1. Dẫn nhập
Khi đề cập đến làng mạc Việt Nam, nông thôn Việt Nam, ta liên
tưởng ngay đến những lũy tre xanh, những con sông dài, những cổng làng, đồng ruộng
v.v... Nhiều thi ca rãi rác đây đó trong kho tàng văn học Việt cũng nói lên điều
đó. Mọi người Việt cũng xuất phát từ làng, rồi mới lên tỉnh.
Với nhà thơ tiền chiến Hồ Dzếnh:
Nhịp đời định sẵn từ xưa
Ươm tơ tháng sáu, lên chùa tháng giêng...
(Lũy tre xanh)
ta thấy ngay địa lý nhân văn, địa lý hình thể, địa lý nông
nghiệp của một làng miền Bắc! Với bài hát quen thuộc:
Làng tôi có cây đa cao ngất từng xanh,
có con sông lơ lửng vờn quanh êm xuôi về Nam.
Làng tôi bao mái tranh san sát kề nhau.
Bóng tre ru bên mấy hàng cau.
đồng quê mơ màng!.
Ta thấy hình ảnh cây đa, đình làng, cây tre, bến nước. Tiếng
gà gáy ban trưa, tiếng cối chày giã gạo giũa đêm khuya cũng là những âm thanh
văng vẳng khi ta đề cập đến làng Việt Nam:
Theo dõi đêm sâu mỗi tiếng gà
Tưởng chừng chốc lát sẽ đi xa
Tình còn lưu chút mùi nhân thế
Lay lắt hoàng hôn một gốc hoa (thơ Yến Lan)
Hoặc:
Cảm ơn cái cối cái chày
Nửa đêm gà gáy có mày có tao
Cảm ơn bụi chuối bờ ao
Nửa đêm gà gáy có tao có mày
Tục ngữ ta có nhiều câu đề cập về làng như: Sống lâu lên lão
làng, Phép vua thua lệ làng, Áo gấm về làng, Một miếng ở làng bằng sàng xó bếp v.v...
2. Các sinh hoạt nông nghiệp của làng Việt
Từ ngàn xưa, nông nghiệp là căn bản kinh tế: dĩ nông vi bản
và làng mạc là tế bào của xã hội Việt Nam trong đó có đình làng là nơi hội
họp, có đền làng là nơi thờ các thần hoàng của làng xã, có hương ước ràng buộc
các người trong làng tuân thủ luật lệ. Làng mạc với lũy tre xanh, với cổng
làng, luôn luôn sống quanh sông ngòi để có nước trồng trọt, để di chuyển dễ
dàng, để buôn bán: nhất cận thị, nhị cận giang.
Cũng phát xuất từ làng mạc là những kho tàng ca dao với đầy
tính nhạc điệu, từ ngữ, hình ảnh gắn chặt với đời sống nông dân từ trồng trọt đến
thu hoạch, văn hóa ruộng vườn.
Các nền văn minh lớn của nhân loại như văn minh Ai Cập,
văn minh Trung Đông là phát xuất từ những dòng sông lớn như dọc sông Nil,
dọc sông Tigre và sông Euphrate. Đó là vì nhờ đất phì nhiêu, tạo căn bản
cho một nền kinh tế trù phú. Mà kinh tế xưa kia phần lớn dựa vào sản xuất nông
nghiệp. Riêng Việt Nam nói riêng và Đông Nam Á nói chung thì nông nghiệp dựa
vào một cây chủ lực, đó là lúa nước.
Thực vậy, trên tổng số hơn 6 tỷ người trên thế giới hiện nay
thì có hơn 3 tỷ là sống nhờ lúa gạo (Trung Quốc, Ấn Độ đã có hơn 2 tỷ rồi).
Ngành trồng lúa nước dựa vào đất đai và nước trời: tùy các loại khí hậu, tùy
theo các tiểu địa hình, địa mạo mà nông dân bố trí các mùa vụ khác nhau cùng với
các giống lúa khác nhau.
2.1. Các tiểu địa hình của làng mạc
Châu thổ sông Hồng cũng như châu thổ sông Cửu Long, mới nhìn
thì bằng phẳng nhưng thực ra có những tiểu địa hình mà cao độ chỉ khác nhau vài
mét: các danh từ về địa mạo như bãi ngoài, đồng trong, giồng,
bưng, gò, biền, gioi v.v... đã nói lên điều ấy.
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa
Hoặc trong câu hát ru em:
Cái ngủ, mày ngủ cho lâu
Mẹ mày đi cấy ruộng sâu chưa về
Vô hình chung cũng cho thấy có các ruộng sâu, ruộng cạn.
Tại miền châu thổ sông Hồng, có thể phân biệt nhiều loại hình sau đây:
Hai bên bờ sông Hồng và các sông nhánh thường có các sống đất
do nước lủ bồi đắp, cao có khi tới 15 mét, rộng tới vài trăm mét, dốc đứng về
phía lòng sông và thoải dần về phía các bãi bồi châu thổ. Các sống đất ấy đã
ngăn châu thổ thành từng ô trủng khó thoát nước.
Các ô trũng ngập sâu như ô trũng Hà Nam Ninh, phía Nam Hà Nội:
hệ thống đê điều toàn vùng đồng bằng đã khiến cho sự bồi đắp không đồng đều; thực
vậy, bề mặt nhiều nơi còn lồi lõm, có thời gian ngập úng trên 6 tháng.
Mỗi loại đất có chức năng khác nhau:
Đất màu trồng đậu trồng ngô
Đất lầy cấy lúa, đất khô làm vườn.
Cần để ý tại miền châu thổ sông Hồng có đất phù sa nhưng có
thể phân chia thành đất phía ngoài đê và đất phía trong đê:
- Đất bãi ngoài đê được bồi tích hàng năm nên luôn luôn trẻ
và màu mở.
- Đất trong đê không được bồi tích.
Tại miền châu thổ sông Cửu Long cũng vậy: ven bờ sông Tiền,
sông Hậu là các giải đất cao vì có phù sa sông ngòi bồi tụ trong khi các vùng
xa sông là những bưng sâu, khó thoát nước. Dọc biển Đông, có nhiều giồng là vết
tích của các bờ biển xưa vào các giai đoạn rút lui của biển khỏi đồng bằng ngày
nay. Thực vậy, dưới lớp đất mặt các giồng này, có nhiều di tích các sinh vật biển
xưa như vỏ sò, ốc, hàu.
Miền Trung thì gần giãy Trường Sơn nên các đồng bằng rất hẹp
với ‘mịt mù dặm cát dồi cây ‘ven biển mà ngay trong đồng bằng đã chật hẹp này
cũng đã có các tiểu địa hình (microrelief) như các tên dân gian thường gọi:
bàu, trũng, lung, gioi v.v...
Sau đây là sơ đồ cho thấy có tương quan giữa các loại tiểu địa
hình và sử dụng đất đai:
|
2.2. Khí hậu thời tiết
Nông nghiệp chịu ảnh hưởng của khí hậu và nhất là mưa. Tại miền
Bắc và miền Nam, mùa mưa bắt đầu từ tháng 5-6 và chấm dứt tháng 10-11. Nhưng lượng
mưa không đều vì có năm mưa trễ. Hết mùa mưa là mùa nắng.
Mùa mưa miền Bắc cũng như miền Châu thổ Cửu Long thường khởi
sự đầu hè, đúng như bài thơ Nguyên Sa:
Tháng sáu trời mưa, trời mưa không ngớt
Trời không mưa, anh cũng lạy trời mưa
Anh lạy trời mưa phong tỏa đường về
Còn miền Trung, vì có giãy Trường Sơn nên khí hậu hơi khác:
mùa mưa trễ hơn miền Bắc, khởi sự từ tháng 8 và chấm dứt tháng 1-2 năm sau với
hiện tượng gió Lào khô nóng vào tháng 5-6, nhất là từ Thanh Hóa đến
Quảng Trị.
Kinh nghiệm nông dân Việt Nam về dấu hiệu báo hiệu thời tiết
đã được un đúc trong văn học bình dân:
- Đêm mù sương, trăng sao không tỏ,
Ấy là điềm mưa gió tới nơi.
Đêm nào sao sáng, xanh trời,
Ấy là nắng ráo, yên vui suốt ngày
Những ai chăm việc cấy cày,
Nhìn trời trông gió, liệu xoay lấy mình
- Nửa đêm trăng sáng mây cao,
Triệu thời nắng gắt, nắng gào chẳng ai
- Thâm đông, hồng tây, dựng may,
Ai ơi, ở lại ba ngày hẵng đi
Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề
Trông trời, trông nước, trông mây
Trông mưa trông gió trông ngày trông đêm
Trông cho chân cứng đá mềm
Trời yên bể lặng mới yên tấm lòng
Các tiểu địa hình cũng như khí hậu vừa đề cập trên kia có ảnh
hưởng đến các loại cây trồng với mùa trồng, các giống trồng v.v...
2.3. Các loại cây trồng
Vì làng mạc Việt Nam trải dài trên nhiều vĩ tuyến, từ Lạng
Sơn đến mũi Cà Mau, nên ngành trồng trọt cũng đa dạng do nhiều khí hậu
khác nhau, đất đai khác nhau. Ngoài lúa đóng vai trò chủ yếu, còn có các cây có
củ (khoai các loại), cây ăn qủa, các loại rau, cây công nghiệp (mía, chè...).
Quê ta mát đất phù sa,
Trồng rau, rau tốt, trồng cà cà sai
Quê ta lắm bắp nhiều khoai,
Đồng trong chắc lúa, bãi ngoài xanh dâu
Dâu xanh, xanh ngắt một màu,
Xóm làng đan né, rủ nhau chăn tằm
Ruộng vườn, ta bón ta chăm,
Cho dâu đầy lá, cho tằm thêm tơ
Sau đây, ta thử bàn qua về vài loại cây trồng.
2.3.1. Lúa
Bài hát "Tình hoài hương" bắt đầu với những câu:
Quê hương tôi, có con sông đào xinh xắn
Nước tuôn trên đồng vuông vắn
Lúa thơm cho đủ hai mùa
Dân trong làng trời về khuya vẳng tiếng lúa đê mê.
Thái Thanh - Tình Hoài Hương (Phạm Duy) PBN 19 - YouTube
Thái Thanh - Tình Hoài Hương (Phạm Duy) PBN 19 - YouTube
Bài hát gợi cho ta hình dung ngay các ruộng lúa miền châu thổ
sông Hồng, với hai mùa lúa. Thực vậy, lúa trồng cả mùa mưa lẫn mùa nắng, đúng với
nhịp điệu của khí hậu nhiệt đới. Tuy nhiên vào mùa mưa, có khi mưa trễ, có khi
mưa dứt sớm, có năm mưa ít gây hạn hán và cũng có năm mưa nhiều đem bão lụt nên
vấn đề chống chọi với thiên nhiên rất khắc nghiệt:
- Để chống hạn hán trong ruộng, nhà nông xưa kia đã sử dụng xe đạp nước, các bánh xe dâng nước chuyển động với dòng nước
chảy như thường gặp ở Bình Định, Quảng Ngãi, đào kênh mương, dùng gầu để tát nước vào ruộng:
Ruộng thấp đóng một gầu giai
Ruộng cao thì phải đóng hai gầu sòng
Ngày nay, nông dân có máy bơm nước, hoặc nước tự chảy vào ruộng
nhờ các đập nước.
- Để chống mặn, phải làm đê ngăn mặn, giữ ngọt ở duyên hải. -
để chống lũ lụt miền bắc, nông dân phải xây đắp đê dọc sông Hồng và sông Thái
Bình ngay từ đời nhà Lý.
- Để chống úng thuỷ và thoát phèn, nông dân đào kinh. Đặc biệt
tại miền châu thổ Cửu Long, có rất nhiều kinh đào chằng chịt giúp giao thông,
buôn bán, và cải tạo đất.
Như trên đã đề cập đến, các loại khí hậu và các tiểu địa hình
có ảnh hưởng đến sự bố trí các hệ thống canh tác. Riêng về ngành trồng lúa có 3
hệ sinh thái chính:
- Hệ sinh thái vùng đất cao nước trời (rainfed upland
ecosystem) trong đó lúa trồng cạn là chủ yếu; lúa này chỉ phụ thuộc vào nước trời
mà lượng nước mưa này lại thay đổi theo năm nên năng suất thấp. Ta có thể kể
các loại lúa rẩy, lúa lốc trồng trên đất bãi cao ven sông, các gò đồi.
- Hệ sinh thái vùng đất thấp nước trời (rainfed lowland
ecosystem) trong đó có lúa nước (wetland rice). Tổ tiên ta trồng lúa nước đầu
tiên và còn lợi dụng nước sông được nâng lên với thuỷ triều ở các vùng duyên hải
ven biển để tưới ruộng. Dần dà, lúa nước đã được đưa dần từ ruộng nước lên ruộng
cạn. Lúa nước là loại trồng trên các đất có chân nước trong ruộng và chiếm nhiều
diện tích.
Vào mùa mưa, nông dân tận dụng nước trời để trồng lúa:
đó là lúa mùa với nhiều giống sớm, muộn khác nhau tùy theo mực nước trong ruộng:
Ra đi mẹ có dặn dò
Ruộng sâu thì cấy, ruộng gò thì gieo
Trong khi ruộng gò thì gieo vãi lúa vì không có nước trong ruộng
thì ruộng sâu phải cấy mạ. Nhưng ruộng sâu cũng có thửa ruộng sâu vừa, có thửa
ruộng sâu trũng:
- Ở chân ruộng cao, cấy giống sớm (vì ruộng cao thì thủy cấp
sâu, đất dễ thoát nước)
- Ở chân ruộng thấp, phải cấy giống muộn (vì ruộng thấp giữ được
nước lâu hơn nên sử dụng giống lúa thân dài và chu kỳ sinh trưởng dài).
Tại miền châu thổ sông Hồng, trồng lúa mùa, trùng vào mùa
mưa: cấy lúa tháng 5 và gặt tháng 11, tức tháng mười âm lịch, đúng như bài ca
dao:
Bao giờ cho đến tháng mười
Ta đem liềm hái ra ngoài ruộng ta
Gặt hái ta đem về nhà
Sau lúa mùa trồng vào mùa mưa, nông dân trồng một vụ khác,
thường gọi là vụ lúa chiêm: gieo cấy vào cuối năm âm lịch và thu hoạch vào hè
năm sau. Lúa chiêm, du nhập xưa kia từ Chiêm Thành, chịu khô hạn nên được du nhập
vào miền Bắc để gieo cấy vào mùa ít mưa. Đầu vụ chiêm thường gặp rét, từ giữa vụ
nóng lên và có mưa rào, thêm giông sấm chớp đem theo chất đạm nên có câu:
“Lúa chiêm lấp ló đầu bờ
Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên!”
Sau khi cấy xong lúa chiêm thì tháng giêng, tháng hai lúa
chiêm vẫn chưa gặt nên nhàn rỗi đúng như ca dao:
Tháng giêng là tháng ăn chơi
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè
Giống lúa này có chu kỳ dài chiếm đất lâu nên ngày nay, có
lúa Xuân, vừa năng xuất cao, vừa chu kỳ sinh trưởng ngắn hơn thay thế.
Vài giống lúa thơm đặc sản như lúa Tám Xoan, Nếp cái hoa vàng
ở ngoài Bắc, lúa Nàng Hương, Nàng Thơm Chợ Đào trong Nam. Thông thường, các lúa
thơm đều có quang cảm (photosensitive) nên chỉ trồng vụ mùa, gặt khi trời hơi lạnh
và ngày ngắn vào tháng 10-11. Một loại canh tác lúa nước trời đặc biệt là lúa nổi
(deep water rice): lúa nổi trồng tại các vùng có nước ngập sâu đến 3-4 mét như
Châu Đốc, Long Xuyên thường bị lụt sâu; lúa nổi có thân cao và tăng trưởng theo
mực nước lên; lúa nổi được sạ vào tháng 5. Sau vụ lúa nổi gặt vào tháng 12, nông
dân tận dụng nước ẩm còn trong ruộng lúa để làm thêm hoa màu phụ.
- Hệ sinh thái nước tưới (irrigated ecosystem). Với nhiều công
trình thủy lợi như máy bơm, đập nước, kinh mương, guồng xe để đưa nước
lên ruộng v.v. nên nhiều vùng có nước tưới để trồng lúa vào mùa nắng như
lúa Đông Xuân trong Nam, lúa tháng 8 ở miền Trung. Vì chủ động được nước
tưới nên nông dân trồng các giống lúa cải thiện, thấp dàn, phản ứng với phân
bón và vì vào mùa nắng nên quang hợp mạnh do đó năng xuất lúa cao hơn lúa trồng
mùa mưa.
Các giống lúa trồng có hai loại chính: đó là lúa tẻ sản xuất
ra gạo nấu cơm và lúa nếp có hạt gạo dẽo dùng nấu xôi, gói bánh chưng, bánh
tét, làm rượu nếp, cơm rượu v.v...
Ca dao cũng dùng lúa tẻ, lúa nếp để giải bày tâm tình trai
gái:
Anh thưa với mẹ cùng cha
Nếp mà lộn tẻ, lựa ra hay đừng?
Đò đưa đến bến đò ngừng
Anh thương em thuở trước, nửa chừng lại thôi!
Trồng lúa thì không phải mùa nào cũng trồng một giống lúa vì
có giống hợp với nước sâu, có giống hợp với chân ruộng trũng:
Tháng Giêng cho chí tháng Mười
Năm mười hai tháng em ngồi em suy
Vụ chiêm em cấy lúa di,
Vụ mùa lúa gié, sớm thì ba trăng (ba tháng)
Thú quê, rau cá đã từng
Các giống lúa xưa kia thì rơm nhiều thóc ít còn khoa học ngày
nay tuyển lựa lai tạo ra những giống thấp cây, chu kỳ sinh trưởng ngắn và nhiều
hạt. Vì chu kỳ ngắn nên ngày nay nông dân thường sạ lúa (direct seeding) thay
vì cấy lúa; thực vậy khi cấy lúa, cây lúa mất sức nên thời gian sinh trưởng kéo
dài hơn, do đó nông dân không kịp làm mùa sau.
Vì Việt Nam có nhiều châu thổ trải dài từ ải Nam Quan đến mũi
Cà Mau nên trong một năm, không có tháng nào mà không có thu hoạch lúa: tháng
1-2 thì gặt lúa trong Nam, tháng 3 thì gặt lúa tháng 3 miền Trung, tháng 4-5
thì gặt lúa chiêm miền Bắc, tháng 8 gặt lúa tháng 8 miền Trung, tháng 10 thì gặt
lúa mùa miền Bắc v.v...
Ngành trồng lúa đòi hỏi nhiều nhân lực từ làm đất, nhổ mạ, cấy
mạ, chăm sóc, thu hoạch, xay lúa, giã gạo:
Tháng ba cày vỡ ruộng ra,
Tháng tư làm mạ, mưa sa đầy đồng,
Ai ai cùng vợ cùng chồng,
Chồng cày, vợ cấy, trong lòng vui thay!
Tháng ba cày vỡ ruộng ra,
Tháng tư làm mạ, mưa sa đầy đồng,
Ai ai cùng vợ cùng chồng,
Chồng cày, vợ cấy, trong lòng vui thay!
Công việc sau thu hoạch gồm có đạp lúa, phơi lúa, xay lúa, gi
ã gạo, giần sàng:
Ngày thì đem thóc ra phơi
Tối lặn mặt trời đổ thóc vào xay
Một đêm là ba cối đầy
Một tay xay giã, một tay giần sàng
Hoặc:
Hoặc:
Ra đường bà nọ bà kia
Về nhà không khỏi cái nia cái sàng
Ra đường võng giá nghênh ngang
Về nhà hỏi vợ ‘Cám rang đâu mày’
Cám rang tôi để cối xay
Giã gạo xay lúa là công việc nặng nhọc cần nhiều sức lực nên
có câu về cô gái Sơn Tây:
Giã gạo vú chấm đầu chày
Xay thóc cả ngày, được một đấu ba
Như vậy công việc phụ nữ thôn quê thật là vất vả. Nhiều nơi gần
núi, người phụ nữ phải đi đốn củi, trèo đèo nên than rằng:
Mỗi ngày ba bận trèo non
Lấy gì mà đẹp mà giòn hỡi anh!
Ngày nay, nhiều công việc như đập lúa, xay lúa, giã gạo không
còn dùng cơ bắp mà được cơ giới hoá với máy đập, máy xay xát lúa nên không cần
nhiều nhân công như ngày trước.
2.3.2. Bắp, còn gọi là ngô, có tên khoa học là Zea
mays. Bắp trồng từ Bắc vào Nam và có bắp tẻ, bắp nếp với chu kỳ sinh trưởng
khác nhau: có giống dưới 90 ngày, có giống lâu hơn. Ngoài lương thực cho người,
bắp là nguyên liệu chủ yếu cho thức ăn gia súc. Bắp còn dùng trong kỷ nghệ làm
tinh bột; tinh bột bắp sử dụng trong công nghiệp chế biến các loại đường như sản
xuất glucose dùng trong bánh kẹo, dextrin trong keo dán. Gluten bắp dùng trong
công nghiệp mì sợi. Dầu bắp tinh khiết làm dầu ăn còn dầu thô dùng làm xà phòng
2.3.3. đậu: các loại đậu
Đậu đen (Vigna cylindrica), đậu Hà lan (Pisum sativum), đậu
nành (đậu tương), đậu ngự (Phaseolus lunatus), đậu ván (Dolichos lablab), đậu
xanh (Vigna aurea), đậu tây (Phaseolus vulgaris). Vài vùng có đậu triều
(Cajanus indicus). Trong Nam có trồng đậu bắp (Hibiscus esculentus) nhưng họ
Malvaceae, không phải họ Papilionaceae như các loại kia
2.3.4 rau cải.
Quanh các đô thị lớn có nhiều nhu cầu tiêu thụ rau cải,
nên nông dân trồng nhiều loại rau như ca dao sau đây chứng tỏ:
Đi đâu mà chẳng biết ta,
Ta ở kẻ Láng vốn nhà trồng rau
Rau thơm, rau húng, rau mùi
Thìa là, cải cúc, đủ mùi hành hoa
Mồng tơi, mướp đắng, ớt, cà
Bí đao, đậu ván, vốn nhà trồng nên
Rau thơm (Mentha aquatica), có tên khác húng Láng
Mồng tơi (Basella rubra) vì là dây leo nên trồng trên hang
rào quanh nhà:
Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau một giậu mồng tơi xanh rờn (thơ Nguyễn Bính)
Bí có thể là bí đao (Benincasa cerifera), trồng lấy quả ăn và
làm mứt hoặc bí ngô tức bí đỏ (Cucurbita pepo) hoặc bí rợ (Cucurbita maxima) trồng
ăn quả, ăn ngọn non, lấy hạt rang ăn.
Làng mạc xây trên đất cao, xung quanh nhà là vườn với ao;
trong bài thơ ‘Bạn đến chơi nhà’ của Nguyễn Khuyến có mô tả sơ qua về quang cảnh
một khu vườn nhà miền Bắc như sau:
Ao sâu nước cả, khôn chài cá
Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà
Cải chửa ra hoa, cà chửa nụ
Bàu vừa rụng rốn, mướp đương hoa
Ao để thả cá, nuôi bèo và dùng tắm giặt. Ngoài ra, ao cũng có
rau muống là loại cây chịu nước, đúng như tên khoa học: Ipomea aquatica... Vùng
trủng có chỗ trồng củ ấu tức Trapa bicornis (Ghét nhau thì củ ấu cũng tròn,
trái bồ hòn cũng méo).
Cà và rau muống là 2 thức ăn thông dụng trong bữa cơm:
Anh đi anh nhớ vợ nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương
Hoặc:
Công anh làm rể Chương Đài
Ăn hết mười một mười hai vại cà
Giếng đâu thì xách ăn ra
Không thì anh chết vại cà nhà em
Cà có nhiều loài nhưng cà ở đây là cà pháo dùng để muối:
Bồng em đi dạo vườn cà
Trái non bỏ mắm, trái già làm dưa
Làm dưa ba bữa dưa chua
Để dành ăn cấy, khỏi mua tốn tiền
Mướp có nhiều loại như mướp huơng (Luffa acutangula), mướp đắng
(Momordica charantia), mướp ta (Luffa cylindrica) khi non để ăn, khi già cho xơ
rửa bát. Bầu (Lagenaria vulgaris) trồng quanh vườn nhà, thả trên dàn leo
2.3.5. Cây kỷ nghệ: cà phê, tiêu, điều, trà ..
Cây trà (chè) có trồng nhiều miền Trung Du ngoài Bắc như
Tuyên Quang, Thái Nguyên, Phú Thọ cũng như vùng cao nguyên Blao .Ở Cao nguyên
Việt Nam, nhất là ở vùng Ban Mê Thuột, nhiều nông trại trồng cà phê Robusta, với
trên 185.000 ha, sản lượng hàng năm đạt từ 380.000 tấn cà phê nhân trở lên, phần
lớn cho xuất cảng. Cây tiêu trồng nhiều ở Phú Quốc, cây điều trồng nhiều ở Bình
Phước là những cây kỷ nghệ quan trọng về kinh tế nông nghiệp vì hạt tiêu, hạt
điều có mặt trên khắp các thị trường: Hoa Kỳ, Trung Quốc, Úc, Hồng Kong, Anh,
Hà Lan.. Cây cao su cũng là một cây kỹ nghệ vì cung cấp mủ cao su. Diện tích
cao su trồng ở Việt Nam quãng 450 000 hecta, trong đó cao su tiểu điền chiếm
37%.
2.3.6. Các loại khoai
Khoai lang (Ipomea batatas), khoai mì (Manihot esculenta),
khoai sọ (Colocasia antiquorum) có tên khác là khoai môn, củ dùng làm thức ăn,
cuống (dọc) có thể muối dưa, khoai nưa (Amorphophallus rivieri) cũng cùng họ
Ráy (Araceae) như khoai sọ, có củ ăn hơi ngứa, khoai nước (Colocasia
esculenta), còn gọi là môn nước, củ và cuống đều ăn được, khoai từ (Dioscorea
esculenta) trồng phổ biến nhiều làng mạc.
2.3.7. Gia vị
Gừng (Zingiber officinale) vừa làm gia vị và làm thuốc trị tê
thấp, ho, suyễn; riềng (Alpinia officinarum), họ Gừng (Zingiberaceae), củ nghệ
(Curcuma longa) họ Gừng có củ được dùng làm bột cari, bôi mụn nhọt; ớt
(Capsicum annuum), tiêu (Piper nigrum) v.v...
Ai ơi chua ngọt đã từng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau
- Ớt nào là ớt chẳng cay
Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng
- Ăn tiêu nhớ tỏi bùi ngùi
Ngồi bên đám hẹ nhớ mùi rau răm
Hỡi người quân tử trăm năm
Quay tơ có nhớ mối tằm hay không?
Các vùng núi phía Bắc có trồng mạch ba góc (Fagopyrum
esculentum, sarrasin), cao lương (tức lúa miến Sorghum)
2.3.8. Cây ăn trái. Miền Bắc có các loại cây ôn đới như đào,
mận, táo, cây á nhiệt đới như vải, mơ, miền Nam có cây ăn
trái nhiệt đới như chôm chôm, măng cụt, sầu riêng, mảng cầu, xoài, dừa,
xa pô tê, chuối v.v... được thi vị hóa dưới nhiều bài ca dao:
- Làng tôi có lũy tre xanh
Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng
Bên bờ vải nhãn hai hàng
Dưới sông cá lội, từng đàn tung tăng
- Vì cam nên quít đèo bòng
Vì anh cần mẫn nên lòng em mơ.
Ngày nay, nông nghiệp không còn có tính cách tự cung, tự cấp
như xưa mà liên quan đến thị trường nên nhiều loại cây trồng như cây đay, cây
cói, dâu tằm, càng ngày càng giảm sút vì không có nhu cầu tiêu thụ. Hình ảnh
cây cau như trong thơ Hàn Mạc Tử ‘nhìn nắng hàng cau nắng mới lên’, hoặc trong
thơ Quang Dũng:
Những tàu cau đượm làm chi ánh nắng?
Chum nước, gáo dừa, nhà xoan, gốc mít.
Đỏ, nâu, mít chín trĩu cành.
Thưa thoáng trời xưa êm ả’
Thưa thoáng trời xưa êm ả’
nay càng ngày trở nên ‘vang bóng một thời’. Xưa kia thì ‘miếng
trầu là đầu câu chuyện’, ngày nay khởi đầu là thuốc lá hoặc vài chai bia nên
không còn hình ảnh cây trầu trong vườn nhà.
Ngoài những làng mạc sống bằng nghề nông cũng còn có ven biển
những làng sống bằng nghề biển:
Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông
Khi trời trong gió nhẹ sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá (Tế Hanh)
Ca dao cũng có câu:
Nhà tôi nghề giã, nghề sông
Lặng thì tôm cá đầy trong đầy ngoài
Cá trắng cho chí cá khoai
Còn như cá lẹp, cá mai cũng nhiều
Thực vậy, Việt Nam có bờ biển dài, tài nguyên cá khá đa dạng;
càng ngày với phương tiện cơ giới, ngư dân Việt không phải chỉ đánh cá ven bờ
mà đi xa hơn, khai thác nhiều loại cá khác nhau với sản lượng hàng năm khoảng
1,5 triệu tấn, xuất cảng sang nhiều xứ các loại cá như cá hồng, cá mú, cá chẽm
dưới dạng cá đông lạnh.
Làng quê là chốn thanh bình với màu xanh mướt mắt của những
ruộng lúa, nương dâu… Vào những ngày lễ tết, người thành phố đổ xô về làng quê
để hưởng sự tĩnh lặng và không khí trong lành cùng những món ăn dân dã.
Nhưng làng quê bây giờ đang trở nên ô nhiễm nặng nề từ chính
việc làm của người dân…
Từ nhiều năm nay, năm nào tôi cũng dăm ba lần về quê khi việc
họ, lúc cưới hỏi. Quê tôi làng Ngọc Tảo, huyện Phúc Thọ, TP Hà Nội, một làng
quê bình dị nằm cạnh quốc lộ 32 lên thị xã Sơn Tây. Trong ký ức tuổi thơ, làng
tôi có rất nhiều ao. Những dãy ao nằm dọc con đường vào làng, phía trước, phía
sau xung quanh làng dày đặc ao. Tôi cũng không hiểu vì sao làng lại nhiều ao
như thế. Sau này tôi mới hiểu các cụ ngày xưa đào ao lấy đất để tôn làng lên
cao, tránh ngập lụt mùa mưa bão.
Tháng tư khi những trận mưa đầu mùa trút xuống, ao làng trong
veo tôi buộc chiếc rổ con vào cây sào vớt ốc nhồi nổi lập lờ trong những đám
bèo tây. Vào mùa hạ lũ trẻ ngụp lặn trong ao làng đội bèo tây vùng vẫy trong nước
hò hét vang động cả góc làng. Những bậc ao xây bằng đá xanh mòn nhẵn do bao bàn
chân cả ngàn năm xuống rửa ra, múc nước.
Những dãy ao chạy dọc đường vào làng và cả những ruộng rau muống
đã không còn nữa, thay vào đó là những ngôi nhà cao tầng, với đủ kiến trúc Tây,
Tàu đèn nhấp nháy hoa cả mắt. Phố trong làng, các cửa hàng dịch vụ làm tóc gội
đầu, spa, karaoke, photocopy, hàn xì, sửa chữa xe máy… không thua gì thành phố.
Trên con đường vào làng bây giờ, tôi chỉ còn thấy cái giếng đầu làng xây bằng
đá ong và cái ao trước cửa chùa, còn lại đã biến mất sau nhiều năm làng tôi đã
hóa phố.
Cái giếng đầu làng gọi là giếng Vương Điện, tôi không rõ điển
tích các cụ đặt tên cái giếng đó, nhưng vào ngày hội làng mùng 8 tháng Giêng,
làng tôi có tục rước tượng phật Thích Ca Mâu Ni từ trong chùa ra giếng Vương Điện
tắm rửa. Ngày xưa, giếng Vương Điện có rất nhiều bèo ong nước trong vắt nhìn thấu
tận đáy thấy cả những con cá bống bán vào bờ đá ong vây óng ánh. Nhưng bây giờ,
nước giếng đục lờ nhờ có rất nhiều váng màu vàng. Đó là chỉ số của sự ô nhiễm
do dân số đông đúc, nhà cao tầng vây quanh.
Ao đình thì đã lấp còn lại ao chùa, nước thải của tất cả các
nhà đều đổ ra rãnh nước hai ven đường rồi chảy vào ao chùa, khiến nước đen kịt.
Vào những ngày trở trời, mùi hôi thối bốc lên từ rãnh nước và ao làng nhức cả đầu.
Làng tôi dường như nhà nào cũng nuôi chó, vườn tược chẳng còn
mấy, các con đường vào các ngõ đều đã đổ bê tông hoặc lát gạch đỏ, lũ khuyển
phóng uế dọc các con đường, những ngày trời mưa nước phân nhầy nhụa. Buổi tối
tôi muốn đi thăm nhà mấy người anh em, em chú của tôi Nguyễn Đình Tuệ bảo: Bác
đi phải mang đèn pin nhé, phân chó đầy đường nhiều vô kể…
Thủ bói là bãi tha ma, nằm cách làng độ trăm mét, những gia
đình làm may thường mang vải vụn ra đây đốt khói mù mịt, khét lẹt. Những đống vải
ni lông không cháy hết két lại từng mảng vương vãi khắp nơi nom rất kinh hãi.
Nghĩa trang, nơi linh thiêng cũng bị đổ trộm rác thải
|
Về quê bây giờ sợ nhất vẫn là ruồi, ngày xưa nhà nào cũng
chăn nuôi lợn gà, trâu bò nên ruồi nhiều như đỗ đen. Bưng mâm cơm ra vừa đặt xuống
chưa kịp ăn ruồi đã bu đen. Bây giờ làng tôi không mấy nhà chăn nuôi, nhưng ruồi
vẫn nhiều như chưa bao giờ giảm. Hỏi ra mới hay, ruồi từ các trại chăn nuôi ở
ngoài đồng bay về, diệt không xuể đành sống chung với ruồi.
Phàn nàn về cái sự ô nhiễm làng quê, cháu tôi Nguyễn Đình
Nguyên cười bảo: Ôi giời, bây giờ làng nào cũng thế cả thôi. Làng mình còn đỡ
chán, bác xuống Hiệp Thuận hay vào những làng nghề xem, ruồi nhiều vô kể, mùi
hôi thối kinh khiếp hơn ở đây. Biết làm sao được, đất chật người đông ô nhiễm
là phải thôi…
3. Nông nghiệp và thâm canh
Vói dân số tăng, ngày nay, ngành nông nghiệp không còn cổ
truyền như trước. Thực vậy, nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật như máy cày, máy sấy,
máy xay lúa, phân hoá học, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, các giống lúa thấp cây
và chu kỳ sinh trưởng ngắn, bắp lai, các giống heo nái ngoại, gà mái đẻ ngoại,
bò sữa v.v... đã được du nhập vào Việt Nam.
Nhu cầu lương thực cho dân số càng ngày càng đông đòi hỏi một
nền nông nghiệp thâm canh:
- Tăng vụ: trước kia làm 1 vụ lúa thì nay phải làm 2 vụ, chỗ
nào trước kia trồng 2 vụ lúa thì nay làm thêm một vụ đông. Phải sử dụng các giống
có chu kỳ sinh trưởng ngắn mới làm được nhiều vụ trong cùng một năm: ví dụ trước
kia trồng vụ Chiêm với giống chu kỳ sinh trưởng dài; ngày nay, tại miền
châu thổ sông Hồng, với các giống lúa cải thiện chu kỳ ngắn, nông dân trồng được
lúa xuân (cấy từ 1 tháng 2 đến 10 tháng 2 (ra Tết) và gặt từ 25 tháng 5 đến 5
tháng 6), sau đó trồng lúa hè và làm thêm được vụ màu đông (bắp, dưa hấu, khoai
lang, rau cải ..) như sơ đồ dưới đây:
10/2 5/6 10/7 5/10 5/10 25/1
Lúa xuân
Màu đông
Lúa hè
1/2 25/5 1/7 25/9 30/9 10/1
- Gối vụ (relay cropping): trước khi thu hoạch, nông dân đã
phải tận dụng đất trồng một hoa màu khác. Ví dụ: trước khi thu hoạch lúa quãng
10 ngày, đã cấy bắp hoặc trồng khoai lang, hoặc dưa hấu trong ruộng lúa.
Muốn tăng năng xuất thì phải sử dụng các giống cải thiện (bắp
lai, lúa lai, lúa thấp cây, nhiều hạt hơn rơm...) và phân hóa học, trong điều
kiện sử dụng nước tối ưu. Lúa trồng mùa khô như lúa Đông Xuân có năng xuất cao
hơn lúa trồng vào mùa mưa vì cường độ quang hợp vào mùa khô nhiều hơn. Riêng về
phân hóa học, theo thống kê thì những năm gần đây, trung bình Việt Nam sử dụng
mỗi năm quãng 2 triệu tấn phân đủ loại (NPK) để trồng 7 400 00 hecta lúa (theo
tài liệu IRRI).
4. Nông nghiệp, dân số và môi trường.
Dân số Việt Nam tăng nhanh: năm 1954, toàn nước Việt chỉ có
25 triệu ngày nay, năm 2000, là 80 triệu. Theo thống kê, vào thời điểm 1999,
dân số mỗi năm tăng 1.65%. Dù đã giảm nhiều từ 3% vào đầu thập niên 90, nhưng với
nhịp tăng gia như vậy có nghĩa là cứ mỗi 42 năm, dân số sẽ tăng xấp đôi. Hiện
nay, cứ mỗi năm, dân số tăng lên 1 triệu người, nghĩa cứ mỗi thập niên, dân số
Việt Nam tăng lên 10 triệu người!
4.1. Diện tích đất canh tác cho mỗi đầu người nông dân càng
ngày càng giảm. Vài tỉnh miền Trung, chỉ còn 300m2 cho mỗi nông dân, mà lại
manh mún ra hai ba thửa đất.. Thực vậy, khi dân số tăng lên thì đất chuyên dùng
như đất xây dựng, đất giao thông, đất thuỷ lợi và đất nghĩa trang đều phải
tăng, đất thổ cư cũng phải tăng do đó diện tích đất nông nghiệp trong quỹ đất của
làng xã phải giảm.
Thực vậy, theo thống kê, vào năm 1930, số nông dân châu thổ
sông Hồng là 5,9 triệu dân nghĩa là 7 người cho mỗi hecta trồng trọt, đến 1960,
lên đến 7,3 triệu tức 10,7 người cho mỗi hecta và năm 1969 với 11,3 triệu nông
dân thì phải cùng chia xẻ diện tích đất với 16 người cho mỗi hecta trồng trọt.
Hiện nay nhiều nông dân không còn có đất canh tác vì đất nông
nghiệp càng ngày càng giảm. Do đó giá trị đất nông nghiệp càng ngày càng tăng.
Hệ luận của nhận xét này là phải dành các đất xấu (đất phèn, đất laterit, đất
núi đồi...) cho các hoạt đông và cơ sở phi nông nghiệp như sân golf, các nhà
máy, các khu kỹ nghệ, các nghĩa trang v.v... thay vì sử dụng các loại đất phù sa
phì nhiêu cho các hoạt động này như thực tế hiện nay chứng tỏ.
Theo tin tức báo chí trong nước thì tại miền châu thổ Cửu
Long, số dân không đất tăng lên. Không đất thì chỉ đi làm thuê làm mướn cho
nông dân khác và vì không đất nên không vay được tiền ngân hàng để đầu tư nên
nghèo vẫn nghèo.
4.2. Số nông dân không có việc làm ở nông thôn càng ngày càng
nhiều nên phải ra thành thị sinh sống chui rúc trong các xóm nghèo, không đủ hạ
tằng cơ sở vệ sinh, gây thêm ô nhiễm môi trường với cống rãnh bị ngập, bãi rác
không chỗ chứa. Do đó, đói nghèo từ nông thôn (rural poverty) đang chuyển sang
đói nghèo thành thị (urban poverty). Ngoài ra cùng trong một thành phố, sự phân
hoá giàu nghèo trở nên sâu sắc: người giàu có nhiều cơ hội có thêm nhà và ngược
lại người nghèo không có lấy được một mái nhà.
4.3. Vì dân số tăng nên đòi hỏi thâm canh để thoả mãn nhu cầu
luơng thực, do đó sử dụng phân hoá học, thuốc diệt cỏ và thuốc bảo vệ thực vật
như thuốc trừ sâu, trừ nấm để giúp tăng sản lượng thực phẩm. Các hóa chất như
phân đạm gây phú dưỡng cho nước (eutrophisation), nhất là nitrat, gây hại cho
người uống. Thực tế cho thấy các thửa ruộng bón quá nhiều đạm làm cho cây lúa dễ
mẫn cảm hơn đối với các bệnh như bệnh cháy lá (tức đạo ôn Piricularia oryzae),
bạc lá và từ các ổ dịch này, khi gặp điều kiện thuận tiện thì sẽ lan nhanh.
Ngoài ra, tập quán dùng phân bắc còn tươi để bón rau cũng gây hậu qủa xấu đến
môi trường.
Nông dân không áp dụng ngưỡng phòng trừ sâu bệnh vì mới thấy
sâu bệnh là đã xịt thuốc mà lại do từng gia đình làm riêng rẽ chứ không tập
trung. Thực ra, sâu bệnh luôn luôn có mặt trong hệ sinh thái, vấn đề là khi nào
sâu bệnh thực sự có hại và hại đến mức nào cho cây trồng và cho con người thì
lúc đó mới diệt chúng vì chúng chỉ là các thành viên góp phần ổn định hệ sinh
thái với tư cách là một mắt xích của lưới thức ăn trong hệ. Sử dụng quá liều lượng,
quá nhiều lần làm những sinh vật có ích cũng bị tiêu diệt như cua đồng, tép ruộng,
ốc, ếch, nhái, rắn, cà cuống v.v... vốn là nguồn thực phẩm tự nhiên cho con người. Phun thuốc quá nhiều tạo ra dư lượng trong rau cải, trong đất, gây ô nhiễm
môi trường nước, thêm vào đó là nước thải các kỹ nghệ ở đô thị xả xuống.
Với toàn cầu hoá làng mạc, nơi sinh sống của 70% dân số
Việt Nam sống về nông nghiệp sẽ có nhiều cơ hội nhưng cũng đồng thời lại càng
ngày càng gặp nhiều thách thức.
Cơ hội vì nông nghiệp hướng về xuất cảng sẽ không còn là kinh
tế tự túc, tự phát, tự cung mà phải là nông nghiệp hàng hóa đem về ngoại tệ để
tái dầu tư.
Thách thức vì đất và nước là tiền đề cho nông nghiệp; thế
nhưng môi trường này càng ngày càng bị sức ép với dân số tăng nhanh mà tài
nguyên đất thì càng ngày càng co rút lại do đô thị hóa, kỹ nghệ hoá đó là chưa
kể nhiều vùng đất bị xói mòn do gió, do mưa, do phá rừng, do triều cường phá đê
bi ển, nên nhiều nông dân không còn đất để canh tác,
Như vậy, phải giảm số lao động nông thôn bằng cách tạo và huấn
nghệ cho họ đi vào con đường dịch vụ (buôn bán, chuyển vận, ngân hàng, du lịch
v.v...) hoặc tạo các công nghệ ngay tại nông thôn như chế biến nông sản, tóm lại
là những ngành không đụng chạm đến đất (off-the-land activities) để số nông dân
còn lại có thêm diện tích cày cấy, tạo ra các vùng chuyên canh rộng lớn để từ
đó giảm giá thành, để cạnh tranh dễ hơn. Việc dạy nghề phải đáp ứng nhu cầu của
người học, nhu cầu tuyển dụng; nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa
phương thi mới có hiệu quả bền vững. Nông nghiệp hướng về xuất cảng sẽ gây tăng
trưởng kinh tế nhưng tăng trưởng kinh tế phải đi song hành với công bằng xã hội
sao cho mọi người dân quê ở làng mạc xa xăm vẫn có mọi tiện nghi như đô thị,
song hành với phát triển xã hội sao cho mọi người dân quê có học hành, bớt sinh
đẻ, không nghiện ngập, song hành với bảo tồn môi trường thiên nhiên, tóm lại
phát triển bền vững và hài hòa với thiên nhiên.
Tài liệu tham khảo:
Trần Văn Đạt. Lịch sử trồng lúa Việt Nam. Nhà xb Nông Nghiệp bền
vững 2010.
Trần Văn Đạt. Sản xuất lúa gạo thế giới. Hiện trạng và khuynh
hướng phát triển trong thế kỷ 21. Nhà xuất bản Nông Nghiệp 2006.
Trần Văn Đạt. Tiến trình phát triển sản xuất lúa gạo tại Việt
Nam từ thời nguyên thủy đến hiện đại. Nhà xuất bản Nông Nghiệp 2002.
FAO. Speciality rices of the world. Technical editors Ram C.
Chaudhary & D.V. Tran 2001.
Lê Văn Khoa (Chủ biên). Nguyễn Đức Lương, Nguyễn Thế Truyền.
Nông nghiệp và môi trường. Nhà xuất bản Giáo Dục 1999.
Philippe Papin. Việt Nam: Hành trình một dân tộc. Nguyễn
Khánh Long dịch Thời Mới Toronto 2001.
Tôn Thất Trình. Tìm hiểu về cây ăn trái có triển vọng cho
vùng cao Việt Nam. Nhà xuất bản Nông nghiệp 2004.
Thái Công Tụng. Việt Nam: Môi trường và con người.
Vietnamologica số 6 Montreal 2005
Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam. Nông nghiệp vùng
đồng bằng sông Hồng trong thời gian cải cách hiện nay. Nhà xuất bản Nông nghiệp
1995.
Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam. Tính bền vững của
sự phát triển nông nghiệp ở miền Bắc Việt Nam. Nhà xuất bản Nông nghiệp 1995.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét