Ba nhà cải cách - Tiểu thuyết lịch sử 2
Chương 7
Đường vào Nam, Duy Từ gặp nạn
Tướng cướp Dư nghe bạn hoàn lương
Chiều trên những cánh rừng miền Tây Thanh - Nghệ thâm u và
huyền bí. Đường đi toàn dốc cao, rừng thẳm, nhiều hổ báo, vắng vẻ đến rợn người.
Có khi đi hàng vài chục dặm mới gặp được bản làng của người Mường, người Thái
hay người Dao, loáng thoáng vài nếp nhà sàn. Tiết trời chợt nắng, chợt mưa
không biết đâu mà lường. Mùa mưa ở miền Trung đến muộn, nên đã sang tháng mười
âm lịch mà những trận mưa giông dữ dội kéo theo dòng nước lũ bất ngờ ập đến,
xoá đi dấu vết những con đường rừng nhỏ và vòng vèo, lắt léo, còn lại là những
bãi lầy nhớp nhúa, cây đổ ngổn ngang, xông lên mùi lá mục hoai nồng...
Đào Duy Từ lần theo hướng đã vạch trên tấm bản đồ địa hình,
đường xá từ Thanh - Nghệ vào đến Thuận - Quảng mà năm xưa, trước lúc xuống núi,
đại sư Duy Giác đã trao cho chàng. Một mình trèo đèo lội suối, băng qua các
cánh rừng già đại ngàn từ Quỳ Châu qua thung lũng Con Cuông ma thiêng nước độc,
chàng cảm thấy mình nhỏ nhoi, cô độc giữa vũ trụ bao la. Thân phận chàng lúc một
tuổi mồ côi cha, hai mươi tuổi học thành tài thì mồ côi mẹ. Nay đã ngoài 40 tuổi,
trên đường vào Nam gây dựng sự nghiệp, qua thành Nghệ An, chàng lại
nghe tin Nguyễn Hoàng vừa từ trần. Cái chết của đấng minh chủ làm chàng có cảm
giác như mình thêm một lần mồ côi. Xưa nay, người quân tử nuôi chí “thay trời
hành đạo” vẫn coi “anh hùng bất kiến minh quân” là điều bất hạnh lớn nhất. Đã
đành rằng hôm gặp gỡ ở chùa Tiêu Sơn, Nguyễn Hoàng hứa sẽ dặn dò thế tử nối
nghiệp phải trọng dụng, đãi ngộ chàng như người thầy, nhưng ai mà biết trước mọi
chuyện ở đời sẽ xoay vần ra sao? Lịch sử đã chứng minh các bậc vua, chúa lúc khởi
nghiệp thường anh minh, cầu thị, đời sống kiệm cần, rồi chẳng bao lâu, đến đời
con, đời cháu sẽ lại sa đoạ bởi vinh hoa phú quý và quyền lực. Nguyễn Hoàng cả
đời lận đận, gian nan vất vả để gây dựng sự nghiệp ở Thuận - Quảng, nên khi chết
đã 89 tuổi, con thứ sáu là Nguyễn Phước Nguyên lên kế nghiệp đã ở tuổi 52, cũng
có thể coi là người từng trải. Nguyễn Phước Nguyên chàng chưa một lần tiếp xúc,
không rõ tài năng và đức hạnh thế nào. Giới sĩ phu Bắc Hà gặp chàng ở Đông Đô
hai mươi năm trước, khi bàn chuyện thời thế, luận anh hùng, đều khen Nguyễn Phước
Nguyên những năm trấn thủ Quảng Nam có lòng thương dân, biết cách cai trị và
khá sùng đạo Phật, đã góp tiền của xây dựng chùa Long Hưng, chùa Bửu Châu.
Chàng nghe đồn, ngay sau khi kế nghiệp, Nguyễn Phước Nguyên đã sửa thành đắp lũy,
diễn tập voi ngựa, sai con trưởng là Phước Kỳ vào trấn nhậm ở Quảng Nam. Các
tin tức như vậy khiến Duy Từ tạm yên bụng, tiếp tục hành trình vào Nam.
Tuy nhiên, là người cẩn trọng, qua hơn hai chục năm bôn ba khắp chốn thiên hạ,
mất nhiều công tìm hiểu nội tình giới quyền lực triều đình Lê - Trịnh ở Đông Đô
và triều Mạc ở Cao Bằng, chàng đã rút ra nhiều bài học bổ ích về việc chọn chủ
mà thờ nên chưa hết lo nghĩ, e ngại về Nguyễn Phước Nguyên. Nếu Nguyễn Hoàng
còn sống, sau khi lọt vào địa giới Thuận Hóa, chàng có thể ung dung đến thẳng
phủ chúa ở đất Ái Tử huyện Đăng Xuyên để ra mắt, chúa tôi sẽ tha hồ hàn huyên
chuyện cũ sau nhiều năm xa cách. Nay ngồi cai quản phủ chúa là Nguyễn Phước
Nguyên, chàng không thể đường đột đến đó. Chàng cần có thời gian nghe ngóng xem
Phước Nguyên có thật sự theo nền chính sự vương đạo như lời đại sư Duy Giác năm
xưa dạy chàng hay không. Chàng muốn tận mắt quan sát Phước Nguyên đối đãi, sử dụng
thế nào với các tướng Mạc Cảnh Huống, Tống Phước Trị, Nguyễn Hữu Dật và mưu sĩ
công thần bậc nhất là Nguyễn Ư Dĩ. Những người do chàng đã vì Nguyễn Hoàng mà tốn
bao nhiêu công sức thuyết phục họ bỏ nhà Mạc theo Nguyễn như các ông Mạc Cảnh
Dinh, Nguyễn Tú, Trần Bảo..., nay Phước Nguyên đối xử với họ ra sao? Không những
thế, còn một dự tính lớn lao đang canh cánh bên lòng, khơi dậy trong Đào Duy Từ
ý muốn tiếp tục cuộc viễn du khắp xứ phương Nam xa xôi. Chàng ghi nhớ
lời căn dặn thứ hai của sư phụ: làm tướng trên phải tinh thông thiên văn, dưới
phải am tường địa lý. Chàng nuôi ý định vào Nam là để giúp chúa Nguyễn mở cõi,
còn mặt Bắc chàng đã hứa với Lê Thời Hiến chỉ phòng thủ, tránh gây chiến tranh
huynh đệ tương tàn. Kiến thức địa lý về xứ sở phương Nam theo bản đồ và lời giảng
giải của đại sư Duy Giác mới chỉ cung cấp cho chàng những khái niệm cơ bản,
nhưng ở chàng đã hình thành một ý đồ chiến lược. Một rẻo đất chạy dài từ Thuận
-Quảng vào vùng châu thổ Cửu Long Giang đất đai trù phú, dân cư thưa thớt, đa tạp,
pha trộn giữa người bản địa với người Việt và người Quảng Đông, Phúc Kiến chạy
loạn sang sinh sống đã nhiều đời. Nếu không kể phần lãnh thổ do chúa Nguyễn cai
quản, rẻo đất hẹp và chạy dài này đang bị phân cắt làm bốn quốc gia. Trên dãy
Trường Sơn có nước Xá Lợi ở phía Bắc và nước Lâm Ấp ở phía Nam. Dọc biển
Đông từ Hoài Nhơn qua các thành Qui Nhơn, Diên Khánh, Ninh Thuận là địa giới
còn lại của nước Chiêm Thành, hiện đang lục đục, tranh chấp giữa các dòng họ
vương tôn quí tộc, mỗi nhóm quyền lực chuyên chế một nơi. Ở phía cực Nam từ
thành Trấn Biên đến các châu, huyện vùng châu thổ Cửu Long Giang là nước Thuỷ
Chân Lạp cũng đang suy yếu. Tình thế đang tạo cơ hội cho chúa Nguyễn mở rộng dần
lãnh thổ, thống nhất bốn nước kia lại, sát nhập với vùng Thuận - Quảng thành một
quốc gia giàu mạnh. Điều này đã từng xảy ra trong lịch sử ở nhiều nơi. Thời cổ
đại, người Hán của nước Tàu chỉ sinh sống và quần tụ thành những quốc gia dọc
sông Hoàng Hà và Dương Tử. Trải qua mấy nghìn năm biến động, họ đã thống nhất lại
rồi mở dần lãnh thổ ngày một rộng lớn như ngày nay. Nước Đại Việt thời cổ đại
cũng chia thành hai quốc gia Tây Việt và Âu Lạc, sau mới thống nhất lại. Đào
Duy Từ muốn đi chu du qua bốn nước ở phương Nam rồi mới quay về với
chúa Nguyễn Phước Nguyên ở Thuận -Quảng. Chàng đi để am tường địa lý, nắm bắt tập
tục làm ăn sinh sống của dân chúng và nội tình các vương triều từng nước. Chàng
mơ ước về một quốc gia rộng lớn ở phương Nam, trong đó người Việt sẽ chung sống
hoà thuận với dân chúng bản địa theo triết lý kiêm ái, tương lợi và phép ứng xử
Lục hoà của Trúc Lâm tam tổ mà đại sư Duy Giác đã dạy dỗ chàng từ thủa ấu thơ.
Ngày chàng còn ở chùa Đàn Xuyên trên núi Quế Trường, đại sư Duy Giác vẫn thường
hay nhắc đến cơ trời vận nước, lẽ tuần hoàn dịch đổi của vũ trụ và cõi nhân
sinh trên đất Đại Việt. Sư phụ tuy không nói ra lời bởi huyền cơ không thể tiết
lộ, nhưng xem trong ý tứ của Ngài, Duy Từ có linh cảm Ngài đang dự đoán về
tương lai nước Việt sẽ có lúc biên cương mở rộng từ ải Nam Quan đến tận đồng bằng
Cửu Long Giang. Lúc đó, dù thời cuộc biến đổi, giang sơn nằm trong tay dòng họ
nào đi nữa thì vẫn thoả tâm nguyện của đại sư. Phải chăng tấm bản đồ Ngài vẽ,
bài từ “Hành phương Nam” Ngài ngâm, ba điều căn dặn lúc chia tay Ngài nói, tất
cả là sự phác hoạ kế sách cho người học trò xuống núi thay sư phụ nhập thế giúp
đời?...
Đào Duy Từ lầm lũi bước đi qua những chặng đường rừng, lòng
nung nấu quyết tâm sắt đá hoàn thành tâm nguyện của đại sư Duy Giác. Lúc đêm xuống
ngủ lại trong hang đá, dưới gốc cây, chàng hồi tưởng lại từng lời sư phụ nói
trong lúc giảng binh pháp hay ngồi tâm sự, và hình ảnh Ngài theo vào giấc mộng.
Ngày đi đường chàng nhẩm tính kế hoạch sau khi vào Nam, nhờ đó quên đường
xa, nắng khát và nỗi cô độc cùng hiểm nguy chờ đón trước mặt. Dẫu sao, chàng vẫn
có lúc thèm một người bạn đường để trò chuyện dù chỉ đôi lời bâng quơ... Từ lúc
rời thành Nghệ An, bỏ con đường cái quan rộng rãi, tắt sang phía Tây âm u này,
chàng đi đã non hai tuần trăng, cảm thấy mình như đang đi vào một thế giới
hoang sơ thời hồng thuỷ, chưa có loài người. Chàng khao khát nghe một giọng nói
và có lúc chàng tưởng như đang xuống cõi âm tìm gặp mẫu thân, ông Danh, thầy đồ
Mậu. Họ đang nói những lời động viên hoặc ánh mắt họ đang dõi nhìn, khích lệ bước
chân chàng. Thảng có lúc chàng động lòng nhớ Thục Nga, Hữu Dư. Hai người giờ
đang ở đâu, sống ra sao? Mắt chàng cay rát, nhoà lệ. Chàng cầu trời khấn phật
cho gặp vài người bạn đường để dò hỏi tin tức hai người bạn cố tri. May sao, đến
thung lũng Con Cuông, Duy Từ gặp một tốp người đi buôn trầm hương và quế. Chàng
nhập bọn với họ, nhận mình là thầy coi tử vi, tướng số muốn
vào Nam kiếm ăn. Họ tranh nhau nhờ Duy Từ đoán tiền vận, hậu vận, ai
nấy gật gù tâm đắc thán phục. Chàng vui vì có bạn đồng hành, lại vui vì chợt nảy
ra kế sinh nhai trong những ngày sắp tới khi chu du qua mấy nước phương Nam, vì
dân chúng ở đó rất tin ở số mệnh và các đấng thần linh. Hiềm một nỗi không ai
biết gì về tung tích của Thục Nga và Hữu Dư. Đường xa có bạn hoá gần. Chẳng bao
lâu đoàn người đã đến được vùng đất trù phú ngã ba sông Ngàn Sâu - Ngàn Phố, có
khá nhiều xóm làng hiện ra sau các luỹ tre xanh. Những người buôn trầm hương
khá thông thạo vùng đất này. Họ bàn nhau tìm một tửu quán uống rượu xả hơi để
hôm sau toả vào mấy xóm dưới chân núi Vụ Quang tìm mua thêm hàng cho bõ chuyến
đi xa. Duy Từ theo họ vào quán nhỏ gần ngã ba đường rẽ vào xóm núi. Lúc đầu
nhìn chủ quán lạ mặt, không phải người chủ quán từng quen biết trong các chuyến
hàng trước, họ thì thầm bàn nhau e ngại, toan đổi đi nơi khác. Nhưng vì mấy ả hầu
bàn khéo chèo kéo, hơn nữa trời đã xế bóng nên đám khách buôn tặc lưỡi bảo nhau
ở lại. Duy Từ quan sát thấy tướng mạo vợ chồng chủ quán có vẻ gian xảo, mắt
luôn đảo qua đảo lại đống hành lý của khách buôn, chàng dặn tất cả cảnh giác đề
phòng. Mọi người gọi rượu thịt ăn uống xô bồ, chuyện trò ầm ĩ, riêng chàng chỉ
ăn chút cơm rau. Một người bạn đường thấy vậy cố ép Duy Từ chung vui một hớp rượu
tẩy trần. Từ chối mãi không được, chàng đành phải uống một chén nhỏ. Nào ngờ chỉ
sau đó vài khắc, từng người thi nhau gục xuống mê man...
Duy Từ tỉnh dậy thấy mình nằm trên nền đất, tay chân bị trói
chặt. Căn buồng tối như bưng và hôi hám, ẩm ướt. Chàng cố căng mắt tìm kiếm rồi
lăn qua lăn lại, vẫn không thấy mấy người bạn đường đâu cả. Lúc đầu chàng nghĩ mình
uống ít rượu nên mau tỉnh, còn họ chắc vẫn còn nằm mê man ở một góc nào đó. Sau
quen mắt, chàng nhận ra họ đã biến mất, không còn một dấu tích. Hành
lý của đám khách buôn và của chàng cũng không cánh mà bay. Không lẽ gã chủ quán
lại tha mạng cho họ, chỉ giữ lại mình chàng? Giữ để làm gì? Đào Duy Từ căng óc
suy nghĩ. Toàn thân chàng đau nhức bởi những sợi dây chão to và chắc bó chặt
vào da thịt. Thuốc mê vẫn còn làm hai thái dương chàng nhói buốt như có dùi sắt
đóng vào... Lát sau, bên kia vách nứa có tiếng chân người lạo xạo, rồi ánh đèn
le lói và tiếng người rì rầm. Chàng lăn mình đến sát vách nứa nhìn sang gian
bên cạnh, thấy hai vợ chồng chủ quan đang bàn bạc với một gã râu xồm, mắt xếch
nom rất dữ tợn. Cả ba đều áo quần ướt đẫm, vấy bùn đất, vừa nói vừa
thở, có lẽ vừa làm một việc gì đó vất vả, đầy bí hiểm. Mụ vợ chủ quán má còn
dính bùn mà mặt tươi hơn hớn, cười nói:
- Không ngờ hôm nay vớ được khách sộp. Tiền và hàng hoá của
chúng nó chí ít cũng ngót nghét ba trăm lạng bạc.
- Ba trăm là thế nào, nghìn lạng có dư ấy, mụ đừng có bán đổ
bán tháo số trầm hương là không xong với ta đâu. Bao nhiêu ngày đói dài, nay mới
cướp được một mẻ ra trò - Chủ quán nghiêm giọng nhắc vợ.
- Thì ông có giỏi đem ra chợ bán cho được giá. Thứ đồ ăn cướp
không bán tháo cho nhanh, muốn vào nhà lao, cho gái này đưa cơm chắc!
- Thôi... thôi... hai vị bớt nhời cho êm chuyện. Tôi còn đang
lo mấy cái xác kia có nổi lên được không - Gã râu xồm xua tay nói.
- Đại ca yên tâm. Vợ chồng nhà này làm việc đã quen tay, buộc
ngang bụng mỗi đứa một rọ đá hộc rồi.
- Ngộ nhỡ nước chảy xiết dây chão bị đứt?
- Không thể có chuyện ấy - Chủ quán phẩy tay nói dứt khoát.
- Còn tên thầy tướng nên xử trí ra sao? - Mụ vợ chủ quán sốt
ruột hỏi.
- Tên này khả nghi lắm. Có lẽ phải phiền đại ca giải lên núi
xem chủ trại định liệu thế nào - Chủ quán nói.
Gã râu xồm đưa mắt ra hiệu. Chủ quán biết ý quát bảo vợ chạy
ra ngoài canh chừng. Trong nhà hai tên cướp tiếp tục bàn bạc. Chúng mở tung
hành lý của Duy Từ soát xét lại một lần nữa. Mười lạng bạc Lê Thời Hiến đưa
chàng làm lệ phí đã bị lấy đi cùng với tiền và hàng hoá của đám
khách buôn xấu số lúc này chắc đang nằm sâu dưới đáy sông. Bọn cướp cầm đống quần
áo của Duy Từ vo tròn, vứt vào góc nhà. Chàng nhìn qua kẽ nứa, giật mình lo lắng.
Hành lý của chàng ngoài quần áo ra, còn lại là những tấm bản đồ vẽ trên lụa và
xấp giấy dó ghi chép những điều chàng quan sát hoặc nghe được trong suốt mấy
năm ròng đi thăm dò dấu tích chiến luỹ Đa Bang ngày xưa của Hồ Nguyên Trừng.
Chàng quí những vật đó còn hơn cả tính mạng mình... Gã chủ quán nói với tên cướp
râu xồm:
- Đại ca xem đây này, hành lý của nó toàn những đồ quốc cấm.
- Có lẽ hắn là gian tế của xứ đàng trong.
- Liệu ta có nên nộp hắn cho quan trên lấy thưởng?
- Thế khác nào mình lạy ông tôi ở bụi này. Cứ giết quách nó rồi
đem hành lý giao cho trại chủ quyết định.
- Đã bắt được gian tế của xứ đàng trong mà giết thì uổng quá.
Cái lưỡi của nó đáng giá ngàn vàng.
- Tin gì được quan trên, miệng quan trôn trẻ. Toàn một lũ
gian xảo, nó bắt mình giam vào ngục vì tội ăn cướp rồi ngư ông đắc lợi, nhận
công về mình lấy thưởng, ai làm gì được.
- Vậy thì khó xử quá!
- Đã bảo giết quách đi cho êm chuyện mà lại.
- Không được. Trại chủ tính nóng như lửa. Nếu làm sai ý của
ông ấy có phen lĩnh đòn đủ no đấy, đại ca ạ!
- Đã thế ta giải nó lên núi.
- Đại ca phải đưa nó đi ngay, trước khi trời sáng.
Duy Từ thở phào nhẹ nhõm. Vậy là thoát chết, ít nhất là trong
đêm nay, không phải chung số phận với đám khách buôn xuống thăm hà bá sông Ngàn
Sâu. Đợi lên núi gặp chủ trại, chàng sẽ nghĩ cách thoát thân. Số phận chàng giờ
đây không ngờ bị nằm trong tay tên tướng cướp trên núi Vụ Quang. Những tấm bản
đồ kia sẽ cứu chàng hay đưa chàng vào nhà lao, đành phải nhờ vào số trời vậy
thôi. Trong những tấm bản đồ ấy, có một tấm là báu vật của sư phụ trao lại cho
chàng lúc chia tay ở chùa Đàn Xuyên. Ngài không nói rõ, nhưng qua tấm bản đồ,
chàng hiểu sư phụ khuyên mình vào Thuận - Quảng giúp chúa Nguyễn lập nghiệp, mở
cõi. Nếu lúc này phải chết trong tay bọn cướp, chàng thật có lỗi với sư phụ. Tấm
bản đồ là tất cả tâm huyết và trí tuệ của Ngài, nếu rơi vào tay lũ cướp man rợ,
biết đâu còn gieo tại hoạ cho dân lành. Bất giác chàng thở dài, mắt ứa lệ...
Tên cướp cưỡi ngựa phi như bay trong bóng đêm dày đặc của núi
rừng miền Tây. Đường đi quanh co, lắt léo qua nhiều suối khe, vách núi hoang lạnh.
Duy Từ bị buộc chặt trên lưng ngựa, thân chàng lắc mạnh theo nhịp vó ngựa làm
các sợi dây càng thít chặt vào da thịt, hằn lên những vết bầm tím, xương sống bị
dằn xuống hất lên tưởng chừng muốn gẫy. Chàng nhắm nghiền đôi mắt, cắn răng chịu
đựng, suy nghĩ miên man. Hình ảnh sư phụ Duy Giác, sư huynh Tuệ Năng, Nguyễn
Hoàng, Lê Thời Hiến... cứ chờn vờn trong óc chàng. Nỗi nhớ Thục Nga, Hữu Dư bỗng
chốc lại trỗi dậy. Hai người giờ đang ở đâu, sống ra sao, có biết chăng Duy Từ
lúc này tính mạng treo đầu sợi tóc? Bao ngày đi trên đường chàng mong ngóng, dò
hỏi tin tức mà vẫn mờ mịt. Chẳng lẽ đời chàng đến đây là hết, không còn dịp gặp
lại bạn xưa? Nỗi đau đớn về thân xác và niềm tủi hận dày vò, khiến chàng ngất
đi trên lưng ngựa của tên giặc cướp. Hắn không hề quay lại, cúi rạp mình trên
lưng ngựa, mải miết phi nhanh về sào huyệt. Đến nơi, hắn quẳng chàng vào một
khoang của tàu ngựa chứa đầy cỏ, ôm túi hành lý chiến lợi phẩm vào nộp cho chủ
trại. Đã quen với cuộc sống ăn sương, lấy đêm làm ngày nên sơn trại của lũ cướp
đèn đuốc vẫn còn sáng rực. Mấy chục tên cướp lực lưỡng, vẻ mặt dữ dằn đang chia
từng tốp say sưa uống rượu hoặc đánh bạc. Chủ trại là tên cướp khoảng chừng hơn
40 tuổi, cao to, mặt vuông, lông mày lưỡi mác, để râu ba chòm. Hắn giở từng thứ
trong túi hành lý của Duy Từ ra xem, chau mày suy nghĩ. Nét chữ viết trong tập
giấy dó của người này nom rất quen. Những tấm bản đồ được vẽ ở rất nhiều nơi
trên đất Đại Việt, chứng tỏ người vẽ phải mất nhiều năm bôn ba đi đó đi đây,
dày công nghiên cứu địa hình đường xá. Nó chứng tỏ ông ta là nhân vật có tầm cỡ,
không phải chỉ là tên gian tế bình thường của xứ đàng trong. Tên chủ trại đặc
biệt chú ý đến một tấm bản đồ có nét vẽ và chữ viết không giống với các tấm bản
đồ khác. Nó gợi cho hắn một kỷ niệm xa xưa nào đó mà hắn chưa kịp nhớ ra. Hình
như hắn đã từng được xem bản đồ này một lần rồi. Chợt hắn giật mình tự hỏi, chẳng
lẽ đây là tấm bản đồ hắn đã xem qua ở trong hang đá, sau ngày được cứu thoát khỏi
nhà lao của Bá Sinh. Nếu vậy, phải chăng kẻ bị bắt kia lại là Đào Duy Từ? Tên
cướp vùng dậy, gọi người đốt đuốc dẫn hắn xuống dãy tàu ngựa ngoài cổng sơn trại.
Gần đến nơi, hắn chợt vừa chạy vừa gào to:
- Duy Từ!... Đào Duy Từ!... Có phải hiền đệ Đào Duy Từ đấy
không?... Ta là Hữu Dư, đại huynh của đệ đây! Duy Từ ơi, Duy Từ!...
Đào Duy Từ vẫn còn mê man. Chàng chỉ nghe lõm bõm như có ai gọi
mình từ dưới cõi âm vọng lại. Chàng cựa mình ú ớ kêu: “Nước... nước... ta khát
nước...” Hữu Dư xông vào tàu ngựa, bới đám cỏ đang phủ lấp trên mặt người bị
trói. Dưới ánh đuốc hiện ra gương mặt thân quen của người bạn thủa ấu thơ. Tướng
cướp Dư bàng hoàng đau xót, ôm lấy Duy Từ, bế thốc lên, vừa chạy về lán vừa
khóc tức tưởi như một đứa trẻ.
Duy Từ được đặt nằm trên phản, đầu gối lên đùi Hữu Dư. Hai
tên cướp khác dùng mật gấu xoa bóp cho chàng. Mỗi lần thấy Duy Từ rên lên vì
đau đớn, Hữu Dư lại giật mình nhăn nhó, quát mắng kẻ thuộc hạ không biết nhẹ
tay. Thời gian như trôi chậm lại. Hơn nửa canh giờ chờ đợi mà Hữu Dư ngỡ như
dài lê thê. Cuối cùng tướng cướp Dư cũng thấy Duy Từ mở mắt, ngơ ngác nhìn xung
quanh. Chàng chỉ thấy lố nhố những gương mặt gớm ghiếc, râu tóc bờm xờm, má và
trán đầy những vết sẹo chạy ngang chạy dọc. Trong đám người ô hợp ấy, hình như
có ai đang gọi tên chàng, giọng nghẹn ngào xúc động. Liệu có phải chàng đang nằm
mơ nên nghe giọng nói của người ấy như giọng của Hữu Dư. Bất giác chàng mấp máy
hỏi lại:
- Đại huynh Hữu Dư phải không? Sao huynh lại ở đây?
Người ấy ôm chầm lấy chàng cướp lời:
- Dư đây, đại huynh của đệ đây. Duy Từ ơi! Ta có ngờ đâu số
phận run rủi cho mình còn được gặp đệ.
- Không... không thể nào như thế... Huynh không thể là tên giặc
cướp đường. Trời ơi! Ta đang mê hay là thực?
- Là... là thực đó Từ ơi! Tướng cướp là ta... a ha... ta là
tướng cướp... Đệ khinh bỉ ta lắm phải không?...
Hữu Dư gục đầu lên ngực bạn khóc nấc. Đôi vai Dư rung lên, nước
mắt rơi lã chã. Duy Từ chết lặng đi vì đau xót, ngỡ ngàng. Cuộc đời thật phũ
phàng. Số phận đã đẩy Hữu Dư đến mức cùng đường làm tên giặc cướp thật rồi. Vậy
Thục Nga đâu? Linh tính mách bảo chàng có điều gì uẩn khúc xót xa đã xảy ra với
người bạn gái năm xưa. Chàng cố ghìm lòng chờ cho Hữu Dư vơi cơn xúc động, lựa
lời gạn hỏi:
- Thôi, huynh mau bình tĩnh lại, kể cho đệ nghe rõ mọi việc.
Thục Nga đâu? Vì sao huynh ra nông nỗi này? Đệ không dám tin ở tai mắt mình nữa.
- Chuyện dài lắm. Ta thật có tội với tổ tông, xấu hổ với đệ.
Nếu... nếu Thục Nga còn... còn sống...
- Thục Nga làm sao? Huynh nói đi! Thục Nga đâu?
- Nàng chết rồi...
Duy Từ nghe tin lặng đi vì đau đớn. Chàng muốn khóc mà sao nước
mắt cứ lặn ngược vào trong lòng. Ngực chàng đau tức đến nghẹn thở và con tim
như có muôn ngàn chiếc gai nhọn châm vào tê buốt. Số phận nghiệt ngã đã cướp dần
của chàng bao người thân thích để chàng lạc lõng, bơ vơ giữa cõi đời trần trụi.
Thục Nga là tất cả tuổi thơ, tình yêu và là niềm an ủi lớn đối với chàng suốt
ngần ấy năm phiêu bạt. Chưa bao giờ Duy Từ thấy lòng trống trải, cô đơn, buồn nản
như lúc này. Chàng nhìn Hữu Dư đang bưng mặt gục đầu bên mép phản, vừa thương lại
vừa giận. Ngày đầu rời quê hăm hở vào Nam, chàng nuôi hy vọng sẽ gặp lại
Thục Nga sống yên bình, hạnh phúc bên Hữu Dư, con cái đề huề. Nào ngờ...! Đêm
chìm vào sâu. Không gian đặc quánh bóng đen và nỗi buồn. Tiếng côn trùng râm
ran lẫn tiếng thú đi ăn đêm kêu thảng thốt khiến the thắt nỗi lòng hai kẻ bất hạnh
xa quê. Hồi lâu, Duy Từ thở dài và hỏi:
- Đệ đi rồi, ta và Thục Nga bàn nhau ghé qua Tống Sơn, hy vọng
sẽ biết thêm tin tức của thúc phụ Hữu Tâm và gia đình, họ tộc trong Quảng Nam.
Nhưng chiến tranh đã làm cho chi nhánh dòng họ Nguyễn Hữu ở Tống Sơn ly tán hết
không còn một ai. Đã không dò hỏi được tin tức, bọn ta còn bị quan binh truy đuổi
một trận chí chết. Lần hồi mãi, ta với Thục Nga mới tìm đường vào được ngã ba
sông Ngàn Sâu - Ngàn Phố theo chỉ dẫn của đệ trong tấm bản đồ của đại sư Duy
Giác. Không may, lúc ấy Thục Nga bị ốm nặng, chúng ta đành lưu lại một xóm nhỏ
gần bờ sông. Ta dựng tạm túp lều ở đó câu cá, kiếm củi sinh sống qua ngày và
thuốc thang cho nàng. Qua nửa năm, đời sống tạm ổn định, bệnh của Thục Nga lại
biến chứng thành thấp khớp không thể tiếp tục trèo đèo, lội suối vào Nam.
Ta ngỏ lời muốn thành thân với nàng rồi hai đứa gây dựng tổ ấm chờ đệ quay lại
sẽ cùng vào Nam. Thục Nga vẫn nặng tình với đệ, chỉ khóc ròng. Nàng ra điều
kiện, hai đứa sẽ ngủ riêng ba năm, nếu đệ chưa quay vào mới chịu chung sống với
ta. Thế rồi ba năm cũng thoắt qua đi, đệ vẫn bặt tăm. Ta với nàng hoà hợp chung
sống, có được mụn con trai thì nàng qua đời vì chứng hậu sản mòn. Mình ta gà trống
nuôi con từ lúc nó còn ẵm ngửa, gặp năm mất mùa, đói kém, cùng đường phải đi
làm giặc cướp. Lúc đầu trong cơn quẫn bách, ta nghĩ mình chỉ tạm thời làm cướp
đường cho qua năm đói, nhưng cuộc sống giang hồ và mối hận lòng, muốn trả thù đời
cứ kéo ta dấn sâu vào vũng bùn tội lỗi. Ta thanh toán các toán cướp nhỏ, bành
trướng thế lực, làm chúa tể một vùng. Dọc con đường vào Nam từ bến Tam Xoa đến
sát địa giới Thuận Hoá đều có các tửu quán do người trên sơn trại của ta lập ra
để dò la tin tức chống lại quan binh của triều đình và phát hiện con mồi là những
đoàn khách buôn giàu có...
- Con trai của huynh tên gì? Nó hiện giờ ở đâu, sao đệ không
thấy?
- Nó tên là Hữu Tiến, được hơn 10 tuổi và rất thông minh, tuấn
tú. Ta không muốn nó sống lẫn với đám người ô hợp trên sơn trại nên đã gửi nó
vào một ngôi chùa dưới chân núi, hàng năm chu cấp gạo và quần áo.
- Nhà chùa có biết cha nó làm tướng cướp không?
- Ta gửi con vào chùa lúc Thục Nga vừa qua đời nên không ai
hay biết việc ta đi làm giặc cướp. Gần đây ghé thăm chùa, ta mới biết sư trụ
trì là Tuệ Năng, vừa đến thay cho sự cụ ở đó đã qua đời. Ngài biết ta là anh em
kết nghĩa với đệ nên mừng lắm, hết lòng dạy dỗ Hữu Tiến cả văn lẫn võ. Có lẽ trời
phật còn thương đến dòng họ Nguyễn Hữu nên mới xui khiến cho con ta gặp được sư
Tuệ Năng, đệ ạ!...
- Thật vậy sao? Nếu được như thế thật là đại phúc.
- Ta mừng cho thằng bé bao nhiêu lại càng thương mẹ nó bạc
phước, đoản mệnh bấy nhiêu.
- Đệ cũng vậy... Nhưng xét cho cùng đời người là kiếp sống tạm.
Người chết đã yên phận, còn người sống phải sống sao cho đáng sống, không có
danh gì với nước non cũng phải cho trọn đạo làm người, giữ bền nhân cách, gây
phúc cho đời sau, huynh ạ!
- Duy Từ bảo ta nên làm gì bây giờ? Bao năm qua ta sống mà
như đã chết, cùng đường và lắm lúc tủi hổ với gia tiên lắm, đệ có thấu hiểu cho
ta không?
- Lúc chiều ở bến sông, đệ quan sát vùng này thấy đất đai phì
nhiêu, dân cư thưa thớt. Huynh nên giải tán sơn trại, lập một điền trang. Những
ai muốn về quê hay vào Nam sinh sống, huynh cho họ tự do lựa chọn, số
còn lại chung sức khai hoang lập nghiệp. Dưới thung lũng huynh chọn các bãi lau
sậy phát hoang trồng lúa. Trên núi huynh trồng ngô, trồng sắn và nuôi bò, nuôi
dê. Theo đệ ước đoán chỉ vài năm huynh sẽ có một trang trại rộng lớn và giàu
có. Những tửu quán rải rác trên đường vào Nam huynh vẫn giữ nguyên
như cũ, làm nơi buôn bán sản vật với người đàng trong và giúp đỡ bà con dân
nghèo ngoài Thanh - Nghệ muốn di cư vào Nam sinh sống. Làm được việc
này huynh chẳng những để phúc đức cho con cháu mà còn có thể sẽ giúp đệ sau
này, nếu đệ vào Nam được chúa Nguyễn trọng dụng. Nhà Nguyễn muốn mở rộng
bờ cõi vào Nam nhất thiết phải đưa dân Đại Việt vào chung sống hoà thuận với
các tộc người bản địa, hình thành một quốc gia có chung nền văn hiến, lấy tôn
chỉ từ bi bác ái và phép ứng xử “Lục hoà” của đạo Phật Thiền tông làm nền móng
cai trị, như vậy mới được lâu bền. Đó chính là hoài bão của đệ nung nấu suốt mấy
chục năm bôn ba khắp chốn thiên hạ.
- Nghe đệ chỉ bảo ta thấy sáng sủa ra nhiều. Rồi thư thả ta sẽ
bàn tiếp. Giờ đệ nên nghỉ ngơi cho lại sức, mai ta sẽ đưa đệ đi gặp sư Tuệ Năng
và cháu Hữu Tiến.
- Đệ còn bụng dạ nào mà nghỉ ngơi.
- Vậy thì đệ ăn qua loa một chút gì rồi ta trò chuyện tiếp.
Đêm nay ta với đệ sẽ nằm gác chân lên nhau như ngày xưa ở Hoa Trai quê nhà.
- Đệ thấy miệng đắng ngắt, ăn gì cũng nuốt không trôi đâu.
Huynh cho đệ một bát nước. Ước gì lúc này có bát nước chè xanh hay nước vối như
năm xưa mẫu thân vẫn thường nấu rồi quạt cho hai đứa ngồi uống.
Hữu Dư nghe vậy tủm tỉm cười, gọi một tên cướp đàn em lại,
ghé tai thì thầm mấy câu. Lát sau người ấy mang vào một nồi nước chè tươi đặc
sánh và thơm nức, được ủ trong chiếc thúng đại, lèn đầy cỏ khô, bên trên phủ
chiếc chăn rách. Gã múc ra hai bát và bưng ra một vò sành đựng đầy đường phổi,
sản vật quý của xứ đàng trong. Hữu Dư cầm tay Duy Từ trìu mến nói:
- Đệ uống thử bát nước chè tươi với đường phổi xem hương vị
thế nào.
- Ở đâu ra những thứ này, hở huynh?
- Cây chè tươi này do ta ươm từ ngày lên sơn trại, đến nay đã
thành cổ thụ. Đó là giống chè của Thục Nga trồng lúc ta và nàng chung sống ở bến
sông Ngàn Sâu. Hạt giống chè, nàng mang từ Hoa Trai vào được ba hạt lấy từ cây
chè sau vườn của thân mẫu đệ. Lúc rời quê đi tìm đệ, nàng định sẽ mang giống
chè lên chùa Đàn Xuyên tặng sư phụ của đệ làm kỷ niệm. Vào đến đây, nàng mở
hành lý chợt nhớ ra nó vẫn còn trong gói giấy, bèn ươm giống lấy lá uống nước
thường ngày để nhắc ta không quên lời hẹn ước chờ đệ đủ mười năm. Vì vậy, sau
khi Thục Nga chết, ta mang theo mấy hạt giống lên sơn trại hy vọng sẽ có ngày gặp
đệ, cùng uống thứ nước nghĩa tình của nàng.
- Thế còn đường phổi?
- Thời gian Thục Nga bị bệnh là lúc ta rất nghèo, vẫn cố dành
tiền mua thứ đường này của khách buôn từ xứ đàng trong mang ra đổi quế và nhung
hươu. Nghe nói đường phổi rất mát, lợi cho sức khoẻ của Thục Nga. Nay ta vẫn
thường sai người mua trữ đường phổi để gửi lên chùa cùng với gạo cho Hữu Tiến
và các sư dùng...
Duy Từ uống bát nước chè tươi sánh đậm hương vị quê nhà pha với
đường phổi của xứ đàng trong. Chàng bồi hồi xúc động trước tấm lòng của Hữu Dư,
càng không nguôi thương nhớ Thục Nga. Đêm ấy, chàng và Hữu Dư thức trắng uống
nước chè tươi và tâm sự mọi nỗi niềm. Chàng kể lại vắn tắt quãng đời hơn hai chục
năm lưu lạc khắp nơi trên đất Bắc và nhất là mười năm ngồi tù khổ sai bên đất
Tàu vì không chịu thành hôn với cô gái có tên Thục Anh, bởi hễ nhìn thấy người
con gái ấy thì hình ảnh Thục Nga lại hiển hiện trong lòng chàng, vẫy gọi chàng
về theo đuổi sự nghiệp vào Nam. Sáng dậy, chàng và Hữu Dư ăn uống qua loa rồi vội
xuống núi tìm gặp sư Tuệ Năng và bé Hữu Tiến.
Trong ngôi chùa nhỏ gần bờ sông Ngàn Sâu, sư Tuệ Năng đã dậy
từ rất sớm. Sư đi mấy bài quyền rồi lững thững dạo quanh sân chùa, ngắm cảnh
bình minh đang ló rạng trên dòng sông trôi êm đềm giữa thung lũng mênh mông,
đôi bờ xanh mướt những nương ngô. Bên kia bờ phía Đông ửng lên một màu hồng nhạt,
xuyên qua lớp sương mỏng làm thành quầng tán vàng pha lẫn sắc tím chạy dài từ bờ
sông phía Tây vào tận chân núi Vụ Quang. Tiếng chim lảnh lót trong vòm lá vườn
chùa nghe xốn xang niềm vui, báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Sư Tuệ Năng thấy
lòng lâng lâng xao xuyến trước cảnh đồng quê yên bình, thơ mộng. Chợt sư nhìn
thấy đôi bướm trắng xoè cánh, rập rờn bên chùm hoa khế dưới hiên chùa. Sư mỉm
cười, cất giọng ngâm mấy câu thơ của Điều Ngự giác hoàng Trần Nhân Tông:
Ngủ dậy mở cánh cửa
Xuân về đã chẳng hay
Bươm bướm một đôi trắng
Phơi phới nhắm hoa bay
Từ bờ sông có hai người rảo bước, xăm xăm về hướng cổng chùa.
Một người có dáng thi nhân tao nhã, vào đến sân chùa thì dừng bước, chăm chú
nhìn và nghe nhà sư ngâm hết bài thơ, liền ngâm tiếp một bài thơ khác của Trần
Nhân Tông:
Hoa sóng tung lên buồm gấm bay
Dưới mui đầu mệt chẳng buồn quay
Mây chiều Tam Giáp nhạn không đến
Trăng sáng Cửu Than rồng có đây
Lạnh lẽo đường đi cung mộng cũ
Ngổn ngang sầu vướng rượu ly đầy
Hán hoàng mang tiếng say chinh chiến
Vội vã nam nhi chi lắm vậy.
Sư Tuệ Năng nghe người đó ngâm thơ ở sau lưng mình vẫn điềm
nhiên không hề ngoảnh lại, tay lần tràng hạt, miệng nam mô và từ tốn hỏi:
- Người ở đàng sau ta đang nuôi chí vào Nam sao lại
ngâm bài “Trên đường Tây chinh” của tiền nhân?
- A di đà Phật! Kẻ hèn này chỉ buột miệng, nhất thời ngẫu hứng
ngâm thơ, hà cớ gì nhà chùa lại biết có người nuôi chí vào Nam?
- Mô phật, thí chủ họ Đào, tên Duy Từ, ta đợi thí chủ lâu rồi,
sao vào Nam chậm thế?
Nói xong nhà sư quay lại, giang tay đón đợi. Đào Duy Từ sung
sướng lao đến ôm chầm lấy Tuệ Năng. Hai người cùng lặng đi, mừng mừng tủi tủi
không nói thêm được lời nào. Hữu Dư nhìn họ bồi hồi rơi lệ. Hồi lâu Duy Từ nghẹn
ngào nói:
- Tiểu đệ thật không ngờ được gặp sư huynh ở đây.
- Tất cả đều do sư phụ tiên đoán và sắp đặt.
- Sư phụ hiện giờ ra sao?
- Ngài quy phật đã mấy năm rồi. Trước lúc lâm chung, sư phụ
khuyên ta nên hạ sơn tìm đường vào Thuận - Quảng tu hành ở một ngôi chùa nào đó
trong ấy. Ngài bảo rằng cha con Nguyễn Hoàng trị nhậm ở đất Thuận - Quảng, nuôi
chí mở cõi vào Nam và rất sùng đạo Phật. Xem ra họ Nguyễn muốn đem giáo lý nhà
Phật để cải hoá nhân tâm, giúp cho bách tính muôn dân không phân biệt người Việt
hay người bản địa đều sống hoà đồng, tương thân tương ái. Đó là cái phúc lớn
cho thiên hạ giữa thời loạn lạc, bởi xưa nay những kẻ đem quân đi chiếm đất, mấy
ai nghĩ đến việc chăm lo đời sống tâm linh cho người bản địa. Ta hiểu ý sư phụ
muốn học trò mình góp vào sự nghiệp cao cả ấy của cha con Nguyễn Hoàng. Mặt
khác ta cũng mong sẽ có cơ hội gặp hiền đệ.
- Sao sư huynh không vào Nam theo đường cái quan phía biển
Đông mà lại đi theo lối này rất hoang vu, nhiều sự hiểm nguy?
- Hình như sư phụ đã có chủ ý nên những ngày cuối đời thường
hay ngâm bài thơ “Trên đường Tây chinh” của Điều Ngự giác hoàng Trần Nhân Tông
trước mặt ta. Đêm qua Ngài hiện về trong giấc mộng, hỏi thăm ta về sức khoẻ của
hiền đệ. Sáng dậy ta thấy lòng hồi hộp, thấp thỏm khác thường. Linh tính mách bảo
ta sẽ có cuộc hội ngộ với hiền đệ, vẫn có ý đứng ở sân chùa đợi khách. Không ngờ
trời phật xui khiến hiền đệ cũng ngẫu hứng ngâm bài thơ ấy...
- Sư phụ thật là thần thông, quảng bác. Đệ thấy hổ thẹn vì
chưa làm được gì báo đáp ân đức và thực hiện sự uỷ thác theo lời căn dặn của
Ngài.
- Gặp được nhau đây là tốt rồi. Chư phật và sư phụ sẽ chứng
giám cho tấm lòng của hiền đệ.
Hữu Dư đợi hai người nguôi cơn xúc động bèn lại gần vòng tay
cúi chào sư Tuệ Năng. Nhà sư vội vàng đáp lễ rồi dẫn Duy Từ, Hữu
Dư vào trai phòng. Chú bé Hữu Tiến đã rải chiếu, pha trà chờ đợi. Cậu
ngỡ ngàng nhìn vị khách lạ đi cùng phụ thân mình lên chùa.
- Lại chào thúc phụ đi con! - Hữu Dư nghiêm giọng nhắc.
- Thí chủ đây là Đào Duy Từ, người mà ta vẫn nêu gương nhắc
nhở con học tập, cũng là nghĩa đệ của phụ thân con - Sư Tuệ Năng cầm tay vị
khách giới thiệu với Hữu Tiến.
- Ồ!... Cháu tôi rất khôi ngô, tuấn tú. Đứa bé này được sư
huynh nuôi dạy ắt sẽ làm nên sự nghiệp rạng danh dòng họ Nguyễn Hữu.
Duy Từ đỡ Hữu Tiến đang quỳ lạy trước mặt, kéo cậu bé vào
lòng âu yếm hỏi han việc học hành. Lòng chàng bồi hồi nhớ đến Thục Nga. Đứa bé
là hiện thân của tình yêu và nỗi bất hạnh của người bạn gái thủa ấu thơ. Bao
năm tha hương, hình bóng nàng luôn là nguồn an ủi, động viên chàng những lúc cô
đơn, buồn tủi. Ánh mắt nồng nàn yêu thương pha lẫn hờn giận của nàng trong đêm
chia tay ở hang đá năm nào đã ám ảnh chàng. Dẫu ghìm lòng chối bỏ tình yêu, cầu
mong cho nàng và Hữu Dư hạnh phúc bên nhau, nhưng tận trong sâu thẳm đáy lòng
chàng vẫn xót xa, nuối tiếc. Nào ngờ hôm nay cả chàng và Hữu Dư đều
vĩnh viễn mất nàng, có còn chăng chỉ là giọt máu của nàng để lại. Kể từ đây Hữu
Tiến sẽ là cơ hội để chàng đền đáp ơn sâu của ông Danh và nghĩa tình của Thục
Nga. Tạm thời đứa bé đã có nơi gửi gắm tin cậy là sư Tuệ Năng, nhưng chàng thề
với lòng mình sẽ gây dựng cho Hữu Tiến một tương lai sáng lạn.
Hôm ấy Duy Từ và Hữu Dư ở lại chùa cùng sư Tuệ Năng suốt ngày
trò chuyện. Hữu Dư nghe theo lời khuyên của Duy Từ và sư Tuệ Năng, quyết tâm giải
tán sơn trại, lập đồn điền khẩn hoang, biến những quán rượu cũ thành trạm đón
tiếp giúp đỡ dân nghèo di cư vào Nam sinh sống. Sư Tuệ Năng kể rằng, có lần đại
sư Duy Giác điểm lại công đức của Nguyễn Hoàng khuếch trương đạo Phật Thiền
tông ở phương Nam đã dẫn ra các ngôi chùa do Nguyễn Hoàng xây cất như chùa Sùng
Hoá ở Phú Vang, chùa Thiên Mụ ở Hương Trà, chùa Kính Thiên ở Thuận Trạch, chùa
Bảo Châu ở Trà Kiệu... Khi Ngài nhắc đến chùa Long Hưng ở Duy Xuyên - Quảng
Nam, có ý khen chùa này phong thuỷ rất tốt và đọc mấy câu kệ của Trần Nhân Tông
trong bài “Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca”:
... Trần duyên rũ hết
Thị phi chẳng nề
Rèn một tấm lòng
Đêm ngày đon đả
Ngồi cong trần thế
Chẳng quản sự thay
Văng vẳng ngàn kia
Dầu lòng dong thả
Học đòi chư Phật
Cho được viên thành
Xướng khúc vô sinh
An thiền tiêu xá...
Sư Tuệ Năng quả quyết với Duy Từ rằng đó là sư phụ đã gợi ý
cho mình vào Nam tu đến hết đời ở chùa Long Hưng. Duy Từ nghe vậy mừng
rõ nói:
- Hình như sư phụ nắm chắc được thiên cơ và dự liệu được cả
bước đường Nam du của đệ.
- Ta chưa hiểu... Hiền đệ nói rõ thêm đi!
- Trên đường vào Nam, qua thành Nghệ An, đệ nghe tin Nguyễn
Hoàng chết, con là Nguyễn Phước Nguyên lên kế nghiệp đã sai công tử Phước Kỳ trấn
giữ Quảng Nam. Lẽ ra nếu Nguyễn Hoàng còn sống, đệ sẽ vào ngay phủ chúa ở Thuận
Hoá, nhưng nay đệ đã thay đổi ý định.
- Nghĩa là hiền đệ sẽ vào thẳng Quảng Nam, chờ gặp ta ở
chùa Long Hưng?
- Không, đệ sẽ đi đường vòng. Thoạt đầu, qua khỏi địa giới của
chúa Trịnh, đệ sẽ đi dọc dãy Trường Sơn khảo sát hai nước của người Thượng là
Xá Lợi và Lâm Ấp. Sau đó, đệ sẽ vào sâu tận cực Nam của nước Thủy Chân Lạp. Từ
phủ Trấn Biên của Chân Lạp, đệ sẽ vòng ra Bắc theo đường cái quan ven biển qua
các phủ Ninh Thuận, Diên Khánh, Hoài Nhơn của nước Chiêm Thành. Cuối cùng, đệ sẽ
dừng lại ở Quảng Nam quan sát dân tình và tìm hiểu tài năng, đức độ,
chí hướng của chúa Nguyễn Phước Nguyên. Nếu ông ta không đủ bản lĩnh kế tục sự
nghiệp mở cõi của Nguyễn Hoàng thì đệ thà chết chứ nhất định không can dự vào
chính sự.
- Hành trình Nam du của đệ xa xôi, phức tạp như vậy, liệu đến
bao giờ ta mới gặp nhau ở Quảng Nam?
- Năm năm hay mười năm còn phải nhờ vào lòng trời ý phật, sư
huynh ạ! Thời gian đệ đi xa rất mong sư huynh hết lòng dạy dỗ Hữu Tiến. Nó
không chỉ là niềm hy vọng của dòng họ Nguyễn Hữu, mà còn là tình thương và
trách nhiệm của đệ với Thục Nga, với ông Danh và thầy đồ Mậu...
Hữu Dư nghe hai người tâm sự ứa nước mắt cảm động, càng thêm
hổ thẹn, tủi hổ. Chàng đã hiểu ra và cảm phục trước hoài bão lớn lao, dự tính
chu đáo của người bạn thời thơ ấu. Mai đây thế cuộc xoay vần, biết đâu Hữu Tiến
con chàng sẽ thành danh trong sử sách, xoá đi vết nhơ trong đời làm tướng cướp
của chàng. Cầm lòng chẳng đặng, Hữu Dư khóc nấc lên, quỳ xuống đất vái Tuệ Năng
và Duy Từ mỗi người ba lạy. Hai người vội đỡ chàng đứng dậy, hết lời an ủi. Hữu
Dư ôm chặt lấy Duy Từ, nghẹn ngào nói:
- Ta như kẻ chết trôi, được sư Tuệ Năng và hiền đệ cứu vớt khỏi
dòng mê đưa về bến ngộ. Sông Ngàn Sâu kia còn nước, ta còn ghi nhớ mọi lời căn
dặn của hiền đệ, nguyện làm người đưa đường chỉ lối cho dân nghèo di cư vào
Nam, giúp đệ mở cõi. Hiền đệ đi rồi ta sẽ chuyên tâm khẩn hoang và ăn chay, tụng
kinh sám hối. Thung lũng hoang vu này sẽ thành điền trang rộng lớn, cưu mang những
số phận bất hạnh, những kiếp người lang thang cơ nhỡ. Đệ hãy tin ở ta.
Ba người sôi nổi bàn bạc. Duy Từ sẽ đi trước, còn sư Tuệ Năng
cần ở lại một thời gian thu xếp ổn định công việc nhà chùa, sẽ đưa Hữu Tiến vào
Quảng Nam, đợi Duy Từ ở chùa Long Hưng. Sau này, mọi liên lạc bí mật giữa hai xứ
đàng ngoài và đàng trong hoặc nhờ cậy những việc cần kíp sẽ do người tâm phúc của
Duy Từ phái đến điền trang của Hữu Dư đưa tin. Mờ sáng hôm sau Duy Từ cáo biệt
mọi người, hăm hở lên đường. Lúc chia tay, chàng trao lại cho sư Tuệ Năng một bọc
chứa đầy những trang viết và dặn:
- Đệ từ ngày từ biệt sư phụ xuống núi vẫn luôn ghi nhớ những
lời căn dặn của Ngài. Bao năm nay đệ miệt mài nghiên cứu binh pháp của sư phụ
truyền dạy, bổ sung vào đó những điều học được trong dân gian và các bậc thức
giả khắp nơi để viết ra cuốn binh thư lấy tên là “Hổ trướng khu cơ”. Đây mới chỉ
là ý tưởng phác hoạ ban đầu, sẽ còn phải sửa chữa, hoàn thiện thêm rất nhiều.
Nay đệ tạm nhờ sư huynh cất giữ và theo đó dạy thêm về binh pháp cho Hữu Tiến.
Sự đời biến hoá khôn lường, biết đâu sau này đứa bé kia sẽ là cánh tay đắc lực,
giúp đệ cùng phò minh chúa đi mở cõi vào Nam.
Nói xong chàng bái lạy sư Tuệ Năng, ôm chầm lấy Hữu Dư rồi lầm
lũi bước nhanh trên con đường đất ướt đẫm hơi sương. Gió từ sông Ngàn Sâu thổi
lộng. Sao mai lấp loá phía trời xa. Lòng chàng phơi phới niềm vui, chứa chan hy
vọng. Sư Tuệ Năng nhìn theo, lầm rầm tụng kinh cầu chúc cho chàng thượng lộ
bình an. Hữu Dư ôm con trai vào lòng, bồi hồi nghĩ về những kế hoạch đổi đời
cho hai cha con do Duy Từ bàn bạc, sắp đặt. Hình bóng Thục Nga và làng quê Hoa
Trai cùng hiện lên trong trái tim hai người đàn ông trong giờ ly biệt kẻ Bắc
người Nam.
Chương 8
HỒI THỨ TÁM
Đất Quảng chăn trâu ngồi đợi chúa
Ông trời bạc tóc mới xe duyên
Chùa Long Hưng nằm trên khuôn viên khá rộng và bằng phẳng bên
sườn đồi ở phía Đông của trấn Dinh thuộc huyện Duy Xuyên đất Quảng Nam. Bốn
năm sau cuộc chia tay với Đào Duy Từ, vào năm Mậu Ngọ (1618), sư Tuệ Năng cũng
giã biệt Hữu Dư vào Nam, dắt theo Hữu Tiến và dừng chân ở chùa này. Đêm trước,
hai thầy trò nghỉ trong túp lều chăn vịt ven sông Thu Bồn, đại sư
Duy Giác hiện về báo mộng: “Gần đây có chùa Long Hưng vừa khuyết một vị trụ trì
do sư thầy Thích Quảng Tôn viên tịch đột ngột. Hiện trong chùa chỉ
có một già lam [1] là Huỳnh Bảo tạm thời coi việc nhang
đèn. Đó là ý Phật muốn dành chỗ cho Tuệ Năng, con hãy mau đến đó”. Sư Tuệ Năng
choàng tỉnh giấc, thấy lòng rạo rực. Giấc mộng sao khéo trùng hợp với lời hẹn ước
của Đào Duy Từ sẽ chờ gặp Tuệ Năng trên đất Quảng tại chùa Long
Hưng. Dọc đường, từ ngã ba sông Ngàn Sâu vào đây, nhà sư vẫn luôn hỏi dò về
chùa Long Hưng và các chùa khác của người Việt mới xây cất trên miền đất cũ của
người Chiêm. Nghe đồn, năm Canh Tý (1600), Nguyễn Hoàng lấy cớ đi dẹp loạn ở Cổ
Lễ rồi theo dòng Ninh Cơ xuôi ra cửa Ba Lạt, dong buồn chạy thẳng vào Nam.
Khi đoàn người đổ bộ vào đất liền, ông cùng các tướng Tống Phước Trị, Nguyễn Hữu
Dật đi thám sát địa hình, địa vật. Đến miền Hà Khê thuộc huyện Hương Trà, ông
chợt thấy giữa cánh đồng nổi lên một gò đất cao, có dáng đầu rồng, soi bóng xuống
mặt nước con sông lớn và đẹp. Dân chúng bẩm rằng gò ấy rất thiêng. Xưa có người
nằm mơ thấy gặp ở trên gò một bà lão người Chiêm mặc áo đỏ, quần xanh, bóng chập
chờn khi mờ khi tỏ. Bà lão bảo với người ấy, sẽ có một vị chân chúa đến dựng
nghiệp ở đây để tụ khí thiêng, cho bền long mạch. Từ đó, dân địa phương gọi tên
là gò Thiên Mụ, tức gò Bà Trời. Nguyễn Hoàng cho là ý trời phật muốn cho mình
là chân chúa, cai quản cả người Việt lẫn người Chiêm, nên năm Tân Sửu (1601)
sai người xây cất chùa Thiên Mụ. Năm Nhâm Dần (1602) ông lại cho xây tiếp chùa
Sùng Hoá ở Phú Vang và chùa Long Hưng ở Quảng Nam để tạ ơn Phật tổ, Bồ tát. Cả
ba ngôi chùa đều được Nguyễn Hoàng kén thợ giỏi quê gốc ở Thanh - Nghệ vào xây
dựng theo mẫu các ngôi chùa lớn ở xứ đàng ngoài. Riêng chùa Long Hưng, khi Nguyễn
Phước Nguyên lên kế nghiệp, đã cho tu bổ lại lần nữa để kỷ niệm những năm trấn
nhậm ở Quảng Nam. Xem ra, Phước Nguyên là người có duyên với Phật, chăm lễ
chùa còn hơn cả Nguyễn Hoàng, nên dân chúng gọi là chúa Sãi...
Sư Tuệ Năng từ lúc mơ gặp đại sư Duy Giác không sao chợp mắt
ngủ tiếp. Sư bồi hồi liên tưởng câu chuyện Đào Duy Từ gặp Nguyễn Hoàng ở chùa
Tiêu Sơn trò chuyện tâm đắc với việc Nguyễn Hoàng vào Nam xây chùa Thiên Mụ,
Nguyễn Phước Nguyên được suy tôn là chúa Sãi. Phải chăng đã đến ngày Phật giáo
hưng thịnh ở Thuận - Quảng? Phải chăng Phật tổ và đại sư Duy Giác đã gửi thông
điệp trao cho Tuệ Năng sứ mệnh truyền bá Thiền phái Trúc Lâm vào Nam? Thời
cuộc cho thấy người Việt rồi đây sẽ ồ ạt di cư vào Nam, không chỉ dừng
chân ở miền Thuận - Quảng. Duy Từ nảy ra ý muốn chu du qua các nước Xá Lợi, Lâm
Ấp, vào tận vùng Cửu Long Giang của nước Thuỷ Chân Lạp, rồi mới hẹn ta gặp mặt ở
Quảng Nam, có lẽ cũng là do trời phật muốn vậy. Người Việt nghèo đói, tha hương
vào đây sinh sống, vốn sẵn chứa trong lòng nhiều uẩn ức, dễ sinh tính hung bạo,
hiếu sát. Họ cần giáo lý của Trúc Lâm tam tổ khai mở tâm linh để giúp họ quên
đi mọi điều uẩn ức, sống hoà hiếu với người bản địa. Người
phương Nam lâu đời theo Phật giáo tiểu thừa, còn người phương Bắc lại
theo Phật giáo đại thừa. Xét cho cùng, cả hai Phật phái đều có chung một tâm
nguyện rũ bỏ hết Tham - Sân - Si, dắt tay nhau về cõi Niết Bàn. Hoà hợp hai Phật
phái tiểu thừa và đại thừa cũng có nghĩa là hoà hợp chung sống giữa người Việt
với người Chiêm, người Chân Lạp và người Thượng ở trên dãy Trường Sơn. Sẽ là hạnh
phúc biết bao cho chúng sinh khi các tộc người ở phương Nam này có chung một đấng
minh chúa, lại có chung một đời sống tâm linh theo giáo lý nhà Phật... Càng gần
về sáng, sư Tuệ Năng càng hiểu ra thâm ý của Nguyễn Hoàng khi xây chùa Thiên Mụ.
Nhà sư cũng nuôi mối thiện cảm với Nguyễn Phước Nguyên, chắc đây chính là người
để Duy Từ lựa chọn, dốc lòng phò tá sau này. Đệ tử Hữu Tiến mà lâu nay nhà sư hết
lòng truyền dạy môn phái võ thuật chùa Đàn Xuyên và binh pháp trong bản thảo cuốn
“Hổ trướng khu cơ” do Duy Từ gửi lại, chắc rồi cũng có cơ hội giúp đời. Thằng
bé này qua mấy năm đã lớn dần thành trang tuấn kiệt. Nó đang ngủ. Vầng trán nó
mới vô tư, thanh thản làm sao!
Gà vừa gáy sáng, sư Tuệ Năng vội đánh thức Hữu Tiến trở dậy.
Hai thầy trò hăm hở tìm đường đến chùa Long Hưng. Đến nơi, sư Tuệ Năng cảm thấy
choáng ngợp trước vẻ bề thế của ngôi chùa xây theo lối kiến trúc của xứ đàng
ngoài, mạn Kinh Bắc. Trước cổng chùa là một sân đất vuông vắn được đầm kỹ, hai
bên có hai hàng phỗng đá. Từ sân đất bước lên một bậc vào cổng tam quan có mái
che và ba tấm cửa gỗ lim dày đóng kín, tượng trưng cho ba điều cần xem xét rõ
trong đạo Phật là Không Quan, Giả Quan và Trung Quan [2]. Cạnh tam quan về mé tay phải có một cổng
nhỏ ra vào thường nhật, nép mình dưới tán cây bồ đề. Qua khỏi cổng, nhà sư bước
vào một sân rộng lát gạch, bầy nhiều chậu cây hoa mộc, hoa ngâu, hoa sứ, hoa
nhài, hoa lan... Ở hai bên sân có hai dãy nhà bán mái chín gian, một bên dành
cho người nhà chùa, một bên dành cho khách thập phương đến chờ dâng lễ. Chính diện
là nhà thờ Phật rồi đến nhà bái đường, nối với nhau bằng chiếc cầu đá uốn cong,
chạm khắc nhiều hoa văn lạ theo tích của đạo Phật. Phía sau lưng nhà bái đường
có khu vườn chùa rộng chừng một mẫu đất, bao bọc bởi luỹ tre, bên trong có nhiều
cây trái, từng đàn chim bay về làm tổ...
Già lam Huỳnh Bảo lật đật chạy ra sân đón chào thầy trò sư Tuệ
Năng. Ông lão đã già, răng rụng gần hết, nhưng đôi mắt thì sáng quắc. Ông mừng
rỡ kể rằng đã được Phật báo mộng, sẽ có vị sư mới từ xứ đàng ngoài vào thay cho
hoà thượng Thích Quảng Tôn vừa viên tịch để trụ trì chùa này. Từ mờ sáng, ông
lão đã đun nước, ủ sẵn nồi chè tươi chờ đợi. Hai người ngồi trước thềm nhà
chính điện chuyện trò thân mật, còn Hữu Tiến khép nép chắp tay đứng hầu đằng
sau sư phụ. Hồi lâu, sư Tuệ Năng nhắc Hữu Tiến theo già lam đi thu xếp trai
phòng và nấu cơm, còn mình lững thững ra ngoài bước dạo quanh chùa ngắm cảnh.
Nhà sư phóng tầm mắt bao quát cả vùng quê trù phú phương Nam sơn thuỷ hữu tình,
núi đồi và đồng ruộng đan xen chạy tít tắp tận chân mây và những xóm làng người
Việt, người Chiêm cũng đan xen ôm ấp lẫn nhau. Lòng ông thầm gọi: “Duy Từ ơi!
Hiền đệ giờ đang ở nơi đâu? Kể từ buổi biết nhau ở chùa Đàn Xuyên đến nay thoắt
đã hơn ba chục năm. Thời gian cứ trôi nhanh vùn vụt, ta đã ngoài tuổi năm mươi,
còn đệ cũng sắp vào tuổi “tri thiên mệnh”. Người có tài năng, ôm ấp nhiều hoài
bão như hiền đệ, sao số phận cứ phải lênh đênh trôi dạt khắp đó đây, liệu bao
giờ mới gặp được minh chủ để phò tá cho thoả chí bình sinh? Vẫn biết đời người
như áng phù vân, như giấc hồ điệp, nhưng ta cứ muốn hiền đệ sớm làm nên sự nghiệp,
lưu danh sử sách. Vả chăng, trên vai hiền đệ còn nặng gánh những điều mà sư phụ
của chúng mình đã ký thác và hy vọng. Kiếp đời trần tục của hiền đệ cũng cần phải
có một mái ấm gia đình làm nơi trú ngụ lúc tuổi già, bệnh tật. Ta thương hiền đệ,
nhưng vô phương cách, đành phải nhờ vào trời phật vậy thôi...” Mang nặng trong
lòng những ý nghĩ mông lung, sư Tuệ Năng bồi hồi quay vào chùa. Đêm ấy nhà sư
ngồi tụng kinh cầu phúc cho người bạn thủa ấu thơ, hồn thoát khỏi xác, bay đi
dõi tìm bước chân hành hương của Duy Từ ở phía trời xa...
Già lam Huỳnh Bảo sớm nay thức dậy sớm hơn mọi ngày. Từ lúc
canh ba, ông đã nhóm lửa nấu cơm gạo lức, nắm từng suất ăn vừa đủ bữa cho Hữu
Tiến dùng trong ba ngày, vào trong những chiếc mo cau đã nhúng nước sôi rồi lau
thật khô. Muối mè ông cũng phân thành từng gói nhỏ, đựng trong lá chuối khô. Nắm
xong sáu suất cơm chay, ông lão tần ngần thở dài, mở từng gói, lo Hữu Tiến sẽ
mói dạ. Ông muốn nắm to hơn, nhưng không dám trái lệnh của sư Tuệ Năng. Thường
ngày, sư chỉ cho phép Hữu Tiến ăn mỗi bữa có ba miệng chén cơm gạo lức muối mè.
Ngài bảo, đang sức thiếu niên, nó ăn mấy cũng vừa, nhưng no quá sẽ thành trì độn,
lười nhác và dục vọng sẽ nổi lên cho tâm mờ tối. Ăn vừa đủ là nguyên tắc tối
giản của việc dưỡng dục. Từ buổi sư Tuệ Năng về trụ trì chùa Long Hưng, ông rất
khâm phục trí tuệ uyên bác, đạo hạnh của Ngài. Phong độ ung dung, nhàn tản và lời
nói điềm đạm, ấm trầm của Ngài thật tương phản với vóc người to lớn, gân bắp nổi
cuộn của một võ sư có chưởng lực siêu hạng, võ công thượng thặng. Gần trọn một
đời làm việc công quả cho nhà chùa, già lam Huỳnh Bảo chưa từng gặp ai có giọng
tụng kinh truyền cảm đến vậy. Nhưng đến giờ dạy võ cho Hữu Tiến, nhà sư thét
lên như sấm sét, đếm từng động tác trong các chiêu thức mới cho đệ tử chú ý nhập
tâm. Càng yêu kính sư Tuệ Năng, già lam càng thương cảm và hết lòng chăm sóc Hữu
Tiến. Nó cũng giống ông, mồ côi mẹ, từ tấm bé đã ăn mày cửa Phật, nhưng không
xuống tóc đi tu. Có khác chăng là ở chỗ già lam không thể thắng nổi ma lực cám
dỗ của men rượu nên không xuống tóc, còn chú bé Hữu Tiến nương nhờ cửa Phật để
học văn, luyện võ, chờ dịp nhập thế giúp đời thay cho sư phụ. Mỗi ngày qua đi,
già lam thêm gắn bó, thân thiết với Hữu Tiến như tình cha con, ân cần chăm sóc
cậu. Ở tuổi 15, Hữu Tiến bắt đầu vỡ giọng, hiểu đời và điềm đạm, chín chắn hơn
nhiều so với bạn bè đồng lứa tuổi. Nhưng già lam vẫn coi cậu như chú bé ngây
thơ, côi cút. Ông lo chuyến đi này sẽ làm cậu vất vả, dễ gặp nguy hiểm. Trời đã
gần sáng rõ, tiếng gà trong xóm le te báo canh năm và sau vườn chùa lác đác có
tiếng chim cu gáy gọi nhau đi kiếm mồi. Già lam bần thần hồi tưởng lại buổi chiều
qua, sư Tuệ Năng gọi Hữu Tiến lên giao việc:
- Này con! Lại đây ta hỏi.
- Bạch thầy, con đã sẵn sàng.
- Con đã đủ tự tin về kiến thức tam giáo và võ thuật của mình
chưa?
- Bạch thầy, biển học mênh mông đi mãi cũng chẳng hết bến bờ,
nhưng gần đây con đã thấy tin rằng mình có thể dấn thân vào trường đời, vừa
hành sự vừa học thêm.
- Từ nay, sách vở về đạo Nho, đạo Lão và kinh Phật trong trai
phòng của ta, con có thể tự mình lựa chọn để đọc thêm theo sở nguyện của riêng
mình. Nếu có chỗ nào chưa thông tỏ, con có thể đàm luận cùng ta.
Riêng về binh pháp, ta muốn con giành thời gian chuyên tâm nghiên cứu
và thực hành từng chương mục trong tập bản thảo cuốn “Hổ trướng khu cơ” mà thúc
phụ Duy Từ của con gửi lại. Đây là sự tổng hoà giữa kiến thức uyên bác của đại
sư Duy Giác với những điều suy ngẫm, tìm tòi, ghi chép trong dân gian của Duy Từ.
Sách có ba phần chính là Tập Nhân - Tập Thiên - Tập Địa. Hai phần Tập Nhân bàn
về đạo làm tướng và Tập Thiên bàn về cách xem thiên văn, tiên liệu thời vận,
xét đoán tướng người..., ta đã kết hợp giảng giải cho con lâu nay, khi con học
sách Mạnh Tử, Trung Dung, Đại Học, Luận Ngữ hay sách của Lão - Trang, sách Kinh
Dịch của Chu Công. Con hãy nhập tâm và nhớ lấy mỗi khi đọc lại hai phần ấy, để
rồi suy rộng mãi ra. Riêng phần Tập Địa, trong bản thảo của Duy Từ viết rất cô
đọng mà súc tích, rất cần con vừa đọc vừa thực hành. Nay ta giao cho con phần Tập
Địa để đêm nay đọc kỹ, sớm mai con sẽ ra khỏi chùa thực hành trong ba ngày. Tập
Địa dạy cách lợi dụng địa thế tự nhiên có nhiều tiện ích cho mình để chọn nơi
đóng quân, lập trại, bày trận và chọn nơi đất xấu xem như là tử địa để nghi
binh, dụ cho quân địch tới mà tiêu diệt. Xét toàn cục trận chiến là như thế. Đi
sâu vào tiểu tiết từng trận đánh cũng là như vậy. Giả sử như lúc con cầm quân,
hai bên giàn trận, muốn dùng phép bày trận “Chu Thiên” cũng phải tuỳ
nghi: ở đồng bằng có bãi rộng thì kết trận tròn, gặp chỗ đất gập ghềnh hiểm trở
thì biến làm trận cong, gặp chỗ đường cái lớn lại bày trận thẳng, đón lõng giặc
từ trên đất cao xuống thì kết trận vuông... Sớm mai, lúc khởi hành ta cho con
mang theo bức địa đồ của xứ Quảng Nam. Từ chùa Long Hưng, theo con đường nhỏ
băng đồng một đoạn, con sẽ gặp con lộ độc đạo, rẽ trái sẽ ra biển, rẽ phải sẽ
lên núi và đi về phía địa phận nước Xá Lợi của người Thượng. Trong ba ngày dò
xét địa hình con phải trả lời cho ta biết, nếu con cầm quân đánh nước Xá Lợi
thì dùng binh ra sao; còn nếu nước Xá Lợi đem quân đến sát bờ biển đánh ta con
sẽ đối địch thế nào.
- Bạch sư phụ, muốn định được kế sách phá giặc còn phải xem
tương quan ta với địch lúc đó mạnh yếu ra sao.
- Điều này tự con lẽ ra phải xét đoán được rồi. Người học
luôn phải động não suy nghĩ vượt ra ngoài sách. Xá Lợi là một tiểu quốc có đời
sống còn mông muội. Họ dám đến đánh ta là nhằm lúc ta suy yếu để vào cướp bóc.
Ngược lại, khi ta đem quân đi đánh họ, đương nhiên đang lúc ta mạnh và chuẩn bị
kỹ. Thôi, con mau mang bản thảo Tập Địa của thúc phụ Duy Từ về đọc rồi đi nghỉ
sớm, mai còn lên đường.
Già lam Huỳnh Bảo vô tình nghe được câu chuyện giữa hai thày
trò khi ông ngồi đan sọt ở ngoài hiên, trước cửa trai phòng của sư Tuệ Năng. Hữu
Tiến đi rồi, nhà sư gọi ông vào dặn dò chuẩn bị mọi thứ chu đáo cho Hữu Tiến.
Đêm qua mấy lần già lam đến phòng của cậu giục đi ngủ sớm, vẫn thấy đĩa dầu lạc
trên bàn đang leo lét cháy. Ông bùi ngùi thương cậu, linh cảm thấy sẽ có một
ngày cậu bé này sẽ rời chùa, dấn thân vào cuộc đời gió bụi. Ngày ấy chắc không
xa và ông sẽ thấy buồn, cô độc biết bao!...
Hừng đông ló rạng, chân mây về phía ấy chuyển dần từ màu hồng
sang màu vàng mơ. Vườn chùa lảnh lót tiếng chim sâu chuyền cành. Ngoài đồng, những
cô gái người Chiêm đội thúng, người Việt quẩy gánh, cùng đi gieo mạ đông. Hữu
Tiến đã thức dậy, múa một bài quyền giữa sân chùa. Sư Tuệ Năng ngồi uống trà ở
trai phòng, lim dim mắt nhìn đứa trò yêu khi xuống tấn, lúc vung quyền hay phi
thân nhả cước. Động tác của cậu dứt khoát và mạnh mẽ. Nhà sư bất giác mỉm cười
thanh thản trong lòng. Ngài tin rằng Hữu Tiến sẽ hoàn thành tốt bài học thực
hành đầu tiên về binh pháp trong phần Tập Địa. Già lam sớm nay đặc cách nấu một
nồi cháo loãng, có đỗ xanh cho mọi người ăn với đường phổi, tiễn chân Hữu Tiến
đi dã ngoại. Loại đường quí hiếm này nhà chùa chỉ dùng khi tiếp khách quan trọng.
Sư Tuệ Năng không nói ra lời, nhưng rất hài lòng trước mối thân tình của già
lam với đứa trò yêu. Nhà sư khoan thai đứng dậy, nhắc Hữu Tiến đã đến giờ xuất
hành. Bóng cậu thiếu niên đã khuất sau cánh cửa chùa, già lam mới sực nhớ ra, vội
cầm nải chuối ngự, lật đật chạy theo, buộc vào đầu cây gậy trúc cho cậu, miệng
lẩm bẩm cầu chúc cậu thượng lộ bình an. Hữu Tiến quay lại vái tạ già lam rồi
hăm hở băng đồng, nhằm hướng đường cái quan còn khuất lấp trong sương mờ. Cậu
đã xem kỹ bức địa đồ, nhẩm tính trong ngày đầu sẽ đi qua mười con suối lớn và
năm đoạn đường đèo dốc quanh co để đến một thung lũng rộng, chạy dài theo hướng
Bắc - Nam. Ở đó cậu sẽ tìm một nhà dân nghỉ nhờ và ghi chép lại những gì quan
sát được trên đường. Hôm sau cậu sẽ quay trở về nơi ngã ba xuất phát, dọc đường
sẽ dừng lại ở một vài nơi, hỏi chuyện các già làng về phong tục tập quán của họ
và lai lịch các địa danh có hình sông, thế núi đặc biệt. Ngày thứ ba, cậu sẽ từ
ngã ba ấy theo đường độc đạo đi về phía biển. Dò trên bức địa đồ, cậu dự đoán
khoảng nửa ngày sẽ đến ngã ba sông Thu Bồn gặp con sông Vu Gia. Vừa hay nơi ấy
có địa hình lợi cho việc bày trận “Tiểu Chu Thiên cửu biến: Trường xà liên
châu” để lấy sức yếu phá thế giặc mạnh. Như vậy vào lúc ăn trưa, cậu có thể ghi
chép tỉ mỉ mọi điều quan sát được và trở về chùa vừa lúc trời tối, hoàn thành
bài tập binh pháp ba ngày như sư phụ đề ra. Hữu Tiến cảm thấy vững tin, lòng rạo
rực niềm vui, bước những bước dài sảng khoái. Có lẽ sư phụ đã nhiều lần thị sát
con đường này nên Ngài vạch sẵn cung đường có nhiều hình sông, thế đất khác lạ
để cậu tự biến hoá trong bài tập đầu tiên. Tri thức của sư phụ thật sâu rộng, lại
rất chuộng sự thực hành hơn là sách vở. Vậy mà mỗi khi nhắc đến thúc phụ Duy Từ,
ngài thường tự ví mình như con đom đóm so với mặt trời. Chắc hẳn thúc phụ phải
là người phi phàm xuất chúng trong cõi nhân gian. Lúc còn ở nhà, phụ thân của cậu
cũng không ngớt lời ca ngợi Duy Từ, dặn cậu suốt đời noi gương thúc phụ mà học
hành phấn đấu, nuôi chí anh hùng. Bất giác cậu chạnh lòng nhớ quê, nhớ con sông
Ngàn Sâu và trang trại của phụ thân dưới chân núi Vụ Quang. Cậu khao khát một
ngày trở về thắp nén nhang lên phần mộ mẫu thân.
Ở ngã ba, nơi hai con sông Thu Bồn và Vu Gia hợp lưu đổ ra biển
có mấy quả đồi thoai thoải, cỏ mọc xanh mởn, lúp xúp những bụi hoa sim, hoa mua
mọc rải rác, tô điểm thêm cho cảnh vật như bức tranh thuỷ mạc đời Tống ta thường
gặp ở các dinh thự hay tiệm cao lâu sang trọng. Đây là khu vực chăn thả gia súc
của nhà phú hộ Cao Nham. Trâu bò của ông cỡ hàng vài chục con, lại thêm đàn dê
đông đúc, kêu be be chạy đuổi nhau nô đùa trên thảm cỏ. Coi sóc đàn gia súc là
một ông lão để râu ba chòm lốm đốm nhiều sợi bạc, vốn là một gã ăn mày. Ông đến
làm thuê cho phú hộ Cao Nham vào một đêm mưa gió. Bữa đó ông kiệt sức vì đói và
cảm lạnh, nằm co quắp dưới chân tường, gần cổng ra vào của nhà phú hộ. Tiếng
rên của ông làm đàn chó trong sân sủa loạn. Người ta khiêng ông vào cạo gió,
thay quần áo, nhưng ông vẫn mê sảng, luôn miệng gọi những tên người: Thục Nga,
Hữu Dư, Tuệ Năng... Đồn rằng lúc mới đến gã ăn mày có dáng vẻ một nhà Nho
nghèo, nom quắc thước và rất khó đoán tuổi. Sau trận ốm dài, được phú hộ họ Cao
tốt bụng hết lòng chăm sóc, ông khỏi bệnh nhưng râu tóc mọc dài, có nhiều sợi bạc,
nên mới biến thành ông lão. Cảm cái ơn cứu mạng, ông tình nguyện ở lại chăn
trâu không công cho nhà phú hộ. Lúc rảnh rỗi ông làm thơ rồi đọc cho các ngư phủ
ngoài bến sông nghe, lại dạy họ nhiều điệu hát cho quên sự mỏi mệt. Nghe các
ngư phủ trong vùng ca ngợi cảnh đẹp của cửa biển Tư Dung, ông lão cao hứng làm
bài thơ “Tư Dung vãn” dài hơn 300 câu lục bát, mượn cảnh thần tiên ấy ca ngợi
chúa Tiên [3] Nguyễn Hoàng:
Cõi Nam từ định phong cương
Thành đồng chống vững, âu vàng đặt an
Hay như:
Đoái lòng thương hải rộng thênh
Bâng khuâng sẽ nhớ đức lành tiên quân
Đường Ngu lấy đức trị dân
Súng trời buông lửa, sóng thần nép oai...
Có lúc, hình như cảnh ấy gợi niềm thương nhớ của ông lão về một
người bạn là vị thiền sư đang trụ trì ở đâu đó:
Thơ thôi, vẫy gọi Thiền tăng
Cảnh này sư có vui chăng hỡi thầy.
Nghêu ngao tắm suối nằm mây
Thị phi mặc thế tháng ngày thung dung
Làu làu gương sáng giá trong
Vui niềm son đỏ, lánh vòng bạc đen
Người Đà nên đứng cao Thiền
Phật dầu chưa hẳn, ắt Tiên đã gần.
Lại có lúc ông lão tưởng tượng mình ra cửa biển Tư Dung gọi
ngư phủ dưới thuyền lên bờ đàm đạo thế sự nhân tình:
Khách nghe cả gọi ngư ông
Thuyền người đậu đó, tớ cùng luận chơi
So xem trong đạo làm người
Ông còn có bài thơ “Ngoạ Long Cương vãn”, tự ví mình như Gia
Cát Lượng đời nay nên đám ngư phủ gọi ông là “lão ngông”. Mà ngông cũng chẳng
oan, vì một ông lão chăn trâu có đận đi ăn mày lại dám so với Thừa tướng Gia
Cát võ hầu thì thật tức cười. Tuy vậy, hết thảy ngư phủ trong vùng đều thuộc
lòng cả hai bài thơ. Những lúc ngồi buồn trên thuyền hay khi uống rượu, họ thường
nghêu ngao hát hai bài thơ ấy.
Nhà phú hộ có cô con gái lớn Cao Thị Nguyên, goá chồng, tuổi
ngoài ba mươi, ở vậy nuôi con gái lên mười, nhưng nhan sắc vẫn còn mặn mà. Phú hộ
họ Cao nghe lời khuyên của lão ngông, đổi tên nàng thành Vân để tránh tên huý của
chúa Sãi. Nàng Vân rất mê thơ và nghe ông lão chăn trâu hát. Vân cố nài nỉ song
thân, đòi được hàng ngày mang cơm cho ông để được trò chuyện, chiêm ngưỡng một
con người ngông nghênh, lập dị mà nàng dự cảm thấy bên trong ông tiềm ẩn sự phi
thường. Lúc đầu, ông có ý lạnh nhạt, lảng tránh con mắt tha thiết của nàng. Dần
dà, họ thành đôi bạn thân thiết, đọc được tâm trạng và ý nghĩ của nhau. Ông kể
cho nàng nghe những cuộc chu du kỳ thú trên miền rừng núi hoang vu của nước Xá
Lợi, nước Lâm Ấp với những mái nhà rông và tiếng cồng chiêng bên bếp lửa bập
bùng. Ông hát cho nàng nghe những điệu dân ca sâu lắng, mượt mà ở vùng đồng bằng
Cửu Long Giang xa xôi của nước Thuỷ Chân Lạp. Những lúc buồn nhớ quê hương ở xứ
đàng ngoài, ông cầm đũa gõ vào chiếc chén úp thay trống chầu, để hát những điệu
ca trù nghe bổng trầm, tha thiết, du dương, và ca từ chính là những bài thơ ông
viết. Nàng Vân nhớ mãi một lần vào lúc xẩm tối, ông lão ngông lùa trâu về chuồng,
gặp rất đông quan khách đến dự tiệc mừng thọ Cao Nham. Trong số ấy có nhiều kẻ
ngạo mạn, rượu vào lời ra, thả sức cao đàm khoát luận về văn chương, chữ nghĩa
trong các sách của thánh hiền. Lão ngông đứng ở giữa sân, khoanh tay nhìn họ cười
nhạt. Một gã say trừng mắt, đứng dậy, sấn đến túm ngực lão ngông quát:
- Thằng khố rách chăn trâu biết gì chữ nghĩa mà dám đứng đây
nghe vụng?
Lập tức đám đông nhao nhao xỉ mắng:
- Cút xéo ngay, đồ mạt hạng!
- Thả chó ra cho nó cắn chết thằng khùng.
- Loại người tha phương cầu thực ở xứ đàng ngoài vào đây sao
không biết thân biết phận?
- Trói cổ nó đem lên quan bỏ tù cho bõ ghét...
Chủ nhà Cao Nham vốn biết con gái mình có tình ý với lão
ngông, chợt nảy ra ý muốn nhân dịp này thử tài lão. Ông đứng dậy can ngăn mọi
người hãy yên lặng, bình tĩnh nghe gã chăn trâu nói sau rồi có muốn bắt tội
cũng chưa muộn. Lão ngông thấy vậy liền ngửa mặt lên trời cười vang. Lát sau,
lão bước lại gần dãy bàn tiệc, nhìn khắp lượt mọi người và nói:
- Chư vị ngồi đây thảy đều vỗ ngực là Nho sinh hay văn nhân,
thi sĩ, nghĩa là toàn những bậc cao sang tôn quí. Lão ngông ta rõ ràng là kẻ
chăn trâu, cắt cỏ. Nhưng chư vị hãy nên nhớ rằng Nho có Nho quân tử và Nho tiểu
nhân, chăn trâu cũng có người chăn trâu anh hùng và kẻ chăn trâu tôi tớ, hèn mọn,
cao thấp khác nhau, hiền ngu chẳng phải một. Nay cứ tạm gọi tôi là đứa tiểu
nhân đứng nhìn chư vị, tất chẳng liên quan gì đến sự tôn quí, có tội lỗi gì mà
xua đuổi?
- Vậy nhà ngươi hãy nói cho rõ thế nào là Nho quân tử, Nho tiểu
nhân? - Một người trong bọn chất vấn.
- Phàm là Nho quân tử thì trên thông thiên văn, dưới hiểu địa
lý, giữa thấu việc người. Ở nhà tất phải giữ đạo cha con, anh em, bạn bè, chồng
vợ... trật tự phân minh, nghĩa tình vẹn đủ. Đối với nước tất phải biết mưu lược
yên dân giúp đời, cứu hiểm phò nguy, bày binh bố trận, vào chính ra kỳ, lập
công danh, lưu sự nghiệp rạng rỡ nghìn thu. Nhà Thương có Y Doãn, nhà Chu có
Thái Công, nhà Thục Hán có Gia Cát Lượng, còn bên ta có Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt,
Tô Hiến Thành, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi... là những người như thế. Lại nói về
Nho tiểu nhân thì tài học chỉ ở chỗ tằm chương trích cú, háo danh cầu lộc; cậy
danh là Nho mà chỉ biết cười gió cợt trăng, kiêu căng giấu dốt, xu nịnh luồn
cúi, hống hách khoe khoang..., hỏi làm sao hiểu được ý chí của thánh hiền, đạo
lớn của thiên hạ? Họa may họ leo được ghế này phẩm nọ, nhất thời được coi sóc
dân chúng xử lý chính sự thì trăm phương nghìn kế mưu cầu lợi riêng, không nghĩ
rằng sâu mọt hại dân chính là thứ giặc nội xâm, nguy cơ mất nước sờ sờ ra đó mà
giả đui giả điếc. May hơn nữa mà được dự bàn kế sách lớn của nước nhà thì mặc
người khác lo toan suy nghĩ, còn mình chỉ bàn tán rông dài, thao thao múa mép
như bọn Kiều Hạo, Vương Diễn đời Tấn bên Tàu, loại người ấy có gì đáng nói đến.
Ở bên ta cũng có gương tày liếp là bọn tiểu nhân Ích Tắc, Nhật Hiệu
đời Trần đấy thôi!...
Khắp mấy bàn tiệc ai nấy nghe xong sững sờ, kinh ngạc. Nhưng
vẫn có người hung hăng hỏi tiếp:
- Thế còn loại người chăn trâu anh hùng với chăn trâu tôi tớ
ra sao, hãy nói thử cho chúng ta nghe một thể? Ha ha! Chăn trâu mà cũng có anh
hùng sao?
- Này người kia, mau dỏng tai mà nghe lão ngông này nói tiếp:
Kẻ chăn trâu vẫn có Ninh Thích phục hưng được nước Tề, Điền Đan tung lửa đốt giặc
thu lại hết các thành trì bị mất vào tay nước Yên, Hứa Do cho trâu uống nước ở
khe mà có thể phân biệt hưng - vong - trị - loạn, Bách Lý Hề chăn dê ở miền
hoang nước Tàu mà biết được thời vận bĩ - thái, thịnh - suy. Đó há chẳng phải
là những kẻ chăn trâu, dắt dê anh hùng trong sách sử nước Tàu đó sao? Sử bên ta
cũng đã từng ghi nhận cậu bé chăn trâu Đinh Bộ Lĩnh phất cao cờ nghĩa, dẹp loạn
mười hai xứ quân, thu giang sơn qui về một mối, liệu chư vị ngồi đây có dám so
mình với hoàng đế chăn trâu nhà Đinh?... Còn như hạng chăn trâu tôi tớ thì quẩn
quanh trong cõi, xe chở đấu lường, no thì bỏ thừa, đói thì xin ăn, trộm quả ban
ngày, khoét vách ban đêm, làm xấu lây các bậc cha anh, để oán giận cho làng
trên xóm dưới... Loại Nho tiểu nhân ban nãy vừa nói, nếu gặp lúc khốn cùng tất
sẽ thành kẻ chăn trâu tôi tớ cả thôi.
Mọi người nghe lão ngông nói năng lưu loát, bác cổ thông kim,
thảy đều giật mình cứng lưỡi, ngồi im thin thít, trán vã mồ hôi, nháy nhau lỉnh
dần. Chủ nhà Cao Nham thấy vậy mừng khôn xiết, ân cần cầm tay lão ngông nói:
- Tài giỏi như vậy, sao ông giấu mắt lão phu? Thật là xót xa,
mấy tháng nay lão để ông phải phong trần dính áo, ngọc đá chẳng phân, công gà lẫn
lộn! Lão phu không biết nhìn người, có tội lắm, có tội lắm!
Nàng Vân chứng kiến mọi việc xảy ra trong bữa tiệc mừng thọ,
lòng tràn ngập vui sướng, càng yêu say đắm lão ngông. Những ngày sau đó nàng lại
cảm thấy u sầu, hờn tủi vì song thân nàng may sắm quần áo, mời ông lên ở nhà
trên có kẻ hầu hạ mà ông vẫn một mực từ chối, an phận làm kẻ chăn trâu. Đã có
lúc phụ thân nàng đánh bạo gợi ý sẽ tác hợp cho hai người nên vợ nên chồng,
nhưng ông bảo mình sự nghiệp chưa thành, không muốn vướng bận thê nhi. Nàng Vân
đành ôm hận, chờ đợi mỏi mòn thành người ốm lửng, ngày một hao gầy...
Hữu Tiến rong ruổi đi bộ trên con đường độc đạo dẫn ra phía
biển lòng đầy hứng khởi. Hai ngày đầu cậu đi về hướng miền Tây Quảng Nam học
được bao điều lạ, lại được mở rộng tầm mắt bao quát một vùng rừng núi hiểm trở
và kỳ vĩ. Cậu thầm biết ơn sư phụ đã cho mình cơ hội dã ngoại nhiều bổ ích. Cậu
đến bờ sông Thu Bồn, nơi gặp dòng Vu Gia, cách biển chừng hơn một dặm thì trời
đã tròn bóng nắng. Cậu thơ thẩn leo lên sườn một quả đồi, nhìn ra bốn bề đồng
lúa bao la sông nước, gió thổi lồng lộng. Nơi đây có đồi dốc thoải, có sông rộng
hợp lưu xuôi ra cả biển, lại có đồng lúa xen lẫn ao đầm um tùm lau sậy, thật đắc
địa cho việc dụ binh của giặc từ xa đến mà lấy sức nhàn cự nhọc. Cậu thấy lâng
lâng xao xuyến khi thấy đàn bò, trâu, dê nhẩn nha gặm cỏ trên các sườn đồi đầy
cỏ non xanh mởn. Xa xa, mấy nếp nhà tranh ẩn mình sau luỹ tre, yên bình và thơ
mộng. Lúc nãy, trên đường đến đây, cậu có ghé qua thăm một chợ quê khá tấp nập
người mua, kẻ bán. Hàng hoá trong chợ thật phong phú, có nhiều sản vật của người
Thượng trên núi cao của nước Xá Lợi, lại có những sản vật gốm sứ vùng Trấn Biên
của nước Thuỷ Chân Lạp đưa ra theo đường biển, còn nông lâm hải sản của đất Quảng
thì ngập đầy các sạp hàng, lều chợ. Cậu nhớ lại lời của sư phụ nói với già lam
Huỳnh Bảo: “Muốn biết lẽ thịnh suy của nước, chỉ cần đi vào các chợ quê, nhìn từng
gương mặt đàn bà, con gái ở đó thì khắc hiểu”. Cậu đã gặp họ và cảm thấy họ rạng
ngời niềm vui hạnh phúc. Điều ấy đủ biết quan Tổng trấn Quảng Nam là Nguyễn Phước
Kỳ, con trai cả Nguyễn Phước Nguyên cai trị dân có phép tắc nghiêm cẩn và nhân
hậu. Thêm nữa, cậu còn nghe dân chúng đồn đại nhiều chuyện ly kỳ, thú vị về lão
ngông nào đó, chăn trâu cho nhà phú hộ họ Cao. Hành tung bí hiểm, tài làm thơ,
đàn hát và kiến thức sâu rộng của lão ngông này chợt khiến cho cậu liên tưởng đến
thúc phụ Duy Từ. Cậu hồi hộp, khấp khởi mong sao điều phỏng đoán đó là sự thật.
Những đàn trâu, bò và dê kia đang ăn cỏ bên sườn đồi, phải chăng là của phú hộ
họ Cao? Nếu vậy, nhất định cậu sẽ được gặp lão ngông, tất rõ thực hư. Hữu Tiến
quên đói, bỏ bữa ăn trưa, bủa đi sục sạo, tìm kiếm khắp mấy quả đồi thì gặp chiếc
lều cỏ sơ sài che mưa nắng. Cậu bước vào lều, gặp một ông già đang ngồi xoay
lưng lại trên chõng tre, trầm ngâm đọc sách. Chiếc nón rách và cây gậy trúc gác
lên đùi làm giá đỡ cho cuốn sách đã nhầu nát, ố vàng. Cậu sững người ngắm kỹ
ông lão hồi lâu rồi quỳ xuống đất gọi to:
- Thúc phụ!... Cháu... cháu là Hữu Tiến ở sông Ngàn Sâu vào
tìm thúc phụ đây.
- Ta đang nằm mê chăng?... Hữu Tiến!... Sư phụ của con đâu?
Sao con tìm được chốn này?...
Đào Duy Từ bàng hoàng sung sướng. Chiếc nón rách và cây gậy
rơi xuống nền đất. Ông cầm cuốn sách, xoay lưng lại, nhìn Hữu Tiến
đang quỳ trước mặt. Cậu vùng dậy, lao tới, ôm chặt lấy Duy Từ, nghẹn ngào nói:
- Thúc phụ không nằm mê đâu. Con và sư phụ Tuệ Năng đêm ngày
mong ngóng, không ngờ thúc phụ lại ra nông nỗi này.
- Con vẫn chưa trả lời ta, sư phụ của con giờ ở đâu?
- Ngài ở chùa Long Hưng, chờ thúc phụ, sao thúc phụ không đến?
Vì sao thúc phụ phải chăn trâu cho người ta? Con chắc sư phụ Tuệ Năng sẽ rất
đau lòng khi biết thúc phụ rơi vào cảnh khốn cùng này.
- Chăn trâu cũng là một nghề lương thiện, có sao đâu. Ơ kìa,
Hữu Tiến! Sao con lại khóc?
- Con thương thúc phụ quá! Sao ông trời lại nỡ đoạ đầy một
người như thúc phụ?
- Bình tĩnh đi con. Tự ta muốn vậy chứ đâu phải trời đầy.
- Nhưng sao thúc phụ không đến chùa?
- Chuyện dài lắm! Ta chịu ơn cứu mạng của phú hộ họ Cao nên ở
lại chăn trâu trả nghĩa người ta. Việc đã nhận rồi, biết lấy ai thay ta trông
đàn gia súc, để lên chùa Long Hưng gặp sư phụ của con. Gặp mặt con ở đây ta
không còn lo gì nữa. Nào, hãy đứng dậy cho ta nhìn kỹ đứa cháu yêu, nghĩa tử của
ta.
Hữu Tiến từ từ đứng dậy. Duy Từ gạt nước mắt, tay run run sờ
nắn khắp người cậu. Ông không ngờ đứa bé mười tuổi năm xưa nay đã lớn vồng
thành một thiếu niên tuấn tú, sức vóc cường tráng. Càng nhìn càng thấy cậu giống
Thục Nga từ vầng trán, đôi mắt, sống mũi, cái cằm, đến miệng cười, giọng nói.
Hình ảnh người bạn gái thủa ấu thơ ở làng Hoa Trai quê nhà lại hiện lên trong
trái tim ông. Bao năm qua đi, có lúc nào ông nguôi thương nhớ nàng. Vì cái miệng
cười và ánh mắt ấy mà thủa còn trai tráng ông đã khước từ tình yêu của nàng Thục
Anh bên đất Tàu, giờ đây ông cũng đang lưỡng lự trước mối tình của nàng Vân,
con gái phú hộ họ Cao. Đã có lúc ông xiêu lòng vì thấy nàng Vân có thể lấp vào
chỗ trống vắng của đời mình, ông cũng cần một tổ ấm muộn mằn, trước khi quyết định
vào phủ chúa ra mắt Nguyễn Phước Nguyên. Nửa năm chăn trâu ở đây ông đã dò hỏi
được nhiều điều về cha con Nguyễn Phước Nguyên và Nguyễn Phước Kỳ. Ông thấy họ
nối được chí hướng của Nguyễn Hoàng nên mới chủ tâm làm bài thơ “Tư Dung vãn” để
các ngư phủ trong vùng truyền cho nhau hát trên thuyền, đánh tiếng thăm dò với
phủ chúa ngoài Thuận Hoá. Bài thơ “Ngoạ Long Cương vãn”, ngày xưa ông đã từng gảy
đàn, hát cho Nguyễn Hoàng nghe ở chùa Tiêu Sơn ngoài Bắc, đám ngư phủ cũng thuộc
lòng, truyền đi rất xa, ắt có ngày đến tai Nguyễn Phước Nguyên. Ông chỉ giữ kín
miếng lụa trắng có bút tích Nguyễn Hoàng ghi bài thơ xướng hoạ giữa hai người.
Nó chỉ có thể là kỷ vật giữa ông và chúa Tiên, chứ thâm tâm ông không muốn dùng
nó làm bùa hộ mệnh để được tiến cử. Người ta không biết tên thật, gọi ông là
lão ngông, cũng vì ông còn muốn giáp mặt Nguyễn Phước Nguyên, dò xét thêm lần
cuối về chí hướng của bậc minh chúa trước khi quyết định bộc lộ mình. Dẫu sao,
ông đã dự cảm thấy ngày thực hiện lời uỷ thác của đại sư Duy Giác giúp họ Nguyễn
mở cõi, hùng cứ phương Nam đang đến gần. Ở tuổi năm mươi, ông cần một tổ ấm và
cần có người nối dõi tông đường. Nàng Vân là người hiểu ông như Thục Nga đã từng
hiểu và thương ông. Điều ông ray rứt là chưa có tin tức gì của cha con Hữu Dư -
Hữu Tiến, nên chưa thể an tâm đáp lại mối tình của nàng Vân. Nay giọt máu để lại
của Thục Nga xuất hiện làm xao động hồn ông, khơi dậy trong ông tình yêu thời
trai trẻ, tưới lên cánh đồng khô khát trong ông trận mưa rào của nỗi đam mê, của
niềm khát vọng. Bất giác ông ôm chầm lấy Hữu Tiến, nuốt những dòng lệ chảy
tràn, gọi thầm hai tiếng “Thục Nga”... Bên tai ông vẳng nghe tiếng thì thầm của
nàng Vân hay của Thục Nga, ông cũng không biết nữa...
Chú thích:
Chú thích:
[3] Chúa Tiên: tên mà
dân Nam thường gọi chúa Nguyễn Hoàng (ví như vị Tiên), giống như các
tên chúa Sãi, chúa Nghĩa, chúa Hiền... sau này.
Chương 9
HỒI THỨ CHÍN
Minh chúa thâu đêm bàn mở cõi
Anh hùng suốt sáng luận cơ mưu
Nắng chiều lạt dần rồi lịm tắt. Xa xa phía trời Tây, dãy Trường
Sơn đã ngậm già nửa mặt trời. Cánh đồng trên bờ sông Vu Gia chỉ còn những vệt
sáng chuyển sang mầu tím sẫm. Những cánh cò thôi bay, rủ nhau về ngủ trên các bụi
tre. Trong nhà phú hộ họ Cao, nàng Vân ngơ ngẩn vào ra, ngóng đợi đàn trâu về
chuồng mà sao chưa thấy. Có lẽ lão ngông gặp chuyện gì chăng? Thường ngày vào
giờ này, nàng đã thấy ông ngả nón, xếp gậy vào góc sân và ra bờ giếng kéo gầu
nước lên, ngửa cổ uống từng hớp ngon lành. Nàng sẽ bồi hồi ngắm lồng ngực đỏ
au, cặp mắt sáng rực và bộ râu ba chòm của người mình thương nhớ. Nàng sẽ mang
khăn chạy ra đưa ông lau mặt và giục ông ăn cơm tối với cá bống kho riềng hay
tép khô rim với khế chua mà ông ưa thích. Trời tối dần, vẫn chưa thấy ông lùa
đàn trâu về, khiến nàng phấp phỏng lo âu. Nàng tất tưởi chạy ra đầu làng đón đợi.
Kia rồi, ông đang về cùng với một cậu thiếu niên tuấn tú, ăn mặc
theo lối nhà chùa. Cậu cầm gậy lùa trâu đi trước, còn ông lững thững theo sau,
nói cười vui vẻ. Chưa lần nào nàng thấy ông vui như hôm nay. Ông đã tìm gặp lại
được người thân, điều ấy đã rõ. Nhưng cậu thiến niên ấy quan hệ với ông thế
nào? Nàng đã nguyện một lòng thờ phụng ông, sẵn sàng chia xẻ cùng ông niềm vui
và nỗi buồn, nếu đó là con trai của ông, cũng sẽ là con của nàng; nếu nó là người
cùng quê, nàng sẽ nói với song thân thu nhận vào làm việc nhẹ, phụ giúp nàng
đưa cơm cho thợ cấy, thợ cày. Chỉ mong sao ông đón nhận tình yêu của nàng vun đắp
hạnh phúc lâu dài, thì dù có phải tát cạn sông Vu Gia để ông được vui như chiều
nay, nàng cũng làm bằng được.
Lão ngông dắt Hữu Tiến lên nhà trên, chào vợ chồng Cao Nham
và giới thiệu với nàng Vân. Cả nhà mừng rỡ, ân cần thăm hỏi và nài ép hai người
cùng ăn cơm tối ở nhà trên, không chịu để họ xuống ăn ở nhà dưới. Trong bữa ăn,
cô bé Hương, con gái nàng Vân nhanh chóng làm thân với Hữu Tiến. Nhìn đôi trẻ
quyến luyến nhau, bất giác Duy Từ chạnh nhớ đến cô bé Thục Nga năm
xưa tiễn mình đi chùa Đàn Xuyên theo học đại sư Duy Giác. Con bé Hương kia cũng
trạc tuổi nàng năm ấy. Có lẽ trời phật muốn xe duyên cho hai đứa trẻ
này chăng? Ông liếc nhìn sang nàng Vân, cảm thấy nàng cũng chung một ý nghĩ. Cả
hai cùng ý tứ nhìn nhau mỉm cười. Khi ông trình bày với Cao Nham muốn xin nghỉ
vài ngày theo Hữu Tiến lên chùa Long Hưng thăm sư Tuệ Năng, nàng Vân chợt giật
mình lo sẽ mất ông. Nàng khẽ thở dài nhìn vào mắt ông, cúi đầu the thắt buồn.
Ông hiểu và thương nàng, muốn ôm nàng vào lòng an ủi rằng ta sẽ quay về, nhất định
sẽ quay về cùng nàng xe tơ kết tóc. Ta sẽ cho nàng biết, ta không phải là lão
ngông, ta là Đào Duy Từ nuôi chí vào Nam, giúp chúa mở cõi,
giúp dân lập nghiệp, giúp đời tương ái.
Đêm ấy Duy Từ và Hữu Tiến nằm trong ổ rơm, rì rầm tâm sự đến
sáng. Ông hỏi thăm tình hình làm ăn ở trang trại của Hữu Dư ngoài Bắc và những
dân di cư đói khổ trên đường vào Nam được Hữu Dư giúp đỡ ra sao. Ông hỏi chuyến
đi của thày trò Tuệ Năng - Hữu Tiến từ sông Ngàn Sâu vào chùa Long Hưng qua những
nơi nào, phong thuỷ và tập quán dân chúng có gì khác biệt. Ông hỏi về việc học
văn, luyện võ của Hữu Tiến. Trong câu chuyện, cậu kể lại cho thúc phụ nghe về
ba ngày thực hành binh pháp mà sư phụ đã bố trí vừa rồi. Duy Từ thầm cảm phục,
biết ơn sư Tuệ Năng đã không quên nghiên cứu tập bản thảo cuốn “Hổ trướng khu
cơ” mà mình dày công khởi thảo suốt cả một thời trai trẻ. Ông cũng mừng vì Hữu
Tiến rất thông minh, sớm nắm được cái hồn của mỗi trang viết trong cuốn sách ấy.
Nó chưa hoàn thiện, cần được ông suy ngẫm chỉnh lý nhiều, nhưng vẫn có thể giúp
đứa con trai duy nhất của Thục Nga làm nên sự nghiệp sau này. Gần sáng, ông nói
với cậu:
- Hóa ra sư phụ của con đã tiên đoán trước những nước cờ mà
ta sẽ sắp đặt trên chính trường ở phương Nam. Sư Tuệ Năng có nói thêm gì với
con trước lúc khởi hành không?
- Sư phụ chỉ đặt ra cho con hai tình huống, nếu ta đánh nước
Xá Lợi thì hành quân, lập trại và giao chiến trên vùng rừng núi hiểm trở ra
sao; còn nếu họ đem quân xuống đồng bằng ven biển cướp phá thì cự lại bằng cách
nào?
- Vậy giả sử chiều qua, ở ngã ba sông Vu Gia - Thu Bồn có giặc,
con định ứng xử cách gì?
- Trong binh pháp của thúc phụ có dạy phải lấy sức nhàn cự nhọc,
chọn địa thế có lợi rồi nhử cho giặc sinh kiêu mà vây hãm. Vì thế, con định sẽ
thưa với sư phụ rằng nếu con làm tướng sẽ vờ đánh nhau với giặc ở thung lũng
thượng nguồn sông Thu Bồn rồi vừa đánh vừa lui, nhử giặc đến đầm lầy ven sông
Vu Gia, lúc đó sẽ vây bọc chúng lại để quyết chiến.
- Tại đây con sẽ dùng trận pháp gì?
- Con sẽ dùng phép “Lưới trời yểm trại” của thúc phụ viết
trong sách hôm qua con đọc.
- Nói cụ thể hơn cho ta nghe.
- Thưa thúc phụ, con đang lúng túng, chưa biết vận động kết hợp
trong ngoài ra sao cho phù hợp với địa thế có ruộng, có đồi, có
sông, có biển như ở đây.
- Ta sẽ giảng cho con rõ: phép đánh trận có chính binh và kỳ
binh, có lực lượng tiên phong và quân dự bị. Hãy xem xét địa thế ở đây thật kỹ,
con sẽ mường tượng ra ba điểm có địa hình đặc biệt mà tùy nghi bày binh, bố trận.
Trên các sườn đồi, con chọn những đội binh tinh nhuệ đào hố ẩn nấp để ém quân
chờ dịp xuất thần độn thổ xông ra. Ở cửa sông, con lập một thuỷ trại thành thế ỉ
dốc làm lực lượng dự bị. Nơi quyết chiến với giặc theo phép “Lưới trời yểm trại”
con chọn ở đầm lầy, ruộng lúa kẹp giữa hai sông Vu Gia và Thu Bồn. Phép làm trại,
trước lấy dây gai làm lưới thật to, bốn mặt đều có mảnh tre làm nẹp, bốn góc lại
có vòng sắt, mỗi vòng đường kính rộng chừng hai tấc.
Bốn bên lưới ấy, chia đều trên mặt đất làm bốn góc, mỗi góc đóng hai cọc cao hai thước, cách nhau một thước, đầu cọc đục xuyên một lỗ chừng một tấc năm phân, hai lỗ ở hai cọc đồng tâm với nhau, bốn góc đều thế. Con dùng gỗ dài đẽo bốn cái cột neo, mỗi cái dài tám thước, một đầu đóng cốt sắt vào (to một tấc chín phân), còn đầu kia đục lỗ to hai tấc xuyên ngang. Con lại lấy thanh gỗ cứng dài một thước sáu tấc, rộng một tấc chín phân, bốn góc lưới làm đủ như thế. Đến khi dùng, trước hết đem neo để ở quãng giữa hai cái cọc, lấy thanh gỗ rắn cắm vào như hình cái chàng xay, rồi lấy cán gỗ đầu neo cắm vào vòng sắt ở bốn mặt lưới và giương lưới lên cao. Sau đó dùng bốn cây nống mà nống bốn cái neo lên, lại lấy bốn sợi dây chão buộc vào chân cây nống kéo ra. Xong rồi, con lấy một mảnh ván vuông hai thước, bốn góc mỗi góc dùi hai cái lỗ, đem đặt lên mặt hố vuông sâu hai thước trên nhỏ dưới to, rồi kéo dây buộc vào các lỗ đã dùi sẵn ở bốn góc tấm ván. Trên lưới treo các thứ đao, thương, tên, đá và bên ngoài lưới làm sẵn các lều trại giả như ém quân trong đó để nhử giặc đến. Quân giặc đang kiêu, tham lợi hùa nhau xông vào cướp trại, xéo vào tấm ván vuông, ván sập xuống, dây giật cây nống bốn mặt đổ xuống như lưới bẫy chim sẻ, giặc tha hồ mà kêu gào, giãy dụa.
Bốn bên lưới ấy, chia đều trên mặt đất làm bốn góc, mỗi góc đóng hai cọc cao hai thước, cách nhau một thước, đầu cọc đục xuyên một lỗ chừng một tấc năm phân, hai lỗ ở hai cọc đồng tâm với nhau, bốn góc đều thế. Con dùng gỗ dài đẽo bốn cái cột neo, mỗi cái dài tám thước, một đầu đóng cốt sắt vào (to một tấc chín phân), còn đầu kia đục lỗ to hai tấc xuyên ngang. Con lại lấy thanh gỗ cứng dài một thước sáu tấc, rộng một tấc chín phân, bốn góc lưới làm đủ như thế. Đến khi dùng, trước hết đem neo để ở quãng giữa hai cái cọc, lấy thanh gỗ rắn cắm vào như hình cái chàng xay, rồi lấy cán gỗ đầu neo cắm vào vòng sắt ở bốn mặt lưới và giương lưới lên cao. Sau đó dùng bốn cây nống mà nống bốn cái neo lên, lại lấy bốn sợi dây chão buộc vào chân cây nống kéo ra. Xong rồi, con lấy một mảnh ván vuông hai thước, bốn góc mỗi góc dùi hai cái lỗ, đem đặt lên mặt hố vuông sâu hai thước trên nhỏ dưới to, rồi kéo dây buộc vào các lỗ đã dùi sẵn ở bốn góc tấm ván. Trên lưới treo các thứ đao, thương, tên, đá và bên ngoài lưới làm sẵn các lều trại giả như ém quân trong đó để nhử giặc đến. Quân giặc đang kiêu, tham lợi hùa nhau xông vào cướp trại, xéo vào tấm ván vuông, ván sập xuống, dây giật cây nống bốn mặt đổ xuống như lưới bẫy chim sẻ, giặc tha hồ mà kêu gào, giãy dụa.
Duy Từ giảng tiếp:
- Phép “Lưới trời yểm trại” của ta chỉ dùng bẫy giặc vào ban
đêm, ở nơi đầm lầy hay ruộng lúa. Khi quân giặc bị sập bẫy, đội hình rối loạn
thì các đội kỳ binh ẩn nấp trên sườn đồi cùng nhất loạt khua chiêng, đánh trống
mà ào xuống, phối hợp với quân ở đầm lầy vây bọc trong ngoài quyết chiến. Lúc
này quân ở thuỷ trại ngoài cửa biển theo pháo lệnh chia thuyền thành hai mũi tiến
vào hai dòng sông Vu Gia, Thu Bồn để tiếp ứng, truy kích giặc...
Mờ sáng hôm sau, Duy Từ và Hữu Tiến vái chào gia đình phú hộ
họ Cao, hăm hở đi về chùa Long Hưng. Nàng Vân lưu luyến tiễn chân hai người ra
tận cổng làng, nước mắt lưng tròng. Duy Từ cầm tay nàng an ủi, hẹn trong vài
ngày sẽ quay lại. Nàng gục đầu trên vai ông thổn thức không muốn rời xa. Cô bé
Thu Hương cũng quấn quýt bên Hữu Tiến, muốn theo cậu lên chùa. Duy Từ bồi hồi
xúc động. Ông thoáng nghĩ về Thục Nga, thầm cầu khấn nàng linh thiêng hãy về chứng
giám cho cuộc tình của ông với nàng Vân mà sau này tác hợp cho Hữu Tiến với bé
Hương, để gắn kết mãi mãi các thế hệ mai sau trong một mái nhà chung của những
kẻ mồ côi, bất hạnh vì chiến tranh tàn khốc. Cuộc đoàn tụ của ông với sư Tuệ
Năng ở chùa Long Hưng suốt mấy ngày sau đó đã bù đắp những tháng năm cô đơn,
đem lại cho ông niềm tin vào cuộc đời, nuôi lớn trong ông khát vọng mở cõi ...
Khán lý cống [1],
quận công Trần Đức Hòa nhận được thư báo hỉ của người anh em họ ngoại dưới quê
là Cao Nham, vui như mở cờ trong bụng. Ông lật đật vào phủ chúa xin ra mắt Nguyễn
Phước Nguyên. Dẫu chỉ là người trông coi việc thu thuế, vận lương cho chúa Sãi,
nhưng ông vốn quê ở Quảng Nam, thời gian Phước Nguyên làm Tổng trấn đất Quảng
có quan hệ thân thiết với gia đình họ Trần, tình như thủ túc, nên khi chúa lên
kế nghiệp có ý muốn cất nhắc. Theo quy định thời chúa Tiên, nghiêm cấm việc bổ
nhiệm đặc cách vào những chức quan từ tam phẩm trở lên, nếu người đó chưa có
công lao gì đặc biệt. Vì vậy chúa Sãi tạm giao cho Trần Đức Hoà chức Khán lý cống, tuy
đứng vào hàng tứ phẩm, nhưng ông được phép ra vào phủ chúa bàn việc cơ mật như
quan nhất phẩm, dần dần mới phong tước quận công. Chúa Sãi coi trọng ông không
hề vì tình riêng mà sớm nhìn thấy ở con người này bản tính thận trọng, trung thực,
hợp với công việc thu thuế, vận lương là chức quan dễ mắc vào tội tham nhũng, hối
lộ. Mặt khác, ông xuất thân trong lớp bình dân, có quan hệ rộng với nhiều bậc
trí giả ở các địa phương, sẽ rất cần cho việc tiến cử hiền tài ra giúp nước. Thời
gian ở Quảng Nam, ông đã tiến cử tướng Nguyễn Hữu Dật làm gia tướng cho quan Tổng
trấn Phước Nguyên. Đến khi Nguyễn Hoàng theo kế bày sẵn của Duy Từ ở chùa Tiêu
Sơn, Nguyễn Hữu Dật đã lập công lớn, ém quân tại hòn đảo hoang ngoài cửa Ba Lạt,
hộ tống chúa Tiên trốn vào Nam an toàn. Giờ đây, Hữu Dật đang đảm trách việc tuần
phòng, trấn giữ vùng biên ải giáp ranh với xứ đàng ngoài không hề có một sơ suất
nhỏ.
Dinh thự của chúa Sãi vừa được xây cất khá công phu, bề thế
uy nghiêm không kém gì phủ chúa Trịnh ở kinh đô đàng ngoài. Năm ngoái, chúa kén
người xem phong thuỷ, cho khởi công xây dựng ở địa phận xã Phước Yên thuộc huyện
Quảng Điền toà lầu gọi là Bác Vọng, hàm ý chúa đêm ngày ngóng vọng các bậc chân
tài, bác học theo về họ Nguyễn, đem lại quốc thái dân an, cương thổ mở rộng.
Nguyễn Hoàng sinh hạ được mười công tử và hai công nữ, công tử thứ năm Nguyễn Hải
phải để lại Đông Đô làm con tin cho chúa Trịnh, công nữ Ngọc Tú cũng gả cho Trịnh
Tráng để làm mối giao hoà giữa hai họ Trịnh - Nguyễn. Đồn rằng kể từ khi sinh hạ
công tử thứ sáu là Nguyên mới bắt đầu dùng chữ lót là Phước. Một đêm bà Nguyễn
Thị nằm mơ thấy chữ Phước rất to, lấp lánh hào quang rơi vào bụng
mình thì chuyển dạ. Nguyễn Hoàng là bậc danh tướng dòng dõi thế gia, học vấn
cao minh nên cho là điềm trời cho họ Nguyễn phước lộc để gây dựng sự nghiệp,
hùng cứ phương Nam, bèn đặt tên cho con là Nguyễn Phước Nguyên. Từ đó, chúa
Tiên hết lòng yêu thương chăm sóc Phước Nguyên, đặc cách giao việc dạy dỗ công
tử thứ sáu cho trọng thần Nguyễn Ư Dĩ. Mười năm thử thách làm quan Tổng trấn Quảng
Nam của Phước Nguyên rất đẹp lòng chúa Tiên. Ông thấy công tử dốc lòng chăn
dân, khuyến nông, khuyến thương, mở mang hải cảng Hội An thông thương với các
quốc gia trong vùng; bỏ tiền xây dựng và tu bổ các chùa chiền như Long Hưng, Bửu
Châu... Khi chúa Tiên lâm bệnh nặng, ngài có ý muốn truyền ngôi cho công tử thứ
sáu Phước Nguyên, gọi các đại thần Nguyễn Ư Dĩ, Tống Phước Trị, Mạc Cảnh Huống
lại bên giường bệnh dặn dò: “Các ngươi đều là những trọng thần trung nghĩa,
theo ta vào Nam đã mấy chục năm, cùng nhau kham khổ dựng nên cơ nghiệp. Nay ta
đã 89 tuổi, chết chẳng ân hận gì, muốn giao gánh nặng cho Phước Nguyên, các ngươi
nên đồng lòng hợp sức giúp đỡ nó hoàn thành sứ mệnh, phía Bắc giữ yên bờ cõi,
phía Nam mở rộng vương quyền, để lưu danh sử sách”. Các đại thần đều khóc và quỳ
xuống nhận lời uỷ thác. Chúa Tiên lại gọi Phước Nguyên bắt phải quỳ lạy tôn ba
vị đại thần làm sư phụ, rồi ngài dặn tiếp: “Làm con phải hiếu, làm tôi phải
trung, anh em trước hết phải yêu thương nhau. Con giữ được lời dặn dó thì ta
yên tâm về với tổ phụ. Đất Thuận - Quảng này phía Bắc có núi Hoành Sơn và sông
Linh Giang, phía Nam có núi Hải Vân và sông Thu Bồn, sông Vu Gia, lại có núi Thạch
Bi, rừng Đại Lộc nhiều lâm sản và quặng quý hiếm. Đây thật là nơi trời để dành
cho người anh hùng dụng võ, xây bền cơ nghiệp. Vậy con phải chuyên tâm yêu dân,
siêng năng luyện tập quân sĩ, kính trọng hiền tài để nước nhà cường thịnh. Đất
này giữ vững không khó, nhưng muốn mở cõi vào sâu trong Nam hay lên
Tây Nguyên cần có một nhân tài kiệt xuất. Lần ra Bắc thứ hai, ta may mắn gặp được
tiên sinh Đào Duy Từ ở chùa Tiêu Sơn, trấn Kinh Bắc. Nhờ có tiên
sinh ấy mà ta thoát hiểm vào Nam, lại cài đặt được mạng lưới thám tử ngoài
Đông Đô trong cái vỏ ngoài làm thương nhân. Thoắt đã hơn hai mươi năm ta chờ đợi
mà Duy Từ vẫn bặt tăm. Thám tử ngoài Bắc cho biết sau khi gặp nạn ở bên Tàu,
tiên sinh đã vào Nam mà sao chưa đến ra mắt ở phủ chúa. Khi xưa ở chùa Tiêu
Sơn, ta có để lại bút tích ghi bài thơ xướng hoạ giữa ta và tiên
sinh họ Đào. Người này còn kém con một vài tuổi, nhưng đã là thầy ta, tất cũng
là sư phụ của Phước Nguyên. Dù phải tát cạn biển Đông, con cũng phải cố tìm cho
được tiên sinh Đào Duy Từ” ... Đó là vào năm Quý Sửu (1613). Chúa Tiên băng hà,
Phước Nguyên theo di chúc, sai người đi khắp nơi dò tìm không gặp được
Đào Duy Từ.
Thoắt đã 6 năm mỏi mòn tìm kiếm, trông đợi mà chúa Sãi vẫn chưa hề nghe được tin tức gì của Đào Duy Từ. Nước nhà đang hưng thịnh, văn võ bá quan trong phủ chúa rất đông, thảy đều giỏi giang, trung tín, nhưng Phước Nguyên vẫn phân vân, lo ngại, khao khát có được một người cầm đầu họ để mở cõi. Các đại thần Nguyễn Ư Dĩ, Tống Phước Trị, Mạc Cảnh Huống... hoặc đã già, không còn đủ sức kham nổi việc lớn, hoặc đã về trời theo gót chúa Tiên. Nguyễn Hữu Dật là danh tướng tài ba nhưng uy tín và tầm vóc trí tuệ chỉ đủ làm tướng tiên phong đoạt thành, phá ải hay trấn thủ một vùng mà thôi. Nguyễn Phước Kỳ, con trai cả của chúa Sãi có tài cai trị dân nhưng chưa đủ sức chỉ huy các tướng đi mở rộng bờ cõi. Gần đây Phước Kỳ từ Quảng Nam sai người tâm phúc về báo, có một lão ngông chăn trâu cho nhà phú hộ họ Cao và sư Tuệ Năng ở chùa Long Hưng là những bậc kỳ tài. Đối với sư Tuệ Năng, Phước Kỳ đã nhiều lần tiếp kiến, tha thiết ngỏ lời, nhưng nhà sư một mực từ chối, chỉ xin được chuyên tâm truyền bá đạo Phật của Thiền phái Trúc Lâm, để người Việt và người bản địa sống hoà thuận với nhau trong một vương quốc thống nhất. Âu đây cũng là việc rất nên làm theo sở nguyện của chúa Tiên khi xây chùa Thiên Mụ. Riêng lão ngông chăn trâu kia có hành tung thật bí hiểm, nên Phước Kỳ đang còn e ngại chưa muốn gặp. Cách đây vài tuần, chúa Sãi cùng quận công Trần Đức Hoà ngồi thuyền du ngoạn trên cửa biển Tư Dung có nghe lũ ngư phủ người Quảng Nam hát bài “Tư Dung vãn” và bài “Ngoạ Long Cương vãn” ý tứ thâm trầm, tinh thần khoáng đạt, một Nho sinh tầm thường không thể làm được, nói chi đến dân chài mỏng học. Chúa Sãi cho gọi vài người đến thuyền hỏi, họ đều đáp là thơ của lão ngông, chăn trâu ở bờ sông Vu Gia cho Cao Nham. Người này phải chăng là Đào Duy Từ mai danh ẩn tích nên mới hiểu rõ chúa Tiên qua bài “Tư Dung vãn”, lại còn tự ví mình như Khổng Minh tái thế qua bài “Ngoạ Long Cương vãn”? Nhưng Đào Duy Từ đã có bút tích của chúa Tiên ghi lại bài thơ xướng hoạ giữa hai người, cần gì phải mai danh ẩn tích làm kẻ chăn trâu?...
Thoắt đã 6 năm mỏi mòn tìm kiếm, trông đợi mà chúa Sãi vẫn chưa hề nghe được tin tức gì của Đào Duy Từ. Nước nhà đang hưng thịnh, văn võ bá quan trong phủ chúa rất đông, thảy đều giỏi giang, trung tín, nhưng Phước Nguyên vẫn phân vân, lo ngại, khao khát có được một người cầm đầu họ để mở cõi. Các đại thần Nguyễn Ư Dĩ, Tống Phước Trị, Mạc Cảnh Huống... hoặc đã già, không còn đủ sức kham nổi việc lớn, hoặc đã về trời theo gót chúa Tiên. Nguyễn Hữu Dật là danh tướng tài ba nhưng uy tín và tầm vóc trí tuệ chỉ đủ làm tướng tiên phong đoạt thành, phá ải hay trấn thủ một vùng mà thôi. Nguyễn Phước Kỳ, con trai cả của chúa Sãi có tài cai trị dân nhưng chưa đủ sức chỉ huy các tướng đi mở rộng bờ cõi. Gần đây Phước Kỳ từ Quảng Nam sai người tâm phúc về báo, có một lão ngông chăn trâu cho nhà phú hộ họ Cao và sư Tuệ Năng ở chùa Long Hưng là những bậc kỳ tài. Đối với sư Tuệ Năng, Phước Kỳ đã nhiều lần tiếp kiến, tha thiết ngỏ lời, nhưng nhà sư một mực từ chối, chỉ xin được chuyên tâm truyền bá đạo Phật của Thiền phái Trúc Lâm, để người Việt và người bản địa sống hoà thuận với nhau trong một vương quốc thống nhất. Âu đây cũng là việc rất nên làm theo sở nguyện của chúa Tiên khi xây chùa Thiên Mụ. Riêng lão ngông chăn trâu kia có hành tung thật bí hiểm, nên Phước Kỳ đang còn e ngại chưa muốn gặp. Cách đây vài tuần, chúa Sãi cùng quận công Trần Đức Hoà ngồi thuyền du ngoạn trên cửa biển Tư Dung có nghe lũ ngư phủ người Quảng Nam hát bài “Tư Dung vãn” và bài “Ngoạ Long Cương vãn” ý tứ thâm trầm, tinh thần khoáng đạt, một Nho sinh tầm thường không thể làm được, nói chi đến dân chài mỏng học. Chúa Sãi cho gọi vài người đến thuyền hỏi, họ đều đáp là thơ của lão ngông, chăn trâu ở bờ sông Vu Gia cho Cao Nham. Người này phải chăng là Đào Duy Từ mai danh ẩn tích nên mới hiểu rõ chúa Tiên qua bài “Tư Dung vãn”, lại còn tự ví mình như Khổng Minh tái thế qua bài “Ngoạ Long Cương vãn”? Nhưng Đào Duy Từ đã có bút tích của chúa Tiên ghi lại bài thơ xướng hoạ giữa hai người, cần gì phải mai danh ẩn tích làm kẻ chăn trâu?...
Trần Đức Hòa đến phủ xin ra mắt chúa Sãi, vừa hay viên thái
giám thân cận của chúa bảo rằng chúa đang rất nóng lòng, định sai người tìm ông
bàn việc. Thái giám dẫn thẳng ông ra vườn thượng uyển, thấy Phước Nguyên đang
ngồi câu cá bên hồ nước, dáng vẻ đăm chiêu suy ngẫm điều hệ trọng quốc gia.
Chúa vẫn buông cần, nhìn phao câu đang nhấp nháy, chỉ khoát tay ra hiệu cho Đức
Hoà ngồi xuống gốc cây bên cạnh. Viên quận công hồi hộp trước không khí bốn bề
tĩnh lặng và thái độ vừa thân tình, lại vừa ngỡ như không muốn ai cắt ngang
dòng suy nghĩ của chúa Sãi. Chiếc phao câu chìm xuống đáy hồ, kéo căng sợi dây
câu về một phía và chúa Sãi giật mạnh cần câu theo chiều ngược lại, quăng lên bờ
một con cá chép đực có bộ vây rất đẹp. Chúa Sãi ngả người ra sau cười lớn, đứng
dậy thân mật dắt tay Đức Hoà vào lầu thưởng nguyệt đã bày sẵn rượu ngon, thức
nhắm. Đám cung nữ được lệnh lui hết, chỉ để lại viên thái giám tâm phúc đứng hầu
rượu. Hai người thù tạc với nhau vài tuần rượu, Đức Hòa vẫn chưa hết hồi hộp,
vì không phải ngẫu nhiên giữa kỳ bận việc thu thuế, quân lương mà chúa Sãi gọi
mình đến chỉ để thưởng hoa, uống rượu. Đó không phải là tính cách của vị minh
chúa đêm ngày lo toan việc nước, đau đáu tấc lòng cầu hiền tài giúp nước mà ông
lâu nay vẫn hằng ngưỡng mộ. Hồi lâu chúa mỉm cười nhìn Đức Hòa hỏi:
- Khanh thấy bữa nay ta vui hay buồn?
- Bẩm, chúa công có cái thần khí vui ở bên ngoài, nhưng trong
bụng lại đang bộn bề lo nghĩ. Thần muốn được cùng chúa công chia sẻ điều lo
nghĩ ấy.
- Vậy khanh thử đoán xem ta lo nghĩ điều gì nhất?
- Bẩm chúa công! Hiện nay cả nước được mùa, thóc thuế kìn kìn
nhập kho, cửa biển thuyền buôn tấp nập, trên núi nhộn nhịp khai mỏ vàng, mỏ sắt,
rõ là thái bình thịnh trị. Điều chúa công lo nghĩ nhất hẳn là chưa có người đủ
tài kinh bang tế thế, giúp chúa Bắc cự họ Trịnh, Namđi mở cõi.
- Giỏi lắm! Khanh đúng là người hiểu rõ bụng ta, từ thủa ta
còn làm quan Tổng trấn Quảng Nam, không ai thân thiết với ta hơn khanh.
- Bẩm chúa công, thần đang muốn tâu bày việc hệ trọng.
- Ta với khanh thử cùng viết vào tay hai chữ xem sao.
Hai người viết xong, xoè tay ra đều thấy ghi “Lão Ngông?”,
chúa tôi vui sướng cả cười. Chúa Sãi kể:
- Đêm qua ta mơ thấy một ông già hiện về cho ta một con cá
chép hoá rồng bay lên cao giữa bầu trời có chín chữ "Phước" và mười
ba chữ "Vương". Lát sau, con rồng biến mất, để lại trên bầu trời chín
vì sao to sáng rực và mười ba vì sao cứ nhỏ và tối dần. Ta tỉnh dậy, chợt nghĩ
đến người chăn trâu trên cửa biển Tư Dung. Vừa nãy, ta ngồi câu bên hồ, miệng
niệm Phật mong người phù hộ, nếu giấc mơ linh ứng, ta gặp được hiền tài thì cho
phép ta câu được một con cá chép như Lã Vọng đời Xuân Thu bên Tàu đã từng buông
câu trên sông Vị.
- Bẩm chúa công! Vậy là giấc mơ đã linh nghiệm và chúa công
cho rằng lão ngông chính là ông già nọ trong giấc mơ, người sẽ đem lại chín chữ
"Phước" và mười ba chữ "Vương"[2] cho
họ Nguyễn của chúa công?
- Đúng vậy, nhưng ta còn chưa hết băn khoăn.
- Thần cũng ngờ rằng tác giả hai bài thơ, kẻ đã tự ví mình là
Gia Cát Lượng chính là Đào Duy Từ mượn đám ngư phủ đánh tiếng với phủ chúa.
- Nếu quả hắn là Duy Từ sao vào Nam đã lâu mà không mang bút
tích của chúa Tiên gặp ta?
- Đấng trượng phu xưa nay không chịu hạ mình tiến thân bằng
thư tiến cử của người khác. Thời Tam quốc, Bàng Thống có sẵn thư của Khổng
Minh, nhưng gặp Lưu Bị vẫn giấu nhẹm, nên mới phải đi làm huyện lệnh
ở nơi hẻo lánh một thời gian.
- Nhưng hắn vào Nam tính đã gan chục năm, nếu có thực
tài vẫn có thể không cần bút tích của chúa Tiên, gặp ta đàm luận khoe tài cơ
mà? Bao năm nay ta treo biển cầu hiền ở khắp nơi, ai mà chẳng biết.
- Về điểm này thần cũng đã từng nghĩ như chúa công. Song từ
lúc nhận được thư của người em họ Cao Nham dưới quê gửi lên thì thần đã ngẫm lại
và có cách nghĩ khác.
- Khanh hãy nói rõ cho ta nghe đi.
- Bẩm chúa công! Trong thư Cao Nham mời thần về quê làm chủ
hôn cho lão ngông với người con gái goá chồng của họ Cao là Thị Vân.
- Ta nghe nói Thị Vân tuy goá chồng nhưng rất xinh đẹp, giỏi
cầm kỳ thi hoạ, lại con nhà giàu có, lấy đâu chẳng được tấm chồng. Nếu Cao Nham
gả con gái cho lão ngông, ắt phải rõ lai lịch và tài năng của kẻ chăn trâu
nghèo khó này.
- Theo Cao Nham kể, hắn có tên Trần Năng, quê ở làng Hoa
Trai, huyện Ngọc Sơn ngoài xứ Thanh. Có lần, vào bữa tiệc mừng thọ Cao Nham, hắn
đã ngang nhiên bắt bẻ đám hủ nho trong làng, lời lẽ lưu loát, kiến thức sâu rộng,
chưa từng thấy ai ở phương Nam được như vậy. Hắn đã từng chu du đi khắp buôn
làng người Thượng ở nước Xá Lợi, Lâm Ấp, sau đó vào tận cực Nam của nước Thuỷ
Chân Lạp rồi mới theo đường ven biển qua nước Chiêm Thành về Quảng Nam. Thần chợt
nghĩ, sinh thời chúa Tiên kể rằng Đào Duy Từ giỏi binh pháp, lại rất am tường địa
lý mọi miền lãnh thổ của xứ đàng ngoài, vì ông ấy thích đi chu du khắp thiên hạ
để vẽ địa đồ và ghi chép phong tục dân quê từng nơi. Khi chúa Tiên gặp Duy Từ ở
chùa Tiêu Sơn, Người đã thổ lộ ước vọng mở cõi vào Nam, được ông ta hết lòng ủng
hộ. Theo đó mà xét, thần cho rằng có hai điểm để ta phỏng đoán Trần Năng với
Duy Từ chỉ là một. Thứ nhất, Duy Từ cùng quê ở làng Hoa Trai, rất trùng hợp với
lời kể của chúa Tiên về Duy Từ. Thứ hai, người giỏi binh pháp như Duy Từ, nếu
vào Nam với ý định giúp chúa công mở cõi tất muốn mình am tường địa lý và nội
tình các nước ở phương Nam, nên không thể đi theo lối cưỡi ngựa xem hoa mà vừa
đi vừa nghiên cứu, ghi chép tỉ mỉ, nên thời gian phải đi gan chục năm. Thời
gian này khá trùng hợp với những năm tháng chúa công tuân theo di chúc của chúa
Tiên đi tìm kiếm Duy Từ. Còn Trần Năng thì lộ trình chu du sao giống với sự tưởng
tượng của thần về nước cờ của Duy Từ đã đi đến vậy!
- Hay lắm! Nếu không có lá thư của Cao Nham và sự phân tích của
khanh thì giấc mơ đêm qua cũng đã thúc giục ta sai khanh tìm rõ thực hư về người
chăn trâu ở Quảng Nam rồi. Nay theo lời khanh vừa nói, có lẽ mười phần chắc tám
đó là Đào Duy Từ. Vậy khanh hãy vì ta khó nhọc một chuyến, mời cho được người
đó về phủ.
- Bẩm chúa công! Đó là phận sự của thần, đâu dám ngại gì đường
xa vất vả. Hơn nữa, chúa công đã cho thần một cơ hội về thăm quê, dự hôn lễ của
người thân trong gia tộc bên ngoại. Thần tin chuyến đi này sẽ có nhiều sự lạ.
Chúa Sãi giữ Trần Đức Hoà lại trong phủ uống rượu, dặn dò mọi
nhẽ. Ngài cao hứng uống rượu, làm thơ, nói cười sảng khoái. Cuộc rượu gần tàn,
chúa chạnh nhớ đến chúa Tiên Nguyễn Hoàng, đôi mắt ngấn lệ, xúc động ngâm bài
thơ xướng họa giữa chúa Tiên và Duy Từ năm xưa:
Vó
ngựa sườn non đá chập chùng
Cầu
hiền lặn lội biết bao công
Đem
câu phò Hán ra dò ý
Lấy
nghĩa tôn Lưu để ướm lòng.
Đám cưới giữa lão ngông chăn trâu Trần Năng với nàng Cao Thị
Vân được báo trước từ mấy ngày rằng sẽ có quan Khán lý cống, quận công Trần Đức
Hòa về làm chủ hôn lễ, nên quan viên chức dịch và những người có máu mặt khắp
vùng đều đến dự đông đủ. Sư Tuệ Năng ở chùa Long Hưng nghe tin rất mừng cho hạnh
phúc muộn mằn của người bạn thủa ấu thơ. Nhà sư theo giới luật không thể dự hôn
lễ, sai Hữu Tiến đem đến mừng bạn cũ bằng một bài thơ “Xuân muộn” của Thiền
tổ Trần Nhân Tông, được Tuệ Năng viết trên tấm lụa, nét chữ bay bướm như rồng
lượn:
Tuổi
trẻ sao từng hiểu sắc không
Cả
xuân hoa nở ngất ngây lòng
Đến
nay đành rõ mặt xuân ấy
Nệm
cỏ giường Thiền ngắm rụng hồng.
Hết thảy quan khách trong tiệc cưới không ai hiểu hết ý nghĩa
sâu xa của bài thơ Thiền do chính tay sư Tuệ Năng đề tặng chú rể. Riêng có Đào Duy
Từ nghẹn ngào xúc động ôm lấy Hữu Tiễn nói nhỏ: “Phụ mẫu sinh ra ta, nhưng người
hiểu và thương ta nhất chỉ có sư Tuệ Năng”. Suốt buổi tiệc cưới Trần Đức Hòa rất
kiệm lời, chỉ quan sát kỹ từng cử chỉ, lời nói của chú rể. Ông đã được
chúa Sãi cho xem bản tấu trình của công tử Phước Kỳ về tài năng, đạo hạnh của
Thiền sư Tuệ Năng. Tình bạn keo sơn giữa chú rể với nhà sư, người được Phước Kỳ
nhận xét chắc nịch rằng nếu có được Tuệ Năng phò tá có nghĩa là được nửa thiên
hạ, ắt hẳn chú rể cũng không phải kẻ tầm thường. Tận mắt chứng kiến sức hút kỳ
lạ của chú rể với mọi người từ bậc cao sang đến kẻ tiện dân, từ người cao niên
đến đám trẻ thơ, ông càng tin chắc Trần Năng với Duy Từ chỉ là một. Đợi cho
quan khách về hết, chủ nhà Cao Nham mới bố trí một căn phòng riêng để Trần Đức
Hòa đàm đạo với chú rể. Lúc này được nghe Đức Hoà nói rõ hết tâm nguyện của
chúa Sãi, tha thiết cầu hiền và suốt hơn chục năm vâng theo di huấn của Nguyễn
Hoàng, đau đáu trông đợi Đào Duy Từ như người khát tìm nước, chú rể Trần Năng bồi
hồi xúc động. Ông nhận mình chính là Đào Duy Từ và đưa cho Đức Hoà xem bút tích
của chúa Tiên. Hai người vui vẻ đàm luận say sưa khiến bà Cao Nham cầm lòng
không được, bạo gan bước vào, nhắc quan quận công đã đến giờ giao loan hợp cẩn
của cô dâu chú rể...
Hôm sau, một chiếc thuyền lớn neo đậu ở sông Vu Gia đón vợ chồng
Đào Duy Từ đem theo cả Hữu Tiến và bé Thu Hương xuôi ra cửa biển, dong buồm về
Thuận Hóa. Tạm thời gia quyến của Duy Từ ở lại dinh thự của quận công Trần Đức
Hòa, còn hai người đi vội vào phủ chúa ra mắt Phước Nguyên.
Chúa Sãi đang vui đùa với hai cung nữ. Nghe có khách quý đi
cùng Trần Đức Hòa xin gặp, chúa vội ra tiếp, mặc nguyên bộ đồ ngủ bằng lụa trắng.
Duy Từ nhác trông thấy chúa Sãi liền nghiêm mặt dừng lại rồi quay gót lui ra. Đức
Hoà sợ hãi chạy theo níu lại trách:
- Tiên sinh sao dám vô lễ với chúa công?
- Người đã không biết lễ sao còn trách ta vô lễ!
- Tiên sinh nói vậy là cớ làm sao?
- Bộ đồ kia chỉ dùng để ôm mỹ nữ trên giường hay tiếp kẻ nô bộc
chứ đâu phải dùng tiếp kẻ sĩ trong thiên hạ.
Chúa Sãi nghe nói vậy vội chạy vào nhà thay áo đại lễ ra sân,
nắm chặt tay Duy Từ, sượng sùng nói:
- Ta đợi tiên sinh đã bao lâu rồi, nay được gặp mặt, mừng quá
quên cả lễ quân thần. Sao tiên sinh đến chậm thế?
- Bẩm chúa công! Lễ được đặt ra từ thời Chu Công, sau được Khổng
Tử và các bậc tiên hiền công phu biên soạn và bổ sung sao cho trật tự phân
minh, phép tắc quy củ, làm sao có thể tuỳ tiện mà nên nghiệp lớn được.
- Ta biết lỗi rồi, xin tiên sinh đừng giận.
Chúa tôi vui vẻ cười to, cùng sánh vai bước vào điện, nhưng Duy
Từ vẫn giữ lễ bước lùi sau chúa nửa bước. Đức Hòa thấy vậy cũng giật mình bẽn lẽn
lùi theo, không dám sánh vai cùng chúa. Khi mọi người đã an toạ, phân định ngôi
thứ ngồi xuống ghế, chúa Sãi ôn tồn nói:
- Hôm nay gặp mặt, ta muốn tiên sinh trước hết nói cho nghe về
đạo trị nước của bậc quân vương.
- Bẩm chúa công! Thần thiết nghĩ, vua chúa với thứ dân cũng đều
là người cả. Vậy trước khi nói về đạo trị nước hãy nói đạo làm người đã. Khổng
- Mạnh hay Tống Nho đều đã bàn nhiều về cái lẽ Tu - Tề - Trị - Bình, phàm người
quân tử ai cũng học qua, nhưng ít ai hiểu cho cùng nhẽ. Từ nhỏ, thần đã được sư
phụ là đại sư Duy Giác thâu tóm nôm na cái đạo lý ấy rằng Tu - Tề gồm có chữ Nhẫn
và chữ Xỉ, còn Bình - Trị gói trong sự điềm đạm. Nhẫn thì việc khó mấy, cảnh khổ
đến đâu cũng vượt qua. Xỉ thì biết rèn đức cho mình, tín lễ với người. Điềm đạm
là cái gốc của sự thành công trong mọi việc lớn nhỏ. Điềm đạm thì nóng giận
không trào sôi, yêu thương ghìm nén trong lòng, thắng không kiêu, bại không nản,
lo kỹ việc gần và tính kỹ việc xa, khoan dung độ lượng, thong dong nhàn tản,
không nôn nóng và cũng không rềnh rang bỏ lỡ thời cơ khi hành sự...
Đạo Phật của Thiền tổ Trúc Lâm dạy rằng, đã tự giác rồi phải giác tha. Nếu chúa công có được những điều ấy, rồi lại giác ngộ cho quần thần đến thứ dân đều noi theo mình mà phấn đấu, đó chính là chuyển đạo làm người thành đạo trị nước. Đơn giản vậy thôi!
Đạo Phật của Thiền tổ Trúc Lâm dạy rằng, đã tự giác rồi phải giác tha. Nếu chúa công có được những điều ấy, rồi lại giác ngộ cho quần thần đến thứ dân đều noi theo mình mà phấn đấu, đó chính là chuyển đạo làm người thành đạo trị nước. Đơn giản vậy thôi!
- Nay ta kế nghiệp chúa Tiên, chuyên chế một vùng Thuận - Quảng,
tiên sinh có kế sách gì hay xin chỉ bảo.
- Đối nội, thần xin hiến mấy chữ: cải cách chính sự, khuyến
nông - công - thương, xây nền văn hiến.
- Thế còn đối ngoại?
- Thần lại có sáu chữ: Bắc hoà Trịnh, Nam mở cõi.
- Kế sách của tiên sinh rất hợp ý ta, nhưng cô đọng trong mấy
chữ làm sao kiến giải?
- Bẩm chúa công! Đạo học của thần chuộng sự thực hành, ưa lời
dân dã, không quen thói hễ mở mồm là thánh phán thế này, Phật dạy thế kia để lấp
đi sự nông cạn, che giấu cái tâm bất định, cái tính hiểm độc, cái khí bạc nhược.
Ngay cả những chữ thần vừa hiến kế cũng phải tùy thời mà biến đổi, tuỳ nghi
hành sự sao cho hợp đạo trời, ý phật, lòng dân mới mong đạt tới quốc thái dân
an, vương triều cường thịnh. Nói về đối nội, Đại Việt ta từ thời vua Tương Dực,
Uy Mục đến nay chính sự đổ nát, pháp luật buông lỏng, quan thì tham nhũng, dân
thì rên xiết dưới ách cùm kẹp và sưu cao, thuế nặng, lại thêm bao nhiêu khoản
đóng góp vô bổ cả về tài vật lẫn sức người. Phàm là dân ai cũng muốn yên ổn, no
đủ, tự do. Phàm là quan ai cũng muốn lạm quyền để sinh lợi. Vì vậy pháp luật phải
nghiêm, chi ly đến căn tơ kẽ tóc để không có kẽ hở về quyền và lợi cho nạn tham
nhũng. Bộ máy cai trị phải gọn nhẹ, trong sạch, lấy quyền áp chế quyền, lấy hiệu
quả để làm thước đo tài trí, lấy đức để cảm hoá đức. Chính sách phải linh hoạt,
mềm dẻo, thích ứng với từng nơi, từng lúc, lại biết hài hoà với tập tục của các
tộc người. Tuy nhiên tùy nghi chứ không tùy hứng, hình luật về cơ bản phải ổn định
lâu dài. Cai quản đất nước mà tùy hứng thay đổi luật, nay thế này, mai thế khác
là điều ngu xuẩn nhất, trật tự sẽ rối như canh hẹ. Toàn bộ vương pháp và bộ máy
vương quyền phải được cải cách theo các tiêu chí vừa đặt ra ở trên, để khuyến
khích dân thi đua làm giàu bằng các hoạt động nông - công - thương, tất yếu dân
giàu thì nước mạnh, vương triều bền vững. Lại nói về văn hiến, xứ Thuận - Quảng
vốn là đất cũ của người Chiêm, nay người Việt di cư vào mỗi lúc thêm đông đúc.
Thời cuộc rồi đây biến đổi, có thể người Việt sẽ còn ở lẫn với người Thượng ở
Tây Nguyên, người Môn - Khơ Me ở đồng bằng Cửu Long Giang. Mỗi tộc người đều có
văn hoá riêng để gắn kết nhau lại trong đời sống tâm linh. Người Môn - Khơ Me
có văn hoá Phù Nam, người Chiêm có văn hoá Chàm Tháp, người Thượng có văn hoá Cồng
Chiêng... đâu có thua gì văn hoá Đại Việt. Nay chúa công muốn hùng cứ phương
Nam, biên cương mở rộng tất phải tôn trọng mọi nền văn hoá bản địa, xây đắp một
nền văn hoá chung bao quát tinh hoa của hết thảy các tộc người. Sức mạnh vật chất
chỉ chiếm được đất, còn văn hoá rực rỡ mới chiếm được tâm linh. Sử
sách đã từng ghi nhận người Mông chiếm được Trung Nguyên, nhưng vì thua kém về
văn hoá, cuối cùng bị người Hán đồng hóa và bị Minh Thành Tổ đuổi ra
khỏi bờ cõi. Theo chủ kiến của thần, chúa công có thể dùng đạo Phật làm sợi dây
kết nối các nền văn hoá ở phương Nam trong nền văn hiến chung của vương triều
nhà Nguyễn. Muốn vậy thì Phật giáo đại thừa ở phương Bắc và Phật giáo tiểu thừa
ở phương Nam phải hoà nhập làm một, đem những giáo lý của Thiền tông Trúc Lâm
khai mở tâm linh người Việt di cư để họ sống hoà thuận, kiêm ái tương lợi với
các tộc người bản địa, lập tức các nền văn hoá sẽ giao hỗ tương đồng thành một
di sản chung ngày thêm rực rỡ.
- Có người bẩm với ta rằng, Thuận - Quảng giờ đây đã thành quốc
gia độc lập. Đất này nhờ ơn đức của chúa Tiên và hơn chục năm ta kế nghiệp nỗ lực
phấn đấu nên mùa màng bội thu, quốc khố đầy ắp, quân đông tướng giỏi, há sợ gì
chúa Trịnh đàng ngoài mà phải giao hảo?
- Người ấy tuy biết một mà chẳng rõ hai. Thần xin hỏi lại: so
với chúa Tiên thì chúa công thế nào; còn đem so sánh Trịnh - Nguyễn hai họ mạnh
yếu ra sao?
- Ta so với chúa Tiên, chí hướng có thể nối, nhưng uy tín và
đảm lược chưa bằng. Trịnh hơn ta ở chỗ mượn danh vua sai khiến chế ngự thiên hạ
và đất rộng người đông. Nhưng họ thua ta ở chỗ ta quan với dân trên
dưới một lòng, khác với họ vua tôi nghi kỵ, lòng dân ly tán. Xét về mọi mặt Trịnh
- Nguyễn ngang nhau, kẻ tám lạng người nửa cân.
- Như vậy đã rõ. Chúa Tiên Nguyễn Hoàng tài năng, đức độ và
uy tín vượt trội mà vẫn phải hai lần ra Bắc xưng thần, gửi con trai
làm tin, gả con gái cho họ Trịnh để giao hảo, đủ thấy chúa Tiên sáng suốt nhường
nào, thời thế thế thời phải thế. Lực lượng hai bên chúa công cũng nhận ra đôi
bên ngang nhau và có thể Trịnh nhỉnh hơn ta một chút. Vạn nhất chiến tranh nổ
ra, hai bên giằng co, chiến sự kéo dài, sinh linh điêu đứng, giang sơn đổ nát.
Đại Việt từ ngày họ Mạc cướp ngôi, chiến tranh Lê - Mạc kéo dài hơn sáu mươi
năm có biết bao người ngã xuống, biết bao vợ goá con côi, gia đình lưu lạc. Máu
xương Nam - Bắc đâu cũng là của con dân nước Việt. Chiến tranh với
người cầm đầu sẽ có bên thắng bên thua, nhưng dân chúng bên nào cũng mãi là kẻ
chiến bại. Sau này, khi điều kiện cho phép, thần xin chúa công chỉ cần xua quân
ra chiếm nốt một phần lãnh thổ bờ Nam sông Linh Giang rồi đổi tên sông thành
sông Gianh để mượn thế cách sông cự địch là đủ. Khi ấy, dẫu chỉ là trận đánh nhỏ thần
vẫn mong rằng sẽ giảm thiểu đến mức tối đa thiệt hại sinh mạng của binh lính và
dân chúng trong vùng.
Quận công Trần Đức Hoà ngồi bên cạnh chúa Sãi, nghe Duy Từ
thuyết giảng càng thêm bội phần yêu mến, khâm phục ông. Ba người đàm luận sôi nổi
về đường đi nước bước của quá trình cải cách xã hội phương Nam. Có lúc
chúa tôi tranh biện với nhau bình đẳng, không cần e dè, câu nệ cả về những điều
quan hệ đến nội bộ gia tộc của phủ chúa. Khi chúa Tiên băng hà, bốn người anh của
chúa Sãi là Hà, Hán, Thanh, Diễn đều đã chết, còn anh thứ năm là Hải
bị cầm giữ làm con tin ở Đông Đô. Sự biến năm Canh Thân (1620) do hai công tử
Phước Hiệp và Phước Trạch ngầm thông gian với chúa Trịnh để làm loạn, hai người
bị chết, bè đảng của họ đều bị diệt hết là một bài học đau xót đối với chúa
Sãi. Quyền lực là thứ cám dỗ mạnh nhất đối với con người. Nó chỉ bị
đè bẹp khi công cuộc cải cách bắt đầu từ hoàng tộc ra đến triều thần, rồi mở rộng
ra toàn xã hội. Phương châm chiến lược hòa hoãn với chúa Trịnh, Phước Nguyên đã
có chủ định từ lâu. Ông chỉ ướm hỏi Duy Từ để có thêm một cách kiến giải mới và
thông tuệ của con người từng được chúa Tiên hằng ngưỡng mộ. Cuộc đàm luận thâu
đêm xoay dần vào điều cốt yếu mà chúa Tiên, chúa Sãi đều mong đợi ở tài năng
quân sự của Duy Từ.
- Tránh được chiến tranh mặt Bắc, lại phát động chiến tranh ở
mặt Nam, có hợp với mệnh trời, nêu cao đại nghĩa? - Quận công Trần Đức Hòa thắc
mắc.
Đào Duy Từ mỉm cười, ung dung mở tấm bản đồ lãnh thổ phương
Nam do ông dày công nghiên cứu, vẽ lại trong nhiều năm chu du khắp các tiểu quốc
trước sự kinh ngạc của chúa Sãi. Đợi cho mọi người xem kỹ từng nét vẽ,
địa danh, thành trì và các đường bộ, đường sông, đường biển, ông từ tốn nói:
- Bẩm chúa công! Một dải hẹp phương Nam chạy dài
theo bờ biển, từ sông Linh Giang đến đồng bằng Cửu Long Giang mà có đến năm tiểu
quốc. Ngoài xứ Thuận - Quảng của ta là còn khả dĩ về tài lực ra, các nước Xá Lợi
và Lâm Ấp ở Tây Nguyên, Chiêm Thành và Thuỷ Chân Lạp ở ven biển đều đang suy yếu.
Người Việt từ cuối đời Trần bao cuộc loạn ly, đã di cư vào bốn nước này khá
đông. Gần đây trong cuộc chiến Lê - Mạc, dân nghèo hai xứ Thanh - Nghệ lại ào ạt
những đợt sóng di cư vào Nam. Người Thượng ở Tây Nguyên dân trí thấp kém,
canh tác lạc hậu và chia thành nhiều bộ tộc cát cứ làm suy yếu vương quyền ở
kinh đô đã đành một nhẽ. Hai nước Chiêm Thành và Thuỷ Chân Lạp có nền văn hiến
rực rõ lâu đời, đất đai màu mỡ, dân chúng kiệm cần, nhưng vua quan sa đọa,
chính sự nát như tương, nên cả người Việt di cư lẫn người bản địa đều đói khổ,
chán ghét và oán giận triều đình. Nguy cơ diệt vong của bốn nước kia đã hiện rõ
từ lâu. Thời cuộc ngày nay đã đổi khác. Họa xâm lăng của xứ Thuận - Quảng và bốn
nước nhỏ yếu kia không phải chỉ có từ phía chúa Trịnh, cũng chưa phải từ phía
nước Tàu vì nhà Minh bên đó đang bị người Mãn quấy rối ở biên thuỷ, lăm le vào
cướp Trung Nguyên. Nguy cơ xâm lấn lâu dài và lớn nhất hiện nay của năm nước nhỏ
phương Nam này là từ phía biển. Người Tây dương đã chế được tàu lớn vượt biển
đi xa hàng vạn dặm. Họ có súng to, súng bé có thể bắn phá thành trì, sát thương
nhiều người một lúc từ tàu chiến neo đậu ngoài biển. Đảo quốc rộng lớn của người
Chà Và [3] rất
gần ta, đã mất vào tay người Hòa Lan. Thử hỏi nếu giặc Tây dương đến xâm chiếm
lần lượt bốn nước kia, thì Thuận - Quảng của ta bé bằng bàn tay trên bản đồ này
làm sao giữ được. Ta chủ động mở cõi sát nhập bốn nước kia vào chung một vương
quyền, trước là cứu khổ cho dân chúng bản địa và người Việt di cư, sau nữa là tạo
thế mạnh gom lại của năm nước để chống giặc Tây dương, chính là nêu cao đại
nghĩa giúp người và tự cứu lấy mình. Chiến tranh đương nhiên là tàn khốc, nhưng
ta đang ở thế bắt buộc phải mở cõi. Cái điều nhân nghĩa cũng giống như cõi Phật
vậy, nó ở trong tâm ta, chẳng phải ở trong những câu chữ giáo điều, lời nói hoa
mỹ.
- Nếu ta tiến quân vào Nam đi mở cõi, tiên sinh định liệu việc
quân cơ, kế sách thế nào? - Chúa Sãi hỏi tiếp.
- Bẩm chúa công! Nhìn trên bản đồ ta thấy hai nước Xá Lợi và
Lâm Ấp núi cao hiểm trở, rừng già rậm rạp, ít ai ngờ nhất ta nên đánh trước.
Chiếm được cao nguyên, từ đó chĩa các mũi quân chia cắt nước Chiêm Thành làm ba
khúc đánh chiếm dần dễ như trở bàn tay. Từ nước Lâm Ấp ở đèo Bảo Lộc và từ nước
Chiêm Thành ở phủ Ninh Thuận ta dồn binh tập kết, chờ đạo thủy binh vào phối hợp,
làm gì chẳng đánh chiếm được nước Thủy Chân Lạp. Quân đi đến đâu, chúa công cho
người Việt di cư đến đó làm ăn, lại cho binh lính già yếu hoặc bị thương tật ở
đó lập đồn điền, cưới vợ người bản địa mà định cư lâu dài; nghiêm cấm người Việt
và binh lính xâm phạm tập tục, tín ngưỡng của địa phương, cùng họ chung sống
hoà hiếu theo tinh thần “Lục hoà” của phật giáo là “Thân hòa - Khẩu hòa - ý hòa - kiến hòa - giới hòa - lợi hòa”... Thần tin chắc người Nam sống hiền hoà, nhân
hậu sẽ sớm tiếp nhận người Việt vào cộng đồng của mình, nhiều cộng đồng hoà hợp
sắc tộc gom lại thành quốc gia thống nhất, dưới một vương quyền sáng ngời nhân
nghĩa không gì phá vỡ nổi.
Chúa Sãi nghe xong rất hài lòng, ân cần mời mọc, tiếp rượu hỏi
han gia quyến của Duy Từ. Hai người kết nghĩa anh em thề cùng chia sẻ hoạn nạn,
chung hưởng phú quý. Hôm sau, chúa Sãi hội họp đông đủ bá quan văn võ, phong
Đào Duy Từ làm quân sư tước Lộc Khê hầu, có phủ đệ riêng, tự do ra vào phủ
chúa.
Ghi chú:
[1] Khán
lý cống: chức quan trông coi việc thu thuế, lương thảo.
[2] Chín
chữ Phước và mười ba chữ Vương: sau này linh ứng với 9 đời chúa, 13 đời vua nhà
Nguyễn.
[3] Chà
Và: Indonesia
Chương 10
HỒI THỨ MƯỜI
Nam Vương tặng mâm vàng hai đáy
Bắc Chúa đành ngậm đắng bãi binh
Mùa xuân năm Ất Sửu (1625), chúa Sãi gặp được Duy Từ như rồng
gặp mây, cá gặp nước, hết lòng khoản đãi. Phủ chúa mở ba ngày một tiệc nhỏ, năm
ngày một tiệc lớn để Phước Nguyên cùng Duy Từ ngâm thơ xướng hoạ, đàm đạo về
tam giáo và binh pháp. Có đêm chúa giữ Duy Từ ngủ lại trong phủ, nằm chung một
sập để tâm tình cả chuyện riêng tư. Quan hệ giữa chúa Sãi với Duy Từ càng thân
thiết, càng khiến cho các vị công tử trong vương thất, đại thần trong triều có
phần ganh ghét. Người đem lòng thù hận Duy Từ nhiều nhất là công tử Phước Anh,
thứ đến nàng Tống Mỹ Hoa, vợ của công tử Phước Kỳ. Phước Anh tâm địa hiểm độc,
thấy chúa Sãi đã cao tuổi, còn công tử trưởng Phước Kỳ thường xuyên đau ốm nên
rắp tâm gây dần thế lực, mua chuộc các đại thần, tung tin bịa đặt để bêu riếu
công tử Phước Lan. Trong nhà của Phước Anh nuôi sẵn nhiều tay kiếm thuật siêu hạng
nhưng rất dữ dằn, chờ dịp sử dụng hành thích những ai cản đường mình kế nghiệp
ngôi chúa. Nhiều lần Phước Anh kiếm cớ qua lại thăm hỏi, quà cáp, nhưng Duy Từ
đều lạnh nhạt, nghiêm mặt nhắc nhở. Chúa Sãi theo lời khuyên của Duy Từ đuổi hết
đám môn khách trong nhà Phước Anh và nghiêm cấm các quan không được kéo bè, kết
đảng với người trong vương thất. Công cuộc cải cách do Duy Từ phát động chạm đến
lợi ích sát sườn của gia tộc họ Tống nên nàng Mỹ Hoa cũng ngấm ngầm phản đối. Tống
Kiến Tường vốn là thương nhân người Quảng Đông, sang đất Nghệ An buôn bán, rồi
thấy xứ đàng trong có cảng biển Hội An dễ kiếm ăn nên rời gia đình đến đó. Họ Tống
có truyền thống kết hợp quyền lực vào trong việc buôn bán để độc quyền thao
túng giá cả một số ngành hàng quan trọng. Ông nhờ cậy đại thần Nguyễn Phước
Khê, con trai út chúa Tiên làm mối, gả nàng Mỹ Hoa cho công tử Phước Kỳ. Mỹ Hoa
xinh đẹp, lẳng lơ, thường hay liếc mắt đưa tình, quyến rũ cả hai em chồng là
Phước Lan và Phước Anh. Quan tổng trấn Quảng Nam Phước Kỳ cai trị dân đúng phép
tắc, không vị tình riêng khi giải quyết việc công, lại hết lòng ủng hộ cuộc cải
cách của Đào Duy Từ. Từ năm Canh Thân (1620), cha con Tống Thị thông qua quận
công Phước Khê, bẩm với chúa Sãi ra sắc lệnh độc quyền thu mua sản vật khai mỏ
và nhiều loại lâm sản quí hiếm. Chúa nghe lời, sai lập “Nhà Đồ” ở các nơi để
thu mua, giao cho Tống Kiến Tường phụ trách.
Lệnh đã ban bố, dân không thể không chấp hành, nhưng muôn phần ấm ức, nhiều địa phương dân bị Tống Kiến Tường chèn ép quá đáng làm ngừng trệ sản xuất. Ở Quảng Nam, dân các hộ đãi vàng gọi là liêm hộ, mỗi người trong hộ hàng năm phải nộp 2 đến 3 lạng vàng cốm. Các chủ mỏ vàng gốc ở Lỗ Động mỗi năm nộp 70 lạng, mỏ ở Thu Bồn mỗi năm nộp 80 lạng. Riêng chủ mỏ ở Tịnh Sơn trong Quảng Ngãi, vì chống đối với Tống Kiến Tường bị hắn nâng mức nộp lên 180 lạng. Mỏ sắt ở xã Phúc Điển, châu Bố Chính mỗi năm phải nộp 2000 khối, mỗi khối nặng 25 cân. Tệ nhất là ở xã Mậu Tài huyện Phú Vang có nghề truyền thống làm dây đồng thau, dây thép, cứ 100 cân đồng đỏ pha vào 40 cân kẽm làm được hơn 100 cân dây thau rất có giá trị cũng bị người “Nhà Đồ” xử ép khiến làng nghề có nguy cơ tan rã. Xã còn có thợ dát vàng, cứ 10 lạng vàng dát được 9 vạn lá vàng quì. Tống Kiến Tường đã bắt dân trong xã nộp hết sản phẩm cho hắn thu mua với giá rẻ mạt để bán cho tàu buôn nước ngoài. Ngoài ra, các sản vật như dầu gù hương, sáp ong, ngà voi, chiếu mây, sơn dầu, nhựa trám... nơi nào sản xuất đều bị cấm mang ra chợ bán, phải đem đến “Nhà Đồ” của Tống Kiến Tường bán với giá rẻ. Hàng hoá của các tàu buôn nước ngoài từ Phúc Kiến, Quảng Đông, Nhật Bản... chở đến cảng cũng do “Nhà Đồ” mua lại rồi đem bán cho các chủ hàng trong nước, nhưng thực chất lợi cho quốc khố một phần, còn lợi cho cha con Tống Thị hai, ba phần. Quan tổng trấn Quảng Nam Phước Kỳ thấy từ khi có “Nhà Đồ” việc khai mỏ, nghề thủ công và các thương cảng suy sụp rõ rệt. Ông lựa lời khuyên bảo cha con Tống Thị không được, nhiều lần bẩm với chúa Sãi, đều bị Phước Khê gạt đi. Khi quân sư Đào Duy Từ đề ra chính sách cải cách tô thuế và khuyến nông - công - thương nghiệp đã bẩm trình với chúa Sãi bãi bỏ các “Nhà Đồ”, cho dân tự do khai mỏ, chế biến quặng, làm các nghề thủ công với mức thuế giảm nhẹ, lập tức được Phước Kỳ tán thưởng, sốt sắng thi hành. Việc này không chỉ động đến quyền lợi của cha con Tống Thị mà can hệ đến cả một dây tham nhũng trong triều. Các quan người ra mặt chống đối, người ngấm ngầm tìm cách gây cản trở. Có kẻ căm tức vì mất quyền lợi đã thuê kiếm khách người Hán nhiều lần lẻn vào phủ quân sư hành thích Duy Từ, may có đám bộ hạ của tướng Hữu Dật kịp thời giải cứu. Ngay như người có công tiến cử Duy Từ là Trần Đức Hoà cũng có nhiều điều ấm ức, không hài lòng với quân sư về cải cách. Nhớ hồi năm Mậu Ngọ (1618), chúa Tiên băng hà được mấy năm thì thuế ở Thuận - Quảng bị thất thu nghiêm trọng. Đức Hoà đã có sáng kiến bẩm với chúa Sãi tổ chức đo đạc lại toàn bộ công điền và tư điền ở các địa phương. Chúa khen ngợi Đức Hoà, giao việc này cho ông thực hiện. Nhờ sáng kiến này, những năm tiếp theo việc thu thuế đi vào nề nếp và tăng lên gấp bội. Nhưng việc đôn đốc giám sát khi đo ruộng vẫn còn có chỗ sơ hở. Các quan địa phương bảo nhau giấu đi một số diện tích ruộng công để thu thuế riêng cho mình, mức thuế ở các ruộng này lại rất tuỳ tiện, bắt chẹt dân nghèo không có ruộng hoặc dân di cư từ ngoài Bắc vào. Trong chuyến đi kinh lý, thị sát vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi, Duy Từ ghé thăm chùa Long Hưng, được già lam Huỳnh Bảo cho biết sự việc gian dối này. Ông hạ lệnh cho đo lại ruộng ở một vài nơi làm thí điểm. Đương nhiên các quan địa phương lâu nay gian lận thóc thuế được trót lọt, đều nhờ vào quan hệ đi lại hối lộ cho bạn bè hoặc người thân trong gia đình Trần Đức Hoà. Pháp luật không thể không nghiêm trị, nhưng Duy Từ vì muốn giữ thể diện cho bạn, chỉ nói riêng với Đức Hoà chuyện này, giao cho ông xử lý. Tuy vậy, Đức Hoà chưa thật bằng lòng với Duy Từ, giữa hai người nảy sinh mâu thuẫn, thỉnh thoảng đối chọi nhau khi bàn đến cải cách. Điển hình là chính sách thuế sai dư hay còn gọi là thuế thân, Duy Từ cho rằng chưa công bằng. Trước đây, chính sách thuế ở Thuận - Quảng qui định: Kẻ tráng đinh nộp hai quan, quân hạng nộp 1 quan 5 tiền, dân hạng nộp 8 tiền, còn các loại lão hạng, tật hạng, cố hạng đều nộp 5 tiền, loại cố cùng mạt hạng và kép hát nộp 2 tiền. Đào Duy Từ xin chúa Sãi điều chỉnh cho lão hạng chỉ nộp 2 tiền, còn các loại khác (tật, cố, cùng hạng và kép hát) đều cho miễn. Ngoài ra theo Duy Từ, thuế sai dư nên phân biệt ra chính hộ và khách hộ. Chính hộ là dân đã định cư ít nhất năm năm trở lên sẽ đánh thuế theo qui định ở trên. Khách hộ là dân ngụ cư mới di đến từ ngoài Bắc hay từ địa phương khác, tất gặp nhiều khó khăn, nên cho giảm thuế sai dư xuống còn một nửa trong thời hạn năm năm để họ an cư lạc nghiệp nơi đất mới. Đức Hoà không đồng tình, cho rằng như vậy sẽ tạo tiền lệ ưu đãi cho người Việt, bạc đãi người Chiêm và người Thượng. Hai bên tranh luận gay gắt, chúa Sãi phải đứng ra giảng hoà, rồi lẳng lặng phê duyệt vào tấu biểu của Duy Từ. Đôi lần chúa Sãi cảm thấy hoang mang, do dự, khuyên Duy Từ nên nhẹ tay cải cách từ từ, để tránh được mũi nhọn công kích từ nhiều phía và gây khó xử cho phủ chúa. Ông ôn tồn hỏi lại:
Lệnh đã ban bố, dân không thể không chấp hành, nhưng muôn phần ấm ức, nhiều địa phương dân bị Tống Kiến Tường chèn ép quá đáng làm ngừng trệ sản xuất. Ở Quảng Nam, dân các hộ đãi vàng gọi là liêm hộ, mỗi người trong hộ hàng năm phải nộp 2 đến 3 lạng vàng cốm. Các chủ mỏ vàng gốc ở Lỗ Động mỗi năm nộp 70 lạng, mỏ ở Thu Bồn mỗi năm nộp 80 lạng. Riêng chủ mỏ ở Tịnh Sơn trong Quảng Ngãi, vì chống đối với Tống Kiến Tường bị hắn nâng mức nộp lên 180 lạng. Mỏ sắt ở xã Phúc Điển, châu Bố Chính mỗi năm phải nộp 2000 khối, mỗi khối nặng 25 cân. Tệ nhất là ở xã Mậu Tài huyện Phú Vang có nghề truyền thống làm dây đồng thau, dây thép, cứ 100 cân đồng đỏ pha vào 40 cân kẽm làm được hơn 100 cân dây thau rất có giá trị cũng bị người “Nhà Đồ” xử ép khiến làng nghề có nguy cơ tan rã. Xã còn có thợ dát vàng, cứ 10 lạng vàng dát được 9 vạn lá vàng quì. Tống Kiến Tường đã bắt dân trong xã nộp hết sản phẩm cho hắn thu mua với giá rẻ mạt để bán cho tàu buôn nước ngoài. Ngoài ra, các sản vật như dầu gù hương, sáp ong, ngà voi, chiếu mây, sơn dầu, nhựa trám... nơi nào sản xuất đều bị cấm mang ra chợ bán, phải đem đến “Nhà Đồ” của Tống Kiến Tường bán với giá rẻ. Hàng hoá của các tàu buôn nước ngoài từ Phúc Kiến, Quảng Đông, Nhật Bản... chở đến cảng cũng do “Nhà Đồ” mua lại rồi đem bán cho các chủ hàng trong nước, nhưng thực chất lợi cho quốc khố một phần, còn lợi cho cha con Tống Thị hai, ba phần. Quan tổng trấn Quảng Nam Phước Kỳ thấy từ khi có “Nhà Đồ” việc khai mỏ, nghề thủ công và các thương cảng suy sụp rõ rệt. Ông lựa lời khuyên bảo cha con Tống Thị không được, nhiều lần bẩm với chúa Sãi, đều bị Phước Khê gạt đi. Khi quân sư Đào Duy Từ đề ra chính sách cải cách tô thuế và khuyến nông - công - thương nghiệp đã bẩm trình với chúa Sãi bãi bỏ các “Nhà Đồ”, cho dân tự do khai mỏ, chế biến quặng, làm các nghề thủ công với mức thuế giảm nhẹ, lập tức được Phước Kỳ tán thưởng, sốt sắng thi hành. Việc này không chỉ động đến quyền lợi của cha con Tống Thị mà can hệ đến cả một dây tham nhũng trong triều. Các quan người ra mặt chống đối, người ngấm ngầm tìm cách gây cản trở. Có kẻ căm tức vì mất quyền lợi đã thuê kiếm khách người Hán nhiều lần lẻn vào phủ quân sư hành thích Duy Từ, may có đám bộ hạ của tướng Hữu Dật kịp thời giải cứu. Ngay như người có công tiến cử Duy Từ là Trần Đức Hoà cũng có nhiều điều ấm ức, không hài lòng với quân sư về cải cách. Nhớ hồi năm Mậu Ngọ (1618), chúa Tiên băng hà được mấy năm thì thuế ở Thuận - Quảng bị thất thu nghiêm trọng. Đức Hoà đã có sáng kiến bẩm với chúa Sãi tổ chức đo đạc lại toàn bộ công điền và tư điền ở các địa phương. Chúa khen ngợi Đức Hoà, giao việc này cho ông thực hiện. Nhờ sáng kiến này, những năm tiếp theo việc thu thuế đi vào nề nếp và tăng lên gấp bội. Nhưng việc đôn đốc giám sát khi đo ruộng vẫn còn có chỗ sơ hở. Các quan địa phương bảo nhau giấu đi một số diện tích ruộng công để thu thuế riêng cho mình, mức thuế ở các ruộng này lại rất tuỳ tiện, bắt chẹt dân nghèo không có ruộng hoặc dân di cư từ ngoài Bắc vào. Trong chuyến đi kinh lý, thị sát vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi, Duy Từ ghé thăm chùa Long Hưng, được già lam Huỳnh Bảo cho biết sự việc gian dối này. Ông hạ lệnh cho đo lại ruộng ở một vài nơi làm thí điểm. Đương nhiên các quan địa phương lâu nay gian lận thóc thuế được trót lọt, đều nhờ vào quan hệ đi lại hối lộ cho bạn bè hoặc người thân trong gia đình Trần Đức Hoà. Pháp luật không thể không nghiêm trị, nhưng Duy Từ vì muốn giữ thể diện cho bạn, chỉ nói riêng với Đức Hoà chuyện này, giao cho ông xử lý. Tuy vậy, Đức Hoà chưa thật bằng lòng với Duy Từ, giữa hai người nảy sinh mâu thuẫn, thỉnh thoảng đối chọi nhau khi bàn đến cải cách. Điển hình là chính sách thuế sai dư hay còn gọi là thuế thân, Duy Từ cho rằng chưa công bằng. Trước đây, chính sách thuế ở Thuận - Quảng qui định: Kẻ tráng đinh nộp hai quan, quân hạng nộp 1 quan 5 tiền, dân hạng nộp 8 tiền, còn các loại lão hạng, tật hạng, cố hạng đều nộp 5 tiền, loại cố cùng mạt hạng và kép hát nộp 2 tiền. Đào Duy Từ xin chúa Sãi điều chỉnh cho lão hạng chỉ nộp 2 tiền, còn các loại khác (tật, cố, cùng hạng và kép hát) đều cho miễn. Ngoài ra theo Duy Từ, thuế sai dư nên phân biệt ra chính hộ và khách hộ. Chính hộ là dân đã định cư ít nhất năm năm trở lên sẽ đánh thuế theo qui định ở trên. Khách hộ là dân ngụ cư mới di đến từ ngoài Bắc hay từ địa phương khác, tất gặp nhiều khó khăn, nên cho giảm thuế sai dư xuống còn một nửa trong thời hạn năm năm để họ an cư lạc nghiệp nơi đất mới. Đức Hoà không đồng tình, cho rằng như vậy sẽ tạo tiền lệ ưu đãi cho người Việt, bạc đãi người Chiêm và người Thượng. Hai bên tranh luận gay gắt, chúa Sãi phải đứng ra giảng hoà, rồi lẳng lặng phê duyệt vào tấu biểu của Duy Từ. Đôi lần chúa Sãi cảm thấy hoang mang, do dự, khuyên Duy Từ nên nhẹ tay cải cách từ từ, để tránh được mũi nhọn công kích từ nhiều phía và gây khó xử cho phủ chúa. Ông ôn tồn hỏi lại:
- Chúa công muốn theo nền chính sự vương đạo hay bá đạo?
- Tiên sinh hiểu ta muốn gì rồi, sao còn hỏi nữa!
- Người theo vương đạo thì cải cách chính sự vì dân chứ không
vì các quan hay vì mình. Phàm đã là cải cách thì phải kiên quyết vứt bỏ nhiều
cái cũ, cái hủ lậu, thói hư tật xấu đặng xây dựng nên cái mới, cái tiến bộ. Cải
cách nửa vời sẽ xới lên một mớ bòng bong làm loạn xã hội, chẳng thà đừng làm
còn hơn. Cải cách triệt để, toàn diện đương nhiên vấp phải nhiều sự chống đối,
có khi quyết liệt.
- Chẳng lẽ những người thân tín như Đức Hoà hay các công tử
cũng là đối tượng của tiên sinh và ta, nếu họ phản đối cải cách?
- Người có tâm, có đức như quận công Trần Đức Hoà sớm muộn sẽ
hiểu thần. Những ai cố tình không hiểu, cố tình cản đường cải cách, cho dù là
hoàng thân quốc thích, xin chúa công đừng tin nghe theo họ mà hỏng việc lớn...
Công cuộc cải cách đang tiến triển thu nhiều thắng lợi, nhưng
cũng gây ra không ít xáo trộn trong hàng ngũ các quan văn võ dưới quyền, khiến
chúa Sãi vừa mừng vừa lo. Đương lúc như vậy, chợt được tin có sứ thần của chúa
Trịnh cử vào. Ngày rằm tháng bảy năm Đinh Mão (1627), chúa Sãi lên điện có đông
đủ bá quan văn võ đứng chầu. Quân sư Đào Duy Từ được đặc cách ban cho ghế ngồi
đầu hàng quan văn, sát gần án thư của chúa. Sứ thần của Trịnh Tráng mang theo sắc
dụ của vua Lê Thần Tông ban chức tước cho Nguyễn Phước Nguyên và lệnh cho Thuận
- Quảng đưa con trai Phước Nguyên vào chầu làm con tin, lại phải nộp cho triều
đình ở Đông Đô 30 thớt voi, 50 chiến thuyền và nhiều sản vật phương Nam khác.
Các tướng Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Mỹ Thắng... bừng bừng tức giận, chỉ mặt sứ thần
quát mắng, khiến Đào Duy Từ phải đưa mắt ra hiệu cho họ ngồi im. Chúa Sãi hiểu
ý Duy Từ, ân cần tiếp đón sứ thần, mời ra quán khách nghỉ ngơi, lại ban cho
vàng, lụa, gấm thêu và hẹn sau ba ngày sẽ trả lời. Sứ thần đi rồi, chúa Sãi hỏi
ý kiến các quan văn võ dưới quyền nên nhận hay không nhận sắc. Các quan võ Nguyễn
Hữu Dật, Nguyễn Mỹ Thắng, Mạc Cảnh Dinh, Trần Bảo, Nguyễn Tú, Nguyễn Cửu Kiều...
đều hăng hái đòi tuyên chiến với họ Trịnh và khuyên Chúa không nhận sắc chỉ của
vua Lê Thần Tông. Đám quan văn có nhiều người đố kỵ với Duy Từ, bảo nhau im lặng
nhìn quân sư xử trí ra sao. Có người trong số họ mạnh bạo gợi ý sát sạt:
- Lâu nay chúng thần mừng vì Chúa công gặp được hiền tài giỏi
giang, lắm mưu sâu kế lạ để trị quốc, an dân, mở mang bờ cõi, xin quân sư cho lời
chỉ giáo để quần thần mở thêm tầm mắt.
Mọi người nghe vậy đều nhao nhao hùa theo. Đào Duy Từ vẫn thản
nhiên ngồi, không hề bực tức. Ông đợi cho đám văn quan nín thở, giương mắt chờ
đợi hồi lâu, mới điềm đạm cất lời:
- Bẩm Chúa công, thần nghĩ, ta nên nhận sắc mà thực ra cũng
là không nhận.
- Quân sư nói gì mà ba phải, nước đôi thế thì sao đáng để triều
thần tin ở tài của ông? - Phước Khê cười vang, ngắt lời.
- Lão ngông chăn trâu cho nhà phú hộ họ Cao ấy có tài đức gì
mà ngồi ghế quân sư - Phước Anh đế theo.
Tống Kiến Tường khôn ngoan hơn, che miệng nói mát với mấy người
xung quanh:
- Quân sư chắc có kế lạ, hãy để ông ấy nói rõ ra khắc biết.
Chúng ta là kẻ học nông nghĩ cạn, hiểu sao được mưu kế của bậc kỳ tài.
Chúa Sãi thấy vậy tức giận đập bàn quát to :
- Các ngươi không được vô lễ! Xin quân sư hãy nói rõ cho ta
nghe chủ kiến của tiên sinh.
- Bẩm Chúa công! Thần đã từng khuyên Chúa công mấy chữ, “Bắc
hoà Trịnh, Nam mở cõi”. Hoà hoãn với Trịnh là chiến lược của ta
để yên tâm kiến quốc, mở rộng biên thùy vào Nam. Vậy ta nhận sắc lúc này
là việc đương nhiên để phục vụ cho kế sách hoà hoãn với Trịnh, theo di chúc của
chúa Tiên. Nhưng thời thế bây giờ đã khác với thời của chúa Tiên. Xưa kia, chúa
Tiên phải hai lần ra Bắc xưng thần là bởi tiếng rằng làm chủ phương Nam, nhưng
thuộc tướng ba ty đều do họ Trịnh cất đặt để kiềm chế, giám sát chúa Tiên: thời
vua Thế Tông có Ma Cầu làm tổng binh Thuận Hoá, thời vua Kính Tông lại có Vũ
Chân làm hiến sát Thuận Hoá. Nhất cử nhất động của chúa Tiên đều khó qua được
con mắt của Trịnh Tùng, nên chúa mới phải nhẫn nại như thế. Nay Trịnh Tùng đã
chết, Trịnh Tráng lên thay còn lo đối phó với nhiều phe đảng của các anh em
trong nhà, chưa dám nghĩ đến việc liều lĩnh đánh ta. Trịnh Tráng có nhiều thê
thiếp mà vẫn phải phong công nữ Ngọc Tú, em của chúa công làm chính phi đủ rõ ý
muốn Trịnh - Nguyễn hòa hoãn. Mặt khác, từ khi chúa công lên kế vị đã tự mình
chuyên chế, đuổi hết các tướng tay chân của họ Trịnh về Bắc, nước nhà lại đang
cải cách ngày thêm cường thịnh, lo gì không giữ được cơ nghiệp tổ phụ. Ta hoà với
Trịnh trong thế mạnh để dằn mặt Trịnh Tráng, không gửi con tin, không cần nhận
sắc, cũng không cần cống nạp theo yêu cầu của họ. Tuy vậy, hiện giờ ta chưa chuẩn
bị kỹ nên chúa công hãy tạm thời nhận sắc làm kế trì hoãn, cho sứ thần của họ về
trước rồi ta cho sứ thần ra Đông Đô tạ lễ, vờ thực hiện những yêu sách kia,
nhưng thời gian chưa hẹn trước được. Thần xin hiến một kế vẹn toàn để giải quyết
việc này.
Duy Từ bước lên ghé tai chúa Sãi thầm thì hồi lâu. Chúa nghe
xong cả cười, hạ lệnh bãi triều, hớn hở dắt tay quân sư lui vào hậu cung.
Mùa thu năm sau (1628), mọi việc chuẩn bị đối phó với Trịnh
Tráng đã hoàn tất. Duy Từ tổ chức một cuộc diễn tập trận pháp trên bộ, dưới biển
rất lớn để phô trương lực lượng dằn mặt chúa Trịnh. Sau đó, chúa Sãi cử Lại Văn
Khuông lên thuyền đi sứ ra Bắc, thực hiện kế hoạch của quân sư. Duy Từ tiễn
chân Văn Khuông ra tận bến thuyền dặn dò mẹo mực, lại giao cho sứ thần hai chiếc
túi gấm mầu nâu và màu vàng. Văn Khuông chưa hiểu ý của quân sư liền hỏi :
- Tiên sinh đã sắp đặt mọi việc cho hạ quan chu đáo, vậy còn
hai túi này dùng làm gì?
- Túi gấm màu nâu để ngươi ngồi thuyền trên đường ra Bắc thì
mở ra học thuộc lòng những gì ta viết. Đó là những câu hỏi ta giả định chúa Trịnh
sẽ chất vấn và những lời đối đáp lại ta chuẩn bị cho ngươi sử dụng. Đây chỉ là
điều có thể xảy ra chứ chưa chắc chắn. Người trí giả phải biết tuỳ cơ ứng đáp
sao cho đúng với tinh thần ấy, giống như đọc sách thánh hiền phải lý rộng ra
các điều không có ở trong sách. Sư phụ ta là đại sư Duy Giác vẫn thường dạy như
vậy. Ngươi đi sứ chớ để có gì sơ suất làm nhục chủ mình.
- Thế còn túi gấm màu vàng?
- Dâng lễ và đối đáp với chúa Trịnh xong, ắt họ sẽ đưa ngươi
về dịch quán nghỉ ngơi. Trong số lễ vật có chiếc mâm vàng hai đáy ta cố tình để
lộ ra một kẽ hở. Trịnh Tráng giống cha hắn ở điểm đa nghi, sẽ sai thuộc hạ mở
ra xem. Ở phần đáy có sắc chỉ của vua Lê Thần Tông mà chúa công ta sai ngươi đem
trả lại. Ngoài ra, trong đó còn một bài thơ chơi chữ lắt léo của ta không dễ gì
đoán ngay được. Xem ra, ngoài ấy chỉ có quan trạng nguyên Phùng Khắc Khoan mới
có khả năng giải đoán, nhưng ông ấy lại đã cáo lão về quê. Đây chỉ là kế mọn đề
kéo dài thời gian cho ngươi nhanh chóng trốn vào Nam. Túi gấm màu vàng là ám hiệu
gặp các thám tử gài lại ở Đông Đô từ thời chúa Tiên. Trong túi có địa chỉ để
ngươi tìm họ và thư của ta bảo họ đưa đường cho ngươi đi trốn.
- Tiên sinh liệu việc như thần, đâu có thua gì Khổng Minh!
- Thôi ngươi có thể đi. Chúc ngươi thượng lộ bình an!...
Văn Khuông cáo biệt quân sư Duy Từ, dong buồm đi về phương Bắc,
lòng vui phơi phới. Tiết trời cuối xuân còn chưa tan hết lạnh, chan hoà nắng
gió. Từng đôi cánh hải âu bay rập rờn trên mặt biển bao la, gợi lên thi hứng.
Chàng làm thơ ca ngợi chúa Sãi, nhớ Duy Từ rồi ôm đàn hát nghêu ngao trên sóng
nước. Văn Khuông thuộc lớp văn quan trẻ, được quân sư đích thân ra đề thi khảo
trong đợt sát hạch lại viên khắp các nha phủ ở Thuận - Quảng. Vì vậy, quân sư đối
với chàng ơn trọng như núi, tình nghĩa như sư phụ. Chàng muốn gọi
ông là ân sư, nhưng lại sợ vây cánh của Phước Anh và cha con Tống Thị để bụng
thù oán. Nhưng trong thâm tâm chàng luôn ủng hộ cuộc cải cách của quân sư, hết
lòng trợ giúp mỗi khi chúa Sãi sai bảo. Việc đi sứ ra Bắc lần này, quân sư chọn
đích danh chàng mà phớt lờ các bậc danh Nho khác, đủ thấy ông tin cậy và quyết
tâm trẻ hoá đội ngũ giúp việc trong phủ chúa. Chàng sùng kính quân sư, khao
khát được làm học trò còn vì ông có phong độ lãng tử, rất sành âm nhạc. Một lần
được hầu rượu chúa Sãi và quân sư, Văn Khuông đã tận mắt nhìn, tận tai nghe thấy
Duy Từ ôm cây Nguyệt cầm gẩy đàn, hát bài “Ngoạ Long Cương vãn”, giai điệu du
dương, luyến láy mượt mà, tình cảm sâu lắng. Hôm ấy, quân sư Duy Từ còn trình
lên chúa một liên khúc dùng cho ban nhạc cung đình mỗi khi tiếp sứ
thần các nước. Ông giải thích, một quốc gia có nền văn hiến thì âm nhạc cung
đình phải toát lên vẻ đẹp tâm hồn của dân tộc, sự ổn định của vương triều, sức
mạnh của quốc gia. Trong liên khúc có bốn điệu nhạc: Kim Tiền - Lưu Thuỷ -
Thanh Long và Bạch Hổ. Kim Tiền tượng trưng cho sự giàu có. Lưu Thuỷ nói lên sự
mỹ lệ của giang sơn Thuận Hóa. Thanh Long biểu hiện phong độ đế vương của đấng
minh chúa ở phương Nam. Bạch Hổ tượng trưng cho sức mạnh và khí thế lấp biển dời
non của binh lính, tướng sĩ. Chúa Sãi nghe xong, lệnh cho ban nhạc cung đình
vào hoà tấu. Trong bữa tiệc, lúc cao hứng, quân sư còn hẹn với quan trưởng ty
giáo phường rằng ông sẽ soạn một vở tuồng theo tích “Hoa Mộc Lan tòng quân”
dùng để diễn mừng thọ chúa Sãi nay mai. Văn Khuông ham thích đàn hát từ nhỏ nên
khi nghe xong liên khúc thấy choáng ngợp, đê mê giữa một biển âm thanh kỳ diệu.
Chàng đã chép lại những bản nhạc đó và giờ đây ngồi thuyền đem đàn ra gẩy, lòng
thấy lâng lâng...
Văn Khuông đến Đông Đô, vào yết kiến Trịnh Tráng, chúa không
để cho sứ thần phương Nam kịp ngồi đã đanh mặt hỏi:
- Vàng bạc, ngà voi, tơ lụa há đủ sao? Voi và thuyền chiến
đâu, ta không thấy?
- Khải chúa! Voi và thuyền không phải là lệ cống, sợ người đi
truyền mệnh nói không đúng nên không dám vâng mệnh.
- Vậy con tin đâu? - Chúa đập bàn hỏi tiếp.
- Nam - Bắc như một nhà, đã thành tín với nhau rồi,
dùng con tin làm gì! Vả chăng công nữ Ngọc Tú, con gái chúa Tiên đang làm bà
phi chính thất còn chưa đủ tin sao?
Trịnh Tráng lại hỏi:
- Hoàng đế cho vời Nam chúa đi đánh giặc ở Cao Bằng
là cơ hội để lập công, tỏ rõ lòng trung, cớ sao Phước Nguyên không đến?
- Giặc Cao Bằng là giặc khốn cùng, sức quân của Trung Đô
Vương cũng thừa đánh được. Chúa Nam tôi vâng mệnh giữ
hai châu Thuận - Quảng, phía Nam chống giặc Chiêm Thành,
phía Đông lo chống giặc cướp từ biển vào, canh cánh bên lòng, chỉ sợ không giữ
yên bờ cõi hoàng đế giao cho nên không dám đi xa.
- Duy Từ vừa cho diễn tập trận pháp trên bộ, dưới biển ý muốn
chống mệnh vua hay sao? - Nguyễn Hoá định tâng công với chúa Trịnh chen vào hỏi.
- Quan hành khiển Nguyễn Hóa sai rồi. Chúa Nam chịu mệnh giữ
đất cần phải phòng bị bờ cõi nên mới sai quân sư ngày đêm tuyển mộ lính, lại dạy
cho bày trận theo binh pháp, thường xuyên như vậy. Rồi đây quân sư sẽ còn thao
diễn nhiều trận to hơn nhiều để tỏ rõ sức mạnh của quân Nam. Đó là vì vua tôi ở
phương Nam giữ trọn đạo quân thần, sao gọi là chống mệnh!
- Tướng tá ở phương Nam thế nào? - Lê Thời Hiến hỏi.
- Tài kiêm văn võ như Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Dật thì chẳng
kém vài chục người. Hạng vừa vừa như tôi thì lấy đấu mà đong, lấy xe mà chở
không hết.
- Người ta nói Nam chúa anh hùng cái thế, sao không nghĩ đến
việc phò vua, đánh giặc lập công? - Chúa Trịnh lại hỏi.
- Chúa Nam tôi không mê tửu sắc mà ưa nhã nhạc, năng đi chùa,
đau đáu cầu hiền, hết lòng thương dân, uy tín lan rộng sang các quốc gia láng
giềng phía Nam, phía Tây, đảm lược xông pha trước hòn tên mũi đạn không hề quản
nhọc... đáng gọi là anh hùng lắm chứ! Nếu có những bọn như Vương Mãng, Đổng
Trác giả danh thiên tử sai khiến, ép buộc anh hùng trong thiên hạ, sát hại dân
lành thì chúa Nam tôi sẽ vì Nghĩa mà đi, vì Nhân mà đánh, vì Lễ mà hỏi tội, há
sợ gì nguy hiểm...
Trịnh Tráng và quần thần ở Đông Đô đều là những bậc Nho học
tiếng tăm, thảy đều cứng lưỡi, không còn bắt bẻ gì thêm. Lê Thời Hiến thấy Lại
Văn Khuông đối đáp trôi chảy, lời lẽ tự nhiên, chặt lý vẹn tình, nhưng qua văn
phong, ông cảm thấy đó chính là khẩu khí của Đào Duy Từ. Ông mừng cho bạn cũ gặp
được minh chúa, lại chạnh lòng nhớ kỷ niệm xưa. Nỗi lo về khả năng xảy ra chiến
tranh Nam - Bắc khiến ông muốn viết thư thăm bạn, nhắc lại lời hẹn ước lúc chia
tay, nhưng ông sợ bị khép tội tư thông với sứ thần của đối phương nên đành xua
ngay ý nghĩ đó. Đêm về thao thức nhớ bạn, ông không sao chợp mắt được.
Lại Văn Khuông dâng lễ xong, về quán dịch nghỉ ngơi, vội mở
túi gấm màu vàng, biết địa chỉ của thám tử đang neo thuyền buôn ở ngoài bến
sông. Chàng chờ đêm xuống dắt tuỳ tùng ra bờ sông Nhị Hà, lên thuyền
vào Nam. Một cung nữ được bà phi Ngọc Tú sai nấp sau rèm của chúa Trịnh,
nghe lén được cuộc đối đáp, đem lòng say mê sứ thần Lại Văn Khuông, quên mọi
nguy hiểm trốn ra ngoài, đã tìm đến quán dịch, năn nỉ xin theo chàng
vào Nam. Dọc đường, tình cảm giữa hai người ngày một thêm mặn mà, quyến luyến.
Chuyến đi ấy, chàng trai xứ Quảng không chỉ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của
quân sư giao cho. Chàng đã tìm được người bạn đời dám dứt bỏ mọi thứ, chạy theo
tiếng gọi của tình yêu đến như một tiếng sét.
Trịnh Tráng ngắm kỹ lễ vật, thấy chiếc mâm vàng có hai đáy liền
sai người tách ra xem, thấy trong có sắc chỉ của vua Lê Thần Tông, chúa Sãi
không nhận gửi trả lại, lại có phong thư của Đào Duy Từ chỉ đề bốn câu thơ:
“Mâu” nhi vô dịch
“Mịch” phi kiến tích
“Ái” lạc tâm trường
“Lực” lai tương địch
Chúa đọc không hiểu, nghĩ mãi chẳng ra, gọi các danh Nho đến
cũng không ai đoán giải được. Lê Thời Hiến bẩm rằng, có lẽ chỉ có trạng nguyên
Phùng Khắc Khoan mới hiểu hết, nhưng ông đã cáo lão về quê. Chúa sai người phi
ngựa suốt đêm, mời trạng Bùng đến gấp. Phùng Khắc Khoan xem xong, mỉm cười giải
thích: đây là lối chơi chữ khá lắt léo của Đào Duy Từ, khéo chiết tự sẽ ra ngay
thôi. Chữ “Mâu” không có nét phẩy là chữ “Dư”. Chữ “Mịch” mất chữ kiến
sẽ thành chữ “Bất”. Chữ “Ái” đánh rơi chữ “Tâm” biến ra chữ “Thụ”. Chữ “Lực” với
chữ “Lai” kề đó, ghép lại là chữ “Sắc”. Vậy bốn chữ “Dư - Bất - Thụ - Sắc”
nghĩa là “Ta không thèm nhận sắc"!...
Trịnh Tráng nghe giải thích bừng bừng tức giận, thét gọi võ
sĩ đi bắt sứ thần phương Nam về phủ trị tội. Giáp binh đến quán dịch được báo,
sứ thần Lại Văn Khuông đã bỏ trốn từ đêm qua. Lệnh truyền đi các ngả đường bộ,
đường thuỷ chặn bắt Lại Văn Khuông đều không tìm thấy tung tích.
Chúa càng nghĩ càng căm giận hai người là Nguyễn Phước Nguyên và Đào Duy Từ, muốn
huy động các đạo binh vào Nam quyết một trận thư hùng. Các quan thấy vậy đều
can ngăn. Phùng Khắc Khoan nói:
- Khải chúa!... Phước Nguyên kế nghiệp Nguyễn Hoàng đã nhiều
năm được mùa, dân chúng no đủ, quân lương đầy kho, khí thế binh sĩ đang hăng
hái muốn lập công. Gần đây Phước Nguyên lại được Duy Từ phò tá. Người này là bậc
kỳ tài. Xưa kia, thần đã từng khuyên Bình An Vương Trịnh Tùng nên thu dùng trọng
đãi ông ta, chúa không nghe. Nay Duy Từ đang ở Thuận Hoá, cải cách chính sự,
luyện tập binh sĩ, tất đã bố phòng chu đáo, chuẩn bị kỹ càng. Chúa không nên dấy
động can qua làm gì dễ chuốc lấy thất bại, dân chúng chết oan, đối phương đắc
ý. Nay chúa chỉ cần cử một người tài kiêm văn võ vào bờ Bắc sông Linh Giang, điều
binh trấn giữ để răn đe họ là đủ. Thần rất mong chúa thượng nghĩ lại.
Trịnh Tráng nghe theo, thu lại lệnh điều binh, trong lòng cay
đắng. Lê Thời Hiến xin chúa vào trấn thủ ở sông Linh Giang, được
chúa chuẩn tấu. Ông hy vọng chuyến đi này sẽ có cơ hội gặp bạn cũ,
nhắc lại lời nguyện ước không gây chiến tranh giữa hai miền Nam - Bắc. Lòng ông
nôn nao buồn vui lẫn lộn...
Chương 11
HỒI THỨ MƯỜI MỘT
Chiến lũy trải dài ngăn mạn Bắc
Đồn điền khai khẩn sáng trời Nam
Phủ quân sư nằm chếch về phía Đông phủ chúa chừng nửa dặm đường,
sát kề với bờ sông Hương. Phước Nguyên muốn xây cho Duy Từ một toà nhà lớn,
sánh ngang với phủ chúa, nhưng Duy Từ lại thích một ngôi nhà gỗ đơn giản, thanh
cao, vượng khí phong thuỷ, hoà hợp với thiên nhiên. Nhà dựng trên nền cao tam cấp,
cột kèo và ván bưng đều bằng gỗ xoan đào. Mái lợp ngói âm dương hình mũi hài,
có máng hứng nước bằng thân cây cau già khoét rỗng ruột. Nội thất kết cấu theo
lối nội tự ngoại khách, có hai buồng lồi ra ở đầu hồi, giữa là ba
gian thờ Phật, thờ gia tiên và thờ Khổng Tử. Ngăn cách ba gian thờ tự với hiên
rộng để tiếp khách là cái bậc cửa bằng gỗ cao chừng bốn chục phân, chia đố ruộng
chừng sáu chục phân, có lèo, có huỳnh, trên là nẹp gỗ rộng một tấc rưỡi, bào nhẵn
có thể làm ghế ngồi, mỗi khi khách đến đông ngồi chờ ở đó. Chính giữa hiên rộng
bày bộ tràng kỷ bằng mây. Các tấm ván bưng trong hiên rộng tiếp khách treo bộ
tranh tứ bình. Trước hiên có bức bình phong bằng trúc, tiếp đó đến sân rộng bày
núi non bộ và chậu hoa, cây cảnh các loại. Bao quanh ngôi nhà gỗ là vườn cây
trái rộng chừng một mẫu, có hàng rào râm bụt vây quanh, xén tỉa gọn gàng.
Nàng Vân đang ngồi trước hiên mong ngóng Duy Từ về ăn bữa cơm
chiều. Nắng đã xiên khoai. Bốn bề tĩnh lặng. Ngoài sân ong bướm rập rờn. Trong
vườn im gió, thoảng nghe tiếng chim chích choè, chim chìa vôi kiếm mồi, hót lời
gọi bạn. Đã nhiều tuần nay, nàng thẫn thờ nhìn chiếc chén cơm úp trên mâm và
đôi đũa gỗ mun gác hờ bên cạnh. Duy Từ ở lỳ trong phủ chúa, có hôm đến khuya mới
về nhà. Đêm xuống, ông lại chúi đầu bên án thư đọc
sách hay vẽ nhiều hình lạ lẫm trên tờ giấy dó. Có lần ông tâm sự với
nàng rằng, ông đang xin chúa cho lập xưởng đúc súng thần công và chế ra thuyền
chiến hai tầng. Sứ thần Lại Văn Khuông từ ngày ở Bắc về suốt ngày
theo ông bàn bạc rồi ghi ghi chép chép, vẽ hình lên giấy, hết tờ nọ đến tờ kia.
Họ nói với nhau về những con số, về sức lật con thuyền, về đường đi của đạn
pháo và về sáng chế của ông Nguyên Trừng từ đời nhà Hồ. Cái ông Hồ Nguyên Trừng
ấy, theo Duy Từ kể, đã từng đắp chiến luỹ Đa Bang, chế ra 100 khẩu sơn
pháo, lại chế ra cả những thuyền chiến hai tầng có 50 đến 100 tay chèo, bên
trên có hàng vài chục lính chiến đi lại như ở đất liền. Vậy mà ông ta cuối cùng
vẫn bị bắt làm tù binh, giải sang nước Tàu làm lao dịch khổ sai. Nay Duy Từ học
theo Nguyên Trừng, đúc súng, chế thuyền, nghĩa là chiến tranh sắp xảy ra. Đời
nàng đã một lần goá bụa. Người chồng cũ đã chết trong trận thuỷ chiến với quân
Chiêm ở cửa biển Quy Nhơn. Bé Hương của nàng mồ côi từ lúc lên ba, nay đã cập kề
tuổi mười lăm. Nàng muốn nó sẽ thành vợ Hữu Tiến. Hai đứa xem chừng rất mến
nhau, hôm nay vừa dắt nhau lên chùa Thiên Mụ vẫn chưa về. Nàng ướm lời thấy Duy
Từ ủng hộ, càng thêm quyết tâm ghép đôi cho hai trẻ. Năm năm qua sống chung với
Duy Từ nàng có thêm hai đứa con, vừa trai vừa gái. Giờ nếu có thêm chàng rể,
gia đình quây quần đông đúc, ông sẽ vơi nỗi buồn vì cha già con cọc. Đời ông đã
chịu cảnh côi cút long đong góc bể chân trời, bạc tóc mới có được mái ấm gia
đình. Nàng chỉ sợ thời cuộc nay mai sẽ cuốn hút Hữu Tiến vào guồng quay chiến
tranh, rồi con gái nàng duyên phận lỡ làng. Thôi thì số kiếp đàn bà sinh vào thời
loạn, sớm được hạnh phúc ngày nào hay ngày đó. Rồi đây hai đứa trẻ đành phải
trông vào rủi may của số phận vậy thôi. Sắp đến tết Trung thu là sang mùa cưới
hỏi. Xóm giềng đã thấy lác đác mấy cuộc dạm ngõ trầu cau. Nàng mong có một ngày
Duy Từ ngơi việc để bàn định chuyện cưới xin cho Thu Hương và Hữu Tiến. Chiều
nay, nếu ông chịu về ăn cơm nhà, nàng sẽ giữ ông ngồi uống trà bàn bạc.
Có lẽ ông còn ngần ngừ chưa quyết là vì đợi thư của Hữu Dư ở ngoài Bắc. Tình bạn
của ông với vợ chồng Hữu Dư - Thục Nga có nhiều uẩn ức sâu kín. Linh cảm đàn bà
giúp nàng nhận ra giữa ông và Thục Nga khi xưa có mối giằng buộc khác thường.
Những lúc nói chuyện quê nhà hay giảng dạy binh pháp cho Hữu Tiến xong, ông trở
nên ưu tư, trầm uất, ngồi lặng ở thư phòng. Có lẽ ông thương nhớ Thục Nga. Mối
tình đầu nào chẳng ám ảnh con người lâu dài, sâu sắc. Nhưng số phận của Thục
Nga và tình bạn của ông với Hữu Dư đã là nỗi dày vò ông qua nhiều năm tháng.
Nàng hiểu ông và càng thương Hữu Tiến, hy vọng cuộc hôn nhân sắp tới của đôi trẻ
sẽ giúp ông thanh thản đôi phần.
Duy Từ ở phủ chúa về nét mặt rạng rỡ, theo sau là tướng Lại
Văn Khuông sôi nổi bàn chuyện công việc của xưởng đúc súng. Sau lần đi sứ ra Bắc
thành công, Văn Khuông được chúa yêu mến, khen thưởng, ban cho chức tướng quân
hiệu uý, cai quản mọi mặt trị an của phủ chúa, hưởng lộc ngang hàm quận công.
Duy Từ cũng đã thẩm tra năng lực, học vấn và bồi dưỡng cho Văn Khuông về binh
pháp, hết lòng tin tưởng. Gần đây, ông xin với chúa cho Văn Khuông chuyển sang
lo việc xây dựng xưởng đúc súng thần công và chế tạo thuyền chiến. Hai người, một
già một trẻ làm việc rất hợp ý nhau. Đây là việc hệ trọng, tối mật lại dễ sinh
tệ tham nhũng, bớt xén của công nên theo Duy Từ cần sử dụng người trẻ tuổi xông
xáo, ít toan tính lợi riêng. Càng ngày, qua Văn Khuông, ông càng nhận
ra lớp trẻ có thực tài không hiếm. Cái chính là biết dùng họ đúng năng lực sở trường
và mạnh dạn giao quyền cho họ quyết đoán. Trẻ hoá đội ngũ quan lại trong phủ
chúa là việc cần thiết. Các tướng Hữu Dật, Mỹ Thắng, Cửu Kiều cũng
phải được cất nhắc dần, thay cho các công thần lão tướng...
Nàng Vân sai người hầu pha trà, niềm nở tiếp đón Văn Khuông,
hỏi thăm gia quyến của chàng. Lát sau, nàng xuống bếp cùng gia nhân chuẩn bị
cơm rượu. Văn Khuông chờ phu nhân ra khỏi phòng vội bẩm trình:
- Bẩm quân sư, tiểu tướng đã chọn xong mặt bằng nhà xưởng,
cho lính khẩn trương tập kết vật liệu để xây dựng. Thợ đóng thuyền lấy người cửa
biển Tư Dung và bán đảo Sơn Trà, còn thợ đúc súng, chế thuốc nổ lấy người ở xã
Mậu Tài, huyện Phú Vang. Khí thế binh lính và dân thợ đang hăng, chỉ chờ lệnh của
quân sư để bắt tay vào việc.
- Tốt lắm! Ta cũng đã tìm ra cách chế thuốc nổ cho đạn pháo,
có sức công phá lớn, đẩy những hòn đá hay các thỏi sắt có ngạnh sắc đi xa hơn của
Hồ Nguyên Trừng khi xưa. Thế còn khả năng lật thuyền khi sóng to hoặc
khi ta bắn pháo, tướng quân đã làm đến đâu rồi?
- Bẩm quân sư, việc chống lật thuyền lúc sóng to gió lớn, khi
xưa Hồ Nguyên Trừng đã tính toán rất chuẩn xác, đúng như các ghi chép thu thập
của quân sư. Nay tiểu tướng cần phải tính thêm cho điều kiện khi lắp
đặt ở tầng trên của thuyền một khẩu súng thần công. Làm sao cho lúc ta bắn
pháo, luồng khí cháy phụt ra không ảnh hưởng đến binh lính trên thuyền và sức
giật của nó không làm lật thuyền là điều tiểu tướng phải tính kỹ. Qua nhiều lần
thử nghiệm bằng hình cụ trong nhà và chế thử theo kích thước nhỏ, tiểu tướng đã
tìm ra phương cách hợp lý. Tuy nhiên, theo thiển nghĩ của tiểu tướng, ta vẫn cần
nhiều lần thử nghiệm nữa, trước khi chế hàng loạt.
- Tướng quân cần thử tiếp bao lâu?
- Khoảng ba tháng đến nửa năm.
- Đây là di sản quý giá của Hồ Nguyên Trừng đã bị mai một, thất
truyền. Thời gian gặp nạn ở bên Tàu, ta nghe đồn ông ấy khi bị bắt làm tù binh,
sang đó còn chế ra nhiều thứ khác tốt hơn hồi còn ở trong nước. Nay sứ mạng của
tướng quân là phải chế tạo những thứ kia vượt xa Hồ Nguyên Trừng. Ta và chúa
Sãi rất tin ở tướng quân, xin chớ phụ lòng.
- Bẩm, tiểu tướng xin cố gắng hết sức, song còn nhờ vào sự chỉ
dạy thêm của quân sư.
- Ngày mai chúa sẽ lên điện, họp các quần thần ban bố nhiều
việc hệ trọng. Sau đó, ta sẽ có việc đi ra Quảng Bình để cùng tướng quân Hữu Dật
và Mỹ Thắng lo việc phòng thủ mặt Bắc, trước khi chinh phạt phía Nam. Có lẽ
ta không có nhiều thời giờ để chăm sóc việc đúc súng, chế thuyền. Mọi việc ta
trông cậy ở tướng quân, hãy lo liệu chu đáo.
Cơm canh đã dọn lên, hai người sôi nổi chuyện trò suốt bữa
ăn. Văn Khuông ra về tràn đầy hứng khởi. Chàng không ngờ bước đường
sự nghiệp của mình lại có may mắn gặp được một vị ân sư như Đào Duy Từ. Chàng
chợt nhớ đến nàng Kiều Liên, người cung nữ theo chàng vào Nam, có lẽ cái duyên
kỳ ngộ ấy cũng nhờ có ân sư cho chàng cơ hội đi sứ ra Đông Đô, chàng và nàng mới
thành đôi lứa. Đời người dễ có mấy cơ hội tuyệt vời như vậy.
Nàng Vân âu yếm dìu Duy Từ vào phòng trong nghỉ ngơi. Hôm nay
ông quá vui, uống hơi nhiều. Ngoài sân Hữu Tiến và Thu Hương đã đi chùa Thiên Mụ
trở về, cười đùa khúc khích. Tiếng cười vô tư, trong trẻo của Hương khiến nàng
xôn xao rung động. Trái tim người mẹ của nàng ngập tràn niềm vui. Nàng quàng
tay lên cổ Duy Từ, dụi đầu vào vòm ngực của ông, lòng chứa chan hạnh phúc. Duy
Từ nhớ ra điều hệ trọng, thầm thì vào tai vợ:
- Nàng biết hôm nay ta vui sướng, tự thưởng cho mình thêm vài
chén rượu còn vì lẽ nào khác không?
- Thiếp làm sao biết được.
- Ta vừa nhận được thư của Hữu Dư do một thám tử ngoài Bắc
mang vào.
- Ông ấy có khoẻ không, việc làm ăn thế nào?
- Rất tốt. Ông ấy khoẻ và vui lắm, gửi lời thăm nàng. Người Bắc
di cư vào Nam qua trang trại của ông ấy ngày một đông, có đợt hàng
trăm hộ. Chúa sắp mở cõi vào phía trong, rất cần đông người Việt di cư, công Hữu
Dư không nhỏ đâu. Ông ấy quả không phụ lòng mong đợi của ta.
- Thế còn việc hôn nhân của Hữu Tiến?
- Còn gì phải bàn nữa, Hữu Dư nghe tin mừng lắm! Nhờ ta sắp đặt
hết mọi việc là ông ấy tin tưởng giao con cho ta và nàng.
- Thế thì ông cho chúng cưới mau đi. Thiếp mong có cháu ngoại
bế bồng lắm rồi.
- Ta định cho chúng thành đôi với nhau trước khi đưa Hữu Tiến
ra kinh lý ở biên ải phía Bắc.
- Ông vội gì, cho chúng gần nhau lâu một chút, đừng bắt Hữu
Tiến phải đi ngay, ông ạ!
- Đời còn dài, vả lại đi có ít ngày lại về cơ mà.
- Thôi tùy ông sắp đặt, thế nào thiếp cũng xin vâng...
Nàng Vân bồi hồi, ngây ngất trước điều ước nguyện đã
thành sự thật. Nàng xoay người, ôm chầm lấy ông, mắt long lanh... Đêm ấy Duy Từ
lại nghĩ về Thục Nga, lòng bồi hồi thương nhớ. Ngoài sông gió thổi lộng. Bầu trời
đầy sao. Mặt đất đẫm sương. Ông thấy Thục Nga hiện lên trong hang đá năm nào ở
xứ Thanh, nơi hai người ly biệt. Cái bóng trắng của Thục Nga cứ vẫy gọi ông đi
mãi, qua bao núi cao, rừng thẳm. Khắp người ông nôn nao một cảm giác siêu trọng
lượng. Đôi chân nhẹ bẫng như lắp cánh, nâng người ông bay là là trên mặt đất.
Ông đi vào cõi vô thường, gặp lại song thân, Thục Nga, ông Danh, thầy đồ Mậu và
đại sư Duy Giác...
Quang cảnh phủ chúa trong buổi thiết triều hôm ấy thật trang
nghiêm. Chúa Sãi ngồi trên điện cao, hai bên có thái giám phe phẩy chiếc quạt lụa
màu vàng, thêu rồng xanh ở hai mặt quạt. Dưới sân, văn quan võ tướng trong triều
và tổng binh, tổng trấn các nơi đều về dự đông đủ. Vương tôn, công tử con chúa
và hoàng thân bên ngoại đều được báo trước, dù ở xa hay ốm nhẹ cũng phải có mặt
trước giờ thìn, ngồi chặt hai hàng ghế bên phải chúa Sãi để chờ lệnh sai bảo.
Khi mọi người đã tề tựu đông đủ, ba hồi trống khai chầu nổi lên gióng giả. Chúa
Sãi đảo qua một lượt điểm mặt từng người, rồi nghiêm giọng nói:
- Ta từ khi nối nghiệp chúa Tiên, nhờ vào ơn đức của tổ phụ,
nỗ lực của bản thân, phò tá hết lòng của các quan, nên nước nhà cường thịnh,
thóc lúa, quân lương đầy ắp, dân chúng no đủ, tướng mạnh quân đông, xã tắc vững
như bàn thạch. Nay quân sư dâng kế đi mở cõi xuống phía Nam và sang
phía Tây, các khanh có ý kiến gì tâu rõ lên, cùng ta bàn bạc, đưa ra quyết sách
cuối cùng.
Đại thần Nguyễn Phước Khê bước ra can rằng:
- Bẩm chúa công! Thuận - Quảng ta liên tiếp mấy năm được mùa,
công thương nghiệp mở mang, ấy là phúc lớn cho muôn dân trăm họ. Song ta dấy
binh đánh nhau với các nước phía Nam, thần e quân Trịnh thừa cơ kéo vào, lấy
gì chống đỡ. Đường vào Chiêm Thành, có thành Đồ Bàn tựa lưng vào núi, có cảng
Quy Nhơn hiểm trở chúa Tiên mấy bận đánh rồi phải lui, có đầm Thị Nại
mênh mông lau sậy um tùm... đâu có dễ gì thắng được. Chiến sự kéo dài càng tăng
cơ hội cho chúa Trịnh thừa cơ đánh úp vào Thuận Hoá.
Hàng tướng sủng thần của chúa Tiên là Mạc Cảnh Dinh tâu:
- Bẩm chúa công! Lời quận công Phước Khê không phải là không
có lý. Từ ngày sứ thần Lại Văn Khuông ra trả lại sắc phong, Trịnh Tráng bị mất
mặt, vẫn nuôi mối hận chờ dịp đánh ta. Đàng ngoài lãnh thổ rộng lớn, dân đông gấp
năm, quân đông gấp mười đàng trong, ta không thể không đề phòng.
Công tử Phước Kỳ đang ốm, nghe có cuộc họp bàn trọng đại cũng
cố gượng từ Quảng Nam về gặp chúa Sãi. Đêm qua, ông đã tranh thủ ghé
phủ quân sư bàn bạc, tranh luận khá gay gắt. Nghe Duy Từ phân tích thời cuộc,
ông dần vỡ ra nhiều điều, xoá đi mối lo toan mặt Bắc. Phước Kỳ bước ra trước điện
cúi lạy phụ vương rồi nói:
- Bẩm phụ vương! Nhi thần lúc đầu cũng có nhiều băn khoăn về
mối đe doạ đến từ phía Bắc như thúc phụ, đại thần Phước Khê. Nhưng nghĩ lại,
nhi thần thấy chúa Trịnh không mạnh và đáng lo như ta tưởng. Thời cơ mở cõi vào
Nam đang đến, nếu không nhanh chân thì các nước Xiêm La, Ai Lao ở phía Tây, giặc
Tây dương ở ngoài biển sẽ vào cướp đất trước ta. Đương nhiên việc bố phòng ở
phía Bắc thật chu đáo sẽ không thừa. Nhi thần tin là quân sư Đào Duy Từ đã tính
hết mọi nhẽ rồi. Vậy xin tiên sinh hãy nói ra để phụ vương ta và triều thần an
tâm.
Duy Từ vội đứng dậy, vòng tay xá công tử Phước Kỳ và xin phép
chúa Sãi được nói:
- Bẩm chúa công! Thưa các vị đại thần và các quan! Ai trong
chúng ta cũng đều đã rõ, chúa Trịnh lâu nay cai quản ngoài Bắc, đất rộng mà
không giàu, dân đông mà không mạnh bởi trong triều lục đục, vương thất tranh
giành, quan tham lại nhũng. Ở cung vua có bộ gì thì phủ chúa có ban ấy, đôi bên
dẫm việc lên nhau, trật tự rối mù. Chúa át quyền vua, lòng người ly tán. Họ muốn
đánh ta từ lâu mà tự lượng sức mình nên chẳng dám động binh. Tất nhiên, ta
không nên chủ quan khinh địch, phải phòng bị kỹ càng. Mùa thu năm ngoái, thần
và tướng quân Hữu Dật đi thị sát Quảng Bình, xem xét và đo đạc hình thế sông
núi, cửa biển. Chuyến đi này cho thấy từ cửa biển Nhật Lệ đến núi Đâu Mâu, phía
ngoài có nước khe, bùn lầy, nhân đó dùng làm hào rãnh; phía trong đắp luỹ cao
ngăn giặc. Thần đã lệnh cho hai tướng Hữu Dật và Mỹ Thắng đắp thêm một luỹ mới.
Hai năm trước thần đã cho đắp luỹ Trường Dục nên hai luỹ làm thành hai chiến
tuyến ngăn giặc từ xa, bảo vệ cho Thuận Hoá. Tình hình hai chiến tuyến này ra
sao, thần xin nhường lời cho tướng Hữu Dật bẩm trình để chúa công rõ.
Hữu Dật nghe nói, vội bước ra trình bày:
- Bẩm chúa công! Thần và Mỹ Thắng, hai năm qua theo lệnh quân
sư, không dám trễ nải, huy động dân và binh sĩ đắp xong hai luỹ. Năm Kỷ Tỵ
(1629) đắp xong luỹ Trường Dục dài 18 dặm, trên từ chân núi Trường Dục, dưới
kéo dài sát bờ biển có đầm lầy và bãi cát Hạ Hải. Năm Tân Mùi (1631) này lại đắp
xong luỹ Đồng Hới dài hơn 30 dặm. Cả hai luỹ ấy đều nghiêm cẩn làm theo bản vẽ
của quân sư Đào Duy Từ: luỹ cao 1 trượng 5 thước, rộng một trượng, ngoài đóng gỗ
lim, trong đắp đất, chia làm 5 bậc, voi ngựa đi được, dựa núi men khe; dọc theo
chiến luỹ cách một trượng đặt một khẩu súng quá sơn, cách 3 hoặc 5 trượng lập một
pháo đài có súng thần công nòng lớn... Bẩm chúa công! Trong binh pháp có nêu 6
loại đất tốt và 4 loại đất xấu. Hai chiến luỹ vừa đắp của ta, với quân Nam đó
là đất ải địa trong 6 loại đất tốt: thông địa, quai địa, chi địa, hiểm địa, ải
địa và viễn địa; còn với quân Bắc đó là đất tử ngục trong 4 loại đất xấu: thiên
kháo hay song thiên kháo, tử phách, tử trụ và tử ngục. Quân sư Đào Duy Từ đã
thông tỏ binh pháp, lại có biệt nhãn mới chọn ra nơi đắp luỹ cho chúng thần.
Ngoài hai chiến luỹ Trường Dục và luỹ Đồng Hới theo lệnh của quân sư, chúng thần
đã sai người đặt xích sắt ngang các cửa biển Nhật Lệ, Minh Linh, dưới lòng sông
đóng bãi cọc gỗ... Giặc từ ngoài Bắc vào theo đường bộ hay đường thuỷ đều sẽ
không có đủ đất chôn thây, quân ta nhàn nhã mà chống giặc.
- Nói hay lắm! Tướng Hữu Dật thật khéo tâng bốc quân sư của
các người. Xưa Hồ Nguyên Trừng cũng đã từng lập chiến luỹ Đa Bang dài 600 dặm
sao vẫn thất bại? - Công tử Phước Anh đứng lên chen ngang, không cho Hữu Dật
nói tiếp.
- Phước Anh không được vô lễ với quân sư. Nếu còn nói nữa ta
sẽ tống giam vào ngục mà sám hối - Chúa Sãi cả giận thét lên.
- Xin chúa công bớt giận! - Đào Duy Từ ôn tồn can - Công tử
biết chuyện Nguyên Trừng thất thủ ở luỹ Đa Bang, nhưng chưa hiểu vì sao ông ấy
thua giặc Minh. Công tử còn chưa biết ngoài chiến lũy Đa Bang, Hồ Nguyên Trừng
từng chế ra 100 sơn pháo và tàu chiến hai tầng mà vẫn thua giặc, bị bắt làm tù
binh. Cái chính là nhà Hồ chưa được lòng dân ủng hộ, còn chúa ta thì khác, quân
dân một lòng tận trung gắng sức. Sau nữa, công tử chưa biết rằng họ Hồ năm xưa
đã phạm sai lầm lớn trong binh pháp vì đã căng mỏng sức mình ra chiến lũy dài
600 dặm trước thế giặc như nước tràn bờ. Ta nay lập lũy nơi hiểm địa đón giặc từ
xa đến, cho giặc duy nhất có một con đường độc đạo Bắc - Nam mà chặn đánh tất
nhiên phải thắng. Hai việc khác nhau một trời một vực, sao lại vơ vào một cục để
mà mê tối, lo quàng nghĩ xiên.Thần xin tiếp lời tướng quân Hữu Dật nói cho rõ
thêm. Hai chiến luỹ vừa đắp còn chưa đủ súng đạn để dùng, pháo lớn để thị uy,
đánh giặc từ xa. Cửa biển có xích sắt, cọc lim vẫn cần thêm một đạo thuỷ binh
có thuyền chiến hai tầng để bao vây tiêu diệt giặc. Vậy nên thần đã cùng Lại
Văn Khuông dày công nghiên cứu, chuẩn bị lập xưởng. Nay mọi việc đã tạm ổn,
đang chờ lệnh chúa ban xuống để thực hiện...
Quần thần và các tướng nghe Duy Từ thuyết giảng hồi lâu,
không ai còn dám thắc mắc gì. Chúa Sãi rất hài lòng phán rằng:
- Kế sách bình định phương Nam của quân sư ta đã đọc kỹ trong
bản tấu trình từ một tháng nay. Toàn bộ chiến lược bình Nam dự định tiến hành
trong 5 đến 7 năm. Giờ đã là năm Tân Mùi (1631), hẹn đến năm Mậu Dần (1638) sẽ
ca khúc khải hoàn. Nay phong quân sư Đào Duy Từ làm Thái uý tổng đốc các đạo
binh mã trong ngoài; Nguyễn Hữu Dật làm Nguyên soái bình Nam, dưới trướng quân
sư Đào Duy Từ; Lại Văn Khuông làm Đô đốc, thống lĩnh thuỷ binh và
kiêm việc giám sát hai xưởng chế thuyền, đúc súng; Nguyễn Phước Khê lo việc
quân lương và thuốc nổ, sắt thép, voi, ngựa... Lệnh cho tổng binh các địa phương
gấp rút tuyển mộ binh lính, tướng sĩ và thường xuyên tập trận pháp theo sự hướng
dẫn của quân sư. Riêng Phước Kỳ đặc trách theo dõi, đốc thúc việc điều động các
mặt nhân tài vật lực ở hai xứ Quảng Nam, Quảng Ngãi và tổ chức một đội tượng
binh 60 thớt voi, chờ khi dùng đến...
Sau cuộc hội nghị quần thần, Duy Từ quyết định xem tuổi chọn
ngày rồi cử hành hôn lễ cho Hữu Tiến và nàng Hương. Tướng quân Hữu Dật không ngờ
lần về phủ chúa này lại có cơ hội dự hôn lễ của người cháu họ trong gia tộc
Nguyễn Hữu ở xứ Thanh phiêu bạt vào Thuận - Quảng. Chàng đã từng vâng mệnh quân
sư bí mật ra tận thung lũng ngã ba sông Ngàn Sâu, dưới chân núi Vụ Quang gặp Hữu
Dư để bàn việc lập một mạng lưới thám tử ở phía Bắc sông Linh Giang, gài cắm rải
rác đến tận thành Nghệ An, lấy trang trại của Hữu Dư làm đầu mối liên lạc. Chuyến
đi mạo hiểm ấy đã cho chàng biết, dòng họ Nguyễn Hữu ở Tống Sơn là một chi
nhánh của họ Nguyễn Hữu ở Hoa Trai. Hữu Tiến là cháu bên nội của chàng, còn
quân sư lại là nghĩa đệ của Hữu Dư, nên chàng cũng thành người nhà của Đào Duy
Từ. Chàng được quân sư trao cho tập bản thảo cuốn “Hổ trướng khu cơ” để học
thêm binh pháp...
Thêm chú thích |
Đương lúc Hữu Dật chuẩn bị cùng quân sư và Hữu Tiến lên đường
về quân doanh ở Quảng Bình, chợt nghe tin dữ công tử Phước Kỳ đột ngột qua đời ở
Quảng Nam. Chúa Sãi thương tiếc Phước Kỳ đêm ngày khóc lóc, biếng ăn quên
ngủ, thân thể hao gầy. Chúa mời sư Tuệ Năng về cung lập đàn cầu siêu
cho công tử cả, rồi đóng cửa giam mình trong phủ. Duy Từ hết lời an ủi, khuyên giải,
chúa mới tạm nguôi. Chiến dịch đánh chiếm bờ Nam sông Linh Giang của Đào Duy Từ
đành phải lui lại đến cuối năm. Ông gửi Hữu Tiến cho Hữu Dật mang về quân doanh
kèm cặp. Thu Hương cũng được phép ra Quảng Bình hưởng tuần trăng mật. Nàng Vân
thấy vậy mừng khôn tả xiết. Tuy vậy, nàng lại lo lắng thấy Duy Từ suốt ngày vò
đầu suy nghĩ thở dài. Bệnh sốt rét ác tính ông mắc phải từ những năm bôn ba khắp
các buôn làng của người Thượng trên Tây Nguyên chợt tái phát vì cơ thể suy nhược.
Ông không buồn sao được khi thời cơ đã chín mà chúa Sãi vẫn chìm đắm trong u sầu,
thương nhớ Phước Kỳ, chưa chịu cho ông hành động. Nghe tin quân sư ốm nặng,
chúa Sãi vội đến bên giường bệnh thăm hỏi. Duy Từ cảm động nói với
chúa:
- Bệnh của thần có căn nguyên tự trong gan ruột chứ đâu phải
vì muỗi rừng năm xưa cắn đốt.
- Nhìn quân sư đau đớn ta muốn chịu thay mà vô phương cách.
- Có đấy, bẩm chúa công có đấy.
- Cách gì?... Quân sư nói mau đi!
Duy Từ vội tung chăn vùng dậy, thưa:
- Chúa công có nhớ chuyện Viên Thiệu đời Tam quốc bên Tàu
không?
- Ta nhớ mang máng thôi.
- Khi Tào Tháo đem quân đi đánh Lưu Bị ở Từ
Châu, Hứa Đô bỏ trống, mưu sĩ hiến kế cho Viên Thiệu đánh
úp Hứa Đô. Thời cơ như ngọn gió thoảng đến rồi đi, nhưng Viên Thiệu không nghe
lời mưu sĩ, chỉ vì có đứa con yêu của mình lên sởi. Sau này, Tháo chiếm được Từ
Châu, đánh bại Lưu Bị, bắt được Quan Công, bèn chỉnh đốn binh mã tiêu diệt được
Viên Thiệu. Cướp được Hà Bắc rồi, Tháo đến nhà vị mưu sĩ nọ bảo rằng, ta diệt
được Viên Thiệu bởi chúa công của ngươi ôm cái nhân đức của đàn bà đâu có đáng
kể gì, chỉ mừng được có thêm người như ông thôi, hãy đi với ta, ông sẽ không
còn phải ân hận ...
Chúa Sãi nghe xong giật mình tỉnh ngộ, lập tức đồng ý cho Duy
Từ mở chiến dịch đánh chiếm vùng Nam sông Linh Giang. Ngay hôm sau, Duy Từ đi gấp
đến quân doanh của Hữu Dật ở Quảng Bình, triệu tập các tướng ban bố tướng lệnh,
giao việc cho từng người. Quân Nam bất ngờ ào ạt tiến đánh, tràn sang cả bờ Bắc
sông Linh Giang chừng 30 dặm thì dừng lại. Lê Thời Hiến nghe tin cấp báo liền cùng
đại tướng Nguyễn Tịch đem quân vào nghênh chiến. Quân hai bên giàn trận giữa
cánh đồng cờ xí rợp trời, trống đánh liên hồi. Dứt ba hồi trống, bên phía quân
Trịnh, Lê Thời Hiến dắt Nguyễn Tịch và các tướng cưỡi ngựa ra trước hàng quân,
cho loa gọi lớn:
- Nguyên soái Lê Thời Hiến vâng mệnh Bắc chúa đàng ngoài mời
Lộc Khê hầu Đào Duy Từ, quân sư của xứ đàng trong ra hỏi chuyện.
Quân Nam im lặng. Chợt thấy Duy Từ cưỡi ngựa bạch
tiến ra, tay phe phẩy quạt lụa, hai bên có tướng Hữu Dật và Mỹ Thắng theo hầu.
Lê Thời Hiến nhìn bạn hồi lâu rồi ôn tồn hỏi:
- Quân sư lâu nay có mạnh giỏi không?
- Nhờ ơn chúa Sãi ta vẫn bình an.
- Nay quân sư đã công thành danh toại, phú quý đủ đầy, liệu
còn nhớ bạn xưa, nhớ lời giao ước cũ?
- Ta làm sao quên được ân tình của hiền đệ, vẫn nhớ lời giao
ước, nhưng hai ta bây giờ ai vì chủ nấy, chớ đem tình riêng ra cho thêm khó xử.
Hiền đệ và gia quyến vẫn mạnh giỏi chứ?
- Ơn vua lộc chúa ban đều, nên tiểu đệ và gia quyến mạnh khỏe,
quyết xả thân giữ đất, đền đáp ân sâu của chúa Trịnh.
- Sự đời éo le, bạn cũ bỗng chốc thành đối địch. Nay ta bày
trận đề quân Bắc xem sức mạnh của quân Nam.
Duy Từ ghé tai Hữu Dật nói nhỏ: “Ta chủ trương bày trận để
quân Nam ra oai với quân Bắc và để sau này bạn ta có cơ sở để nghị hoà, không bị
Trịnh Tráng bắt tội. Đây cũng là dịp để ngươi và Hữu Tiến hiểu thêm binh pháp.
Vậy ngươi hãy đứng kèm Hữu Tiến, xem ta bày trận”. Kế đó, Duy Từ ra lệnh nổi trống
ầm ầm, cờ xí các loại giương lên. Bốn phương bốn góc cùng trung quân, du binh đều
là số 8; ngoài có tám trận là Thiên - Địa - Phong - Vân - Long - Hổ - Xà - Điểu;
mỗi trận có 6 đội, cộng thành 48 đội; mỗi đội lại có 64 tượng quẻ theo hình bát
quái. Tổng cộng trận pháp có 4.400 quân lính. Đại tướng Mỹ Thắng oai phong lẫm
liệt, đứng bảo vệ Duy Từ ở trung quân đang cầm cờ hiệu. Duy Từ chờ cho quân Bắc
ngơ ngác kinh hoàng bèn thét to:
- Thời Hiến có biết đây là trận gì chăng?
- Duy Từ khéo bày trận Chu Thiên, liệu có biết biến trận?
- Trận này có 9 phép biến. Ta đã bày được hà cớ gì lại không
biến trận cho quân Bắc xem?
Nói dứt lời, Duy Từ liên tục phất cờ cho quân biến trận lần
lượt từ Tiểu Chu Thiên đệ nhất biến, đệ nhị biến..., đến đệ cửu biến. Quân đi
rung chuyển đất trời, đổi chính làm kỳ, đổi hữu sang tả, như rồng cuốn hổ vồ. Đại
tướng Mỹ Thắng vác đao, tế ngựa qua hết cửa trận này đến cửa trận khác, uy
phong lẫm liệt. Quân tướng của Lê Thời Hiến cả kinh, hoa mắt. Lúc đó Duy Từ mới
ra lệnh cho Mỹ Thắng thu quân về đội hình từng khối vuông như cũ. Ông cùng hai
tướng Hữu Dật, Mỹ Thắng cưỡi ngựa tiến lên chừng vài trượng, ôn tồn bảo Lê Thời
Hiến:
- Chúa Sãi ở phương Nam lòng lành tâm Phật, không muốn chiến
tranh để nỗi sinh cảnh huynh đệ tương tàn, nồi da nấu thịt, dân chúng lầm than.
Ta cũng mong Thời Hiến hãy nhớ câu “máu xương đâu cũng là của con dân nước Việt”
để đôi bên nghị hòa. Ngặt vì chúa Bắc vẫn đem bụng thù ghét chúa Nam, vẫn muốn
gây chiến nên ta rầu lòng, bất đắc dĩ phải đem quân ra Bắc phô diễn sức mạnh mà
thôi. Vậy ta nhờ Thời Hiến bẩm với chúa Trịnh Tráng, đôi bên giảng hòa, lấy
sông Linh Giang đổi thành sông Gianh làm nơi phân định rõ cương thổ hai xứ đàng
ngoài với đàng trong. Nếu được như vậy ta sẽ lập tức lui quân.
Lê Thời Hiến lúc này nghe ra mới hiểu chủ ý của Duy Từ không
hề muốn chiến tranh Nam - Bắc. Ông bồi hồi cảm kích, mừng vì bạn cũ không quên
lời thề ước năm xưa trong giờ ly biệt. Tướng Nguyễn Tịch thấy sức mạnh của
quân Nam cũng có ý nghị hoà, bèn khuyên Thời Hiến nhận lời. Đôi bên
cùng rút quân, lấy sông Linh Giang làm chỉ giới, trao đổi thư tịch dâng lên Trịnh
Tráng và Phước Nguyên phê chuẩn. Chiến dịch chớp nhoáng đánh chiếm bờ Nam sông
Linh Giang, thực hiện ý đồ cách sông cự địch của Đào Duy Từ toàn thắng.Ông sung
sướng hạ lệnh cho Hữu Dật bàn giao việc bố phòng và mạng lưới thám tử cho tướng
Mỹ Thắng, trong vòng ba ngày phải xong. Sau đó, ông cùng Hữu Dật, Hữu Tiến kéo
đại quân về Thuận Hoá ra mắt chúa Sãi.
Mùa xuân năm Nhâm Thân (1632), Đào Duy Từ vâng mệnh chúa Sãi
đi bình định phương Nam. Đại quân đóng bản doanh ở quê vợ của ông bên ngã ba
sông Thu Bồn - Vu Gia để tiện việc điều động các đạo quân thuỷ bộ. Đến nơi ông
họp các tướng bàn bạc. Duy Từ trải tấm bản đồ năm xưa ông vẽ trên đường chu du
vào Nam, bảo Hữu Dật:
- Chúa ra lệnh bình định bốn nước Xá Lợi, Lâm Ấp, Chiêm
Thành, Thuỷ Chân Lạp trong thời hạn năm đến bảy năm. Tướng quân dự định kế hoạch
thế nào?
- Bẩm quân sư! Tiểu tướng cho rằng Xá Lợi và Lâm Ấp là hai
nước yếu nhất, đất rộng người thưa, quân quyền tản mát về nhiều bộ tộc, ta nên
đánh trước. Nhưng Tây Nguyên là nơi nhiều núi cao, rừng rậm, địa hình chia cắt
và hiểm trở, không thể dùng quân đông mà phải dùng quân tinh nhuệ và tượng
binh.
- Thế còn sau đó?
- Ta sẽ đánh thẳng vào Thủy Chân Lạp rồi bốn phía vây ép mà
diệt nốt Chiêm Thành.
- Lối đánh của tướng quân quả có táo bạo, chớp nhoáng nhưng
không thật an toàn, chắc chắn.
- Xin quân sứ chỉ dạy cho tiểu tướng nên thế nào để chắc thắng
nhất?
- Chúa Sãi là người am hiểu binh pháp, lại rất giống chúa
Tiên ở chỗ cẩn thận, chắc chắn. Ta hiểu ý chúa công đưa ra thời hạn này là đã vạch
sẵn chiến lược gậm dần chiếc bánh tét, chia làm nhiều giai đoạn mà thực hiện từng
phần kế hoạch.
- Ý quân sư muốn chia làm mấy giai đoạn, trình tự từng bước sẽ
diễn ra thế nào?
- Ta với ngươi cùng nhìn trên bản đồ sẽ thấy nước Chiêm Thành
chạy dài theo bờ biển, có các dãy núi đâm ngang, nên có thể chia làm ba khúc. Từ
núi Cù Mông trở ra thông với Quảng Ngãi và giáp với nước Xá Lợi ở phía Tây. Từ
núi Cù Mông trở vào đến núi Đèo Cả gồm thành Phú Yên và thành Đồng Xuân là khúc
thứ hai, giáp với nước Lâm Ấp và nước Xá Lợi. Từ Đèo Cả trở vào gồm thành Diên
Khánh và Ninh Thuận, có hai đường lớn thông lên nước Lâm Ấp ở phía Tây, phía
Nam giáp với Thủy Chân Lạp. Từ thời vua Lê Thánh Tông xa xưa đến thời Chúa tiên
Nguyễn hoàng gần đây đều có lúc người Việt ta dùng thủy binh đánh chiếm được
các thành Quy Nhơn, Đồng Xuân, Diên Khánh, nhưng đều trụ lại chẳng được lâu, bởi
thế đất hiểm trở mà ta khi ấy không chiếm được vùng núi cao Tây Nguyên của người
Thượng làm địa bàn khống chế. Kế hoạch của ta chia làm ba bước. Bước một là
đánh chớp nhoáng chiếm lấy hai nước của người Thượng ở Tây Nguyên trong một
năm, từ đó khống chế toàn cục làm bàn đạp tấn công chiếm dần nước Chiêm Thành
theo ba gọng kìm: đường bộ có hai mũi từ thượng du đánh xuống và từ đất Quảng
đánh vào; đường thủy tập trung tiếp chiến hỗ trợ cho bộ binh ở những nơi thành
trì kiên cố của quân Chàm. Trước hết, trong năm đầu phải chiếm được đất từ Cù
Mông trở ra bằng hai mũi từ Bắc đánh vào và từ phía Tây qua đèo An Khê đánh xuống,
cuối cùng ta phối hợp thủy binh đánh chiến gọn thành Quy Nhơn. Sau đó, ta cho
dân ào ạt di cư vào lập đồn điền khẩn hoang ở đồng bằng ven biển; ở phía Tây lại
cho các lính thương tật và già yếu ở lẫn trong các buôn làng mà lập nghiệp, sống
hòa hiếu với người Thượng. Như vậy tốn ít nhất là hai năm, nghĩa là từ nay đến
năm Giáp Tuất (1634) mới hoàn tất. Bước hai, từ năm Ất Hợi (1635) đến năm Bính
Tý (1636) sẽ đánh chiếm nốt hai khúc của Chiêm Thành từ Cù Mông vào bằng ba hướng
từ Bắc đánh vào, từ Tây đánh xuống và thuỷ quân đổ bộ ở mặt Đông. Có lẽ với địa
hình như đã nói ở trên thì mỗi chiến dịch ta gậm dần một khúc mới thật chắc ăn.
Tóm lại, địa bàn hiểm yếu ở Tây Nguyên là sự sống còn với quân ta trong toàn bộ
kế hoạch Nam tiến, nuốt nước Chàm, bình định Thủy Chân Lạp của ta và
chúa công lâu nay trăn trở, mất ngủ quên ăn. Quân đánh đến đâu cho dân vào lập
đồn điền khai hoang lập tức. Nghiêm cấm người Việt xâm phạm tín ngưỡng của người
Chiêm và khuyến khích các tộc người sống bình đẳng, tương ái với nhau, giúp
nhau an cư lập nghiệp theo giáo lý Trúc Lâm tam tổ. Bước ba, từ năm Đinh Sửu
(1637) đến năm Kỷ Mão (1639) huy động tổng lực đánh chiếm nước Thuỷ Chân Lạp.
Lúc này hai mũi quân xuất phát tại nước Lâm Ấp, từ thành Hậu Nghĩa và từ đèo Bảo
Lộc đánh xuống là hết sức quan trọng. Nó quyết định sự thành bại của đại quân từ
Bắc tràn vào, từ biển đổ bộ lên mà chiếm lấy thành Trấn Biên, rồi toả về các
châu huyện ở đồng bằng Cửu Long Giang. Ta đồ rằng giai đoạn thứ ba sẽ rất ác liệt
vì người Khơ Me dũng cảm, địa hình nhiều đầm lầy, kênh rạch. Các ngươi phải
luôn ghi nhớ làm điều nhân nghĩa, chớ sát hại dân lành mà tổn hại âm đức của
chúa và người Việt chúng ta...
Chiến sự diễn ra sau đó quả đúng như điều dự tính của quân sư
Đào Duy Từ. Trong vòng không đầy hai năm, quân Việt đã hoàn toàn làm chủ Tây
Nguyên rộng lớn và một phần của nước Chiêm Thành từ Cù Mông trở ra. Đồn điền khẩn
hoang mọc lên như nấm sau mưa. Dân chúng các bộ tộc ở những nơi này vốn hiền
lành, chất phác nên nhanh chóng sống hoà thuận với người Việt di cư. Khắp nơi
liên tiếp được mùa, cư dân no đủ, của rơi trên đường không ai nhặt. Công đức của
chúa Sãi tưới nhuần các miền quê, đến tận buôn làng hẻo lánh. Tiếc rằng mùa thu
năm Giáp Tuất (1634) quân sư Đào Duy Từ bỗng nhiên ngã bệnh. Chúa Sãi lo lắng
cho sức khỏe Duy Từ, vội sai người đưa ông về Thuận Hóa dưỡng bệnh và hạ lệnh tạm
ngừng chiến dịch mở cõi vào Nam.
Chương 12
HỒI THỨ MƯỜI HAI
Chúa mất tôi hiền rơi nước mắt
Anh hùng trăn trối tặng binh thư
Đã hơn một tháng trời, nàng Vân vò võ thức đêm, chăm sóc Duy
Từ mà ông vẫn mê man sốt. Căn bệnh sốt rét cộng với chứng đau tim làm ông có
lúc co giật, có lúc lại ôm ngực nhăn nhó. Nàng nhìn ông đau xót cõi lòng, phập
phồng lo sợ. Nàng đã một lần ngậm đắng, nuốt trọn nỗi cô đơn những năm dài goá
bụa nuôi con. Số phận run rủi cho nàng gặp ông, ghép hai mảnh đời bất hạnh hoà
hợp lại, đắp đổi niềm vui và nỗi buồn cho nhau, vì nhau sống nốt quãng đời còn
lại. Ôi, hạnh phúc muộn mằn ở tuổi năm mươi của ông mới nồng nàn, quý giá làm
sao! Chẳng lẽ nó đến bất ngờ rồi cũng qua nhanh vậy ư? Nếu ông có mệnh hệ gì,
nàng biết bấu níu vào đâu? Cha già con cọc, hai đứa con thơ liệu có phải chịu cảnh
mồ côi như ông, như các bạn ấu thơ Hữu Dư, Thục Nga và như đứa rể yêu Hữu Tiến
hay Thu Hương con nàng? Cao xanh hỡi cao xanh, sao Người bất công, nghiệt
ngã!... Đêm nào cũng vậy, nàng thức canh giấc ngủ cho ông, chờn vờn trong óc những
câu hỏi, những nỗi dày vò, cầu trời khấn Phật cho ông qua khỏi...
Thảng có lúc Duy Từ tỉnh táo, ông nhìn nàng thở dài và trong
giọt lệ nóng hổi của ông, nàng tìm thấy sự cảm thông của con tim tha thiết yêu
thương. Ông cố gượng cười, nắm chặt tay nàng, đặt lên ngực mình, khiến nàng oà
khóc. Ông lau nước mắt cho nàng, dỗ nàng nằm ngủ cho lại sức, rồi một mình suy
ngẫm chuyện xa, tính toán việc gần. Duy Từ bồi hồi nhớ lại bao năm tháng đã qua
như một giấc mơ, trong lòng ngân rung lên bản nhạc của Đào Tá Hán năm nào, vào
cái đêm xảy ra sự biến ở cung vua Lê, tại phủ An Trường. Mẫu thân ông, người ca
kỹ đất làng Se đã ghi nhớ bản nhạc ấy, truyền dạy cho con, để ông suốt đời
không quên cái chết bi hùng của phụ thân giữa đất trời ngập đầy âm thanh của
cây Nguyệt cầm, lẫn trong mưa thét, gió gào. Nét nhạc ông Hán đàn, lời ca trù
bà Mạch hát và tuổi thơ côi cút đã theo ông lên chùa Đàn Xuyên gặp sư Duy Giác.
Tình bạn của Hữu Dư, tình yêu của Thục Nga đã đón ông xuống núi, dấn thân vào
cuộc đời gió bụi. Đôi mắt nhìn thao thiết của Thục Nga đã từng theo ông lên miền
biên ải, sang tận đất Tàu chịu cảnh lao tù. Rồi ánh mắt nàng Thục Nga cứ bám riết
lấy đời ông trên bước đường hành hương theo chiến luỹ Đa Bang của Hồ Nguyên Trừng
và đi khắp các miền rừng rậm núi cao hay đồng bằng bát ngát mênh mông của
phương Nam ngập tràn nắng gió. Khát vọng mở cõi đã thôi thúc ông quay về Thuận
- Quảng tìm gặp chúa Sãi. Ông cảm kích và ông kính trọng vị chân chúa đã hiểu
mình, có chung chí hướng, cư xử với ông như với người bạn tri âm. Số phận ông
trời chỉ cho đến vậy, cái chết đang đến gần, Duy Từ cảm nhận được nó và miên
man trò chuyện với chính mình...
Đời người đàn ông chí tráng thiên hạ có xá gì mọi nỗi gian
nan, những điều bất hạnh, nhưng sẽ là vô nghĩa nếu không tìm được minh chúa để
mà phò tá, để mà thoả sức tung hoành. Ở tuổi năm mươi số phận đã mỉm cười với
ta, cho ta hai thứ báu vật là nàng Vân và đấng minh chúa. Với ta thế là mãn
nguyện. Ta chỉ tiếc rằng thời gian quá ngắn, phụng sự Phước Nguyên vẻn vẹn có
tám năm, sự nghiệp mở cõi đang còn dang dở. Tám năm chỉ là cái nháy mắt của lịch
sử, nhưng với một con người đủ cho ta cơ hội làm được không ít việc để đời mình
có nghĩa. Ta trộm nghĩ, thời gian là sự thách đố, thời gian cũng là sự công bằng
ghi nhận và phán xét. Sống lâu mà vô dụng, chẳng thà sống ít mà hữu
ích. Ta lại ngẫm, sống vì tình yêu và sống để được yêu mới là đáng sống. Mấy
mươi năm ta đã sống vì tình yêu với Thục Nga, rồi ta đã lại được nàng Vân yêu
mình, hiểu mình, dâng hiến cho mình suốt tám năm ấm nồng hạnh phúc. Mấy ai trên
đời đã may mắn đã yêu và được yêu lại thắm tình như vậy. Từ lúc ngã bệnh ở Quảng
Nam, được chúa đưa về Thuận Hoá, cả lúc đau đớn, vật vã trên giường bệnh, ta vẫn
biết nàng Vân cũng đau không kém. Bệnh sốt rét ác tính và bệnh đau tim đang
hành hạ ta. Lúc mê man, ta chẳng biết gì, khi tỉnh dậy, nhìn vào ánh mắt nàng,
ta muốn gọi to: Vân ơi! Ta cảm ơn nàng đã cho ta hạnh phúc! Ta xin nàng đừng buồn
như thế. Ta không đau vì bệnh, ta sẽ còn sống mãi bên nàng. Tim ta đau nỗi đau
nhân thế. Thân xác ta ớn lạnh vì thời cuộc đảo điên, chiến tranh tàn khốc. Óc
ta nhói buốt vì lo toan sao cho quốc thái dân an, giang sơn mở rộng. Ôi! Từ buổi
chăn trâu bên sông Vu Gia, nàng đã hiểu ta, gắn bó cùng ta, chia bùi xẻ ngọt
thoắt đã tám năm...
Sức khỏe Duy Từ ngày một đuối dần. Bệnh chuyển nặng từ tuần
thứ năm, sang tuần thứ bảy, ông thấy mình đang chết, lạnh từ dưới gan bàn chân
lạnh ngược lên. Chúa Sãi đến thăm, ngồi bên giường bệnh, nước mắt chảy
ròng. Thấy ông cựa mình mở mắt, chúa hỏi:
- Quân sư có còn nhận ra ta?
- Thần vẫn nhìn rõ. Chúa công có khoẻ không?
- Ta khoẻ làm sao được, khi quân sư, người bạn, người thày của
ta lâm bệnh, đau đớn thế này.
- Thần đã ngót sáu mươi, cũng vào cõi thọ được rồi. Chúa công
nên hết sức giữ gìn tuổi thọ.
- Nếu mất quân sư ta biết làm sao đây! Trời Phật khéo bày ra
nghịch cảnh. Giá quân sư đến với ta sớm hơn một chút để công trạng rỡ ràng, để
ta sớm có người tri kỷ!
- Tám năm qua thần đã cố sức. Phải xa chúa công lúc này, thần
ân hận chưa xong việc mở cõi, nhưng cũng có phần mãn nguyện vì đã gặp được chân
chúa.
- Việc nước đang bộn bề, thiếu vắng quân sư, ta như người bị
chặt đứt cánh tay.
- Công tử Phước Anh làm tổng trấn Quảng Nam có tốt?
- Ta điều Phước Anh ra Quảng Nam thay Phước Kỳ là cốt để nó
xa phủ chúa, đỡ gây bè cánh, nhưng chưa thật an tâm.
- Đất Quảng Nam là nơi trọng địa, cần có một tổng binh trung
tín và đảm lược bên cạnh công tử. Thần cho rằng có thể điều phò mã Nguyễn Cửu
Kiều vào chức ấy.
- Ai sẽ đủ tài thay ta kế nghiệp sau này?
- Phước Lan là bậc anh hùng, tài kiêm văn võ, chỉ tiếc công tử
có tật đa tình, buông thả, chúa công nên lưu ý nhắc nhở thêm. Thần nghe nói Tống
Thị, vợ công tử cả, lâu nay vẫn có tình ý với Phước Lan. Người đàn bà này sẽ là
mối nguy cho xã tắc, lại thêm Tống Kiến Tường tham lam, gian xảo, chúa công phải
nên coi chừng cha con Tống Thị, chớ để mụ ta mê hoặc thế tử Phước Lan, gây tai
hoạ cho nước.
- Thế còn công việc mở cõi vào Nam?
- Xin chúa công yên tâm, Nguyễn Hữu Dật đủ tài làm việc này
thay cho thần. Kế hoạch từng bước mở cõi vào Nam thần đã vạch sẵn, bàn giao cho
Hữu Dật. Thực tế bước một trong hai năm đã chứng minh thần vạch kế hoạch đúng
và Hữu Dật đã làm rất xuất sắc. Trong số các tướng trẻ, nổi lên có Hữu Tiến,
Nguyễn Cửu Kiều, Nguyễn Mỹ Thắng..., chúa công nên trọng dụng hợp với tài của họ.
Số quần thần quanh phủ chúa có các vị như Trần Đức Hòa, Nguyễn Phước Khê, Lại
Văn Khuông đều giỏi giang, mỗi người một vẻ, sử dụng họ thế nào cho họ rộng quyền
mà vẫn giám sát được là điều chúa công nên bảo ban thế tử Phước Lan
thêm về cái thuật của một đấng quân vương. Chúa công chắc còn nhớ, buổi đầu gặp
nhau, chúa tôi vui vẻ đàm luận, thần có nêu ra mấy chữ “Bắc hoà Trịnh, Nam mở
cõi”. Mong rằng phương châm chiến lược ấy của thần được chúa công và thế tử giữ
vững, chớ để xảy ra chiến tranh tàn hại sinh linh người Việt chúng
ta. Trên đường mở cõi, ta lấy nhân nghĩa mà đối xử với các tộc người bản địa để
giữ bền đại cuộc. Thần mong sao sớm đến ngày ca khúc khải hoàn, biên cương mở rộng
đến tận vựa lúa Cửu Long Giang, người Việt sống hòa hợp với người Chiêm, người
Thượng, người Khơ Me, cùng xây đắp nên nền văn hiến chung trong một vương triều
hùng mạnh. Thần có nghe Đức Hoà nói về giấc mơ lạ của chúa công, nhìn thấy chín
chữ “Phước”, mười ba chữ “Vương”. Phải chăng mệnh trời, ý phật, lòng dân đã cho
họ Nguyễn cơ duyên được làm chủ thiên hạ lâu dài trên nước Đại Việt thống nhất
suốt dải non sông từ Đông Đô đến Trấn Biên? Cho dù thời cuộc biến đổi,
thiên hạ mai sau thuộc về họ nào đi nữa thì công tích của chúa công sẽ không uổng
phí.
Duy Từ nói đến đây thì kiệt sức, thở dốc, mắt chớp liên hồi,
tay vê vê đầu ngón, miệng mấp máy, chừng như còn muốn nói nhiều nữa. Chúa Sãi
giật mình ôm chầm lấy Duy từ lay gọi. Chúa thét bảo ngự y lại xoa bóp và đổ sâm
vào miệng cho quân sư. Nàng Vân cùng hai đứa con nhỏ Đào Duy Huệ, Đào Thị Hưng
và hai vợ chồng Hữu Tiến - Thu Hương thảy đều oà khóc, vây quanh giường. Chúa
Sãi hết lời khuyên giải, can ngăn mọi người giãn ra cho quan ngự y làm việc.
Chúa xót thương bạn, mong được nghe nhiều những lời trăn trối của Duy Từ. Duy Từ
ơi! Ta với quân sư nghĩa là chúa tôi, tình là huynh đệ, sao quân sư không đợi
ta vài năm nữa cùng dắt tay nhau về cõi Phật? Đang lúc lòng buồn thê thảm, chúa
chợt chạnh lòng nghĩ đến số phận mình chẳng còn được bao lâu nữa. Liệu thế tử
Phước Lan có nối được chí cha ông, giữ bền được cơ nghiệp? Mấy lời quân sư Duy
Từ vừa dặn, chúa cũng đã từng nghĩ đến, đêm ngày lo lắng...
Quan ngự y lại bẩm, quân sư đã hồi tỉnh trở lại, chúa nán đợi
chừng một khắc nữa sẽ nói chuyện được. Chúa ngồi bên mép giường, tay vuốt nhẹ
lên ngực Duy Từ. Ông mở mắt, nhìn chúa, run run nói:
- Thần được chúa công hết mực thương yêu thế này, hẹn kiếp
sau sẽ lại đền đáp.
- Ta với quân sư nghĩa nặng tình thâm, nói chi đến điều ơn
nghĩa. Ta đang muốn về cõi Phật theo quân sư đây.
- Chúa công đừng nghĩ quẩn. Người cần cho thiên hạ hơn gấp mười
thần. Thần vừa mơ một giấc mơ đẹp. Trong mơ thần được gặp sư phụ của thần là đại
sư Duy Giác. Ngài từ cõi Phật hiện về đón thần lên đám mây ngũ sắc bao quanh
toà sen. Thần được cùng đại sư ngồi lên đó, bay qua luỹ Trường Dục, lũy Đồng Hới
và sông Gianh. Thần sung sướng nhìn thấy những khẩu súng thần công đặt trên chiến
luỹ và thần còn nhìn thấy cả trại thuỷ binh của ta, với những thuyền chiến hai
tầng neo đậu các cửa sông lớn. Đời thần chẳng còn mơ ước nào hơn thế nữa.
- Về việc riêng, quân sư có dặn gì ta không?
- Kẻ bầy tôi, trước lúc nhắm mắt xin được chúa công ban cho mấy
điều ân sủng. Thứ nhất, thần chết rồi, phủ quân sự xin trả lại công khố. Ở xứ
Bình Định có thành Đồ Bàn của người Chiêm, bên trong có tháp Chàm tuyệt đẹp.
Ngoài vịnh biển Quy Nhơn có mũi đảo Phương Mai sơn thuỷ hữu tình. Trong đất liền
có đầm Thị Nại nước trong và mát. Nơi ấy phong thuỷ tụ nhiều linh khí. Đó còn
là nơi kết thúc sự nghiệp của thần tám năm thờ phụng chúa công, một lòng mở
cõi. Vậy thần chỉ xin chúa công ban cho vài mẫu ruộng tốt và ngôi nhà gỗ nhỏ ba
gian để vợ con thần về đó lập nghiệp, đắp đổi qua ngày, dưa muối nuôi nhau. Thứ
hai, Hữu Dư bạn thơ ấu của thần ở ngoài Bắc, có công lớn lập trang trại ở ngã
ba sông Ngàn Sâu, dưới chân núi Vụ Quang để dẫn lối chỉ đường cho dân Việt di
cư vào Nam, củng cố những phần đất mở cõi. Ở đời hiếm có người dân
thường nào như ông ấy kiên trì làm việc hữu ích như thế, không màng danh vọng.
Xin chúa hãy sai sử quan chép lại việc này để lưu công tích Hữu Dư. Tướng quân
Hữu Tiến, con của Hữu Dư có công mở cõi, tài kiêm văn võ, lại là giọt máu của
nàng Thục Nga thân thiết với thần từ thủa ấu thơ, xin chúa công trọng dụng Hữu
Tiến . Thứ ba, thần suốt cả đời cần mẫn học tập binh pháp của người xưa, ghi
chép các điều hữu ích cho việc quân ở chốn dân gian, nay thần đã biên soạn xong
một cuốn binh pháp gọi là “Hổ trướng khu cơ”. Đó là kỷ vật duy nhất thần muốn
dâng lên chúa công đền ơn tri kỷ. Dám mong chúa công và các công tử
nghiên cứu nó, lại sai in thành nhiều bộ phát cho các tướng dùng vào việc mở
cõi, giữ gìn cơ nghiệp muôn đời...
Nói xong, Duy Từ cố gượng đem hết sức tàn lực
kiệt, lấy cuốn “Hổ trướng khu cơ” dưới gối, hai tay kính cẩn dâng lên chúa Sãi.
Ông gục xuống, trút hơi thở cuối cùng trong vòng tay nàng Vân và chúa Sãi cùng
xô lại đỡ... Ngoài hiên nổi cơn gió lốc. Trời Thuận Hóa xoáy trong bụi
cát. Biển Đông ào ạt những đợt sóng triều cường.
Năm Giáp Tuất (1634), quân sư Đào Duy Từ chết
bệnh ở Thuận Hóa. Chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên ban sắc, truy tặng ông là Tán trị,
Dực vận công thần, Đặc tiến phụ quốc, Kim tử vinh lộc đại phu, hàm Đại lý tự
khanh, tước Lộc quận công. Sư Tuệ Năng hay tin, từ chùa Long Hưng hoả tốc về phủ
quân sư, lập đàn cầu siêu thoát tục cho ông suốt năm tuần. Sau khi ông chết,
chúa Sãi đau buồn thương nhớ, lại thêm tuổi già vóc hạc hao gầy nên một năm sau
(1635) cũng qua đời. Chúa Nguyễn Phước Lan kế nghiệp, theo kế sách của Đào Duy
Từ tiếp tục sự nghiệp mở cõi vào Nam, nhưng phủ chúa cũng một phen nghiêng ngửa
vì Tống Thị và vụ Phước Anh làm loạn ở Quảng Nam, không ngoài dự đoán của quân
sư. Các đời chúa sau Phước Nguyên, khi mở cõi vào Nam không theo di huấn của
Duy Từ, tàn sát người Chiêm, người Thượng quá độ nên tổn hao âm đức của
vương triều họ Nguyễn và dân chúng Đại Việt.
Ai vào cố đô Huế, thăm thành nội hôm nay sẽ
thấy linh vị của Đào Duy Từ đặt ở Thái Miếu thờ người anh hùng khai quốc công
thần, được vua Minh Mệnh (1836) truy phong hàm Đông các đại học sĩ, Thái sư Hoằng
quốc công. Dân lập đền thờ ông ở thôn Tùng Châu, nay là thôn Cự Tài, huyện Bồng
Sơn, tỉnh Bình Định.
I. Một vài địa danh liên quan đến Đào Duy Từ trong tiểu thuyết:
1- Hoa Trai: quê của Đào Duy Từ thuộc huyện Ngọc Sơn, nay là
xã Nguyên Bình, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá. Đầu thế kỷ XX tại đây có ga xe
lửa Văn Trai.
2- Phủ An Trường: kinh đô của vua Lê trong cuộc chiến tranh
Lê - Mạc còn gọi là chiến tranh Nam - Bắc triều (1527 - 1593), nay thuộc các xã
Thọ Minh, Thọ Lập huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa.
3- Phủ Trường Yên nay là huyện Hoa Lư và thị xã Ninh Bình.
4- Long Châu là một thành phố nhỏ cấp huyện thuộc tỉnh Quảng Tây,
Trung Quốc có địa giới giáp tỉnh Cao Bằng.
5- Ung Ninh là một huyện của Quảng Tây, Trung Quốc.
6- Nam Ninh là thủ phủ tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
7- Xá Lợi là nước nhỏ phía Bắc Tây Nguyên, nay là tỉnh Gia
Lai - Kon Tum và một phần phía Tây tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi.
8- Lâm Ấp là một nước nhỏ phía Nam Tây Nguyên nay thuộc tỉnh
Buôn Mê Thuột, Lâm Đồng và một phần tỉnh Bình Phước.
9. Nước Chiêm Thành thời chúa Phước Nguyên gồm các tỉnh ven
biển miền Trung từ Bình Định đến Ninh Thuận, nay còn để lại danh thắng các tháp
Chàm ở Quy Nhơn, Nha Trang, Phan Rang khá nguyên vẹn.
10. Nước Thủy Chân Lạp thời đó là vùng lãnh thổ từ Bà Rịa -
Vũng Tàu vào đến đồng bằng sông Cửu Long.
11- Thung lũng sông Ngàn Sâu thuộc huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh.
12- Trấn Biên nay là TP. Hồ Chí Minh và Biên Hòa.
1- Sự biến cung An Trường: Năm 1572, vua Lê Anh
Tông cùng đại thần Lê Cập Đệ chủ mưu truất quyền của Trịnh Tùng. Việc
bại lộ, vua chạy vào Nghệ An. Sách “Đại việt sử ký toàn thư” chép rằng: Năm
1573, Tả tướng Trịnh Tùng sai bọn Nguyễn Hữu Liêu tiến đánh thành Nghệ An, vua
chạy ra ruộng mía. Hữu Liêu quỳ lạy ở ruộng nói: “Xin bệ hạ mau chóng về cung để
yên lòng mong của thần dân, bọn thần không có gì khác cả”. Liêu bèn sai mang 4
con voi đến đón vua và sai Tống Đức Vị theo hầu, đến thành Lôi Dương (Nghệ An),
Trịnh Tùng sai Đức Vị ngầm giết vua rồi phao đồn là vua tự thắt cổ.
2- Chiến luỹ Đa Bang (theo tài liệu của TS Quỳnh Cư) do con
trai cả Hồ Quý Ly là Hồ Nguyên Trừng xây dựng dọc theo bờ phải sông Đà và sông
Hồng (1406 - 1408) để chống quân Minh, bảo vệ Tây Đô ở Thanh Hoá. Hồ Nguyên Trừng
còn là nhà sáng chế đại tài, từng chế ra súng thần công và thuyền chiến 2 tầng.
Đây phải chăng là gợi ý cho Đào Duy Từ lập lũy Trường Dục, luỹ Đồng Hới?
3- Cuộc xướng họa thơ giữa Nguyễn Hoàng với Đào Duy Từ còn
nhiều nghi vấn trong giới sử học. Tác giả dựa vào sự kiện này hư cấu nên cuộc gặp
gỡ ở chùa Tiêu Sơn. Thực ra địa điểm gặp gỡ là chưa rõ. Các bài thơ “Tư Dung
vãn”, “Ngọa Long Cương vãn” lấy theo sự sưu tầm của Trần Thị Liên, Sở Văn hóa thông tin tỉnh Thanh Hóa (1992).
4- Cuộc đối thoại giữa ông lão chăn trâu và đám Nho sĩ ở Quảng
Nam và cuộc hội kiến giữa Đào Duy Từ với chúa Nguyễn Phước Nguyên được tác giả
hư cấu theo tài liệu của nhà Nho Nguyễn Khoa Chiêm trong sách “Nam Triều công
nghiệp chí”, được Ngô Đức Thọ dịch ra chữ quốc ngữ đầu thế kỷ XX.
5- Phép “Lưới trời yểm trại” ở hồi 9 dựa theo cuốn “Hổ trướng
khu cơ” của Đào Duy Từ do học giả Đào Duy Anh dịch (NXB khoa học xã hội -
1970). Tác giả dùng nó hư cấu để Duy Từ dạy binh pháp cho Hữu Tiến.
6- Sau khi chúa Phước Nguyên và Duy Từ chết, thời chúa Nguyễn
Phước Lan (chúa Thượng) do có vụ nội loạn của Phước Anh và sự thao túng triều
chính của cha con Tống Thị nên cuộc bình định phương Nam mấy lần bị gián đoạn.
Đến đời chúa Nguyễn Phước Tần mới hoàn thành kế hoạch mở cõi của Đào Duy Từ.
Dân Nam nhớ ơn mở cõi của Phước Tần (chúa Hiền) nên đã đặt tên ông cho một con
đường lớn giữa Sài Gòn - đường Hiền Vương (nay là đường Võ Thị Sáu, TP. Hồ Chí
Minh). Nhưng cũng vào thời chúa Hiền, sau khi hoàn tất việc mở cõi, chúa ỷ vào
sức mạnh, không tuân theo kế sách hòa hoãn với Trịnh của Đào Duy Từ. Năm 1656,
quân Nam đánh ra Bắc, chiếm đóng 7 huyện của Nghệ An trong 5 năm. Bắt đầu từ
đó, Nam - Bắc chiến tranh liên miên. Có lẽ đây là điều đáng tiếc nhất trong sự
nghiệp anh hùng và vô cùng hiển hách của chúa Hiền.
7- Trận pháp “Chu Thiên đệ lục biến” bên sông
Linh Giang được tác giả hư cấu dựa theo cuốn “Hổ trướng khu cơ” của Đào Duy Từ
do học giả Đào Duy Anh dịch (NXB khoa học xã hội - 1970, trang 377).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét