Tôi bao giờ cũng hình dung Tết gắn
liền với đất Bắc, nơi đi trước mùa xuân phải có một mùa đông. Mùa đông ở nơi
này mỗi năm mỗi khác, nó có thể lạnh nhiều hay lạnh ít, độ ẩm có thể cao hay
thấp, nhưng nhất thiết không thể không có gió bấc và mưa phùn. Không khí se lạnh
làm cho con người phải co ro một chút, rùng mình một chút, chính là sự chuẩn
bị không thể nào thiếu được để cho ta bước vào một cái mốc thời gian mới đối
với mỗi người mỗi nhà. Thành thử ở Sài Gòn trùng vào những dịp xuân sang tôi
vẫn không thấy lòng mình rung động cảm giác về cái Tết ruột rà, cái Tết đích
thực. Xin các bạn Sài Gòn tha lỗi cho tôi nếu trong những lời của tôi có gì
làm các bạn phật ý, nhưng mãi tới nay, sau nhiều Tết Sài Gòn, tôi vẫn chưa
quen được với một ngày đầu năm phải phơi đầu dưới cái nắng chói chang và trầm
mình trong cái nóng hầm hập, làm cho con người phải tìm đến với trái dưa hấu
mọng nước trước khi ngồi vào mâm cỗ Tết có đủ thịt mỡ và dưa hành, bánh chưng
và giò thủ. Ở mỗi nhà vẫn nghi ngút trầm hương thật đấy, ngoài đường xác pháo
toàn hồng vẫn tràn ngập lối đi thật đấy, nhưng cái Tết dường như vẫn còn lạc
bước nẻo nào, nó chưa hẳn là Tết, chưa đủ là Tết. Đành phải viện hai câu thơ
mà nhiều người vốn không yêu thơ cũng thuộc, để giải thích nỗi nhớ về đất Bắc,
để biện hộ cho cái cảm xúc không phải đạo của mình trước đất Sài Gòn cũng đã
trở thành không kém thân thương:
Tự thuở mang gươm đi mở cõi,
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long.
Huỳnh Văn Nghệ
Chuyện đó chẳng có gì lạ. Người Việt
phương Nam nào mà chẳng có một cái quê còn nhớ hay đã quên, có biết hay không
biết, nằm ở phía ngoài kia.
Người xông nhà chúng tôi rất sớm,
khi còn tối đất, sáng mồng Một năm Đinh Tỵ (1977), là nhà văn Nguyễn Tuân.
Người xông nhà, theo sự mê tín từ
xưa, là một nhân vật rất quan trọng đối với vận mệnh gia chủ. Tùy theo người
xông nhà là ai, năm đó ngôi nhà sẽ có nhiều may mắn hoặc xui xẻo. Những người
cẩn thận thường phải tính chuyện mời ai đến xông nhà mình từ lâu trước khi Tết
đến. Người xông nhà nhất thiết phải là người đang làm ăn phát đạt, con cháu đầy
đàn mà hòa thuận, hoặc một bậc lão niên tài cao đức trọng, chuyện này còn tùy
thuộc ở kỳ vọng của gia chủ mong muốn điều gì.
Bác Nguyễn, nổi tiếng về tính kỳ quặc
của mình, chắc hẳn chọn nhà tôi để đến xông đất đầu năm vì biết chắc chúng
tôi không kiêng kỵ, nếu năm đó có chuyện gì không hay xảy đến cho chúng tôi
thì ông cũng không bị trách. Kể ra được (hay bị) một nhà văn đến xông nhà
thì, theo lệ thường, chẳng hay ho gì. Xét về danh giá, theo truyền thống hiếu
học và trọng kẻ sĩ của đất Bắc, nhà văn hẳn là bậc đáng trọng rồi. Nhưng xét
về mặt tài lộc thì bất kỳ nhà văn nào cũng nằm ở hạng bét trong thứ bậc giàu
nghèo. Tất nhiên, không kể những quan chức bổng nhiều lộc lắm, lại rảnh việc,
cũng rửng mỡ xông vào làng văn mà viết sách in thơ.
Bố tôi rất quý Nguyễn Tuân. Ông coi
Nguyễn Tuân hơn là một người bạn thời thanh niên. Trong cái nhìn của ông,
Nguyễn Tuân là một trong những đại diện cuối cùng cho lớp kẻ sĩ Bắc hà mỗi
ngày một hiếm, những người cho tới lúc ấy còn biết coi tiền bạc như của phù
vân, không cúi đầu vâng dạ trước quyền lực. Riêng đặc điểm sau Nguyễn Tuân phủ
nhận. Ông luôn phô rằng mình biết sợ, hơn thế, chẳng những ông sợ vừa mà còn
sợ lắm lắm. Cái sự phô ấy làm cho người ta lầm tưởng rằng ông không sợ.
Ông đến xông nhà chúng tôi trong
chiếc áo choàng màu cứt ngựa. Bỏ nó ra, bên trong vẫn là bộ áo cánh đen thường
nhật. Trời rét ngọt, ông mặc thêm áo len và quàng khăn, đội mũ bê-rê. Bộ áo
cánh đen là cách diện của ông, của Nguyễn Tuân, bao giờ cũng phải khác người.
Tôi mở cửa đón ông, hơi ngỡ ngàng một chút. Tôi không chờ đợi một người xông
nhà không phải người trong gia tộc, những năm ấy người ngoài ít dám tới nhà
chúng tôi lắm. Lại càng không chờ đợi Nguyễn Tuân với sự sợ hãi của ông.
Nhưng không ai đi hỏi người đến xông nhà rằng tại sao ông đến. Với bất cứ người
xông nhà nào ta chỉ có thể vồn vã chào đón và đem bánh pháo đầu tiên của ngày
mồng Một ra đốt. Nguyễn Tuân đoán ra câu hỏi câm lặng của tôi. Ông ý nhị nói:
- Nói thực, mình đến đây sớm vì chẳng
biết đi đâu. Mà lại rất thèm đi dạo một lúc trước khi bình minh ló rạng trong
cái ngày đầu năm này. Lang thang mãi rồi mình thấy mình đến đây. Không sao chứ?
Bố tôi nghe léo xéo bước ra, tươi
cười ôm lấy bạn dìu vào nhà. Ông sai tôi rót rượu, châm hỏa lò than để nướng
mấy con mực. Bố tôi biết Nguyễn Tuân không ưa đồ ngọt, khay mứt trên bàn chắc
chắn sẽ không được ông đụng đến. Ông ngồi xuống chiếu, xếp bằng tròn, giơ đôi
tay cóng sưởi trên hỏa lò. Lửa than làm vầng trán hói của ông bóng lên trong
căn phòng nhỏ của bố tôi. Bố tôi thường tiếp bạn thân trong căn phòng ấy chứ
không phải ngoài phòng khách. Hai người bạn già thân tình nhìn vào mắt nhau,
chạm ly trong im lặng. Cả Nguyễn Tuân, cả bố tôi đều không thích những lời ồn
ào.
- Ngon tuyệt - NguyễnTuân nhắp vài
nhắp rượu trong vắt với vẻ thích thú rồi ngửa cổ cạn ly.
- Làng Vân chính hiệu đấy!
Bố tôi nói, nét hài lòng hiện lên mặt.
Ông thích được chiều bạn và khi bạn vui, ông còn sướng hơn chính ông được
vui.
- Tuyệt!
- Mình phải đặt loại đặc biệt cho
cái Tết đoàn viên này.
Đúng vậy, đây là cái Tết đầu tiên
gia đình tôi đủ mặt. Không thiếu ai. Những Tết trước gia đình tôi tan tác.
Tôi ở trong tù. Cha tôi bị lưu đầy ở Nam Định.
- Hơn hẳn anh Trương Xá. Vào đến cổ
họng là biết ngay! - Nguyễn Tuân xác nhận.
Phận con cháu, tôi được phép ngồi
bên cạnh các cụ làm chân điếu đóm. Tôi thích nghe bác Nguyễn nói chuyện.
Trong câu chuyện của ông bao giờ cũng có một cái gì mới, một cái gì ngồ ngộ,
độc đáo mà không người nào khác có. Về đời sống cũng như trong văn chương,
ông là người uyên bác.
Tính về họ hàng theo đàng mẹ, tôi
phải gọi ông bằng bác. Nhưng ông rỉ tai tôi, một lần ở chỗ đông người:
"Họ xa rồi, cùng cánh văn chương với nhau, gọi thế nó mất đi cái sự bình
đẳng, gia trưởng lắm". Tuy miệng vâng dạ, tôi vẫn kính cẩn gọi bác xưng
cháu với ông. Mẹ tôi là người nghiêm khắc trong chuyện xưng hô lắm.
Chuyện vãn một lát, lại chuyện làng
văn làng họa, ai mới viết cái gì hay, bức hoạ cuối cùng của ai độc đáo, là đề
tài yêu thích của ông, Nguyễn Tuân hỉ hả ra về. Ông nói ông còn phải đến chơi
với Văn Cao ("bà Băng bà ấy kiêng. Mình phải đến muộn muộn một
tý!"), đến Nguyễn Sáng ("Tết nhất mà nó có một mình, buồn muốn chết!")
Ra khỏi cổng, Nguyễn Tuân dừng lại
hồi lâu trên hè, nhìn phố Hai Bà Trưng thưa thớt người đi lại vào sáng sớm
tinh sương, ông nghiêng đầu nói khẽ với tôi:
- Anh có thấy Hà Nội buổi sáng mồng
Một này thiếu cái gì không?
Tôi không cần động não để tìm câu
trả lời. Câu hỏi được đặt ra chỉ là cái cớ cho câu trả lời đã có sẵn, chắc chắn
là sẽ rất Nguyễn Tuân.
- Thiếu sương! - Nguyễn Tuân, mắt vẫn
nhìn chung quanh, thở dài.- Anh không nhận ra cái sự thiếu ấy, tôi không
trách. Anh còn quá trẻ. Ngày trước, sáng mồng Một bao giờ cũng có sương nhè
nhẹ, không nhiều, một chút gọi là có, nhưng đích thực là sương. Nó bay là là,
thoang thoảng, như có mà như không. Rét ngọt. Chỉ có trên các lá cây mới có
sương hiển hiện, lâu lâu đọng thành giọt, rơi xuống mặt mình, có khi lọt cả
vào cổ áo mình, rất là Tết. Đã mấy năm nay, vào ngày Tết mình cứ thấy thiếu
thiếu cái gì đó mà không biết là cái gì. Bây giờ mới hiểu ra: đúng là thiếu
nó, thiếu sương.
Tôi bàng hoàng trước nhận xét của
ông. Tôi nhớ đến những năm xa xưa khi tôi còn rất nhỏ. Đúng là Hà Nội những
ngày đầu năm ấy sương la đà trên mặt đường, lẩn khuất trong những bãi cỏ, bụi
cây.
- Thưa bác, có lẽ tại Hà Nội đông
dân thêm, nhiều nhà máy nhiều xe cộ, thành thử cái tiểu khí hậu địa phương
thay đổi, nhiệt độ do đó mà cao hơn trước!
- Đốt anh đi! Các anh bây giờ, đụng
đến cái gì cũng vội vã chỉ ra nguyên nhân rồi dài dòng giải thích, cứ như
chung quanh mình toàn một lũ thất học vậy. Các anh làm văn kia mà - không
nhìn tôi, ông nhăn mặt cằn nhằn - Tôi là tôi đang nói cái có, tôi nói cái hiện
hữu, nói cái cảm xúc mà cái hiện hữu ấy gây ra. Còn cái chuyện đi tìm cội nguồn
của hiện tượng là việc của người khác.
- Thế là mất đứt cái anh sương xuân
bảng lảng. Tiếc quá đi mất! - Nguyễn Tuân lại thở dài. Ông buồn thật sự.
- Thiếu nó, Tết Việt Nam nghèo đi,
mà không chỉ nghèo đi một chút đâu nhá, anh hiểu không? Đành vậy, sang năm phải
tìm cách đón giao thừa ở ngoại thành, may chăng còn có thể gặp lại nó.
Rồi đột ngột ông quay sang chuyện
khác:
- Này, năm nay giáp Tết mưa thuận
gió hòa, hoa đẹp lắm. Sao mấy hôm rồi không thấy anh đi chợ hoa?
Đã thành cái lệ, năm nào bố tôi và
Nguyễn Tuân cũng rủ nhau đi thưởng hoa ở Cống Chéo Hàng Lược. Có những buổi
hai ông la đà từ trưa tới tối mịt mới về đến nhà.
- Thưa bác, mấy hôm rồi cháu lại mắc
bận.
Tôi nói dối. Thực ra tôi không đi
vì tôi không thích chợ hoa. Cái mẩu phố hẹp có tên là Cống Chéo Hàng Lược
ngày thường đầy rác rưởi trong những ngày giáp Tết bỗng trở nên nhộn nhịp
khác thường. Trên là trời, dưới là hoa. Và người đi xem hoa, mua hoa. Những
cây quất trĩu quả vàng chen lẫn với các cành đào được cầm trên tay, các sọt
đan đựng đủ mọi loại cúc, loại hồng, lay-ơn, thược dược... Ở đây ồn ào quá,
nhiều trai thanh gái lịch quá. Nhiều gương mặt hãnh tiến quá. Tôi còn sợ nhìn
cái cảnh chợ chiều ba mươi Tết, khi những người bán hoa co ro trong manh áo mỏng,
cành đào trong tay, mặt ngơ ngác, lo âu chờ khách. Trong cái bầu không khí
vui vẻ quá nhân tạo ấy, bông hoa nào, cành hoa nào, chậu hoa nào cũng có vẻ tội
nghiệp bởi cái thân phận hàng hóa của chúng.
- Đào năm nay được mùa. Chợ nhan nhản
những đào là đào, giá lại hạ, nhà nghèo nhất năm nay cũng có đào Tết. Thế mà
đố có tìm ở Cống Chéo Hàng Lược được một cành nào như cành đào của bố anh.
Tuyệt! Không chê vào đâu được. Năm nào cành đào của ông ấy cũng làm tôi mê
man, cũng làm tôi sửng sốt: "Thằng cha giỏi thật, sao mà nó khéo chọn
đào đến thế!" Thôi, tôi về. Còn phải đến mấy nhà nữa, mà mình thì thích
cuốc bộ. Hôm nay tôi đến là để chúc mừng gia đình anh đoàn tụ. Mai có khi tôi
còn đến đây nữa. Để ngắm cành đào của bố anh.
Ngày hôm sau ông lại đến thật. Và
đúng là chỉ để ngắm có một cành đào mà thôi.
Bố tôi không phải là nghệ sĩ. Ông,
nói của đáng tội, đã từng là nhà báo. Mặc dầu cũng động tới chữ nghĩa, nhưng
nhà báo vẫn có cái gì nó khác với nhà văn (tất nhiên không kể những người có
hai nghề nhập một). Nhà báo không có tính lập dị thường gặp ở các nhà văn và
các văn nghệ sĩ, hay là tính cách kỳ quặc nào đó ở họ mà người đời quy cho là
lập dị. Có điều, như một người thuộc lớp nho sĩ cuối cùng còn rớt lại, mặc dầu
có Tây học, ông thích cuộc sống thanh đạm và rất yêu hoa. Trong nhà tôi, kể cả
những lúc khó khăn nhất, bao giờ cũng có hoa. Trước khi ông đi tù ở nhà tôi
là một vườn phong lan đủ loại, nổi tiếng trong những vườn phong lan ở Hà Nội.
Tết nào ông cũng cầu kỳ chơi hai thứ
hoa: thuỷ tiên và và đào.
Thủy tiên là thứ hoa không bình
dân. Nó không thèm nở nếu chẳng may rơi vào tay người không biết thưởng thức.
Để cho thủy tiên nở, phải biết nghệ thuật trổ thủy tiên. Con dao dùng để trổ
thủy tiên không phải là con dao bài bất kỳ, mà là một con dao dùng riêng cho
nó. Bố tôi mua củ thủy tiên về, giá rất đắt, hình như là phải nhập khẩu chứ
nước ta thời ấy chưa có cơ sở gây trồng. Thuỷ tiên có bề ngoài giống một củ
hành tây lớn, rất tầm thường, chẳng hứa hẹn một hương sắc nào. Chuẩn bị cho việc
gọt thủy tiên, bố tôi hì hục mài dao cho tới khi nó bén đến mức đặt sợi tóc
lên lưỡi dao mà thổi phù một cái thì sợi tóc lập tức bị đứt đôi, và đầu nhọn
của nó thì chỉ vô ý chạm ngón tay vào là máu ứa ra liền. Rồi ông còn phải ngắm
nghía hồi lâu cái củ hành nọ, cho tới khi quyết định đặt nhát cắt đầu tiên
lên mình nó. Những nhát cắt, nhát trổ chính xác được ông cân nhắc từng tý,
cho tới khi hài lòng đặt nó vào cái bát thủy tinh, cũng lại thứ dành riêng
cho nó.
Mẹ tôi chăm chú theo dõi bàn tay
khéo léo của bố tôi xoay quanh củ thủy tiên. Bà cũng là người khéo tay, nhưng
khéo tay ở những việc khác, chứ trổ thủy tiên thì bà chịu. Những Tết bố tôi vắng
nhà, trên bàn thờ ông bà ông vải chỉ có hoa huệ, thủy tiên thì hoàn toàn vắng
bóng. Hoa thủy tiên bắt đầu trổ những cánh xanh mập mạp cũng chẳng khác lá
hành là mấy, nhưng chúng nhỏ nhắn, ngắn và không vươn quá thành bát đựng. Người
gọt khéo có thể chỉ định đúng ngày hoa nở, khéo hơn nữa có thể đúng đến cả giờ.
Thủy tiên do bố tôi gọt bao giờ
cũng nở hết số hoa nó chứa trong mình vào đúng giao thừa, chính xác vào cái
giờ khắc thiêng liêng nhất của sự giao hòa giữa người thuộc cõi âm và người
thuộc cõi dương, giữa tổ tiên và con cháu. Bố tôi đứng lặng trước ban thờ ông
bà, đầu hơi cúi. Mẹ tôi đứng sau ông thì thầm khấn vái. Hương trầm ngát trong
nhà. Rồi pháo của một nhà nào đó nổ vang, kéo theo sau nó cả một đợt sóng triều
tiếng pháo râm ran.
Tôi không bao giờ thấy được hương
thủy tiên vào lúc thủy tiên nở hết hoa của nó trong hương trầm và khói pháo.
Sáng sớm mồng Một, rất sớm, khi trời đất đã lặng đi mọi tiếng động của sự đón
Xuân, lúc ấy mới thấy được hương thủy tiên thoang thoảng. Đó là một hương thầm
ẩn náu, thoang thoảng mà kiêu sa. Nó không để lại trong tôi một ấn tượng rõ rệt
nào. Tôi cũng không cảm nhận được cái đẹp của hoa thủy tiên. Mà cũng có thể
đó là do ảnh hưởng câu chuyện chàng Narkisoss trong thần thoại Hy Lạp mải mê
ngắm sắc đẹp của chính mình trong nước suối, mải mê đến nỗi ngã xuống mà chết
đuối, trở thành loài hoa nọ. Tôi không thích những người say mê chính mình.
Sau khi bố tôi qua đời, chẳng bao
giờ trong nhà tôi còn có hoa thủy tiên nữa. Nhưng hoa đào thì không bao giờ vắng
bóng trong những ngày Tết gia đình, với cách thưởng thức truyền thống mà những
thế hệ đi trước để lại.
Trước Tết một tháng, bố tôi, thường
có tôi đi theo, đạp xe lên vùng Quảng Bá, Nhật Tân, Nghi Tàm, nơi có những
nhà trồng hoa cha truyền con nối. Cùng với một chủ vườn nào đó đã trở thành
người quen, bố tôi đi thăm vườn và xem xét kỹ từng gốc đào để rồi cuối cùng
chọn lấy một cành thấp, ưng ý nhất. Tiền đặt mua cành đào được trao ngay cho
chủ vườn. Giá thường rất rẻ, lúc ấy chưa có ai mua đào. Ông chủ vườn rút con
dao nhíp trong túi ra, đánh dấu cành đào dành cho bố tôi. Chắc chắn nó sẽ
không bị bán vào tay ai khác. Bố con tôi hài lòng ra về. Tôi biết, trong óc bố
tôi đã hiện lên cành đào trong tương lai sẽ được đặt ở đâu, trong cái bình
nào ở nhà mình trong ngày Tết.
Khoảng hai bảy, hai tám tháng Chạp,
bố tôi mới lên vườn nhận cành đào về. Ông chủ vườn trao cành đào cho bố tôi với
vẻ tiếc rẻ, không ngớt lời khen bố tôi có con mắt tinh đời. Nhưng đó là cách
đánh giá của hai người biết chơi hoa với nhau. Người thường sẽ không mua cành
đào này. Nó xù xì ở phần gốc, có mấy cành đua dài và gân guốc, trên đó chỉ thấp
thoáng một số nụ.
Sau đó là phần sửa soạn cho cái đẹp
của cành đào. Bố tôi còn ngắm nó chán chê rồi mới lấy dao cắt bỏ một số cành
con, đem thui phần gốc, rồi trịnh trọng đặt cành đào vào trong lọ độc bình.
Đó là một cái lọ lớn, thường là lọ sành, nhưng phải thấp, miệng rộng, rất
bình dị, đến nỗi khi cành đào đã ngự trong đó thì không còn nhìn thấy cái lọ
đâu nữa. Cành đào được đặt trong góc nhà. Những cành đua của nó hướng về phía
cửa, khách vào có thể nhìn thấy những cánh tay của nó vươn ra chào đón.
Cũng như thủy tiên, cành đào sẽ nở
rộ vào đêm trừ tịch.
- Chơi hoa là cách con người tìm niềm
vui, tìm tâm trạng thư thái trong mối giao hòa với thiên nhiên - bố tôi tâm sự
trước cành đào
- Người ta chỉ có thể đón thiên
nhiên vào nhà mình, chứ không thể mua thiên nhiên đem về hoặc tệ hơn, áp giải
nó về với mình. Vì vậy mà cái bình phải khiêm tốn để tôn vẻ đẹp của cành đào,
của mùa xuân. Cành đào đẹp trước hết là ở cái dáng, cái thế của nó: phần gốc
xù xì cho ta cảm giác về sự vững bền của nền tảng, những cành đua không nên
nhiều quá để tạo ra cảm xúc thanh thoáng, khoáng đạt.
Bố tôi không thích đào rực rỡ quá,
khoe khoang quá, hợm hĩnh quá.
- Đào như thế này đẹp hơn nhiều,
cánh của nó chỉ phơn phớt một màu hồng nhạt, vừa có duyên, vừa thầm kín. - bố
tôi dạy - Người Nhật thích màu hồng của hoa sakura - anh đào, có dễ cũng vì lẽ
đó. Tín đồ của Thần đạo không chịu nổi những hương sắc quá thế tục. Thêm nữa:
trên cành đào Tết không nên có quá nhiều hoa. Lá xanh bên cạnh hoa làm tăng vẻ
đẹp của hoa lên. Tất nhiên, mỗi người một ý, nhưng ông nội con và bố đều
không ưa những cành đào đầy ắp hoa, cành nào cành ấy đều đặn, trông xa như một
cái nơm. Đã thế có người lại còn cắm cái nơm đào ấy vào cái lọ độc bình cổ
cao, bằng sứ, với đủ mọi hình vẽ cầu kỳ sặc sỡ, rồi đặt nó ngất nghểu trên
bàn thờ ông vải nữa chứ. Không, chỗ của đào không phải ở đó. Bố thích đặt nó ở
đây dưới đất, ngang tầm với mình.
Tôi kể cho Nguyễn Tuân nghe cách bố
tôi nhìn vẻ đẹp của cành đào. Ông tủm tỉm cười:
- Về đại thể, bố anh đúng. Nhưng
ông ấy cũng có mắc một chút bệnh giải thích. Cái đẹp, theo tôi, là cái không
giải thích được. Chỉ có thể cảm nhận được nó mà thôi. Bố anh cũng chẳng giải
thích nổi tại sao ông đã cắt đi một cành con này mà không phải một cành con
khác, tại sao ông giữ cành đua này mà lại bỏ cành đua kia, cái cành được để lại
ấy gợi nên trong lòng ông cảm xúc gì. Còn về phần màu xanh của lá trên cành
đào thì ông ấy đúng hoàn toàn. Hay gì một cành đào chi chít hoa? Nó làm ta
phát ngán. Mùa xuân thì phải có màu xanh của lá, của sự đâm chồi nảy lộc, mới
là xuân!.
Bây giờ, cả bác Nguyễn Tuân, cả bố
tôi, đều đã khuất núi.
Chỉ còn lại cái đẹp của hoa xuân mà
hai ông tâm đắc ở trong tôi. Và nỗi bùi ngùi mỗi lần xuân đến.
24/12/2002
Vũ Thư Hiên
Theo https://trieuxuan.info/
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét