị, chẳng khác nào ngày lạnh
mặc áo gì, trời hè thì chọn màu áo gì…
Chung quy cũng vì mấy lẽ:
− Anh ấy cũng là người lành. Mình không yêu được cũng
làm khổ đời người ta.
Đời một người con gái đã mất mát hy sinh, đau xót đến mức ấy,
bao nhiêu nước mắt đã đổ ra. Không lẽ chỉ để làm vui lòng người mẹ mà hãm hại cả
một đời mình!
Có một lẽ nữa mà Mừng không thể nói ra được, nhưng chính là
cái cho Mừng dũng cảm để tự quyết định lấy đời mình: tình thương, tình thương từ
trong lòng, tình thương suốt một đời! “Đã thương anh không lẽ em ra đi để mặc
anh khổ một mình?”.
Qua cái thử thách lớn vừa rồi, biết tôi hơn, hiểu tôi hơn, Mừng
đã thấy rõ cái lẽ từ đây không thể không chia với tôi một số phận…
Đêm ấy trăng sáng lạ lùng, chính là vì đêm ấy Mừng vui thật sự.
Mừng đi dưới hàng thông, vịn từ cành thông này lại vịn cành
thông khác. Cái hình tượng ấy, đến nay đã hơn bốn chục năm rồi, tôi vẫn không
quên… Có lúc chúng tôi đuổi nhau, như hai đứa trẻ mới yêu nhau lần đầu, không
phải chúng tôi chỉ có nỗi đau thương đè nặng mặc dù chúng tôi chưa thật “sổ lồng”.
Nhưng phải đợi đến chuyến đi "quan trọng" này,
chúng tôi mới hoàn toàn đầy đủ thuộc về nhau. Đúng như lời Mừng đã dặn, tôi tới
ga xép An Cựu, vừa bước lên đã thấy Mừng chờ ở tam cấp va-gông tầu. Hôm ấy Mừng
vẫn mặc cái áo vải đen thô mà Mừng hay mặc. Cùng đi với Mừng có người anh chú
bác của Mừng, thật ra chuyến đi nào của Mừng cũng có người áp theo, để giữ gìn
Mừng. Mẹ Mừng tuy có “nới dây” với Mừng đôi chút, nhưng không hề buông hẳn.
Đến Đà Nẵng, Mừng trao cho người anh họ một phong thư nhờ
chuyển lại cho người mẹ. Người anh đoán biết cả sự tình, có khi vùng vằng hung
dữ, có khi kêu than, đỏ cả mắt lên. Cuối cùng anh kêu lên một câu: “Chuyến này
thím sẽ giết tôi thôi”. Chúng tôi rất thương anh, nhưng cũng đành phải chia tay
anh thôi. Từ đây, chim đã sổ lồng, “cánh liền cánh” cùng bay như lời thơ xưa
thường nói. Vâng chúng tôi suốt đời không hề biết đến lễ cưới là gì, nhưng
chúng tôi đã có một đêm “động phòng” Quy Lai, tưng bừng hơn trăm ngọn nến. Từ
nay, đã đành, chúng tôi chẳng rời nhau nửa bước, nhưng trong cái đêm dài đen tối
hôm qua, không phải lúc nào chúng tôi cũng thấy rõ mặt đường. Trời Phật trên
cao không biết có hết lòng phù trợ chúng tôi?
Bỏ nhà ra đi, chúng tôi có cái hạnh phúc được sống bên nhau,
chia nhau nỗi vui, nỗi buồn, nỗi lo… Bước đầu chúng tôi phải tạm thời để cho
hai đứa nhỏ sống nhờ nơi anh chị chúng tôi. Mừng mang theo được một ít tiền và
đồ nữ trang. Chúng tôi phải bán dần để sống qua ngày.
Chúng tôi tìm qua sông Hàn, một nơi xa kín để tránh gặp nhiều
người, nhất là những người quen. Gia đình Mừng sau khi mất Mừng hẳn là không
cam chịu cho chúng tôi muốn làm gì thì làm, sống tự do theo ý muốn của mình. Lại
đám hỏi đã tổ chức đàng hoàng, họ có thể dựa vào pháp luật lúc bấy giờ, làm rầy
chúng tôi. Thậm chí hai bên nhà trai và nhà gái có thể thỏa hiệp với nhau để đồng
tình bắt Mừng về và kiện tôi.
Thật là chẳng làm cách mạng mà chúng tôi cứ phải trốn tránh,
sống bí mật.
Chương XV
NGHÌN NẾN ĐỐT LÊN
Ngoài một ít vốn buôn và một ít đồ nữ trang của Mừng, chúng
tôi chỉ còn lại hai thân xác, hai linh hồn cặp kè nhau!
Cặp kè bên nhau như đôi chim vừa ra khỏi tổ. Chúng tôi biết rằng:
người ta có thể đang đuổi bắt chúng tôi. Chúng tôi đang cố gắng giấu, có khi
chúng tôi có đi mà không định nơi đến. Chúng tôi cũng cố gắng tránh những nơi
tôi đã ở, nhất là những nơi tôi đã nhiều lần qua lại, những nơi tôi có bạn bè
và những nơi tôi từng dạy học. Cả chỗ hai con tôi đang gửi, chúng tôi đi như những
vị khách du lạnh lùng. Một buổi chiều, từ một làng cát chúng tôi xuất hiện giữa
phố Hội An, với những tâm trạng lạ lùng, nhưng chúng tôi bề ngoài từ cái áo mặc
trên mình đến dáng đi, vẻ nhìn, cách hỏi… muốn lẫn vào đám người qua lại, như
những hạt gạo trong một sàng gạo, không con mắt người ngoài nào có thể phân biệt
được và gắp riêng ra trên hai ngón tay.
Đến trước nhà Thương Chính, từ xa tôi thấy một xe ngựa đi tới,
có lẽ là chiếc xe quen thuộc trước đây, khi tôi còn đang đi dạy học ở trường
Viên Minh… Chiếc xe mà tôi thường ngồi để đến Cửa Đại, nơi nghỉ mát chủ nhật của
dân phố.
Hai chúng tôi cùng nhảy lên xe. Đường Cửa Đại gồ ghề, vó ngựa
cọc cạch. Hai đầu chúng tôi bên nhau, đung đưa lắc lư. Tôi sực nhớ đến ước mơ của
tôi đã thể hiện trong câu thơ:
Trên lưng ta quẩy một vầng giai nhân
Quẩy vầng giai nhân trên lưng ngựa, như quẩy một vầng trăng…
Say sưa, la đà, gập ghềnh: không phải chỉ trên một mảnh đất nô lệ mà thật ra
trong một vũ trụ bập bềnh.
“Anh Bẩy!” Tôi nhớ ra tên anh rồi, anh Bẩy chủ nhân chiếc xe
ngựa đường Hội An - Cửa Đại. Một anh “nghệ sĩ thổ mộ” mà có lần Nguyễn Tuân
đã gọi như thế! Anh quay nhìn chúng tôi, có vẻ sửng sốt, sao trên xe anh, giữa
những chị buôn cá lại có tôi, một nhà thơ mà anh cũng có biết. Anh nhìn Mừng ngồi
bên tôi ra vẻ hiểu biết tất cả. Anh tắc tắc cái lưỡi và quất một đường roi rất
tài hoa, như anh muốn đưa xe vào một cơn bão vậy. Rừng thông tươi mát. Những
cây thông vút thẳng lên trời. Cát vẫn trắng mênh mông. Biển vào thu vẫn xanh một
màu. Vài ngôi nhà tranh vẫn còn đóng cửa.
Vắng lặng không một bóng người. Trời vẫn chưa tối hẳn.
Xe dừng lại. Tôi chạy vào “trong xóm” hỏi nhà cụ Điền, người
quen cũ, mua một ít gạo, ít dầu, một ít tôm khô. Chết chửa! Mùa hè hình như qua
rồi, qua lâu rồi. Chúng tôi làm nên một bữa cơm giang hồ, và dưới vài ánh sao đầu
tiên, chúng tôi cùng ăn chung một đũa, một thìa, một bát. Và đêm ấy ra tận bãi
biển dưới trời sao lung linh chúng tôi nằm nghe tiếng nhạc sóng. Trên đệm gối
“thiên nhiên” chúng tôi đã sống bên nhau thật “một trăm phần trăm” mà cũng ảo
“một trăm phần trăm”.
Những lời nói của chúng tôi đêm ấy, như những lời ân ái xa
xôi trao đưa giữa hai bờ sóng nước. Khi tỉnh giấc, tưởng như có những ngôi sao
trên trời xuống… quây quần bên chúng tôi, có tiếng cười rúc rích.
Sáng hôm sau, mở mắt ra, ôi mênh mông là biển, im ắng lạ thường.
Bầu trời như một cô gái, trải trên biển xanh cả một tấm “drap” rộng lớn, óng
ánh vàng… Ánh sáng sau một đêm đen đi đâu vắng, trở lại nhanh nhẹn hơn, tươi cười
hơn, hỏi chào vui vẻ hơn.
Tôi nói với Mừng: “Kìa em trông!”. Tôi nghĩ sâu trong lòng
mình: “Không trời không biển làm gì có tình yêu”. Đúng vậy, tình yêu của chúng
tôi lúc bấy giờ đi trên những sông ngòi, giữa trời biển. Nhưng rồi đôi khi nghĩ
đến điều: ngày ngày chúng tôi sẽ ăn gì, ngủ ở đâu, chúng tôi thoáng bồn chồn,
lo sợ. Vẫn tin rằng: mọi điều đã có đất trời lo xếp, trang trải cho.
Và để cho an tâm hơn, vì chúng tôi biết rằng còn có người
đang theo dõi dấu chân chúng tôi, chúng tôi quyết định sang ở bên kia sông Hàn,
thuê một gian nhà trống ở với nhau. Chỉ khi nào cần mua sắm gì quan trọng lắm
chúng tôi mới khóa nhà qua sông và dắt nhau đi trên các đường phố Đà Nẵng. Coi
như chẳng có gì cần kíp, chúng tôi cứ ở rịt trong cái gian nhà âm u kia đốt lên
ngọn lửa lòng với nhau.
Chưa bao giờ một trang sách mở ra, chúng tôi cùng nghiêng ngả
đọc với nhau mà thú vị đến thế. Không phải một câu thơ hay, mà cả một câu văn dở
ẹc cũng làm chúng tôi vui… Nhưng cũng có lúc tôi cảm thấy cuộc đời như “vô sự”…
có lúc rồi đến chán mất. Không chán nhau thì cũng có thể chán cả cuộc đời. Tôi
có một ý nghĩ vỗ về: lúc nào chán hay không thể sống như thế được nữa, tôi sẽ
đi tìm anh Kính ở Duy Xuyên. Tôi lại xin dạy một lớp nào đó ở trường tư thục tiểu
học của anh. Tôi có lương tháng, Mừng sẽ đi học kéo tơ (làng này là một làng dệt
lụa nổi tiếng). Nếu yên được, dần dà sẽ mang hai đứa con về. Cái triển vọng này
làm cho Mừng vui hẳn lên. Bây giờ sống sao cũng được, miễn sao cuối cùng sẽ có
những ngày như thế. Chúng tôi có một mái che, một bếp lửa. Chúng tôi sẽ có những
người bạn tốt.
Thật ra những ngày “vô định” đó ở bên kia sông Hàn, nếu tôi cứ
y nguyên kể lại những sự việc thì hồi tưởng của tôi cũng không tẻ nhạt lắm đâu!
Cứ như thế kể lại những buổi nhịn đói, những chuyện đùa nhau rơi nước mắt, những
lúc chạy khắp xóm đi bắt “bọ vừng” rồi cứ phải hui suông, không xin được một
chút dầu rán.
Tiền dành dụm đã cạn hết, lần thứ nhất Mừng quyết định bỏ đồ
trang sức ra khỏi thịt da, đem đi cầm cố, rồi bán đoạn bán đứt. Có khi bán được
giá mà khóc, có khi bán như cho mà lòng lại vui. Sợ ló mặt nhiều lần, chúng tôi
đã nhờ một người bạn quen bán hộ. Bạn đi thẳng, tiền chẳng về. Cả vòng chuỗi ngọc,
cái chuỗi ngọc đầy nước mắt của Mừng cũng đã ra đi. Chúng tôi tiễn nó với một nụ
cười mỉa mai.
Người bạn tin cậy đã đánh lừa chúng tôi, gặp mặt giữa đường,
chúng tôi cũng không gọi tên, chỉ biết nhìn theo. Tình yêu của chúng tôi cũng
có lúc đờ đẫn ngu xuẩn. Có lúc khờ dại như những đứa trẻ. Nhưng cũng chẳng một
lần bực mình gây gổ.
Kỳ diệu! Có dại khờ mà vẫn trong sáng, vẫn chẳng hề chán
nhau. Ra đến sông mòn mỏi chờ. Đã thấy bóng người ở trên thuyền, thuyền đã ra giữa
vời mà thuyền như đứng lại. Chúng tôi không sao chịu nổi sự xa rời nhau, dầu
trong là giây phút. Những lúc trời mưa rỉ rả, nằm đếm từng giọt mưa, những lúc
đó thấy trời đất quá đầy đủ: Muốn có gì là được nấy, tay sờ đâu cũng động tới hạnh
phúc của mình.
Làm thơ làm gì?
Những giọt mưa rả rích đã đưa lại cho tôi một tâm trạng hạnh
phúc; cả những kẻ đã đánh lừa chúng tôi, hình như chúng nó cũng góp phần hạnh
phúc cho chúng tôi.
Cái ống tháng ngày cứ cuộn rồi lại tháo ra, nhẹ nhàng bên
chúng tôi mà chúng tôi không tự biết. Bởi vì tôi không thể nào quên được câu
thơ Baudelaire nổi tiếng, học từ ngày còn ngồi trên ghế trung học:
“Tant l’ écheveáu du temps lentement se dévide”. (1) Làm sao mà chuyển dịch cho được cái
nhịp điệu dư ba âm hưởng ấy?!
Vâng cái ống thời gian cuộn lại từ lúc nào, nay lại cứ tháo
ra. Thời gian như một con chim từ rừng lặng bay ra không một tiếng đập. Có thể
hồn chúng tôi đã lặng thầm chết đi trong một nhịp điệu vô hình đó.
Đâu phải cuộc sống đã mất hết độ nồng? Hay vì chút vàng trên
mình đã bay sạch? Không, những con mắt của chúng tôi mỗi sớm mỗi chiều vẫn nhìn
vào nhau, nồng thắm.
Hoặc giả cuộc đời không còn thiên đường, không địa ngục,
không tiếng gọi, tiếng ơi! không bóng, không hình, không trách nhiệm?
Một buổi sáng, như sau một đêm không ngủ, tỉnh giấc đã lâu mà
cứ nằm im rồi quay lưng lại. Mừng nước mắt dàn dụa rồi nấc lên một tiếng!
Mừng nói với tôi: “Không thể như thế này được nữa! Em phải về
thôi!”. Mừng muốn khóc ré lên như một đứa trẻ. Nhưng đâu phải là một tiếng khóc
ré, và sau tiếng khóc ré là một ngón tay đưa gạt đi giọt nước mắt, trở về với nỗi
buồn xa mẹ? Thật ra nỗi buồn này chưa hẳn là nỗi buồn không dứt của Mừng. Đúng
ra thì tôi còn nợ Mừng một vần thơ chưa trả xong.
Từ ba hôm nay Mừng như vướng vào một tâm trạng. Thì ra hôm Mừng
đi chợ tận bên kia sông, Mừng đã gặp một cô bạn của Mừng ở Huế vào. Cô bạn đã
nhắc lại lời nhắn của mẹ hôm cô lên nhà chơi: “Muốn làm gì thì mặc, phải cứ về
đã”. Và theo lời người bạn, đã lâu bà không ăn được, không ngủ được, không đi
đâu, chỉ nằm trên một cái giường con với cái ống nhổ bên mình. Bệnh ho của
bà lại tái phát. Và một điều mới nữa, Mừng đã sung sướng rỉ vào tai tôi: “Cụ Hồ
Chí Minh đã về ngoài ấy!”. Tôi giật mình: Không phải Mừng chỉ mê văn thơ tiểu
thuyết, Mừng vẫn lắng tai thành kính nghe những chuyện thời sự. Mừng còn kể: Ở
gần điện Hòn Chén (trên sông Hương), một đêm dân có nghe tiếng súng. Mừng kết
luận: Tình hình này, đâu đâu rồi cũng thế cả. Nhìn lên tôi, Mừng nói thẳng: “Em
sẽ về Huế để xem ra sao! Em chẳng sợ! Em về trước rồi em sẽ trở vào đón anh và
dần dần đón các con!”. Tôi cũng bình tĩnh nhìn Mừng nói: “Tôi sẽ đi với Mừng”.
Mừng còn nói thêm: “Em tin cách mạng sẽ đến, em sẽ đứng trước tòa án cách mạng,
em bảo vệ tình yêu của em”. Chẳng chút do dự, một hôm chúng tôi vượt đèo Hải
Vân. Và trong lúc chờ đợi một ngày mai, chúng tôi tạm thuê một chiếc đò trên
sông Hương. Sau một đêm ở đó, sớm Mừng chào tôi về thăm mẹ, Mừng nói chỉ đi hai
hôm. Nhưng hai hôm rồi vẫn chưa thấy Mừng quay trở lại.
Ngồi dưới thuyền, bỗng tôi nghe thấy tiếng kèn cách mạng rân
rân vòng quanh khắp phố phường. Nhạc xôn xao từ chợ Đông Ba đến cửa Đồ. Bên tả
ngạn, nhạc xôn xao từ ga Trường Súng đến Đập Đá. Trẻ con khắp nơi thấy có đoàn
người biểu tình đi qua, vỗ tay reo hò. Mặt hai vợ chồng chị lái đò có thể nói
tươi như hoa.
Cách mạng về đến Huế mình rồi đây ư? Tôi cũng không hiểu gì
hơn vợ chồng chị lái đò. Họ thảng thốt hỏi tôi mọi điều cũng như tôi dò hỏi họ
trăm thứ. Tôi muốn chạy lên xóm Trường Cửi tìm Mừng, nhưng tôi vẫn không dám
đi. Tôi cứ quanh quẩn ở đầu cầu Tràng Tiền! Khi ở mút bên này, khi ở mút bên
kia.
Thành phố lên đèn đã lâu. Tôi đứng nhìn xuống sông, hứng ngọn
gió thì nghe có tiếng trống nhịp khúc hát hành quân. Tôi ngẩng lên… bàng hoàng
không tin ở mắt mình. Người cầm cờ đi trước… một cô gái mặc áo thô đen trông giống
Mừng, và tôi phóng mắt nhìn kỹ lại: Mừng! Tôi không chạy tới Mừng. Tôi cũng chẳng
kêu to tên Mừng. Tôi cứ thế, bước theo đám biểu tình như những đứa trẻ…
Sau cuộc biểu tình Mừng xuống đò, tìm về với tôi! Mừng cho hay
phụ nữ xóm Trường Cửi đã bắt mối với Mừng. Tổ chị em Trường Cửi dường như muốn
đi đầu trong cách mạng. Tổ đang làm văn nghệ kiếm tiền giúp “thương binh”
(thương binh nào?) phải múa hát, đóng kịch để thu nhiều tiền. Mừng bảo: “Mừng
đã đóng vai thầy phù thủy”. Mừng cũng biết “bắt quyết”, cũng biết “phì phà” như
ông phù thủy. Trai gái trong xóm thấy Mừng trở về đóng vai phù thủy mọi người
cười sung sướng.
Tôi hỏi: “Còn mạ?”
Mừng nghẹn ngào không sao trả lời được. Cuối cùng Mừng chỉ
nói được một câu: “Chỉ còn da với xương thôi!”. Mừng nằm vật xuống khoang thuyền
như một cái xác lạnh.
Chuyện tình của chúng tôi có phải sẽ kết thúc ở đây, hay từ
đây sẽ mở ra những trang mới?
Đêm khuya trên chiếc thuyền, chờ cho mặt trăng le lói tắt cho
hết, chúng tôi mới đi nghỉ, để rồi sáng hôm sau, chúng tôi dậy thật sớm, đón ngọn
gió đầu tiên trên sông Hương. Từ phía Cồn Hến, trên những bụi tre xanh, một mặt
trời đỏ rực đột ngột chui ra.
Tôi cùng ngồi bên Mừng, quay về phía Tre Cồn, nói với Mừng:
“Chà! Nàng đang chải tóc!” Nàng? Ai? Mừng hay mặt trời? Sáng ấy, mặt trời có
cái cười rất tươi và tóc tai mặt mày diêm dúa. Chúng tôi bảo chị lái: gió lên rồi
đấy, giăng buồm lên. Chúng tôi ngồi thả chân xuống nước.
Thuyền lướt qua hoàng thành, những ngôi sao cuối cùng đã bạc
thếch trên trời, như ngày nào vẫn chiếu xuống nước hàng hàng trôi ngược dòng
sông!
Tình yêu bao giờ chẳng thế?
Tình yêu trong nỗi đau buồn đứt ruột hay trong hạnh phúc tái
sinh, vẫn long lanh nửa như thực, nửa như ảo.
Chu Mạnh Trinh nhà thơ mê Kiều đi vào giữa sông núi Hương
Tích, đã viết:
Chợt bên tai nghe một tiếng chày kình
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng
Tình yêu của chúng tôi khi xa ngàn dặm hay khi bên gang tấc,
cả khi đã đậu hoa sai trái, chúng tôi vẫn có những cái “giật mình” trong giấc
mơ như thế.
Có phải vì “đẹp quá khó mà thật được”, như Shakespeare đã
nói: “Đau thương hay yên vui quá không dễ mà thực được”.
Đúng như Mừng đã đoán trước, Mừng sẽ bị đưa ra tòa.
Sau khi ở cửa Ngọ Môn, Bảo Đại, ông vua cuối cùng nhà Nguyễn
đã tuyên bố thoái vị để được làm người dân của một nước Việt Nam độc lập tự do,
thì một hôm người con gái cũng ở trong hoàng tộc được gọi ra trước một tòa án,
trước công chúng đông đảo, trẻ trung, và nàng đã dõng dạc tuyên bố:
− Người chồng chưa cưới của tôi là một người đáng quý trọng.
Nhưng duyên chẳng đưa, phận không đẩy. Tôi bị ép một bề. Tiền dạm hỏi, tôi xin
trả lại… Bây giờ cách mạng đến rồi. Tôi yêu ai tôi lấy người ấy. Đó là việc của
tôi. Xin cảm ơn cách mạng đã mở ra tòa án này cho tôi được nói rõ lòng tôi.
Quần chúng vỗ tay… Nhìn lên các quan tòa, người nào người nấy
mặt mày đều hớn hở.
Mừng về báo cho tôi biết: Mừng thắng rồi.
Thắng ư? Nhưng hôm nay, chúng tôi vẫn nằm trên một chiếc đò, bềnh
bồng. Trái đất xum xuê, rộng lớn. Chúng tôi vẫn chưa xây nổi cho mình một chiếc
tổ ấm! Nhưng từ nay, sao chẳng được gọi là hạnh phúc, khi đôi chim nhỏ trong ngọn
gió mênh mông, mỗi sáng mỗi chiều vẫn nhặt được một que rơm, một cọng rác.
Thiếu nghèo còn là số phận, nhưng điều chủ động, điều chắc là
hạnh phúc của chúng tôi, chúng tôi từ nay tự làm lấy cho mình.
Nhớ lại những ngày đêm không ra đêm, ngày không ra ngày, nhớ
không ra nhớ, thương không ra thương, gần chẳng ra gần, xa chẳng ra xa… bao giờ
cũng như sống núp, yêu lén thì bây giờ đây, so với những ngày ấy, quả chúng tôi
sung sướng yên vui hơn nhiều. Tôi nhớ có một lần không sao chịu nổi, tôi đã buột
ra những câu chua chát đắng cay:
“Có đêm không ngủ được, chong mắt đợi qua cửa chờ bình minh.
Khi thì trời sáng bạch mà con tắc kè trên cây bên cửa sổ vẫn tắc kè, tắc kè
hoài. Lại đến khi trời chưa rạng, sông nước còn tối đen, thế mà từ hàng cây phượng
vĩ: ve ve đến sốt ruột”.
Dứt không ra dứt, nối không ra nối; ở cũng chẳng thèm ở mà dứt
ra đi cũng chẳng dám dứt ra đi. So với những đêm những ngày ấy, bây giờ chúng
tôi là một đôi tiên nhỏ, dầu chiếc nhẫn cuối cùng cũng đã mang cầm cho cô cầm đồ
ở Gia Hội. Cái cô nữ xinh xinh, cứ thấy tôi đến, không dám ngẩng đầu nhìn tôi.
Cứ luôn miệng hỏi: “Nhà thơ cần bao nhiêu tiền?” Thì ra cô ấy cũng có đọc vài
câu thơ của tôi. Chiếc nhẫn của chúng tôi thật ra không có giá. Bởi vì, từ bao
giờ, tôi thường nhận món tiền cao hơn mấy lần cái giá thật của chiếc nhẫn của
chúng tôi. Cô ấy tên gì tôi không rõ. Có thể cách mạng sẽ đóng cửa hàng của cô
nhưng làm sao tôi có thể quên được cái vị “ân nhân” nhiều duyên dáng và đầy
tình thương người ấy.
Xin được ngưng lại đây để nói đôi chút về những ngày độc lập
đầu tiên của chúng tôi trước khi trở lại với những chương cuối cùng của tập hồi
tưởng tình yêu chúng tôi.
Chương XVI
NHỮNG NGÀY ĐỘC LẬP ĐẦU TIÊN
Hồ Chí Minh ở quảng trường Ba Đình đã đọc bản Tuyên ngôn độc
lập. Sau này tôi có đọc một lời nhận xét của một học giả Nhật Bản: “Bản tuyên
ngôn độc lập ở Ba Đình là một bản tuyên ngôn ở một góc trời Đông Nam châu Á, - một bản tuyên ngôn độc lập của các dân tộc nô lệ trên trái đất, lần đầu tiên được
dõng dạc tuyên ngôn mình được độc lập trước các dân tộc khác. Đường hoàng đối
diện với các nước lớn với các loại kẻ thù. Rằng mình không cúi đầu nữa, đã hất
cao mái tóc, đã ngẩng cao đầu nhìn mặt trời”.
Lúc bấy giờ tuy hay làm thơ, nhưng tôi vẫn thích đọc lịch sử
thăng trầm của các dân tộc trên thế giới. Khi còn trên ghế nhà trường, tôi có
biết Tuyên ngôn nhân quyền của cách mạng Pháp, cũng có biết Thần Tự Do ở Mỹ.
Cách mạng tháng Mười với Lê-nin, tôi cũng nghe nói đến và đọc trên sách báo.
Còn chuyện nước Nga cùng với Đồng Minh đã chiến thắng chủ nghĩa phát xít Đức,
Ý, quân phiệt Nhật Bản, mở ra triển vọng lớn lao cho các dân tộc nhược tiểu,
thú thật tôi chưa quan niệm rõ. Nhưng một điều tôi có thể khẳng định với mình:
với tuyên ngôn Ba Đình, hai chữ “Việt Nam” đã bắt đầu dội lên khắp các đại
dương. Điều này quả tình trước đây tôi chưa bao giờ nghe ai nói, chưa bao giờ
thấy ai viết.
Sự độc lập của Việt Nam, tôi đã biết có cái thật và cái giả.
Như cái kiềng vàng, có thể vàng mười, cũng có thể vàng giả 100%.
Hôm Nhật dựng lên chính phủ do Trần Trọng Kim lãnh đạo, với
Trần Trọng Kim tôi đã từng gặp gỡ hoặc thư từ qua lại, tôi thấy ở nhà học giả
này có nhiều suy tư nghiêm túc chân thành nhưng tôi không thể gởi ngay lòng tin
đầu tiên cho "tiên sinh". Tôi cũng có mặt ở đây, khi nội các Trần Trọng
Kim với lá cờ chữ “ly” kéo lên…
Tôi có anh bạn bác sĩ tên là Thái Can, vốn cũng là một nhà
thơ có hồn, đã từng cộng tác với tôi và Hoài Thanh trong cái tùng thư gọi là
“Ngân Sơn tùng thư” của tôi. Một hôm, anh gặp tôi, báo cho biết là anh đảm nhiệm
bộ biên tập báo Tân Việt Nam ra ở kinh thành. Anh bảo tôi tham gia viết
và tôi nhận lời ngay. Tôi nhận lời một cách rất chân thành và nghĩ rằng: tiền
nhuận bút sẽ trả rất cao.
Tôi viết một bài xã luận nói về nền Độc lập đất nước, cũng
như ông Phan Anh và những người trí thức khác, đã thét lên hai tiếng đó! Nhưng
tôi còn thêm mấy chữ bên cạnh: “Độc lập chân chính chứ không phải là Độc lập
người khác ban cho.” Ấy thế mà bài của tôi được đăng trang trọng trên trang
báo, được in đầy đủ không thiếu dấu phẩy. Tôi mang về khoe với Hoài Thanh. Điều
tôi thờ ơ nói ra, không ngờ là chân lý, mỗi ngày một rạng rỡ!
Tuy tôi chưa có ý thức đầy đủ về bản Tuyên ngôn độc lập ở
Ba Đình, nhưng tôi đã thấy, ít ra, nước Việt Nam đã được độc lập, và đố là sự
thật, không còn nghi ngờ gì nữa.
Một hôm trước cửa Thượng Tứ, tôi đứng chờ đoàn biểu tình từ nội
thành ra, những kỹ sư từ các công sở chạy ra, giơ cao tay và thét lớn. Trái lại
từ khi có tiếng súng nổ, những đoàn biểu tình hầu hết lại từ xóm làng, họ mang
cơm đùm cơm nắm đi biểu tình, thét lên từ trong cái niềm vui hân hoan của mình.
Họ nhìn những lầu cao đèn lớn, những bức thành nguy nga đồ sộ với những con mắt
vừa ngạo nghễ và tự hào. Họ xoa những cột rồng ở Đại nội, nơi vua quan thiết
triều, họ vào tòa khâm sứ quét bụi nằm lăn… Họ cảm thấy mình là ông chủ bà chủ
thật sự.
Tôi nhìn họ lại càng không thể quên cái đêm Mừng đi đầu trong
đoàn biểu tình, áo dài trên mình như ngọn gió mới sông Hương!
Ở cửa Ngọ Môn, vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị để được làm người
dân một nước tự do. Cờ đỏ sao vàng kéo lên đài cờ, hàng ngàn hàng vạn người dân
rầm rộ, dọc ngang trên mảnh đât nhà vua và bọn bảo hộ thực dân.
Chính trong thời kỳ đó, ở trong một phiên tòa cách mạng Mừng
được mời ra trả lời về vụ kiện “bỏ nhà và lật hôn” nổi tiếng ở Huế. Trước quan
tòa Mừng đã tuyên bố: “Tôi chẳng có gì tội lỗi hết, phong kiến bắt tôi bỏ người
tôi yêu để lấy người tôi không yêu. Mặc dầu đối với người gọi là “vị hôn phu”
tôi vẫn kính trọng. Cách mạng đã giải phóng đất nước, lẽ nào chẳng giải phóng
trái tim tôi”. Mừng kể lại với tôi là Mừng đã nói như thế, chẳng run sợ chút
nào và được quần chúng vỗ tay.
Mừng đã tham gia đóng kịch cách mạng, đóng vai Phồn Y trong vở
kịch Lôi Vũ của Tào Ngu, một nhà văn nổi tiếng của Trung Quốc. Và thú
vị hơn cả, lần này là lần đầu tiên chúng tôi được gặp “những con người cách mạng’.
Như một luồng gió cách mạng thổi tới, tôi được gặp anh Nguyễn Chí Thanh và anh
Tố Hữu. Anh Thanh một người xông xáo, chân thành chân thật, không những thế,
các anh là những con người rất trẻ, rất nhanh nhẹn, linh hoạt, có nhiều tài
năng. Những con người của mọi tình thế. Mới gặp tôi, chẳng khác nào các anh đã
đặt tôi vào lòng! Chẳng có gì phải dè chừng với những người như thế.
Riêng Tố Hữu, mũm mĩm trắng trẻo, nhút nhát, ít nói như một
thư sinh – có thể là một học sinh cần cù dễ mến. Không có gì gió bụi. Ai biết
được rằng hai lần anh vượt ngục, anh nhanh như sóc, gan lỳ, và anh là trưởng
ban khởi nghĩa Thừa Thiên - Huế.
Tôi chỉ loáng thoáng, nghe bọn trẻ nói đến anh, đến thơ anh một
cách đầy ngưỡng mộ. Học sinh đọc thơ anh nhiều và bí mật tuyên truyền thơ anh. Ở
nhà Mừng, mấy đứa cháu gần cháu xa của tôi cũng truyền đọc cho nhau thơ anh.
Một hôm, một đứa cháu của tôi, theo yêu cầu của tôi đưa cho
tôi tập thơ chép tay của anh. Tôi có đọc qua, nhưng vì người cháu cho tôi mượn
đọc có vẻ lo sợ, tuồng như nóng ruột muốn lấy lại, tôi “tự ái’ không đọc nữa trả
ngay! Chả là lúc bấy giờ tôi đã là một nhà thơ nổi tiếng rồi. Tôi nhớ khi phụ
trách tờ Hà Nội báo cho tôi in truyện vừa Khói lam chiều,[a] Tố Hữu xem xong có làm bài thơ tặng
tác giả Khói Lam chiều ký tên Nguyễn Kim Thành. Đến lúc ấy, tôi vẫn
không hiểu được một cách sâu sắc thơ Tố Hữu và con người Tố Hữu. Hiểu được thơ
Tố Hữu với tôi là cả một quá trình. Dầu sao những bài thơ nói về người vú nuôi
và Tiếng rao đêm đã đập mạnh vào tâm tư tôi, nếu chưa thấy được cái
dũng cảm, cái tinh thần cách mạng của anh thì tôi đã bị hút ở cái tình thương
người của anh.
Bấy giờ anh đã đến với tôi như một thư sinh - lành trai, có
phần nhu mì, tôi chẳng chút đắn đo, trút ngay tin yêu của tôi vào anh.
Tôi đã đi vào gia đình cách mạng, gia đình các anh ấy như vào
gia đình của tôi. Mừng cũng như tôi rất tin vào cách mạng. Chả thế, một hôm
chúng tôi đang từ dưới thuyền bước lên, các anh ngừng xe lại, lấy va-li của
chúng tôi đặt vào xe của các anh, và chở chúng tôi đến nơi các anh đã lo tính
trước. Từ nay, tôi dứt khỏi cuộc sống lang bạt. Các anh ấy đã bàn với Mừng và
hai chúng tôi đồng ý đi vào cái trật tự mới: trật tự cách mạng. Một trật tự dễ
chịu làm sao! Tôi cùng với Chế Lan Viên và các anh khác tham gia “nhóm Xây dựng”
do anh Tố Hữu đề xướng. Chúng tôi đã ở trong cơ quan tuyên truyền Việt Minh
Trung Bộ. Chúng tôi ở chung, ăn chung với anh Lưu Quý Kỳ và các anh chị “tuyên
truyền” khác. Dẫu lúc bấy cái vốn Mác-Lê của tôi không hơn gì trước bao nhiêu,
giá có ai đeo vào ngực tôi một cái bài nào đó tôi cũng để yên. Anh Trần Hữu Dực
và anh Nguyễn Duy Trinh đang làm việc tại tòa Khâm cũ. Hai anh ấy về chức vụ
hành chính là cao nhất ở Trung Bộ. Tôi nghĩ bụng hai anh ấy cũng giống như ông
Chánh phó “khâm sứ” ngày xưa. Tôi nhớ chuyện tướng Cuốc-bê không chịu đi cửa
bên, nhà vua phải mở cửa chính Ngọ Môn cho hắn bước vào, làm nhục vua quan quá
thể. Lại nghĩ câu chuyện đăng trên báo Pháp ở Sài Gòn, chuyện khâm sứ Lơ-phôn
có con với bà Hoàng hậu, tôi buồn cười. Bây giờ đây, ở chỗ quan khâm ngồi ngày
xưa đó, anh Trần Hữu Dực và anh Nguyễn Duy Trinh đã tiếp tôi và Chế Lan Viên phụ
trách cái gọi là “Tủ sách công dân”.
Thật ra tôi không thể nghĩ đó là chuyện trong chiêm bao được.
Tôi, với tinh thần hết sức nghiêm chỉnh, lãnh một phần trách nhiệm “cao cả” đối
với dân với nước. Tôi đâu dám đùa! Nhưng tôi xoay sở làm sao đây để có được những
cuốn sách chính trị kinh tế, văn hóa, văn học, để đặt vào tay người dân… những
người cũng như tôi, cũng đang mở mắt bàng hoàng trước cái nhiệm vụ mới: nhiệm vụ
người dân có nước!
Những cuộc họp bàn với các vị thủ trưởng cao cấp đó, chẳng
chút nghi lễ, chẳng nhiều hình thức rườm rà.
Thuở đó, các anh ấy còn trẻ, tôi cũng mới tuổi ba mươi, lòng
đến với cách mạng cũng thoải mái chân thành như đối với tình yêu.
Bàn việc nước việc dân mà như bàn việc xóm việc làng, việc
nhà việc họ, gần gũi thoải mái. Bàn xong, trên dưới, khách chủ ra lãnh một cái
bát, một đôi đũa, đâu có chỗ ngồi thì ngồi vào! Cái thuở mũ cánh chuồn đã bị hạ
bệ mà quan mới đại cán chưa kịp lên chân.
Cái khoảng cách thời gian đó, mà lịch sử đã ngờ nghệch bỏ
quên, thật sự đã cho tôi một thiên đường trần thế. Tiếc rằng cái khoảnh khắc
thiên đường không thể kéo dài vô tận được. Có chức rồi phải có quyền, một quy
luật không phân chia chế độ. Dầu sao đó là những kỷ niệm tuyệt vời của nhà thơ
đi vào chính quyền nhân dân.
Tôi nhớ, trước khi tôi nhận việc, anh Trần Hữu Dực có nhã ý
cho tôi ra Quảng Trị, và ra đất Nghệ đi một vòng “hành hạt” cho được mắt thấy
tai nghe cái đất nước quê hương mình bấy lâu úp đầu cúi mặt, nay được mở mặt mở
mày.
Anh Trần Hữu Dực giới thiệu anh Trần Đức Hinh, một nhà trí thức
và tôi một nhà thơ ra thăm tỉnh Quảng Trị quê hương của anh.
Chúng tôi được cụ Nguyễn Đình Luyện, chủ tịch Quảng Trị tiếp,
cụ ở Côn Đảo về và người ta giới thiệu với tôi, cụ đã là cử nhân khóa cuối
cùng, và cũng là một nhà thơ! Tôi cũng ngại nếu cụ biết tôi là người đề xướng
phong trào “thơ mới” đã từng mỉa mai cái trò “rung đùi” giũa gọt từng câu từng
chữ của các cụ. Tiến sĩ Nguyễn Đức Nhu đòi chém tôi, cụ thân sinh anh Xuân Diệu
giơ guốc doạ tôi, liệu cụ Luyện có đón tôi như hai cụ trên không? Trái lại, cụ
rất ghét cái trò đối đáp “Chó đi xuôi, mèo đi ngược”! Cụ bảo người thư ký của cụ
“Dắt hai vị qua chuồng ngựa tùy các vị tự chọn lấy ngựa…”. Chao ôi! Vinh dự biết
mấy, nhớ lại, lúc thầy tôi làm quan, tôi quá nhỏ, mỗi lần theo mẹ tôi về quê
thăm ngoại, chỉ được ngồi trong cáng diềm xanh; tôi cũng có người bà con bên
ngoại, anh Thừa Lưu, con nhà giàu, mỗi lần đến thăm thầy mẹ tôi, đều phóng ngựa
qua rừng. Thừa những lúc anh Thừa hầu chuyện với mẹ tôi, anh em chúng tôi thay
nhau phóc lên ngựa phi một vòng, hồi đó cũng bị ngựa đá ngược mấy lần, bị ngựa
cất móng mấy lần, mấy lần bị ngã ngựa, vì thế tôi cũng được ít nhiều dạn ngựa…
Khi chúng tôi ra chuồng ngựa, anh Trần Đức Hinh chọn một con có vẻ lành, còn
giao cho tôi một con có vẻ cứng đầu… Điều trái lại đã xảy ra: con ngựa có vẻ
lành của anh Hinh anh chưa kịp lên yên nó đã cất vó như điên. Còn con ngựa của
tôi, trong bụng nghĩ thầm, nó có vẻ ra oai với mình đây; tôi đóng yên cương, nó
cứ để yên ngoan ngoãn, cái dây bụng quá lỏng, nhảy lên yên bỗng tụt xuống bụng
ngựa, tôi lo nó sẽ lôi tôi đi. Nhưng không, nó đợi tôi buộc chặt lại, đến khi
ngồi chắc trên yên nó mới đường hoàng cất vó. Lúc đầu từng bước thong thả ung dung,
đến khi tôi quất mấy roi nó vọt lên, cứ thế, tôi phóng tầm mắt nhìn xung quanh,
băng qua đồng, lội qua suối, tầm mắt phóng một cái nhìn thật sự chủ nhân! Làm
sao mà tả hết được niềm tự hào của tôi trên lưng ngựa?
Tôi đi tới đâu, chim chóc hót chào, không phải ngọn gió mênh
mông đuổi sau lưng tôi, mà cả một luồng gió nâng lên một cánh buồm rộng lớn
trong hồn tôi. Cả cái dĩ vãng nặng nề âm u của đất nước nô lệ làm tôi bàng
hoàng nhớ lại mấy câu thơ “mưa mãi, mưa hoài, buồn cả một đời xuân”, một
ngày mưa dầm ở Huế, ngồi tính sổ lại cuộc đời. Đang lan man suy nghĩ thì con ngựa
đứng phắt lại, chợt tỉnh, thấy anh bạn đã bỏ xa mình lúc ấy mới ra roi đuổi kịp.
Chiều ấy, chúng tôi đến Gia Đẳng, biển của tôi đây rồi, chúng tôi được tắm biển,
được cùng mấy anh cán bộ địa phương ăn những con cá bạc má, luộc tươi với bánh
tráng. Quây quần với bà con nông dân và ngư dân trong xóm, lần đầu chúng tôi uống
rượu với nhau, và gọi nhau bằng hai tiếng “đồng chí", chưa bao giờ quen
nhau mà bên ni bên nớ nhìn nhau bằng ánh mắt bà con ruột thịt!
Đó là ngày độc lập đẹp đẽ nhất, ý nghĩa nhất của tôi kể từ
ngày trên cột cờ Ngọ Môn lấp lánh tung bay ngôi sao năm cánh trên một nền đỏ rực!
Có hôm cụ Luyện hỏi tôi: Nhà thơ đã sướng chưa? Tôi đáp: Sướng!
Cái sướng này quả là một hạnh phúc diệu kỳ, đặc biệt chỉ có ở
kẻ mất tự do mới thật sự cảm nhận được một cách đầy đủ. Sực nhớ đến tiếng
mõ thúc giục đóng thuế ngày nào ở làng Cao Lao của tôi, bà con nông dân nghèo,
sưu cao thuế nặng, có khi không đủ mấy quan tiền nộp thuế, chân bị cùm hoặc nó
treo người lên, v.v… thật là cái cảnh đau lòng giữa con người với con người,
làm tôi nổi da gà khắp mình. Nhưng hôm nay nỗi vui sướng lấy lại đất nước đến rồi,
có gì đảo ngược được!
Tại Huế tôi được phân công phụ trách tử sách công nhân, địa
điểm ở ngã tư Âm hồn, cùng với anh Chế Lan Viên và vợ là chị Giáo, anh Hoàng Trọng
Miên, chúng tôi chia nhau ra làm việc. Khi anh Viên và tôi được mời ra Hà Nội họp
Văn hóa toàn quốc, ở nhà Mừng gần đến ngày sinh! Một việc mà tôi nhớ mãi hôm đó
ở Hội Quảng Tri ở Huế tổ chức văn nghệ lấy tiền mua vải vóc may áo quần cho anh
em giải phóng quân. Người trong ban phụ trách là chị Lý, đến tiết mục ngâm thơ,
người ngâm thơ hôm ấy bị ốm, thế là chị Lý vào nói với Mừng thay, lúc đó thật
khó nghĩ vì cái bụng gần ngày sinh, to tướng. Sau chị Lý bảo sẽ làm cái động, Mừng
đứng ở trong cho lấp cái bụng mà ngâm. Sáng hôm sau Mừng chuyển dạ, Hải con đầu
lòng của tôi đưa Mừng ra nhà hộ sinh của chị Lý, chị Lý hết lòng giúp đỡ, và đã
đánh điện ra Hà Nội cho tôi: “Mừng khỏe và cho ra đời một giải phóng quân!”
Ở Huế mới hôm nào, những tên lính Nhật đứng gác ở đầu cầu
Tràng Tiền ai đi qua cũng thấy lành lạnh, chỉ muốn đi qua nhanh, tránh xa.
Nhưng mấy ngày này, chúng đã biến đâu cả rồi, những em bé trai 14 -15 tuổi đã
xung vào đội tự vệ đêm hôm tranh nhau đi bắt lính Nhật.
Những chàng trai cô gái đang lớn vùn vụt, thằng tiểu công dân
trong gia đình tôi cũng đang lớn lên từng ngày một, nó có biết đâu giữa những
bước đi chập chững trên đời cũng là những bước đi, bước chạy trong cách mạng. Từ
ngày mới lọt lòng mẹ, nó đã bò, tập từng bước đi trong gian truân, trong bom đạn,
trong tình thương của mọi người, cùng với cha mẹ, trèo đèo, lội suối! Mừng thường
nựng con: Tội nghiệp con tôi! Con có biết bà ngoại là ai không? Rồi con người
có tâm hồn rất cứng cỏi đó, cũng phải quay mặt vào tường, lau hai dòng nước mắt….
Chương XVII
TIẾNG ĐÀN Ở LĂNG TỰ ĐỨC
Tôi được giấy triệu tập ra họp Hội nghị Văn hóa cứu quốc tại
Hà Nội. Lúc bấy giờ bọn thực dân Pháp, từ nước Pháp đã được giải phóng, núp sau
quân Anh trở lại Sài Gòn, chúng đổ bộ ở Hải Phòng, vào tận Thủ đô, nơi Bác Hồ
đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập.
Ở giảng đường đại học Đông Dương, chúng tôi, những nhà thơ
nhà văn, nhà nghệ thuật bàn về sự nghiệp văn hóa của đất nước!
Súng đã nổ ở đâu đó ngoài phố, trên trời có tiếng rú máy bay.
Hồ Chủ tịch vẫn đến với chúng tôi. Bác Hồ nói về ngôn ngữ Việt Nam, lâu lâu
chêm vào câu đùa dí dỏm.[a]
Họp xong tôi từ Hà Nội về Huế bằng xe lửa. Như tôi đã nói,
trong lúc tôi đi vắng, Mừng đã cho gia đình tôi một nam công dân đầu tiên. Thằng
bé ra đời hình như mang theo trên mặt cả cái gian truân của đất nước và cái
chìm nổi của một mối tình. Cháu không được bàn tay của bà ngoại ấp ủ, nhưng
chính cách mạng trên đôi tay đã đỡ cháu ra đời, trong tiếng đại bác của quân
thù.
Bọn lính viễn chinh Pháp đã chiếm nhiều căn cứ ở bờ nam sông
Hương. Cuộc chiến đấu giữa hai bên bắt đầu khá ác liệt. Mười ba chiến sĩ của ta
đã chiếm sở lục lộ, bị chúng xối dầu đốt cháy, hy sinh một cách anh dũng. Mười
ba anh em học sinh, trong đó có máu tuổi trẻ hoàng gia đã hy sinh để bảo vệ Huế!
Chúng chiếm nhà hàng “Morin Pières”. Bộ đội ta còn giữ tòa Khâm cũ. Từ một khe
tường nứt, tôi nhìn qua sân “Morin”, còn đầy xác chết của tụi Pháp, mùi máu mùi
thịt người sặc tanh. Trên đôi bờ sông Hương, quạ đâu về kêu quang quác, bay đen
cả trời.
Cả gia đình của tôi còn ở trong thành nội; sợ Mừng lo, tôi cứ
truyền đi một tin đồn, tên đại tá “Cốt” chỉ huy của quân đội Pháp đã bị bộ đội
ta bắt được, bị trói vào một cột đình. Chiều nay bộ đội ta có chủ trương đưa
súng thần công lên mặt thành bắn qua “Morin”. Mừng vừa sinh xong, chưa thật
“lên cạn”, tôi sợ Mừng đòi đi xem bắn súng thần công, tôi dọa: đại bác từ thuở
chúa Nguyễn, chúa Sãi, chúa Thượng, xọc xạch như răng bà già, nó tụt hậu một
cái, khi không chết vô duyên! Đùa vậy thôi chứ tôi biết Mừng đâu có đi. Cảnh
nhà tôi vắng tanh.
Mấy khẩu đại bác của Tây giúp cho nhà Nguyễn đã được “phong
thần”, vừa ho vừa khạc, làm chi nên chuyện. Thằng con đầu từ khi súng nổ đã
theo làm liên lạc cho một chú nào rồi, chẳng thấy mặt mũi đâu cả! Người công
dân nhỏ của chúng tôi khóc cả ngày; giặt tã lót, cơm nước cả nhà, một mình Mừng
lo toan tất cả! Mừng sinh con “so” mà bà con chị em không ai đến hỏi thăm, tôi
biết Mừng nghĩ đến mẹ, muốn chặn nước mắt, không sao ngăn nổi!
Từ khi hai bên nổ súng, tôi say mê công tác tuyên truyền. Tôi
phải bám “thần công”, chứng kiến tận mắt, kịp thời sáng tác vài câu ca dao đưa
vào "loa". Đại bác thần công là một cỗ xe có bánh, xúm nhau đẩy, cuối
cùng cũng hè nhau kéo lên tận mặt thành trước cửa Thượng Tứ, xê xế ngang nhà
hàng Morin, nơi lính Pháp đang đóng.
Sợ thần công nổ loạn xạ, sợ nổ tụt hậu, tôi chỉ đứng xa nhìn,
cũng chả hiểu mấy ông du kích ta nhét đạn, châm ngòi ra sao. Canon đi thẳng,
nhưng chỉ rơi vài cái tõm tõm trên mặt nước sông Hương. Mà tiếng vỗ tay hoan hô
còn nghe “dòn" hơn đạn Pháp!
Mừng hỏi tôi: các ngài Thần Công đã lâm trận chưa? Sao chẳng
thấy ho hen gì hết? Tôi cười đáp: Tụt hậu cả rồi
Mừng lại hỏi: Còn thằng Đại tá Cốt?
− Nó cũng tuột mất rồi.
− Sao lại để nó tuột?
− Nào có ai bắt được nó đâu, mà bảo nó chả tuột?
− Chi lạ rứa?
Tôi lại cho Mừng biết có tin đồn: ở trường dòng Pellerin bộ đội
mình chiếm ở tầng dưới, dồn tất cả chúng nó lên lầu lấy rơm và ớt cay đốt
chúng.
− Chúng nó chết cháy cả rồi chứ? - Mừng hồn nhiên hỏi.
− Mình xông khói, ớt muối làm cho chúng sặc, chảy cả nước
mắt nước mũi, không thấy đường nào mà đi, thế là ta nhào lên tóm… lần từng đứa
một.
Mừng cười, ôm bụng mà cười và kêu:
− Trời ơi! Đánh giặc kiểu lạ đời, cười đau thắt cả bụng.
Rồi tôi phải kể thật khi ta xông lên lầu chẳng có mống nào hết.
Mừng lại càng ôm bụng cười.
Lính Pháp tiếp viện sắp đổ bộ vào cửa Thuận An. Chúng từ
trong Huế nống ra, ngoài xáp vào, mình sẽ bị kẹt ở giữa. Không thể trì hoãn.
Chúng tôi phải bồng bế nhau đi. Mừng vừa sinh xong chưa đầy tháng, thế mà tay bồng
con thơ, tay dắt con bé Nguyệt. Tôi nhớ rõ hành trang của chúng tôi, chỉ có chiếc
xe nôi mây, gói gọn ít quần áo cả gia đình, một cây đàn tranh, một bức chân
dung của Mừng khi mười bảy tuổi do một họa sĩ nổi tiếng vẽ, và một cuốn album.
Chúng tôi ra cửa An Hòa và đi đến ga Văn Xá, cứ đi về phía Bắc.
Còn về phía Nam sông Hương, ở xóm Trường Cửi, người mẹ còn ở lại, cùng người
anh trai, hai người em của Mừng với một khu vườn trù phú, những quả mít to sắp
chín tới, hàng chục buồng cau, trầu… Chúng tôi không hiểu tình hình sẽ ra sao.
Tôi tránh không dám nhìn mặt Mừng, có thể Mừng đang khóc, khóc vì lẽ gì? Khóc
vì những cảnh gian truân mà chúng tôi đang dấn bước, dầu chúng tôi đã là những
kẻ chiến thắng trên mặt trận “tình yêu”!
Tôi đã đoán nhầm, thực ra Mừng đã không có một giọt nước mắt,
không buồn không đau, Mừng chỉ có lo và tủi! Trong lúc này, giá có người mẹ bên
cạnh thì đã có những nụ cười, những giọt nước mắt đẹp và nhiều hạnh phúc!
Chúng tôi ở Văn Xá được mươi hôm thì anh Lương, em ruột người
bạn thân của tôi cho hay, từ ngày súng nổ ở Huế, mẹ của Mừng đã lên tránh ở
lăng Tự Đức.
Tôi dịu dàng nói với Mừng: Đi tìm mẹ đi! Thấy vẻ lưỡng lự của
Mừng tôi nói thêm: “Từ ngày Chương Dương ra đời chưa được bà ẵm”, anh Lương lấy
cơ hội, đề nghị sẵn có chiếc đò nhỏ của anh, anh sẽ chở cả nhà lên lăng Tự Đức
luôn thể. Em ruột của bạn tôi, sao mà hết lòng giúp đỡ chúng tôi đến thế? Thấy
anh nhiệt tình, nên anh bảo gì chúng tôi cũng nghe. Thế là một mình anh Lương
đã đưa chúng tôi đến lăng, chúng tôi bước lên bến Benvede, anh Lương từ biệt, hẹn
sẽ gặp lại! Chắc ý anh Lương cũng không muốn có mặt trong cái buổi đoàn tụ có vẻ
"cấn cái" này. Chúng tôi vừa đến cửa ngoài lăng, chợt thấy chúng tôi
các cô Phụng, Trực reo lên “cô Mừng, cô Mừng”, cô chạy ra đỡ lấy cháu Dương ẵm,
cô chạy vào báo tin với mẹ Mừng. Tôi đợi bóng bà bước ra, nhưng cửa vẫn không mở,
chỉ hé ra cho Mừng và hai con bước vào, rồi cửa lại đóng kín. Người ta vẫn để
tôi ngồi một mình ở gian ngoài với một ông “hoạn già” nhăn nheo, móm mém. Triều
đại Tự Đức huy hoàng đã đi qua, đã tàn lụi hết rồi, ông hoạn còn đâu xiêm y rực
rỡ? Ôi! Chỉ có thế thôi ư? Một manh áo, một vành khăn đã bạc màu thời gian còn
sót lại để che một tấm thân gầy “ái nam ái nữ” mà thần chết đã tha cho! Ông hoạn
quan nằm không cựa quậy trên một tấm ván, và bên một giường khác đối diện, dễ
chính là nơi tôi sẽ ghé thân trong thời gian gia đình tôi nấn ná ở lại đây?
Nhưng sau người ta đưa ông già đó đến một phòng bên cạnh, còn
cái gian phòng này sửa sang lại giường ghế đón tôi! Tôi xưa nay vẫn thế: ở đâu
ngả lưng được là tôi nằm, sang hèn chi tôi chẳng lấy làm điều. Mừng cũng được
cái tính rất xuề xòa như vậy. Chúng tôi ở đâu, có được sống bên nhau, đó là hạnh
phúc! Không cần đòi hỏi gì nhiều.
Hàng ngày Mừng vẫn hái những đóa hoa rừng làm đẹp cho
gian phòng. Mừng kể cho tôi nghe bà ngoại đùa và ẵm bé Dương.
Tôi tưởng tượng như có lần như nghe tiếng Mừng nói xẵng với mẹ…
Có phải trước đây mạ “giam” con, giờ mạ lại giam anh ấy… Tôi biết là tôi đang bị
giam lỏng. Những hôm chờ cho Dương ngủ say, Mừng dẫn tôi dạo quanh rừng thông ở
làng. Không ở đâu nước trời thiên nhiên hòa với đôi bàn tay nhân tạo như ở đây!
Và không nơi nào như ở đây “cái sống” “cái chết”, càng quyện với nhau. Hương
khói, bàn thờ, cái chết, phảng phất, sát kề bên chỗ ngồi đọc sách, câu cá, soi
gương, xem hát bình thơ.
Chúng tôi ngồi đây nghe tiếng thông reo quyện vào gió, bên
nhau hàng giờ… Và khi sao mọc, hoa rơi, Mừng chẳng để tôi một mình lẻ loi.
Từ lâu, Mừng chưa có được một tấm áo mới, cái áo đen dài cũ,
đã nhạt màu bùn, nhưng khi đi qua Lâu Kính, Mừng không thể, không giữ tay tôi lại,
ngừng lại ở đây, lâu một chút… trước tấm gương lớn đã mờ nét thủy, Mừng quen
tay sửa mái tóc mai… Thiếu, nghèo, cũng phải diêm dúa chứ! Cũng như khi đi qua
cầu, Mừng không thể, trong chốc lát, không soi mình xuống dòng nước…
Từ hôm vào lăng đến nay, mẹ Mừng vẫn chưa chịu giáp mặt tôi,
mẹ còn giận tôi đến thế ư? Mẹ càng giận tôi, càng làm cho Mừng thêm đau khổ!
Ngày lại ngày, chúng tôi cầm tay nhau thơ thẩn dưới hàng
thông, ngập ngừng Mừng hỏi: Trong hoàn cảnh này tại sao anh không làm thơ? Gió
thổi dọc hành lang như thổi vào giữa lòng Mừng, phảng phất mùi mít chín. Không
còn nhớ mình đang ở giữa cuộc chiến tranh. Ngày mai rồi ngày kia, chồng con
mình sẽ ở đâu? Đâu phải Mừng sợ súng đạn, Mừng chỉ sợ chia ly hay tan vỡ…
Tôi thẩn thơ nhìn Mừng bước đến bên cây đàn tranh treo bên cửa
sổ, tay trái vịn vào đàn, ngón trỏ gảy từng dây: Họ, xự, xàng, xê, cống, ở nốt
trầm, đến các nốt trung, cao, Mừng như dồn đau uất rạch một đường tơ, hai mắt Mừng
ướt lệ!
Tôi nâng cây đàn, dìu Mừng ngồi bên cửa sổ… Mừng im lặng ngồi
phủi bụi bậm, lên dây, dạo mở đầu, ngập ngừng… Mừng đàn bài “phú lục”, tôi biết
Mừng đàn bài này là bài người mẹ thích nhất. Bên kia tường người mẹ lại được
nghe con đàn, cái khúc đàn xưa của người đã mất, bản đàn với tất cả luyến láy của
người ngày xưa! Người cha tuyệt vời, người cha thi sĩ, người cha nghệ sĩ, bây
giờ người đang ở nơi đâu? Cha có biết hết tất cả nỗi niềm đau xót của con, và của
mẹ nữa?
Bài phú lục đang nửa chừng thì người bạn, anh Lương, là người
đã đưa chúng tôi đên sở lăng này, trở lại làm chúng tôi giật mình… Anh Lương
bình tĩnh cho chúng tôi hay rằng: bọn lính Pháp đổ bộ ở cửa biển Thuận An, đang
tiến tới thành phố Huế, anh ấy đề nghị chúng tôi phải trở lại vùng phía Bắc
sông Hương, ở đó có việc gì ta sẽ tìm đường đi ra Nghệ An, ở trên này chúng tôi
sẽ bị kẹt…
Một ý kiến rất hay, vừa tránh cho chúng tôi khỏi bị giặc bao
vây, vừa cứu cho tôi khỏi một tình thế khó chịu, khó xử, ở nơi lăng vua
này. Rốn lại nơi đây, chắc Mừng cũng chẳng muốn, trước sau tôi đối với bà, chẳng
một chút tự ái, một mảy may oán giận. Tôi yêu Mừng, làm sao tôi đối với người
sinh ra Mừng khác được? Tôi bứt rứt khổ sở, đến giờ phút này chúng tôi sắp ra
đi… Tôi toan xô cửa vào quỳ trước mặt bà, nhưng người ngăn lại chính là Mừng! Mừng
ra lệnh cho tôi: “Anh xuống bến trước đi!” Tôi đành cùng với anh Lương đẩy chiếc
xe nôi xuống bến trước.
Trong gian phòng kia đang diễn ra buổi chia ly của Mừng và mẹ,
biết đâu: đó là sự vĩnh biệt cuối cùng của hai mẹ con Mừng trên cõi đời!
Sau này Mừng thuật lại cho tôi nghe cái buổi chia ly não nuột
cuối cùng đó. Trong nước mắt, Mừng bậm môi, không cho tiếng khóc bật ra. “Ừ,
cho là mẹ không hiểu gì về văn thơ, mẹ cũng chả quý gì cái con người được gọi
là nhà thơ; nhưng đối với đứa con yêu quý nhất, lẽ nào có thể hờ hững, ruồng rẫy
cái giọt máu mà mẹ đã sinh ra, và cái giọt máu đó nó đang mang trong mình. Giá
mà mẹ cứ giận một bề, nhưng mỗi khi mẹ nhìn cháu, em càng giận, muốn giật nó khỏi
tay mẹ… Nhưng làm sao em có thể xử sự như thế được? Hai mắt tuôn xối xả, nghẹn
lời, em muốn gào to lên: Vì ai, vì ai? Vì ta ư? Vì mẹ! Vì xã hội phong kiến?
Thôi nói cho cùng, tất cả vì cuộc đời anh! Vì sự nghiệp thơ văn của anh! Đó mới
thật là cốt lõi, vì tình yêu chân chính nhất!” - “Anh cũng vậy, nếu chẳng thật
lòng yêu em, thì làm sao anh có thể yêu mẹ được?” Anh yêu! Anh yêu vô cùng! Tự
bao giờ nào anh có biết, yêu em, anh yêu cả Huế này, hay nói trái lại vì anh
yêu Huế, từng chân tơ kẽ tóc anh yêu thương tất cả đời em!
Em biết không? Anh rời khỏi lăng Tự Đức mà lòng anh như đứt
đoạn… Cái chuyện phải rời khỏi cái cảnh núi sông tuyệt đẹp đó, mà chẳng biết
bao giờ trở lại nữa, làm sao khỏi chết lạnh từng tế bào của hồn mình! Khi anh đến
“Benvêde” (cái bến sông đẹp tuyệt vời này) anh ngồi để chờ em và các con! Ôi
con bé Nguyệt, có đôi mắt lành, đen lạ lùng, mới lên 6 lên 7 tuổi lúc nào cũng
không rời khỏi tay em. Với đôi chân bé nhỏ Nguyệt đã lội bao suối, trèo bao
đèo, và bao giờ cũng níu lấy chéo áo của em mà đi… Có lần Nguyệt đi hơi xa, hai
chân bé nhỏ mỏi dừ, Nguyệt nắm lấy bàn tay chút xíu của em mà nói: “Cái thằng
chó Dương này, bao giờ cũng được ẵm bế trên tay, còn chị thì hai chân không buồn
bước!”
Thấy tôi ngồi chờ trên một tảng đá ở “Benvêde” Mừng đến bên
tôi, anh Lương, có lẽ cũng đọc được ý nghĩ của chúng tôi, đưa tay đỡ thằng
Dương trên tay Mừng: “Chị đưa cháu tôi bế”, và gọi Nguyệt: “Đi theo chú, chú
hái cho bao hoa đẹp nì… để cha mẹ ngồi nghỉ tý…”.
Mừng và tôi cùng ngồi lại tảng đá cao này. Nhìn lại trùng
trùng đồi núi và thấy xa xa từng cửa Tam quan của “99 chư sơn”… có núi là có
chùa… Lần đầu tiên được đi bên nhau, đâu nghe có cảnh chùa đẹp là chúng tôi đến…
Chùa Viên Thông, chùa Trà Am, chùa Từ Hiếu, Trúc Lâm, Bảo Quốc, Tháp Thiên Mụ,
v.v... Có nơi danh lam thắng cảnh nào mà chúng tôi không dắt nhau đi tới, có những
vị hòa thượng rất sành thơ văn, dưới mái chùa, phảng phất hoa anh trảo, hoa ngọc
lan, đọc bình thơ. Những bữa cơm đạm bạc, đàm đạo với nhau về sự đời!
Có thể nói chúng tôi đã sống, đã yêu nhau trong tiếng chuông
chùa “nện không”, không phải là tiếng chuông nhà thờ giục giã, sôi sục, mà là từng
tiếng ngân nga, thăm thẳm, man mác…
Tôi nhắc lại với Mừng: Em có nhớ đêm Quy Lai, ra đi trong tiếng
chuông chùa Diệu Đế, lúc về đến bến đò Trường Súng em sắp bước lên bờ là tiếng
chuông chùa Bảo Quốc!
Mừng mỉm cười nói với tôi:
− Hôm sớm bên tai em chỉ có tiếng chuông chùa… Nhớ anh,
yêu anh cũng trong tiếng chuông chùa! Cả cái hôm trên người em đầy những lằn
roi, nước mắt dàn dụa, bên tai một mình cũng chỉ có tiếng chuông chùa, những hồi
chuông chùa ấy đã kết tinh lại một tòa sen mà anh và em đã tới được cái cõi
“Nát bàn” mà dưới cõi đời này biết bao chúng sinh, biết bao sư vãi hằng mong ước!
Tôi bâng khuâng, Mừng cầm mạnh tay tôi: “Kìa, anh xem khúc
sông này một chút! Sông Hương đâu chỉ là: Kim Luông, Đập Đá, Gia Hội, Đông Ba,
Cồn Hến anh nhỉ? Sông Hương chính là nơi đây…” Tôi và Mừng nhìn xuống khúc sông
Hương trước mặt đẹp lạ lùng… Đôi mắt Mừng đắm đuối…
Bỗng một tiếng khóc đòi mẹ… xa xa… Thôi chúng ta xuống
thuyền các con đang chờ… Mừng chùi vội những giọt nước mắt… Khi xuống bến, anh
Lương cũng như muốn chiều Mừng, chần chừ một hồi lâu, mới đẩy thuyền rời bến…
Anh nói:
− Chắc anh chị cũng biết, đoạn này lên một chút qua bên
kia sông là lăng vua Minh Mạng…
Và cứ ngược mãi lên phía Tuần tận Dương Mông là lăng Đức Cao
Hoàng nằm giữa trời, Mừng ngẩng nhìn anh tưởng như thầm ngỏ một lời biết ơn!...
Anh Lương là một kỹ sư lục lộ, anh ruột là anh Kỷ, một “quan hai” hàng hải dân
dụng Pháp. Chúng tôi thường gặp nhau ở trên sông Hương, Kỷ không biết nay trôi
dạt nơi đâu. Còn Lương vẫn theo cùng chúng tôi, nhất là trong gian khổ! Anh
Lương sống giản dị, có tài câu cá, chèo đò… Tôi tuy quen nhưng không hiểu nhà cửa
của anh ở đâu, chỉ biết trong lúc chúng tôi thiếu thốn, khó khăn là có mặt anh,
hết lòng giúp đỡ…
Anh thấy chúng tôi ở lăng Tự Đức rất nguy hiểm, kẻ thù bất ngờ
lùng đến, cho nên đã đưa thuyền chở gia đình chúng tôi về Văn Xá, trong lòng
tôi đoán như vậy, rất xúc động với tấm lòng bạn bè với nhau… Trở về lại Văn Xá
cũng là điều bất đắc dĩ thôi… Trước khi chiến tranh nổ ra, ở hai bên, hầu hết
anh chị em văn nghệ sĩ ở cơ quan tuyên truyền đã được chuyển dần ra Nghệ An,
Thanh Hóa. Anh Bửu Tiến, anh Phan Khoan còn nấn ná ở lại cùng tôi, nhưng rồi
anh Bửu Tiến cũng lại đi bộ ra Quảng Bình, còn anh Phan Khoan, theo đề nghị cuả
anh ấy xin được về với gia đình ở trong thành Huế. Bửu Tiến, con quan của triều
đình Huế, dòng hoàng phái, trí thức, không chịu về với gia đình; tôi rất mến
thái độ dũng cảm của anh ấy; còn với anh Phan Khoan tôi cũng thông cảm… Còn chúng
tôi cứ chần chừ, đi ra khu 4 không muốn, mà ở lại đây, không biết sẽ ra sao?
Anh Tố Hữu, từ trước chiến tranh bùng nổ đã được điều ra trung ương công tác.
Anh Nguyễn Chí Thanh vẫn ở đây phụ trách mặt trận quân sự, cơ quan đã rút vào
"bí mật". Có kẻ nói với tôi có gặp anh Thanh vẫn đi xe “jeep” ở đường
số 1 từ Phú Lộc đến Mỹ Chánh đi ra Huế, cũng có kẻ bảo là anh cải trang đội nón
lá miệng ngậm cái khăn che nửa mặt ngồi ở các quán nước bên đường… Anh Hoàng
Thượng Khanh là người ở cơ quan tuyên truyền thường đi lại với tôi, đến nay vẫn
không thấy? Hôm từ lăng Tự Đức trở về Văn Xá là cốt chờ mong được liên lạc với
đoàn thể.
Vừa rồi chuyến đi lên lăng Tự Đức, giặc Pháp ít nhiều còn ở
thế “co lại” nhưng khi từ lăng Tự Đức trở về này, chúng tôi đã nghe nhiều loạt
súng ở xa vọng lại… Có những loạt súng ở ven sông dội tới, trên trời lại xuất
hiện máy bay “bà già” do thám của giặc Pháp.
Trong mưa lâm thâm, gió thổi rét, Chương Dương trong lòng mẹ,
môi tái xanh, Nguyệt nép vào nách Mừng, chiếc đò của anh Lương lại cứ như chòng
chành, có khi như muốn sát vào bờ chĩa mũi thuyền vào một nơi nào đó. Mừng lo
ngại, có ý lo sợ nhìn tôi. Chúng tôi nghĩ bụng: xin cứ phó mặc cho trời đất…
Dầu sao chúng tôi cũng đã về đến Văn Xá, khi trời còn sớm. Đến
nay tôi còn nhớ mãi cái hình ảnh… đoàn quân xơ xác trở về… Vẫn là Mừng ẵm cậu
bé tiểu công dân, Nguyệt vẫn níu chéo áo Mừng chạy theo, anh Lương đẩy cái xe
nôi, trên xe vẫn mấy thứ: cây đàn tranh, cuốn an-bom, và bức tranh ấy… Còn tôi
đi sau cùng, tay xách một đãy túi áo quần… chúng tôi rời biệt quê hương, con
sông của mình như thế… Sau này, nhớ lại cảnh này, Mừng nói với tôi: “Hôm em rời
mẹ, rời Huế, rời con sông Hương có bến đò Thừa Phủ… ruột đau như đứt từng
khúc…”
Trong xóm thấy chúng tôi trở về, bà con vui mừng, các cô gái
dành nhau ẵm Chương Dương, các em bé bằng tuổi Nguyệt soạn đồ chơi, nào búp bê
bằng vải vụn, những xoong nồi chút xíu, bán hàng… Chúng tôi cảm nhận lòng
thương yêu của đồng bào, rồi đây con đường đi với cách mạng còn lắm gian nguy,
nhưng sao lòng chúng tôi thanh thản lạ thường!
Thật ra, suýt chút nữa, con đò của chúng tôi từ lăng Tự Đức
trở về, không hướng về hướng sao Bắc Đẩu… mà có thể chỉ bạt vài mái chèo, con
đò đã dạt vào một bến nào khác…
Anh Lương mà đến nay, đôi khi nhớ tới, tôi vẫn không biết
đánh giá thế nào cho đúng. Từ khi anh đến, đưa đón chúng tôi, đôi khi chúng tôi
bất chợt nhìn thấy ánh mắt anh có vẻ gì khang khác… Về Văn Xá, trong khi ngồi
chơi, nước thuốc, quà bánh, chúng tôi vẫn như muốn chờ anh nói, hỏi điều gì…
Mãi đến khi chúng tôi đi ra cánh đồng, anh đi theo nhìn vào mắt
tôi mà nói:
− Bà Từ Cung đã về ở Tiềm Để, rồi ông Đốc Hy, bà Giáo
Xuân, cũng đã trở về cả rồi, có người đã ra mắt đồng bào, tuyên bố này nọ. Pháp
đã đổ bộ ở cửa Thuận An, chỉ vài ngày nữa thôi, chúng từ trong thành nống ra, từ
dưới biển tiến lên, hai bên xáp lại với nhau… Bộ đội mình đã “chôn súng”, cán bộ
bỏ chạy ra Vinh… Anh chị ở lại đây thế nào chúng cũng tóm được. Đối với anh là
bạn thân của anh Kỷ tôi, tôi coi anh như anh ruột. Cách mạng không thắng được
đâu! Có thân mình phải liệu trước, chị lại mới sinh, mà lại là người hoàng
phái, anh lại là nhà thơ có tiếng tăm, Pháp nó sẽ trọng dụng mà…
Cái đề nghị của anh ta đối với tôi quá bất ngờ, tôi cứ
ngơ ngẩn nhìn anh. Cuối cùng tôi chợt nghĩ ra một câu hỏi:
− Thế từ đây về Huế, đồn nào bốt nào là của Pháp? Nhỡ
chúng nó hỏi, biết làm thế nào mà trả lời?
Mắt Lương như sáng rực lên:
− Anh không lo!
Nói xong anh bèn lật vạt áo lên: một mảnh cờ bé bằng một hột
ngô ba sắc dính vào nẹp áo trong.
– Anh chị có cái này đi đâu cũng lọt, cứ đưa ra là được đón
tiếp tử tế…
Tôi bình tĩnh cám ơn anh, rồi đưa tay nhận cái hạt ngô ba sắc
từ tay anh trao…
Rồi tôi có vẻ lưỡng lự nói:
− Bấy lâu nay anh có lòng giúp đỡ vợ chồng tôi, xin cám
ơn! Nhưng thật tình chúng tôi không thể trở về.
Anh Lương chồm lên nói với tôi: Cách mạng sẽ thua thôi, tôi
cam đoan với anh, “cái đầu” của tôi đấy!
Thế rồi từ ngoài đồng trở về, anh Lương đi rất nhanh, về tới
nhà, anh chào Mừng, ôm hôn Chương Dương, từ biệt. Nhìn thái độ gấp gáp của anh,
Mừng đưa mắt hỏi tôi, tôi mỉm cười không nói! Trong lòng nghĩ, có lẽ anh ta sợ
mình tố giác, nên vội vàng thoát thân! Nhìn anh đi chúng tôi áy náy lạ thường!
Tối đến, Mừng gặng hỏi, tôi liền thuật đầu đuôi câu chuyện
cho Mừng nghe. Mừng cứ cười một mình. Sau khi biết âm mưu của anh Lương, Mừng
có vẻ lo sợ, giục tôi phải rời xóm này sớm, làm như chốc nữa Tây sẽ đến ngay
đây, trói bắt chúng tôi, quẳng chúng tôi lên xe…
Thế là anh Lương, từ hôm đó, chúng tôi không bao giờ thấy mặt
nữa! Khi đang viết mấy dòng này, không hiểu anh có còn ở Huế? Sống hay chết,
hay đang ở tận một nơi xa xăm nào! Nếu anh Lương còn sống, anh biết cho chúng
tôi điều này… Anh khẳng định cách mạng sẽ thua! Nào tôi có bao giờ nghĩ đến
cách mạng sẽ thắng hay bại? Chúng tôi tự nguyện đến với cách mạng, đến với những
con người vì con người, một tình thương chia sẻ ngọt bùi, chúng tôi không bao
giờ bỏ họ được!
Cũng có thể, anh Lương có phần nào thương quý chúng tôi,
nhưng thực ra anh ấy “suy bụng ta ra bụng người”. Vả lại đồng bào thân quý của
chúng tôi, chả mấy ai nghĩ như anh ấy cả. Mặc dầu tin đồn giặc sắp ập đến xóm
chúng tôi ở. Có người ở Huế về dám nói chắc rằng, tại Thanh Thủy, tai họ nghe
quân Pháp trong thành nống ra, ở cửa Thuận, tiến lên, đã thổi kèn chào nhau rôm
rả lắm… Vệ quốc đoàn sợ hai gọng kìm kẹp lại, bị kẹt không ra được, nên họ đã
“lên xanh” cả rồi, những anh nào lạc mất đơn vị thì chôn súng vất áo mũ, sống lẫn
với đồng bào. Trong xóm có cai tổng X., có hai đứa con trước là công chức
của Tây đánh hơi thấy tình hình… liền lục bằng cấp, sách chữ Pháp ra phơi
phóng… Tuy tin đồn thế, mà đồng bào vẫn đêm đêm dưới ánh trăng giã gạo quân
lương, các em gái 15 - 17 vẫn gọi nhau í ới, gánh gạo tiếp tế cho vệ quốc đoàn.
Thanh niên vẫn tập “đi đều bước”. Tôi vẫn làm những câu ca
dao viết lên giấy, dán lên vách đình làng, bên cây đa, giếng nước. Ở đâu tụ tập
đông người là tôi đọc thơ yêu nước, động viên bà con hăng hái giết giặc…
Một hôm được lệnh, không biết lệnh từ đâu ra các tự vệ phải tập
hợp ở đình làng, bà con vừa lo, vừa mừng…
Anh chị em đã đến đầy đủ vây quanh một người ra vẻ cấp trên,
mặc áo vệ quốc đoàn, bên hông đeo khẩu súng “côn”. Không dài lời, vị chỉ huy ra
lệnh: nữ tự vệ về lo gạo, muối cho vô bao bì, chờ anh em về nhận, tự vệ nam ở lại,
người nào có súng thì phải kiểm kê lại có bao nhiêu đạn, không có súng thì cũng
có dao phay, rựa, thật sắc bén, lựu đạn…
Anh chỉ huy chỉ tay phía bên phải gốc mít:
− Ai quyết tử thì đi ra phía bên phải gốc mít, còn ai sợ
thì đứng tại chỗ! Chưa thấy bóng dáng thằng Tây mà đã chạy, chôn súng rồi. Tôi
nói anh em có nghe không? Ai muốn chết cho đất nước thì đứng qua phải gốc mít
này.
Chẳng ai nhúc nhích.
Thật ra, anh em tự vệ chưa thấy hiểu hết ý của anh chỉ huy
nên hỏi lại: “Đã đành là quyết tử nhưng quyết tử cho ai? Ở đâu?”
Một ông độ 50 tuổi, lưng thắt sợi dây bò trên tay cầm cái
mác, đứng ra mỉm cười đi về phía tay phải của gốc mít nói:
− Bầy tui không sợ đâu, không sợ cái chết thì sợ chi cái
thằng Tây cướp nước? Có điều mặt trận ở chỗ mô, tôi đã từng gánh hai bó rơm
không, lại đùm một lon ớt bột, xông vô tận trường “Giòng” cùng bà con đốt lên
un khói… Chúng nó ở trên lầu chẳng nghe tiếng hắc xì hơi… Cũng chẳng có tiếng
súng bắn xuống…
Anh chỉ huy bật cười…
− Có đứa nào trên trường Giòng mô mà bảo nó hắc xì
hơi...
Cả đám tự vệ, bà con đứng quanh đó cười rúc rích, anh chỉ huy
đợi cho họ cười thả sức, mới nghiêm chỉnh hỏi:
− Bây giờ có giặc thật, có đánh không? Hay là chạy?
Lại thêm mấy anh thanh niên đi về gốc mít. Anh chỉ huy nhìn đồng
hồ… Mãi sau lại có một người, thêm hai người, thế là cả mười hai người đi về
phía gốc mít.
Anh chỉ huy hô: Ai biết hát “Đoàn giải phóng quân?” hai ba
nào!
“Đoàn giải phóng quân một lòng ra đi
Là có mong chi đâu ngày trở về
Ra đi, ra đi, theo hồn sông núi
Ra đi, ra đi thà chết chớ lui…”
Một điệp khúc hào hùng làm cho bà con rơm rớm nước mắt!
Lại một giọng hô to: “Thôi!”. Anh chỉ huy nhìn vào bác già 50
tuổi xung phong trước tiên:
− Tôi xin giao chức tiểu đội trưởng, bác nhận chứ?
Bác ta liền ra khỏi hàng, đứng lên đầu hô: “Bên phải quay!”.
Anh chỉ huy hét: Tất cả vào xóm, mang được bao nhiêu tùy sức, nửa giờ sau có
liên lạc dẫn lên xanh. Anh quay lại nói với tôi: “Nhà thơ xin hãy chờ tại chỗ,
đúng một tuần, kể từ ngày hôm nay, sẽ có liên lạc đón”.
Sáng hôm ấy, tôi vừa buồn lại vừa vui, về thuật lại quang cảnh
vừa qua, Mừng nghe rất cảm động! Người chỉ huy đó tôi chưa bao giờ gặp, không
quen… Nhưng tôi rất tin ở những lời anh ấy nói, tôi nghĩ thầm, đúng là người của
đoàn thể!
Ngày nào, đêm nào gần đến ngày hẹn, chúng tôi cũng mỏi mắt chờ
liên lạc. Hôm nay là ngày thứ tám, sốt ruột tôi nói với Mừng, nghe có người ở
trong xóm nói: có người ra Phong Lai Nịu, Phong Lai Hà, tới chợ gặp mấy anh cán
bộ của mình, cả cái anh bộ đội đứng đầu (tôi đoán, có lẽ là anh Trần Chí Hiền
chăng). Tôi định ra chợ xem có gặp ai không!
Cũng như tôi, từ ngày có tiếng súng nổ giữa hai bên, không một
lần nào Mừng bàn bạc xem ai sẽ thắng… Chúng tôi chỉ biết một điều là ăn ở với
nhau sao cho có thủy có chung... Xa Huế một ngày, cách Huế một tấc Mừng như đứt
ruột, nhưng hễ có ai bảo “thôi về lại Huế đi” thì Mừng chỉ lắc đầu. Ở xóm Trường
Cửi, vây quanh cái vườn của gia đình Mừng là những người nghèo, sống bằng những
gánh củi, hay những gánh lá thông khô, đến mùa thuế khóa Mừng đã tận mắt nhìn một
người đàn ông bị treo cổ, vì không có tiền đóng thuế thân; gia đình Mừng là
dòng họ nhà vua, Tây cho miễn thuế. Gần bên nách vườn Mừng ở là chùa Linh
Quang, chính tay Mừng đem tờ khế vay tiền của vị sư trụ trì tên là ông Phúc Hậu,
cho vay lãi 3 phân.
Ngày 14 tháng 7 mỗi năm Tết độc lập của Tây, Mừng đi xem lễ,
tận mắt thấy những cây roi da của những tay sai của giặc Pháp, gọi là Cu-lít quất
từ trên đầu xuống chân những bà con nông thôn ngơ ngẩn đứng xem thiếu trật tự…
Những hình ảnh đó đã ăn sâu vào Mừng, cô bé 13 -14 tuổi, nhà
lại ở gần vườn cụ Phan Bội Châu, có hôm Mừng đòi ra thăm cụ Phan, mẹ Mừng hoảng
hồn: “Mày muốn tù rục xương à!”
Vì thế mà hôm nay Mừng bảo với tôi: Về nơi ấy có ở nhà vàng
em cũng không chịu!
Không đợi được người liên lạc mà cái ông chỉ huy hẹn, tôi bàn
với Mừng phải đi tìm…
Mặt trời lên độ cây sào, rạng rỡ như một người con gái mười bảy
phấn son, áo mớ ba mớ bảy… Nhưng mới ló mặt được một lúc, thì lại âm u, một luồng
gió lạnh ùn ùn thổi tới. Trên mình mặc một áo vải mỏng, với cái quần đùi lao
vào trong cát, hôm nay tôi mới nếm mùi, mới biết thế nào là cơn rét lộc tháng
ba. Giữa trưa, trời mờ mịt, cồn cát cao như những mái nhà, lần đầu tiên trong đời
tôi mới biết thế nào là trận gió cát; đi, hai mắt phải nhắm nghiền, gặp được một
mô đất, một lùm cây, lại ngồi nghỉ, tránh gió… Đi suốt một ngày, mà chỉ được
hơn mười cây số, trời nhá nhem tối, may quá, có một xóm nhà, tôi liền bước vào
một túp lều, le lói một ánh đèn, một bà mẹ, hoảng hốt, đứng sững nhìn tôi, hồi
lâu thấy tôi cóng rét mẹ bảo:
− Ngồi gần vào bếp đây, để mẹ cho củi thêm, hơ tay cho ấm!
Mẹ đoán là tôi đang đói, lấy một củ sắn dài lùi vô trong bếp…
Mẹ kể cảnh nhà, có hai thằng con trai cỡ bằng tôi đã “lên xanh” đến hơn tháng,
mà chẳng có tin tức gì của tụi nó…
Tây nó chưa đến, nhưng ban đêm, nghe ai động rèm cũng hết hồn!
Mẹ lót một ổ rơm cho tôi ngủ, cũng là lần đầu, một nhà thơ như tôi được ngủ ổ
rơm. Cả ngày đi, chống chọi với gió cát, đặt mình xuống là không hay biết gì,
ngủ thẳng một lèo. Mẹ đánh thức tôi khi gà mới bắt đầu gáy sáng, mẹ đã lùi sẵn
một củ sắn nóng hổi thơm phức, một bát nước chè xanh! Cả đêm mẹ không ngủ, hẳn
là mẹ thức canh giấc ngủ cho tôi!
Mẹ lục tìm trên bàn thờ, hai tay nâng cuốn Kiều, mẹ nhắm
mắt, khấn thầm hồi lâu, ngón tay trỏ mẹ chỉ vào một câu, mẹ bảo: Con đọc đi cho
mẹ, xem cô Kiều bảo ban mẹ cái gì?
Tôi hỏi mẹ, thế mẹ khấn điều gì? Mẹ đáp: Khấn gì thì con sẽ
biết!
Tôi đọc:
Xót con lòng nặng chì chì
Trước yên ông đã nằng nì thấp cao…
Mẹ lại giục tôi đọc tiếp đi…
Chút thân yếu liễu tơ đào
Rớp nhà nên nỗi mắc vào tôi ngươi
Từ đây góc bể bên trời
Nắng mưa thui thủi quê người: một thân…
Mẹ khóc khi tôi đọc câu cuối, Nắng mưa thui thủi quê người
một thân… tự nhiên tôi cũng không cầm được nước mắt! Mẹ nhìn trìu mến, tôi
gạt nước mắt, cố lấy lại bình tĩnh:
− Chắc cụ mình (Bác Hồ) sắp thương lượng với Pháp… Cụ
mình nói thắng là thắng, cấm có sai!
Sáng ấy tôi đã tìm ra được chợ Phong Lai. Hơn tháng trời tôi
cứ ngồi chết lạnh một nơi, chờ mong, trông, ngóng…
Tới đây, không khí khác hẳn, gặp rất nhiều người quen, trong
các quán, anh em ăn uống, tôi đã gặp anh Trần Chí Hiền, anh mừng rỡ, đưa đi ăn
cháo “bánh canh”. Tôi hỏi nhỏ tình hình, anh ghé vào tai tôi nói:
− Anh Nguyễn Chí Thanh, anh Nguyễn Sơn đang còn ở đây, cả
anh Hoàng Anh nữa!
− Có phải bộ đội chôn súng không?
Anh đáp: Có, chôn…
− Nhưng anh Hà Văn Lâu, anh Trần Quý Hai vừa nhổ đồn Đất
Đỏ, bắt tù binh Pháp, mấy chú bé liên lạc nghe tin, vứt dép lên trời, ôm
nhau cười đã!
Tôi lại hỏi:
− Có phải nhiều xã, cán bộ mang ấn tín chạy vọt ra Vinh
rồi không?
− Có cả, có, nhưng anh Nguyễn Chí Thanh đang tập trung
các cán bộ cơ sở ở khít sát đồn giặc, anh chị em đã thề bám chặt cơ sở, không
ai chạy nữa.
Tôi nghe tin, mừng lắm; anh Trần Chí Hiền nói với tôi:
− Các anh đã bàn đưa anh chị các cháu cùng gia đình anh
Phạm Doãn Điềm ra Vinh, cứ chờ, thôi gửi lời hỏi thăm chị Mừng…
Tôi trở về Văn Xá, thuật lại câu chuyện gặp bà mẹ ở cồn cát,
gặp các anh ở chợ Phong Lai. Mừng không tỏ ra vui hay buồn. Mừng bảo:
− Anh ra Vinh thì cứ đi, còn em ở lại đây.
Tôi thấy thế rất lạ, tại sao Mừng thay đổi tính nết… chắc có
chuyện gì đây…
Hồi lâu, Mừng thấy tôi buồn, không nói năng chi, liền báo cho
tôi cái tin… Hải đi liên lạc đã bị Tây bắt giam tại lao Thừa Phủ!
− Trời! Thằng bé hơn mười tuổi mà chúng không tha à?
Bé Nguyệt mắt buồn thiu, cầm hai tay em Chương Dương…
Tôi an ủi Mừng, Hải con nít, biết gì mà làm chính trị, tụi nó
giam vài hôm sẽ thả ra thôi!... Mừng vẫn thơ thẩn thở dài…
Ba hôm sau, anh Hoàng Thượng Khanh đã tìm chúng tôi báo tin,
anh Phạm Doãn Điềm sẽ vào Đà Nẵng, anh chị chẳng phải đi đâu nữa. Tối nay sẽ có
người đưa anh chị và các cháu lên chiến khu Hòa Mỹ.
Chương XVIII
“LÊN XANH”
Hôm đó, đường vượt qua để “lên xanh” có động, thành ra tôi đi
trước, còn Mừng và các con sẽ ở lại, lên sau… Đường trơn, bấm chặt, thế mà vẫn
cứ trượt lên trượt xuống, rất may chuyến đi trót lọt, qua bao đồn bót, mà chẳng
bị chúng phát hiện, cuối cùng tôi đã đặt chân đến chiến khu Hòa Mỹ. Tôi còn phải
ở tạm trạm gác ngoài chiến khu, có một hàng binh Nhật và thêm một tù binh Pháp.
Anh bạn Nhật, tôi không biết tên, người thấp, lưng hơi gù, mặt
hiền khô, đôi mắt trong sáng, rất lễ độ, lâu lâu lại cầm chổi quét dọn, – tôi
thấy nhà không có rác bẩn, hỏi anh bạn “sao anh cứ quét nhà mãi thế?”. Anh trả
lời:
− Bác Hồ bảo là “phải luôn luôn quét rác”.
Bên mình anh ta luôn luôn có cây kiếm dài, nhưng anh ta hẳn
không phải là một tay võ sĩ đạo, chẳng hề mổ bụng ai! Anh ta không phải là tù
binh như tên Rơ-nê người Pháp mà là hàng binh tự nguyện tìm đến quân đội vệ quốc
đoàn.
Tôi ăn gì, anh ăn nấy, có khoai ăn khoai, nằm đâu cũng được…
anh tâm sự, chỉ muốn ở lại Việt Nam làm lính cụ Hồ, nhưng rồi cũng phải bị bắt
về nước. Không hiểu hôm nay anh còn sống hay đã chết? Nếu tôi gặp lại anh,
không chừng anh đã là một tỷ phú Nhật Bản.
Còn Rơ-nê người tù binh Pháp cao to, bắt được ở đồn Đất Đỏ,
chờ chuyển ra Vinh, anh được cấp bộ đồ vải mới, để đưa ra vùng tự do, phòng khi
gặp được những nhà báo nước ngoài phỏng vấn.
Mấy anh quân trang bở hơi tai với cái anh tù binh này, vì
quân trang chỉ có may quần áo quân đội cỡ số 1, 2, 3, giờ đi cắt may cho một
tên người Pháp quá cỡ mặc phải đúng mốt… Rơ-nê thích kể chuyện, kể đi kể lại về
một cô em gái - “Em tôi xinh lắm, hôm em tôi tiễn tôi vào quân viễn chinh Pháp,
nó ngây thơ lắm, nó tưởng tiễn anh nó đi ra biển hứng gió, nó có biết là tôi sống
giữa bùn lầy, không bao giờ ra khỏi vùng thép gai. Em tôi nay chắc đã lấy chồng,
có con rồi!”
Tôi thương hại cái thằng tù binh Pháp, nghĩ thầm, tao đoán được
cái số phận của mày ra sao, khi cái nước Pháp nhà mày vẫn mãi mãi là tên thực
dân đế quốc!
Chờ vài hôm, tôi tạm biệt cái anh hàng binh, với tên tù binh
để vào trụ sở báo Giết Giặc - vì là cơ quan in ấn nên phải đóng
sâu ở chiến khu 6.
Tôi tạm ở với Hoàng Thượng Khanh, anh này đến buồn cười, cứ đến
ngày lễ hay chủ nhật, anh lôi bộ đồ tây ra vuốt vuốt cho thẳng nếp, mặc vào, đi
lui đi tới trên bờ suối, hai tay khi thì thọc túi quần bên trái, khi thì bên phải!
Ngắm nghía một mình, cười một mình. Gặp tôi, các anh Nguyễn Chí Thanh, Hoàng
Anh hỏi thăm Mừng và các cháu, có lẽ thấy tôi ăn mặc phong phanh các anh nói với
bà Quế cán bộ hậu cần của cơ quan xuất mấy thước ka-ki màu be, đưa cho anh em
quân trang may cho tôi một bộ. Anh em đo cắt may hai hôm, nhắn tôi đến mặc thử…
Các anh nhìn tôi cười trìu mến: “Ồ, nếu có chị Mừng trên này, ngắm nhà thơ”.
Mặc bộ ka-ki mới, tôi ngược lên một bờ suối ít người qua lại
ngồi nhớ Mừng…
Áo quần cuả người nữ sinh trường Đồng Khánh Huế, nay chỉ còn
lại một bộ đồ đen bạc màu…
Lúc còn ở Huế, Mừng thường dạy đàn cho các bà mệnh phụ hay
con gái các quan Thượng thư, tôi hay gặp Mừng ngồi trên xe nhà gọng đồng sáng
choang, khi thì áo màu cổ đồng, quần xa-tanh trắng xếp “ba con”, hôm thì áo màu
đọt chuối non v.v… thế mà chừ đây chỉ còn một bộ đồ vải thô đen…
Sau này, Mừng kể lại cho tôi biết cái đoạn nằm chờ ở xóm Rú…
Mỗi lần nghe có tụi Tây đi cách xa xóm là mấy mẹ con niệm Phật. Mừng cười: Tuy
là em bỏ ăn chay từ khi đi hoạt động phụ nữ, thế mà nhờ có niệm Phật nó cũng đỡ
sợ phần nào…
Tôi nóng ruột, muốn đề nghị đi công tác một chuyến xem tình
hình của Mừng ra sao!
Rất may định đề đạt ý kiến với các anh, thì có đoàn áp tải
lên có thư Mừng:
“Ngày nào ba mẹ con cũng lên cồn nhìn “lên xanh”, không biết
giờ này anh đang làm gì? Hải đã về được với anh chưa? Hay còn bị giam? Ăn ngày
hai bữa sắn là chủ yếu. Xóm ấp cho bao nhiêu ăn bấy nhiêu. Chiều hoàng hôn xuống,
ba mẹ con ra săn “bọ vừng”, Nguyệt có hôm cũng quật được vài con. Đem về nướng
mấy mẹ con ăn với nhau, thịt thơm quá! Ngày nào, từ sáng sớm, ba mẹ con cũng dắt
nhau ra ngoài rừng cắt chổi ràng ràng. Cái giường có những cái vạt cong queo nằm
cấn lưng em không ngủ được. Thế là phải đi bứt chổi ràng lót dày mới êm lưng ngủ
một mạch. Có ngày, ra ngoài rừng hái được một ít quả sim, cho Dương. Dương mừng
quá! Nhìn Nguyệt ăn sim tím cả môi. Hôm nào nhà chú Hoạch nấu cháo tấm với củ
khoai môn, hương bốc lên, em nhìn vào nồi cháo thèm quá! Em phải kéo chúng ra,
cho chúng khỏi nhìn con chú Hoạch ăn. Thằng Dương khóc đòi ăn, em thương quá
không sao chịu được! Anh đi 28 ngày rồi mà chưa có tin, ba mẹ con em đến bao giờ
“lên xanh” được?”
Nhưng rồi Mừng cũng sắp “lên xanh” được với tôi. Tin này, anh
Nguyễn Hồng, nhạc sĩ đem về. Ai nghe cũng mừng cho tôi! Nguyễn Hữu Chỉnh, Lê
Khánh Căn, Ẩn, Mô, Khanh… mình đầy ghẻ ruồi, thân hình người nào người nấy lép
như ve, nghe tin Mừng lên cũng mừng rối rít. Từ chiến khu 6 tôi ra tận Hòa Mỹ để
đón Mừng và các con!
Tôi xuống “dốc bà Quế” tôi tưởng như trước mắt được gặp lại Mừng
đang lên dốc. Tôi sợ gặp Mừng tôi sẽ rụng rời tay chân không đi được. Từ ngày
chúng tôi trốn ra đi với nhau có thể nói chúng tôi lúc nào cũng ở cạnh nhau!
Trong một chiếc thuyền, hay trong một ổ rơm, chúng tôi đều ở bên nhau, tay kề,
đầu gối, khi nắng, khi mưa, khi no, khi đói, chúng tôi vẫn không rời nhau…
Nhưng từ ngày tôi tạm biệt Mừng đi lên chiến khu trước, kể đến
hôm nay đã 30 ngày 30 đêm rồi chúng tôi xa nhau, không có nhau.
Từ sâu trên núi xanh, tôi vẫn nhìn về đường số Một và tự hỏi:
“Những tên lính lê dương đã sục tới chưa?” Có đứa nào đã sục vào nhà em ở? Xóm
em ở “tề” đã xuất hiện chưa? Chúng có cho em một giấc ngủ yên? Lại còn bữa cơm
em ăn, con ăn, lại manh áo em mặc, con mặc… Tưởng như lúc nào anh cũng có thể mất
em, mất con… không mất trong tay giặc thì cũng có thể mất trong cái đói, cái lạnh!
Có những đêm anh không ngủ được, ra khỏi lều nhìn quanh chỉ thấy cây là cây.
Nhìn lên, may ra mới thấy được “một con đường trở lên trời”. Cuối đường thăm thẳm
chỉ còn thấy được vài ngôi sao! Trời xanh và hai vì sao như hai viên ngọc bích!
Ôi! Một sự cô quạnh đầy hào quang. Càng nhìn lên các vì sao, càng thấy cô đơn lạnh
lẽo. Và những đêm ùn ùn từng cơn gió - rừng tối đen một màu. Tiếng suối ào ào
như đổ vào dưới chân lều. Những cây đổ từ bốn phía, bất thần có thể đè lên lúc
nào đó…
Sau này, Mừng cho biết, cũng có những ngày, những đêm hãi
hùng như thế: “Tiếng giày đinh như đã bước vào trước sân. Khi chúng đã bước xa
rồi mà tưởng như chúng còn đứng đâu sau lưng mình. Mình cứ thu người lại, ngồi
khơi que củi bên bếp lửa”.
“Lại có đêm dông, “mưa mô, gió nấy”, cứ phải dời đi, tránh chỗ
động vào chỗ yên. Ai qua tưởng đang lách qua “bốt” giặc. Hải có trốn được
không? Có tin rằng: con đã bị bịt mắt, bị bắn rồi. Sống khôn, chết thiêng con
hãy phù hộ cho mợ…”
Gần nhau thì đất rung, trời sập cũng chả sợ. Xa nhau một chiếc
lá rơi, một cái que động cũng giật mình sợ hãi. Tưởng lúc nào cũng có thể chết
được, có thể mất nhau. Tưởng tượng cái lúc tiếng súng lặng yên về tìm nhau…
Thương cái thương, nhớ cái nhớ, tưởng tượng cái thương cái nhớ
của người về mà bóng người xưa không thấy! Cầu Trời cầu Phật đã cho thương, cho
nhớ, cho gối cho chăn, sao lại bày ra mưa ra bão?
Thật ra chúng tôi chỉ xa nhau không hơn một tháng trời, mà tưởng
như nhiều năm tháng đã trôi qua!
Từ hôm qua, anh Hồng nhạc sĩ đã bảo là: hôm nay một chuyến gạo
bí lên. Mừng đi theo chuyến đó, tôi cứ xôn xao ngồi đứng không yên…
Tôi tưởng như trước mặt, Mừng đang tiến vào cửa chiến khu. Vẫn
là thế đấy. Mừng ẵm thằng Dương, Nguyệt níu chéo áo Mừng. Còn cái xe bốn bánh ấy
ai sẽ đẩy giùm. Trên xe vẫn cái cuốn an-bom, bức tranh của nhà họa sĩ không biết
sống chết đâu rồi… Và cái đàn tranh vẫn đủ phím dây. Tất cả những cái đó chỉ là
chuyện trong mơ. Sự thật chỉ có một mình Mừng với Dương trên tay, đã tiến lên
trước mặt tôi, Nguyệt đâu? Cây đàn tranh, cái bức tranh? Tất cả đâu rồi? Tôi chỉ
đưa mắt hỏi. Mừng chỉ biết đáp lại bằng một cái nhìn khó hiểu. Cuối cùng như
sau cuộc hành trình quá sức mình Mừng ngồi trệt xuống và chỉ biết khóc…
Chương XIX
EM LUYỆN CHO BAO CHÂU NGỌC SẼ VỀ VỚI CHỊ
Tặng người bạn thơ vong niên Nguyễn Lưu từ trời Paris đầy tuyết
vẫn đêm ngày khắc khoải hướng về quê hương một tiếng hát đầy nhớ thương không đứt
đoạn
Lưu Trọng Lư
Lên chiến khu tôi làm việc ở báo Giết Giặc. Mừng phụ
trách kho bí. Cơ quan in báo phải đóng ở kín sâu trong rừng. Kho bí nơi Mừng
làm việc ở lưng chừng núi, gần Hòa Mỹ, nơi tiếp xúc giữa chiến khu và đồng bằng.
Tuy làm việc hai nơi nhưng chúng tôi vẫn ở chung một lều trên
cây. Có người gọi là một ổ uyên ương. Tôi gọi là “ổ ác là”. Chả hiểu sao tôi gọi
vậy. Có lẽ là để nhớ lại cái thời thơ ấu, tôi theo mấy đứa trẻ trong xóm, trèo
tận ngọn cây đa phá những ổ ác là, “phá” cho vui thế thôi. Khi tôi ở đồng bằng
tôi học viết ca dao, chừ tôi ngồi trên lều cao, nhìn sao rơi làm thơ đánh giặc.
Mừng đã từng là cô gái làm vườn, không sợ lao động, nhưng việc nhà nông cái gì
cũng phải học. Học sàng học sảy, học chít khăn bao tóc cho khỏi bụi cám.
Tôi không hiểu do đâu, Mừng thích ứng rất nhanh với cuộc sống
chiến khu. Tôi nhìn Mừng và nuốt cơm mốc với “nước ruốc” khuấy lỏng một cách
ngon lành. Có lúc không có gạo, chỉ có sắn. Sắn “dính” một ít cơm, cúng tôi gọi
là “sắn cõng cơm”. Tôi nhiều lần gặp Mừng, khi còn ở Huế, ngồi trên chiếc xe
nhà bóng loáng. Bây giờ Mừng chỉ còn một bộ đồ áo đen cũ đã bạc màu, không biết
Mừng có nhớ gì về những ngày ấy không? Nước da Mừng nay đã ngả màu xanh tàu lá
chuối: “sốt rét” chả kiêng nể một ai. Vì nó, có cô gái đã điên. Mừng có cái
gương trong túi, không dám giở ra soi, khi qua suối cũng ngại ngắm mình lâu.
Mừng hay đọc mấy câu thơ của tôi về O tiếp tế để
đùa tôi:
Mặt soi xuống nước
Cúc áo vội cài
Nhém lại tóc mai
O vừa chợt thấy
Xuân gày ba bảy
Da tuyết vàng khè
O sợ chồng chê
Nhưng O vẫn bước
Mình lo việc nước
Chồng chê “mược” chồng!
Mừng nói: “Mược” nghe Huế quá, khuyên nghìn cái khuyên trên
chữ “mược” ấy cũng đáng.Thật ra đau phải là chuyện một chữ “mược”! Mừng cũng
không hẳn giấu được chút gợn buồn khi soi vào dòng nước hay nhìn vào gương. Khổ
mấy rồi cũng quen, nhưng để rơi đi tuổi xuân, người con gái còn gì?
Có lần Mừng nói: “Nửa đêm chợt tỉnh dậy thấy một bóng trắng đến
bên mình chưa kịp mơ màng bâng khuâng, đôi mắt đã ríu lại”. Chả là vì cả ngày
làm việc nhiều, đêm mệt quay ra ngủ. Cứ độ 15 hôm có chuyến bí đỏ tải từ đồng bằng
lên. Chiến sĩ cán bộ bị sốt rét, mặt người nào người nấy xanh xao. Bí đỏ là thuốc
“hồi sinh” và hồi xuân mang lại sắc hồng tươi cho các cô gái các chàng trai.
Sáng dậy mẹ Thẩm móc nôi của cháu Dương vào giàn bí. Trên nôi mẹ treo một chùm
chìa khóa kêu leng keng cả ngày. Thằng bé mở mắt ra, tai nghe tiếng chìa khóa,
quên khóc, quên đòi mẹ. Còn Mừng như một bác sĩ lên giàn xuống giàn, đi hết
vòng này qua vòng khác “khám” từng con bệnh. Mừng thương giàn bí chẳng khác nào
bầy con dại của mình. Đứa thì đứt cuống, đứa thì trầy da, đứa bị thâm bên hông,
đứa bị thối từ dưới bụng. Ngoài việc chăm sóc giàn bí, Mừng còn giúp anh Hòa
phơi phóng những xiêm áo mũ mãng của các vua quan Nam triều mang cất giấu nơi
đây. Hia hốt có bụi bậm thì Mừng lau chùi…
Việc chính vẫn là chịu trách nhiệm về từng sinh mạng quả bí.
Tôi hỏi đùa: “Cả ngày đã bí đêm lại nằm chiêm bao thấy bí hóa
người”. Mừng cười như nắc nẻ: “Sẽ đến lúc hóa bí, sẽ ngu đần”. Thật ra đâu phải
thế, sống giữa cây giữa đá giữa khe, lòng thanh thản lạ thường. Ngày nắng, tôi
nằm phơi trên tảng đá, chân chao dưới nước, nghe vài tiếng chim hót, những lúc
như thế con người với sự suy nghĩ của mình, thật là lớn lao. Sáng tác thơ văn
đưa lại cho mình nhiều hứng thú. Thiên nhiên ban phát cho con người, con người
trả lại cho thiên nhiên. Cuộc sống được điều hòa, sao không gọi được đó là hạnh
phúc? Khi ở đồng bằng, bắt được con bọ vừng nướng lên cả trời đất thơm phức.
Lên trên này câu được một con cá, luộc đi, chấm một tí nước muối, không bữa cơm
trần gian nào sánh nổi!
Anh Hoàng Anh, chủ tịch tỉnh Thừa Thiên bắn được một con kỳ
đà kêu đúng tên Mừng trao tận tay. Người cho vui không kém người nhận. Không có
mỡ lấy mỡ nó chiên nó. Thịt nó thơm hơn thịt gà.
Một hôm bộ đội bắn được một con bò tót. Cả chiến khu đang
thèm mỡ vui được một bữa hả hê. Ba hôm sau bộ đội lại hạ một lúc ba con voi to.
Cả chiến khu khắp trên những tảng đá đâu đâu cũng đem phơi những thịt voi ăn
không hết. Trong bụng một con voi cái có cả một con voi gần bằng một con “heo rừng”,
da nó láng xầy, “đỏng” chân nó ăn dòn như xương cá đuối.
Sau khi hạ ba con voi đó, đúng ba hôm sau trên đường đi từ
kho bí ra Hòa Mỹ, trên một đường mòn tôi chợt thấy mấy bị muối tung tóe. Tôi
nghĩ bụng Tây phục kích ư? Tôi ép mình vào một thân cây nín thở. Chợt có một ngọn
gió làm lao xao cành lá. Trước mặt tôi tiến lên một con voi rồi hai ba con, rồi
mười con, như những ngôi nhà di động. Đất dưới chân tôi rầm rầm rung chuyển.
Ngày hôm sau chúng tôi được tin, để trả thù cho ba con voi bị
bắn, bầy voi kia chỉnh tề hàng ngũ đã tiến về phía văn phòng chính trị tiểu
đoàn. Chúng đã phá nát cơ quan tiểu đoàn bộ. Không phải chỉ có những con thú khổng
lồ đó mới làm chúng tôi kinh hãi. Con vắt, con mọt lá, rắn rết có khi còn làm
cho chúng tôi ớn lạnh hơn là cặp nanh voi bằng ngà, cái vòi nhổ từng gốc cây
làm nên trận gió. Cái ban ngày sáng bạch tưởng như không có gì đáng sợ cả,
nhưng khi cái bóng đêm dày đặc kéo về từng vạt thảm lân tinh trải rộng làm cho
mình hoảng sợ cả nơi mình quen sống. Đêm nằm lều quá vắng không ngủ được nghe
ngoài rừng từng cơn gió ầm ầm như có đại đội binh mã tiến lên. Từng hàng cây mục
ào ào đổ, một cuộc “sát phạt nhau không thương tiếc”, có thể bất kỳ lúc nào từng
cây to sắp ngã xuống đè bẹp cái lều bé nhỏ của mình. Đêm đốt bao nhiêu lửa cũng
thấy không yên lòng.
Sau này có lúc Mừng nói với tôi: khi tôi đi vắng, có đêm thú
dữ đến cà lưng vào “cột lều”. Lại có khi trời im ắng, một tiếng côn trùng mà
như náo động cả không gian.
Đã bốn hôm rồi, trong túi tôi đã có giấy triệu tập ra họp ở
ngoài khu ủy. Ra khu ủy rồi có thể sẽ ra tận Việt Bắc. Một chuyến đi mất ba bốn
tháng liền cũng nên. Cái lều cao nơi tôi đã từng ngồi nhìn trời sao làm mấy vần
thơ, cái lều ấy tôi sẽ gửi cho cả cho Mừng với mụn con thơ ư? Mừng không thiếu
dũng cảm, tôi biết, nhưng một phụ nữ đêm đêm giữa một cõi vắng tanh như thế,
nghĩ tới tôi không thể không rùng mình. Tôi chẳng muốn rời cái lều cao này dẫu
chỉ là một đêm. Khi hai người bên nhau, những ngôi sao trên trời là những ngọn
nến, nhưng khi quạnh vắng một mình, sông Ngân Hà là dòng sông ma quỷ.
Tôi đã nghe biết bao chuyện anh hùng của những người con gái
cùng tuổi với Mừng vùng chiến tranh, nhưng họ là họ chứ không phải là Mừng. Nếu
tôi khuyên Mừng nên sống tập thể ở một gian phụ nữ thì hẳn là điều Mừng không
thể tha thứ cho tôi.
Thuở ấy cái gì cũng thuộc về tập thể, không phải tùy tiện
đánh giá sự anh hùng của tập thể. Tôi nhớ ngày đọc Trường ca hận của
Bạch Cư Dị có câu thơ tả cô gái đẹp Dương Quý Phi “Kiều vô lực” - đẹp
quá đến nỗi không cất tay nhấc chân đứng lên đi lại được. Người con gái trong
mơ ước của nhà thơ càng mỏng manh, càng mảnh khảnh, càng thướt tha, càng mê mẩn.
Chả phải có người nhìn mười ngón tay người đẹp sần sùi đi vì
lao động mà thương đó sao? Mỗi lần nhìn Mừng ngồi giữa đám gái quê cùng tuổi,
tôi thấy tiếng cười, nước mắt, cách nói, cách ăn của họ lẫn vào nhau như từ
cùng một mẹ sinh ra. Họ thực giống nhau mà khi họ ngủ, càng giống nhau… Cả ngày
làm việc mệt, tối kê đầu lên cánh tay mà ngủ, cái khác nhau có lẽ là cái đang lắng
sâu trong tâm hồn chưa tĩnh lại.
Vâng, cái khác nhau đó, đang ngủ, chỉ vài lần hiếm hoi tôi mới
chợt thấy được giọt nước mắt gạt rất nhanh trên tay người nữ sinh hôm qua. Tôi
sợ khi tôi đi vắng sẽ có cái giây phút mái tóc xanh ấy bất ngờ tỉnh dậy kinh
hoàng giữa rừng lạ.
Tuy vậy, khi Mừng đã biết rõ tôi sắp đi xa Mừng vẫn thanh thản
ngồi vá lại những chỗ sờn rách trên tấm áo tôi. Thật ra tôi quên rằng: Vợ tôi
đã qua nhiều ngày tháng gian khổ. Khổ phiền cho tôi là có những người xung
quanh vẫn chỉ muốn thương hại những kỹ sư dược dĩ và cả bầy con gái mảnh khảnh
thướt tha trong ty bào chế.
Trước khi tôi lên đường, một người bạn tôi ở Hòa Mỹ vào tận lều
thăm chúng tôi.
Anh Lê Trọng Nghĩa cùng với một nhóm cán bộ trí thức các cơ
quan văn hóa tuyên truyền ở chiến khu là những người đã dựng lên một cái nhà gọi
là “nhà đại chúng”. Đa số những người này là những học sinh đi kháng chiến,
trong đó có người có tài năng, có học vấn. Lê Khánh Căn còn là một chàng trai
búng ra sữa mà đã nắm được nhiều vấn đề, trình bày thông suốt hấp dẫn. Nguyễn Hữu
Chỉnh thường chỉ tỏ ra say toán học, khoa học, nhưng bây giờ đã khéo giấu miệng
lưỡi sắc sảo khi bình những vấn đề quốc tế lớn lao và biết giấu sâu hơn nữa những
câu thơ tình không phải chỉ là ướt át. Có những nhà thơ như Vĩnh Mai viết những
bài thơ trào phúng dí dỏm sâu sắc. Tất cả bị cái gian khổ chiến khu làm cho
mình mẩy róc khô đen đủi ghẻ lở. Nhưng tất cả chẳng khác nào đã lộ những đóa
hoa tươi rói. Quên sao được nhạc sĩ Nguyễn Hồng, một tâm hồn trong sáng, vừa là
cánh hoa mà cũng là giọt sương. Giữa một sáng thu, cả cái tài năng mơn mởn ấy bị
một viên đạn “văn minh” nhằm trúng, cả một cành hoa gãy ngang ngay giữa chiến
trường vào cái giờ sương vừa đọng lại… Không phải là bà con mà họ sống với nhau
như ruột thịt một nhà, thương yêu nhau, ôm ấp nhau, che chở nhau. Một sự đầm ấm
thiêng liêng như chưa bao giờ tôi được thấy giữa cuộc đời từ ngày lớn lên trong
lòng mẹ. Tất cả là người miền Trung, riêng anh Lê Trung Nghĩa là người Lục tỉnh
dạt tới đây và đóng một vai trò đặc biệt.
Anh là phóng viên nổi tiếng của một tờ báo chữ Pháp ở Sài
Gòn. Anh vừa viết báo vừa có khiếu vẽ. Hình như ông thân sinh ra anh là một
viên quan trong triều có một đồn điền cách Huế độ 50 cây số. Anh có người vợ
lai Pháp và có một đứa con gái độ mười tuổi. Trong trận nhổ đồn Đất Đỏ anh có cộng
tác với trung đoàn 101. Anh ở lại Hòa Mỹ và trở nên một người kháng chiến địa
phương. Anh lo việc hành chính, vợ anh mở một quán hàng. Anh người Sài Gòn mà
có vẻ phong lưu quý tộc, đối với phụ nữ anh rất lịch sự. Anh vào tìm chúng tôi
trên tay một gói nhỏ: “Kencờ đu-xưa cho chị Mừng”. Một tiếng Pháp “dẻo deo” rất
miền Nam. Thì ra anh tặng Mừng một gói kẹo ngọt do chị Nghĩa chế biến. Dọc đường
anh đã ngắt được một cành hoa tím và khi bước lên lều, anh trân trọng tìm cắm
vào một “lọ đạn”.
− Xin tặng người công chúa Huế!
Mừng đáp lại vẫn với cái giọng thẳng thắn thật thà:
− Tôi đâu phải là công chúa! Cũng có máu hoàng gia đấy,
từ đời chúa Nguyễn xa xề, ba tôi vẫn khấn “Gia Miêu ngoại trang Thanh Hóa”.
Chúa Nguyễn từ Thanh Hóa vào nhưng tôi có bao giờ biết Thanh Hóa là ở mô?
“Công chúa” nhìn cách ăn mặc nghèo thiếu của mình rồi
cũng cười với mọi người. Mừng cũng đã qua những cơn sốt rét, da dẻ đã ngả màu.
Anh Nghĩa đỡ lời:
− Trông chị Mừng bao giờ cũng diêm dúa.
Trong những ngày gian khổ nhất Mừng không bao giờ để một mái
tóc rối tung mà không chải, một miếng áo rách mà không vá đẹp, một cái khuy lơi
mà không cài. Mừng từng cãi lại anh Nghĩa: “Nếu ông trời chẳng nới hầu bao thì
mình chả có gì đâu”. Thật vậy, cái duyên trời chẳng có cho, làm sao mình tự làm
lấy được!
Anh Nghĩa không phải "thừa ưa" mà mở một lời khen nịnh.
Anh có cả một triết lý ở đời. Anh nói:
− Từ khi có các chị ở Ty bào chế lên đây, màu áo tím hồng
của các chị ấy có phấp phới giữa núi rừng, lòng người thêm vui. Tôi ở rừng quen
khi có chút nắng hửng, ngồi nhìn hội bướm bên khe, mình cũng như được vui với
bướm.
Mừng gật đầu. Anh Nghĩa nói thêm với tôi, nên bớt đi những tiếng
thét giết giặc mà thêm nhiều màu áo xanh tím. Chúng tôi đều cười sung sướng… Thật
vậy trong bom đạn núi rừng, trong gian nan cơm muối mà có nhiều nụ cười duyên
dáng của chị em, nhiều tà áo phấp phới, nhiều câu thơ tình, cuộc đời đáng sống!
Anh Nghĩa thường dùng một câu nói lịch sự dễ thương: “Cám ơn, cám ơn các chị,
các em, các công chúa, các tiểu thư”, ai muốn hiểu sao thì hiểu. Riêng đối với
Mừng, có lần anh đã nói: “Chị Mừng có cả một bầu trời xanh ngắt, những dòng suối
trong veo, kinh đô của nhà vua không cao sang bằng chiến khu này, những thân
cây đủ dáng đẹp, những tảng đá như ngai vàng, có bầy chim tấu nhạc chúng mình
có cả một triều đình ở đây, đủ các cung tần mỹ nữ, cỏ lạ hoa thơm. Nếu kháng
chiến kéo dài cả trăm năm, nghìn năm tôi không sợ”. Những lời nói đẹp ấy đã làm
cho ai nấy vui trẻ. Vì thế chúng tôi đã có một ngôi nhà “đại chúng” ở ngoài chiến
khu. Ngày chủ nhật hay ngày lễ, nơi đây có ca nhạc, có ngâm thơ, có tranh luận
văn học, v.v…
Cái không khí ấy đã làm cho những con người ở đây tuy thiếu
thốn đủ mọi thứ, cơm sắn còn lưng bụng, áo thô chưa đủ ấm cật, mà lại đủ sức
anh hùng giết giặc. Kẻ thù của chúng tôi rất văn minh, rất hoa lệ. Nhưng chúng
tôi cũng có ở đây một nền văn hóa của mình. Thật là kinh khủng, khi hôm nay
trong một buổi họp, một bữa cơm, một chuyện đùa bên suối rồi ngày mai một giọng
nói một nụ cười, một dáng đi không trở lại, không bao giờ trở lại nữa! Nhưng dù
sao chúng ta qua mỗi ngày, qua mỗi sáng qua mỗi chiều vẫn đọc nổi một trang
sách đẹp, vẫn rửa rất sạch một đôi đũa, một cái bát, vẫn nuốt đẹp một bữa cơm
"cõng sắn" và tối đến chúng ta vẫn ngẩng lên nhìn những vì sao…
Anh Nghĩa, anh có biết không, sáng qua không biết là sáng thứ
mấy, những nàng công chúa của anh nghiêng đầu trên những cuốn an-bom đã rách
nát đổ từng giọt nước mắt trên ảnh một chiếc áo tím nữ sinh? Vâng, họ là những
cô gái đang nghèo thiếu nhưng họ cao sang như những thiên thần vì họ có hào
quang cách mạng lấp lánh trên mái tóc. “Hãy cám ơn họ” - tôi nghĩ
trong bụng như thế. Và sáng nay tôi xốc ba-lô lên vai, bay trên bao đèo suối với
đôi cánh đại bàng. Tôi vốn là một thư sinh bé nhỏ, ra đi nhẹ nhõm không ngoảnh
lại. Có thể Mừng sáng nay cũng chả bế con nhìn theo. Tôi chỉ biết tôi để lại đằng
sau một túp lều cây “đạo sĩ”. Mỗi ngày tôi dậy đi với mặt trời cho đến khi mặt
trời lặn là tôi nghỉ.
Đó là trạm mỗi ngày của tôi, và sẽ không biết bao nhiêu trạm
“mỗi ngày” như thế tôi sẽ trải qua!
Công việc chung gọi đằng trước, nhưng tôi cũng mong được trở
lại sớm với cái lều rất tội nghiệp kia. Tôi nghĩ đến chuyện phải rút ngắn dặm
đường. Tôi nảy ra quyết tâm đi đường biển. Từ núi xuống biển tôi phải chạy qua
đường quốc lộ Một. Chỗ chúng tôi đi qua là giữa hai cái đồn Pháp đóng, người dẫn
đường dặn tôi: “Chớ nghe tiếng súng mà vội chạy, có khi chúng nó ngủ, thức dậy
bắn vu vơ thế thôi, chỉ khi nào thấy tôi chạy anh mới chạy theo nghe không?”
Vào khoảng chập choạng, chúng tôi vượt qua quốc lộ Một. Giờ này có thể là giờ bất
ngờ nhất. Chân tôi vừa đạp xuống đường nhựa mà sao mát mẻ sung sướng thế chân
ơi!
Tôi nghĩ giá có cách gì dọc theo đường số Một đi một mạch đến
khu Bốn đất tự do thì sướng thật. Vút như một tên bắn chúng tôi đã rẽ ngang đường
nhựa. Từ đó đi bộ 4 - 5 cây số nữa chúng tôi đến Chợ Cạn, đến biển xanh rồi. Ở
đây ban ngày bề ngoài giặc kiểm soát, ban đêm ta làm chủ. Trên cát trắng dưới
ánh nắng chiều vàng tôi thấy từng vệt máu đỏ, vệt máu đỏ của nhân dân tôi dưới
làn đạn giặc!
Năm 1946, từ ngày 2/9 đến bây giờ tôi mới biết được khí trời,
khí biển. Tôi vốc cát, tôi nhảy với sóng, tôi vẫy vùng chân tay lặn hụp, hoàn
toàn trong nước. Tôi thấm cái vị chát chát trên môi, tắm xong tôi nằm như
chết trên bãi biển. Tôi lại nhớ cái buổi chiều năm nào tôi lên thăm Mừng ở Trường
Cửi, Mừng múc chuyển từng gàu nước giếng mát rượi vào trong chậu cho tôi gội,
tôi tắm. Giờ phút này tôi một mình trên biển, còn Mừng cũng giờ phút này ở sâu
trong núi xanh một mình, tìm từng ngôi sao trên trời. Kia một góc trời, đây một
biển cả. Tôi nhìn lên trời nhớ câu thơ của Nguyễn Du “Mày ai trăng mới in
ngần”. Tôi nhớ Mừng quá, cứ như tay vẫy một cái là cái “trăng ngần” kia,
cái “mày ngài” ấy rơi vào lòng tôi ngay.
Sau này tôi kể lại với Mừng là tôi có làm một bài thơ về vầng
trăng Chợ Cạn đêm ấy, nhưng trọn cả bài thơ tôi không sao nhớ nổi. Trong đầu óc
tôi chỉ còn lại trơ trụi hai câu:
Đêm, mắt nhìn quanh bốn phía
Nhìn phương mô cũng thấy lược em cài.
Những mảnh trăng khắp nơi như sắp rơi xuống bãi cát mênh mông
này, rơi trên khắp người tôi, giữa ngực tôi. Sau một đêm nằm với biển sóng,
sáng mờ mờ trong sương mù chúng tôi xuống thuyền, cầu mong sao cho sương mù dày
đặc lâu tan để thuyền chúng tôi ngang dọc giữa biển khơi. Nhưng thuyền dong được
một giờ thì sương mù tan nhanh. Một mặt trời đỏ đáng sợ hiện ra trước mặt chúng
tôi… Làm sao thổi tắt được cái đèn khổng lồ đó!
Bất ngờ cách thuyền chúng tôi độ ba bốn trăm thước một chiếc
tàu nhỏ của giặc sừng sững cứ như tiến thẳng trước thuyền của chúng tôi. Cả
thuyền chúng tôi như chòng chành vì hoảng sợ. Tôi cùng với anh huyện đội trưởng
dân quân huyện hội ý, anh liền đứng lên dõng dạc ra lệnh: “Cứ thẳng mũi, tiến tới
về phía tàu”. Rồi thuyền chúng tôi cứ đường hoàng rẽ sóng thẳng tiến thẳng tới
tàu giặc. Rồi tàu giặc cứ đi hướng của nó còn thuyền chúng tôi đi theo hướng
chúng tôi… Vượt ra khỏi nguy hiểm cả tàu mới tỉnh hồn. Giữa lúc ấy chúng tôi
chòng chành do dự có ý tránh né thì có lẽ chúng nghi ngờ mà ra lệnh cho thuyền
chúng tôi đến gần để chúng tóm hết. Chúng tôi nắm chắc rằng đang đến hải phận
Quảng Bình. Thuyền băng được mấy dặm nữa thì gặp một đám thuyền vùng địch đang
bủa lưới. Họ là hai thuyền buồm, chợt thấy thuyền chúng tôi là thuyền có ba buồm
liền nói to: “Có phải Hồ Chí Minh không?”. Chúng tôi đáp: “Hồ Chí Minh”. Tất cả
đồng bào vỗ tay hô to: Hồ Chí Minh muôn năm! Chẳng khác nào một cuộc biểu tình
trên biển. Đồng bào bèn bảo chúng tôi phải tạm lánh vào bãi dương ngay, sợ rằng
giờ này là giờ ca-nô giặc đi tuần, thấy thuyền ba buồm là chúng tóm ngay!
Chúng tôi theo lời bà con, tạm lánh vào một bãi dương xanh
hoang mang không biết biển ta hay “tề”? Vào đến bãi dương, chúng tôi thấy vài
bóng đàn ông đi qua, chúng tôi chưa dám hỏi, đợi có một phụ nữ đến gần, chúng
tôi hỏi đây có phải là vùng tề? Chị cười xòa đáp: “Tề mô ở đây, đây là “miềng”
hết!”. Giọng quê Quảng Bình trăm phần trăm. Chúng tôi mừng quá. Một lúc sau, bà
con chạy ra đón chúng tôi, mang cho cá mực và một chai rượu, chúng tôi nhậu với
nhau. Cũng chả biết tên thôn này là gì, bà con đều lạ mặt nhưng biết chúng tôi
là cán bộ cụ Hồ rất mừng ôm nhau chẳng khác nào ruột thịt!
Đến tối chia tay đồng bào, có những bàn tay nắm chặt! Thuyền
chúng tôi lại dong buồm. Trời chưa sáng tỏ, thuyền đã ra khỏi vùng kiểm tra của
giặc Pháp, rồi vượt luôn đèo Ngang, đến đất Kỳ Anh, rồi vào cửa Nhượng Bạn, tới
đất tự do của mình rồi!
Chao ôi! Mới có hai năm mà nơi đây, ăn ra ăn, ngủ ra ngủ, nói
ra nói, cười ra cười. Có người trong bọn tôi nói: “Mới hai năm sống nơi “địch hậu”
mà tưởng như dài một nửa đời người”. Ra đến nơi khu ủy đóng, cũng có đến trên
trăm cây số. Ba-lô lên lưng tôi thênh thang trên quốc lộ nhịp nhàng mà săn dòn
chân bước. Ngày hôm sau, lặp lại y như ngày hôm trước mà vẫn dạt dào hào hứng!
Ra Nghệ An ít hôm lại tiếp ra Thanh Hóa, rồi lại tiếp tục đi, qua sông Mã, qua
sông Đà, qua sông Hồng. Từ Phú Thọ đến Tuyên Quang, vào tận an toàn khu thủ đô
Việt Bắc, thế rồi bất ngờ cuộc họp hoãn, chúng tôi quay 180 độ, ba lô trên vai
trở về nơi mình ra đi.
Từ Việt Bắc, thủ đô xanh của Việt Nam dân chủ cộng hòa, về lại
chiến khu Hòa Mỹ của tôi mấy nghìn cây số? Ai đo, ai biết được? Vì đâu phải con
đường thẳng tắp mà có thể đo được, là đường rừng khúc khuỷu quanh co, khi đèo
khi suối, khi không giặc thì cứ thẳng mà đi, khi động giặc phải vào, ra, tiến,
lùi, lên, xuống, phải tùy cơ đối phó. Có khi chỉ một khúc đường ngắn, chỉ lách
vài mái chèo mà lại phải đợi chờ trốn tránh đến 5 - 7 hôm, hay bỏ ngắn mua dài
không ai tính được! Lại cơn mưa lụt bất ngờ, đang nghỉ nơi này, lại phải băng
qua chỗ khác. Có điều chắc chắn là mỗi ngày khi ba-lô khoác lên vai, mỗi tối là
phải hạ ba-lô tới một trạm khác. Đường đi không thể đo bằng cột mét, mà phải
tính bằng ngày đêm đã trải qua!
Tôi nhớ từ thủ đô Việt Bắc, mới đi được hai ngày hai đêm đến
trạm nghỉ, vừa mới đặt ba-lô xuống, cởi áo ngồi hơ bên bếp lửa đỏ rực thì báo động:
Bọn giặc ở Trung Hà sắp sửa hành quân, không hiểu chúng sẽ đi lùng sục ở hướng
nào. Trong lúc anh em đang xôn xao người khoác ba-lô, kẻ dập tắt bếp củi, thì
chợt có ai gọi đúng tên tôi… Hoạch ở ban quân giới từ “Bình Trị Thiên khói lửa”
trên đường đi Việt Bắc, vừa mới ra đến đây, Hoạch trao tôi cho tôi một phong
thư. “Mừng đây rồi!” - Hoạch nói rồi chào tôi đi ngay cho kịp đoàn. Tôi toan
bóc thư ra, thì có lệnh: mọi người phải phân tán theo kế hoạch; tôi cũng đành
hành quân gấp về phía Hòa Bình. Đi được một lúc, trời đổ mưa như trút. Đường lầy
trơn, người đi sau phải níu áo người đi trước, trời tối như mực, lâu lâu có ánh
chớp, và nhờ có cây đèn pin trời nhấp nhoáng, chúng tôi mới chớp nhìn thấy
nhau. Rồi lại như sợi dây vô hình cột chúng tôi lại với nhau, mắt khi nhắm mà
chân cứ bước tới. Tuy mưa, chúng tôi cũng đến được một trạm mới. Sáng hôm sau
chờ mặt trời lên, tôi chạy xuống suối, đưa tay vóc vài vóc nước vỗ vào mặt.
Tôi ngồi trên một gốc cây, với một hạnh phúc nằm trọn trên
bàn tay. Bức thư có lẽ đã qua bao ngày tháng gió mưa mới đến được với tôi, chẳng
phong trong nắng gió, chẳng ướp trong hoa sương, nhưng đây mới gọi là một bức
thư tình. Vì lẽ nhiều gian khổ nhiều nhớ mong.
Bức thư viết sau khi tôi đã đi năm ngày, tôi đi được ba ngày,
thì chúng nã pháo vào Hòa Mỹ. Rồi từ đồng bằng bọn lính lê dương tràn lên, lại
có bọn giặc từ trên trời nhảy xuống.
Chúng đã bắn pháo vào dân vào núi, giết nhiều đàn bà, ông
già, trẻ nít. Chúng đốt lều quán và nhà “đại chúng” của cán bộ, của nhân dân
thành tro. Một mái nhà tranh thôi, nhưng chúng tôi hát ở đây, nhảy ở đây, ngâm
thơ và nói chuyện văn hóa ở đây. Biết bao tâm tình ấm lạnh!
Tới tận một xó rừng này, nước Pháp “văn minh” đã tự bôi nhọ
mình như thế. Lê Trung Nghĩa người trí thức đã đóng từng viên gạch, từng câu
chuyện vui, từng tiếng cười, từng bức tranh vẽ, nơi đây, đã bị giặc bắt và mang
về đồn Sơn Quả, một đồn dữ. Người trí thức ấy đã hô to ba tiếng: Hồ Chí Minh.
Mừng viết: “Nào biết anh Nghĩa nằm mô, cắm cho anh một
đóa hoa tím”.
Tôi nghĩ bụng: Hãy đến đầu nguồn sông Ô Lâu nơi anh ngồi và từng
nói với tôi: “Chao ôi! Bao giờ đại bác vắng lặng, đắp nơi đây một đập thủy điện
nho nhỏ”. Biết bao con người tri thức đã bỏ mình trên đầu ghềnh cuối suối mà
không thực hiện được những giấc mơ của mình, có khi chỉ là mảnh giấy con con nằm
trong túi áo. Biết bao gian khổ ngày tháng đìu hiu mà lòng thương hoa mến cỏ chẳng
lúc nào vơi! Hôm anh lên thăm, không ngờ là hôm vĩnh biệt chia tay với những
người bạn. Mừng viết: “Giặc đến, đạn bay vèo vèo trên đầu lều nhỏ em vẫn
ra rừng ngắt cho được một cành hoa tím để cắm vào lọ lựu đạn của anh chút gửi
theo hương hồn anh!”
“Cô gái Huế ơi! Cô có cả một triều đình nơi đây, đầy hoa thơm
cỏ lạ, những mỹ nữ cung tần.”
Trên thư mấy chữ mực nhòa, do mưa gió dọc đường hay do nước mắt
của chính cô gái Huế ấy?
Thư Mừng viết: “Mặc cho giặc nổ pháo, núi rừng chiến khu
vẫn đông vui, vẫn có vòng trong vòng ngoài, những chiến sĩ trực. Từ dưới suối bến
khe, tiếng người vẫn vọng bên tai em: “Chúng tôi vẫn canh gác giấc ngủ cháu
Dương, chị Mừng ơi! Hãy yên giấc! Đêm nay thế, đêm mai vẫn thế!”. Từ dưới bên
khe suối, vẫn vọng lên tiếng chào, tiếng hỏi: “Hãy ru cháu ngủ đi! Chúng em vẫn
vòng trong vòng ngoài gác canh lều cao của chị!”
Cả một đất trời tình nghĩa! Dầu gió mây ở cách xa anh đến
nghìn dặm mà mẹ con em vẫn yên lòng vẫn như tình người ruột thịt. Em tin cho
anh biết: Hải bị giặc bắt đem bắn đã trốn về được. Giặc đến Hòa Mỹ, Hải lại
theo chân bộ đội chuyển xuống đồng bằng chặn đường lui của giặc. Và giấu anh
sao được nữa: Anh Và thương binh vừa về Huế, từ Huế đã vượt các đồn bót trở về
lại chiến khu. Anh Và cho biết vườn Trường Cửi đã tan hoang”.
Mấy đứa con vì việc dân việc nước, mỗi đứa tản mát một nơi.
Chỉ còn người mẹ da bọc xương - và cô đơn đã trút hơi thở cuối cùng! Anh Và còn
mang lên chiếc đàn tranh truyền thống không biết anh ấy lấy ở đâu. Thế là cuốn
anbom với chiếc ảnh cuối cùng đã rách nát. Cả bức tranh kia cũng không biết lưu
lạc nơi đâu. Mai Trung Thứ người họa sĩ đang bị “vây hãm” giữa tuyết Paris có
thể nào đoán được cái số phận của đứa con mình ra sao giữa một đất trời bom đạn.
Thư Mừng viết tiếp:
“Giặc đến Hòa Mỹ, Yến “cô gái tiểu đoàn” vẫn ngang nhiên đi
giữa bom đạn giặc mà mắt chúng chả trông thấy. Khi tỉnh, Yến vẫn tới đùa với
Dương, khi mê, vẫn chạy khắp rừng. Yến vừa tới với em, vừa chợt thấy một ngấn
nước trên mi em lại lấy cành lá phấp phới trên tóc em và hát: “Em luyện cho mọi
châu ngọc sẽ về với chị”.
Tiếng hát của Yến cả chiến khu ai mà không biết tới? Mừng viết:
“Chao ôi! Còn gì nữa để về với chị hỡi em?” Người mẹ yêu
thương cũng đã vĩnh viễn ra đi. Chị mất nhiều, nhưng ai tính hết những gì chị
được”.
Trong vòng đạn giặc, khi trên trời, sao ngọc chưa ngủ, những
con người bình thường, những con người ấy còn chịu trăm điều thiếu thốn bên khe
bên suối vẫn canh gác cho em tôi, cho con tôi, từng giấc ngủ đó sao?
Tôi đọc thư này của Mừng ở một góc rừng như thế đó. Đọc xong
bức thư lại gói vào mảnh ni-lông và chốc nữa, tôi sẽ lại lên đường.
Rồi mỗi sáng tôi dậy với mặt trời, ba-lô xốc trên vai, mỗi
chiều mặt trời lặn, tôi lại hạ ba-lô xuống sàn cùng lặn với mặt trời…
Nghìn dặm cách xa, mà chỉ như một ngày xa cách.
Trạm mặt trời nghỉ, cũng là trạm nghỉ của tôi, tôi mất hẳn
khái niệm thời gian.
Mỗi ngày, một chùm hoa đỏ, một dòng nước xiết ngang, mỗi bước
dấn lên đèo, mũi của người đi sau chạm gót chân của người lên trước! Chục ngày,
trăm ngày như một ngày.
Sáng dậy, vẫn chùm hoa đỏ bên suối. Trưa là dòng suối xiết,
cơn lũ vừa qua, cành cây còn vương đầy rác rưởi… Và chiều khi mặt trời sắp tụt
xuống núi là những làn khói sàn, tiếng chày giã gạo bắt đầu, tiếng léng kéng của
đôi hoa tai của các chị em dân tộc, tận mãi đêm khuya… Đường đi băng ngàn đạp
suối, mà giống như những bước thần thoại: cất mình trong chiêm bao.
Vượt Ba Rền, U Bò từ lúc nào không rõ nữa, một chiều tôi đã về
đến bến sông Ô Lâu. Tôi tưởng đứng nơi nào đâu đấy đã nhìn thấy “Lầu của nàng”,
nỗi mừng không sao nói hết được!
Chợt một bàn tay vỗ nhẹ vào vai tôi! “Chị Mừng, sau trận Hòa
Mỹ, các anh lãnh đạo đã đưa xuống đồng bằng, hiện nay chị đang tạm mở một quán
xôi chè trên đường Phong Điền chiến khu”. Tôi nghe mà như chết đứng tại chỗ!
Như một kẻ mộng du tôi vẫn cứ đi về phía “Chiến khu” nơi tổ ấm
tôi ở trước khi tôi ra Việt Bắc. Tôi đang xuống khỏi một sườn núi, thì gặp anh
Lục ở quân giới, anh reo lên “Thiêng quá, đoàn quân chiến thắng ở đồng bằng vừa
trở lên kho bí đấy…”. Tôi nghe Lục nói mà không tin ở tai mình. Thấy tôi bỡ ngỡ
anh Lục liền khẳng định: “Chị và các cháu khỏe cả, lại thêm một thành phần mới,
một em bé chăn trâu, chủ ác quá liền trốn theo chị, gánh một gánh sách đàn, quần
áo nồi niêu…”
Tôi mừng quá, quên bắt tay cám ơn Lục. Từ xa bên suối, tôi
nhìn thấy một làn khói sàn nhẹ, tôi bước lên thang, cố không làm xáo động.
Nhưng mới vài nấc thang Mừng đã chạy vội xuống thang đón tôi, hai mắt ươn ướt,
đỡ ba-lô trên lưng tôi xuống. Thật ra từ lúc bấy giờ, Mừng làm gì tôi không rõ.
Trên lều mọi vật vẫn như cũ, nhưng trên phên treo một cây đàn tranh. Hẳn là cây
đàn Mừng đã nói trong thư…
Thế gian, có đêm tình người đời quen gọi “đế vương”. Lụa
nhung tầng tầng chất cao như núi, nến sáng như sao trời, nhưng đâu phải đó là
thứ hạnh phúc huy hoàng, của chúng tôi. Giữa thời gian bom đạn sau một chuyến
đi băng rừng vượt suối mà tôi quen gọi “một chuyến đi thần thoại”, tôi đã về
nơi đây. Khe bên bếp, lều trong cây, lại hoa rừng, và chồng sách nát. Và khi
ba-lô hạ xuống, người yêu đã trước mặt. Đâu phải là gối ấm chăn êm, sạp nằm còn
hăng mùi nhựa lá. Từng nhánh cây cong queo đâm vào da thịt, ấy thế mà tưởng tượng
như sao trời buông ánh nến xuống tận trần gian. Chúng tôi đã bao phen lau nước
mắt cho nhau, nhưng đâu phải chúng tôi chỉ có gian nan buồn tủi, ăn khổ mặc thiếu.
Chúng tôi chỉ tâm niệm một điều: giặc sẽ bị đuổi hết, máu trong lành nuôi hoa
dưỡng trái, mọi bất bình đạp phăng. Con người tự do nở đều khắp đất nước trong
ngoài, bùn dơ rửa sạch. Tiếng súng im, chim trăm tiếng trở về, rộn lên từng góc
rừng. Mừng thường nói với tôi: con chim non hót trong lồng làm sao mà hay được?
Một đời chỉ lo chuyện chồng con, chuyện xóm giềng. Sinh vào cửa nghệ thuật truyền
thống mà không chỉ chăm lo nghề nghiệp, chuốc lời khoe ngón. Hãy cho đàn thoát
khỏi mọi bận rộn hàng ngày! Vâng, đúng như thế! Con oanh chỉ hót khi đang bay
hay khi trên cành vừa tỉnh giấc.
Có đêm sực tỉnh không thấy Mừng, gọi không có người thưa.
Trong lều trăng đầy. Đứng sững một lúc tôi mới dứt khỏi cơn mê. Tôi thấy bóng Mừng
nghiêng mình trên cây đàn. Nhìn xuống, quanh Mừng, mẹ Thẩm, Oanh, anh Và, Cam,
Quýt, Lục, Yến, Diên, và cả một rừng cây nghiêng bóng. Cả một khoảng không gian
chỉ rộn lên tiếng đàn của Mừng thôi. Tôi đứng yên không thở được. Người nghệ sĩ
bẩm sinh đó không phải lúc nào cũng bắt được cái luồng cảm thần diệu ấy.
Tôi ghi cái phút giây thần diệu ấy trên bốn câu thơ:
Em đâu rồi? Tìm em nỏ thấy!
Bên cây chợt rộn tiếng em đàn
Ô hay nửa giấc! Đêm sực tỉnh
Nhớ buổi trăng lên, bóng xịch gần…
Chú thích:
[b] Theo một số tài liệu về lịch sử
báo chí Quốc ngữ, thì Phụ nữ thời đàm là báo tư nhân của ông bà Nguyễn
Văn Đa, tòa soạn đặt ở số 11-13 phố Sông Tô Lịch, nay là Hàng Lược (Xem: Nguyễn
Thành, Từ điển thư tịch báo chí Việt Nam, Hà Nội, 2001, Nxb. VHTT,
tr. 429; hoặc Sơ thảo lịch sử báo chí Hà Nội 1905-2000, Hà Nội, 2004,
Nxb. Chính trị quốc gia, tr. 439).- L.N.Â.
[c] Năm đêm trắng (chính xác
là Những đêm trắng), 1848, truyện của nhà văn Nga F. M. Dostoievsky
(1821-81)
[a] Bài của Phan Khôi, ký Chương
Dân: Tiểu phê bình về sách vở: ‘Người sơn nhân’ của Ngân Sơn tùng thư, tác
giả Lưu Trọng Lư // Phụ nữ thời đàm, tập mới, Hà Nội, s. 5 (15/10/1933);
lúc này Phan Khôi là chủ bút Phụ nữ thời đàm; sau bài này, ông còn cho
đăng (s. 15, ngày 24/12/1933) bài của Thụy An tranh luận với ý kiến Nguyễn
Thị Kiêm về Người sơn nhân trên Phụ nữ tân văn (S.G.,
s. 226).
[c] Phan Bội Châu (1867-1940) bị
Pháp bắt cóc ở Thượng Hải đưa về nước (1925) xử chung thân, sau bị an trí tại
Huế; Phan Châu Trinh (1872-1926) từ Pháp về Sài Gòn tháng 6/1925, đến 24/3/1926
thì mất.
[b] ‘Vấn đề dân cày’ (1938)
sách viết chung của Qua Ninh và Vân Đình (tức Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp).
[c] Trường Chấn Thanh: nguyên từ 1936
là trường Thành Chung, từ 1941 đến 1943 là trường Chấn Thanh, đóng tại 16 Thái
Phiên, Tp. Đà Nẵng. Ngày 25/12/2003, Sở VHTT Đà Nẵng đã tổ chức khánh thành bia
di tích lịch sử địa danh này, gắn với trường tiểu học Thành Chung (1936-1939),
trường Chấn Thanh (1941-43), cơ quan Thanh niên cứu quốc Đà Nẵng (1945-46). -
theo trang:www.danang.gov.vn,
27/12/2003
[d] Ngựa đã thuần rồi mời ngài lên
- tiểu thuyết của Lê Văn Trương (1906-64), in Phổ thông bán nguyệt
san của Nxb. Tân dân, s. 31 (trong năm 1939).
(a) Hai câu đầu là nguyên văn chữ
Hán của Thôi Hiệu. Tiếp đó là bản dịch Hoàng Hạc lâu của Tản Đà
(B.T.)
(b) Trích trong bài “Bạc Tần
Hoài” của Đỗ Mục đời Đường. Hai câu trên là nguyên văn chữ Hán, hai câu
sau là lời dịch.
[c] Ý nói cuốn ‘Thi nhân Việt
Nam 1932-1941’ , Hoài Thanh, Hoài Chân biên soạn, do Nguyễn Đức Phiên xuất
bản lần đầu tại Huế, 1942, là một tuyển tập về phong trào thơ mới tiếng Việt.
[d] Câu đầu bài thơ Đường luật của
Nguyễn Trọng Cẩn, ghi lại sự kiện năm 1933: nhằm cải cách triều chính, vua Bảo
Đại cách chức một lúc 5 Thượng thư: bộ Lại (Nguyễn Hữu Bài), bộ Hình (Tôn Thất
Đàn), bộ Binh (Phạm Liệu), bộ Lễ (Võ Liêm), bộ Công (Vương Tứ Đại).
[a] Ý câu này nhấn mạnh: thời điểm
này đã là sau 1940, khi quân Nhật (lính Thiên Hoàng) đã vào Đông Dương, cùng
quân Pháp (lính Pétain) đóng trên đất này.
[a] Thật ra, Hà nội báo (1936-37)
tuy đăng rất nhiều tác phẩm của Lưu Trọng Lư, nhưng không đăng truyện Khói
lam chiều, vì trước đó truyện này đã đăng Tiểu thuyết thứ bảy các
số từ 53 (1/6/1935) đến 56 (22/6/1935) dưới nhan đề Tiếng địch trong rừng
sim. (N.S.T.)
[a] Cuối năm 1946 tại Hà Nội có 2 hội
nghị lớn của giới hoạt động văn hóa văn nghệ: một là đại hội nghị Văn hóa cứu
quốc toàn quốc lần thứ hai (từ 11 đến 13/10), hai là Hội nghị văn hóa toàn quốc
(24/11). Qua báo chí đương thời (ví dụ tạp chí Tiên phong số 22, ngày
1/11/1946, s. 24, ngày 1/12/1946), có thể biết chắc Lưu Trọng Lư dự đại hội nghị
Văn hóa cứu quốc. Tuy vậy, cũng theo các tin tức tường thuật kể trên thì trong
hai sự kiện trên, Hồ Chủ tịch chỉ tham dự và phát biểu khai mạc Hội nghị văn
hóa toàn quốc. Phải chăng nhà thơ Lưu Trọng Lư tham dự cả hai sự kiện, và trong
hồi ức ông đã gộp cả hai làm một? (L.N.Â.)
Lại Nguyên Ân
Nguồn: Lưu Trọng Lư: Nửa đêm sực tỉnh
(nhớ lại những mối tình), hồi ký, tái bản,
Hà Nội: Nxb. Hội nhà văn, 1996.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét