Những điều học được khi đọc tác phẩm "Mối tơ vương
của
Huyền Trân Công Chúa" của HT Thích Như Điển
Thật là một Phước duyên khi tôi được Hòa Thương ban tặng cho
tác phẩm này qua sự chuyển giao của Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng
nhân dịp Thầy tham dự đại lễ khánh thành Chùa Minh Giác tại Sydney cùng với sự
chứng minh của Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương Trượng chùa Viên Giác - Đức Quốc.
Kính xin tri ân lòng từ bi của Thượng Tọa luôn muốn khuyến
khích những người thích đọc sách về Phật Pháp và lịch sử VN nên đã không ngại
cước phí để gửi đến tôi.
Cũng được biết nhân đây Hòa Thượng cũng ban cho đại chúng một
bài pháp thoại, và nhất là trong chuyến hoằng pháp này HT Thích Như Điển đã đem
đến cho Phật tử Úc Châu hai tài liệu rất hữu ích đó là:
-
ĐẶC SAN VĂN HOÁ PHẬT GIÁO (40 năm Viên Giác Đức Quốc)
- MỐI
TƠ VƯƠNG CỦA HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA
Riêng tôi có lẽ vì bị ảnh hưởng một nỗi buồn man mác xâm chiếm
khi được nghe băng đọc AM MÂY NGỦ của HT Thích Nhất
Hạnh từ nhiều năm trước nên mặc dù đang học Kinh Đại bát Niết Bàn đã
xong phẩm 16 Bồ Tát thì liền bị thu hút bởi tác phẩm Mối Tơ Vương của Huyền
Trân Công Chúa và bắt đầu say mê theo dõi từng ý và từng lời của HT từ lời dẫn
nhập đến chương cuối (tất cả 481 trang) và tôi ao ước được nói lên
vài cảm nghĩ mặc dù tiếp theo phần hai đã có Đạo hữu Nguyễn Hiền Đức viết lời bạt
thật tài tình và dẫn chứng rất phong phú nhiều tài liệu ghi sai do nhiều lý do
.
Có lẽ vào thời đại nầy và nhất là tại các quốc gia thứ ba mà
ta đang sống hiện nay nên giới trẻ VN ít thiết tha khi nhìn lại lịch sử để biết
tại sao nước VN đến bây giờ mới có hình cong chữ S, nhưng có thể nói những ai ở
vào 50X, 60X đều biết rõ nguồn gốc hai châu mà Vua Chế Mân đã ban tặng cho Huyền
Trân Công Chúa như một sính lễ cầu hôn và từ đó mà VN đã mở mang bờ cõi về
phương Nam như thế nào!
Bây giờ xin cho phép tôi được trình bày vài ý nghĩ thô thiển
khi đọc tác phẩm này với những điều tâm đắc thật trung thực của một người rất
bình thường nhưng đã học lịch sử từ thời còn trung học và có nghiên cứu chút ít
Phật Pháp như một lời tri ân đối với HT Thích Như Điển, một danh tăng mà tôi rất
ngưỡng mộ và có lẽ tiểu sử Ngài đã được đạo hữu Nguyễn Hiền Đức giới thiệu
trong phần hai rồi.
Hòa Thượng Thích Như Điển khởi
sự viết từ đầu tháng 2 năm 2017 và hoàn tất một ngày đầu xuân 2018. Như vậy với
gần một năm Hòa Thương Thích Như Điển đã dùng thủ bút của mình để viết
tất cả 481 trang mà đã gom tóm lại hai triều đại cuối đời Lý và đời
Trần gần 400 năm trong 14 chương như sau:
* Mong được trả lại những gì của sự thật phải là sự thật chứ
không thể là những sự phán xét, nghi ngờ của những sự suy đoán phàm tục.
* Và để giúp cho những kẻ hậu bối như chúng ta thời
nay có một cái nhìn tương đối khách quan hơn khi nhìn về Huyền Trân công chúa của
một thời xa xưa đã đi vào lịch sử dân tộc và Đạo Phật VN mà cho tới nay nhiều sử
sách vẫn chưa cập nhật lại.
Từ lời dẫn nhập của tác phẩm tôi bổng nhớ lại vài điều học được
trong MỤC ĐÍCH CỦA CUỘC SỐNG do K.Sri. Dhammananda được Minh Nguyên
dịch trong VHPG 131 xuất bản 15/6/2011 thì: "Người ta không biết họ
thực sự là ai và điều gì họ mong đợi, như một hệ quả họ hiểu sai mọi thứ và
hành động theo sự tưởng tượng của họ và vì vậy cho đến bây giờ con người vẫn bị
bao bọc bởi lớp võ vô minh."
Cũng như các tác giả khác cho rằng "con người vốn
đã phức tạp... xin đừng tạo thêm hai chữ giá như" và
khuyên ta không nên kết luận bất cứ điều gì chỉ bằng vào những nhận xét bên
ngoài.
Đại Sư người Thái Lan Ajahn Chah trong "Chỉ là một cội" có khuyên chúng ta "trong mọi trường hợp đều
phải thấy rõ hai mặt của một vấn đề" Và có nhiều việc đừng nên nghe
mà chỉ nhìn vì con người đều có những đức tánh xấu: Tham, sân, si, mạn, nghi,
ác kiến mà trong đó Nghi rất quan trong vì đa nghi mọi thứ về nhiều mặt...
Trước khi ghi lại những gì đã học được trong từng
chương của tác phẩm cũng cần giới thiệu phần hai của tác phẩm để bạn đọc sẽ nhận
thấy sự khác biệt của điều tôi tiếp thu bao kinh nghiệm từ tác phẩm này bạn nhé!
"BƯỚC ĐI VÀO LÒNG MUÔN DÂN", được mượn tên
bài hát của cố nhạc sĩ Phạm Duy ca ngợi công trạng của Công Chúa Huyền Trân
là phần cuối của tác phẩm này đã được đạo hữu Nguyễn Hiền Đức phân
tích kỹ về lối hành văn và cách hư cấu một tác phẩm cũng như đã hoàn toàn đồng
ý với những lập luận sâu sắc và sự tham khảo lịch sử trên các mạng của Hòa Thượng và
kẻ hậu bối này cũng đồng quan điểm như vậy.
Tuy nhiên khi đứng về mặt một người thuộc thế hệ 50 X và từng
sống một thời gian dài trên quê hương ít nhất là từ 35 năm trở lại, tôi xin được
nêu ra những cái thấy theo quan điểm của người Phật tử và rất khiêm nhượng để
thấy rằng mình vẫn còn dành chút tình cảm thiết tha về quê hương VN, mời bạn
hãy cùng tôi tìm gặp lại những nét tinh tuý của tác phẩm Mối Tơ
Vương của Huyền Trân Công Chúa qua ngòi bút rất chân thật và thấm đượm đạo lý
nhà Phật của Hòa Thượng Thích Như Điển.
Và tự dưng những điều ghi nhận rất trung thực của
tôi đối với tác phẩm này dường như cũng đã được ấp ủ thâm sâu mà chưa bày tỏ
bao giờ... nay mới được bộc lộ.
Trong chương một: Nỗi niềm đơn độc của Vua Lý Huệ Tông -
Hoàng Đế của triều Lý vừa là Thiền Sư Huệ Quang xuất gia tại chùa Bút Tháp vào
tháng 10/1224.
HT đã kết luận bằng một câu mà ai có học Lịch sử Phật giáo VN
của Cố HT Thích Thiện Hoa đều nằm lòng như sau "Cho hay tất cả những ông
Vua đầu triều đại đều là những anh hùng dân tộc, còn những kẻ sau cùng thừa hưởng
được giang sơn gấm vóc của tiền nhân đều không biết quý trọng và gìn giữ quốc
gia mà chỉ lo đam mê tửu sắc và trác táng rượu chè nên đã tạo cơ hội cho những
kẻ có gan... sẽ tạo dựng một gia tộc mới". Mà người có công và cũng có tội
rất nhiều trong giai đoạn lịch sử này là TRẦN THỦ ĐỘ và người đọc phải học
được câu "Mới hay! Cái công và cái tội bao giờ cũng kề cận nhau" để
khi làm một việc gì nên suy xét cho cẩn thận vừa lợi mình và lợi người.
Tôi cũng học được ý nghĩa tạo hình của một cái tên theo Hán
nôm, dù rằng đó chỉ là một giả danh nhưng cái tên LÝ SÁM (tên thực
của vua Lý Huệ Tông) đã nói rõ vận mệnh một đời người... đó là chữ Sám gồm chữ
Nhật đứng ở trên và chữ Sơn đứng ở dưới theo định nghĩa dân gian thì mặt trời
đã xuống đến núi thì hoàng hôn đã đến và báo hiệu cho một triều đại sắp đổi
ngôi...
Tôi cũng học được ý nghĩa sâu xa của một câu tục ngữ theo hai
lối nhìn của kẻ phàm phu và một người có học Phật pháp đó là "Nhỗ cỏ phải
nhổ tận gốc"
Theo Trần Thủ Độ thì có nghĩa là phải dẹp hết con cháu nhà họ
Lý, còn theo người hiểu theo lời Phật dạy là phải làm sao nhổ cho hết cỏ vô
minh vốn đã nhiễm sâu nơi cội rễ của con người...
Vào đến chương hai TRÔNG VỜI CỐ QUỐC... BIẾT ĐÂU
LÀ NHÀ ta nhận ra được điều nhân nghĩa trong một xã hội Quân chủ thật
đắng cay muôn phần (trang 30) thế nên Hoàng tử Lý Long Tường đã cùng 6000 người
trong thân tộc một đi không nhìn lại cố hương, để rồi sau đó những hậu duệ của
Hoàng tử như Lý Thừa Văn (Tổng Thống Nam Hàn thập niên 1958) như Lý Xương
Càn, Lý Việt Quốc đã làm nên một thế hệ người Việt tại Triều Tiên mà lịch
sử chưa hề viết lại.
Chúng ta phải cám ơn HT Thích Như Điển người đã tìm được bộ sử
của Bác sĩ Yên Tử Trần Đại Sĩ viết lại sau khi bỏ công về Triều Tiên truy tìm
nguồn cội Nhà Lý còn sót lại. Dựa vào niềm đau ly hương, chiêm nghiệm về cuộc
thế vô thường đúng theo giáo lý Phật Pháp ai đọc đến chương này cũng đều ngậm
ngùi cho sự trùng hợp xảy ra cho dân tộc VN chúng ta.
Sang đến chương ba CHỐN KINH THÀNH: Thăng Long... hoài cổ.
Tôi thích nhất bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan mà Hòa Thượng
đã mượn để nói lên sự điêu tàn khi một triều đại bị cáo chung mà hầu như chúng
ta ai cũng đã chứng kiến.
Từ niềm hoài cổ đó Hòa Thượng đã lồng nhiều câu chuyện Phật
Giáo của nhiều quốc gia khác và để chỉ ra tuy nhà Trần chủ trương Tam giáo đồng
quy nhưng chưa chú trọng đến giáo lý Phật thừa "Tất cả chúng sinh đều có
Phật Tánh".
Còn nữa tôi lại biết được Triều đại nhà Trần là một triều đại
quá rắc rối về vấn đề hôn phối cận huyết mà điển hình là Công chúa Huyền Trân
không biết phải gọi thế nào cho đúng cách... (trang 423) "Mẹ ta là Khâm
Từ Hoàng Hậu đứng về bên nội, nhưng đứng về bên ngoại Mẹ chính là Cô của Ta"
Tuy Hòa Thượng có nhắc đến bài kệ của Kinh Nhát Dạ Hiền Giả để
nói đến điều Phật dạy là sống ngay trong giây phút hiện tại này để không hối tiếc
về quá khứ và không mơ ước tương lai... nhưng có mấy ai đã hiểu rằng thời gian
thì vô cùng và không gian là vô tận cho nên lịch sử cứ lập lại và tiếp diễn...
Chương bốn: Nhà Vua Trần Nhân Tông (1258-1308)
(Ngày nay chúng ta còn tôn xưng Ngài là Điều Ngự Giác Hoàng
hay Phật Hoàng Trần Nhân Tông)
Nếu như đạo hữu Nguyễn Hiền Đức có biệt tài khéo léo dẫn chứng
các điều mà các sử gia khác đã viết... có liên quan đến đề mục mà
tác phẩm đã trình bày thì khi đọc tới chương bốn này tôi lại ngộ ra một điều mà
trước đây thường thắc mắc. Thì ra Văn tức là Người và một đọc giả vì sao có
thích thú với những tác phẩm của tác giả đó, có lẽ ít nhất phải có một chút gì
tương hợp về tính cách hay cách nghĩ suy tư và ít nhất trong nhiều kiếp đã có mối
tương quan nào đó ... Ý tôi muốn nói là những bài thơ Ngài mượn để miêu tả một cảnh
hoang sơ điêu tàn hay một cảnh thanh tịnh trầm mặc của một ngôi chùa đều là những
bài thơ ruột của tôi như bài Bầu trời, cảnh Bụt của Chu Mạnh Trinh mà tôi đã
chép và đã học thuộc ngâm nga mấy trăm lần và nó cũng là nguyên nhân dẫn tôi đến
con đường nghiên cứu Phật Pháp từ khi được nghe lại từ Cố HT Thích Tâm Thanh
trong những bài pháp thoại Kinh Pháp Hoa...
Trong chương này nếu ai muốn học thêm về lịch sử Thiền phái
Trúc Lâm sẽ rất tự hào để biết Tổ Sư sáng lập là người thật nhiều Phước báu và
đã có truyền thừa thứ hai tiếp nối cho thế hệ mai sau... và cũng để tự hào rằng
chính Vua Trần Nhân Tông là người đã làm một việc thật ý nghĩa vô cùng cho Phật
giáo VN đó là phái người sang Trung Hoa thỉnh Đại Tạng Kinh bằng chữ
Hán về cho xứ Đại Việt để rồi sau nhiều thế hệ... nay ta đã có toàn bộ Đại tạng
kinh được dịch ra tiếng Việt.
Và cũng chính trong chương này ta mới hiểu được vì sao có cuộc
hôn nhân giữa Vua Chiêm Thành lúc bấy giờ là Chế Mân (1303) và Huyền Trân Công
Chúa khi tuổi đời quá khác biệt và cũng chính trong chương này tôi rất
thích thú khi tìm hiểu vì đâu mà có những pháp hội và lễ nhạc khi tụng kinh
siêu độ hay các đàn tràng chẩn tế.
Lại một lần nữa những ai không tin vào những điềm thị hiện của
các Bồ tát giáng trần thì sẽ hiểu rõ vì sao Ngài đã được Ông nội Trần
Thái Tông và Phụ Hoàng Trần Thánh Tông đặt cho tên là Kim Tiên đồng
tử và sẽ rất ngạc nhiên khi biết vào lúc mệnh
chung Ngài lại được nhạc trời chúc tụng và mây 5 màu vần vũ bay ra từ nơi giàn
hỏa và sau khi thiêu lại có vô số xá lợi nữa.
Và cũng trong chương này ta còn biết được Điều Ngự Giác Hoàng
đã đễ lại biết bao nhiều là thi phú ngoài Cư Trần Lạc Đạo mà chúng ta đã học.
Tôi đã học hỏi thêm rất nhiều điều trong chương này vì sao?. Các bạn có tin rằng những bài thơ dẫn chứng trong đây tôi đều được tôi ghi chép
lại trong tập sách của tôi. Đó phải chăng là yếu tố mà tôi thích thú khi xem
tác phẩm này... Kính xin chân thành cám ơn Hòa Thượng đã nêu ra
nhiều chi tiết mà đến ngày nay kẻ hậu bối này mới có cơ duyên được may mắn tiếp
thu. Quả là biển học rất mênh mông!.
Chương năm: Tuệ Trung Thương Sĩ (1230-1291) vừa
là Thầy của Vua Trần Nhân Tông vừa là anh vợ của Vua Trần Thánh Tông vừa là Thiền
Sư nỗi tiếng với Thượng Sĩ Ngữ Lục
Chương sáu: Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc
Tuấn (anh em chú bác với Vua Trần Thánh Tông)
Qua ngòi bút của HT Thích Như Điển, hẳn
ai cũng bị cuốn hút vào những trang sử hào hùng vào hội nghị Diên Hồng vào Hịch
tướng sĩ, Bình ngô Dại cáo... để rồi nung đúc, thắp sáng trong ta niềm
tin yêu về một dân tộc hào hùng với 4000 năm văn hiến trong những cuộc chiến đấu
ngoại xâm. Ước mong lớp trẻ ngày nay lưu tâm lại lịch sử này như Hòa Thượng đã
dành hết cảm xúc của mình để trải lòng ra cho hậu thế!
Chương bảy: Công Chúa Hoàng Triều
Huyền Trân Công Chúa là con gái út của Vua Trần Nhân Tông (Ngài có tổng cộng hai trai và hai gái và trưởng nam chính là Vua Trần Anh Tông).
Công Chúa được thừa hưởng một nền giáo dục tốt nhất và đúng với
căn cơ của mình nhất vì đã có điều kiện để nghe những câu nói rất
thâm thúy của Phật pháp từ lúc 7 tuổi và đã gieo trồng được trong tâm thức mình
những hạt giống từ bi, đạo đức để biết thế nào là giải thoát luân hồi
mặc dù đang sống trong cảnh xa hoa lộng lẫy giữa thế gian đầy hệ lụy.
Chương tám: Ngàn dặm gió sương
Tiêu đề này đã làm tôi phân vân rất nhiều... đã ẩn chứa điều
gì?
Phải đọc đi đọc lại nhiều lần tôi mới nghiệm ra được những điều
triết lý mà tôi đã học từ lâu đó là:
* Chuyện gì phải xảy ra, nó sẽ đến đúng thời
và đúng lúc.
** Tất cả đều xoay trong chữ Nhân duyên, nghiệp,
chánh báo và y báo và cả ba nhân vật trong tác phẩm này Vua Trần
Nhân Tông, Vua Chế Mân, Huyền Trân công chúa đều nằm trong lưới trùng trùng
duyên khởi của cái gọi là định mệnh cho nên đã khiến xui Điều Ngự Giác Hoàng muốn
đi du hành khất thực từ núi Yên Tử xuống về duyên hải miền Trung.
Đó là lý do từ 1294 Vua Trần Nhân Tông đã xuất gia và truyền
ngôi lại cho vua Trần Anh Tông và Ngài có ý định thăm dân cho bết sự tình hay
cũng muốn dạy chút ít cho dân về cách quy y Tam Bảo và thực hiện ngũ giới hay
hành thập thiện
Không biết Ngài khởi sự lúc nào mà sách chỉ ghi đầu năm 1301
khi qua khỏi đèo Hải Vân thì lại được Vua Chế Mân đưa về nước Chiêm
Quốc với nghi lễ đón tiếp long trọng và Ngài đã nhận ra dân tộc này
tuy không hùng mạnh như các nước ở phương Bắc nhưng tinh thần và cách cư xử thật
chân thành.
Chính thời gian 9 tháng trú ngụ tại nơi đây Ngài
đã cảm nhận một điều: "có lẽ nhờ ảnh hưởng của Phật Giáo và Ấn
Giáo đã tạo nên sức mạnh tâm linh này" nên Ngài khởi lòng từ bi
nhân hậu muốn đền đáp một chút gì cho Vua bằng cách muốn
gả con gái út của mình đang ở vào lứa tuổi đẹp nhất của thời con gái với hy vọng
trong tương lại hai nước sẽ giao hảo tốt đẹp trong tình gia đình, mà không biết
rằng sợi tơ của nghiệp nhân quả đã đến lúc đúng thời phải hiện ra thôi...
Và dù lịch sử có chê trách nhưng ai đã thấy được đất Quảng
Nam ngày nay chính là cổ cung của Chiêm Thành nên Mỹ Sơn vẫn còn vài tháp chàm
cho đến bây giờ?
Phải chăng các bạn cũng biết trước khi đi du hành Điều Ngự
Giác Hoàng chưa hề có một ý nghĩ nào về điều này. Âu tất cả là Duyên chăng?
Chương 9: Mối tơ vương dần hiện
Sau khi quay về lại Núi Yên Tử vào cuối năm 1301 Điều Ngự
Giác Hoàng đã ngự tại Ngọa Vân Am (Am mây ngủ) và cho lệnh muốn đàm đạo với
gia đình và các quần thần về lời hứa với Vua Chế Mân và chính thức tin tức đúng
như lời đồn đãi đã được loan truyền đến tai công chúa mấy tuần qua và đã tạo một
niềm ưu tư khó tả hằng đêm và nàng chỉ biết cầu nguyện đến Quan Thế Âm Bồ tát.
Ta học được gì... chỉ khi nào đau khổ ta mới cầu nguyện với
một đấng siêu linh để cứu giúp nhưng...? Có ai biết đâu chỉ là duyên tự nghìn
kiếp... trong lúc nào đó sẽ phát sinh....
Và chuyện gì phải đến thì đã đến nhưng... sau khi phái đoàn
Chiêm Thành dâng sính lễ cầu hôn thì Vua Trần Anh Tông và Thượng tướng Trần Khắc
Chung đã đưa ra một quyết định là sính lễ phải là châu Ô và châu Lý và ngày cưới
phải đời từ 3 đến 4 năm khi công chúa được 18 tuổi.
Chương 10: Tơ trời ai dệt
Qua những lời đối đáp giữa Phụ vương Giác Hoàng và Huyền Trân
công chúa cũng như cuộc triệu tập những bô lão khắp nơi trong nước của Vua Chế
Mân trong việc dâng hai châu Ô, Lý để làm sính lễ thì tất cả ai ai đều thốt ra
một câu "Lương duyên tiền định"
Tôi cũng đồng ý như vậy nhưng trong thâm tâm rất ngậm
ngùi cho hai chữ "Phận gái thuyền quyên" và theo định luật của ngàn
xưa nếu muốn giữ chữ Hiếu làm đầu, thì Huyền Trân công chúa đành phải
chấp nhận hai chữ XUẤT GIÁ thay vì ý muốn XUẤT GIA mà nàng muốn thực
hiện từ thuở nhỏ.
Cũng phải thấy được những điều hiểu biết của HT Thích Như Điển
về lịch sử Phật Giáo Tây tạng khi Ngài dùng lời khuyên dạy của Giác Hoàng cho
Công Chúa như sau: "Phải hành trì Pháp Đại thừa và hãy làm sao cho giống
như Công Chúa Văn Thành đời nhà Đường bên Trung Quốc sang làm dâu bên Tây Tạng..."
Chương 11: Công Chúa Vu Quy
Đầu tháng 7 năm 1306, lúc này công chúa Huyền Trân đã được 18
tuổi và cũng là ngày công chúa phải bước chân xuống thuyền để được đưa về nhà
chồng Xứ Chiêm Thành với ngôn ngữ Champa.
Vua Trần Anh Tông đã cữ phái đoàn hộ giá gồm Trạng
Nguyên Mạc Đĩnh Chi, Ngự Sử Đoàn Nhữ Hài, Thượng tướng Trần Khắc Chung và nhiều
quan quân trên nhiều chiếc thuyền tại cửa biển Ô Long nhưng vì để nhớ đến nghĩa
lớn hy sinh của em minh, Vua đã đổi tên là Từ Dung Hải môn.
Một đám cưới hoàng gia nào cũng lộng lẫy huy hoàng không cần
mô tả ta cũng tưởng tượng được nhưng điều tôi học được ở đây là sự hội nhập
khéo léo của Công chúa nay đã được tấn phong là Hoàng hậu Paramecvari.
Có lẽ nhờ vào sự giáo dục của Khâm Từ hoàng hậu về công dung
ngôn hạnh và nhờ các vị Thầy dạy tiếng Champa và lễ nghi tập tục truyền thống
trong suốt 3, 4 năm qua mà Công Chúa đã thu phục hoàn Vua Chế Mân và
quan thần bá quan văn võ Chiêm Thành.
Tuy ngày vu quy này rất quan trọng nhưng điều tôi học thêm được
về lịch sử lại rất thích thú với người con Nam bộ của đát Việt như tôi, dù đôi
lần có ghé thăm miền Trung qua những chuyến du lịch xuyên suốt từ Nam ra Bắc
vào 2003 nhưng những địa danh như Phan Rang, Phan Rí, Mỹ Sơn, Thị Nại, Bình Định
dường như còn xa lạ mãi đến bây giờ mới được hiện rõ lại trong tâm trí tôi và
cũng như đến bây giờ tôi mới biết hai châu Ô và Lý chính là vùng đất Thuận Hoá,
Phú Xuân, Thừa thiên Huế ngày nay cũng như nơi công chúa được đưa về Vijaya chính
là Bình Định ngày nay và cũng như Indapura (Quảng
Nam ngày nay) nằm giữa Cà Ná và Vĩnh Hảo mà nay gọi là Bình Thuận và Ninh Thuận
đó.
Kính xin cảm niệm ân Đức của Hòa Thượng khi Ngài viết tác phẩm
này.
Và điều tôi thầm cảm phục nhất chính là lòng ước ao trong tâm
khảm của hoàng hậu Paramecvari là làm sao cảm hoá được chồng
mình hướng về Đạo Phật để cho tinh thần từ bi và trí tuệ của Phật Giáo được lan
tỏa trong dân gian.
Chương 12: Cái tang chung
Tháng 5 năm 1307 tin Vua Chế Mân băng Hà được loan truyền
cũng là lúc hoàng hậu Paramecvari đang mang trong mình giọt
máu của Quân vương và sắp đến ngày khai hoa nở nhụy và ở trong cái tuổi 20 chưa
hưởng được gì của sum họp thì đã phải sầu chia ly.
Kinh đô Đồ Bàn đang phủ một màu tang trắng, chúng ta tuy chưa
bao giờ ở trong giai đoạn này nhưng chắc hẳn ai cũng biết thế nào là trăm đắng
ngàn cay vừa lo sợ vừa không biết phải xử thế như sao? Nhất là khi hoàng hậu lại
được nghe tin rằng khi quân vương băng hà thì Chánh hâu cũng phải được hỏa táng
theo, và dù Bà chỉ là đệ nhị hoàng hậu nhưng ai có thể cam kết một
điều gì đây!!
Thế là Hoàng hậu Paramecvari phải tìm cách mật tin
về cho hoàng huynh mình (Vua Trần Anh Tông để may ra có thể tìm cách cứu giúp
mình với bao nỗi nghi vấn sợ hãi đang xâm chiếm từng ngày... Nhưng đó chỉ là những
tia hy vọng mong manh vì Hoàng hậu thừa biết rằng dù ngựa có phi nhanh đến đâu
thì cũng cả tháng sau hoàng huynh mình mới nhận được tin.
Những điều này tôi chưa bao giờ được biết chi tiết như thế
này trong lịch sử nhưng tôi rất vui mừng khi đọc tiếp là trong ngày hỏa táng
Vua Chế Mân ngay cả chánh hậu Tapasi cũng đã thoát nạn. Là phụ nữ
ai mà không có tâm trạng này hơn nữa là Phật tử các bạn nhỉ?
Thế nhưng với sự khôn ngoan tính toán của một minh vương như
Vua Trần Anh Tông Ngài đã cho Thượng tướng Trần khắc Chung dâng thơ
đến vua Chế Chi để xin làm một buổi chiêu hồn cầu siêu cho quốc vương vừa băng
hà tại cửa biển Thị Nại theo nghi lễ của Đại Việt.
Và đây là một cuộc bắt cóc Huyền Trân Công Chúa
trên chiến thuyền của Thượng Tướng Trần Khắc Chung mà cũng từ đó những sai
khác, những thị phi về việc trai tài gái sắc lại được nằm trên đầu môi của kẻ
thị phi khi cho rằng lửa gần rơm... sẽ bén!!
Và đó cũng chính là điều mà HT Thích Như Điển muốn sự thật phải
trả lại về cho công lý, ta không thể nào hiểu được... nếu không đọc
đến đây và vì sao trong lời dẫn nhập HT lại đem tiểu sử cùng hành trang tu tập
của Thượng tướng trong những năm phục vụ dưới hoàng triều... khi mà chiến thuyền
này thay vì chỉ cần hai tháng là về đến Thăng Long thì hai người phải lênh đênh
hơn 10 tháng....
Có biết đâu rằng... họ đã gặp rất nhiều cơn giông bão thường
xảy ra vào mùa hạ.
Và cuối cùng câu chuyện tình giữa Trần Khắc Chung và Huyền
Trân công chúa chẳng qua chỉ là do người đời thêu dệt mà thôi... Và
khi Thượng tướng qua đời, người đã được tặng tước hiệu cao quý thứ hai trong
quân thần đó là chức danh Thiếu Sư.
Hòa Thượng đã đánh gục những sợ hãi về thị phi khi lập lại những
câu trong dân gian như sau: Người xưa thường nói "tự mình có thể lấy hai
tay để bịt lỗ tai lại để không nghe những chuyện thị phi của thiên hạ, nhưng
không ai có thể lấy tay của mình để bịt chính cái miệng của mình". Và cuối
cùng tôi rất tâm đắc qua câu "Chuyện họ muốn nói, cứ để họ nói còn chuyện
mình làm, mình hãy cứ làm". Thưa các bạn đó phải chăng là một cách sống
khôn ngoan nhất dù ở thời đại nào!
Cũng qua giai đoạn nầy HT dã giải tỏa những định kiến về một
cái tên cho rằng tên biểu trưng cho vận mệnh mình đó là "Khắc
Chung "có nghĩa là điềm chẳng lành với nước nhà, rồi đây nhà Trần sẽ mất
vào tay Ông. Bạn ơi bây giờ tôi có nên tin về ý nghĩa của một cái
tên chăng, hay đó chỉ thật sự là giả danh.
Trong chương cuối này HT đã lồng những bài pháp vào hoàn cảnh
và tâm trạng của Huyền Trân công chúa khi vừa về đến Thăng Long
Thành, qua những tháng suy tư trên biển và qua những lời đối đáp với mẹ, với
hoàng huynh Trần Anh Tông để giải thích cho người đọc biết thêm về Quy y tam bảo,
về sự Vô thường qua những mất mát ra đi của Phụ hoàng, của người chồng,
về độc cư nhàn cảnh (sự giải thoát hiện thế) hay những lời biện hộ thật
dõng mãnh cho những người nữ nào muốn phát tâm xuất gia như sau "Tại sao
một người nữ khi được sinh ra không dám thực hiện ý chí của một bậc Đại Trượng
Phu để xa lìa đời tìm Đạo mà vương chi vào chốn bụi hồng?"
Và Hòa Thượng Thích Như Điển cũng dành chương này để tán thán
công đức và tri ân Huyền Trân công chúa trong những
năm tháng xuất gia đã tinh tấn giữ đúng phạm hạnh của Tỳ kheo
Ni Hương Tràng từ 1313 đến 1340.
Và cuối cùng thì công hay tội vẫn còn nằm trong
vòng lý nhân duyên, trùng trùng duyên khởi mà nếu chúng ta chưa đủ Tuệ giác để
có thể nhìn sự vật thì mọi chuyện vẫn còn nằm trong vòng điên đảo, đảo điên... và Hòa thượng chỉ mong chúng ta hãy hiểu đúng lịch sử của từng giai đoạn đã
trải qua.
Lời cuối của bài viết,
Kính bạch Hòa Thượng, cùng các bạn hữu,
Đây chỉ là những ý nghĩ rất thô thiển của một người còn rất
sơ cơ nhưng may mắn được đọc rất nhiều sách ngay từ lúc 8 tuổi vì phụ
thân là một nhà văn cũng là chủ bút nhật báo hơn 45 năm trong nghề và con được
theo cha tiếp xúc nhiều trên văn đàn và đã tiếp thu rất nhiều quan điểm. Lần
này được phước duyên đọc lại câu chuyện Huyền Trân công chúa bao nhiêu điều ấp ủ trong
tiềm thức đã khơi dậy lại và con mạo muội trình bày những ý nghĩ tương đồng khi
đọc qua tác phẩm này và xin kính mong nhiều bạn hữu hãy tìm đọc tác phẩm Mối Tơ
vương của Huyền Trân công Chúa để có một tư duy mới và nhất là hãy tin rằng một
người nếu có tu tập Phật Pháp và có được căn bản đạo đức nhất
định phải là người hữu ích cho xã hội, Quốc gia.
Kính xin cung kính trước sự hy sinh thật lớn lao của Huyền
Trân công chúa và thành tâm bái tạ công đức và phạm hạnh của Ni sư
Hương Tràng
Kính xin đa tạ và tri ân vô vàn công đức Hòa Thượng
Thích Như Điển đã dày công nghiên cứu lại rất nhiều chi tiết mà lịch
sử đã bỏ qua nhất là về Phật Pháp và về Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn
hay Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Quốc Tụng.
19/4/2019
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét