Thứ Hai, 22 tháng 4, 2019

Ba nhà cải cách - Tiểu thuyết lịch sử 2

Ba nhà cải cách - Tiểu thuyết lịch sử 2
Chương 7
HỒI THỨ BẢY
Đường vào Nam, Duy Từ gặp nạn
Tướng cướp Dư nghe bạn hoàn lương
Chiều trên những cánh rừng miền Tây Thanh - Nghệ thâm u và huyền bí. Đường đi toàn dốc cao, rừng thẳm, nhiều hổ báo, vắng vẻ đến rợn người. Có khi đi hàng vài chục dặm mới gặp được bản làng của người Mường, người Thái hay người Dao, loáng thoáng vài nếp nhà sàn. Tiết trời chợt nắng, chợt mưa không biết đâu mà lường. Mùa mưa ở miền Trung đến muộn, nên đã sang tháng mười âm lịch mà những trận mưa giông dữ dội kéo theo dòng nước lũ bất ngờ ập đến, xoá đi dấu vết những con đường rừng nhỏ và vòng vèo, lắt léo, còn lại là những bãi lầy nhớp nhúa, cây đổ ngổn ngang, xông lên mùi lá mục hoai nồng...
Đào Duy Từ lần theo hướng đã vạch trên tấm bản đồ địa hình, đường xá từ Thanh - Nghệ vào đến Thuận - Quảng mà năm xưa, trước lúc xuống núi, đại sư Duy Giác đã trao cho chàng. Một mình trèo đèo lội suối, băng qua các cánh rừng già đại ngàn từ Quỳ Châu qua thung lũng Con Cuông ma thiêng nước độc, chàng cảm thấy mình nhỏ nhoi, cô độc giữa vũ trụ bao la. Thân phận chàng lúc một tuổi mồ côi cha, hai mươi tuổi học thành tài thì mồ côi mẹ. Nay đã ngoài 40 tuổi, trên đường vào Nam gây dựng sự nghiệp, qua thành Nghệ An, chàng lại nghe tin Nguyễn Hoàng vừa từ trần. Cái chết của đấng minh chủ làm chàng có cảm giác như mình thêm một lần mồ côi. Xưa nay, người quân tử nuôi chí “thay trời hành đạo” vẫn coi “anh hùng bất kiến minh quân” là điều bất hạnh lớn nhất. Đã đành rằng hôm gặp gỡ ở chùa Tiêu Sơn, Nguyễn Hoàng hứa sẽ dặn dò thế tử nối nghiệp phải trọng dụng, đãi ngộ chàng như người thầy, nhưng ai mà biết trước mọi chuyện ở đời sẽ xoay vần ra sao? Lịch sử đã chứng minh các bậc vua, chúa lúc khởi nghiệp thường anh minh, cầu thị, đời sống kiệm cần, rồi chẳng bao lâu, đến đời con, đời cháu sẽ lại sa đoạ bởi vinh hoa phú quý và quyền lực. Nguyễn Hoàng cả đời lận đận, gian nan vất vả để gây dựng sự nghiệp ở Thuận - Quảng, nên khi chết đã 89 tuổi, con thứ sáu là Nguyễn Phước Nguyên lên kế nghiệp đã ở tuổi 52, cũng có thể coi là người từng trải. Nguyễn Phước Nguyên chàng chưa một lần tiếp xúc, không rõ tài năng và đức hạnh thế nào. Giới sĩ phu Bắc Hà gặp chàng ở Đông Đô hai mươi năm trước, khi bàn chuyện thời thế, luận anh hùng, đều khen Nguyễn Phước Nguyên những năm trấn thủ Quảng Nam có lòng thương dân, biết cách cai trị và khá sùng đạo Phật, đã góp tiền của xây dựng chùa Long Hưng, chùa Bửu Châu. Chàng nghe đồn, ngay sau khi kế nghiệp, Nguyễn Phước Nguyên đã sửa thành đắp lũy, diễn tập voi ngựa, sai con trưởng là Phước Kỳ vào trấn nhậm ở Quảng Nam. Các tin tức như vậy khiến Duy Từ tạm yên bụng, tiếp tục hành trình vào Nam. Tuy nhiên, là người cẩn trọng, qua hơn hai chục năm bôn ba khắp chốn thiên hạ, mất nhiều công tìm hiểu nội tình giới quyền lực triều đình Lê - Trịnh ở Đông Đô và triều Mạc ở Cao Bằng, chàng đã rút ra nhiều bài học bổ ích về việc chọn chủ mà thờ nên chưa hết lo nghĩ, e ngại về Nguyễn Phước Nguyên. Nếu Nguyễn Hoàng còn sống, sau khi lọt vào địa giới Thuận Hóa, chàng có thể ung dung đến thẳng phủ chúa ở đất Ái Tử huyện Đăng Xuyên để ra mắt, chúa tôi sẽ tha hồ hàn huyên chuyện cũ sau nhiều năm xa cách. Nay ngồi cai quản phủ chúa là Nguyễn Phước Nguyên, chàng không thể đường đột đến đó. Chàng cần có thời gian nghe ngóng xem Phước Nguyên có thật sự theo nền chính sự vương đạo như lời đại sư Duy Giác năm xưa dạy chàng hay không. Chàng muốn tận mắt quan sát Phước Nguyên đối đãi, sử dụng thế nào với các tướng Mạc Cảnh Huống, Tống Phước Trị, Nguyễn Hữu Dật và mưu sĩ công thần bậc nhất là Nguyễn Ư Dĩ. Những người do chàng đã vì Nguyễn Hoàng mà tốn bao nhiêu công sức thuyết phục họ bỏ nhà Mạc theo Nguyễn như các ông Mạc Cảnh Dinh, Nguyễn Tú, Trần Bảo..., nay Phước Nguyên đối xử với họ ra sao? Không những thế, còn một dự tính lớn lao đang canh cánh bên lòng, khơi dậy trong Đào Duy Từ ý muốn tiếp tục cuộc viễn du khắp xứ phương Nam xa xôi. Chàng ghi nhớ lời căn dặn thứ hai của sư phụ: làm tướng trên phải tinh thông thiên văn, dưới phải am tường địa lý. Chàng nuôi ý định vào Nam là để giúp chúa Nguyễn mở cõi, còn mặt Bắc chàng đã hứa với Lê Thời Hiến chỉ phòng thủ, tránh gây chiến tranh huynh đệ tương tàn. Kiến thức địa lý về xứ sở phương Nam theo bản đồ và lời giảng giải của đại sư Duy Giác mới chỉ cung cấp cho chàng những khái niệm cơ bản, nhưng ở chàng đã hình thành một ý đồ chiến lược. Một rẻo đất chạy dài từ Thuận -Quảng vào vùng châu thổ Cửu Long Giang đất đai trù phú, dân cư thưa thớt, đa tạp, pha trộn giữa người bản địa với người Việt và người Quảng Đông, Phúc Kiến chạy loạn sang sinh sống đã nhiều đời. Nếu không kể phần lãnh thổ do chúa Nguyễn cai quản, rẻo đất hẹp và chạy dài này đang bị phân cắt làm bốn quốc gia. Trên dãy Trường Sơn có nước Xá Lợi ở phía Bắc và nước Lâm Ấp ở phía Nam. Dọc biển Đông từ Hoài Nhơn qua các thành Qui Nhơn, Diên Khánh, Ninh Thuận là địa giới còn lại của nước Chiêm Thành, hiện đang lục đục, tranh chấp giữa các dòng họ vương tôn quí tộc, mỗi nhóm quyền lực chuyên chế một nơi. Ở phía cực Nam từ thành Trấn Biên đến các châu, huyện vùng châu thổ Cửu Long Giang là nước Thuỷ Chân Lạp cũng đang suy yếu. Tình thế đang tạo cơ hội cho chúa Nguyễn mở rộng dần lãnh thổ, thống nhất bốn nước kia lại, sát nhập với vùng Thuận - Quảng thành một quốc gia giàu mạnh. Điều này đã từng xảy ra trong lịch sử ở nhiều nơi. Thời cổ đại, người Hán của nước Tàu chỉ sinh sống và quần tụ thành những quốc gia dọc sông Hoàng Hà và Dương Tử. Trải qua mấy nghìn năm biến động, họ đã thống nhất lại rồi mở dần lãnh thổ ngày một rộng lớn như ngày nay. Nước Đại Việt thời cổ đại cũng chia thành hai quốc gia Tây Việt và Âu Lạc, sau mới thống nhất lại. Đào Duy Từ muốn đi chu du qua bốn nước ở phương Nam rồi mới quay về với chúa Nguyễn Phước Nguyên ở Thuận -Quảng. Chàng đi để am tường địa lý, nắm bắt tập tục làm ăn sinh sống của dân chúng và nội tình các vương triều từng nước. Chàng mơ ước về một quốc gia rộng lớn ở phương Nam, trong đó người Việt sẽ chung sống hoà thuận với dân chúng bản địa theo triết lý kiêm ái, tương lợi và phép ứng xử Lục hoà của Trúc Lâm tam tổ mà đại sư Duy Giác đã dạy dỗ chàng từ thủa ấu thơ. Ngày chàng còn ở chùa Đàn Xuyên trên núi Quế Trường, đại sư Duy Giác vẫn thường hay nhắc đến cơ trời vận nước, lẽ tuần hoàn dịch đổi của vũ trụ và cõi nhân sinh trên đất Đại Việt. Sư phụ tuy không nói ra lời bởi huyền cơ không thể tiết lộ, nhưng xem trong ý tứ của Ngài, Duy Từ có linh cảm Ngài đang dự đoán về tương lai nước Việt sẽ có lúc biên cương mở rộng từ ải Nam Quan đến tận đồng bằng Cửu Long Giang. Lúc đó, dù thời cuộc biến đổi, giang sơn nằm trong tay dòng họ nào đi nữa thì vẫn thoả tâm nguyện của đại sư. Phải chăng tấm bản đồ Ngài vẽ, bài từ “Hành phương Nam” Ngài ngâm, ba điều căn dặn lúc chia tay Ngài nói, tất cả là sự phác hoạ kế sách cho người học trò xuống núi thay sư phụ nhập thế giúp đời?...
Đào Duy Từ lầm lũi bước đi qua những chặng đường rừng, lòng nung nấu quyết tâm sắt đá hoàn thành tâm nguyện của đại sư Duy Giác. Lúc đêm xuống ngủ lại trong hang đá, dưới gốc cây, chàng hồi tưởng lại từng lời sư phụ nói trong lúc giảng binh pháp hay ngồi tâm sự, và hình ảnh Ngài theo vào giấc mộng. Ngày đi đường chàng nhẩm tính kế hoạch sau khi vào Nam, nhờ đó quên đường xa, nắng khát và nỗi cô độc cùng hiểm nguy chờ đón trước mặt. Dẫu sao, chàng vẫn có lúc thèm một người bạn đường để trò chuyện dù chỉ đôi lời bâng quơ... Từ lúc rời thành Nghệ An, bỏ con đường cái quan rộng rãi, tắt sang phía Tây âm u này, chàng đi đã non hai tuần trăng, cảm thấy mình như đang đi vào một thế giới hoang sơ thời hồng thuỷ, chưa có loài người. Chàng khao khát nghe một giọng nói và có lúc chàng tưởng như đang xuống cõi âm tìm gặp mẫu thân, ông Danh, thầy đồ Mậu. Họ đang nói những lời động viên hoặc ánh mắt họ đang dõi nhìn, khích lệ bước chân chàng. Thảng có lúc chàng động lòng nhớ Thục Nga, Hữu Dư. Hai người giờ đang ở đâu, sống ra sao? Mắt chàng cay rát, nhoà lệ. Chàng cầu trời khấn phật cho gặp vài người bạn đường để dò hỏi tin tức hai người bạn cố tri. May sao, đến thung lũng Con Cuông, Duy Từ gặp một tốp người đi buôn trầm hương và quế. Chàng nhập bọn với họ, nhận mình là thầy coi tử vi, tướng số muốn vào Nam kiếm ăn. Họ tranh nhau nhờ Duy Từ đoán tiền vận, hậu vận, ai nấy gật gù tâm đắc thán phục. Chàng vui vì có bạn đồng hành, lại vui vì chợt nảy ra kế sinh nhai trong những ngày sắp tới khi chu du qua mấy nước phương Nam, vì dân chúng ở đó rất tin ở số mệnh và các đấng thần linh. Hiềm một nỗi không ai biết gì về tung tích của Thục Nga và Hữu Dư. Đường xa có bạn hoá gần. Chẳng bao lâu đoàn người đã đến được vùng đất trù phú ngã ba sông Ngàn Sâu - Ngàn Phố, có khá nhiều xóm làng hiện ra sau các luỹ tre xanh. Những người buôn trầm hương khá thông thạo vùng đất này. Họ bàn nhau tìm một tửu quán uống rượu xả hơi để hôm sau toả vào mấy xóm dưới chân núi Vụ Quang tìm mua thêm hàng cho bõ chuyến đi xa. Duy Từ theo họ vào quán nhỏ gần ngã ba đường rẽ vào xóm núi. Lúc đầu nhìn chủ quán lạ mặt, không phải người chủ quán từng quen biết trong các chuyến hàng trước, họ thì thầm bàn nhau e ngại, toan đổi đi nơi khác. Nhưng vì mấy ả hầu bàn khéo chèo kéo, hơn nữa trời đã xế bóng nên đám khách buôn tặc lưỡi bảo nhau ở lại. Duy Từ quan sát thấy tướng mạo vợ chồng chủ quán có vẻ gian xảo, mắt luôn đảo qua đảo lại đống hành lý của khách buôn, chàng dặn tất cả cảnh giác đề phòng. Mọi người gọi rượu thịt ăn uống xô bồ, chuyện trò ầm ĩ, riêng chàng chỉ ăn chút cơm rau. Một người bạn đường thấy vậy cố ép Duy Từ chung vui một hớp rượu tẩy trần. Từ chối mãi không được, chàng đành phải uống một chén nhỏ. Nào ngờ chỉ sau đó vài khắc, từng người thi nhau gục xuống mê man...
Duy Từ tỉnh dậy thấy mình nằm trên nền đất, tay chân bị trói chặt. Căn buồng tối như bưng và hôi hám, ẩm ướt. Chàng cố căng mắt tìm kiếm rồi lăn qua lăn lại, vẫn không thấy mấy người bạn đường đâu cả. Lúc đầu chàng nghĩ mình uống ít rượu nên mau tỉnh, còn họ chắc vẫn còn nằm mê man ở một góc nào đó. Sau quen mắt, chàng  nhận ra họ đã biến mất, không còn một dấu tích. Hành lý của đám khách buôn và của chàng cũng không cánh mà bay. Không lẽ gã chủ quán lại tha mạng cho họ, chỉ giữ lại mình chàng? Giữ để làm gì? Đào Duy Từ căng óc suy nghĩ. Toàn thân chàng đau nhức bởi những sợi dây chão to và chắc bó chặt vào da thịt. Thuốc mê vẫn còn làm hai thái dương chàng nhói buốt như có dùi sắt đóng vào... Lát sau, bên kia vách nứa có tiếng chân người lạo xạo, rồi ánh đèn le lói và tiếng người rì rầm. Chàng lăn mình đến sát vách nứa nhìn sang gian bên cạnh, thấy hai vợ chồng chủ quan đang bàn bạc với một gã râu xồm, mắt xếch nom rất dữ tợn. Cả ba đều áo quần ướt đẫm, vấy bùn đất,  vừa nói vừa thở, có lẽ vừa làm một việc gì đó vất vả, đầy bí hiểm. Mụ vợ chủ quán má còn dính bùn mà mặt tươi hơn hớn, cười nói:
- Không ngờ hôm nay vớ được khách sộp. Tiền và hàng hoá của chúng nó chí ít cũng ngót nghét ba trăm lạng bạc.
- Ba trăm là thế nào, nghìn lạng có dư ấy, mụ đừng có bán đổ bán tháo số trầm hương là không xong với ta đâu. Bao nhiêu ngày đói dài, nay mới cướp được một mẻ ra trò - Chủ quán nghiêm giọng nhắc vợ.
- Thì ông có giỏi đem ra chợ bán cho được giá. Thứ đồ ăn cướp không bán tháo cho nhanh, muốn vào nhà lao, cho gái này đưa cơm chắc!
- Thôi... thôi... hai vị bớt nhời cho êm chuyện. Tôi còn đang lo mấy cái xác kia có nổi lên được không - Gã râu xồm xua tay nói.
- Đại ca yên tâm. Vợ chồng nhà này làm việc đã quen tay, buộc ngang bụng mỗi đứa một rọ đá hộc rồi.
- Ngộ nhỡ nước chảy xiết dây chão bị đứt?
- Không thể có chuyện ấy - Chủ quán phẩy tay nói dứt khoát.
- Còn tên thầy tướng nên xử trí ra sao? - Mụ vợ chủ quán sốt ruột hỏi.
- Tên này khả nghi lắm. Có lẽ phải phiền đại ca giải lên núi xem chủ trại định liệu thế nào - Chủ quán nói.
Gã râu xồm đưa mắt ra hiệu. Chủ quán biết ý quát bảo vợ chạy ra ngoài canh chừng. Trong nhà hai tên cướp tiếp tục bàn bạc. Chúng mở tung hành lý của Duy Từ soát xét lại một lần nữa. Mười lạng bạc Lê Thời Hiến đưa chàng làm lệ phí đã bị lấy  đi cùng với tiền và hàng hoá của đám khách buôn xấu số lúc này chắc đang nằm sâu dưới đáy sông. Bọn cướp cầm đống quần áo của Duy Từ vo tròn, vứt vào góc nhà. Chàng nhìn qua kẽ nứa, giật mình lo lắng. Hành lý của chàng ngoài quần áo ra, còn lại là những tấm bản đồ vẽ trên lụa và xấp giấy dó ghi chép những điều chàng quan sát hoặc nghe được trong suốt mấy năm ròng đi thăm dò dấu tích chiến luỹ Đa Bang ngày xưa của Hồ Nguyên Trừng. Chàng quí những vật đó còn hơn cả tính mạng mình... Gã chủ quán nói với tên cướp râu xồm:
- Đại ca xem đây này, hành lý của nó toàn những đồ quốc cấm.
- Có lẽ hắn là gian tế của xứ đàng trong.
- Liệu ta có nên nộp hắn cho quan trên lấy thưởng?
- Thế khác nào mình lạy ông tôi ở bụi này. Cứ giết quách nó rồi đem hành lý giao cho trại chủ quyết định.
- Đã bắt được gian tế của xứ đàng trong mà giết thì uổng quá. Cái lưỡi của nó đáng giá ngàn vàng.
- Tin gì được quan trên, miệng quan trôn trẻ. Toàn một lũ gian xảo, nó bắt mình giam vào ngục vì tội ăn cướp rồi ngư ông đắc lợi, nhận công về mình lấy thưởng, ai làm gì được.
- Vậy thì khó xử quá!
- Đã bảo giết quách đi cho êm chuyện mà lại.
- Không được. Trại chủ tính nóng như lửa. Nếu làm sai ý của ông ấy có phen lĩnh đòn đủ no đấy, đại ca ạ!
- Đã thế ta giải nó lên núi.
- Đại ca phải đưa nó đi ngay, trước khi trời sáng.
Duy Từ thở phào nhẹ nhõm. Vậy là thoát chết, ít nhất là trong đêm nay, không phải chung số phận với đám khách buôn xuống thăm hà bá sông Ngàn Sâu. Đợi lên núi gặp chủ trại, chàng sẽ nghĩ cách thoát thân. Số phận chàng giờ đây không ngờ bị nằm trong tay tên tướng cướp trên núi Vụ Quang. Những tấm bản đồ kia sẽ cứu chàng hay đưa chàng vào nhà lao, đành phải nhờ vào số trời vậy thôi. Trong những tấm bản đồ ấy, có một tấm là báu vật của sư phụ trao lại cho chàng lúc chia tay ở chùa Đàn Xuyên. Ngài không nói rõ, nhưng qua tấm bản đồ, chàng hiểu sư phụ khuyên mình vào Thuận - Quảng giúp chúa Nguyễn lập nghiệp, mở cõi. Nếu lúc này phải chết trong tay bọn cướp, chàng thật có lỗi với sư phụ. Tấm bản đồ là tất cả tâm huyết và trí tuệ của Ngài, nếu rơi vào tay lũ cướp man rợ, biết đâu còn gieo tại hoạ cho dân lành. Bất giác chàng thở dài, mắt ứa lệ...
Tên cướp cưỡi ngựa phi như bay trong bóng đêm dày đặc của núi rừng miền Tây. Đường đi quanh co, lắt léo qua nhiều suối khe, vách núi hoang lạnh. Duy Từ bị buộc chặt trên lưng ngựa, thân chàng lắc mạnh theo nhịp vó ngựa làm các sợi dây càng thít chặt vào da thịt, hằn lên những vết bầm tím, xương sống bị dằn xuống hất lên tưởng chừng muốn gẫy. Chàng nhắm nghiền đôi mắt, cắn răng chịu đựng, suy nghĩ miên man. Hình ảnh sư phụ Duy Giác, sư huynh Tuệ Năng, Nguyễn Hoàng, Lê Thời Hiến... cứ chờn vờn trong óc chàng. Nỗi nhớ Thục Nga, Hữu Dư bỗng chốc lại trỗi dậy. Hai người giờ đang ở đâu, sống ra sao, có biết chăng Duy Từ lúc này tính mạng treo đầu sợi tóc? Bao ngày đi trên đường chàng mong ngóng, dò hỏi tin tức mà vẫn mờ mịt. Chẳng lẽ đời chàng đến đây là hết, không còn dịp gặp lại bạn xưa? Nỗi đau đớn về thân xác và niềm tủi hận dày vò, khiến chàng ngất đi trên lưng ngựa của tên giặc cướp. Hắn không hề quay lại, cúi rạp mình trên lưng ngựa, mải miết phi nhanh về sào huyệt. Đến nơi, hắn quẳng chàng vào một khoang của tàu ngựa chứa đầy cỏ, ôm túi hành lý chiến lợi phẩm vào nộp cho chủ trại. Đã quen với cuộc sống ăn sương, lấy đêm làm ngày nên sơn trại của lũ cướp đèn đuốc vẫn còn sáng rực. Mấy chục tên cướp lực lưỡng, vẻ mặt dữ dằn đang chia từng tốp say sưa uống rượu hoặc đánh bạc. Chủ trại là tên cướp khoảng chừng hơn 40 tuổi, cao to, mặt vuông, lông mày lưỡi mác, để râu ba chòm. Hắn giở từng thứ trong túi hành lý của Duy Từ ra xem, chau mày suy nghĩ. Nét chữ viết trong tập giấy dó của người này nom rất quen. Những tấm bản đồ được vẽ ở rất nhiều nơi trên đất Đại Việt, chứng tỏ người vẽ phải mất nhiều năm bôn ba đi đó đi đây, dày công nghiên cứu địa hình đường xá. Nó chứng tỏ ông ta là nhân vật có tầm cỡ, không phải chỉ là tên gian tế bình thường của xứ đàng trong. Tên chủ trại đặc biệt chú ý đến một tấm bản đồ có nét vẽ và chữ viết không giống với các tấm bản đồ khác. Nó gợi cho hắn một kỷ niệm xa xưa nào đó mà hắn chưa kịp nhớ ra. Hình như hắn đã từng được xem bản đồ này một lần rồi. Chợt hắn giật mình tự hỏi, chẳng lẽ đây là tấm bản đồ hắn đã xem qua ở trong hang đá, sau ngày được cứu thoát khỏi nhà lao của Bá Sinh. Nếu vậy, phải chăng kẻ bị bắt kia lại là Đào Duy Từ? Tên cướp vùng dậy, gọi người đốt đuốc dẫn hắn xuống dãy tàu ngựa ngoài cổng sơn trại. Gần đến nơi, hắn chợt vừa chạy vừa gào to:
- Duy Từ!... Đào Duy Từ!... Có phải hiền đệ Đào Duy Từ đấy không?... Ta là Hữu Dư, đại huynh của đệ đây! Duy Từ ơi, Duy Từ!...
Đào Duy Từ vẫn còn mê man. Chàng chỉ nghe lõm bõm như có ai gọi mình từ dưới cõi âm vọng lại. Chàng cựa mình ú ớ kêu: “Nước... nước... ta khát nước...” Hữu Dư xông vào tàu ngựa, bới đám cỏ đang phủ lấp trên mặt người bị trói. Dưới ánh đuốc hiện ra gương mặt thân quen của người bạn thủa ấu thơ. Tướng cướp Dư bàng hoàng đau xót, ôm lấy Duy Từ, bế thốc lên, vừa chạy về lán vừa khóc tức tưởi như một đứa trẻ.
Duy Từ được đặt nằm trên phản, đầu gối lên đùi Hữu Dư. Hai tên cướp khác dùng mật gấu xoa bóp cho chàng. Mỗi lần thấy Duy Từ rên lên vì đau đớn, Hữu Dư lại giật mình nhăn nhó, quát mắng kẻ thuộc hạ không biết nhẹ tay. Thời gian như trôi chậm lại. Hơn nửa canh giờ chờ đợi mà Hữu Dư ngỡ như dài lê thê. Cuối cùng tướng cướp Dư cũng thấy Duy Từ mở mắt, ngơ ngác nhìn xung quanh. Chàng chỉ thấy lố nhố những gương mặt gớm ghiếc, râu tóc bờm xờm, má và trán đầy những vết sẹo chạy ngang chạy dọc. Trong đám người ô hợp ấy, hình như có ai đang gọi tên chàng, giọng nghẹn ngào xúc động. Liệu có phải chàng đang nằm mơ nên nghe giọng nói của người ấy như giọng của Hữu Dư. Bất giác chàng mấp máy hỏi lại:
- Đại huynh Hữu Dư phải không? Sao huynh lại ở đây?
Người ấy ôm chầm lấy chàng cướp lời:
- Dư đây, đại huynh của đệ đây. Duy Từ ơi! Ta có ngờ đâu số phận run rủi cho mình còn được gặp đệ.
- Không... không thể nào như thế... Huynh không thể là tên giặc cướp đường. Trời ơi! Ta đang mê hay là thực?
- Là... là thực đó Từ ơi! Tướng cướp là ta... a ha... ta là tướng cướp... Đệ khinh bỉ ta lắm phải không?...
Hữu Dư gục đầu lên ngực bạn khóc nấc. Đôi vai Dư rung lên, nước mắt rơi lã chã. Duy Từ chết lặng đi vì đau xót, ngỡ ngàng. Cuộc đời thật phũ phàng. Số phận đã đẩy Hữu Dư đến mức cùng đường làm tên giặc cướp thật rồi. Vậy Thục Nga đâu? Linh tính mách bảo chàng có điều gì uẩn khúc xót xa đã xảy ra với người bạn gái năm xưa. Chàng cố ghìm lòng chờ cho Hữu Dư vơi cơn xúc động, lựa lời gạn hỏi:
- Thôi, huynh mau bình tĩnh lại, kể cho đệ nghe rõ mọi việc. Thục Nga đâu? Vì sao huynh ra nông nỗi này? Đệ không dám tin ở tai mắt mình nữa.
- Chuyện dài lắm. Ta thật có tội với tổ tông, xấu hổ với đệ. Nếu... nếu Thục Nga còn... còn sống...
- Thục Nga làm sao? Huynh nói đi! Thục Nga đâu?
- Nàng chết rồi...
Duy Từ nghe tin lặng đi vì đau đớn. Chàng muốn khóc mà sao nước mắt cứ lặn ngược vào trong lòng. Ngực chàng đau tức đến nghẹn thở và con tim như có muôn ngàn chiếc gai nhọn châm vào tê buốt. Số phận nghiệt ngã đã cướp dần của chàng bao người thân thích để chàng lạc lõng, bơ vơ giữa cõi đời trần trụi. Thục Nga là tất cả tuổi thơ, tình yêu và là niềm an ủi lớn đối với chàng suốt ngần ấy năm phiêu bạt. Chưa bao giờ Duy Từ thấy lòng trống trải, cô đơn, buồn nản như lúc này. Chàng nhìn Hữu Dư đang bưng mặt gục đầu bên mép phản, vừa thương lại vừa giận. Ngày đầu rời quê hăm hở vào Nam, chàng nuôi hy vọng sẽ gặp lại Thục Nga sống yên bình, hạnh phúc bên Hữu Dư, con cái đề huề. Nào ngờ...! Đêm chìm vào sâu. Không gian đặc quánh bóng đen và nỗi buồn. Tiếng côn trùng râm ran lẫn tiếng thú đi ăn đêm kêu thảng thốt khiến the thắt nỗi lòng hai kẻ bất hạnh xa quê. Hồi lâu, Duy Từ thở dài và hỏi:
- Huynh kể vắn tắt cho đệ nghe, từ khi chúng mình chia tay ở hang đá hai người sống ra sao?
- Đệ đi rồi, ta và Thục Nga bàn nhau ghé qua Tống Sơn, hy vọng sẽ biết thêm tin tức của thúc phụ Hữu Tâm và gia đình, họ tộc trong Quảng Nam. Nhưng chiến tranh đã làm cho chi nhánh dòng họ Nguyễn Hữu ở Tống Sơn ly tán hết không còn một ai. Đã không dò hỏi được tin tức, bọn ta còn bị quan binh truy đuổi một trận chí chết. Lần hồi mãi, ta với Thục Nga mới tìm đường vào được ngã ba sông Ngàn Sâu - Ngàn Phố theo chỉ dẫn của đệ trong tấm bản đồ của đại sư Duy Giác. Không may, lúc ấy Thục Nga bị ốm nặng, chúng ta đành lưu lại một xóm nhỏ gần bờ sông. Ta dựng tạm túp lều ở đó câu cá, kiếm củi sinh sống qua ngày và thuốc thang cho nàng. Qua nửa năm, đời sống tạm ổn định, bệnh của Thục Nga lại biến chứng thành thấp khớp không thể tiếp tục trèo đèo, lội suối vào Nam. Ta ngỏ lời muốn thành thân với nàng rồi hai đứa gây dựng tổ ấm chờ đệ quay lại sẽ cùng vào Nam. Thục Nga vẫn nặng tình với đệ, chỉ khóc ròng. Nàng ra điều kiện, hai đứa sẽ ngủ riêng ba năm, nếu đệ chưa quay vào mới chịu chung sống với ta. Thế rồi ba năm cũng thoắt qua đi, đệ vẫn bặt tăm. Ta với nàng hoà hợp chung sống, có được mụn con trai thì nàng qua đời vì chứng hậu sản mòn. Mình ta gà trống nuôi con từ lúc nó còn ẵm ngửa, gặp năm mất mùa, đói kém, cùng đường phải đi làm giặc cướp. Lúc đầu trong cơn quẫn bách, ta nghĩ mình chỉ tạm thời làm cướp đường cho qua năm đói, nhưng cuộc sống giang hồ và mối hận lòng, muốn trả thù đời cứ kéo ta dấn sâu vào vũng bùn tội lỗi. Ta thanh toán các toán cướp nhỏ, bành trướng thế lực, làm chúa tể một vùng. Dọc con đường vào Nam từ bến Tam Xoa đến sát địa giới Thuận Hoá đều có các tửu quán do người trên sơn trại của ta lập ra để dò la tin tức chống lại quan binh của triều đình và phát hiện con mồi là những đoàn khách buôn giàu có...
- Con trai của huynh tên gì? Nó hiện giờ ở đâu, sao đệ không thấy?
- Nó tên là Hữu Tiến, được hơn 10 tuổi và rất thông minh, tuấn tú. Ta không muốn nó sống lẫn với đám người ô hợp trên sơn trại nên đã gửi nó vào một ngôi chùa dưới chân núi, hàng năm chu cấp gạo và quần áo.
- Nhà chùa có biết cha nó làm tướng cướp không?
- Ta gửi con vào chùa lúc Thục Nga vừa qua đời nên không ai hay biết việc ta đi làm giặc cướp. Gần đây ghé thăm chùa, ta mới biết sư trụ trì là Tuệ Năng, vừa đến thay cho sự cụ ở đó đã qua đời. Ngài biết ta là anh em kết nghĩa với đệ nên mừng lắm, hết lòng dạy dỗ Hữu Tiến cả văn lẫn võ. Có lẽ trời phật còn thương đến dòng họ Nguyễn Hữu nên mới xui khiến cho con ta gặp được sư Tuệ Năng, đệ ạ!...
- Thật vậy sao? Nếu được như thế thật là đại phúc.
- Ta mừng cho thằng bé bao nhiêu lại càng thương mẹ nó bạc phước, đoản mệnh bấy nhiêu.
- Đệ cũng vậy... Nhưng xét cho cùng đời người là kiếp sống tạm. Người chết đã yên phận, còn người sống phải sống sao cho đáng sống, không có danh gì với nước non cũng phải cho trọn đạo làm người, giữ bền nhân cách, gây phúc cho đời sau, huynh ạ!
- Duy Từ bảo ta nên làm gì bây giờ? Bao năm qua ta sống mà như đã chết, cùng đường và lắm lúc tủi hổ với gia tiên lắm, đệ có thấu hiểu cho ta không?
- Lúc chiều ở bến sông, đệ quan sát vùng này thấy đất đai phì nhiêu, dân cư thưa thớt. Huynh nên giải tán sơn trại, lập một điền trang. Những ai muốn về quê hay vào Nam sinh sống, huynh cho họ tự do lựa chọn, số còn lại chung sức khai hoang lập nghiệp. Dưới thung lũng huynh chọn các bãi lau sậy phát hoang trồng lúa. Trên núi huynh trồng ngô, trồng sắn và nuôi bò, nuôi dê. Theo đệ ước đoán chỉ vài năm huynh sẽ có một trang trại rộng lớn và giàu có. Những tửu quán rải rác trên đường vào Nam huynh vẫn giữ nguyên như cũ, làm nơi buôn bán sản vật với người đàng trong và giúp đỡ bà con dân nghèo ngoài Thanh - Nghệ muốn di cư vào Nam sinh sống. Làm được việc này huynh chẳng những để phúc đức cho con cháu mà còn có thể sẽ giúp đệ sau này, nếu đệ vào Nam được chúa Nguyễn trọng dụng. Nhà Nguyễn muốn mở rộng bờ cõi vào Nam nhất thiết phải đưa dân Đại Việt vào chung sống hoà thuận với các tộc người bản địa, hình thành một quốc gia có chung nền văn hiến, lấy tôn chỉ từ bi bác ái và phép ứng xử “Lục hoà” của đạo Phật Thiền tông làm nền móng cai trị, như vậy mới được lâu bền. Đó chính là hoài bão của đệ nung nấu suốt mấy chục năm bôn ba khắp chốn thiên hạ.
- Nghe đệ chỉ bảo ta thấy sáng sủa ra nhiều. Rồi thư thả ta sẽ bàn tiếp. Giờ đệ nên nghỉ ngơi cho lại sức, mai ta sẽ đưa đệ đi gặp sư Tuệ Năng và cháu Hữu Tiến.
- Đệ còn bụng dạ nào mà nghỉ ngơi.
- Vậy thì đệ ăn qua loa một chút gì rồi ta trò chuyện tiếp. Đêm nay ta với đệ sẽ nằm gác chân lên nhau như ngày xưa ở Hoa Trai quê nhà.
- Đệ thấy miệng đắng ngắt, ăn gì cũng nuốt không trôi đâu. Huynh cho đệ một bát nước. Ước gì lúc này có bát nước chè xanh hay nước vối như năm xưa mẫu thân vẫn thường nấu rồi quạt cho hai đứa ngồi uống.
Hữu Dư nghe vậy tủm tỉm cười, gọi một tên cướp đàn em lại, ghé tai thì thầm mấy câu. Lát sau người ấy mang vào một nồi nước chè tươi đặc sánh và thơm nức, được ủ trong chiếc thúng đại, lèn đầy cỏ khô, bên trên phủ chiếc chăn rách. Gã múc ra hai bát và bưng ra một vò sành đựng đầy đường phổi, sản vật quý của xứ đàng trong. Hữu Dư cầm tay Duy Từ trìu mến nói:
- Đệ uống thử bát nước chè tươi với đường phổi xem hương vị thế nào.
- Ở đâu ra những thứ này, hở huynh?
- Cây chè tươi này do ta ươm từ ngày lên sơn trại, đến nay đã thành cổ thụ. Đó là giống chè của Thục Nga trồng lúc ta và nàng chung sống ở bến sông Ngàn Sâu. Hạt giống chè, nàng mang từ Hoa Trai vào được ba hạt lấy từ cây chè sau vườn của thân mẫu đệ. Lúc rời quê đi tìm đệ, nàng định sẽ mang giống chè lên chùa Đàn Xuyên tặng sư phụ của đệ làm kỷ niệm. Vào đến đây, nàng mở hành lý chợt nhớ ra nó vẫn còn trong gói giấy, bèn ươm giống lấy lá uống nước thường ngày để nhắc ta không quên lời hẹn ước chờ đệ đủ mười năm. Vì vậy, sau khi Thục Nga chết, ta mang theo mấy hạt giống lên sơn trại hy vọng sẽ có ngày gặp đệ, cùng uống thứ nước nghĩa tình của nàng.
- Thế còn đường phổi?
- Thời gian Thục Nga bị bệnh là lúc ta rất nghèo, vẫn cố dành tiền mua thứ đường này của khách buôn từ xứ đàng trong mang ra đổi quế và nhung hươu. Nghe nói đường phổi rất mát, lợi cho sức khoẻ của Thục Nga. Nay ta vẫn thường sai người mua trữ đường phổi để gửi lên chùa cùng với gạo cho Hữu Tiến và các sư dùng...
Duy Từ uống bát nước chè tươi sánh đậm hương vị quê nhà pha với đường phổi của xứ đàng trong. Chàng bồi hồi xúc động trước tấm lòng của Hữu Dư, càng không nguôi thương nhớ Thục Nga. Đêm ấy, chàng và Hữu Dư thức trắng uống nước chè tươi và tâm sự mọi nỗi niềm. Chàng kể lại vắn tắt quãng đời hơn hai chục năm lưu lạc khắp nơi trên đất Bắc và nhất là mười năm ngồi tù khổ sai bên đất Tàu vì không chịu thành hôn với cô gái có tên Thục Anh, bởi hễ nhìn thấy người con gái ấy thì hình ảnh Thục Nga lại hiển hiện trong lòng chàng, vẫy gọi chàng về theo đuổi sự nghiệp vào Nam. Sáng dậy, chàng và Hữu Dư ăn uống qua loa rồi vội xuống núi tìm gặp sư Tuệ Năng và bé Hữu Tiến.
Trong ngôi chùa nhỏ gần bờ sông Ngàn Sâu, sư Tuệ Năng đã dậy từ rất sớm. Sư đi mấy bài quyền rồi lững thững dạo quanh sân chùa, ngắm cảnh bình minh đang ló rạng trên dòng sông trôi êm đềm giữa thung lũng mênh mông, đôi bờ xanh mướt những nương ngô. Bên kia bờ phía Đông ửng lên một màu hồng nhạt, xuyên qua lớp sương mỏng làm thành quầng tán vàng pha lẫn sắc tím chạy dài từ bờ sông phía Tây vào tận chân núi Vụ Quang. Tiếng chim lảnh lót trong vòm lá vườn chùa nghe xốn xang niềm vui, báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Sư Tuệ Năng thấy lòng lâng lâng xao xuyến trước cảnh đồng quê yên bình, thơ mộng. Chợt sư nhìn thấy đôi bướm trắng xoè cánh, rập rờn bên chùm hoa khế dưới hiên chùa. Sư mỉm cười, cất giọng ngâm mấy câu thơ của Điều Ngự giác hoàng Trần Nhân Tông:
Ngủ dậy mở cánh cửa
Xuân về đã chẳng hay
Bươm bướm một đôi trắng
Phơi phới nhắm hoa bay
Từ bờ sông có hai người rảo bước, xăm xăm về hướng cổng chùa. Một người có dáng thi nhân tao nhã, vào đến sân chùa thì dừng bước, chăm chú nhìn và nghe nhà sư ngâm hết bài thơ, liền ngâm tiếp một bài thơ khác của Trần Nhân Tông:
Hoa sóng tung lên buồm gấm bay
Dưới mui đầu mệt chẳng buồn quay
Mây chiều Tam Giáp nhạn không đến
Trăng sáng Cửu Than rồng có đây
Lạnh lẽo đường đi cung mộng cũ
Ngổn ngang sầu vướng rượu ly đầy
Hán hoàng mang tiếng say chinh chiến
Vội vã nam nhi chi lắm vậy.
Sư Tuệ Năng nghe người đó ngâm thơ ở sau lưng mình vẫn điềm nhiên không hề ngoảnh lại, tay lần tràng hạt, miệng nam mô và từ tốn hỏi:
- Người ở đàng sau ta đang nuôi chí vào Nam sao lại ngâm bài “Trên đường Tây chinh” của tiền nhân?
- A di đà Phật! Kẻ hèn này chỉ buột miệng, nhất thời ngẫu hứng ngâm thơ, hà cớ gì nhà chùa lại biết có người nuôi chí vào Nam?
- Mô phật, thí chủ họ Đào, tên Duy Từ, ta đợi thí chủ lâu rồi, sao vào Nam chậm thế?
Nói xong nhà sư quay lại, giang tay đón đợi. Đào Duy Từ sung sướng lao đến ôm chầm lấy Tuệ Năng. Hai người cùng lặng đi, mừng mừng tủi tủi không nói thêm được lời nào. Hữu Dư nhìn họ bồi hồi rơi lệ. Hồi lâu Duy Từ nghẹn ngào nói:
- Tiểu đệ thật không ngờ được gặp sư huynh ở đây.
- Tất cả đều do sư phụ tiên đoán và sắp đặt.
- Sư phụ hiện giờ ra sao?
- Ngài quy phật đã mấy năm rồi. Trước lúc lâm chung, sư phụ khuyên ta nên hạ sơn tìm đường vào Thuận - Quảng tu hành ở một ngôi chùa nào đó trong ấy. Ngài bảo rằng cha con Nguyễn Hoàng trị nhậm ở đất Thuận - Quảng, nuôi chí mở cõi vào Nam và rất sùng đạo Phật. Xem ra họ Nguyễn muốn đem giáo lý nhà Phật để cải hoá nhân tâm, giúp cho bách tính muôn dân không phân biệt người Việt hay người bản địa đều sống hoà đồng, tương thân tương ái. Đó là cái phúc lớn cho thiên hạ giữa thời loạn lạc, bởi xưa nay những kẻ đem quân đi chiếm đất, mấy ai nghĩ đến việc chăm lo đời sống tâm linh cho người bản địa. Ta hiểu ý sư phụ muốn học trò mình góp vào sự nghiệp cao cả ấy của cha con Nguyễn Hoàng. Mặt khác ta cũng mong sẽ có cơ hội gặp hiền đệ.
- Sao sư huynh không vào Nam theo đường cái quan phía biển Đông mà lại đi theo lối này rất hoang vu, nhiều sự hiểm nguy?
- Hình như sư phụ đã có chủ ý nên những ngày cuối đời thường hay ngâm bài thơ “Trên đường Tây chinh” của Điều Ngự giác hoàng Trần Nhân Tông trước mặt ta. Đêm qua Ngài hiện về trong giấc mộng, hỏi thăm ta về sức khoẻ của hiền đệ. Sáng dậy ta thấy lòng hồi hộp, thấp thỏm khác thường. Linh tính mách bảo ta sẽ có cuộc hội ngộ với hiền đệ, vẫn có ý đứng ở sân chùa đợi khách. Không ngờ trời phật xui khiến hiền đệ cũng ngẫu hứng ngâm bài thơ ấy...
- Sư phụ thật là thần thông, quảng bác. Đệ thấy hổ thẹn vì chưa làm được gì báo đáp ân đức và thực hiện sự uỷ thác theo lời căn dặn của Ngài.
- Gặp được nhau đây là tốt rồi. Chư phật và sư phụ sẽ chứng giám cho tấm lòng của hiền đệ.
Hữu Dư đợi hai người nguôi cơn xúc động bèn lại gần vòng tay cúi chào sư Tuệ Năng. Nhà sư vội vàng đáp lễ rồi dẫn Duy Từ, Hữu Dư  vào trai phòng. Chú bé Hữu Tiến đã rải chiếu, pha trà chờ đợi. Cậu ngỡ ngàng nhìn vị khách lạ đi cùng phụ thân mình lên chùa.
- Lại chào thúc phụ đi con! - Hữu Dư nghiêm giọng nhắc.
- Thí chủ đây là Đào Duy Từ, người mà ta vẫn nêu gương nhắc nhở con học tập, cũng là nghĩa đệ của phụ thân con - Sư Tuệ Năng cầm tay vị khách giới thiệu với Hữu Tiến.
- Ồ!... Cháu tôi rất khôi ngô, tuấn tú. Đứa bé này được sư huynh nuôi dạy ắt sẽ làm nên sự nghiệp rạng danh dòng họ Nguyễn Hữu.
Duy Từ đỡ Hữu Tiến đang quỳ lạy trước mặt, kéo cậu bé vào lòng âu yếm hỏi han việc học hành. Lòng chàng bồi hồi nhớ đến Thục Nga. Đứa bé là hiện thân của tình yêu và nỗi bất hạnh của người bạn gái thủa ấu thơ. Bao năm tha hương, hình bóng nàng luôn là nguồn an ủi, động viên chàng những lúc cô đơn, buồn tủi. Ánh mắt nồng nàn yêu thương pha lẫn hờn giận của nàng trong đêm chia tay ở hang đá năm nào đã ám ảnh chàng. Dẫu ghìm lòng chối bỏ tình yêu, cầu mong cho nàng và Hữu Dư hạnh phúc bên nhau, nhưng tận trong sâu thẳm đáy lòng chàng vẫn xót xa, nuối tiếc. Nào ngờ  hôm nay cả chàng và Hữu Dư đều vĩnh viễn mất nàng, có còn chăng chỉ là giọt máu của nàng để lại. Kể từ đây Hữu Tiến sẽ là cơ hội để chàng đền đáp ơn sâu của ông Danh và nghĩa tình của Thục Nga. Tạm thời đứa bé đã có nơi gửi gắm tin cậy là sư Tuệ Năng, nhưng chàng thề với lòng mình sẽ gây dựng cho Hữu Tiến một tương lai sáng lạn.
Hôm ấy Duy Từ và Hữu Dư ở lại chùa cùng sư Tuệ Năng suốt ngày trò chuyện. Hữu Dư nghe theo lời khuyên của Duy Từ và sư Tuệ Năng, quyết tâm giải tán sơn trại, lập đồn điền khẩn hoang, biến những quán rượu cũ thành trạm đón tiếp giúp đỡ dân nghèo di cư vào Nam sinh sống. Sư Tuệ Năng kể rằng, có lần đại sư Duy Giác điểm lại công đức của Nguyễn Hoàng khuếch trương đạo Phật Thiền tông ở phương Nam đã dẫn ra các ngôi chùa do Nguyễn Hoàng xây cất như chùa Sùng Hoá ở Phú Vang, chùa Thiên Mụ ở Hương Trà, chùa Kính Thiên ở Thuận Trạch, chùa Bảo Châu ở Trà Kiệu... Khi Ngài nhắc đến chùa Long Hưng ở Duy Xuyên - Quảng Nam, có ý khen chùa này phong thuỷ rất tốt và đọc mấy câu kệ của Trần Nhân Tông trong bài “Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca”:
... Trần duyên rũ hết
Thị phi chẳng nề
Rèn một tấm lòng
Đêm ngày đon đả
Ngồi cong trần thế
Chẳng quản sự thay
Văng vẳng ngàn kia
Dầu lòng dong thả
Học đòi chư  Phật
Cho được viên thành
Xướng khúc vô sinh
An thiền tiêu xá...
Sư Tuệ Năng quả quyết với Duy Từ rằng đó là sư phụ đã gợi ý cho mình vào Nam tu đến hết đời ở chùa Long Hưng. Duy Từ nghe vậy mừng rõ nói:
- Hình như sư phụ nắm chắc được thiên cơ và dự liệu được cả bước đường Nam du của đệ.
- Ta chưa hiểu... Hiền đệ nói rõ thêm đi!
- Trên đường vào Nam, qua thành Nghệ An, đệ nghe tin Nguyễn Hoàng chết, con là Nguyễn Phước Nguyên lên kế nghiệp đã sai công tử Phước Kỳ trấn giữ Quảng Nam. Lẽ ra nếu Nguyễn Hoàng còn sống, đệ sẽ vào ngay phủ chúa ở Thuận Hoá, nhưng nay đệ đã thay đổi ý định.
- Nghĩa là hiền đệ sẽ vào thẳng Quảng Nam, chờ gặp ta ở chùa Long Hưng?
- Không, đệ sẽ đi đường vòng. Thoạt đầu, qua khỏi địa giới của chúa Trịnh, đệ sẽ đi dọc dãy Trường Sơn khảo sát hai nước của người Thượng là Xá Lợi và Lâm Ấp. Sau đó, đệ sẽ vào sâu tận cực Nam của nước Thủy Chân Lạp. Từ phủ Trấn Biên của Chân Lạp, đệ sẽ vòng ra Bắc theo đường cái quan ven biển qua các phủ Ninh Thuận, Diên Khánh, Hoài Nhơn của nước Chiêm Thành. Cuối cùng, đệ sẽ dừng lại ở Quảng Nam quan sát dân tình và tìm hiểu tài năng, đức độ, chí hướng của chúa Nguyễn Phước Nguyên. Nếu ông ta không đủ bản lĩnh kế tục sự nghiệp mở cõi của Nguyễn Hoàng thì đệ thà chết chứ nhất định không can dự vào chính sự.
- Hành trình Nam du của đệ xa xôi, phức tạp như vậy, liệu đến bao giờ ta mới gặp nhau ở Quảng Nam?
- Năm năm hay mười năm còn phải nhờ vào lòng trời ý phật, sư huynh ạ! Thời gian đệ đi xa rất mong sư huynh hết lòng dạy dỗ Hữu Tiến. Nó không chỉ là niềm hy vọng của dòng họ Nguyễn Hữu, mà còn là tình thương và trách nhiệm của đệ với Thục Nga, với ông Danh và thầy đồ Mậu...
Hữu Dư nghe hai người tâm sự ứa nước mắt cảm động, càng thêm hổ thẹn, tủi hổ. Chàng đã hiểu ra và cảm phục trước hoài bão lớn lao, dự tính chu đáo của người bạn thời thơ ấu. Mai đây thế cuộc xoay vần, biết đâu Hữu Tiến con chàng sẽ thành danh trong sử sách, xoá đi vết nhơ trong đời làm tướng cướp của chàng. Cầm lòng chẳng đặng, Hữu Dư khóc nấc lên, quỳ xuống đất vái Tuệ Năng và Duy Từ mỗi người ba lạy. Hai người vội đỡ chàng đứng dậy, hết lời an ủi. Hữu Dư ôm chặt lấy Duy Từ, nghẹn ngào nói:
- Ta như kẻ chết trôi, được sư Tuệ Năng và hiền đệ cứu vớt khỏi dòng mê đưa về bến ngộ. Sông Ngàn Sâu kia còn nước, ta còn ghi nhớ mọi lời căn dặn của hiền đệ, nguyện làm người đưa đường chỉ lối cho dân nghèo di cư vào Nam, giúp đệ mở cõi. Hiền đệ đi rồi ta sẽ chuyên tâm khẩn hoang và ăn chay, tụng kinh sám hối. Thung lũng hoang vu này sẽ thành điền trang rộng lớn, cưu mang những số phận bất hạnh, những kiếp người lang thang cơ nhỡ. Đệ hãy tin ở ta.
Ba người sôi nổi bàn bạc. Duy Từ sẽ đi trước, còn sư Tuệ Năng cần ở lại một thời gian thu xếp ổn định công việc nhà chùa, sẽ đưa Hữu Tiến vào Quảng Nam, đợi Duy Từ ở chùa Long Hưng. Sau này, mọi liên lạc bí mật giữa hai xứ đàng ngoài và đàng trong hoặc nhờ cậy những việc cần kíp sẽ do người tâm phúc của Duy Từ phái đến điền trang của Hữu Dư đưa tin. Mờ sáng hôm sau Duy Từ cáo biệt mọi người, hăm hở lên đường. Lúc chia tay, chàng trao lại cho sư Tuệ Năng một bọc chứa đầy những trang viết và dặn:
- Đệ từ ngày từ biệt sư phụ xuống núi vẫn luôn ghi nhớ những lời căn dặn của Ngài. Bao năm nay đệ miệt mài nghiên cứu binh pháp của sư phụ truyền dạy, bổ sung vào đó những điều học được trong dân gian và các bậc thức giả khắp nơi để viết ra cuốn binh thư lấy tên là “Hổ trướng khu cơ”. Đây mới chỉ là ý tưởng phác hoạ ban đầu, sẽ còn phải sửa chữa, hoàn thiện thêm rất nhiều. Nay đệ tạm nhờ sư huynh cất giữ và theo đó dạy thêm về binh pháp cho Hữu Tiến. Sự đời biến hoá khôn lường, biết đâu sau này đứa bé kia sẽ là cánh tay đắc lực, giúp đệ cùng phò minh chúa đi mở cõi vào Nam.
Nói xong chàng bái lạy sư Tuệ Năng, ôm chầm lấy Hữu Dư rồi lầm lũi bước nhanh trên con đường đất ướt đẫm hơi sương. Gió từ sông Ngàn Sâu thổi lộng. Sao mai lấp loá phía trời xa. Lòng chàng phơi phới niềm vui, chứa chan hy vọng. Sư Tuệ Năng nhìn theo, lầm rầm tụng kinh cầu chúc cho chàng thượng lộ bình an. Hữu Dư ôm con trai vào lòng, bồi hồi nghĩ về những kế hoạch đổi đời cho hai cha con do Duy Từ bàn bạc, sắp đặt. Hình bóng Thục Nga và làng quê Hoa Trai cùng hiện lên trong trái tim hai người đàn ông trong giờ ly biệt kẻ Bắc người Nam.
Chương 8
HỒI THỨ TÁM
Đất Quảng chăn trâu ngồi đợi chúa
Ông trời bạc tóc mới xe duyên
Chùa Long Hưng nằm trên khuôn viên khá rộng và bằng phẳng bên sườn đồi ở phía Đông của trấn Dinh thuộc huyện Duy Xuyên đất Quảng Nam. Bốn năm sau cuộc chia tay với Đào Duy Từ, vào năm Mậu Ngọ (1618), sư Tuệ Năng cũng giã biệt Hữu Dư vào Nam, dắt theo Hữu Tiến và dừng chân ở chùa này. Đêm trước, hai thầy trò  nghỉ trong túp lều chăn vịt ven sông Thu Bồn, đại sư Duy Giác hiện về báo mộng: “Gần đây có chùa Long Hưng vừa khuyết một vị trụ trì do sư thầy Thích Quảng Tôn  viên tịch đột ngột. Hiện trong chùa chỉ có một già lam [1] là Huỳnh Bảo tạm thời coi việc nhang đèn. Đó là ý Phật muốn dành chỗ cho Tuệ Năng, con hãy mau đến đó”. Sư Tuệ Năng choàng tỉnh giấc, thấy lòng rạo rực. Giấc mộng sao khéo trùng hợp với lời hẹn ước của  Đào Duy Từ sẽ chờ gặp Tuệ Năng trên đất Quảng tại chùa Long Hưng. Dọc đường, từ ngã ba sông Ngàn Sâu vào đây, nhà sư vẫn luôn hỏi dò về chùa Long Hưng và các chùa khác của người Việt mới xây cất trên miền đất cũ của người Chiêm. Nghe đồn, năm Canh Tý (1600), Nguyễn Hoàng lấy cớ đi dẹp loạn ở Cổ Lễ rồi theo dòng Ninh Cơ xuôi ra cửa Ba Lạt, dong buồn chạy thẳng vào Nam. Khi đoàn người đổ bộ vào đất liền, ông cùng các tướng Tống Phước Trị, Nguyễn Hữu Dật đi thám sát địa hình, địa vật. Đến miền Hà Khê thuộc huyện Hương Trà, ông chợt thấy giữa cánh đồng nổi lên một gò đất cao, có dáng đầu rồng, soi bóng xuống mặt nước con sông lớn và đẹp. Dân chúng bẩm rằng gò ấy rất thiêng. Xưa có người nằm mơ thấy gặp ở trên gò một bà lão người Chiêm mặc áo đỏ, quần xanh, bóng chập chờn khi mờ khi tỏ. Bà lão bảo với người ấy, sẽ có một vị chân chúa đến dựng nghiệp ở đây để tụ khí thiêng, cho bền long mạch. Từ đó, dân địa phương gọi tên là gò Thiên Mụ, tức gò Bà Trời. Nguyễn Hoàng cho là ý trời phật muốn cho mình là chân chúa, cai quản cả người Việt lẫn người Chiêm, nên năm Tân Sửu (1601) sai người xây cất chùa Thiên Mụ. Năm Nhâm Dần (1602) ông lại cho xây tiếp chùa Sùng Hoá ở Phú Vang và chùa Long Hưng ở Quảng Nam để tạ ơn Phật tổ, Bồ tát. Cả ba ngôi chùa đều được Nguyễn Hoàng kén thợ giỏi quê gốc ở Thanh - Nghệ vào xây dựng theo mẫu các ngôi chùa lớn ở xứ đàng ngoài. Riêng chùa Long Hưng, khi Nguyễn Phước Nguyên lên kế nghiệp, đã cho tu bổ lại lần nữa để kỷ niệm những năm trấn nhậm ở Quảng Nam. Xem ra, Phước Nguyên là người có duyên với Phật, chăm lễ chùa còn hơn cả Nguyễn Hoàng, nên dân chúng gọi là chúa Sãi...
Sư Tuệ Năng từ lúc mơ gặp đại sư Duy Giác không sao chợp mắt ngủ tiếp. Sư bồi hồi liên tưởng câu chuyện Đào Duy Từ gặp Nguyễn Hoàng ở chùa Tiêu Sơn trò chuyện tâm đắc với việc Nguyễn Hoàng vào Nam xây chùa Thiên Mụ, Nguyễn Phước Nguyên được suy tôn là chúa Sãi. Phải chăng đã đến ngày Phật giáo hưng thịnh ở Thuận - Quảng? Phải chăng Phật tổ và đại sư Duy Giác đã gửi thông điệp trao cho Tuệ Năng sứ mệnh truyền bá Thiền phái Trúc Lâm vào Nam? Thời cuộc cho thấy người Việt rồi đây sẽ ồ ạt di cư vào Nam, không chỉ dừng chân ở miền Thuận - Quảng. Duy Từ nảy ra ý muốn chu du qua các nước Xá Lợi, Lâm Ấp, vào tận vùng Cửu Long Giang của nước Thuỷ Chân Lạp, rồi mới hẹn ta gặp mặt ở Quảng Nam, có lẽ cũng là do trời phật muốn vậy. Người Việt nghèo đói, tha hương vào đây sinh sống, vốn sẵn chứa trong lòng nhiều uẩn ức, dễ sinh tính hung bạo, hiếu sát. Họ cần giáo lý của Trúc Lâm tam tổ khai mở tâm linh để giúp họ quên đi mọi điều uẩn ức, sống hoà hiếu với người bản địa. Người phương Nam lâu đời theo Phật giáo tiểu thừa, còn người phương Bắc lại theo Phật giáo đại thừa. Xét cho cùng, cả hai Phật phái đều có chung một tâm nguyện rũ bỏ hết Tham - Sân - Si, dắt tay nhau về cõi Niết Bàn. Hoà hợp hai Phật phái tiểu thừa và đại thừa cũng có nghĩa là hoà hợp chung sống giữa người Việt với người Chiêm, người Chân Lạp và người Thượng ở trên dãy Trường Sơn. Sẽ là hạnh phúc biết bao cho chúng sinh khi các tộc người ở phương Nam này có chung một đấng minh chúa, lại có chung một đời sống tâm linh theo giáo lý nhà Phật... Càng gần về sáng, sư Tuệ Năng càng hiểu ra thâm ý của Nguyễn Hoàng khi xây chùa Thiên Mụ. Nhà sư cũng nuôi mối thiện cảm với Nguyễn Phước Nguyên, chắc đây chính là người để Duy Từ lựa chọn, dốc lòng phò tá sau này. Đệ tử Hữu Tiến mà lâu nay nhà sư hết lòng truyền dạy môn phái võ thuật chùa Đàn Xuyên và binh pháp trong bản thảo cuốn “Hổ trướng khu cơ” do Duy Từ gửi lại, chắc rồi cũng có cơ hội giúp đời. Thằng bé này qua mấy năm đã lớn dần thành trang tuấn kiệt. Nó đang ngủ. Vầng trán nó mới vô tư, thanh thản làm sao!
Gà vừa gáy sáng, sư Tuệ Năng vội đánh thức Hữu Tiến trở dậy. Hai thầy trò hăm hở tìm đường đến chùa Long Hưng. Đến nơi, sư Tuệ Năng cảm thấy choáng ngợp trước vẻ bề thế của ngôi chùa xây theo lối kiến trúc của xứ đàng ngoài, mạn Kinh Bắc. Trước cổng chùa là một sân đất vuông vắn được đầm kỹ, hai bên có hai hàng phỗng đá. Từ sân đất bước lên một bậc vào cổng tam quan có mái che và ba tấm cửa gỗ lim dày đóng kín, tượng trưng cho ba điều cần xem xét rõ trong đạo Phật là Không Quan, Giả Quan và Trung Quan [2]. Cạnh tam quan về mé tay phải có một cổng nhỏ ra vào thường nhật, nép mình dưới tán cây bồ đề. Qua khỏi cổng, nhà sư bước vào một sân rộng lát gạch, bầy nhiều chậu cây hoa mộc, hoa ngâu, hoa sứ, hoa nhài, hoa lan... Ở hai bên sân có hai dãy nhà bán mái chín gian, một bên dành cho người nhà chùa, một bên dành cho khách thập phương đến chờ dâng lễ. Chính diện là nhà thờ Phật rồi đến nhà bái đường, nối với nhau bằng chiếc cầu đá uốn cong, chạm khắc nhiều hoa văn lạ theo tích của đạo Phật. Phía sau lưng nhà bái đường có khu vườn chùa rộng chừng một mẫu đất, bao bọc bởi luỹ tre, bên trong có nhiều cây trái, từng đàn chim bay về làm tổ...
Già lam Huỳnh Bảo lật đật chạy ra sân đón chào thầy trò sư Tuệ Năng. Ông lão đã già, răng rụng gần hết, nhưng đôi mắt thì sáng quắc. Ông mừng rỡ kể rằng đã được Phật báo mộng, sẽ có vị sư mới từ xứ đàng ngoài vào thay cho hoà thượng Thích Quảng Tôn vừa viên tịch để trụ trì chùa này. Từ mờ sáng, ông lão đã đun nước, ủ sẵn nồi chè tươi chờ đợi. Hai người ngồi trước thềm nhà chính điện chuyện trò thân mật, còn Hữu Tiến khép nép chắp tay đứng hầu đằng sau sư phụ. Hồi lâu, sư Tuệ Năng nhắc Hữu Tiến theo già lam đi thu xếp trai phòng và nấu cơm, còn mình lững thững ra ngoài bước dạo quanh chùa ngắm cảnh. Nhà sư phóng tầm mắt bao quát cả vùng quê trù phú phương Nam sơn thuỷ hữu tình, núi đồi và đồng ruộng đan xen chạy tít tắp tận chân mây và những xóm làng người Việt, người Chiêm cũng đan xen ôm ấp lẫn nhau. Lòng ông thầm gọi: “Duy Từ ơi! Hiền đệ giờ đang ở nơi đâu? Kể từ buổi biết nhau ở chùa Đàn Xuyên đến nay thoắt đã hơn ba chục năm. Thời gian cứ trôi nhanh vùn vụt, ta đã ngoài tuổi năm mươi, còn đệ cũng sắp vào tuổi “tri thiên mệnh”. Người có tài năng, ôm ấp nhiều hoài bão như hiền đệ, sao số phận cứ phải lênh đênh trôi dạt khắp đó đây, liệu bao giờ mới gặp được minh chủ để phò tá cho thoả chí bình sinh? Vẫn biết đời người như áng phù vân, như giấc hồ điệp, nhưng ta cứ muốn hiền đệ sớm làm nên sự nghiệp, lưu danh sử sách. Vả chăng, trên vai hiền đệ còn nặng gánh những điều mà sư phụ của chúng mình đã ký thác và hy vọng. Kiếp đời trần tục của hiền đệ cũng cần phải có một mái ấm gia đình làm nơi trú ngụ lúc tuổi già, bệnh tật. Ta thương hiền đệ, nhưng vô phương cách, đành phải nhờ vào trời phật vậy thôi...” Mang nặng trong lòng những ý nghĩ mông lung, sư Tuệ Năng bồi hồi quay vào chùa. Đêm ấy nhà sư ngồi tụng kinh cầu phúc cho người bạn thủa ấu thơ, hồn thoát khỏi xác, bay đi dõi tìm bước chân hành hương của Duy Từ ở phía trời xa...
Già lam Huỳnh Bảo sớm nay thức dậy sớm hơn mọi ngày. Từ lúc canh ba, ông đã nhóm lửa nấu cơm gạo lức, nắm từng suất ăn vừa đủ bữa cho Hữu Tiến dùng trong ba ngày, vào trong những chiếc mo cau đã nhúng nước sôi rồi lau thật khô. Muối mè ông cũng phân thành từng gói nhỏ, đựng trong lá chuối khô. Nắm xong sáu suất cơm chay, ông lão tần ngần thở dài, mở từng gói, lo Hữu Tiến sẽ mói dạ. Ông muốn nắm to hơn, nhưng không dám trái lệnh của sư Tuệ Năng. Thường ngày, sư chỉ cho phép Hữu Tiến ăn mỗi bữa có ba miệng chén cơm gạo lức muối mè. Ngài bảo, đang sức thiếu niên, nó ăn mấy cũng vừa, nhưng no quá sẽ thành trì độn, lười nhác và dục vọng sẽ nổi lên cho tâm mờ tối. Ăn vừa đủ là nguyên tắc  tối giản của việc dưỡng dục. Từ buổi sư Tuệ Năng về trụ trì chùa Long Hưng, ông rất khâm phục trí tuệ uyên bác, đạo hạnh của Ngài. Phong độ ung dung, nhàn tản và lời nói điềm đạm, ấm trầm của Ngài thật tương phản với vóc người to lớn, gân bắp nổi cuộn của một võ sư có chưởng lực siêu hạng, võ công thượng thặng. Gần trọn một đời làm việc công quả cho nhà chùa, già lam Huỳnh Bảo chưa từng gặp ai có giọng tụng kinh truyền cảm đến vậy. Nhưng đến giờ dạy võ cho Hữu Tiến, nhà sư thét lên như sấm sét, đếm từng động tác trong các chiêu thức mới cho đệ tử chú ý nhập tâm. Càng yêu kính sư Tuệ Năng, già lam càng thương cảm và hết lòng chăm sóc Hữu Tiến. Nó cũng giống ông, mồ côi mẹ, từ tấm bé đã ăn mày cửa Phật, nhưng không xuống tóc đi tu. Có khác chăng là ở chỗ già lam không thể thắng nổi ma lực cám dỗ của men rượu nên không xuống tóc, còn chú bé Hữu Tiến nương nhờ cửa Phật để học văn, luyện võ, chờ dịp nhập thế giúp đời thay cho sư phụ. Mỗi ngày qua đi, già lam thêm gắn bó, thân thiết với Hữu Tiến như tình cha con, ân cần chăm sóc cậu. Ở tuổi 15, Hữu Tiến bắt đầu vỡ giọng, hiểu đời và điềm đạm, chín chắn hơn nhiều so với bạn bè đồng lứa tuổi. Nhưng già lam vẫn coi cậu như chú bé ngây thơ, côi cút. Ông lo chuyến đi này sẽ làm cậu vất vả, dễ gặp nguy hiểm. Trời đã gần sáng rõ, tiếng gà trong xóm le te báo canh năm và sau vườn chùa lác đác có tiếng chim cu gáy gọi nhau đi kiếm mồi. Già lam bần thần hồi tưởng lại buổi chiều qua, sư Tuệ Năng gọi Hữu Tiến lên giao việc:
- Này con! Lại đây ta hỏi.
- Bạch thầy, con đã sẵn sàng.
- Con đã đủ tự tin về kiến thức tam giáo và võ thuật của mình chưa?
- Bạch thầy, biển học mênh mông đi mãi cũng chẳng hết bến bờ, nhưng gần đây con đã thấy tin rằng mình có thể dấn thân vào trường đời, vừa hành sự vừa học thêm.
- Từ nay, sách vở về đạo Nho, đạo Lão và kinh Phật trong trai phòng của ta, con có thể tự mình lựa chọn để đọc thêm theo sở nguyện của riêng mình. Nếu có chỗ nào chưa thông tỏ, con có thể đàm luận cùng ta. Riêng  về binh pháp, ta muốn con giành thời gian chuyên tâm nghiên cứu và thực hành từng chương mục trong tập bản thảo cuốn “Hổ trướng khu cơ” mà thúc phụ Duy Từ của con gửi lại. Đây là sự tổng hoà giữa kiến thức uyên bác của đại sư Duy Giác với những điều suy ngẫm, tìm tòi, ghi chép trong dân gian của Duy Từ. Sách có ba phần chính là Tập Nhân - Tập Thiên - Tập Địa. Hai phần Tập Nhân bàn về đạo làm tướng và Tập Thiên bàn về cách xem thiên văn, tiên liệu thời vận, xét đoán tướng người..., ta đã kết hợp giảng giải cho con lâu nay, khi con học sách Mạnh Tử, Trung Dung, Đại Học, Luận Ngữ hay sách của Lão - Trang, sách Kinh Dịch của Chu Công. Con hãy nhập tâm và nhớ lấy mỗi khi đọc lại hai phần ấy, để rồi suy rộng mãi ra. Riêng phần Tập Địa, trong bản thảo của Duy Từ viết rất cô đọng mà súc tích, rất cần con vừa đọc vừa thực hành. Nay ta giao cho con phần Tập Địa để đêm nay đọc kỹ, sớm mai con sẽ ra khỏi chùa thực hành trong ba ngày. Tập Địa dạy cách lợi dụng địa thế tự nhiên có nhiều tiện ích cho mình để chọn nơi đóng quân, lập trại, bày trận và chọn nơi đất xấu xem như là tử địa để nghi binh, dụ cho quân địch tới mà tiêu diệt. Xét toàn cục trận chiến là như thế. Đi sâu vào tiểu tiết từng trận đánh cũng là như vậy. Giả sử như lúc con cầm quân, hai bên giàn trận, muốn dùng phép bày trận  “Chu Thiên” cũng phải tuỳ nghi: ở đồng bằng có bãi rộng thì kết trận tròn, gặp chỗ đất gập ghềnh hiểm trở thì biến làm trận cong, gặp chỗ đường cái lớn lại bày trận thẳng, đón lõng giặc từ trên đất cao xuống thì kết trận vuông... Sớm mai, lúc khởi hành ta cho con mang theo bức địa đồ của xứ Quảng Nam. Từ chùa Long Hưng, theo con đường nhỏ băng đồng một đoạn, con sẽ gặp con lộ độc đạo, rẽ trái sẽ ra biển, rẽ phải sẽ lên núi và đi về phía địa phận nước Xá Lợi của người Thượng. Trong ba ngày dò xét địa hình con phải trả lời cho ta biết, nếu con cầm quân đánh nước Xá Lợi thì dùng binh ra sao; còn nếu nước Xá Lợi đem quân đến sát bờ biển đánh ta con sẽ đối địch thế nào.
- Bạch sư phụ, muốn định được kế sách phá giặc còn phải xem tương quan ta với địch lúc đó mạnh yếu ra sao.
- Điều này tự con lẽ ra phải xét đoán được rồi. Người học luôn phải động não suy nghĩ vượt ra ngoài sách. Xá Lợi là một tiểu quốc có đời sống còn mông muội. Họ dám đến đánh ta là nhằm lúc ta suy yếu để vào cướp bóc. Ngược lại, khi ta đem quân đi đánh họ, đương nhiên đang lúc ta mạnh và chuẩn bị kỹ. Thôi, con mau mang bản thảo Tập Địa của thúc phụ Duy Từ về đọc rồi đi nghỉ sớm, mai còn lên đường.
Già lam Huỳnh Bảo vô tình nghe được câu chuyện giữa hai thày trò khi ông ngồi đan sọt ở ngoài hiên, trước cửa trai phòng của sư Tuệ Năng. Hữu Tiến đi rồi, nhà sư gọi ông vào dặn dò chuẩn bị mọi thứ chu đáo cho Hữu Tiến. Đêm qua mấy lần già lam đến phòng của cậu giục đi ngủ sớm, vẫn thấy đĩa dầu lạc trên bàn đang leo lét cháy. Ông bùi ngùi thương cậu, linh cảm thấy sẽ có một ngày cậu bé này sẽ rời chùa, dấn thân vào cuộc đời gió bụi. Ngày ấy chắc không xa và ông sẽ thấy buồn, cô độc biết bao!...
Hừng đông ló rạng, chân mây về phía ấy chuyển dần từ màu hồng sang màu vàng mơ. Vườn chùa lảnh lót tiếng chim sâu chuyền cành. Ngoài đồng, những cô gái người Chiêm đội thúng, người Việt quẩy gánh, cùng đi gieo mạ đông. Hữu Tiến đã thức dậy, múa một bài quyền giữa sân chùa. Sư Tuệ Năng ngồi uống trà ở trai phòng, lim dim mắt nhìn đứa trò yêu khi xuống tấn, lúc vung quyền hay phi thân nhả cước. Động tác của cậu dứt khoát và mạnh mẽ. Nhà sư bất giác mỉm cười thanh thản trong lòng. Ngài tin rằng Hữu Tiến sẽ hoàn thành tốt bài học thực hành đầu tiên về binh pháp trong phần Tập Địa. Già lam sớm nay đặc cách nấu một nồi cháo loãng, có đỗ xanh cho mọi người ăn với đường phổi, tiễn chân Hữu Tiến đi dã ngoại. Loại đường quí hiếm này nhà chùa chỉ dùng khi tiếp khách quan trọng. Sư Tuệ Năng không nói ra lời, nhưng rất hài lòng trước mối thân tình của già lam với đứa trò yêu. Nhà sư khoan thai đứng dậy, nhắc Hữu Tiến đã đến giờ xuất hành. Bóng cậu thiếu niên đã khuất sau cánh cửa chùa, già lam mới sực nhớ ra, vội cầm nải chuối ngự, lật đật chạy theo, buộc vào đầu cây gậy trúc cho cậu, miệng lẩm bẩm cầu chúc cậu thượng lộ bình an. Hữu Tiến quay lại vái tạ già lam rồi hăm hở băng đồng, nhằm hướng đường cái quan còn khuất lấp trong sương mờ. Cậu đã xem kỹ bức địa đồ, nhẩm tính trong ngày đầu sẽ đi qua mười con suối lớn và năm đoạn đường đèo dốc quanh co để đến một thung lũng rộng, chạy dài theo hướng Bắc - Nam. Ở đó cậu sẽ tìm một nhà dân nghỉ nhờ và ghi chép lại những gì quan sát được trên đường. Hôm sau cậu sẽ quay trở về nơi ngã ba xuất phát, dọc đường sẽ dừng lại ở một vài nơi, hỏi chuyện các già làng về phong tục tập quán của họ và lai lịch các địa danh có hình sông, thế núi đặc biệt. Ngày thứ ba, cậu sẽ từ ngã ba ấy theo đường độc đạo đi về phía biển. Dò trên bức địa đồ, cậu dự đoán khoảng nửa ngày sẽ đến ngã ba sông Thu Bồn gặp con sông Vu Gia. Vừa hay nơi ấy có địa hình lợi cho việc bày trận “Tiểu Chu Thiên cửu biến: Trường xà liên châu” để lấy sức yếu phá thế giặc mạnh. Như vậy vào lúc ăn trưa, cậu có thể ghi chép tỉ mỉ mọi điều quan sát được và trở về chùa vừa lúc trời tối, hoàn thành bài tập binh pháp ba ngày như sư phụ đề ra. Hữu Tiến cảm thấy vững tin, lòng rạo rực niềm vui, bước những bước dài sảng khoái. Có lẽ sư phụ đã nhiều lần thị sát con đường này nên Ngài vạch sẵn cung đường có nhiều hình sông, thế đất khác lạ để cậu tự biến hoá trong bài tập đầu tiên. Tri thức của sư phụ thật sâu rộng, lại rất chuộng sự thực hành hơn là sách vở. Vậy mà mỗi khi nhắc đến thúc phụ Duy Từ, ngài thường tự ví mình như con đom đóm so với mặt trời. Chắc hẳn thúc phụ phải là người phi phàm xuất chúng trong cõi nhân gian. Lúc còn ở nhà, phụ thân của cậu cũng không ngớt lời ca ngợi Duy Từ, dặn cậu suốt đời noi gương thúc phụ mà học hành phấn đấu, nuôi chí anh hùng. Bất giác cậu chạnh lòng nhớ quê, nhớ con sông Ngàn Sâu và trang trại của phụ thân dưới chân núi Vụ Quang. Cậu khao khát một ngày trở về thắp nén nhang lên phần mộ mẫu thân.
Ở ngã ba, nơi hai con sông Thu Bồn và Vu Gia hợp lưu đổ ra biển có mấy quả đồi thoai thoải, cỏ mọc xanh mởn, lúp xúp những bụi hoa sim, hoa mua mọc rải rác, tô điểm thêm cho cảnh vật như bức tranh thuỷ mạc đời Tống ta thường gặp ở các dinh thự hay tiệm cao lâu sang trọng. Đây là khu vực chăn thả gia súc của nhà phú hộ Cao Nham. Trâu bò của ông cỡ hàng vài chục con, lại thêm đàn dê đông đúc, kêu be be chạy đuổi nhau nô đùa trên thảm cỏ. Coi sóc đàn gia súc là một ông lão để râu ba chòm lốm đốm nhiều sợi bạc, vốn là một gã ăn mày. Ông đến làm thuê cho phú hộ Cao Nham vào một đêm mưa gió. Bữa đó ông kiệt sức vì đói và cảm lạnh, nằm co quắp dưới chân tường, gần cổng ra vào của nhà phú hộ. Tiếng rên của ông làm đàn chó trong sân sủa loạn. Người ta khiêng ông vào cạo gió, thay quần áo, nhưng ông vẫn mê sảng, luôn miệng gọi những tên người: Thục Nga, Hữu Dư, Tuệ Năng... Đồn rằng lúc mới đến gã ăn mày có dáng vẻ một nhà Nho nghèo, nom quắc thước và rất khó đoán tuổi. Sau trận ốm dài, được phú hộ họ Cao tốt bụng hết lòng chăm sóc, ông khỏi bệnh nhưng râu tóc mọc dài, có nhiều sợi bạc, nên mới biến thành ông lão. Cảm cái ơn cứu mạng, ông tình nguyện ở lại chăn trâu không công cho nhà phú hộ. Lúc rảnh rỗi ông làm thơ rồi đọc cho các ngư phủ ngoài bến sông nghe, lại dạy họ nhiều điệu hát cho quên sự mỏi mệt. Nghe các ngư phủ trong vùng ca ngợi cảnh đẹp của cửa biển Tư Dung, ông lão cao hứng làm bài thơ “Tư Dung vãn” dài hơn 300 câu lục bát, mượn cảnh thần tiên ấy ca ngợi chúa Tiên [3] Nguyễn Hoàng:
Cõi Nam từ định phong cương
Thành đồng chống vững, âu vàng đặt an
Hay như:
Đoái lòng thương hải rộng thênh
Bâng khuâng sẽ nhớ đức lành tiên quân
Đường Ngu lấy đức trị dân
Súng trời buông lửa, sóng thần nép oai...
Có lúc, hình như cảnh ấy gợi niềm thương nhớ của ông lão về một người bạn là vị thiền sư đang trụ trì ở đâu đó:
Thơ thôi, vẫy gọi Thiền tăng
Cảnh này sư có vui chăng hỡi thầy.
Nghêu ngao tắm suối nằm mây
Thị phi mặc thế tháng ngày thung dung
Làu làu gương sáng giá trong
Vui niềm son đỏ, lánh vòng bạc đen
Người Đà nên đứng cao Thiền
Phật dầu chưa hẳn, ắt Tiên đã gần.
Lại có lúc ông lão tưởng tượng mình ra cửa biển Tư Dung gọi ngư phủ dưới thuyền lên bờ đàm đạo thế sự nhân tình:
Khách nghe cả gọi ngư ông
Thuyền người đậu đó, tớ cùng luận chơi
So xem trong đạo làm người
Lấy nơi đâu chánh, bỏ nơi đâu tà...
Ông còn có bài thơ “Ngoạ Long Cương vãn”, tự ví mình như Gia Cát Lượng đời nay nên đám ngư phủ gọi ông là “lão ngông”. Mà ngông cũng chẳng oan, vì một ông lão chăn trâu có đận đi ăn mày lại dám so với Thừa tướng Gia Cát võ hầu thì thật tức cười. Tuy vậy, hết thảy ngư phủ trong vùng đều thuộc lòng cả hai bài thơ. Những lúc ngồi buồn trên thuyền hay khi uống rượu, họ thường nghêu ngao hát hai bài thơ ấy.
Nhà phú hộ có cô con gái lớn Cao Thị Nguyên, goá chồng, tuổi ngoài ba mươi, ở vậy nuôi con gái lên mười, nhưng nhan sắc vẫn còn mặn mà. Phú hộ họ Cao nghe lời khuyên của lão ngông, đổi tên nàng thành Vân để tránh tên huý của chúa Sãi. Nàng Vân rất mê thơ và nghe ông lão chăn trâu hát. Vân cố nài nỉ song thân, đòi được hàng ngày mang cơm cho ông để được trò chuyện, chiêm ngưỡng một con người ngông nghênh, lập dị mà nàng dự cảm thấy bên trong ông tiềm ẩn sự phi thường. Lúc đầu, ông có ý lạnh nhạt, lảng tránh con mắt tha thiết của nàng. Dần dà, họ thành đôi bạn thân thiết, đọc được tâm trạng và ý nghĩ của nhau. Ông kể cho nàng nghe những cuộc chu du kỳ thú trên miền rừng núi hoang vu của nước Xá Lợi, nước Lâm Ấp với những mái nhà rông và tiếng cồng chiêng bên bếp lửa bập bùng. Ông hát cho nàng nghe những điệu dân ca sâu lắng, mượt mà ở vùng đồng bằng Cửu Long Giang xa xôi của nước Thuỷ Chân Lạp. Những lúc buồn nhớ quê hương ở xứ đàng ngoài, ông cầm đũa gõ vào chiếc chén úp thay trống chầu, để hát những điệu ca trù nghe bổng trầm, tha thiết, du dương, và ca từ chính là những bài thơ ông viết. Nàng Vân nhớ mãi một lần vào lúc xẩm tối, ông lão ngông lùa trâu về chuồng, gặp rất đông quan khách đến dự tiệc mừng thọ Cao Nham. Trong số ấy có nhiều kẻ ngạo mạn, rượu vào lời ra, thả sức cao đàm khoát luận về văn chương, chữ nghĩa trong các sách của thánh hiền. Lão ngông đứng ở giữa sân, khoanh tay nhìn họ cười nhạt. Một gã say trừng mắt, đứng dậy, sấn đến túm ngực lão ngông quát:
- Thằng khố rách chăn trâu biết gì chữ nghĩa mà dám đứng đây nghe vụng?
Lập tức đám đông nhao nhao xỉ mắng:
- Cút xéo ngay, đồ mạt hạng!
- Thả chó ra cho nó cắn chết thằng khùng.
- Loại người tha phương cầu thực ở xứ đàng ngoài vào đây sao không biết thân biết phận?
- Trói cổ nó đem lên quan bỏ tù cho bõ ghét...
Chủ nhà Cao Nham vốn biết con gái mình có tình ý với lão ngông, chợt nảy ra ý muốn nhân dịp này thử tài lão. Ông đứng dậy can ngăn mọi người hãy yên lặng, bình tĩnh nghe gã chăn trâu nói sau rồi có muốn bắt tội cũng chưa muộn. Lão ngông thấy vậy liền ngửa mặt lên trời cười vang. Lát sau, lão bước lại gần dãy bàn tiệc, nhìn khắp lượt mọi người và nói:
- Chư vị ngồi đây thảy đều vỗ ngực là Nho sinh hay văn nhân, thi sĩ, nghĩa là toàn những bậc cao sang tôn quí. Lão ngông ta rõ ràng là kẻ chăn trâu, cắt cỏ. Nhưng chư vị hãy nên nhớ rằng Nho có Nho quân tử và Nho tiểu nhân, chăn trâu cũng có người chăn trâu anh hùng và kẻ chăn trâu tôi tớ, hèn mọn, cao thấp khác nhau, hiền ngu chẳng phải một. Nay cứ tạm gọi tôi là đứa tiểu nhân đứng nhìn chư vị, tất chẳng liên quan gì đến sự tôn quí, có tội lỗi gì mà xua đuổi?
- Vậy nhà ngươi hãy nói cho rõ thế nào là Nho quân tử, Nho tiểu nhân? - Một người trong bọn chất vấn.
- Phàm là Nho quân tử thì trên thông thiên văn, dưới hiểu địa lý, giữa thấu việc người. Ở nhà tất phải giữ đạo cha con, anh em, bạn bè, chồng vợ... trật tự phân minh, nghĩa tình vẹn đủ. Đối với nước tất phải biết mưu lược yên dân giúp đời, cứu hiểm phò nguy, bày binh bố trận, vào chính ra kỳ, lập công danh, lưu sự nghiệp rạng rỡ nghìn thu. Nhà Thương có Y Doãn, nhà Chu có Thái Công, nhà Thục Hán có Gia Cát Lượng, còn bên ta có Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt, Tô Hiến Thành, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi... là những người như thế. Lại nói về Nho tiểu nhân thì tài học chỉ ở chỗ tằm chương trích cú, háo danh cầu lộc; cậy danh là Nho mà chỉ biết cười gió cợt trăng, kiêu căng giấu dốt, xu nịnh luồn cúi, hống hách khoe khoang..., hỏi làm sao hiểu được ý chí của thánh hiền, đạo lớn của thiên hạ? Họa may họ leo được ghế này phẩm nọ, nhất thời được coi sóc dân chúng xử lý chính sự thì trăm phương nghìn kế mưu cầu lợi riêng, không nghĩ rằng sâu mọt hại dân chính là thứ giặc nội xâm, nguy cơ mất nước sờ sờ ra đó mà giả đui giả điếc. May hơn nữa mà được dự bàn kế sách lớn của nước nhà thì mặc người khác lo toan suy nghĩ, còn mình chỉ bàn tán rông dài, thao thao múa mép như bọn Kiều Hạo, Vương Diễn đời Tấn bên Tàu, loại người ấy có gì đáng nói đến. Ở bên ta cũng có  gương tày liếp là bọn tiểu nhân Ích Tắc, Nhật Hiệu đời Trần đấy thôi!...
Khắp mấy bàn tiệc ai nấy nghe xong sững sờ, kinh ngạc. Nhưng vẫn có người hung hăng hỏi tiếp:
- Thế còn loại người chăn trâu anh hùng với chăn trâu tôi tớ ra sao, hãy nói thử cho chúng ta nghe một thể? Ha ha! Chăn trâu mà cũng có anh hùng sao?
- Này người kia, mau dỏng tai mà nghe lão ngông này nói tiếp: Kẻ chăn trâu vẫn có Ninh Thích phục hưng được nước Tề, Điền Đan tung lửa đốt giặc thu lại hết các thành trì bị mất vào tay nước Yên, Hứa Do cho trâu uống nước ở khe mà có thể phân biệt hưng - vong - trị - loạn, Bách Lý Hề chăn dê ở miền hoang nước Tàu mà biết được thời vận bĩ - thái, thịnh - suy. Đó há chẳng phải là những kẻ chăn trâu, dắt dê anh hùng trong sách sử nước Tàu đó sao? Sử bên ta cũng đã từng ghi nhận cậu bé chăn trâu Đinh Bộ Lĩnh phất cao cờ nghĩa, dẹp loạn mười hai xứ quân, thu giang sơn qui về một mối, liệu chư vị ngồi đây có dám so mình với hoàng đế chăn trâu nhà Đinh?... Còn như hạng chăn trâu tôi tớ thì quẩn quanh trong cõi, xe chở đấu lường, no thì bỏ thừa, đói thì xin ăn, trộm quả ban ngày, khoét vách ban đêm, làm xấu lây các bậc cha anh, để oán giận cho làng trên xóm dưới... Loại Nho tiểu nhân ban nãy vừa nói, nếu gặp lúc khốn cùng tất sẽ thành kẻ chăn trâu tôi tớ cả thôi.
Mọi người nghe lão ngông nói năng lưu loát, bác cổ thông kim, thảy đều giật mình cứng lưỡi, ngồi im thin thít, trán vã mồ hôi, nháy nhau lỉnh dần. Chủ nhà Cao Nham thấy vậy mừng khôn xiết, ân cần cầm tay lão ngông nói:
- Tài giỏi như vậy, sao ông giấu mắt lão phu? Thật là xót xa, mấy tháng nay lão để ông phải phong trần dính áo, ngọc đá chẳng phân, công gà lẫn lộn! Lão phu không biết nhìn người, có tội lắm, có tội lắm!
Nàng Vân chứng kiến mọi việc xảy ra trong bữa tiệc mừng thọ, lòng tràn ngập vui sướng, càng yêu say đắm lão ngông. Những ngày sau đó nàng lại cảm thấy u sầu, hờn tủi vì song thân nàng may sắm quần áo, mời ông lên ở nhà trên có kẻ hầu hạ mà ông vẫn một mực từ chối, an phận làm kẻ chăn trâu. Đã có lúc phụ thân nàng đánh bạo gợi ý sẽ tác hợp cho hai người nên vợ nên chồng, nhưng ông bảo mình sự nghiệp chưa thành, không muốn vướng bận thê nhi. Nàng Vân đành ôm hận, chờ đợi mỏi mòn thành người ốm lửng, ngày một hao gầy...
Hữu Tiến rong ruổi đi bộ trên con đường độc đạo dẫn ra phía biển lòng đầy hứng khởi. Hai ngày đầu cậu đi về hướng  miền Tây Quảng Nam học được bao điều lạ, lại được mở rộng tầm mắt bao quát một vùng rừng núi hiểm trở và kỳ vĩ. Cậu thầm biết ơn sư phụ đã cho mình cơ hội dã ngoại nhiều bổ ích. Cậu đến bờ sông Thu Bồn, nơi gặp dòng Vu Gia, cách biển chừng hơn một dặm thì trời đã tròn bóng nắng. Cậu thơ thẩn leo lên sườn một quả đồi, nhìn ra bốn bề đồng lúa bao la sông nước, gió thổi lồng lộng. Nơi đây có đồi dốc thoải, có sông rộng hợp lưu xuôi ra cả biển, lại có đồng lúa xen lẫn ao đầm um tùm lau sậy, thật đắc địa cho việc dụ binh của giặc từ xa đến mà lấy sức nhàn cự nhọc. Cậu thấy lâng lâng xao xuyến khi thấy đàn bò, trâu, dê nhẩn nha gặm cỏ trên các sườn đồi đầy cỏ non xanh mởn. Xa xa, mấy nếp nhà tranh ẩn mình sau luỹ tre, yên bình và thơ mộng. Lúc nãy, trên đường đến đây, cậu có ghé qua thăm một chợ quê khá tấp nập người mua, kẻ bán. Hàng hoá trong chợ thật phong phú, có nhiều sản vật của người Thượng trên núi cao của nước Xá Lợi, lại có những sản vật gốm sứ vùng Trấn Biên của nước Thuỷ Chân Lạp đưa ra theo đường biển, còn nông lâm hải sản của đất Quảng thì ngập đầy các sạp hàng, lều chợ. Cậu nhớ lại lời của sư phụ nói với già lam Huỳnh Bảo: “Muốn biết lẽ thịnh suy của nước, chỉ cần đi vào các chợ quê, nhìn từng gương mặt đàn bà, con gái ở đó thì khắc hiểu”. Cậu đã gặp họ và cảm thấy họ rạng ngời niềm vui hạnh phúc. Điều ấy đủ biết quan Tổng trấn Quảng Nam là Nguyễn Phước Kỳ, con trai cả Nguyễn Phước Nguyên cai trị dân có phép tắc nghiêm cẩn và nhân hậu. Thêm nữa, cậu còn nghe dân chúng đồn đại nhiều chuyện ly kỳ, thú vị về lão ngông nào đó, chăn trâu cho nhà phú hộ họ Cao. Hành tung bí hiểm, tài làm thơ, đàn hát và kiến thức sâu rộng của lão ngông này chợt khiến cho cậu liên tưởng đến thúc phụ Duy Từ. Cậu hồi hộp, khấp khởi mong sao điều phỏng đoán đó là sự thật. Những đàn trâu, bò và dê kia đang ăn cỏ bên sườn đồi, phải chăng là của phú hộ họ Cao? Nếu vậy, nhất định cậu sẽ được gặp lão ngông, tất rõ thực hư. Hữu Tiến quên đói, bỏ bữa ăn trưa, bủa đi sục sạo, tìm kiếm khắp mấy quả đồi thì gặp chiếc lều cỏ sơ sài che mưa nắng. Cậu bước vào lều, gặp một ông già đang ngồi xoay lưng lại trên chõng tre, trầm ngâm đọc sách. Chiếc nón rách và cây gậy trúc gác lên đùi làm giá đỡ cho cuốn sách đã nhầu nát, ố vàng. Cậu sững người ngắm kỹ ông lão hồi lâu rồi quỳ xuống đất gọi to:
- Thúc phụ!... Cháu... cháu là Hữu Tiến ở sông Ngàn Sâu vào tìm thúc phụ đây.
- Ta đang nằm mê chăng?... Hữu Tiến!... Sư phụ của con đâu? Sao con tìm được chốn này?...
Đào Duy Từ bàng hoàng sung sướng. Chiếc nón rách và cây gậy rơi xuống nền đất. Ông cầm cuốn sách, xoay lưng lại,  nhìn Hữu Tiến đang quỳ trước mặt. Cậu vùng dậy, lao tới, ôm chặt lấy Duy Từ, nghẹn ngào nói:
- Thúc phụ không nằm mê đâu. Con và sư phụ Tuệ Năng đêm ngày mong ngóng, không ngờ thúc phụ lại ra nông nỗi này.
- Con vẫn chưa trả lời ta, sư phụ của con giờ ở đâu?
- Ngài ở chùa Long Hưng, chờ thúc phụ, sao thúc phụ không đến? Vì sao thúc phụ phải chăn trâu cho người ta? Con chắc sư phụ Tuệ Năng sẽ rất đau lòng khi biết thúc phụ rơi vào cảnh khốn cùng này.
- Chăn trâu cũng là một nghề lương thiện, có sao đâu. Ơ kìa, Hữu Tiến! Sao con lại khóc?
- Con thương thúc phụ quá! Sao ông trời lại nỡ đoạ đầy một người như thúc phụ?
- Bình tĩnh đi con. Tự ta muốn vậy chứ đâu phải trời đầy.
- Nhưng sao thúc phụ không đến chùa?
- Chuyện dài lắm! Ta chịu ơn cứu mạng của phú hộ họ Cao nên ở lại chăn trâu trả nghĩa người ta. Việc đã nhận rồi, biết lấy ai thay ta trông đàn gia súc, để lên chùa Long Hưng gặp sư phụ của con. Gặp mặt con ở đây ta không còn lo gì nữa. Nào, hãy đứng dậy cho ta nhìn kỹ đứa cháu yêu, nghĩa tử của ta.
Hữu Tiến từ từ đứng dậy. Duy Từ gạt nước mắt, tay run run sờ nắn khắp người cậu. Ông không ngờ đứa bé mười tuổi năm xưa nay đã lớn vồng thành một thiếu niên tuấn tú, sức vóc cường tráng. Càng nhìn càng thấy cậu giống Thục Nga từ vầng trán, đôi mắt, sống mũi, cái cằm, đến miệng cười, giọng nói. Hình ảnh người bạn gái thủa ấu thơ ở làng Hoa Trai quê nhà lại hiện lên trong trái tim ông. Bao năm qua đi, có lúc nào ông nguôi thương nhớ nàng. Vì cái miệng cười và ánh mắt ấy mà thủa còn trai tráng ông đã khước từ tình yêu của nàng Thục Anh bên đất Tàu, giờ đây ông cũng đang lưỡng lự trước mối tình của nàng Vân, con gái phú hộ họ Cao. Đã có lúc ông xiêu lòng vì thấy nàng Vân có thể lấp vào chỗ trống vắng của đời mình, ông cũng cần một tổ ấm muộn mằn, trước khi quyết định vào phủ chúa ra mắt Nguyễn Phước Nguyên. Nửa năm chăn trâu ở đây ông đã dò hỏi được nhiều điều về cha con Nguyễn Phước Nguyên và Nguyễn Phước Kỳ. Ông thấy họ nối được chí hướng của Nguyễn Hoàng nên mới chủ tâm làm bài thơ “Tư Dung vãn” để các ngư phủ trong vùng truyền cho nhau hát trên thuyền, đánh tiếng thăm dò với phủ chúa ngoài Thuận Hoá. Bài thơ “Ngoạ Long Cương vãn”, ngày xưa ông đã từng gảy đàn, hát cho Nguyễn Hoàng nghe ở chùa Tiêu Sơn ngoài Bắc, đám ngư phủ cũng thuộc lòng, truyền đi rất xa, ắt có ngày đến tai Nguyễn Phước Nguyên. Ông chỉ giữ kín miếng lụa trắng có bút tích Nguyễn Hoàng ghi bài thơ xướng hoạ giữa hai người. Nó chỉ có thể là kỷ vật giữa ông và chúa Tiên, chứ thâm tâm ông không muốn dùng nó làm bùa hộ mệnh để được tiến cử. Người ta không biết tên thật, gọi ông là lão ngông, cũng vì ông còn muốn giáp mặt Nguyễn Phước Nguyên, dò xét thêm lần cuối về chí hướng của bậc minh chúa trước khi quyết định bộc lộ mình. Dẫu sao, ông đã dự cảm thấy ngày thực hiện lời uỷ thác của đại sư Duy Giác giúp họ Nguyễn mở cõi, hùng cứ phương Nam đang đến gần. Ở tuổi năm mươi, ông cần một tổ ấm và cần có người nối dõi tông đường. Nàng Vân là người hiểu ông như Thục Nga đã từng hiểu và thương ông. Điều ông ray rứt là chưa có tin tức gì của cha con Hữu Dư - Hữu Tiến, nên chưa thể an tâm đáp lại mối tình của nàng Vân. Nay giọt máu để lại của Thục Nga xuất hiện làm xao động hồn ông, khơi dậy trong ông tình yêu thời trai trẻ, tưới lên cánh đồng khô khát trong ông trận mưa rào của nỗi đam mê, của niềm khát vọng. Bất giác ông ôm chầm lấy Hữu Tiến, nuốt những dòng lệ chảy tràn, gọi thầm hai tiếng “Thục Nga”... Bên tai ông vẳng nghe tiếng thì thầm của nàng Vân hay của Thục Nga, ông cũng không biết nữa...
Chú thích:
[1] Già lam: người (nam giới) trông coi chùa
[2] Không Quan, Giả Quan, Trung Quan: cõi trời, cõi âm, cõi dương (theo Toan Ánh)
[3] Chúa Tiên: tên mà dân Nam thường gọi chúa Nguyễn Hoàng (ví như vị Tiên), giống như các tên chúa Sãi, chúa Nghĩa, chúa Hiền... sau này.  
Chương 9
HỒI THỨ CHÍN
Minh chúa thâu đêm bàn mở cõi
Anh hùng suốt sáng luận cơ mưu
Nắng chiều lạt dần rồi lịm tắt. Xa xa phía trời Tây, dãy Trường Sơn đã ngậm già nửa mặt trời. Cánh đồng trên bờ sông Vu Gia chỉ còn những vệt sáng chuyển sang mầu tím sẫm. Những cánh cò thôi bay, rủ nhau về ngủ trên các bụi tre. Trong nhà phú hộ họ Cao, nàng Vân ngơ ngẩn vào ra, ngóng đợi đàn trâu về chuồng mà sao chưa thấy. Có lẽ lão ngông gặp chuyện gì chăng? Thường ngày vào giờ này, nàng đã thấy ông ngả nón, xếp gậy vào góc sân và ra bờ giếng kéo gầu nước lên, ngửa cổ uống từng hớp ngon lành. Nàng sẽ bồi hồi ngắm lồng ngực đỏ au, cặp mắt sáng rực và bộ râu ba chòm của người mình thương nhớ. Nàng sẽ mang khăn chạy ra đưa ông lau mặt và giục ông ăn cơm tối với cá bống kho riềng hay tép khô rim với khế chua mà ông ưa thích. Trời tối dần, vẫn chưa thấy ông lùa đàn trâu về, khiến nàng phấp phỏng lo âu. Nàng tất tưởi chạy ra đầu làng đón đợi. Kia rồi, ông đang về cùng với một cậu thiếu niên tuấn  tú, ăn mặc theo lối nhà chùa. Cậu cầm gậy lùa trâu đi trước, còn ông lững thững theo sau, nói cười vui vẻ. Chưa lần nào nàng thấy ông vui như hôm nay. Ông đã tìm gặp lại được người thân, điều ấy đã rõ. Nhưng cậu thiến niên ấy quan hệ với ông thế nào? Nàng đã nguyện một lòng thờ phụng ông, sẵn sàng chia xẻ cùng ông niềm vui và nỗi buồn, nếu đó là con trai của ông, cũng sẽ là con của nàng; nếu nó là người cùng quê, nàng sẽ nói với song thân thu nhận vào làm việc nhẹ, phụ giúp nàng đưa cơm cho thợ cấy, thợ cày. Chỉ mong sao ông đón nhận tình yêu của nàng vun đắp hạnh phúc lâu dài, thì dù có phải tát cạn sông Vu Gia để ông được vui như chiều nay, nàng cũng làm bằng được.
Lão ngông dắt Hữu Tiến lên nhà trên, chào vợ chồng Cao Nham và giới thiệu với nàng Vân. Cả nhà mừng rỡ, ân cần thăm hỏi và nài ép hai người cùng ăn cơm tối ở nhà trên, không chịu để họ xuống ăn ở nhà dưới. Trong bữa ăn, cô bé Hương, con gái nàng Vân nhanh chóng làm thân với Hữu Tiến. Nhìn đôi trẻ quyến luyến nhau, bất  giác Duy Từ chạnh nhớ đến cô bé Thục Nga năm xưa tiễn mình đi chùa Đàn Xuyên theo học đại sư Duy Giác. Con bé Hương kia cũng trạc tuổi nàng năm ấy. Có lẽ  trời phật muốn xe duyên cho hai đứa trẻ này chăng? Ông liếc nhìn sang nàng Vân, cảm thấy nàng cũng chung một ý nghĩ. Cả hai cùng ý tứ nhìn nhau mỉm cười. Khi ông trình bày với Cao Nham muốn xin nghỉ vài ngày theo Hữu Tiến lên chùa Long Hưng thăm sư Tuệ Năng, nàng Vân chợt giật mình lo sẽ mất ông. Nàng khẽ thở dài nhìn vào mắt ông, cúi đầu the thắt buồn. Ông hiểu và thương nàng, muốn ôm nàng vào lòng an ủi rằng ta sẽ quay về, nhất định sẽ quay về cùng nàng xe tơ kết tóc. Ta sẽ cho nàng biết, ta không phải là lão ngông, ta là Đào  Duy Từ nuôi chí vào Nam, giúp chúa mở cõi, giúp dân lập nghiệp, giúp đời tương ái.
Đêm ấy Duy Từ và Hữu Tiến nằm trong ổ rơm, rì rầm tâm sự đến sáng. Ông hỏi thăm tình hình làm ăn ở trang trại của Hữu Dư ngoài Bắc và những dân di cư đói khổ trên đường vào Nam được Hữu Dư giúp đỡ ra sao. Ông hỏi chuyến đi của thày trò Tuệ Năng - Hữu Tiến từ sông Ngàn Sâu vào chùa Long Hưng qua những nơi nào, phong thuỷ và tập quán dân chúng có gì khác biệt. Ông hỏi về việc học văn, luyện võ của Hữu Tiến. Trong câu chuyện, cậu kể lại cho thúc phụ nghe về ba ngày thực hành binh pháp mà sư phụ đã bố trí vừa rồi. Duy Từ thầm cảm phục, biết ơn sư Tuệ Năng đã không quên nghiên cứu tập bản thảo cuốn “Hổ trướng khu cơ” mà mình dày công khởi thảo suốt cả một thời trai trẻ. Ông cũng mừng vì Hữu Tiến rất thông minh, sớm nắm được cái hồn của mỗi trang viết trong cuốn sách ấy. Nó chưa hoàn thiện, cần được ông suy ngẫm chỉnh lý nhiều, nhưng vẫn có thể giúp đứa con trai duy nhất của Thục Nga làm nên sự nghiệp sau này. Gần sáng, ông nói với cậu:
- Hóa ra sư phụ của con đã tiên đoán trước những nước cờ mà ta sẽ sắp đặt trên chính trường ở phương Nam. Sư Tuệ Năng có nói thêm gì với con trước lúc khởi hành không?
- Sư phụ chỉ đặt ra cho con hai tình huống, nếu ta đánh nước Xá Lợi thì hành quân, lập trại và giao chiến trên vùng rừng núi hiểm trở ra sao; còn nếu họ đem quân xuống đồng bằng ven biển cướp phá thì cự lại bằng cách nào?
- Vậy giả sử chiều qua, ở ngã ba sông Vu Gia - Thu Bồn có giặc, con định ứng xử cách gì?
- Trong binh pháp của thúc phụ có dạy phải lấy sức nhàn cự nhọc, chọn địa thế có lợi rồi nhử cho giặc sinh kiêu mà vây hãm. Vì thế, con định sẽ thưa với sư phụ rằng nếu con làm tướng sẽ vờ đánh nhau với giặc ở thung lũng thượng nguồn sông Thu Bồn rồi vừa đánh vừa lui, nhử giặc đến đầm lầy ven sông Vu Gia, lúc đó sẽ vây bọc chúng lại để quyết chiến.
- Tại đây con sẽ dùng trận pháp gì?
- Con sẽ dùng phép “Lưới trời yểm trại” của thúc phụ viết trong sách hôm qua con đọc.
- Nói cụ thể hơn cho ta nghe.
- Thưa thúc phụ, con đang lúng túng, chưa biết vận động kết hợp trong ngoài ra sao cho phù hợp với địa thế có ruộng, có đồi,  có sông, có biển như ở đây.
- Ta sẽ giảng cho con rõ: phép đánh trận có chính binh và kỳ binh, có lực lượng tiên phong và quân dự bị. Hãy xem xét địa thế ở đây thật kỹ, con sẽ mường tượng ra ba điểm có địa hình đặc biệt mà tùy nghi bày binh, bố trận. Trên các sườn đồi, con chọn những đội binh tinh nhuệ đào hố ẩn nấp để ém quân chờ dịp xuất thần độn thổ xông ra. Ở cửa sông, con lập một thuỷ trại thành thế ỉ dốc làm lực lượng dự bị. Nơi quyết chiến với giặc theo phép “Lưới trời yểm trại” con chọn ở đầm lầy, ruộng lúa kẹp giữa hai sông Vu Gia và Thu Bồn. Phép làm trại, trước lấy dây gai làm lưới thật to, bốn mặt đều có mảnh tre làm nẹp, bốn góc lại có vòng sắt, mỗi vòng đường kính rộng chừng hai tấc.
Bốn bên lưới ấy, chia đều trên mặt đất làm bốn góc, mỗi góc đóng hai cọc cao hai thước, cách nhau một thước, đầu cọc đục xuyên một lỗ chừng một tấc năm phân, hai lỗ ở hai cọc đồng tâm với nhau, bốn góc đều thế. Con dùng gỗ dài đẽo bốn cái cột neo, mỗi cái dài tám  thước, một đầu đóng cốt sắt vào (to một tấc chín phân), còn đầu kia đục lỗ to hai tấc xuyên ngang. Con lại lấy thanh gỗ cứng dài một thước sáu tấc, rộng một tấc chín phân, bốn góc lưới làm đủ như thế. Đến khi dùng, trước hết đem neo để ở quãng giữa hai cái cọc, lấy thanh gỗ rắn cắm vào như hình cái chàng xay, rồi lấy cán gỗ đầu neo cắm vào vòng sắt ở bốn mặt lưới và giương lưới lên cao. Sau đó dùng bốn cây nống mà nống bốn cái neo lên, lại lấy bốn sợi dây chão buộc vào chân cây nống kéo ra. Xong rồi, con lấy một mảnh ván vuông hai thước, bốn góc mỗi góc dùi hai cái lỗ, đem đặt lên mặt hố vuông sâu hai thước trên nhỏ dưới to, rồi kéo dây buộc vào các lỗ đã dùi sẵn ở bốn góc tấm ván. Trên lưới treo các thứ đao, thương, tên, đá và bên ngoài lưới làm sẵn các lều trại giả như ém quân trong đó để nhử giặc đến. Quân giặc đang kiêu, tham lợi hùa nhau xông vào cướp trại, xéo vào tấm ván vuông, ván sập xuống, dây giật cây nống bốn mặt đổ xuống như lưới bẫy chim sẻ, giặc tha hồ mà kêu gào, giãy dụa.
Duy Từ giảng tiếp:
- Phép “Lưới trời yểm trại” của ta chỉ dùng bẫy giặc vào ban đêm, ở nơi đầm lầy hay ruộng lúa. Khi quân giặc bị sập bẫy, đội hình rối loạn thì các đội kỳ binh ẩn nấp trên sườn đồi cùng nhất loạt khua chiêng, đánh trống mà ào xuống, phối hợp với quân ở đầm lầy vây bọc trong ngoài quyết chiến. Lúc này quân ở thuỷ trại ngoài cửa biển theo pháo lệnh chia thuyền thành hai mũi tiến vào hai dòng sông Vu Gia, Thu Bồn để tiếp ứng, truy kích giặc...
Mờ sáng hôm sau, Duy Từ và Hữu Tiến vái chào gia đình phú hộ họ Cao, hăm hở đi về chùa Long Hưng. Nàng Vân lưu luyến tiễn chân hai người ra tận cổng làng, nước mắt lưng tròng. Duy Từ cầm tay nàng an ủi, hẹn trong vài ngày sẽ quay lại. Nàng gục đầu trên vai ông thổn thức không muốn rời xa. Cô bé Thu Hương cũng quấn quýt bên Hữu Tiến, muốn theo cậu lên chùa. Duy Từ bồi hồi xúc động. Ông thoáng nghĩ về Thục Nga, thầm cầu khấn nàng linh thiêng hãy về chứng giám cho cuộc tình của ông với nàng Vân mà sau này tác hợp cho Hữu Tiến với bé Hương, để gắn kết mãi mãi các thế hệ mai sau trong một mái nhà chung của những kẻ mồ côi, bất hạnh vì chiến tranh tàn khốc. Cuộc đoàn tụ của ông với sư Tuệ Năng ở chùa Long Hưng suốt mấy ngày sau đó đã bù đắp những tháng năm cô đơn, đem lại cho ông niềm tin vào cuộc đời, nuôi lớn trong ông khát vọng mở cõi ...
Khán lý cống [1], quận công Trần Đức Hòa nhận được thư báo hỉ của người anh em họ ngoại dưới quê là Cao Nham, vui như mở cờ trong bụng. Ông lật đật vào phủ chúa xin ra mắt Nguyễn Phước Nguyên. Dẫu chỉ là người trông coi việc thu thuế, vận lương cho chúa Sãi, nhưng ông vốn quê ở Quảng Nam, thời gian Phước Nguyên làm Tổng trấn đất Quảng có quan hệ thân thiết với gia đình họ Trần, tình như thủ túc, nên khi chúa lên kế nghiệp có ý muốn cất nhắc. Theo quy định thời chúa Tiên, nghiêm cấm việc bổ nhiệm đặc cách vào những chức quan từ tam phẩm trở lên, nếu người đó chưa có công lao gì đặc biệt. Vì vậy chúa Sãi tạm giao cho Trần Đức Hoà chức Khán lý cống,  tuy đứng vào hàng tứ phẩm, nhưng ông được phép ra vào phủ chúa bàn việc cơ mật như quan nhất phẩm, dần dần mới phong tước quận công. Chúa Sãi coi trọng ông không hề vì tình riêng mà sớm nhìn thấy ở con người này bản tính thận trọng, trung thực, hợp với công việc thu thuế, vận lương là chức quan dễ mắc vào tội tham nhũng, hối lộ. Mặt khác, ông xuất thân trong lớp bình dân, có quan hệ rộng với nhiều bậc trí giả ở các địa phương, sẽ rất cần cho việc tiến cử hiền tài ra giúp nước. Thời gian ở Quảng Nam, ông đã tiến cử tướng Nguyễn Hữu Dật làm gia tướng cho quan Tổng trấn Phước Nguyên. Đến khi Nguyễn Hoàng theo kế bày sẵn của Duy Từ ở chùa Tiêu Sơn, Nguyễn Hữu Dật đã lập công lớn, ém quân tại hòn đảo hoang ngoài cửa Ba Lạt, hộ tống chúa Tiên trốn vào Nam an toàn. Giờ đây, Hữu Dật đang đảm trách việc tuần phòng, trấn giữ vùng biên ải giáp ranh với xứ đàng ngoài không hề có một sơ suất nhỏ.
Dinh thự của chúa Sãi vừa được xây cất khá công phu, bề thế uy nghiêm không kém gì phủ chúa Trịnh ở kinh đô đàng ngoài. Năm ngoái, chúa kén người xem phong thuỷ, cho khởi công xây dựng ở địa phận xã Phước Yên thuộc huyện Quảng Điền toà lầu gọi là Bác Vọng, hàm ý chúa đêm ngày ngóng vọng các bậc chân tài, bác học theo về họ Nguyễn, đem lại quốc thái dân an, cương thổ mở rộng. Nguyễn Hoàng sinh hạ được mười công tử và hai công nữ, công tử thứ năm Nguyễn Hải phải để lại Đông Đô làm con tin cho chúa Trịnh, công nữ Ngọc Tú cũng gả cho Trịnh Tráng để làm mối giao hoà giữa hai họ Trịnh - Nguyễn. Đồn rằng kể từ khi sinh hạ công tử thứ sáu là Nguyên mới bắt đầu dùng chữ lót là Phước. Một đêm bà Nguyễn Thị nằm  mơ thấy chữ Phước rất to, lấp lánh hào quang rơi vào bụng mình thì chuyển dạ. Nguyễn Hoàng là bậc danh tướng dòng dõi thế gia, học vấn cao minh nên cho là điềm trời cho họ Nguyễn phước lộc để gây dựng sự nghiệp, hùng cứ phương Nam, bèn đặt tên cho con là Nguyễn Phước Nguyên. Từ đó, chúa Tiên hết lòng yêu thương chăm sóc Phước Nguyên, đặc cách giao việc dạy dỗ công tử thứ sáu cho trọng thần Nguyễn Ư Dĩ. Mười năm thử thách làm quan Tổng trấn Quảng Nam của Phước Nguyên rất đẹp lòng chúa Tiên. Ông thấy công tử dốc lòng chăn dân, khuyến nông, khuyến thương, mở mang hải cảng Hội An thông thương với các quốc gia trong vùng; bỏ tiền xây dựng và tu bổ các chùa chiền như Long Hưng, Bửu Châu... Khi chúa Tiên lâm bệnh nặng, ngài có ý muốn truyền ngôi cho công tử thứ sáu Phước Nguyên, gọi các đại thần Nguyễn Ư Dĩ, Tống Phước Trị, Mạc Cảnh Huống lại bên giường bệnh dặn dò: “Các ngươi đều là những trọng thần trung nghĩa, theo ta vào Nam đã mấy chục năm, cùng nhau kham khổ dựng nên cơ nghiệp. Nay ta đã 89 tuổi, chết chẳng ân hận gì, muốn giao gánh nặng cho Phước Nguyên, các ngươi nên đồng lòng hợp sức giúp đỡ nó hoàn thành sứ mệnh, phía Bắc giữ yên bờ cõi, phía Nam mở rộng vương quyền, để lưu danh sử sách”. Các đại thần đều khóc và quỳ xuống nhận lời uỷ thác. Chúa Tiên lại gọi Phước Nguyên bắt phải quỳ lạy tôn ba vị đại thần làm sư phụ, rồi ngài dặn tiếp: “Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung, anh em trước hết phải yêu thương nhau. Con giữ được lời dặn dó thì ta yên tâm về với tổ phụ. Đất Thuận - Quảng này phía Bắc có núi Hoành Sơn và sông Linh Giang, phía Nam có núi Hải Vân và sông Thu Bồn, sông Vu Gia, lại có núi Thạch Bi, rừng Đại Lộc nhiều lâm sản và quặng quý hiếm. Đây thật là nơi trời để dành cho người anh hùng dụng võ, xây bền cơ nghiệp. Vậy con phải chuyên tâm yêu dân, siêng năng luyện tập quân sĩ, kính trọng hiền tài để nước nhà cường thịnh. Đất này giữ vững không khó, nhưng muốn mở cõi vào sâu trong Nam hay lên Tây Nguyên cần có một nhân tài kiệt xuất. Lần ra Bắc thứ hai, ta may mắn gặp được tiên sinh Đào Duy Từ ở chùa Tiêu Sơn, trấn Kinh Bắc.  Nhờ có tiên sinh ấy mà ta thoát hiểm vào Nam, lại cài đặt được mạng lưới thám tử ngoài Đông Đô trong cái vỏ ngoài làm thương nhân. Thoắt đã hơn hai mươi năm ta chờ đợi mà Duy Từ vẫn bặt tăm. Thám tử ngoài Bắc cho biết sau khi gặp nạn ở bên Tàu, tiên sinh đã vào Nam mà sao chưa đến ra mắt ở phủ chúa. Khi xưa ở chùa Tiêu Sơn, ta có để lại bút  tích ghi bài thơ xướng hoạ giữa ta và tiên sinh họ Đào. Người này còn kém con một vài tuổi, nhưng đã là thầy ta, tất cũng là sư phụ của Phước Nguyên. Dù phải tát cạn biển Đông, con cũng phải cố tìm cho được tiên sinh Đào Duy Từ” ... Đó là vào năm Quý Sửu (1613). Chúa Tiên băng hà, Phước Nguyên  theo di chúc, sai người đi khắp nơi dò tìm không gặp được Đào Duy Từ.
Thoắt đã 6 năm mỏi mòn tìm kiếm, trông đợi mà chúa Sãi vẫn chưa hề nghe được tin tức gì của Đào Duy Từ. Nước nhà đang hưng thịnh, văn võ bá quan trong phủ chúa rất đông, thảy đều giỏi giang, trung tín, nhưng Phước Nguyên vẫn phân vân, lo ngại, khao khát có được một người cầm đầu họ để mở cõi. Các đại thần Nguyễn Ư Dĩ, Tống Phước Trị, Mạc Cảnh Huống... hoặc đã già, không còn đủ sức kham nổi việc lớn, hoặc đã về trời theo gót chúa Tiên. Nguyễn Hữu Dật là danh tướng tài ba nhưng uy tín và tầm vóc trí tuệ chỉ đủ làm tướng tiên phong đoạt thành, phá ải hay trấn thủ một vùng mà thôi. Nguyễn Phước Kỳ, con trai cả của chúa Sãi có tài cai trị dân nhưng chưa đủ sức chỉ huy các tướng đi mở rộng bờ cõi. Gần đây Phước Kỳ từ Quảng Nam sai người tâm phúc về báo, có một lão ngông chăn trâu cho nhà phú hộ họ Cao và sư Tuệ Năng ở chùa Long Hưng là những bậc kỳ tài. Đối với sư Tuệ Năng, Phước Kỳ đã nhiều lần tiếp kiến, tha thiết ngỏ lời, nhưng nhà sư một mực từ chối, chỉ xin được chuyên tâm truyền bá đạo Phật của Thiền phái Trúc Lâm, để người Việt và người bản địa sống hoà thuận với nhau trong một vương quốc thống nhất. Âu đây cũng là việc rất nên làm theo sở nguyện của chúa Tiên khi xây chùa Thiên Mụ. Riêng lão ngông chăn trâu kia có hành tung thật bí hiểm, nên Phước Kỳ đang còn e ngại chưa muốn gặp. Cách đây vài tuần, chúa Sãi cùng quận công Trần Đức Hoà ngồi thuyền du ngoạn trên cửa biển Tư Dung có nghe lũ ngư phủ người Quảng Nam hát bài “Tư Dung vãn” và bài “Ngoạ Long Cương vãn” ý tứ thâm trầm, tinh thần khoáng đạt,  một Nho sinh tầm thường không thể làm được, nói chi đến dân chài mỏng học. Chúa Sãi cho gọi vài người đến thuyền hỏi, họ đều đáp là thơ của lão ngông, chăn trâu ở bờ sông Vu Gia cho Cao Nham. Người này phải chăng là Đào Duy Từ mai danh ẩn tích nên mới hiểu rõ chúa Tiên qua bài “Tư Dung vãn”, lại còn tự ví mình như Khổng Minh tái thế qua bài “Ngoạ Long Cương vãn”? Nhưng Đào Duy Từ đã có bút tích của chúa Tiên ghi lại bài thơ xướng hoạ giữa hai người, cần gì phải mai danh ẩn tích làm kẻ chăn trâu?...
Trần Đức Hòa đến phủ xin ra mắt chúa Sãi, vừa hay viên thái giám thân cận của chúa bảo rằng chúa đang rất nóng lòng, định sai người tìm ông bàn việc. Thái giám dẫn thẳng ông ra vườn thượng uyển, thấy Phước Nguyên đang ngồi câu cá bên hồ nước, dáng vẻ đăm chiêu suy ngẫm điều hệ trọng quốc gia. Chúa vẫn buông cần, nhìn phao câu đang nhấp nháy, chỉ khoát tay ra hiệu cho Đức Hoà ngồi xuống gốc cây bên cạnh. Viên quận công hồi hộp trước không khí bốn bề tĩnh lặng và thái độ vừa thân tình, lại vừa ngỡ như không muốn ai cắt ngang dòng suy nghĩ của chúa Sãi. Chiếc phao câu chìm xuống đáy hồ, kéo căng sợi dây câu về một phía và chúa Sãi giật mạnh cần câu theo chiều ngược lại, quăng lên bờ một con cá chép đực có bộ vây rất đẹp. Chúa Sãi ngả người ra sau cười lớn, đứng dậy thân mật dắt tay Đức Hoà vào lầu thưởng nguyệt đã bày sẵn rượu ngon, thức nhắm. Đám cung nữ được lệnh lui hết, chỉ để lại viên thái giám tâm phúc đứng hầu rượu. Hai người thù tạc với nhau vài tuần rượu, Đức Hòa vẫn chưa hết hồi hộp, vì không phải ngẫu nhiên giữa kỳ bận việc thu thuế, quân lương mà chúa Sãi gọi mình đến chỉ để thưởng hoa, uống rượu. Đó không phải là tính cách của vị minh chúa đêm ngày lo toan việc nước, đau đáu tấc lòng cầu hiền tài giúp nước mà ông lâu nay vẫn hằng ngưỡng mộ. Hồi lâu chúa mỉm cười nhìn Đức Hòa hỏi:
- Khanh thấy bữa nay ta vui hay buồn?
- Bẩm, chúa công có cái thần khí vui ở bên ngoài, nhưng trong bụng lại đang bộn bề lo nghĩ. Thần muốn được cùng chúa công chia sẻ điều lo nghĩ ấy.
- Vậy khanh thử đoán xem ta lo nghĩ điều gì nhất?
- Bẩm chúa công! Hiện nay cả nước được mùa, thóc thuế kìn kìn nhập kho, cửa biển thuyền buôn tấp nập, trên núi nhộn nhịp khai mỏ vàng, mỏ sắt, rõ là thái bình thịnh trị. Điều chúa công lo nghĩ nhất hẳn là chưa có người đủ tài kinh bang tế thế, giúp chúa Bắc cự họ Trịnh, Namđi mở cõi.
- Giỏi lắm! Khanh đúng là người hiểu rõ bụng ta, từ thủa ta còn làm quan Tổng trấn Quảng Nam, không ai thân thiết với ta hơn khanh.
- Bẩm chúa công, thần đang muốn tâu bày việc hệ trọng.
- Ta với khanh thử cùng viết vào tay hai chữ xem sao.
Hai người viết xong, xoè tay ra đều thấy ghi “Lão Ngông?”, chúa tôi vui sướng cả cười. Chúa Sãi kể:
- Đêm qua ta mơ thấy một ông già hiện về cho ta một con cá chép hoá rồng bay lên cao giữa bầu trời có chín chữ "Phước" và mười ba chữ "Vương". Lát sau, con rồng biến mất, để lại trên bầu trời chín vì sao to sáng rực và mười ba vì sao cứ nhỏ và tối dần. Ta tỉnh dậy, chợt nghĩ đến người chăn trâu trên cửa biển Tư Dung. Vừa nãy, ta ngồi câu bên hồ, miệng niệm Phật mong người phù hộ, nếu giấc mơ linh ứng, ta gặp được hiền tài thì cho phép ta câu được một con cá chép như Lã Vọng đời Xuân Thu bên Tàu đã từng buông câu trên sông Vị.
- Bẩm chúa công! Vậy là giấc mơ đã linh nghiệm và chúa công cho rằng lão ngông chính là ông già nọ trong giấc mơ, người sẽ đem lại chín chữ "Phước" và mười ba chữ "Vương"[2] cho họ Nguyễn của chúa công?
- Đúng vậy, nhưng ta còn chưa hết băn khoăn.
- Thần cũng ngờ rằng tác giả hai bài thơ, kẻ đã tự ví mình là Gia Cát Lượng chính là Đào Duy Từ mượn đám ngư phủ đánh tiếng với phủ chúa.
- Nếu quả hắn là Duy Từ sao vào Nam đã lâu mà không mang bút tích của chúa Tiên gặp ta?
- Đấng trượng phu xưa nay không chịu hạ mình tiến thân bằng thư tiến cử của người khác. Thời Tam quốc, Bàng Thống có sẵn thư của Khổng Minh, nhưng gặp Lưu Bị vẫn giấu nhẹm, nên mới  phải đi làm huyện lệnh ở nơi hẻo lánh một thời gian.
- Nhưng hắn vào Nam tính đã gan chục năm, nếu có thực tài vẫn có thể không cần bút tích của chúa Tiên, gặp ta đàm luận khoe tài cơ mà? Bao năm nay ta treo biển cầu hiền ở khắp nơi, ai mà chẳng biết.
- Về điểm này thần cũng đã từng nghĩ như chúa công. Song từ lúc nhận được thư của người em họ Cao Nham dưới quê gửi lên thì thần đã ngẫm lại và có cách nghĩ khác.
- Khanh hãy nói rõ cho ta nghe đi.
- Bẩm chúa công! Trong thư Cao Nham mời thần về quê làm chủ hôn cho lão ngông với người con gái goá chồng của họ Cao là Thị Vân.
- Ta nghe nói Thị Vân tuy goá chồng nhưng rất xinh đẹp, giỏi cầm kỳ thi hoạ, lại con nhà giàu có, lấy đâu chẳng được tấm chồng. Nếu Cao Nham gả con gái cho lão ngông, ắt phải rõ lai lịch và tài năng của kẻ chăn trâu nghèo khó này.
- Theo Cao Nham kể, hắn có tên Trần Năng, quê ở làng Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn ngoài xứ Thanh. Có lần, vào bữa tiệc mừng thọ Cao Nham, hắn đã ngang nhiên bắt bẻ đám hủ nho trong làng, lời lẽ lưu loát, kiến thức sâu rộng, chưa từng thấy ai ở phương Nam được như vậy. Hắn đã từng chu du đi khắp buôn làng người Thượng ở nước Xá Lợi, Lâm Ấp, sau đó vào tận cực Nam của nước Thuỷ Chân Lạp rồi mới theo đường ven biển qua nước Chiêm Thành về Quảng Nam. Thần chợt nghĩ, sinh thời chúa Tiên kể rằng Đào Duy Từ giỏi binh pháp, lại rất am tường địa lý mọi miền lãnh thổ của xứ đàng ngoài, vì ông ấy thích đi chu du khắp thiên hạ để vẽ địa đồ và ghi chép phong tục dân quê từng nơi. Khi chúa Tiên gặp Duy Từ ở chùa Tiêu Sơn, Người đã thổ lộ ước vọng mở cõi vào Nam, được ông ta hết lòng ủng hộ. Theo đó mà xét, thần cho rằng có hai điểm để ta phỏng đoán Trần Năng với Duy Từ chỉ là một. Thứ nhất, Duy Từ cùng quê ở làng Hoa Trai, rất trùng hợp với lời kể của chúa Tiên về Duy Từ. Thứ hai, người giỏi binh pháp như Duy Từ, nếu vào Nam với ý định giúp chúa công mở cõi tất muốn mình am tường địa lý và nội tình các nước ở phương Nam, nên không thể đi theo lối cưỡi ngựa xem hoa mà vừa đi vừa nghiên cứu, ghi chép tỉ mỉ, nên thời gian phải đi gan chục năm. Thời gian này khá trùng hợp với những năm tháng chúa công tuân theo di chúc của chúa Tiên đi tìm kiếm Duy Từ. Còn Trần Năng thì lộ trình chu du sao giống với sự tưởng tượng của thần về nước cờ của Duy Từ đã đi đến vậy!
- Hay lắm! Nếu không có lá thư của Cao Nham và sự phân tích của khanh thì giấc mơ đêm qua cũng đã thúc giục ta sai khanh tìm rõ thực hư về người chăn trâu ở Quảng Nam rồi. Nay theo lời khanh vừa nói, có lẽ mười phần chắc tám đó là Đào Duy Từ. Vậy khanh hãy vì ta khó nhọc một chuyến, mời cho được người đó về phủ.
- Bẩm chúa công! Đó là phận sự của thần, đâu dám ngại gì đường xa vất vả. Hơn nữa, chúa công đã cho thần một cơ hội về thăm quê, dự hôn lễ của người thân trong gia tộc bên ngoại. Thần tin chuyến đi này sẽ có nhiều sự lạ.
Chúa Sãi giữ Trần Đức Hoà lại trong phủ uống rượu, dặn dò mọi nhẽ. Ngài cao hứng uống rượu, làm thơ, nói cười sảng khoái. Cuộc rượu gần tàn, chúa chạnh nhớ đến chúa Tiên Nguyễn Hoàng, đôi mắt ngấn lệ, xúc động ngâm bài thơ xướng họa giữa chúa Tiên và Duy Từ năm xưa:
Vó ngựa sườn non đá chập chùng
Cầu hiền lặn lội biết bao công
Đem câu phò Hán ra dò ý
Lấy nghĩa tôn Lưu để ướm lòng.
Đám cưới giữa lão ngông chăn trâu Trần Năng với nàng Cao Thị Vân được báo trước từ mấy ngày rằng sẽ có quan Khán lý cống, quận công Trần Đức Hòa về làm chủ hôn lễ, nên quan viên chức dịch và những người có máu mặt khắp vùng đều đến dự đông đủ. Sư Tuệ Năng ở chùa Long Hưng nghe tin rất mừng cho hạnh phúc muộn mằn của người bạn thủa ấu thơ. Nhà sư theo giới luật không thể dự hôn lễ, sai Hữu Tiến đem đến mừng bạn cũ bằng một bài thơ “Xuân muộn” của  Thiền tổ Trần Nhân Tông, được Tuệ Năng viết trên tấm lụa, nét chữ bay bướm như rồng lượn:
Tuổi trẻ sao từng hiểu sắc không
Cả xuân hoa nở ngất ngây lòng
Đến nay đành rõ mặt xuân ấy
Nệm cỏ giường Thiền ngắm rụng hồng.
Hết thảy quan khách trong tiệc cưới không ai hiểu hết ý nghĩa sâu xa của bài thơ Thiền do chính tay sư Tuệ Năng đề tặng chú rể. Riêng có Đào Duy Từ nghẹn ngào xúc động ôm lấy Hữu Tiễn nói nhỏ: “Phụ mẫu sinh ra ta, nhưng người hiểu và thương ta nhất chỉ có sư Tuệ Năng”. Suốt buổi tiệc cưới Trần Đức Hòa rất kiệm lời, chỉ quan sát kỹ từng cử  chỉ, lời nói của chú rể. Ông đã được chúa Sãi cho xem bản tấu trình của công tử Phước Kỳ về tài năng, đạo hạnh của Thiền sư Tuệ Năng. Tình bạn keo sơn giữa chú rể với nhà sư, người được Phước Kỳ nhận xét chắc nịch rằng nếu có được Tuệ Năng phò tá có nghĩa là được nửa thiên hạ, ắt hẳn chú rể cũng không phải kẻ tầm thường. Tận mắt chứng kiến sức hút kỳ lạ của chú rể với mọi người từ bậc cao sang đến kẻ tiện dân, từ người cao niên đến đám trẻ thơ, ông càng tin chắc Trần Năng với Duy Từ chỉ là một. Đợi cho quan khách về hết, chủ nhà Cao Nham mới bố trí một căn phòng riêng để Trần Đức Hòa đàm đạo với chú rể. Lúc này được nghe Đức Hoà nói rõ hết tâm nguyện của chúa Sãi, tha thiết cầu hiền và suốt hơn chục năm vâng theo di huấn của Nguyễn Hoàng, đau đáu trông đợi Đào Duy Từ như người khát tìm nước, chú rể Trần Năng bồi hồi xúc động. Ông nhận mình chính là Đào Duy Từ và đưa cho Đức Hoà xem bút tích của chúa Tiên. Hai người vui vẻ đàm luận say sưa khiến bà Cao Nham cầm lòng không được, bạo gan bước vào, nhắc quan quận công đã đến giờ giao loan hợp cẩn của cô dâu chú rể...
Hôm sau, một chiếc thuyền lớn neo đậu ở sông Vu Gia đón vợ chồng Đào Duy Từ đem theo cả Hữu Tiến và bé Thu Hương xuôi ra cửa biển, dong buồm về Thuận Hóa. Tạm thời gia quyến của Duy Từ ở lại dinh thự của quận công Trần Đức Hòa, còn hai người đi vội vào phủ chúa ra mắt Phước Nguyên.
Chúa Sãi đang vui đùa với hai cung nữ. Nghe có khách quý đi cùng Trần Đức Hòa xin gặp, chúa vội ra tiếp, mặc nguyên bộ đồ ngủ bằng lụa trắng. Duy Từ nhác trông thấy chúa Sãi liền nghiêm mặt dừng lại rồi quay gót lui ra. Đức Hoà sợ hãi chạy theo níu lại trách:
- Tiên sinh sao dám vô lễ với chúa công?
- Người đã không biết lễ sao còn trách ta vô lễ!
- Tiên sinh nói vậy là cớ làm sao?
- Bộ đồ kia chỉ dùng để ôm mỹ nữ trên giường hay tiếp kẻ nô bộc chứ đâu phải dùng tiếp kẻ sĩ trong thiên hạ.
Chúa Sãi nghe nói vậy vội chạy vào nhà thay áo đại lễ ra sân, nắm chặt tay Duy Từ, sượng sùng nói:
- Ta đợi tiên sinh đã bao lâu rồi, nay được gặp mặt, mừng quá quên cả lễ quân thần. Sao tiên sinh đến chậm thế?
- Bẩm chúa công! Lễ được đặt ra từ thời Chu Công, sau được Khổng Tử và các bậc tiên hiền công phu biên soạn và bổ sung sao cho trật tự phân minh, phép tắc quy củ, làm sao có thể tuỳ tiện mà nên nghiệp lớn được.
- Ta biết lỗi rồi, xin tiên sinh đừng giận.
Chúa tôi vui vẻ cười to, cùng sánh vai bước vào điện, nhưng Duy Từ vẫn giữ lễ bước lùi sau chúa nửa bước. Đức Hòa thấy vậy cũng giật mình bẽn lẽn lùi theo, không dám sánh vai cùng chúa. Khi mọi người đã an toạ, phân định ngôi thứ ngồi xuống ghế, chúa Sãi ôn tồn nói:
- Hôm nay gặp mặt, ta muốn tiên sinh trước hết nói cho nghe về đạo trị nước của bậc quân vương.
- Bẩm chúa công! Thần thiết nghĩ, vua chúa với thứ dân cũng đều là người cả. Vậy trước khi nói về đạo trị nước hãy nói đạo làm người đã. Khổng - Mạnh hay Tống Nho đều đã bàn nhiều về cái lẽ Tu - Tề - Trị - Bình, phàm người quân tử ai cũng học qua, nhưng ít ai hiểu cho cùng nhẽ. Từ nhỏ, thần đã được sư phụ là đại sư Duy Giác thâu tóm nôm na cái đạo lý ấy rằng Tu - Tề gồm có chữ Nhẫn và chữ Xỉ, còn Bình - Trị gói trong sự điềm đạm. Nhẫn thì việc khó mấy, cảnh khổ đến đâu cũng vượt qua. Xỉ thì biết rèn đức cho mình, tín lễ với người. Điềm đạm là cái gốc của sự thành công trong mọi việc lớn nhỏ. Điềm đạm thì nóng giận không trào sôi, yêu thương ghìm nén trong lòng, thắng không kiêu, bại không nản, lo kỹ việc gần và tính kỹ việc xa, khoan dung độ lượng, thong dong nhàn tản, không nôn nóng và cũng không rềnh rang bỏ lỡ thời cơ khi hành sự...
Đạo Phật của Thiền tổ Trúc Lâm dạy rằng, đã tự giác rồi phải giác tha. Nếu chúa công có được những điều ấy, rồi lại giác ngộ cho quần thần đến thứ dân đều noi  theo mình mà phấn đấu, đó chính là chuyển đạo làm người thành đạo trị nước. Đơn giản vậy thôi!
- Nay ta kế nghiệp chúa Tiên, chuyên chế một vùng Thuận - Quảng, tiên sinh có kế sách gì hay xin chỉ bảo.
- Đối nội, thần xin hiến mấy chữ: cải cách chính sự, khuyến nông - công - thương, xây nền văn hiến.
- Thế còn đối ngoại?
- Thần lại có sáu chữ: Bắc hoà Trịnh, Nam mở cõi.
- Kế sách của tiên sinh rất hợp ý ta, nhưng cô đọng trong mấy chữ làm sao kiến  giải?
- Bẩm chúa công! Đạo học của thần chuộng sự thực hành, ưa lời dân dã, không quen thói hễ mở mồm là thánh phán thế này, Phật dạy thế kia để lấp đi sự nông cạn, che giấu cái tâm bất định, cái tính hiểm độc, cái khí bạc nhược. Ngay cả những chữ thần vừa hiến kế cũng phải tùy thời mà biến đổi, tuỳ nghi hành sự sao cho hợp đạo trời, ý phật, lòng dân mới mong đạt tới quốc thái dân an, vương triều cường thịnh. Nói về đối nội, Đại Việt ta từ thời vua Tương Dực, Uy Mục đến nay chính sự đổ nát, pháp luật buông lỏng, quan thì tham nhũng, dân thì rên xiết dưới ách cùm kẹp và sưu cao, thuế nặng, lại thêm bao nhiêu khoản đóng góp vô bổ cả về tài vật lẫn sức người. Phàm là dân ai cũng muốn yên ổn, no đủ, tự do. Phàm là quan ai cũng muốn lạm quyền để sinh lợi. Vì vậy pháp luật phải nghiêm, chi ly đến căn tơ kẽ tóc để không có kẽ hở về quyền và lợi cho nạn tham nhũng. Bộ máy cai trị phải gọn nhẹ, trong sạch, lấy quyền áp chế quyền, lấy hiệu quả để làm thước đo tài trí, lấy đức để cảm hoá đức. Chính sách phải linh hoạt, mềm dẻo, thích ứng với từng nơi, từng lúc, lại biết hài hoà với tập tục của các tộc người. Tuy nhiên tùy nghi chứ không tùy hứng, hình luật về cơ bản phải ổn định lâu dài. Cai quản đất nước mà tùy hứng thay đổi luật, nay thế này, mai thế khác là điều ngu xuẩn nhất, trật tự sẽ rối như canh hẹ. Toàn bộ vương pháp và bộ máy vương quyền phải được cải cách theo các tiêu chí vừa đặt ra ở trên, để khuyến khích dân thi đua làm giàu bằng các hoạt động nông - công - thương, tất yếu dân giàu thì nước mạnh, vương triều bền vững. Lại nói về văn hiến, xứ Thuận - Quảng vốn là đất cũ của người Chiêm, nay người Việt di cư vào mỗi lúc thêm đông đúc. Thời cuộc rồi đây biến đổi, có thể người Việt sẽ còn ở lẫn với người Thượng ở Tây Nguyên, người Môn - Khơ Me ở đồng bằng Cửu Long Giang. Mỗi tộc người đều có văn hoá riêng để gắn kết nhau lại trong đời sống tâm linh. Người Môn - Khơ Me có văn hoá Phù Nam, người Chiêm có văn hoá Chàm Tháp, người Thượng có văn hoá Cồng Chiêng... đâu có thua gì văn hoá Đại Việt. Nay chúa công muốn hùng cứ phương Nam, biên cương mở rộng tất phải tôn trọng mọi nền văn hoá bản địa, xây đắp một nền văn hoá chung bao quát tinh hoa của hết thảy các tộc người. Sức mạnh vật  chất chỉ chiếm được đất,  còn văn hoá rực rỡ mới chiếm được tâm linh. Sử sách đã từng ghi nhận người Mông chiếm được Trung Nguyên, nhưng vì thua kém về văn hoá, cuối cùng bị người Hán đồng hóa và bị  Minh Thành Tổ đuổi ra khỏi bờ cõi. Theo chủ kiến của thần, chúa công có thể dùng đạo Phật làm sợi dây kết nối các nền văn hoá ở phương Nam trong nền văn hiến chung của vương triều nhà Nguyễn. Muốn vậy thì Phật giáo đại thừa ở phương Bắc và Phật giáo tiểu thừa ở phương Nam phải hoà nhập làm một, đem những giáo lý của Thiền tông Trúc Lâm khai mở tâm linh người Việt di cư để họ sống hoà thuận, kiêm ái tương lợi với các tộc người bản địa, lập tức các nền văn hoá sẽ giao hỗ tương đồng thành một di sản chung ngày thêm  rực rỡ.
- Có người bẩm với ta rằng, Thuận - Quảng giờ đây đã thành quốc gia độc lập. Đất này nhờ ơn đức của chúa Tiên và hơn chục năm ta kế nghiệp nỗ lực phấn đấu nên mùa màng bội thu, quốc khố đầy ắp, quân đông tướng giỏi, há sợ gì chúa Trịnh đàng ngoài mà phải giao hảo?
- Người ấy tuy biết một mà chẳng rõ hai. Thần xin hỏi lại: so với chúa Tiên thì chúa công thế nào; còn đem so sánh Trịnh - Nguyễn hai họ mạnh yếu ra sao?
- Ta so với chúa Tiên, chí hướng có thể nối, nhưng uy tín và đảm lược chưa bằng. Trịnh hơn ta ở chỗ mượn danh vua sai khiến chế ngự thiên hạ và đất rộng người đông. Nhưng họ thua ta ở  chỗ ta quan với dân trên dưới một lòng, khác với họ vua tôi nghi kỵ, lòng dân ly tán. Xét về mọi mặt Trịnh - Nguyễn ngang nhau, kẻ tám lạng người nửa cân.
- Như vậy đã rõ. Chúa Tiên Nguyễn Hoàng tài năng, đức độ và uy tín vượt trội mà vẫn phải hai lần ra Bắc xưng  thần, gửi con trai làm tin, gả con gái cho họ Trịnh để giao hảo, đủ thấy chúa Tiên sáng suốt nhường nào, thời thế thế thời phải thế. Lực lượng hai bên chúa công cũng nhận ra đôi bên ngang nhau và có thể Trịnh nhỉnh hơn ta một chút. Vạn nhất chiến tranh nổ ra, hai bên giằng co, chiến sự kéo dài, sinh linh điêu đứng, giang sơn đổ nát. Đại Việt từ ngày họ Mạc cướp ngôi, chiến tranh Lê - Mạc kéo dài hơn sáu mươi năm có biết bao người ngã xuống, biết bao vợ goá con côi, gia đình lưu lạc. Máu xương Nam - Bắc đâu cũng là của con dân nước Việt. Chiến tranh với người cầm đầu sẽ có bên thắng bên thua, nhưng dân chúng bên nào cũng mãi là kẻ chiến bại. Sau này, khi điều kiện cho phép, thần xin chúa công chỉ cần xua quân ra chiếm nốt một phần lãnh thổ bờ Nam sông Linh Giang rồi đổi tên sông thành sông Gianh để mượn thế cách sông cự địch là đủ. Khi ấy, dẫu chỉ là trận đánh nhỏ  thần vẫn mong rằng sẽ giảm thiểu đến mức tối đa thiệt hại sinh mạng của binh lính và dân chúng trong vùng.
Quận công Trần Đức Hoà ngồi bên cạnh chúa Sãi, nghe Duy Từ thuyết giảng càng thêm bội phần yêu mến, khâm phục ông. Ba người đàm luận sôi nổi về đường đi nước bước của quá trình cải cách xã hội phương Nam. Có lúc chúa tôi tranh biện với nhau bình đẳng, không cần e dè, câu nệ cả về những điều quan hệ đến nội bộ gia tộc của phủ chúa. Khi chúa Tiên băng hà, bốn người anh của chúa Sãi là Hà, Hán, Thanh, Diễn đều đã chết, còn anh thứ  năm là Hải bị cầm giữ làm con tin ở Đông Đô. Sự biến năm Canh Thân (1620) do hai công tử Phước Hiệp và Phước Trạch ngầm thông gian với chúa Trịnh để làm loạn, hai người bị chết, bè đảng của họ đều bị diệt hết là một bài học đau xót đối với chúa Sãi. Quyền lực là thứ  cám dỗ mạnh nhất đối với con người. Nó chỉ bị đè bẹp khi công cuộc cải cách bắt đầu từ hoàng tộc ra đến triều thần, rồi mở rộng ra toàn xã hội. Phương châm chiến lược hòa hoãn với chúa Trịnh, Phước Nguyên đã có chủ định từ lâu. Ông chỉ ướm hỏi Duy Từ để có thêm một cách kiến giải mới và thông tuệ của con người từng được chúa Tiên hằng ngưỡng mộ. Cuộc đàm luận thâu đêm xoay dần vào điều cốt yếu mà chúa Tiên, chúa Sãi đều mong đợi ở tài năng quân sự của Duy Từ.
- Việc mở cõi vào Nam, tiên sinh đã đi nhiều, biết rộng, có cao kiến gì chăng? - Chúa Sãi hỏi.
- Tránh được chiến tranh mặt Bắc, lại phát động chiến tranh ở mặt Nam, có hợp với mệnh trời, nêu cao đại nghĩa? - Quận công Trần Đức Hòa thắc mắc.
Đào Duy Từ mỉm cười, ung dung mở tấm bản đồ lãnh thổ phương Nam do ông dày công nghiên cứu, vẽ lại trong nhiều năm chu du khắp các tiểu quốc trước sự kinh ngạc  của chúa Sãi. Đợi cho mọi người xem kỹ từng nét vẽ, địa danh, thành trì và các đường bộ, đường sông, đường biển, ông từ tốn nói:
- Bẩm chúa công! Một dải hẹp phương Nam chạy dài theo bờ biển, từ sông Linh Giang đến đồng bằng Cửu Long Giang mà có đến năm tiểu quốc. Ngoài xứ Thuận - Quảng của ta là còn khả dĩ về tài lực ra, các nước Xá Lợi và Lâm Ấp ở Tây Nguyên, Chiêm Thành và Thuỷ Chân Lạp ở ven biển đều đang suy yếu. Người Việt từ cuối đời Trần bao cuộc loạn ly, đã di cư vào bốn nước này khá đông. Gần đây trong cuộc chiến Lê - Mạc, dân nghèo hai xứ Thanh - Nghệ lại ào ạt những đợt sóng di cư vào Nam. Người Thượng ở Tây Nguyên dân trí thấp kém, canh tác lạc hậu và chia thành nhiều bộ tộc cát cứ làm suy yếu vương quyền ở kinh đô đã đành một nhẽ. Hai nước Chiêm Thành và Thuỷ Chân Lạp có nền văn hiến rực rõ lâu đời, đất đai màu mỡ, dân chúng kiệm cần, nhưng vua quan sa đọa, chính sự nát như tương, nên cả người Việt di cư lẫn người bản địa đều đói khổ, chán ghét và oán giận triều đình. Nguy cơ diệt vong của bốn nước kia đã hiện rõ từ lâu. Thời cuộc ngày nay đã đổi khác. Họa xâm lăng của xứ Thuận - Quảng và bốn nước nhỏ yếu kia không phải chỉ có từ phía chúa Trịnh, cũng chưa phải từ phía nước Tàu vì nhà Minh bên đó đang bị người Mãn quấy rối ở biên thuỷ, lăm le vào cướp Trung Nguyên. Nguy cơ xâm lấn lâu dài và lớn nhất hiện nay của năm nước nhỏ phương Nam này là từ phía biển. Người Tây dương đã chế được tàu lớn vượt  biển đi xa hàng vạn dặm. Họ có súng to, súng bé có thể bắn phá thành trì, sát thương nhiều người một lúc từ tàu chiến neo đậu ngoài biển. Đảo quốc rộng lớn của người Chà Và [3] rất gần ta, đã mất vào tay người Hòa Lan. Thử hỏi nếu giặc Tây dương đến xâm chiếm lần lượt bốn nước kia, thì Thuận - Quảng của ta bé bằng bàn tay trên bản đồ này làm sao giữ được. Ta chủ động mở cõi sát nhập bốn nước kia vào chung một vương quyền, trước là cứu khổ cho dân chúng bản địa và người Việt di cư, sau nữa là tạo thế mạnh gom lại của năm nước để chống giặc Tây dương, chính là nêu cao đại nghĩa giúp người và tự cứu lấy mình. Chiến tranh đương nhiên là tàn khốc, nhưng ta đang ở thế bắt buộc phải mở cõi. Cái điều nhân nghĩa cũng giống như cõi Phật vậy, nó ở trong tâm ta, chẳng phải ở trong những câu chữ giáo điều, lời nói hoa mỹ.
- Nếu ta tiến quân vào Nam đi mở cõi, tiên sinh định liệu việc quân cơ, kế sách thế nào? - Chúa Sãi hỏi tiếp.
- Bẩm chúa công! Nhìn trên bản đồ ta thấy hai nước Xá Lợi và Lâm Ấp núi cao hiểm trở, rừng già rậm rạp, ít ai ngờ nhất ta nên đánh trước. Chiếm được cao nguyên, từ đó chĩa các mũi quân chia cắt nước Chiêm Thành làm ba khúc đánh chiếm dần dễ như trở bàn tay. Từ nước Lâm Ấp ở đèo Bảo Lộc và từ nước Chiêm Thành ở phủ Ninh Thuận ta dồn binh tập kết, chờ đạo thủy binh vào phối hợp, làm gì chẳng đánh chiếm được nước Thủy Chân Lạp. Quân đi đến đâu, chúa công cho người Việt di cư đến đó làm ăn, lại cho binh lính già yếu hoặc bị thương tật ở đó lập đồn điền, cưới vợ người bản địa mà định cư lâu dài; nghiêm cấm người Việt và binh lính xâm phạm tập tục, tín ngưỡng của địa phương, cùng họ chung sống hoà hiếu theo tinh thần “Lục hoà” của phật giáo là “Thân hòa - Khẩu hòa - ý hòa - kiến hòa - giới hòa - lợi hòa”... Thần tin chắc người Nam sống hiền hoà, nhân hậu sẽ sớm tiếp nhận người Việt vào cộng đồng của mình, nhiều cộng đồng hoà hợp sắc tộc gom lại thành quốc gia thống nhất, dưới một vương quyền sáng ngời nhân nghĩa không gì phá vỡ nổi.
Chúa Sãi nghe xong rất hài lòng, ân cần mời mọc, tiếp rượu hỏi han gia quyến của Duy Từ. Hai người kết nghĩa anh em thề cùng chia sẻ hoạn nạn, chung hưởng phú quý. Hôm sau, chúa Sãi hội họp đông đủ bá quan văn võ, phong Đào Duy Từ làm quân sư tước Lộc Khê hầu, có phủ đệ riêng, tự do ra vào phủ chúa.
Ghi chú:
[1] Khán lý cống: chức quan trông coi việc thu thuế, lương thảo.
[2] Chín chữ Phước và mười ba chữ Vương: sau này linh ứng với 9 đời chúa, 13 đời vua nhà Nguyễn.
[3] Chà Và: Indonesia
Chương 10
HỒI THỨ MƯỜI
Nam Vương tặng mâm vàng hai đáy
Bắc Chúa đành ngậm đắng bãi binh
Mùa xuân năm Ất Sửu (1625), chúa Sãi gặp được Duy Từ như rồng gặp mây, cá gặp nước, hết lòng khoản đãi. Phủ chúa mở ba ngày một tiệc nhỏ, năm ngày một tiệc lớn để Phước Nguyên cùng Duy Từ ngâm thơ xướng hoạ, đàm đạo về tam giáo và binh pháp. Có đêm chúa giữ Duy Từ ngủ lại trong phủ, nằm chung một sập để tâm tình cả chuyện riêng tư. Quan hệ giữa chúa Sãi với Duy Từ càng thân thiết, càng khiến cho các vị công tử trong vương thất, đại thần trong triều có phần ganh ghét. Người đem lòng thù hận Duy Từ nhiều nhất là công tử Phước Anh, thứ đến nàng Tống Mỹ Hoa, vợ của công tử Phước Kỳ. Phước Anh tâm địa hiểm độc, thấy chúa Sãi đã cao tuổi, còn công tử trưởng Phước Kỳ thường xuyên đau ốm nên rắp tâm gây dần thế lực, mua chuộc các đại thần, tung tin bịa đặt để bêu riếu công tử Phước Lan. Trong nhà của Phước Anh nuôi sẵn nhiều tay kiếm thuật siêu hạng nhưng rất dữ dằn, chờ dịp sử dụng hành thích những ai cản đường mình kế nghiệp ngôi chúa. Nhiều lần Phước Anh kiếm cớ qua lại thăm hỏi, quà cáp, nhưng Duy Từ đều lạnh nhạt, nghiêm mặt nhắc nhở. Chúa Sãi theo lời khuyên của Duy Từ đuổi hết đám môn khách trong nhà Phước Anh và nghiêm cấm các quan không được kéo bè, kết đảng với người trong vương thất. Công cuộc cải cách do Duy Từ phát động chạm đến lợi ích sát sườn của gia tộc họ Tống nên nàng Mỹ Hoa cũng ngấm ngầm phản đối. Tống Kiến Tường vốn là thương nhân người Quảng Đông, sang đất Nghệ An buôn bán, rồi thấy xứ đàng trong có cảng biển Hội An dễ kiếm ăn nên rời gia đình đến đó. Họ Tống có truyền thống kết hợp quyền lực vào trong việc buôn bán để độc quyền thao túng giá cả một số ngành hàng quan trọng. Ông nhờ cậy đại thần Nguyễn Phước Khê, con trai út chúa Tiên làm mối, gả nàng Mỹ Hoa cho công tử Phước Kỳ. Mỹ Hoa xinh đẹp, lẳng lơ, thường hay liếc mắt đưa tình, quyến rũ cả hai em chồng là Phước Lan và Phước Anh. Quan tổng trấn Quảng Nam Phước Kỳ cai trị dân đúng phép tắc, không vị tình riêng khi giải quyết việc công, lại hết lòng ủng hộ cuộc cải cách của Đào Duy Từ. Từ năm Canh Thân (1620), cha con Tống Thị thông qua quận công Phước Khê, bẩm với chúa Sãi ra sắc lệnh độc quyền thu mua sản vật khai mỏ và nhiều loại lâm sản quí hiếm. Chúa nghe lời, sai lập “Nhà Đồ” ở các nơi để thu mua, giao cho Tống Kiến Tường phụ trách.
Lệnh đã ban bố, dân không thể không chấp hành, nhưng muôn phần ấm ức, nhiều địa phương dân bị Tống Kiến Tường chèn ép quá đáng làm ngừng trệ sản xuất. Ở Quảng Nam, dân các hộ đãi vàng gọi là liêm hộ, mỗi người trong hộ hàng năm phải nộp 2 đến 3 lạng vàng cốm. Các chủ mỏ vàng gốc ở Lỗ Động mỗi năm nộp 70 lạng, mỏ ở Thu Bồn mỗi năm nộp 80 lạng. Riêng chủ mỏ ở Tịnh Sơn trong Quảng Ngãi, vì chống đối với Tống Kiến Tường bị hắn nâng mức nộp lên 180 lạng. Mỏ sắt ở xã Phúc Điển, châu Bố Chính mỗi năm phải nộp 2000 khối, mỗi khối nặng 25 cân. Tệ nhất là ở xã Mậu Tài huyện Phú Vang có nghề truyền thống làm dây đồng thau, dây thép, cứ 100 cân đồng đỏ pha vào 40 cân kẽm làm được hơn 100 cân dây thau rất có giá trị cũng bị người “Nhà Đồ” xử ép khiến làng nghề có nguy cơ tan rã. Xã còn có thợ dát vàng, cứ 10 lạng vàng dát được 9 vạn lá vàng quì. Tống Kiến Tường đã bắt dân trong xã nộp hết sản phẩm cho hắn thu mua với giá rẻ mạt để bán cho tàu buôn nước ngoài. Ngoài ra, các sản vật như dầu gù hương, sáp ong, ngà voi, chiếu mây, sơn dầu, nhựa trám... nơi nào sản xuất đều bị cấm mang ra chợ bán, phải đem đến “Nhà Đồ” của Tống Kiến Tường bán với giá rẻ. Hàng hoá của các tàu buôn nước ngoài từ Phúc Kiến, Quảng Đông, Nhật Bản... chở đến cảng cũng do “Nhà Đồ” mua lại rồi đem bán cho các chủ hàng trong nước, nhưng thực chất lợi cho quốc khố một phần, còn lợi cho cha con Tống Thị hai, ba phần. Quan tổng trấn Quảng Nam Phước Kỳ thấy từ khi có “Nhà Đồ” việc khai mỏ, nghề thủ công và các thương cảng suy sụp rõ rệt. Ông lựa lời khuyên bảo cha con Tống Thị không được, nhiều lần bẩm với chúa Sãi, đều bị Phước Khê gạt đi. Khi quân sư Đào Duy Từ đề ra chính sách cải cách tô thuế và khuyến nông - công - thương nghiệp đã bẩm trình với chúa Sãi bãi bỏ các “Nhà Đồ”, cho dân tự do khai mỏ, chế biến quặng, làm các nghề thủ công với mức thuế giảm nhẹ, lập tức được Phước Kỳ tán thưởng, sốt sắng thi hành. Việc này không chỉ động đến quyền lợi của cha con Tống Thị mà can hệ đến cả một dây tham nhũng trong triều. Các quan  người ra mặt chống đối, người ngấm ngầm tìm cách gây cản trở. Có kẻ căm tức vì mất quyền lợi đã thuê kiếm khách người Hán nhiều lần lẻn vào phủ quân sư hành thích Duy Từ, may có đám bộ hạ của tướng Hữu Dật kịp thời giải cứu. Ngay như người có công tiến cử Duy Từ là Trần Đức Hoà cũng có nhiều điều ấm ức, không hài lòng với quân sư về cải cách. Nhớ hồi năm Mậu Ngọ (1618), chúa Tiên băng hà được mấy năm thì thuế ở Thuận - Quảng bị thất thu nghiêm trọng. Đức Hoà đã có sáng kiến bẩm với chúa Sãi tổ chức đo đạc lại toàn bộ công điền và tư điền ở các địa phương. Chúa khen ngợi Đức Hoà, giao việc này cho ông thực hiện. Nhờ sáng kiến này, những năm tiếp theo việc thu thuế đi vào nề nếp và tăng lên gấp bội. Nhưng việc đôn đốc giám sát khi đo ruộng vẫn còn có chỗ sơ hở. Các quan địa phương bảo nhau giấu đi một số diện tích ruộng công để thu thuế riêng cho mình, mức thuế ở các ruộng này lại rất tuỳ tiện, bắt chẹt dân nghèo không có ruộng hoặc dân di cư từ ngoài Bắc vào. Trong chuyến đi kinh lý, thị sát vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi, Duy Từ ghé thăm chùa Long Hưng, được già lam Huỳnh Bảo cho biết sự việc gian dối này. Ông hạ lệnh cho đo lại ruộng ở một vài nơi làm thí điểm. Đương nhiên các quan địa phương lâu nay gian lận thóc thuế được trót lọt, đều nhờ vào quan hệ đi lại hối lộ cho bạn bè hoặc người thân trong gia đình Trần Đức Hoà. Pháp luật không thể không nghiêm trị, nhưng Duy Từ vì muốn giữ thể diện cho bạn, chỉ nói riêng với Đức Hoà chuyện này, giao cho ông xử lý. Tuy vậy, Đức Hoà chưa thật bằng lòng với Duy Từ, giữa hai người nảy sinh mâu thuẫn, thỉnh thoảng đối chọi nhau khi bàn đến cải cách. Điển hình là chính sách thuế sai dư hay còn gọi là thuế thân, Duy Từ cho rằng chưa công bằng. Trước đây, chính sách thuế ở Thuận - Quảng qui định: Kẻ tráng đinh nộp hai quan, quân hạng nộp 1 quan 5 tiền, dân hạng nộp 8 tiền, còn các loại lão hạng, tật hạng, cố hạng đều nộp 5 tiền, loại cố cùng mạt hạng và  kép hát nộp 2 tiền. Đào Duy Từ xin chúa Sãi điều chỉnh cho lão hạng chỉ nộp 2 tiền, còn các loại khác (tật, cố, cùng hạng và  kép hát) đều cho miễn. Ngoài ra theo Duy Từ, thuế sai dư  nên phân biệt ra chính hộ và khách hộ. Chính hộ là dân đã định cư ít nhất năm năm trở lên sẽ đánh thuế theo qui định ở trên. Khách hộ là dân ngụ cư mới di đến từ ngoài Bắc hay từ địa phương khác, tất gặp nhiều khó khăn, nên cho giảm thuế sai dư  xuống còn một nửa trong thời hạn năm năm để họ an cư lạc nghiệp nơi đất mới. Đức Hoà không đồng tình, cho rằng như vậy sẽ tạo tiền lệ ưu đãi cho người Việt, bạc đãi người Chiêm và người Thượng. Hai bên tranh luận gay gắt, chúa Sãi phải đứng ra giảng hoà, rồi lẳng lặng phê duyệt vào tấu biểu của Duy Từ. Đôi lần chúa Sãi cảm thấy hoang mang, do dự, khuyên Duy Từ nên nhẹ tay cải cách từ từ, để tránh được mũi nhọn công kích từ nhiều phía và gây khó xử cho phủ chúa. Ông ôn tồn hỏi lại:
- Chúa công muốn theo nền chính sự vương đạo hay bá đạo?
- Tiên sinh hiểu ta muốn gì rồi, sao còn hỏi nữa!
- Người theo vương đạo thì cải cách chính sự vì dân chứ không vì các quan hay vì mình. Phàm đã là cải cách thì phải kiên quyết vứt bỏ nhiều cái cũ, cái hủ lậu, thói hư tật xấu đặng xây dựng nên cái mới, cái tiến bộ. Cải cách nửa vời sẽ xới lên một mớ bòng bong làm loạn xã hội, chẳng thà đừng làm còn hơn. Cải cách triệt để, toàn diện đương nhiên vấp phải nhiều sự chống đối, có khi quyết liệt.
- Chẳng lẽ những người thân tín như Đức Hoà hay các công tử cũng là đối tượng của tiên sinh và ta, nếu họ phản đối cải cách?
- Người có tâm, có đức như quận công Trần Đức Hoà sớm muộn sẽ hiểu thần. Những ai cố tình không hiểu, cố tình cản đường cải cách, cho dù là hoàng thân quốc thích, xin chúa công đừng tin nghe theo họ mà hỏng việc lớn...
Công cuộc cải cách đang tiến triển thu nhiều thắng lợi, nhưng cũng gây ra không ít xáo trộn trong hàng ngũ các quan văn võ dưới quyền, khiến chúa Sãi vừa mừng vừa lo. Đương lúc như vậy, chợt được tin có sứ thần của chúa Trịnh cử vào. Ngày rằm tháng bảy năm Đinh Mão (1627), chúa Sãi lên điện có đông đủ bá quan văn võ đứng chầu. Quân sư Đào Duy Từ được đặc cách ban cho ghế ngồi đầu hàng quan văn, sát gần án thư của chúa. Sứ thần của Trịnh Tráng mang theo sắc dụ của vua Lê Thần Tông ban chức tước cho Nguyễn Phước Nguyên và lệnh cho Thuận - Quảng đưa con trai Phước Nguyên vào chầu làm con tin, lại phải nộp cho triều đình ở Đông Đô 30 thớt voi, 50 chiến thuyền và nhiều sản vật phương Nam khác. Các tướng Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Mỹ Thắng... bừng bừng tức giận, chỉ mặt sứ thần quát mắng, khiến Đào Duy Từ phải đưa mắt ra hiệu cho họ ngồi im. Chúa Sãi hiểu ý Duy Từ, ân cần tiếp đón sứ thần, mời ra quán khách nghỉ ngơi, lại ban cho vàng, lụa, gấm thêu và hẹn sau ba ngày sẽ trả lời. Sứ thần đi rồi, chúa Sãi hỏi ý kiến các quan văn võ dưới quyền nên nhận hay không nhận sắc. Các quan võ Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Mỹ Thắng, Mạc Cảnh Dinh, Trần Bảo, Nguyễn Tú, Nguyễn Cửu Kiều... đều hăng hái đòi tuyên chiến với họ Trịnh và khuyên Chúa không nhận sắc chỉ của vua Lê Thần Tông. Đám quan văn có nhiều người đố kỵ với Duy Từ, bảo nhau im lặng nhìn quân sư xử trí ra sao. Có người trong số họ mạnh bạo gợi ý sát sạt:
- Lâu nay chúng thần mừng vì Chúa công gặp được hiền tài giỏi giang, lắm mưu sâu kế lạ để trị quốc, an dân, mở mang bờ cõi, xin quân sư cho lời chỉ giáo để quần thần mở thêm tầm mắt.
Mọi người nghe vậy đều nhao nhao hùa theo. Đào Duy Từ vẫn thản nhiên ngồi, không hề bực tức. Ông đợi cho đám văn quan nín thở, giương mắt chờ đợi hồi lâu, mới điềm đạm cất lời:
- Bẩm Chúa công, thần nghĩ, ta nên nhận sắc mà thực ra cũng là không nhận.
- Quân sư nói gì mà ba phải, nước đôi thế thì sao đáng để triều thần tin ở tài của ông? - Phước Khê cười vang, ngắt lời.
- Lão ngông chăn trâu cho nhà phú hộ họ Cao ấy có tài đức gì mà ngồi ghế quân sư - Phước Anh đế theo.
Tống Kiến Tường khôn ngoan hơn, che miệng nói mát với mấy người xung quanh:
- Quân sư chắc có kế lạ, hãy để ông ấy nói rõ ra khắc biết. Chúng ta là kẻ học nông nghĩ cạn, hiểu sao được mưu kế của bậc kỳ tài.
Chúa Sãi thấy vậy tức giận đập bàn quát to :
- Các ngươi không được vô lễ! Xin quân sư hãy nói rõ cho ta nghe chủ kiến của tiên sinh.
- Bẩm Chúa công! Thần đã từng khuyên Chúa công mấy chữ, “Bắc hoà Trịnh, Nam mở cõi”. Hoà hoãn với Trịnh là chiến lược của ta để yên tâm kiến quốc, mở rộng biên thùy vào Nam. Vậy ta nhận sắc lúc này là việc đương nhiên để phục vụ cho kế sách hoà hoãn với Trịnh, theo di chúc của chúa Tiên. Nhưng thời thế bây giờ đã khác với thời của chúa Tiên. Xưa kia, chúa Tiên phải hai lần ra Bắc xưng thần là bởi tiếng rằng làm chủ phương Nam, nhưng thuộc tướng ba ty đều do họ Trịnh cất đặt để kiềm chế, giám sát chúa Tiên: thời vua Thế Tông có Ma Cầu làm tổng binh Thuận Hoá, thời vua Kính Tông lại có Vũ Chân làm hiến sát Thuận Hoá. Nhất cử nhất động của chúa Tiên đều khó qua được con mắt của Trịnh Tùng, nên chúa mới phải nhẫn nại như thế. Nay Trịnh Tùng đã chết, Trịnh Tráng lên thay còn lo đối phó với nhiều phe đảng của các anh em trong nhà, chưa dám nghĩ đến việc liều lĩnh đánh ta. Trịnh Tráng có nhiều thê thiếp mà vẫn phải phong công nữ Ngọc Tú, em của chúa công làm chính phi đủ rõ ý muốn Trịnh - Nguyễn hòa hoãn. Mặt khác, từ khi chúa công lên kế vị đã tự mình chuyên chế, đuổi hết các tướng tay chân của họ Trịnh về Bắc, nước nhà lại đang cải cách ngày thêm cường thịnh, lo gì không giữ được cơ nghiệp tổ phụ. Ta hoà với Trịnh trong thế mạnh để dằn mặt Trịnh Tráng, không gửi con tin, không cần nhận sắc, cũng không cần cống nạp theo yêu cầu của họ. Tuy vậy, hiện giờ ta chưa chuẩn bị kỹ nên chúa công hãy tạm thời nhận sắc làm kế trì hoãn, cho sứ thần của họ về trước rồi ta cho sứ thần ra Đông Đô tạ lễ, vờ thực hiện những yêu sách kia, nhưng thời gian chưa hẹn trước được. Thần xin hiến một kế vẹn toàn để giải quyết việc này.
Duy Từ bước lên ghé tai chúa Sãi thầm thì hồi lâu. Chúa nghe xong cả cười, hạ lệnh bãi triều, hớn hở dắt tay quân sư lui vào hậu cung.
Mùa thu năm sau (1628), mọi việc chuẩn bị đối phó với Trịnh Tráng đã hoàn tất. Duy Từ tổ chức một cuộc diễn tập trận pháp trên bộ, dưới biển rất lớn để phô trương lực lượng dằn mặt chúa Trịnh. Sau đó, chúa Sãi cử Lại Văn Khuông lên thuyền đi sứ ra Bắc, thực hiện kế hoạch của quân sư. Duy Từ tiễn chân Văn Khuông ra tận bến thuyền dặn dò mẹo mực, lại giao cho sứ thần hai chiếc túi gấm mầu nâu và màu vàng. Văn Khuông chưa hiểu ý của quân sư liền hỏi :
- Tiên sinh đã sắp đặt mọi việc cho hạ quan chu đáo, vậy còn hai túi này dùng làm gì?
- Túi gấm màu nâu để ngươi ngồi thuyền trên đường ra Bắc thì mở ra học thuộc lòng những gì ta viết. Đó là những câu hỏi ta giả định chúa Trịnh sẽ chất vấn và những lời đối đáp lại ta chuẩn bị cho ngươi sử dụng. Đây chỉ là điều có thể xảy ra chứ chưa chắc chắn. Người trí giả phải biết tuỳ cơ ứng đáp sao cho đúng với tinh thần ấy, giống như đọc sách thánh hiền phải lý rộng ra các điều không có ở trong sách. Sư phụ ta là đại sư Duy Giác vẫn thường dạy như vậy. Ngươi đi sứ chớ để có gì sơ suất làm nhục chủ mình.
- Thế còn túi gấm màu vàng?
- Dâng lễ và đối đáp với chúa Trịnh xong, ắt họ sẽ đưa ngươi về dịch quán nghỉ ngơi. Trong số lễ vật có chiếc mâm vàng hai đáy ta cố tình để lộ ra một kẽ hở. Trịnh Tráng giống cha hắn ở điểm đa nghi, sẽ sai thuộc hạ mở ra xem. Ở phần đáy có sắc chỉ của vua Lê Thần Tông mà chúa công ta sai ngươi đem trả lại. Ngoài ra, trong đó còn một bài thơ chơi chữ lắt léo của ta không dễ gì đoán ngay được. Xem ra, ngoài ấy chỉ có quan trạng nguyên Phùng Khắc Khoan mới có khả năng giải đoán, nhưng ông ấy lại đã cáo lão về quê. Đây chỉ là kế mọn đề kéo dài thời gian cho ngươi nhanh chóng trốn vào Nam. Túi gấm màu vàng là ám hiệu gặp các thám tử gài lại ở Đông Đô từ thời chúa Tiên. Trong túi có địa chỉ để ngươi tìm họ và thư của ta bảo họ đưa đường cho ngươi đi trốn.
- Tiên sinh liệu việc như thần, đâu có thua gì Khổng Minh!
- Thôi ngươi có thể đi. Chúc ngươi thượng lộ bình an!...
Văn Khuông cáo biệt quân sư Duy Từ, dong buồm đi về phương Bắc, lòng vui phơi phới. Tiết trời cuối xuân còn chưa tan hết lạnh, chan hoà nắng gió. Từng đôi cánh hải âu bay rập rờn trên mặt biển bao la, gợi lên thi hứng. Chàng làm thơ ca ngợi chúa Sãi, nhớ Duy Từ rồi ôm đàn hát nghêu ngao trên sóng nước. Văn Khuông thuộc lớp văn quan trẻ, được quân sư đích thân ra đề thi khảo trong đợt sát hạch lại viên khắp các nha phủ ở Thuận - Quảng. Vì vậy, quân sư đối với chàng ơn trọng như núi, tình nghĩa như  sư phụ. Chàng muốn gọi ông là ân sư, nhưng lại sợ vây cánh của Phước Anh và cha con Tống Thị để bụng thù oán. Nhưng trong thâm tâm chàng luôn ủng hộ cuộc cải cách của quân sư, hết lòng trợ giúp mỗi khi chúa Sãi sai bảo. Việc đi sứ ra Bắc lần này, quân sư chọn đích danh chàng mà phớt lờ các bậc danh Nho khác, đủ thấy ông tin cậy và quyết tâm trẻ hoá đội ngũ giúp việc trong phủ chúa. Chàng sùng kính quân sư, khao khát được làm học trò còn vì ông có phong độ lãng tử, rất sành âm nhạc. Một lần được hầu rượu chúa Sãi và quân sư, Văn Khuông đã tận mắt nhìn, tận tai nghe thấy Duy Từ ôm cây Nguyệt cầm gẩy đàn, hát bài “Ngoạ Long Cương vãn”, giai điệu du dương, luyến láy mượt mà, tình cảm sâu lắng. Hôm ấy, quân sư Duy Từ còn trình lên chúa một liên khúc dùng cho ban nhạc cung đình mỗi  khi tiếp sứ thần các nước. Ông giải thích, một quốc gia có nền văn hiến thì âm nhạc cung đình phải toát lên vẻ đẹp tâm hồn của dân tộc, sự ổn định của vương triều, sức mạnh của quốc gia. Trong liên khúc có bốn điệu nhạc: Kim Tiền - Lưu Thuỷ - Thanh Long và Bạch Hổ. Kim Tiền tượng trưng cho sự giàu có. Lưu Thuỷ nói lên sự mỹ lệ của giang sơn Thuận Hóa. Thanh Long biểu hiện phong độ đế vương của đấng minh chúa ở phương Nam. Bạch Hổ tượng trưng cho sức mạnh và khí thế lấp biển dời non của binh lính, tướng sĩ. Chúa Sãi nghe xong, lệnh cho ban nhạc cung đình vào hoà tấu. Trong bữa tiệc, lúc cao hứng, quân sư còn hẹn với quan trưởng ty giáo phường rằng ông sẽ soạn một vở tuồng theo tích “Hoa Mộc Lan tòng quân” dùng để diễn mừng thọ chúa Sãi nay mai. Văn Khuông ham thích đàn hát từ nhỏ nên khi nghe xong liên khúc thấy choáng ngợp, đê mê giữa một biển âm thanh kỳ diệu. Chàng đã chép lại những bản nhạc đó và giờ đây ngồi thuyền đem đàn ra gẩy, lòng thấy lâng lâng...
Văn Khuông đến Đông Đô, vào yết kiến Trịnh Tráng, chúa không để cho sứ thần phương Nam kịp ngồi đã đanh mặt hỏi:
- Vàng bạc, ngà voi, tơ lụa há đủ sao? Voi và thuyền chiến đâu, ta không thấy?
- Khải chúa! Voi và thuyền không phải là lệ cống, sợ người đi truyền mệnh nói không đúng nên không dám vâng mệnh.
- Vậy con tin đâu? - Chúa đập bàn hỏi tiếp.
- Nam - Bắc như một nhà, đã thành tín với nhau rồi, dùng con tin làm gì! Vả chăng công nữ Ngọc Tú, con gái chúa Tiên đang làm bà phi chính thất còn chưa đủ tin sao?
Trịnh Tráng lại hỏi:
- Hoàng đế cho  vời Nam chúa đi đánh giặc ở Cao Bằng là cơ hội để lập công, tỏ rõ lòng trung, cớ sao Phước Nguyên không đến?
- Giặc Cao Bằng là giặc khốn cùng, sức quân của Trung Đô Vương cũng thừa đánh được. Chúa Nam tôi vâng mệnh giữ hai  châu Thuận - Quảng, phía Nam chống giặc Chiêm Thành, phía Đông lo chống giặc cướp từ biển vào, canh cánh bên lòng, chỉ sợ không giữ yên bờ cõi hoàng đế giao cho nên không dám đi xa.
- Duy Từ vừa cho diễn tập trận pháp trên bộ, dưới biển ý muốn chống mệnh vua hay sao? - Nguyễn Hoá định tâng công với chúa Trịnh chen vào hỏi.
- Quan hành khiển Nguyễn Hóa sai rồi. Chúa Nam chịu mệnh giữ đất cần phải phòng bị bờ cõi nên mới sai quân sư ngày đêm tuyển mộ lính, lại dạy cho bày trận theo binh pháp, thường xuyên như vậy. Rồi đây quân sư sẽ còn thao diễn nhiều trận to hơn nhiều để tỏ rõ sức mạnh của quân Nam. Đó là vì vua tôi ở phương Nam giữ trọn đạo quân thần, sao gọi là chống mệnh!
- Tướng tá ở phương Nam thế nào? - Lê Thời Hiến hỏi.
- Tài kiêm văn võ như Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Dật thì chẳng kém vài chục người. Hạng vừa vừa như tôi thì lấy đấu mà đong, lấy xe mà chở không hết.
- Người ta nói Nam chúa anh hùng cái thế, sao không nghĩ đến việc phò vua, đánh giặc lập công? - Chúa Trịnh lại hỏi.
- Chúa Nam tôi không mê tửu sắc mà ưa nhã nhạc, năng đi chùa, đau đáu cầu hiền, hết lòng thương dân, uy tín lan rộng sang các quốc gia láng giềng phía Nam, phía Tây, đảm lược xông pha trước hòn tên mũi đạn không hề quản nhọc... đáng gọi là anh hùng lắm chứ! Nếu có những bọn như Vương Mãng, Đổng Trác giả danh thiên tử sai khiến, ép buộc anh hùng trong thiên hạ, sát hại dân lành thì chúa Nam tôi sẽ vì Nghĩa mà đi, vì Nhân mà đánh, vì Lễ mà hỏi tội, há sợ gì nguy hiểm...
Trịnh Tráng và quần thần ở Đông Đô đều là những bậc Nho học tiếng tăm, thảy đều cứng lưỡi, không còn bắt bẻ gì thêm. Lê Thời Hiến thấy Lại Văn Khuông đối đáp trôi chảy, lời lẽ tự nhiên, chặt lý vẹn tình, nhưng qua văn phong, ông cảm thấy đó chính là khẩu khí của Đào Duy Từ. Ông mừng cho bạn cũ gặp được minh chúa, lại chạnh lòng nhớ kỷ niệm xưa. Nỗi lo về khả năng xảy ra chiến tranh Nam - Bắc khiến ông muốn viết thư thăm bạn, nhắc lại lời hẹn ước lúc chia tay, nhưng ông sợ bị khép tội tư thông với sứ thần của đối phương nên đành xua ngay ý nghĩ đó. Đêm về thao thức nhớ bạn, ông không sao chợp mắt được.
Lại Văn Khuông dâng lễ xong, về quán dịch nghỉ ngơi, vội mở túi gấm màu vàng, biết địa chỉ của thám tử đang neo thuyền buôn ở ngoài bến sông. Chàng chờ đêm xuống dắt tuỳ tùng ra bờ sông Nhị Hà, lên thuyền vào Nam. Một cung nữ được bà phi Ngọc Tú sai nấp sau rèm của chúa Trịnh, nghe lén được cuộc đối đáp, đem lòng say mê sứ thần Lại Văn Khuông, quên mọi nguy hiểm trốn ra ngoài, đã tìm đến quán  dịch, năn nỉ xin theo chàng vào Nam. Dọc đường, tình cảm giữa hai người ngày một thêm mặn mà, quyến luyến. Chuyến đi ấy, chàng trai xứ Quảng không chỉ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của quân sư giao cho. Chàng đã tìm được người bạn đời dám dứt bỏ mọi thứ, chạy theo tiếng gọi của tình yêu đến như một tiếng sét.
Trịnh Tráng ngắm kỹ lễ vật, thấy chiếc mâm vàng có hai đáy liền sai người tách ra xem, thấy trong có sắc chỉ của vua Lê Thần Tông, chúa Sãi không nhận gửi trả lại, lại có phong thư của Đào Duy Từ chỉ đề bốn câu thơ:
“Mâu” nhi vô dịch
“Mịch” phi kiến tích
“Ái” lạc tâm trường
“Lực” lai tương địch
Chúa đọc không hiểu, nghĩ mãi chẳng ra, gọi các danh Nho đến cũng không ai đoán giải được. Lê Thời Hiến bẩm rằng, có lẽ chỉ có trạng nguyên Phùng Khắc Khoan mới hiểu hết, nhưng ông đã cáo lão về quê. Chúa sai người phi ngựa suốt đêm, mời trạng Bùng đến gấp. Phùng Khắc Khoan xem xong, mỉm cười giải thích: đây là lối chơi chữ khá lắt léo của Đào Duy Từ, khéo chiết tự sẽ ra ngay thôi. Chữ “Mâu”  không có nét phẩy là chữ “Dư”. Chữ “Mịch” mất chữ kiến sẽ thành chữ “Bất”. Chữ “Ái” đánh rơi chữ “Tâm” biến ra chữ “Thụ”. Chữ “Lực” với chữ “Lai” kề đó, ghép lại là chữ “Sắc”. Vậy bốn chữ “Dư - Bất - Thụ - Sắc” nghĩa là “Ta không thèm nhận sắc"!...
Trịnh Tráng nghe giải thích bừng bừng tức giận, thét gọi võ sĩ đi bắt sứ thần phương Nam về phủ trị tội. Giáp binh đến quán dịch được báo, sứ thần Lại Văn Khuông đã bỏ trốn từ đêm qua. Lệnh truyền đi các ngả đường bộ, đường thuỷ chặn bắt Lại Văn Khuông  đều không tìm thấy tung tích. Chúa càng nghĩ càng căm giận hai người là Nguyễn Phước Nguyên và Đào Duy Từ, muốn huy động các đạo binh vào Nam quyết một trận thư hùng. Các quan thấy vậy đều can ngăn. Phùng Khắc Khoan nói:
- Khải chúa!... Phước Nguyên kế nghiệp Nguyễn Hoàng đã nhiều năm được mùa, dân chúng no đủ, quân lương đầy kho, khí thế binh sĩ đang hăng hái muốn lập công. Gần đây Phước Nguyên lại được Duy Từ phò tá. Người này là bậc kỳ tài. Xưa kia, thần đã từng khuyên Bình An Vương Trịnh Tùng nên thu dùng trọng đãi ông ta, chúa không nghe. Nay Duy Từ đang ở Thuận Hoá, cải cách chính sự, luyện tập binh sĩ, tất đã bố phòng chu đáo, chuẩn bị kỹ càng. Chúa không nên dấy động can qua làm gì dễ chuốc lấy thất bại, dân chúng chết oan, đối phương đắc ý. Nay chúa chỉ cần cử một người tài kiêm văn võ vào bờ Bắc sông Linh Giang, điều binh trấn giữ để răn đe họ là đủ. Thần rất mong chúa thượng nghĩ lại.
Trịnh Tráng nghe theo, thu lại lệnh điều binh, trong lòng cay đắng. Lê Thời Hiến xin chúa vào trấn thủ ở sông Linh Giang, được chúa  chuẩn tấu. Ông hy vọng chuyến đi này sẽ có cơ hội gặp bạn cũ, nhắc lại lời nguyện ước không gây chiến tranh giữa hai miền Nam - Bắc. Lòng ông nôn nao buồn vui lẫn lộn...
Chương 11
HỒI THỨ MƯỜI MỘT
Chiến lũy trải dài ngăn mạn Bắc
Đồn điền khai khẩn sáng trời Nam
Phủ quân sư nằm chếch về phía Đông phủ chúa chừng nửa dặm đường, sát kề với bờ sông Hương. Phước Nguyên muốn xây cho Duy Từ một toà nhà lớn, sánh ngang với phủ chúa, nhưng Duy Từ lại thích một ngôi nhà gỗ đơn giản, thanh cao, vượng khí phong thuỷ, hoà hợp với thiên nhiên. Nhà dựng trên nền cao tam cấp, cột kèo và ván bưng đều bằng gỗ xoan đào. Mái lợp ngói âm dương hình mũi hài, có máng hứng nước bằng thân cây cau già khoét rỗng ruột. Nội thất kết cấu theo lối nội tự ngoại khách, có hai buồng lồi ra ở  đầu hồi, giữa là ba gian thờ Phật, thờ gia tiên và thờ Khổng Tử. Ngăn cách ba gian thờ tự với hiên rộng để tiếp khách là cái bậc cửa bằng gỗ cao chừng bốn chục phân, chia đố ruộng chừng sáu chục phân, có lèo, có huỳnh, trên là nẹp gỗ rộng một tấc rưỡi, bào nhẵn có thể làm ghế ngồi, mỗi khi khách đến đông ngồi chờ ở đó. Chính giữa hiên rộng bày bộ tràng kỷ bằng mây. Các tấm ván bưng trong hiên rộng tiếp khách treo bộ tranh tứ bình. Trước hiên có bức bình phong bằng trúc, tiếp đó đến sân rộng bày núi non bộ và chậu hoa, cây cảnh các loại. Bao quanh ngôi nhà gỗ là vườn cây trái rộng chừng một mẫu, có hàng rào râm bụt vây quanh, xén tỉa gọn gàng.
Nàng Vân đang ngồi trước hiên mong ngóng Duy Từ về ăn bữa cơm chiều. Nắng đã xiên khoai. Bốn bề tĩnh lặng. Ngoài sân ong bướm rập rờn. Trong vườn im gió, thoảng nghe tiếng chim chích choè, chim chìa vôi kiếm mồi, hót lời gọi bạn. Đã nhiều tuần nay, nàng thẫn thờ nhìn chiếc chén cơm úp trên mâm và đôi đũa gỗ mun gác hờ bên cạnh. Duy Từ ở lỳ trong phủ chúa, có hôm đến khuya mới về nhà. Đêm xuống, ông lại chúi đầu bên án thư  đọc sách  hay vẽ nhiều hình lạ lẫm trên tờ giấy dó. Có lần ông tâm sự với nàng rằng, ông đang xin chúa cho lập xưởng đúc súng thần công và chế ra thuyền chiến hai tầng. Sứ thần Lại Văn Khuông từ  ngày ở Bắc về suốt ngày theo ông bàn bạc rồi ghi ghi chép chép, vẽ hình lên giấy, hết tờ nọ đến tờ kia. Họ nói với nhau về những con số, về sức lật con thuyền, về đường đi của đạn pháo và về sáng chế của ông Nguyên Trừng từ đời nhà Hồ. Cái ông Hồ Nguyên Trừng ấy, theo Duy Từ kể, đã từng đắp chiến luỹ Đa Bang, chế ra 100 khẩu  sơn pháo, lại chế ra cả những thuyền chiến hai tầng có 50 đến 100 tay chèo, bên trên có hàng vài chục lính chiến đi lại như ở đất liền. Vậy mà ông ta cuối cùng vẫn bị bắt làm tù binh, giải sang nước Tàu làm lao dịch khổ sai. Nay Duy Từ học theo Nguyên Trừng, đúc súng, chế thuyền, nghĩa là chiến tranh sắp xảy ra. Đời nàng đã một lần goá bụa. Người chồng cũ đã chết trong trận thuỷ chiến với quân Chiêm ở cửa biển Quy Nhơn. Bé Hương của nàng mồ côi từ lúc lên ba, nay đã cập kề tuổi mười lăm. Nàng muốn nó sẽ thành vợ Hữu Tiến. Hai đứa xem chừng rất mến nhau, hôm nay vừa dắt nhau lên chùa Thiên Mụ vẫn chưa về. Nàng ướm lời thấy Duy Từ ủng hộ, càng thêm quyết tâm ghép đôi cho hai trẻ. Năm năm qua sống chung với Duy Từ nàng có thêm hai đứa con, vừa trai vừa gái. Giờ nếu có thêm chàng rể, gia đình quây quần đông đúc, ông sẽ vơi nỗi buồn vì cha già con cọc. Đời ông đã chịu cảnh côi cút long đong góc bể chân trời, bạc tóc mới có được mái ấm gia đình. Nàng chỉ sợ thời cuộc nay mai sẽ cuốn hút Hữu Tiến vào guồng quay chiến tranh, rồi con gái nàng duyên phận lỡ làng. Thôi thì số kiếp đàn bà sinh vào thời loạn, sớm được hạnh phúc ngày nào hay ngày đó. Rồi đây hai đứa trẻ đành phải trông vào rủi may của số phận vậy thôi. Sắp đến tết Trung thu là sang mùa cưới hỏi. Xóm giềng đã thấy lác đác mấy cuộc dạm ngõ trầu cau. Nàng mong có một ngày Duy Từ ngơi việc để bàn định chuyện cưới xin cho Thu Hương và Hữu Tiến. Chiều nay,  nếu ông chịu về ăn cơm nhà, nàng sẽ giữ ông ngồi uống trà bàn bạc. Có lẽ ông còn ngần ngừ chưa quyết là vì đợi thư của Hữu Dư ở ngoài Bắc. Tình bạn của ông với vợ chồng Hữu Dư - Thục Nga có nhiều uẩn ức sâu kín. Linh cảm đàn bà giúp nàng nhận ra giữa ông và Thục Nga khi xưa có mối giằng buộc khác thường. Những lúc nói chuyện quê nhà hay giảng dạy binh pháp cho Hữu Tiến xong, ông trở nên ưu tư, trầm uất, ngồi lặng ở thư phòng. Có lẽ ông thương nhớ Thục Nga. Mối tình đầu nào chẳng ám ảnh con người lâu dài, sâu sắc. Nhưng số phận của Thục Nga và tình bạn của ông với Hữu Dư đã là nỗi dày vò ông qua nhiều năm tháng. Nàng hiểu ông và càng thương Hữu Tiến, hy vọng cuộc hôn nhân sắp tới của đôi trẻ sẽ giúp ông thanh thản đôi phần.
Duy Từ ở phủ chúa về nét mặt rạng rỡ, theo sau là tướng Lại Văn Khuông sôi nổi bàn chuyện công việc của xưởng đúc súng. Sau lần đi sứ ra Bắc thành công, Văn Khuông được chúa yêu mến, khen thưởng, ban cho chức tướng quân hiệu uý, cai quản mọi mặt trị an của phủ chúa, hưởng lộc ngang hàm quận công. Duy Từ cũng đã thẩm tra năng lực, học vấn và bồi dưỡng cho Văn Khuông về binh pháp, hết lòng tin tưởng. Gần đây, ông xin với chúa cho Văn Khuông chuyển sang lo việc xây dựng xưởng đúc súng thần công và chế tạo thuyền chiến. Hai người, một già một trẻ làm việc rất hợp ý nhau. Đây là việc hệ trọng, tối mật lại dễ sinh tệ tham nhũng, bớt xén của công nên theo Duy Từ cần sử dụng người trẻ tuổi xông xáo, ít toan tính lợi  riêng. Càng ngày, qua Văn Khuông, ông càng nhận ra lớp trẻ có thực tài không hiếm. Cái chính là biết dùng họ đúng năng lực sở trường và mạnh dạn giao quyền cho họ quyết đoán. Trẻ hoá đội ngũ quan lại trong phủ chúa là việc cần thiết. Các tướng  Hữu Dật, Mỹ Thắng, Cửu Kiều cũng phải được cất nhắc  dần, thay cho các công thần lão tướng...
Nàng Vân sai người hầu pha trà, niềm nở tiếp đón Văn Khuông, hỏi thăm gia quyến của chàng. Lát sau, nàng xuống bếp cùng gia nhân chuẩn bị cơm rượu. Văn Khuông chờ phu nhân ra khỏi phòng vội bẩm trình:
- Bẩm quân sư, tiểu tướng đã chọn xong mặt bằng nhà xưởng, cho lính khẩn trương tập kết vật liệu để xây dựng. Thợ đóng thuyền lấy người cửa biển Tư Dung và bán đảo Sơn Trà, còn thợ đúc súng, chế thuốc nổ lấy người ở xã Mậu Tài, huyện Phú Vang. Khí thế binh lính và dân thợ đang hăng, chỉ chờ lệnh của quân sư để bắt tay vào việc.
- Tốt lắm! Ta cũng đã tìm ra cách chế thuốc nổ cho đạn pháo, có sức công phá lớn, đẩy những hòn đá hay các thỏi sắt có ngạnh sắc đi xa hơn của Hồ Nguyên Trừng khi xưa. Thế còn  khả năng lật thuyền khi sóng to hoặc khi ta bắn pháo, tướng quân đã làm đến đâu rồi?
- Bẩm quân sư, việc chống lật thuyền lúc sóng to gió lớn, khi xưa Hồ Nguyên Trừng đã tính toán rất chuẩn xác, đúng như các ghi chép thu thập của quân sư. Nay  tiểu tướng cần phải tính thêm cho điều kiện khi lắp đặt ở tầng trên của thuyền một khẩu súng thần công. Làm sao cho lúc ta bắn pháo, luồng khí cháy phụt ra không ảnh hưởng đến binh lính trên thuyền và sức giật của nó không làm lật thuyền là điều tiểu tướng phải tính kỹ. Qua nhiều lần thử nghiệm bằng hình cụ trong nhà và chế thử theo kích thước nhỏ, tiểu tướng đã tìm ra phương cách hợp lý. Tuy nhiên, theo thiển nghĩ của tiểu tướng, ta vẫn cần nhiều lần thử nghiệm nữa, trước khi chế hàng loạt.
- Tướng quân cần thử tiếp bao lâu?
- Khoảng ba tháng đến nửa năm.
- Đây là di sản quý giá của Hồ Nguyên Trừng đã bị mai một, thất truyền. Thời gian gặp nạn ở bên Tàu, ta nghe đồn ông ấy khi bị bắt làm tù binh, sang đó còn chế ra nhiều thứ khác tốt hơn hồi còn ở trong nước. Nay sứ mạng của tướng quân là phải chế tạo những thứ kia vượt xa Hồ Nguyên Trừng. Ta và chúa Sãi rất tin ở tướng quân, xin chớ phụ lòng.
- Bẩm, tiểu tướng xin cố gắng hết sức, song còn nhờ vào sự chỉ dạy thêm của quân sư.
- Ngày mai chúa sẽ lên điện, họp các quần thần ban bố nhiều việc hệ trọng. Sau đó, ta sẽ có việc đi ra Quảng Bình để cùng tướng quân Hữu Dật và Mỹ Thắng lo việc phòng thủ mặt Bắc, trước khi chinh phạt phía Nam. Có lẽ ta không có nhiều thời giờ để chăm sóc việc đúc súng, chế thuyền. Mọi việc ta trông cậy ở tướng quân, hãy lo liệu chu đáo.
Cơm canh đã dọn lên, hai người sôi nổi chuyện trò suốt bữa ăn. Văn Khuông ra về tràn đầy hứng khởi. Chàng không ngờ bước đường sự nghiệp của mình lại có may mắn gặp được một vị ân sư như Đào Duy Từ. Chàng chợt nhớ đến nàng Kiều Liên, người cung nữ theo chàng vào Nam, có lẽ cái duyên kỳ ngộ ấy cũng nhờ có ân sư cho chàng cơ hội đi sứ ra Đông Đô, chàng và nàng mới thành đôi lứa. Đời người dễ có mấy cơ hội tuyệt vời như vậy.
Nàng Vân âu yếm dìu Duy Từ vào phòng trong nghỉ ngơi. Hôm nay ông quá vui, uống hơi nhiều. Ngoài sân Hữu Tiến và Thu Hương đã đi chùa Thiên Mụ trở về, cười đùa khúc khích. Tiếng cười vô tư, trong trẻo của Hương khiến nàng xôn xao rung động. Trái tim người mẹ của nàng ngập tràn niềm vui. Nàng quàng tay lên cổ Duy Từ, dụi đầu vào vòm ngực của ông, lòng chứa chan hạnh phúc. Duy Từ  nhớ ra điều hệ trọng, thầm thì vào tai vợ:
- Nàng biết hôm nay ta vui sướng, tự thưởng cho mình thêm vài chén rượu còn vì lẽ nào khác không?
- Thiếp làm sao biết được.
- Ta vừa nhận được thư của Hữu Dư do một thám tử ngoài Bắc mang vào.
- Ông ấy có khoẻ không, việc làm ăn thế nào?
- Rất tốt. Ông ấy khoẻ và vui lắm, gửi lời thăm nàng. Người Bắc di cư vào Nam qua trang trại của ông ấy ngày một đông, có đợt hàng trăm hộ. Chúa sắp mở cõi vào phía trong, rất cần đông người Việt di cư, công Hữu Dư không nhỏ đâu. Ông ấy quả không phụ lòng mong đợi của ta.
- Thế còn việc hôn nhân của Hữu Tiến?
- Còn gì phải bàn nữa, Hữu Dư nghe tin mừng lắm! Nhờ ta sắp đặt hết mọi việc là ông ấy tin tưởng giao con cho ta và  nàng.
- Thế thì ông cho chúng cưới mau đi. Thiếp mong có cháu ngoại bế bồng lắm rồi.
- Ta định cho chúng thành đôi với nhau trước khi đưa Hữu Tiến ra kinh lý ở biên ải phía Bắc.
- Ông vội gì, cho chúng gần nhau lâu một chút, đừng bắt Hữu Tiến phải đi ngay, ông ạ!
- Đời còn dài, vả lại đi có ít ngày lại về cơ mà.
- Thôi tùy ông sắp đặt, thế nào thiếp cũng xin vâng...
 Nàng Vân bồi hồi, ngây ngất trước điều ước nguyện đã thành sự thật. Nàng xoay người, ôm chầm lấy ông, mắt long lanh... Đêm ấy Duy Từ lại nghĩ về Thục Nga, lòng bồi hồi thương nhớ. Ngoài sông gió thổi lộng. Bầu trời đầy sao. Mặt đất đẫm sương. Ông thấy Thục Nga hiện lên trong hang đá năm nào ở xứ Thanh, nơi hai người ly biệt. Cái bóng trắng của Thục Nga cứ vẫy gọi ông đi mãi, qua bao núi cao, rừng thẳm. Khắp người ông nôn nao một cảm giác siêu trọng lượng. Đôi chân nhẹ bẫng như lắp cánh, nâng người ông bay là là trên mặt đất. Ông đi vào cõi vô thường, gặp lại song thân, Thục Nga, ông Danh, thầy đồ Mậu và đại sư Duy Giác...
Quang cảnh phủ chúa trong buổi thiết triều hôm ấy thật trang nghiêm. Chúa Sãi ngồi trên điện cao, hai bên có thái giám phe phẩy chiếc quạt lụa màu vàng, thêu rồng xanh ở hai mặt quạt. Dưới sân, văn quan võ tướng trong triều và tổng binh, tổng trấn các nơi đều về dự đông đủ. Vương tôn, công tử con chúa và hoàng thân bên ngoại đều được báo trước, dù ở xa hay ốm nhẹ cũng phải có mặt trước giờ thìn, ngồi chặt hai hàng ghế bên phải chúa Sãi để chờ lệnh sai bảo. Khi mọi người đã tề tựu đông đủ, ba hồi trống khai chầu nổi lên gióng giả. Chúa Sãi đảo qua một lượt điểm mặt từng người, rồi nghiêm giọng nói:
- Ta từ khi nối nghiệp chúa Tiên, nhờ vào ơn đức của tổ phụ, nỗ lực của bản thân, phò tá hết lòng của các quan, nên nước nhà cường thịnh, thóc lúa, quân lương đầy ắp, dân chúng no đủ, tướng mạnh quân đông, xã tắc vững như bàn thạch. Nay quân sư dâng kế đi mở cõi xuống phía Nam và sang phía Tây, các khanh có ý kiến gì tâu rõ lên, cùng ta bàn bạc, đưa ra quyết sách cuối cùng.
Đại thần Nguyễn Phước Khê bước ra can rằng:
- Bẩm chúa công! Thuận - Quảng ta liên tiếp mấy năm được mùa, công thương nghiệp mở mang, ấy là phúc lớn cho muôn dân trăm họ. Song ta dấy binh đánh nhau với các nước phía Nam, thần e quân Trịnh thừa cơ kéo vào, lấy gì chống đỡ. Đường vào Chiêm Thành, có thành Đồ Bàn tựa lưng vào núi, có cảng Quy Nhơn hiểm trở chúa Tiên  mấy bận đánh rồi phải lui, có đầm Thị Nại mênh mông lau sậy um tùm... đâu có dễ gì thắng được. Chiến sự kéo dài càng tăng cơ hội cho chúa Trịnh thừa cơ đánh úp vào Thuận Hoá.
Hàng tướng sủng thần của chúa Tiên là Mạc Cảnh Dinh tâu:
- Bẩm chúa công! Lời quận công Phước Khê không phải là không có lý. Từ ngày sứ thần Lại Văn Khuông ra trả lại sắc phong, Trịnh Tráng bị mất mặt, vẫn nuôi mối hận chờ dịp đánh ta. Đàng ngoài lãnh thổ rộng lớn, dân đông gấp năm, quân đông gấp mười đàng trong, ta không thể không đề phòng.
Công tử Phước Kỳ đang ốm, nghe có cuộc họp bàn trọng đại cũng cố gượng từ Quảng Nam về gặp chúa Sãi. Đêm qua, ông đã tranh thủ ghé phủ quân sư bàn bạc, tranh luận khá gay gắt. Nghe Duy Từ phân tích thời cuộc, ông dần vỡ ra nhiều điều, xoá đi mối lo toan mặt Bắc. Phước Kỳ bước ra trước điện cúi lạy phụ vương rồi nói:
- Bẩm phụ vương! Nhi thần lúc đầu cũng có nhiều băn khoăn về mối đe doạ đến từ phía Bắc như thúc phụ, đại thần Phước Khê. Nhưng nghĩ lại, nhi thần thấy chúa Trịnh không mạnh và đáng lo như ta tưởng. Thời cơ mở cõi vào Nam đang đến, nếu không nhanh chân thì các nước Xiêm La, Ai Lao ở phía Tây, giặc Tây dương ở ngoài biển sẽ vào cướp đất trước ta. Đương nhiên việc bố phòng ở phía Bắc thật chu đáo sẽ không thừa. Nhi thần tin là quân sư Đào Duy Từ đã tính hết mọi nhẽ rồi. Vậy xin tiên sinh hãy nói ra để phụ vương ta và triều thần an tâm.
Duy Từ vội đứng dậy, vòng tay xá công tử Phước Kỳ và xin phép chúa Sãi được nói:
- Bẩm chúa công! Thưa các vị đại thần và các quan! Ai trong chúng ta cũng đều đã rõ, chúa Trịnh lâu nay cai quản ngoài Bắc, đất rộng mà không giàu, dân đông mà không mạnh bởi trong triều lục đục, vương thất tranh giành, quan tham lại nhũng. Ở cung vua có bộ gì thì phủ chúa có ban ấy, đôi bên dẫm việc lên nhau, trật tự rối mù. Chúa át quyền vua, lòng người ly tán. Họ muốn đánh ta từ lâu mà tự lượng sức mình nên chẳng dám động binh. Tất nhiên, ta không nên chủ quan khinh địch, phải phòng bị kỹ càng. Mùa thu năm ngoái, thần và tướng quân Hữu Dật đi thị sát Quảng Bình, xem xét và đo đạc hình thế sông núi, cửa biển. Chuyến đi này cho thấy từ cửa biển Nhật Lệ đến núi Đâu Mâu, phía ngoài có nước khe, bùn lầy, nhân đó dùng làm hào rãnh; phía trong đắp luỹ cao ngăn giặc. Thần đã lệnh cho hai tướng Hữu Dật và Mỹ Thắng đắp thêm một luỹ mới. Hai năm trước thần đã cho đắp luỹ Trường Dục nên hai luỹ làm thành hai chiến tuyến ngăn giặc từ xa, bảo vệ cho Thuận Hoá. Tình hình hai chiến tuyến này ra sao, thần xin nhường lời cho tướng Hữu Dật bẩm trình để chúa công rõ.
Hữu Dật nghe nói, vội bước ra trình bày:
- Bẩm chúa công! Thần và Mỹ Thắng, hai năm qua theo lệnh quân sư, không dám trễ nải, huy động dân và binh sĩ đắp xong hai luỹ. Năm Kỷ Tỵ (1629) đắp xong luỹ Trường Dục dài 18 dặm, trên từ chân núi Trường Dục, dưới kéo dài sát bờ biển có đầm lầy và bãi cát Hạ Hải. Năm Tân Mùi (1631) này lại đắp xong luỹ Đồng Hới dài hơn 30 dặm. Cả hai luỹ ấy đều nghiêm cẩn làm theo bản vẽ của quân sư Đào Duy Từ: luỹ cao 1 trượng 5 thước, rộng một trượng, ngoài đóng gỗ lim, trong đắp đất, chia làm 5 bậc, voi ngựa đi được, dựa núi men khe; dọc theo chiến luỹ cách một trượng đặt một khẩu súng quá sơn, cách 3 hoặc 5 trượng lập một pháo đài có súng thần công nòng lớn... Bẩm chúa công! Trong binh pháp có nêu 6 loại đất tốt và 4 loại đất xấu. Hai chiến luỹ vừa đắp của ta, với quân Nam đó là đất ải địa trong 6 loại đất tốt: thông địa, quai địa, chi địa, hiểm địa, ải địa và viễn địa; còn với quân Bắc đó là đất tử ngục trong 4 loại đất xấu: thiên kháo hay song thiên kháo, tử phách, tử trụ và tử ngục. Quân sư Đào Duy Từ đã thông tỏ binh pháp, lại có biệt nhãn mới chọn ra nơi đắp luỹ cho chúng thần. Ngoài hai chiến luỹ Trường Dục và luỹ Đồng Hới theo lệnh của quân sư, chúng thần đã sai người đặt xích sắt ngang các cửa biển Nhật Lệ, Minh Linh, dưới lòng sông đóng bãi cọc gỗ... Giặc từ ngoài Bắc vào theo đường bộ hay đường thuỷ đều sẽ không có đủ đất chôn thây, quân ta nhàn nhã mà chống giặc.
- Nói hay lắm! Tướng Hữu Dật thật khéo tâng bốc quân sư của các người. Xưa Hồ Nguyên Trừng cũng đã từng lập chiến luỹ Đa Bang dài 600 dặm sao vẫn thất bại? - Công tử Phước Anh đứng lên chen ngang, không cho Hữu Dật nói tiếp.
- Phước Anh không được vô lễ với quân sư. Nếu còn nói nữa ta sẽ tống giam vào ngục mà sám hối - Chúa Sãi cả giận thét lên.
- Xin chúa công bớt giận! - Đào Duy Từ ôn tồn can - Công tử biết chuyện Nguyên Trừng thất thủ ở luỹ Đa Bang, nhưng chưa hiểu vì sao ông ấy thua giặc Minh. Công tử còn chưa biết ngoài chiến lũy Đa Bang, Hồ Nguyên Trừng từng chế ra 100 sơn pháo và tàu chiến hai tầng mà vẫn thua giặc, bị bắt làm tù binh. Cái chính là nhà Hồ chưa được lòng dân ủng hộ, còn chúa ta thì khác, quân dân một lòng tận trung gắng sức. Sau nữa, công tử chưa biết rằng họ Hồ năm xưa đã phạm sai lầm lớn trong binh pháp vì đã căng mỏng sức mình ra chiến lũy dài 600 dặm trước thế giặc như nước tràn bờ. Ta nay lập lũy nơi hiểm địa đón giặc từ xa đến, cho giặc duy nhất có một con đường độc đạo Bắc - Nam mà chặn đánh tất nhiên phải thắng. Hai việc khác nhau một trời một vực, sao lại vơ vào một cục để mà mê tối, lo quàng nghĩ xiên.Thần xin tiếp lời tướng quân Hữu Dật nói cho rõ thêm. Hai chiến luỹ vừa đắp còn chưa đủ súng đạn để dùng, pháo lớn để thị uy, đánh giặc từ xa. Cửa biển có xích sắt, cọc lim vẫn cần thêm một đạo thuỷ binh có thuyền chiến hai tầng để bao vây tiêu diệt giặc. Vậy nên thần đã cùng Lại Văn Khuông dày công nghiên cứu, chuẩn bị lập xưởng. Nay mọi việc đã tạm ổn, đang chờ lệnh chúa ban xuống để thực hiện...
Quần thần và các tướng nghe Duy Từ thuyết giảng hồi lâu, không ai còn dám thắc mắc gì. Chúa Sãi rất hài lòng phán rằng:
- Kế sách bình định phương Nam của quân sư ta đã đọc kỹ trong bản tấu trình từ một tháng nay. Toàn bộ chiến lược bình Nam dự định tiến hành trong 5 đến 7 năm. Giờ đã là năm Tân Mùi (1631), hẹn đến năm Mậu Dần (1638) sẽ ca khúc khải hoàn. Nay phong quân sư Đào Duy Từ làm Thái uý tổng đốc các đạo binh mã trong ngoài; Nguyễn Hữu Dật làm Nguyên soái bình Nam, dưới trướng quân sư Đào Duy Từ; Lại Văn Khuông làm  Đô đốc, thống lĩnh thuỷ binh và kiêm việc giám sát hai xưởng chế thuyền, đúc súng; Nguyễn Phước Khê lo việc quân lương và thuốc nổ, sắt thép, voi, ngựa... Lệnh cho tổng binh các địa phương gấp rút tuyển mộ binh lính, tướng sĩ và thường xuyên tập trận pháp theo sự hướng dẫn của quân sư. Riêng Phước Kỳ đặc trách theo dõi, đốc thúc việc điều động các mặt nhân tài vật lực ở hai xứ Quảng Nam, Quảng Ngãi và tổ chức một đội tượng binh 60 thớt voi, chờ khi dùng đến...
Sau cuộc hội nghị quần thần, Duy Từ quyết định xem tuổi chọn ngày rồi cử hành hôn lễ cho Hữu Tiến và nàng Hương. Tướng quân Hữu Dật không ngờ lần về phủ chúa này lại có cơ hội dự hôn lễ của người cháu họ trong gia tộc Nguyễn Hữu ở xứ Thanh phiêu bạt vào Thuận - Quảng. Chàng đã từng vâng mệnh quân sư bí mật ra tận thung lũng ngã ba sông Ngàn Sâu, dưới chân núi Vụ Quang gặp Hữu Dư để bàn việc lập một mạng lưới thám tử ở phía Bắc sông Linh Giang, gài cắm rải rác đến tận thành Nghệ An, lấy trang trại của Hữu Dư làm đầu mối liên lạc. Chuyến đi mạo hiểm ấy đã cho chàng biết, dòng họ Nguyễn Hữu ở Tống Sơn là một chi nhánh của họ Nguyễn Hữu ở Hoa Trai. Hữu Tiến là cháu bên nội của chàng, còn quân sư lại là nghĩa đệ của Hữu Dư, nên chàng cũng thành người nhà của Đào Duy Từ. Chàng được quân sư trao cho tập bản thảo cuốn “Hổ trướng khu cơ” để học thêm binh pháp...
Thêm chú thích
Đương lúc Hữu Dật chuẩn bị cùng quân sư và Hữu Tiến lên đường về quân doanh ở Quảng Bình, chợt nghe tin dữ công tử Phước Kỳ đột ngột qua đời ở Quảng Nam. Chúa Sãi thương tiếc Phước Kỳ đêm ngày khóc lóc, biếng ăn quên ngủ, thân thể hao gầy. Chúa  mời sư Tuệ Năng về cung lập đàn cầu siêu cho công tử cả, rồi đóng cửa giam mình trong phủ. Duy Từ hết lời an ủi, khuyên giải, chúa mới tạm nguôi. Chiến dịch đánh chiếm bờ Nam sông Linh Giang của Đào Duy Từ đành phải lui lại đến cuối năm. Ông gửi Hữu Tiến cho Hữu Dật mang về quân doanh kèm cặp. Thu Hương cũng được phép ra Quảng Bình hưởng tuần trăng mật. Nàng Vân thấy vậy mừng khôn tả xiết. Tuy vậy, nàng lại lo lắng thấy Duy Từ suốt ngày vò đầu suy nghĩ thở dài. Bệnh sốt rét ác tính ông mắc phải từ những năm bôn ba khắp các buôn làng của người Thượng trên Tây Nguyên chợt tái phát vì cơ thể suy nhược. Ông không buồn sao được khi thời cơ đã chín mà chúa Sãi vẫn chìm đắm trong u sầu, thương nhớ Phước Kỳ, chưa chịu cho ông hành động. Nghe tin quân sư ốm nặng, chúa Sãi vội đến bên giường bệnh thăm hỏi. Duy Từ  cảm động nói với chúa:
- Bệnh của thần có căn nguyên tự trong gan ruột chứ đâu phải vì muỗi rừng năm xưa cắn đốt.
- Nhìn quân sư đau đớn ta muốn chịu thay mà vô phương cách.
- Có đấy, bẩm chúa công có đấy.
- Cách gì?... Quân sư nói mau đi!
Duy Từ vội tung chăn vùng dậy, thưa:
- Chúa công có nhớ chuyện Viên Thiệu đời Tam quốc bên Tàu không?
- Ta nhớ mang máng thôi.
- Khi Tào Tháo đem quân đi đánh Lưu Bị ở Từ Châu, Hứa Đô bỏ trống, mưu sĩ  hiến kế cho Viên Thiệu đánh úp Hứa Đô. Thời cơ như ngọn gió thoảng đến rồi đi, nhưng Viên Thiệu không nghe lời mưu sĩ, chỉ vì có đứa con yêu của mình lên sởi. Sau này, Tháo chiếm được Từ Châu, đánh bại Lưu Bị, bắt được Quan Công, bèn chỉnh đốn binh mã tiêu diệt được Viên Thiệu. Cướp được Hà Bắc rồi, Tháo đến nhà vị mưu sĩ nọ bảo rằng, ta diệt được Viên Thiệu bởi chúa công của ngươi ôm cái nhân đức của đàn bà đâu có đáng kể gì, chỉ mừng được có thêm người như ông thôi, hãy đi với ta, ông sẽ không còn phải ân hận ...
Chúa Sãi nghe xong giật mình tỉnh ngộ, lập tức đồng ý cho Duy Từ mở chiến dịch đánh chiếm vùng Nam sông Linh Giang. Ngay hôm sau, Duy Từ đi gấp đến quân doanh của Hữu Dật ở Quảng Bình, triệu tập các tướng ban bố tướng lệnh, giao việc cho từng người. Quân Nam bất ngờ ào ạt tiến đánh, tràn sang cả bờ Bắc sông Linh Giang chừng 30 dặm thì dừng lại. Lê Thời Hiến nghe tin cấp báo liền cùng đại tướng Nguyễn Tịch đem quân vào nghênh chiến. Quân hai bên giàn trận giữa cánh đồng cờ xí rợp trời, trống đánh liên hồi. Dứt ba hồi trống, bên phía quân Trịnh, Lê Thời Hiến dắt Nguyễn Tịch và các tướng cưỡi ngựa ra trước hàng quân, cho loa gọi lớn:
- Nguyên soái Lê Thời Hiến vâng mệnh Bắc chúa đàng ngoài mời Lộc Khê hầu Đào Duy Từ, quân sư của xứ đàng trong ra hỏi chuyện.
Quân Nam im lặng. Chợt thấy Duy Từ cưỡi ngựa bạch tiến ra, tay phe phẩy quạt lụa, hai bên có tướng Hữu Dật và Mỹ Thắng theo hầu. Lê Thời Hiến nhìn bạn hồi lâu rồi ôn tồn hỏi:
- Quân sư lâu nay có mạnh giỏi không?
- Nhờ ơn chúa Sãi ta vẫn bình an.
- Nay quân sư đã công thành danh toại, phú quý đủ đầy, liệu còn nhớ bạn xưa, nhớ lời giao ước cũ?
- Ta làm sao quên được ân tình của hiền đệ, vẫn nhớ lời giao ước, nhưng hai ta bây giờ ai vì chủ nấy, chớ đem tình riêng ra cho thêm khó xử. Hiền đệ và gia quyến vẫn mạnh giỏi chứ?
- Ơn vua lộc chúa ban đều, nên tiểu đệ và gia quyến mạnh khỏe, quyết xả thân giữ đất, đền đáp ân sâu của chúa Trịnh.
- Sự đời éo le, bạn cũ bỗng chốc thành đối địch. Nay ta bày trận đề quân Bắc xem sức mạnh của quân Nam.
Duy Từ ghé tai Hữu Dật nói nhỏ: “Ta chủ trương bày trận để quân Nam ra oai với quân Bắc và để sau này bạn ta có cơ sở để nghị hoà, không bị Trịnh Tráng bắt tội. Đây cũng là dịp để ngươi và Hữu Tiến hiểu thêm binh pháp. Vậy ngươi hãy đứng kèm Hữu Tiến, xem ta bày trận”. Kế đó, Duy Từ ra lệnh nổi trống ầm ầm, cờ xí các loại giương lên. Bốn phương bốn góc cùng trung quân, du binh đều là số 8; ngoài có tám trận là Thiên - Địa - Phong - Vân - Long - Hổ - Xà - Điểu; mỗi trận có 6 đội, cộng thành 48 đội; mỗi đội lại có 64 tượng quẻ theo hình bát quái. Tổng cộng trận pháp có 4.400 quân lính. Đại tướng Mỹ Thắng oai phong lẫm liệt, đứng bảo vệ Duy Từ ở trung quân đang cầm cờ hiệu. Duy Từ chờ cho quân Bắc ngơ ngác kinh hoàng bèn thét to:
- Thời Hiến có biết đây là trận gì chăng?
- Duy Từ khéo bày trận Chu Thiên, liệu có biết biến trận?
- Trận này có 9 phép biến. Ta đã bày được hà cớ gì lại không biến trận cho quân Bắc xem?
Nói dứt lời, Duy Từ liên tục phất cờ cho quân biến trận lần lượt từ Tiểu Chu Thiên đệ nhất biến, đệ nhị biến..., đến đệ cửu biến. Quân đi rung chuyển đất trời, đổi chính làm kỳ, đổi hữu sang tả, như rồng cuốn hổ vồ. Đại tướng Mỹ Thắng vác đao, tế ngựa qua hết cửa trận này đến cửa trận khác, uy phong lẫm liệt. Quân tướng của Lê Thời Hiến cả kinh, hoa mắt. Lúc đó Duy Từ mới ra lệnh cho Mỹ Thắng thu quân về đội hình từng khối vuông như cũ. Ông cùng hai tướng Hữu Dật, Mỹ Thắng cưỡi ngựa tiến lên chừng vài trượng, ôn tồn bảo Lê Thời Hiến:
- Chúa Sãi ở phương Nam lòng lành tâm Phật, không muốn chiến tranh để nỗi sinh cảnh huynh đệ tương tàn, nồi da nấu thịt, dân chúng lầm than. Ta cũng mong Thời Hiến hãy nhớ câu “máu xương đâu cũng là của con dân nước Việt” để đôi bên nghị hòa. Ngặt vì chúa Bắc vẫn đem bụng thù ghét chúa Nam, vẫn muốn gây chiến nên ta rầu lòng, bất đắc dĩ phải đem quân ra Bắc phô diễn sức mạnh mà thôi. Vậy ta nhờ Thời Hiến bẩm với chúa Trịnh Tráng, đôi bên giảng hòa, lấy sông Linh Giang đổi thành sông Gianh làm nơi phân định rõ cương thổ hai xứ đàng ngoài với đàng trong. Nếu được như vậy ta sẽ lập tức lui quân.
Lê Thời Hiến lúc này nghe ra mới hiểu chủ ý của Duy Từ không hề muốn chiến tranh Nam - Bắc. Ông bồi hồi cảm kích, mừng vì bạn cũ không quên lời thề ước năm xưa trong giờ ly biệt. Tướng Nguyễn Tịch thấy sức mạnh của quân Nam cũng có ý nghị hoà, bèn khuyên Thời Hiến nhận lời. Đôi bên cùng rút quân, lấy sông Linh Giang làm chỉ giới, trao đổi thư tịch dâng lên Trịnh Tráng và Phước Nguyên phê chuẩn. Chiến dịch chớp nhoáng đánh chiếm bờ Nam sông Linh Giang, thực hiện ý đồ cách sông cự địch của Đào Duy Từ toàn thắng.Ông sung sướng hạ lệnh cho Hữu Dật bàn giao việc bố phòng và mạng lưới thám tử cho tướng Mỹ Thắng, trong vòng ba ngày phải xong. Sau đó, ông cùng Hữu Dật, Hữu Tiến kéo đại quân về Thuận Hoá ra mắt chúa Sãi.     
Mùa xuân năm Nhâm Thân (1632), Đào Duy Từ vâng mệnh chúa Sãi đi bình định phương Nam. Đại quân đóng bản doanh ở quê vợ của ông bên ngã ba sông Thu Bồn - Vu Gia để tiện việc điều động các đạo quân thuỷ bộ. Đến nơi ông họp các tướng bàn bạc. Duy Từ trải tấm bản đồ năm xưa ông vẽ trên đường chu du vào Nam, bảo Hữu Dật:
- Chúa ra lệnh bình định bốn nước Xá Lợi, Lâm Ấp, Chiêm Thành, Thuỷ Chân Lạp trong thời hạn năm đến bảy năm. Tướng quân dự định kế hoạch thế nào?
- Bẩm quân sư! Tiểu tướng cho rằng Xá Lợi và Lâm Ấp là hai nước yếu nhất, đất rộng người thưa, quân quyền tản mát về nhiều bộ tộc, ta nên đánh trước. Nhưng Tây Nguyên là nơi nhiều núi cao, rừng rậm, địa hình chia cắt và hiểm trở, không thể dùng quân đông mà phải dùng quân tinh nhuệ và tượng binh.
- Thế còn sau đó?
- Ta sẽ đánh thẳng vào Thủy Chân Lạp rồi bốn phía vây ép mà diệt nốt Chiêm Thành.
- Lối đánh của tướng quân quả có táo bạo, chớp nhoáng nhưng không thật an toàn, chắc chắn.
- Xin quân sứ chỉ dạy cho tiểu tướng nên thế nào để chắc thắng nhất?
- Chúa Sãi là người am hiểu binh pháp, lại rất giống chúa Tiên ở chỗ cẩn thận, chắc chắn. Ta hiểu ý chúa công đưa ra thời hạn này là đã vạch sẵn chiến lược gậm dần chiếc bánh tét, chia làm nhiều giai đoạn mà thực hiện từng phần kế hoạch.
- Ý quân sư muốn chia làm mấy giai đoạn, trình tự từng bước sẽ diễn ra thế nào?
- Ta với ngươi cùng nhìn trên bản đồ sẽ thấy nước Chiêm Thành chạy dài theo bờ biển, có các dãy núi đâm ngang, nên có thể chia làm ba khúc. Từ núi Cù Mông trở ra thông với Quảng Ngãi và giáp với nước Xá Lợi ở phía Tây. Từ núi Cù Mông trở vào đến núi Đèo Cả gồm thành Phú Yên và thành Đồng Xuân là khúc thứ hai, giáp với nước Lâm Ấp và nước Xá Lợi. Từ Đèo Cả trở vào gồm thành Diên Khánh và Ninh Thuận, có hai đường lớn thông lên nước Lâm Ấp ở phía Tây, phía Nam giáp với Thủy Chân Lạp. Từ thời vua Lê Thánh Tông xa xưa đến thời Chúa tiên Nguyễn hoàng gần đây đều có lúc người Việt ta dùng thủy binh đánh chiếm được các thành Quy Nhơn, Đồng Xuân, Diên Khánh, nhưng đều trụ lại chẳng được lâu, bởi thế đất hiểm trở mà ta khi ấy không chiếm được vùng núi cao Tây Nguyên của người Thượng làm địa bàn khống chế. Kế hoạch của ta chia làm ba bước. Bước một là đánh chớp nhoáng chiếm lấy hai nước của người Thượng ở Tây Nguyên trong một năm, từ đó khống chế toàn cục làm bàn đạp tấn công chiếm dần nước Chiêm Thành theo ba gọng kìm: đường bộ có hai mũi từ thượng du đánh xuống và từ đất Quảng đánh vào; đường thủy tập trung tiếp chiến hỗ trợ cho bộ binh ở những nơi thành trì kiên cố của quân Chàm. Trước hết, trong năm đầu phải chiếm được đất từ Cù Mông trở ra bằng hai mũi từ Bắc đánh vào và từ phía Tây qua đèo An Khê đánh xuống, cuối cùng ta phối hợp thủy binh đánh chiến gọn thành Quy Nhơn. Sau đó, ta cho dân ào ạt di cư vào lập đồn điền khẩn hoang ở đồng bằng ven biển; ở phía Tây lại cho các lính thương tật và già yếu ở lẫn trong các buôn làng mà lập nghiệp, sống hòa hiếu với người Thượng. Như vậy tốn ít nhất là hai năm, nghĩa là từ nay đến năm Giáp Tuất (1634) mới hoàn tất. Bước hai, từ năm Ất Hợi (1635) đến năm Bính Tý (1636) sẽ đánh chiếm nốt hai khúc của Chiêm Thành từ Cù Mông vào bằng ba hướng từ Bắc đánh vào, từ Tây đánh xuống và thuỷ quân đổ bộ ở mặt Đông. Có lẽ với địa hình như đã nói ở trên thì mỗi chiến dịch ta gậm dần một khúc mới thật chắc ăn. Tóm lại, địa bàn hiểm yếu ở Tây Nguyên là sự sống còn với quân ta trong toàn bộ kế hoạch Nam tiến, nuốt nước Chàm, bình định Thủy Chân Lạp của ta và chúa công lâu nay trăn trở, mất ngủ quên ăn. Quân đánh đến đâu cho dân vào lập đồn điền khai hoang lập tức. Nghiêm cấm người Việt xâm phạm tín ngưỡng của người Chiêm và khuyến khích các tộc người sống bình đẳng, tương ái với nhau, giúp nhau an cư lập nghiệp theo giáo lý Trúc Lâm tam tổ. Bước ba, từ năm Đinh Sửu (1637) đến năm Kỷ Mão (1639) huy động tổng lực đánh chiếm nước Thuỷ Chân Lạp. Lúc này hai mũi quân xuất phát tại nước Lâm Ấp, từ thành Hậu Nghĩa và từ đèo Bảo Lộc đánh xuống là hết sức quan trọng. Nó quyết định sự thành bại của đại quân từ Bắc tràn vào, từ biển đổ bộ lên mà chiếm lấy thành Trấn Biên, rồi toả về các châu huyện ở đồng bằng Cửu Long Giang. Ta đồ rằng giai đoạn thứ ba sẽ rất ác liệt vì người Khơ Me dũng cảm, địa hình nhiều đầm lầy, kênh rạch. Các ngươi phải luôn ghi nhớ làm điều nhân nghĩa, chớ sát hại dân lành mà tổn hại âm đức của chúa và người Việt chúng ta...
Chiến sự diễn ra sau đó quả đúng như điều dự tính của quân sư Đào Duy Từ. Trong vòng không đầy hai năm, quân Việt đã hoàn toàn làm chủ Tây Nguyên rộng lớn và một phần của nước Chiêm Thành từ Cù Mông trở ra. Đồn điền khẩn hoang mọc lên như nấm sau mưa. Dân chúng các bộ tộc ở những nơi này vốn hiền lành, chất phác nên nhanh chóng sống hoà thuận với người Việt di cư. Khắp nơi liên tiếp được mùa, cư dân no đủ, của rơi trên đường không ai nhặt. Công đức của chúa Sãi tưới nhuần các miền quê, đến tận buôn làng hẻo lánh. Tiếc rằng mùa thu năm Giáp Tuất (1634) quân sư Đào Duy Từ bỗng nhiên ngã bệnh. Chúa Sãi lo lắng cho sức khỏe Duy Từ, vội sai người đưa ông về Thuận Hóa dưỡng bệnh và hạ lệnh tạm ngừng chiến dịch mở cõi vào Nam.
Chương 12
HỒI THỨ MƯỜI HAI
Chúa mất tôi hiền rơi nước mắt
Anh hùng trăn trối tặng binh thư
Đã hơn một tháng trời, nàng Vân vò võ thức đêm, chăm sóc Duy Từ mà ông vẫn mê man sốt. Căn bệnh sốt rét cộng với chứng đau tim làm ông có lúc co giật, có lúc lại ôm ngực nhăn nhó. Nàng nhìn ông đau xót cõi lòng, phập phồng lo sợ. Nàng đã một lần ngậm đắng, nuốt trọn nỗi cô đơn những năm dài goá bụa nuôi con. Số phận run rủi cho nàng gặp ông, ghép hai mảnh đời bất hạnh hoà hợp lại, đắp đổi niềm vui và nỗi buồn cho nhau, vì nhau sống nốt quãng đời còn lại. Ôi, hạnh phúc muộn mằn ở tuổi năm mươi của ông mới nồng nàn, quý giá làm sao! Chẳng lẽ nó đến bất ngờ rồi cũng qua nhanh vậy ư? Nếu ông có mệnh hệ gì, nàng biết bấu níu vào đâu? Cha già con cọc, hai đứa con thơ liệu có phải chịu cảnh mồ côi như ông, như các bạn ấu thơ Hữu Dư, Thục Nga và như đứa rể yêu Hữu Tiến hay Thu Hương con nàng? Cao xanh hỡi cao xanh, sao Người bất công, nghiệt ngã!... Đêm nào cũng vậy, nàng thức canh giấc ngủ cho ông, chờn vờn trong óc những câu hỏi, những nỗi dày vò, cầu trời khấn Phật cho ông qua khỏi...
Thảng có lúc Duy Từ tỉnh táo, ông nhìn nàng thở dài và trong giọt lệ nóng hổi của ông, nàng tìm thấy sự cảm thông của con tim tha thiết yêu thương. Ông cố gượng cười, nắm chặt tay nàng, đặt lên ngực mình, khiến nàng oà khóc. Ông lau nước mắt cho nàng, dỗ nàng nằm ngủ cho lại sức, rồi một mình suy ngẫm chuyện xa, tính toán việc gần. Duy Từ bồi hồi nhớ lại bao năm tháng đã qua như một giấc mơ, trong lòng ngân rung lên bản nhạc của Đào Tá Hán năm nào, vào cái đêm xảy ra sự biến ở cung vua Lê, tại phủ An Trường. Mẫu thân ông, người ca kỹ đất làng Se đã ghi nhớ bản nhạc ấy, truyền dạy cho con, để ông suốt đời không quên cái chết bi hùng của phụ thân giữa đất trời ngập đầy âm thanh của cây Nguyệt cầm, lẫn trong mưa thét, gió gào. Nét nhạc ông Hán đàn, lời ca trù bà Mạch hát và tuổi thơ côi cút đã theo ông lên chùa Đàn Xuyên gặp sư Duy Giác. Tình bạn của Hữu Dư, tình yêu của Thục Nga đã đón ông xuống núi, dấn thân vào cuộc đời gió bụi. Đôi mắt nhìn thao thiết của Thục Nga đã từng theo ông lên miền biên ải, sang tận đất Tàu chịu cảnh lao tù. Rồi ánh mắt nàng Thục Nga cứ bám riết lấy đời ông trên bước đường hành hương theo chiến luỹ Đa Bang của Hồ Nguyên Trừng và đi khắp các miền rừng rậm núi cao hay đồng bằng bát ngát mênh mông của phương Nam ngập tràn nắng gió. Khát vọng mở cõi đã thôi thúc ông quay về Thuận - Quảng tìm gặp chúa Sãi. Ông cảm kích và ông kính trọng vị chân chúa đã hiểu mình, có chung chí hướng, cư xử với ông như với người bạn tri âm. Số phận ông trời chỉ cho đến vậy, cái chết đang đến gần, Duy Từ cảm nhận được nó và miên man trò chuyện với chính mình...
Đời người đàn ông chí tráng thiên hạ có xá gì mọi nỗi gian nan, những điều bất hạnh, nhưng sẽ là vô nghĩa nếu không tìm được minh chúa để mà phò tá, để mà thoả sức tung hoành. Ở tuổi năm mươi số phận đã mỉm cười với ta, cho ta hai thứ báu vật là nàng Vân và đấng minh chúa. Với ta thế là mãn nguyện. Ta chỉ tiếc rằng thời gian quá ngắn, phụng sự Phước Nguyên vẻn vẹn có tám năm, sự nghiệp mở cõi đang còn dang dở. Tám năm chỉ là cái nháy mắt của lịch sử, nhưng với một con người đủ cho ta cơ hội làm được không ít việc để đời mình có nghĩa. Ta trộm nghĩ, thời gian là sự thách đố, thời gian cũng là sự công bằng ghi nhận và phán xét. Sống lâu mà vô dụng, chẳng thà sống ít mà  hữu ích. Ta lại ngẫm, sống vì tình yêu và sống để được yêu mới là đáng sống. Mấy mươi năm ta đã sống vì tình yêu với Thục Nga, rồi ta đã lại được nàng Vân yêu mình, hiểu mình, dâng hiến cho mình suốt tám năm ấm nồng hạnh phúc. Mấy ai trên đời đã may mắn đã yêu và được yêu lại thắm tình như vậy. Từ lúc ngã bệnh ở Quảng Nam, được chúa đưa về Thuận Hoá, cả lúc đau đớn, vật vã trên giường bệnh, ta vẫn biết nàng Vân cũng đau không kém. Bệnh sốt rét ác tính và bệnh đau tim đang hành hạ ta. Lúc mê man, ta chẳng biết gì, khi tỉnh dậy, nhìn vào ánh mắt nàng, ta muốn gọi to: Vân ơi! Ta cảm ơn nàng đã cho ta hạnh phúc! Ta xin nàng đừng buồn như thế. Ta không đau vì bệnh, ta sẽ còn sống mãi bên nàng. Tim ta đau nỗi đau nhân thế. Thân xác ta ớn lạnh vì thời cuộc đảo điên, chiến tranh tàn khốc. Óc ta nhói buốt vì lo toan sao cho quốc thái dân an, giang sơn mở rộng. Ôi! Từ buổi chăn trâu bên sông Vu Gia, nàng đã hiểu ta, gắn bó cùng ta, chia bùi xẻ ngọt thoắt đã tám năm...
Sức khỏe Duy Từ ngày một đuối dần. Bệnh chuyển nặng từ tuần thứ năm, sang tuần thứ bảy, ông thấy mình đang chết, lạnh từ dưới gan bàn chân lạnh ngược lên. Chúa Sãi đến thăm, ngồi bên giường bệnh, nước mắt chảy ròng. Thấy ông cựa mình mở mắt, chúa hỏi:
- Quân sư có còn nhận ra ta?
- Thần vẫn nhìn rõ. Chúa công có khoẻ không?
- Ta khoẻ làm sao được, khi quân sư, người bạn, người thày của ta lâm bệnh, đau đớn thế này.
- Thần đã ngót sáu mươi, cũng vào cõi thọ được rồi. Chúa công nên hết sức giữ gìn tuổi thọ.
- Nếu mất quân sư ta biết làm sao đây! Trời Phật khéo bày ra nghịch cảnh. Giá quân sư đến với ta sớm hơn một chút để công trạng rỡ ràng, để ta sớm có người tri kỷ!
- Tám năm qua thần đã cố sức. Phải xa chúa công lúc này, thần ân hận chưa xong việc mở cõi, nhưng cũng có phần mãn nguyện vì đã gặp được chân chúa.
- Việc nước đang bộn bề, thiếu vắng quân sư, ta như người bị chặt đứt cánh tay.
- Công tử Phước Anh làm tổng trấn Quảng Nam có tốt?
- Ta điều Phước Anh ra Quảng Nam thay Phước Kỳ là cốt để nó xa phủ chúa, đỡ gây bè cánh, nhưng chưa thật an tâm.
- Đất Quảng Nam là nơi trọng địa, cần có một tổng binh trung tín và đảm lược bên cạnh công tử. Thần cho rằng có thể điều phò mã Nguyễn Cửu Kiều vào chức ấy.
- Ai sẽ đủ tài thay ta kế nghiệp sau này?
- Phước Lan là bậc anh hùng, tài kiêm văn võ, chỉ tiếc công tử có tật đa tình, buông thả, chúa công nên lưu ý nhắc nhở thêm. Thần nghe nói Tống Thị, vợ công tử cả, lâu nay vẫn có tình ý với Phước Lan. Người đàn bà này sẽ là mối nguy cho xã tắc, lại thêm Tống Kiến Tường tham lam, gian xảo, chúa công phải nên coi chừng cha con Tống Thị, chớ để mụ ta mê hoặc thế tử Phước Lan, gây tai hoạ cho nước.
- Thế còn công việc mở cõi vào Nam?
- Xin chúa công yên tâm, Nguyễn Hữu Dật đủ tài làm việc này thay cho thần. Kế hoạch từng bước mở cõi vào Nam thần đã vạch sẵn, bàn giao cho Hữu Dật. Thực tế bước một trong hai năm đã chứng minh thần vạch kế hoạch đúng và Hữu Dật đã làm rất xuất sắc. Trong số các tướng trẻ, nổi lên có Hữu Tiến, Nguyễn Cửu Kiều, Nguyễn Mỹ Thắng..., chúa công nên trọng dụng hợp với tài của họ. Số quần thần quanh phủ chúa có các vị như Trần Đức Hòa, Nguyễn Phước Khê, Lại Văn Khuông đều giỏi giang, mỗi người một vẻ, sử dụng họ thế nào cho họ rộng quyền mà vẫn giám sát được là điều chúa công nên bảo ban thế tử Phước Lan thêm về cái thuật của một đấng quân vương. Chúa công chắc còn nhớ, buổi đầu gặp nhau, chúa tôi vui vẻ đàm luận, thần có nêu ra mấy chữ “Bắc hoà Trịnh, Nam mở cõi”. Mong rằng phương châm chiến lược ấy của thần được chúa công và thế tử giữ vững, chớ để xảy ra chiến tranh  tàn hại sinh linh người Việt chúng ta. Trên đường mở cõi, ta lấy nhân nghĩa mà đối xử với các tộc người bản địa để giữ bền đại cuộc. Thần mong sao sớm đến ngày ca khúc khải hoàn, biên cương mở rộng đến tận vựa lúa Cửu Long Giang, người Việt sống hòa hợp với người Chiêm, người Thượng, người Khơ Me, cùng xây đắp nên nền văn hiến chung trong một vương triều hùng mạnh. Thần có nghe Đức Hoà nói về giấc mơ lạ của chúa công, nhìn thấy chín chữ “Phước”, mười ba chữ “Vương”. Phải chăng mệnh trời, ý phật, lòng dân đã cho họ Nguyễn cơ duyên được làm chủ thiên hạ lâu dài trên nước Đại Việt thống nhất suốt dải non sông từ Đông Đô đến Trấn Biên? Cho dù  thời cuộc biến đổi, thiên hạ mai sau thuộc về họ nào đi nữa thì công tích của chúa công sẽ không uổng phí.
Duy Từ nói đến đây thì kiệt sức, thở dốc, mắt chớp liên hồi, tay vê vê đầu ngón, miệng mấp máy, chừng như còn muốn nói nhiều nữa. Chúa Sãi giật mình ôm chầm lấy Duy từ lay gọi. Chúa thét bảo ngự y lại xoa bóp và đổ sâm vào miệng cho quân sư. Nàng Vân cùng hai đứa con nhỏ Đào Duy Huệ, Đào Thị Hưng và hai vợ chồng Hữu Tiến - Thu Hương thảy đều oà khóc, vây quanh giường. Chúa Sãi hết lời khuyên giải, can ngăn mọi người giãn ra cho quan ngự y làm việc. Chúa xót thương bạn, mong được nghe nhiều những lời trăn trối của Duy Từ. Duy Từ ơi! Ta với quân sư nghĩa là chúa tôi, tình là huynh đệ, sao quân sư không đợi ta vài năm nữa cùng dắt tay nhau về cõi Phật? Đang lúc lòng buồn thê thảm, chúa chợt chạnh lòng nghĩ đến số phận mình chẳng còn được bao lâu nữa. Liệu thế tử Phước Lan có nối được chí cha ông, giữ bền được cơ nghiệp? Mấy lời quân sư Duy Từ vừa dặn, chúa cũng đã từng nghĩ đến, đêm ngày lo lắng...
Quan ngự y lại bẩm, quân sư đã hồi tỉnh trở lại, chúa nán đợi chừng một khắc nữa sẽ nói chuyện được. Chúa ngồi bên mép giường, tay vuốt nhẹ lên ngực Duy Từ. Ông mở mắt, nhìn chúa, run run nói:
- Thần được chúa công hết mực thương yêu thế này, hẹn kiếp sau sẽ lại đền đáp.
- Ta với quân sư nghĩa nặng tình thâm, nói chi đến điều ơn nghĩa. Ta đang muốn về cõi Phật theo quân sư đây.
- Chúa công đừng nghĩ quẩn. Người cần cho thiên hạ hơn gấp mười thần. Thần vừa mơ một giấc mơ đẹp. Trong mơ thần được gặp sư phụ của thần là đại sư Duy Giác. Ngài từ cõi Phật hiện về đón thần lên đám mây ngũ sắc bao quanh toà sen. Thần được cùng đại sư ngồi lên đó, bay qua luỹ Trường Dục, lũy Đồng Hới và sông Gianh. Thần sung sướng nhìn thấy những khẩu súng thần công đặt trên chiến luỹ và thần còn nhìn thấy cả trại thuỷ binh của ta, với những thuyền chiến hai tầng neo đậu các cửa sông lớn. Đời thần chẳng còn mơ ước nào hơn thế nữa.
- Về việc riêng, quân sư có dặn gì ta không?
- Kẻ bầy tôi, trước lúc nhắm mắt xin được chúa công ban cho mấy điều ân sủng. Thứ nhất, thần chết rồi, phủ quân sự xin trả lại công khố. Ở xứ Bình Định có thành Đồ Bàn của người Chiêm, bên trong có tháp Chàm tuyệt đẹp. Ngoài vịnh biển Quy Nhơn có mũi đảo Phương Mai sơn thuỷ hữu tình. Trong đất liền có đầm Thị Nại nước trong và mát. Nơi ấy phong thuỷ tụ nhiều linh khí. Đó còn là nơi kết thúc sự nghiệp của thần tám năm thờ phụng chúa công, một lòng mở cõi. Vậy thần chỉ xin chúa công ban cho vài mẫu ruộng tốt và ngôi nhà gỗ nhỏ ba gian để vợ con thần về đó lập nghiệp, đắp đổi qua ngày, dưa muối nuôi nhau. Thứ hai, Hữu Dư bạn thơ ấu của thần ở ngoài Bắc, có công lớn lập trang trại ở ngã ba sông Ngàn Sâu, dưới chân núi Vụ Quang để dẫn lối chỉ đường cho dân Việt di cư vào Nam, củng cố những phần đất mở cõi. Ở đời  hiếm có người dân thường nào như ông ấy kiên trì làm việc hữu ích như thế, không màng danh vọng. Xin chúa hãy sai sử quan chép lại việc này để lưu công tích Hữu Dư. Tướng quân Hữu Tiến, con của Hữu Dư có công mở cõi, tài kiêm văn võ, lại là giọt máu của nàng Thục Nga thân thiết với thần từ thủa ấu thơ, xin chúa công trọng dụng Hữu Tiến . Thứ ba, thần suốt cả đời cần mẫn học tập binh pháp của người xưa, ghi chép các điều hữu ích cho việc quân ở chốn dân gian, nay thần đã biên soạn xong một cuốn binh pháp gọi là “Hổ trướng khu cơ”. Đó là kỷ vật duy nhất thần muốn dâng lên chúa công đền ơn tri kỷ. Dám  mong chúa công và các công tử nghiên cứu nó, lại sai in thành nhiều bộ phát cho các tướng dùng vào việc mở cõi, giữ gìn cơ nghiệp muôn đời...
Nói xong, Duy Từ cố gượng đem hết sức tàn lực kiệt, lấy cuốn “Hổ trướng khu cơ” dưới gối, hai tay kính cẩn dâng lên chúa Sãi. Ông gục xuống, trút hơi thở cuối cùng trong vòng tay nàng Vân và chúa Sãi cùng xô lại đỡ... Ngoài hiên nổi cơn gió lốc. Trời Thuận Hóa xoáy trong bụi cát.  Biển Đông ào ạt những đợt sóng triều cường.
Năm Giáp Tuất (1634), quân sư Đào Duy Từ chết bệnh ở Thuận Hóa. Chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên ban sắc, truy tặng ông là Tán trị, Dực vận công thần, Đặc tiến phụ quốc, Kim tử vinh lộc đại phu, hàm Đại lý tự khanh, tước Lộc quận công. Sư Tuệ Năng hay tin, từ chùa Long Hưng hoả tốc về phủ quân sư, lập đàn cầu siêu thoát tục cho ông suốt năm tuần. Sau khi ông chết, chúa Sãi đau buồn thương nhớ, lại thêm tuổi già vóc hạc hao gầy nên một năm sau (1635) cũng qua đời. Chúa Nguyễn Phước Lan kế nghiệp, theo kế sách của Đào Duy Từ tiếp tục sự nghiệp mở cõi vào Nam, nhưng phủ chúa cũng một phen nghiêng ngửa vì Tống Thị và vụ Phước Anh làm loạn ở Quảng Nam, không ngoài dự đoán của quân sư. Các đời chúa sau Phước Nguyên, khi mở cõi vào Nam không theo di huấn của Duy Từ, tàn sát người Chiêm, người Thượng quá độ nên tổn hao âm đức của vương triều họ Nguyễn và dân chúng Đại Việt.
Ai vào cố đô Huế, thăm thành nội hôm nay sẽ thấy linh vị của Đào Duy Từ đặt ở Thái Miếu thờ người anh hùng khai quốc công thần, được vua Minh Mệnh (1836) truy phong hàm Đông các đại học sĩ, Thái sư Hoằng quốc công. Dân lập đền thờ ông ở thôn Tùng Châu, nay là thôn Cự Tài, huyện Bồng Sơn, tỉnh Bình Định.  
I. Một vài địa danh liên quan đến Đào Duy Từ trong tiểu thuyết:
1- Hoa Trai: quê của Đào Duy Từ thuộc huyện Ngọc Sơn, nay là xã Nguyên Bình, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá. Đầu thế kỷ XX tại đây có ga xe lửa Văn Trai.
2- Phủ An Trường: kinh đô của vua Lê trong cuộc chiến tranh Lê - Mạc còn gọi là chiến tranh Nam - Bắc triều (1527 - 1593), nay thuộc các xã Thọ Minh, Thọ Lập huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa.
3- Phủ Trường Yên nay là huyện Hoa Lư và thị xã Ninh Bình.
4- Long Châu là một thành phố nhỏ cấp huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc có địa giới giáp tỉnh Cao Bằng.
5- Ung Ninh là một huyện của Quảng Tây, Trung Quốc.
6- Nam Ninh là thủ phủ tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
7- Xá Lợi là nước nhỏ phía Bắc Tây Nguyên, nay là tỉnh Gia Lai - Kon Tum và một phần phía Tây tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi.
8- Lâm Ấp là một nước nhỏ phía Nam Tây Nguyên nay thuộc tỉnh Buôn Mê Thuột, Lâm Đồng và một phần tỉnh Bình Phước.
9. Nước Chiêm Thành thời chúa Phước Nguyên gồm các tỉnh ven biển miền Trung từ Bình Định đến Ninh Thuận, nay còn để lại danh thắng các tháp Chàm ở Quy Nhơn, Nha Trang, Phan Rang khá nguyên vẹn.
10. Nước Thủy Chân Lạp thời đó là vùng lãnh thổ từ Bà Rịa - Vũng Tàu vào đến đồng bằng sông Cửu Long.
11- Thung lũng sông Ngàn Sâu thuộc huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh.
12- Trấn Biên nay là TP. Hồ Chí Minh và Biên Hòa.
II. Một vài sự kiện lịch sử cần nói rõ thêm:
1- Sự biến cung An Trường: Năm 1572, vua Lê Anh Tông  cùng đại thần Lê Cập Đệ chủ mưu truất quyền của Trịnh Tùng. Việc bại lộ, vua chạy vào Nghệ An. Sách “Đại việt sử ký toàn thư” chép rằng: Năm 1573, Tả tướng Trịnh Tùng sai bọn Nguyễn Hữu Liêu tiến đánh thành Nghệ An, vua chạy ra ruộng mía. Hữu Liêu quỳ lạy ở ruộng nói: “Xin bệ hạ mau chóng về cung để yên lòng mong của thần dân, bọn thần không có gì khác cả”. Liêu bèn sai mang 4 con voi đến đón vua và sai Tống Đức Vị theo hầu, đến thành Lôi Dương (Nghệ An), Trịnh Tùng sai Đức Vị ngầm giết vua rồi phao đồn là vua tự thắt cổ.
2- Chiến luỹ Đa Bang (theo tài liệu của TS Quỳnh Cư) do con trai cả Hồ Quý Ly là Hồ Nguyên Trừng xây dựng dọc theo bờ phải sông Đà và sông Hồng (1406 - 1408) để chống quân Minh, bảo vệ Tây Đô ở Thanh Hoá. Hồ Nguyên Trừng còn là nhà sáng chế đại tài, từng chế ra súng thần công và thuyền chiến 2 tầng. Đây phải chăng là gợi ý cho Đào Duy Từ lập lũy Trường Dục, luỹ Đồng Hới?
3- Cuộc xướng họa thơ giữa Nguyễn Hoàng với Đào Duy Từ còn nhiều nghi vấn trong giới sử học. Tác giả dựa vào sự kiện này hư cấu nên cuộc gặp gỡ ở chùa Tiêu Sơn. Thực ra địa điểm gặp gỡ là chưa rõ. Các bài thơ “Tư Dung vãn”, “Ngọa Long Cương vãn” lấy theo sự sưu tầm của Trần Thị Liên, Sở Văn hóa thông tin tỉnh Thanh Hóa (1992).
4- Cuộc đối thoại giữa ông lão chăn trâu và đám Nho sĩ ở Quảng Nam và cuộc hội kiến giữa Đào Duy Từ với chúa Nguyễn Phước Nguyên được tác giả hư cấu theo tài liệu của nhà Nho Nguyễn Khoa Chiêm trong sách “Nam Triều công nghiệp chí”, được Ngô Đức Thọ dịch ra chữ quốc ngữ đầu thế kỷ XX.
5- Phép “Lưới trời yểm trại” ở hồi 9 dựa theo cuốn “Hổ trướng khu cơ” của Đào Duy Từ do học giả Đào Duy Anh dịch (NXB khoa học xã hội - 1970). Tác giả dùng nó  hư cấu để Duy Từ dạy binh pháp cho Hữu Tiến.
6- Sau khi chúa Phước Nguyên và Duy Từ chết, thời chúa Nguyễn Phước Lan (chúa Thượng) do có vụ nội loạn của Phước Anh và sự thao túng triều chính của cha con Tống Thị nên cuộc bình định phương Nam mấy lần bị gián đoạn. Đến đời chúa Nguyễn Phước Tần mới hoàn thành kế hoạch mở cõi của Đào Duy Từ. Dân Nam nhớ ơn mở cõi của Phước Tần (chúa Hiền) nên đã đặt tên ông cho một con đường lớn giữa Sài Gòn - đường Hiền Vương (nay là đường Võ Thị Sáu, TP. Hồ Chí Minh). Nhưng cũng vào thời chúa Hiền, sau khi hoàn tất việc mở cõi, chúa ỷ vào sức mạnh, không tuân theo kế sách hòa hoãn với Trịnh của Đào Duy Từ. Năm 1656, quân Nam đánh ra Bắc, chiếm đóng 7 huyện của Nghệ An trong 5 năm. Bắt đầu từ đó, Nam - Bắc chiến tranh liên miên. Có lẽ đây là điều đáng tiếc nhất trong sự nghiệp anh hùng và vô cùng hiển hách của chúa Hiền.
7- Trận pháp “Chu Thiên đệ lục biến” bên sông Linh Giang được tác giả hư cấu dựa theo cuốn “Hổ trướng khu cơ” của Đào Duy Từ do học giả Đào Duy Anh dịch (NXB khoa học xã hội - 1970, trang 377).
Vũ Ngọc Tiến
Theo https://vanchuongviet.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chùm thơ dịch của Vũ Tuấn Hoàng

Chùm thơ dịch của Vũ Tuấn Hoàng “Ở một chừng mực nào đó, dịch giả cũng giống như một người đầu bếp. Từ nguyên vật liệu ngoại, cần phải nấu...