Thứ Sáu, 3 tháng 1, 2020

Xuân trong cửa thiền 1

Xuân trong cửa thiền 1
LỜI ĐẦU SÁCH
Chỗ cứu kính vốn không lời, huống là có thời gian không gian. Thời gian đã không thì bốn mùa y cứ đâu mà lập. Bốn mùa đã không thì làm gì có mùa Xuân, mùa Hạ. Thế mà nói ngày Xuân, tháng Xuân, mùa Xuân là nhằm trong cửa phương tiện tương đối luận bàn. Chẳng qua vì lợi ích trên phương diện tiến tu, chúng tôi tùy tục nói chuyện đêm Trừ tịch (giao thừa) và ngày Tết Nguyên Đán. Sưu tập lại những buổi nói chuyện ngày cuối năm và đầu Xuân, kể từ khi mở khóa II học Thiền tại Tu viện Chân Không vào năm 1974 về sau. Chúng tôi để tên tập sách là XUÂN TRONG CỬA THIỀN, gọi là chút quà mọn cống hiến độc giả trong những ngày Xuân.
Tuy nhiên là những buổi nói chuyện cùng một đề tài Đêm Trừ Tịch và ngày Nguyên Đán thì không sao tránh khỏi sự trùng lặp câu chuyện ý kiến của chúng tôi. Câu chuyện có thể trùng; song ý kiến chắc mỗi năm cũng có thay đổi ít nhiều. Vì vậy chúng tôi gom hết trong tập sách này. Khi đọc nếu thấy trùng lặp, mong quí vị thông cảm cho.
THÍCH THANH TỪ
XUÂN TRONG CỬA THIỀN

Bốn mùa thay đổi muôn vật chuyển xoay, theo quan niệm người đời thì mỗi lần Đông tàn Xuân đến, trong lòng rộn rã lo mừng Xuân đón Xuân. Rồi bao nhiêu tục lệ từ xưa truyền lại, nào là đưa ông táo, thiệp chúc Xuân, dựng nêu, rước ông bà, chúc Tết, lì xì v.v... Bước vào cửa Thiền, xem thử các tăng sĩ có quan niệm gì về ngày Xuân? Đây chúng ta hãy nghe Sơ Tổ phái Trúc Lâm Yên Tử, Điều Ngự Giác Hoàng, nói về Xuân:
Niên thiếu hà tằng liễu sắc không
Nhất Xuân tâm sự bách hoa trung
Như kim khám phá Đông hoàng diện
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng.
Dịch:
Thuở bé chưa từng rõ sắc không
Xuân về hoa nở rộn trong lòng
Chúa Xuân nay bị ta khám phá
Chiếu trải giường Thiền ngắm cánh hồng.
Lúc còn thiếu niên ở trong ngôi vị sang cả của một ông Hoàng, chưa thấm nhuần mùi đạo lý, mỗi lần Xuân về trăm hoa đua nở trong vườn ngự, làm sao Ngài không lòa mắt trước những màu sắc lung linh, không bâng khuâng qua những làn hương ngào ngạt. Sắc hương hương sắc quyện cả tâm hồn của ông Hoàng trẻ tuổi. Thế rồi bao nhiêu tâm sự đều gởi gắm vào trăm hoa.
Nhưng khi tìm thấy được đạo, cởi bỏ mọi danh vọng tài sắc ở thế gian, cạo tóc mặc áo nhuộm, Ngài bước chân vào cửa Thiền. Gia công tu tập Ngài đã khám phá được chân lý của vũ trụ, thấy được mặt thật xưa nay của chính mình. Bây giờ Ngài không còn bị sắc hương lôi cuốn, tâm hồn lóng trong tự tại, ngồi lặng lẽ trên giường Thiền nhìn chúng nở tàn một cách an nhiên. Từ đây hoa nở hoa tàn không còn là một hình ảnh khiến tâm hồn người tăng sĩ phải vui buồn theo nó. Dòng thời gian cuồn cuộn trôi, hiện tượng trong không gian luôn luôn chuyển mình sanh diệt, song dưới con mắt một Thiền sư đạt đạo vẫn thấy có một cái gì hiện hữu thoát ngoài luật sanh diệt của thời gian.
Chúng ta hãy nghe lời nhắn nhủ của Thiền sư Giác Hải, một Thiền sư ở đời Lý, cũng nói về Xuân:
Xuân lai hoa điệp thiện tri thì
Hoa điệp ưng tu cộng ứng kỳ
Hoa điệp bản lai giai thị huyễn
Mạc tu hoa điệp hướng tâm trì.
Dịch:
Xuân về hoa bướm gặp nhau đây
Hoa bướm phải cần hợp lúc này
Hoa bướm xưa nay đều là huyễn
Giữ tâm bền chặt bướm hoa thây.
Con người và muôn vật đều bị cuốn phăng theo dòng thời gian bất tận. Sự chết sống sanh diệt của người và vật đều ứng hợp theo thời tiết. Hoa nở, bướm lượn tìm hương đều lệ thuộc hẳn vào mùa Xuân. Nếu chúng ta cứ bám víu vào bản thân vào ngoại cảnh thì ôi thôi! Dòng luân hồi sanh tử lôi cuốn chúng ta không biết đến đâu cho cùng.
Chúng ta phải gan dạ nhìn thẳng vào lẽ thật của bản thân của ngoại cảnh, mới thấy chúng là tướng trạng tạm bợ vô thường, là giả hình bởi nhân duyên chung hợp. Quả thật là huyễn hóa không có một tí gì chắc thật. Chỉ Chân tâm của chính mình, mới là cái chân thật bất sanh bất diệt, mà lâu nay chúng ta đã lãng quên. Giờ đây, chúng ta phải quả quyết sống thật với nó, không một phút giây nào lơi lỏng. Ấy là chúng ta đặt chân trên đường giải thoát, cởi bỏ sợi dây sanh tử luân hồi. Đây là lời nhắn nhủ của Thiền sư Giác Hải bảo chúng ta phải “hướng tâm trì”.
Lại một hình ảnh xinh đẹp lạ thường của một mùa Xuân bất tận, do Thiền sư Chân Không đáp lời hỏi của một Thiền khách:
Xuân đến Xuân đi ngỡ Xuân hết
Hoa nở hoa tàn chỉ là Xuân.
Nhìn thời gian sanh diệt, con người mải lo âu và tiếc nuối. Thấy Xuân đến lại nghĩ đến Xuân đi, rồi e sợ sẽ bơ vơ không còn tìm thấy mùa Xuân đâu nữa. Tâm trạng khát khao lo sợ ấy dồn dập nung nấu con người, khiến họ khô héo chết mòn và hơ hải phập phồng cho một ngày mai. Ngày mai họ không còn biết nó ra sao, mờ mịt tối tăm. Nhưng với Thiền sư, hôm nay và ngày mai đều là vô nghĩa, chúng chỉ là những chiếc áo cũ mới thay đổi trên một thân người. Nhưng đứa bé khi mặc một chiếc áo cũ thì xịu mặt xuống, được quàng chiếc áo mới thì hí hửng lên. Đấy là chúng quên mình mà chỉ nhớ chiếc áo, nên chỉ một bề vui buồn theo chiếc áo. Với người lớn ắt không như thế, vì tự biết đời mình đã đổi thay biết bao nhiêu chiếc áo. Khi thấy được lẽ thật, người ta sẽ không còn bận rộn trong hình tướng giả dối ấy nữa. Vì thế Thiền sư Chân Không đã kết luận cho chúng ta thấy bằng câu “hoa nở hoa tàn chỉ là Xuân”. Ấy là cái đạo miên viễn vậy.
Bước sang những Thiền sư Trung Hoa, xem quan niệm các ngài có gì khác lạ. Đây chúng ta hãy nghe Thiền sư Cao Phong Diệu ngâm nga bốn câu thơ, trước đại chúng trong ngày Tết Nguyên Đán:
Tuế Đán
Bách niên nan ngộ tuế triêu Xuân
Xá nữ sơ trang việt dạng tân
Duy hữu Đông thôn Vương đại tả
Y tiền mãn diện thị ai trần.
Dịch:
Trăm năm khó gặp sáng ngày Xuân
Trang điểm cô em dáng thanh tân
Chỉ có thôn Đông Vương chị cả
Như xưa đầy mặt dính bụi trần.
Mùa Xuân là mùa khí hậu ôn hòa ấm áp. Mỗi lần Xuân về, ngàn cây muôn cỏ đều khoác vào mình một chiếc áo mới. Sự điểm trang của cảnh vật nhịp nhàng với sự điểm trang của con người. Những đứa bé gái áo tím quần hồng, lược cài trâm giắt, lũ lượt kéo đi thăm viếng chúc tụng nhau. Thật là một cảnh nhộn nhịp xinh tươi của ngày Xuân.
Nhưng trong khi con người và vạn vật đang phô diễn sắc hương, đang tưng bừng chúc tụng, thì bên làng Đông một chị nàng đứng tuổi, vẫn trang nghiêm như tượng nữ thần, vẫn im lìm như hình thạch nữ để mặc cho sương pha bụi phủ, không hề vướng chút đổi thay. Gương mặt của cô ta vẫn bình thản an nhiên như tự thuở nào.
Đây là một xảo thuật của Thiền sư khéo trình bày cho chúng ta thấy, bên hình ảnh biến ảo đổi thay, lại có một cái thâm trầm bất sanh bất diệt.
Đến Thiền sư Tiếu Ẩn Hân, chúng ta sẽ thấy một hình ảnh sáng rỡ ẩn trong hiện tượng mịt mù, diệu lý bất sanh bất diệt nằm gọn trong cảnh vật sôi động sanh diệt. Hãy nghe Ngài ngâm bài kệ này trong dịp Xuân về:
Kim cang chánh thể lộ đường đường
Vạn tượng sum la bát-nhã quang
Dẫn khứ lai cơ siêu đương niệm
Vô âm dương điạ lý toàn chương
Mộc kê báo hiểu đề thâm hạng
Thạch nữ nghinh Xuân xuất động phòng
Cộng hỉ long hồ đa thụy khí
Thiền phong thời tống ngự lô hương.
Dịch:
Kim cang chánh thể hiện rỡ ràng
Cảnh vật muôn vàn bát-nhã quang
Cơ bặt khứ lai đương niệm thoát
Đất chẳng âm dương lý toàn bày
Gáy sáng gà cây trong nẻo vắng
Mừng Xuân gái đá ra động phòng
Đáy hồ rồng vẫy vui vô hạn
Đưa tiễn gió Xuân một lò trầm.
Trong muôn ngàn cảnh vật đã chứa sẵn thể Kim cang Bát-nhã rực rỡ, chỉ cần dứt sạch mối manh lại qua sanh diệt thì chánh niệm hiện tiền vượt ngoài mọi đối đãi. Chính chỗ âm dương chưa phân kia, là chân lý hiện bày.
Đẹp đẽ thay trên cảnh tượng ồn náo biến động đã ngầm chứa một cái bất động, như gà gỗ gáy sáng, gái đá mừng Xuân. Rồng nhả hơi trên mặt hồ trong lặng để cùng tiếp đón một mùa Xuân, lò trầm hương tỏa quyện theo gió thiền.
Thật là ảo ảnh lồng trong chân thường, chân thường hiện bày trong ảo ảnh, khiến chúng ta không còn lầm lẫn tìm kiếm chân lý ngoài sự vật vô thường, không lầm bỏ vọng tưởng mà lấy chân như. Đó là quan niệm chân chánh của Thiền sư nhìn vào cuộc đời vậy.
ĐÊM TRỪ TỊCH
Năm Giáp Dần - 1974
Tổng kết lại, chúng ta sống ở thời chiến tranh, mà hôm nay đến ngày Tất niên lại được sum họp ngồi tại Thiền đường ấm cúng này, nói chuyện đạo. Thật là hi hữu.
Có lẽ đây cũng là một sự gia hộ của Tam Bảo, khiến chúng ta được sống trong cảnh an lành không lo sợ. Hoàn cảnh xã hội không làm chúng ta phải buồn rầu đau khổ. Nhất là Tăng Ni đã có thiện duyên chung ở tại Thiền viện để tu học thì thật là quí báu. Còn quí Phật tử nam nữ cũng vậy, tôi thấy rằng lý đáng ngày ba mươi quí vị phải ở tại nhà để rước ông bà, đoàn tụ với gia đình. Quí vị mến đạo cho đến nỗi phải hi sinh cái vui riêng của gia đình mà đến đoàn tụ ở trong đại gia đình Phật pháp như thế này, thật là hi hữu. Tinh thần đó càng đáng được khích lệ. Cho nên chúng tôi thấy rằng con đường hướng dẫn chỉ dạy đó là do Tam Bảo gia hộ khiến cho Phật pháp được miên viễn. Nếu chúng tôi làm được việc gì gọi là hợp thời và giúp cho quí vị đường lối tu hành thì những cái đó đều là sự gia hộ của Tam Bảo hết.

Tôi thường nói với Tăng Ni câu này: Chỉ lo chúng ta không cố gắng, chớ thật tình cố gắng tu hành, nhất là đem hết tâm tư phục vụ Phật pháp thì Tam Bảo không bao giờ bỏ quên chúng ta. Điều đó tôi tin tưởng và quả quyết như vậy. Mà chính vì điều đó nên tôi nói rằng, hiện giờ chúng ta đang ngồi nói chuyện đây Tam Bảo cũng có mặt với chúng ta, Long thiên hộ pháp không bao giờ bỏ chúng ta. Điều đó có lẽ quí vị cũng phải tin phần nào qua kinh nghiệm của tôi.
Trong Thanh qui, chúng tôi có để câu: “Tăng Ni trong Thiền viện nếu hết gạo thì phải thay phiên nhau xuống núi để xin về, đi trong vòng ba ngày, nếu hết nữa thì đến người khác.” Vì sao tôi để câu đó? - Vì tôi chủ trương rằng từ ngày tôi lập Thiền viện là tôi dứt khoát không cho Tăng Ni đi đưa đám ma và không đi dự những buổi cúng kính của Phật tử tổ chức ở nhà. Có một số Tăng Ni nói với chúng tôi rằng: “trong thời này mà không đi cúng thì Tăng Ni sẽ nhịn đói”, nhưng tôi thì quả quyết cách mạng điều đó. Vì đã giải quyết như vậy, cho nên tôi mới ghi câu trên trong Thanh qui Thiền viện. Không cho đi đám lẽ dĩ nhiên người ta không cúng, nguời ta không cúng thì nhịn đói chớ gì? Nếu đến giờ phút chót mà hết gạo thì phải thay phiên nhau đi xin. Nhưng suốt thời gian qua, chúng tôi chưa thấy lúc nào ở trong kho hết gạo. Nếu không phải Tam Bảo gia hộ thì làm sao được như vậy. Chẳng phải do Tam Bảo gia hộ, do nhiệt tình của Phật tử thì làm sao mà có.
Vì lẽ đó, tôi tin rằng sức gia hộ của Tam Bảo rất mạnh, và lòng thành tín của Phật tử rất tốt. Cho nên chỉ lo Tăng Ni chúng ta thiếu đức, thiếu hạnh không cố gắng tu hành chớ đừng lo Phật tử bỏ sót chúng ta. Đó là điều tôi thường nói, thường nhắc trong giới Tăng Ni.
Bây giờ để thấy rõ rằng hôm nay là ngày cuối năm, chúng ta ai nấy nên trình bày điều thấy được, những biến động tâm tư của chính mình. Những biến động đó có thể có tiến triển hơn trước, nhưng đem so với các bậc thiện trí thức của quá khứ, thí dụ như Sư tổ hay các vị Thiền sư, thì vẫn phải hổ thẹn vì mình chưa được bao nhiêu.
Căn cứ trên thời gian chúng ta phân biệt mùa Đông, mùa Xuân, nên bây giờ chúng ta mới có lễ Tất niên, uống trà trừ tịch. Theo thời gian phân định là thế tục đế, chớ không phải là chân đế. Hôm nay tôi đem việc thế tục đế để nói thế tục đế, nhưng cũng là đạo lý để rồi cùng khuyên nhắc cho tất cả quí vị thấy được ý nghĩa ngày cuối năm của chúng ta quan trọng như thế nào. Tôi nhắc lại câu chuyện hôm rồi tôi có kể ở Linh Quang cho quí vị nghe. Một buổi sáng sau giờ ngồi thiền, tôi xả thiền xoa bóp xong, ngồi lại một tí cho thật hết hơi nóng. Khi ấy chú Thị giả lên dọn dẹp, tôi vén mùng ra hỏi chú:
- Ngày hôm qua đâu rồi?
Chú nhìn tôi không trả lời. Tôi nói tiếp:
- Tôi không muốn sống ngày nay, tôi muốn sống trở lại ngày hôm qua. Chú đem ngày hôm qua cho tôi.
Chú Thị giả cũng làm thinh không trả lời được câu hỏi đó. Một lát sau, tôi muốn dễ dàng cho chú một chút, tôi nói rằng:
- Hôm nay chú dọn chén này đũa này, coi như chú dọn chén mới đũa mới. Nếu bây giờ tôi đòi chú đưa chén đũa cũ ngày hôm qua, thì chú phải làm sao?
Chú nói:
- Thì con sẽ đi đổi lại cái ngày hôm qua cho Thầy.
Tôi nói tiếp:
- Như vậy tại sao tôi không muốn sống ngày nay, tôi đòi ngày hôm qua mà chú không đổi lại cho tôi?
Chú Thị giả nói:
- Ngày hôm qua là giả là mộng, không thật.
Tôi tiếp:
- Nếu ngày hôm qua là mộng, ngày nay tôi bắt đầu sống đây, đây cũng là mộng nữa hay sao? Ngày hôm qua là mộng, ngày nay là mộng, ngày mai cũng là mộng nữa sao? Như vậy suốt đời chỉ là mộng phải vậy không?
Chúng ta cứ lần bằng xâu chuỗi mộng. Một ngày qua kẽ tay rồi mất, một ngày khác qua rồi mất, mất, mất... cho tới cùng, hết một xâu chuỗi. Như vậy cả cuộc đời của con người toàn là xâu chuỗi mộng, không có gì khác hơn.
Hôm nay là ngày cuối năm, ngày mai là ngày đầu năm mới. Nếu chúng ta cứ nghĩ ngày đầu năm đó sẽ hiển hiện cho một năm mà chúng ta không bằng lòng, không vui, rồi không ưng sống với năm đó, muốn sống trở lùi với năm cũ thì có được không?
Chắc rằng không ai trở lùi lại được. Cái quá khứ đã qua, qua mất rồi, cái hiện tại cũng qua, cái sắp đến, đến rồi cũng mất. Như vậy ba thời đều mất. Đã mất thì nó không thật. Nếu ta kiểm điểm lại kỹ từ thủy chí chung, thì đó là một dòng thời gian hư ảo không thật. Bởi không thật nên nó là mộng huyễn, qua rồi không tìm lại được. Thế mà chúng ta cứ lăn xả người vào cái hư giả đó tưởng nó là thật. Cả một cuộc đời tạo cái này cái kia không dừng. Rồi tới phút chót, ngày mà hơi thở dứt đi chúng ta sẽ ra sao? Kiểm điểm lại mình, nhớ cuộc đời năm mươi tuổi, sáu mươi tuổi, bảy mươi tuổi đã qua. Đó là cái gì? Thật là một chuỗi mộng. Thật vậy, dòng thời gian là một xâu chuỗi mộng, không có gì thật hết. Mà kiếp sống chúng ta lại là một kiếp sống qui định bởi thời gian theo số năm sáu mươi, bảy mươi v.v... Thời gian không thật thì con người chúng ta có thật hay không? Cũng không thật luôn.
Nhớ năm ngoái tóc tôi bạc ít, năm nay tóc tôi đã bạc nhiều, răng tôi năm ngoái lung lay ít, năm nay lung lay thêm. Cứ như vậy, khi thời gian trôi thì bản thân chúng ta cũng bị tiêu mòn theo đó. Nếu căn cứ vào hiện tại, từ con người cho đến sự vật chung quanh mình đều theo dòng thời gian mà biến đổi, sanh diệt từ phút, từ giây, từ sát-na, không dừng lại ở đâu hết. Chúng ta thấy rõ ràng là dòng thời gian hư ảo. Nó đã chi phối hết cả cuộc sống của chúng ta, từ thân mình cho đến ngoại cảnh. Không có cái gì không bị chi phối. Khi dòng thời gian đã hư ảo thì kiếp sống của con người cũng hư ảo, sự vật chung quanh cũng là hư ảo.
Như vậy có thể kết thúc rằng: Chúng ta lần bằng những xâu chuỗi mộng, những hạt chuỗi mộng. Từng tháng từng năm, chúng ta mặc chiếc áo mộng đan dệt bằng những sợi tơ mộng. Chung quanh chúng ta toàn là mộng, mà không hay. Chúng ta lỡ sống như vậy rồi mà lại đua nhau giành giật danh lợi tài sắc, trong cái mộng đó, tạo không biết bao nhiêu đau khổ huyết lệ cho nhau. Đó là vì chúng ta không biết cuộc đời là ảo mộng. Nếu hôm nay thấy rằng chúng ta sống trong chuỗi mộng, mặc những chiếc áo mộng thì còn gì mà đắm mê tham luyến cảnh mộng ấy nữa. Thân mình và ngoại cảnh là không gian, ba thời quá khứ hiện tại vị lai là thời gian. Tất cả là một dòng mộng có gì thật là mình. Lâu rồi chúng ta cứ mê lầm tưởng là thật, rồi tính thời gian để định số tuổi, hãnh diện sống dài ngắn v.v... Lượm lặt những sự vật vô thường ở chung quanh, cho đó là sự việc của mình. Kiểm điểm lại chỉ là lần chuỗi mộng, mặc áo mộng mà thôi. Đó là chỗ thấy của chúng tôi.
Nếu tất cả thời gian là mộng, không gian là mộng, thì chúng ta chìm luôn trong mộng đó hay sao? Hay còn một cái gì nữa? Nếu chúng ta cứ thấy thời gian trôi qua là mộng, cuộc sống mình sự vật chung quanh mình cũng là mộng, thì lúc đó chúng ta sẽ đi mãi trong cái sanh diệt hư ảo mộng huyễn rồi tuyệt vọng sao? Nhưng nhờ phúc duyên lành, chúng ta được đức Phật chỉ cho trong cái mộng ấy có cái không phải là mộng. Mà cái đó là cái hiện giờ chúng ta đang trở về đang theo dõi nó và tìm thấy nó, để sống với nó. Như vậy trong cái mộng chúng ta còn thấy cái không phải mộng. Thời gian không gian đều là mộng. Cái không phải là mộng đó đối với toàn thể mộng này nó có giá trị biết là bao! Vì vậy khi chúng ta thấy đang bị cái hư ảo huyễn mộng chi phối thì đồng thời cũng nhận thấy còn có cái không phải hư ảo, không phải huyễn mộng luôn có mặt với chúng ta. Điều đó rất đáng mừng! Mừng cho mình chừng nào lại thương cho những người đang lao mình trong mộng chừng ấy. Họ đang tạo nghiệp ác, gây khổ đau, thật đáng thương xót!
Khi chúng ta biết kiếp người là ảo mộng, tìm thấy một cái gì thoát ra ngoài vòng ảo mộng đó, chúng ta nương tựa nó để được an lành. Chúng ta càng thương xót thấm thía đối với những người đang lao mình trong mộng mà tự họ không thức tỉnh. Chính cái nhìn đó mà một Thiền sư Việt Nam đã diễn đạt tâm tư bằng những câu thơ, để cho bao nhiêu nhà văn nhà thơ Việt Nam nhắc lại mãi không quên. Thiền sư Mãn Giác đã nói:
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai
Mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Dịch:
Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cười
Trước mặt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Chớ bảo Xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua, sân trước một cành mai.
Hai câu đầu diễn tả Xuân đến Xuân đi, là dòng thời gian. Trăm hoa rụng, trăm hoa cười là những sự vật hiện có trong không gian. Như vậy thời gian và không gian là một dòng sanh diệt ảo mộng, trôi theo dòng ảo mộng đó thì con người mình như thế nào? Nhìn thời gian trôi và tưởng như mình không mắc kẹt ở trong ấy, đâu ngờ ngó lên đầu mái tóc đã bạc phơ. Như vậy thời gian trôi đi, không gian biến đổi thì, chính mình theo đó mà đổi. Thật là bi đát, nếu cuộc đời chỉ có ngang chừng ấy thôi. Nhưng mà không bi đát lắm với đôi mắt của Thiền sư vì “mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận, đình tiền tạc dạ nhất chi mai.” Đừng bảo rằng mùa Xuân tàn thì hoa rụng hết. Đêm qua vẫn còn có một cành mai nở trắng ở trước sân. Rõ ràng trong cái tàn hoại ảo mộng còn có một cái gì thầm kín đẹp đẽ trường tồn mãi. Đó là một cành mai. Một cành mai của Thiền sư Mãn Giác tức là cái gì Phật đã nói trong kinh Lăng Nghiêm, đó là “Chân tâm” hay là Như Lai Tạng tánh của chúng ta. Hoặc ở chỗ khác trong kinh Pháp Hoa, đức Phật dụ là “Hòn ngọc quí” đang buộc trong chéo áo.
Như vậy đối với người tu, nhất là khi chúng ta hiểu được chút ít về Thiền, nếu chúng ta sống với tâm niệm Thiền thì mới thấy rằng trong cái sanh diệt ảo mộng, còn có cái không sanh diệt lẫn trong ấy. Thế nên lòng mình được an ổn, tự tại và vui vẻ. Chỉ thấy được một tí, một khía cạnh nhỏ xíu nào của cái đó, chúng ta cũng cảm thấy có hứng khởi, một niềm vui vẻ để xóa được nỗi đau buồn, những cái tối tăm thời quá khứ. Thấy được một tí thôi mà chúng ta cũng có một niềm an lạc rồi, huống nữa là thấy toàn thể Bản tâm ấy. Nếu chúng ta thực hiện nó toàn vẹn thì đẹp biết chừng nào. Vì vậy chúng tôi tin rằng với sự cố gắng mãnh liệt của tất cả chúng ta ai nấy rồi đều có một ngày sẽ vỗ tay cười, cười quên thôi như Hòa thượng Thủy Lạo. Sau khi bị một đạp của Mã Tổ vào hông, Ngài cười cho đến mãn đời không thôi. Trong cuộc đời đen tối ảo mộng đó mà mình tìm được cái gì nó thoát ra ngoài, chẳng khác nào ở trong đêm tối mà mình thấy hay nắm một ngọn đèn sáng, thật còn gì vui sướng cho bằng. Cho nên đó là nguồn vui vô tận đối với người hiểu đạo, học đạo. Cái vui đó không phải để rồi hưởng riêng mà phải ban rải cho mọi người cùng vui với chúng ta. Đó là tâm niệm của người tu hành. Nhưng muốn hưởng được mùi thơm hoa mai, cành mai của ngài Mãn Giác nói, có dễ dàng không, hay phải chịu cay đắng nhọc nhằn? Tôi xin nhắc lại bài kệ của Tổ Hoàng Bá:
Trần lao quýnh thoát sự phi thường
Hệ bả thằng đầu tố nhất trường
Nhược bất nhất phiên hàn triệt cốt
Tranh đắc mai hoa phốc tỹ hương.
Dịch:
Vượt khỏi trần lao việc chẳng thường
Nắm chặt đầu dây giữ lập trường
Nếu chẳng một phen xương buốt lạnh
Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương.
Thật tình, khi chúng ta muốn ra khỏi vòng ảo mộng ấy, dĩ nhiên chúng ta là kẻ phi thường. Tại sao? Vì mọi người đang lao mình trong mộng mà không biết là mộng, rồi chìm đắm, rồi say sưa, rồi tạo nghiệp khổ cho nhau. Đó là người sống trong vô minh trong mờ tối. Bây giờ chúng ta đã thấy được đó là vòng vô minh, đen tối muốn thoát ra khỏi nó, thì đối với những người kia chúng ta chẳng “phi thường” là gì? Muốn làm kẻ phi thường, chúng ta phải làm sao? Phải nắm vững đầu mối dây, đừng bao giờ lay chuyển lập trường của mình từ thủy chí chung. Nói từ thủy chí chung thì xa quá, tôi muốn nói lập trường của Tăng Ni hay Phật tử, kể từ khi chúng ta có được cái duyên biết đạo vị của Phật, kể từ đó cho đến bao giờ chúng ta đạt đạo mới thôi. Lập trường đó không bao giờ lay, nghĩa là nắm vững. Tôi tin rằng với lập trường đó ai nấy cũng đều ngửi được mùi thơm của hoa mai. Thế nên Ngài nói nắm vững lập trường để sau này dù gặp những cái khó khăn, khổ não, nhọc nhằn, chướng ngại gì chúng ta cũng đều qua hết. Có qua như vậy ta mới đi đến chỗ đẹp đẽ an lành đúng theo sở nguyện. Tức là ngửi được mùi thơm của hoa mai. Để diễn tả cái đen tối, cái khổ đau, cái chịu đựng cay đắng đó, Ngài mới nói rằng: Nếu không phải bị sương tuyết lạnh thấu xương thì làm sao có ngày ngửi được mùi thơm của hoa mai. Hình ảnh hoa mai và tuyết sương mượn ở bên ngoài, nói lên sự cay đắng khó khăn của người tu. Do sự cay đắng khó khăn đó mà chúng ta đi đến chỗ tột cùng, nếu giữ lập trường không lay chuyển. Sau khi qua cái cay đắng tột cùng rồi, chúng ta sẽ được cái an lành vô thượng, đó là ngửi mùi thơm của hoa mai. Thành ra hoa mai của Tổ Hoàng Bá nói cũng là hoa mai của Thiền sư Mãn Giác. Hai vị đó đều mượn hình ảnh hoa mai để chỉ cho chúng ta còn có một cái chân thật. Với một cố gắng phi thường thì chắc chắn rồi ai cũng hưởng được hương vị nó. Phải gan dạ chịu qua một mùa Đông lạnh buốt mới có thể ngửi được mùi thơm của hoa mai.
Vì vậy tôi có thể kết thúc rằng, nếu tất cả mọi người chúng ta ai nấy đều có thiện chí quyết tiến lên, không mắc kẹt trong cuộc đời ảo mộng nữa, thì phải gan dạ chịu đựng, bởi vì chúng ta đi ngược dòng sanh tử. Dòng sanh tử giống như một dòng nước lũ quá mạnh. Người nào không gan dạ không vững bền thì sẽ bị nó cuốn phăng đi. Vì vậy mỗi người phải gan dạ, vững vàng để vượt lên, đừng để cuốn đi. Như thế chúng ta mới có thể ra khỏi dòng nước lũ. Đó là chỗ thiết yếu mà mọi người chúng ta, xuất gia cũng như tại gia, muốn đi ngược dòng ảo mộng của thời gian, không gian đều phải cố gắng.
Tóm lại, tôi đã kết thúc bằng một đáp số rõ ràng cho quí vị thấy cuộc đời tu hành của chúng ta là phải như vậy.
ĐỨC DI-LẶC QUA HÌNH ẢNH
VÀ Ý NGHĨA NGÀY VÍA CỦA NGÀI

Trong chùa tất cả những hình thức thờ phụng cũng như mọi nghi lễ đều có ý nghĩa rõ ràng, nhưng vì lâu rồi chúng ta nặng về phần tín ngưỡng, nên không xét kỹ ý nghĩa. Vì vậy đi chùa rất lâu thờ Phật quá nhiều, mà tự mình không biết ông Phật đó là thế nào? Tại sao ngày đó mình phải lễ Ngài?
Hôm nay nhân ngày đầu năm, đúng là ngày vía của đức Phật Di-lặc, chúng ta lễ Phật gọi là lễ vía đức Di-lặc. Phải biết ý nghĩa ngày vía của Ngài thì việc lễ của chúng ta mới có giá trị thật. Vì sợ quí Phật tử không hiểu lẽ đó, cũng như chư Tăng trong chùa, nhiều khi không có thời giờ nghiên cứu rõ ràng, cho nên hôm nay tôi nói ý nghĩa về đức Phật Di-lặc để quí vị tìm hiểu, coi như lời chúc Tết đầu năm của tôi.
Nói về đức Phật Di-lặc chắc rằng đại đa số quí vị đều nhớ đến hình tượng của một ông Phật ngồi phạch ngực, mập, bụng to và miệng cười toe toét. Có khi quí vị thấy bên cạnh Ngài có sáu đứa con nít, đứa thì móc lỗ tai, đứa thì móc miệng, đứa thì thọc lét v.v... Những hình tượng đó như là một trò đùa. Mình không biết tại sao lại có chuyện đùa ở trong chùa như vậy. Đó là ý nghĩa chúng ta cần phải biết. Nói đến đức Di-lặc chúng tôi phải khảo lịch sử từ Ấn Độ sang Trung Hoa để quí vị khỏi lầm lẫn. Nhiều tà thuyết bây giờ dựng đức Phật Di-lặc làm chỗ tiêu chuẩn để họ lôi cuốn Phật tử. Đức Phật Di-lặc là tên dịch của thuở xưa. Sau này có dịch ra nhiều tên khác nhưng vì chúng ta đã quen kêu là đức Phật Di-lặc.
Chữ Di-lặc là phiên âm tiếng Phạn Maitreya, Tàu dịch là Từ Thị. Có thuyết nói rằng khi bà mẹ mang thai Ngài, khởi lòng thương không nỡ giết hại chúng sanh và không ăn thịt cá được cho nên nói là “Từ”, vì Ngài là con bà cho nên gọi là Từ Thị. Lại có thuyết nói khác hơn, vì thuở xưa Ngài tu về từ bi tam-muội cho nên sau này có tên là Từ Thị. Ngài còn được gọi là A-dật-đa cũng là dịch âm tiếng Phạn Ajita dịch là Vô Năng Thắng tức là không có thể nào hơn được, trí tuệ và hạnh tu của Ngài ít người hơn được, nên có tên Vô Năng Thắng. Đó là nói về đức Phật theo thói quen của chúng ta. Nếu nói theo kinh thì gọi là Bồ-tát Di-lặc. Hồi đức Phật còn tại thế, Bồ-tát Di-lặc là một nhân vật lịch sử sanh ở miền nam Thiên Trúc, trong dòng Bà-la-môn, sau gặp Phật, xuất gia, tu theo hạnh Bồ-tát.
Trước hết tôi dẫn kinh A-hàm. Trường A-hàm có nói thế này: Đức Phật dạy rằng sau này ở cõi Ta-bà, tâm con người càng ngày càng ác, mười nghiệp thiện họ bỏ qua mà luôn tạo nhiều nghiệp ác. Cho đến bao giờ họ quí mười nghiệp ác cũng như thuở xưa quí trọng mười nghiệp thiện và tuổi thọ chúng sanh giảm xuống đến cuối cùng còn mười tuổi. Khi nghiệp ác nhiều thì tuổi thọ theo đó mà giảm. Bao giờ tuổi thọ con người chỉ còn mười tuổi, cũng như bây giờ tuổi thọ chúng ta coi là một trăm tuổi vậy, thì lúc đó thế giới sẽ có những tai nạn đao binh. Đao binh ở đây không phải là người ta giết chết nhau, mà chính những lá cây cỏ cũng có thể biến thành gươm bén. Chúng ta bị chặt bị cắt mà chết. Qua tai nạn đao binh đó tới tai nạn tật dịch tức là đau ốm bệnh dịch. Vì vậy đại đa số dân chúng trên thế giới này chết mòn chỉ còn sót lại một ít người tu hành ẩn trên núi trên non. Qua thời gian đó rồi, họ tìm thấy chỉ còn sống sót lưa thưa vài người. Lúc đó, họ mới biết vì con người làm điều ác, nên bị quả báo chết như vậy. Cho nên họ nỗ lực tu mười điều thiện lại. Khi bắt đầu tu mười điều lành thì tuổi thọ họ tăng, cứ một trăm năm thì tăng lên một tuổi. Đến bao giờ tuổi thọ lên đến tám mươi bốn ngàn tuổi, lúc đó dân chúng đông đảo thuần hậu, làm lành thì Phật ra đời ở dưới cội cây Long Hoa gọi là hội Long Hoa. Như vậy quí vị tưởng tượng bây giờ chúng ta đang ở cái mức tám mươi tuổi thọ mà cứ một trăm năm giảm xuống một tuổi, giảm tới còn mười tuổi, rồi tăng lên cho đến tám mươi bốn ngàn tuổi, thì thời gian từ đây tới đó còn bao xa? Theo trong kinh khi Phật Thích-ca nhập diệt thì đức Di-lặc cũng nhập Niết-bàn. Ngài sanh lên cung trời Đâu-suất ở trong nội viện sống bốn ngàn tuổi. Sau đó Ngài mới sanh trong thế giới Ta-bà, thành đạo dưới cội cây Long Hoa giáo hóa chúng sanh kế tiếp đức Phật Thích-ca. Vậy tưởng chừng bao lâu Phật Di-lặc ra đời? Vậy mà có một số người nghe trong kinh nói đức Phật Di-lặc ra đời, nghe nói hội Long Hoa, rồi họ bịa ra ít bữa đức Phật Di-lặc ra đời, vài bữa hội Long Hoa đến v.v... Đó là những tà thuyết để lừa bịp những Phật tử không hiểu Phật pháp. Lại có người tự xưng là Phật Di-lặc hoặc tự cổ động rằng mình sẽ chờ đón đức Phật Di-lặc. Quí vị xét, nếu chúng ta tin đức Phật Di-lặc chỉ còn một phen bổ xứ lên cung trời Đâu-suất, sau này hạ sanh ở thế giới Ta-bà thành Phật, nếu tin lời Phật Thích-ca nói trong kinh thì chúng ta phải tin luôn thời gian đã định ngày Phật ra đời. Chúng ta tin đức Phật Di-lặc, tin có hội Long Hoa mà quên thời gian đó. Rồi hời hợt, cứ nghe ai nói đức Phật Di-lặc ra đời thì vội vàng chạy tới đảnh lễ mong cầu v.v... Đây là cái sai lầm quá lớn để những tà thuyết lợi dụng danh từ Phật giáo tuyên truyền mê tín dị đoan. Người Phật tử chân chánh phải hiểu rõ điều này. Đó là tôi khảo về lịch sử từ những bộ kinh gọi là Di-lặc Thượng Sanh, Di-lặc Hạ Sanh và Di-lặc Bản Nguyện. Những kinh đó đều do đức Phật Thích-ca nói ra, đọc kỹ rồi, chúng ta biết rõ lịch sử đức Di-lặc, vậy đừng nghe lời của một số người bàn tán, dựng lên những điều sai lầm. Đó là chúng tôi nói về đức Phật Di-lặc ở Ấn Độ.
Bây giờ nói tới đức Phật Di-lặc ở Trung Hoa. Nếu căn cứ theo hình tượng chúng ta thờ thì không có hình tượng của đức Bồ-tát ở Ấn Độ, mà là hình tượng đức Di-lặc ở Trung Hoa, bụng phệ lùn mập. Đức Di-lặc ở Trung Hoa ra đời lúc nào? Điều đó chúng ta phải khảo lại. Có nhiều thuyết nói đức Di-lặc hiện giờ đang ở trên cung trời Đâu-suất. Ngài chưa tới thời kỳ giáo hóa chúng sanh ở thế giới này. Nhưng với tinh thần người hiểu Phật giáo Đại thừa thì Bồ-tát có Báo thân, Ứng thân và nhất là Hóa thân. Tùy căn cơ chúng sanh mà các ngài ứng hóa vô lượng thân không thể lường được. Cho nên sử Trung Hoa kể mà tôi nhớ đại khái có hai Hóa thân của Bồ-tát Di-lặc. Một Hóa thân gọi là ngài Phong Can ở gần chùa Quốc Thanh đời nhà Tùy, tức là ở khoảng thế kỷ thứ 6. Nói rằng Ngài có một cái am gần chùa Quốc Thanh và đi thuyết giáo nơi này nơi nọ. Có lắm lúc Ngài cỡi cọp về, chúng trong chùa thấy hoảng kinh. Khi đến khi đi không ai lường được. Có lần Ngài ôm về một đứa bé gởi trong chùa đặt tên là Thập Đắc. Thỉnh thoảng có một ông ăn mặc rách rưới ở trong núi lạnh đi ra, tuyết phủ đầy mình gọi là Hàn Sơn. Hàn Sơn và Thập Đắc được coi như là hai người ăn mày trong chùa, ăn mặc rách rưới ngủ ngoài hành lang. Tới bữa ăn thì đợi chúng ăn xong hết, còn những thừa cặn gì đó Ngài trút lại dùng. Có khi các Ngài còn lượm cơm dưới sàn nước, rửa lại mà ăn. Chúng trong chùa coi các Ngài như hai kẻ ăn mày không kém, nhưng mà có cái lạ là nhiều khi hai Ngài hứng làm thơ. Những bài thơ của các Ngài không ai hiểu gì hết. Một hôm bất chợt, sau một bữa trưa chúng Tăng nghỉ hết, hai ngài trèo lên cổ của ngài Văn-thù và ngài Phổ Hiền ngồi. Một ông Tăng ở dưới tăng xá thình lình đi lên, thấy như vậy ngạc nhiên quá mới chạy đi báo cho thầy Trụ trì hay. Thầy Trụ trì lôi hai ngài xuống rầy quở đủ thứ hết. Hai Ngài đó là bạn thân của ngài Phong Can. Ngài Phong Can tịch rồi. Một hôm quan huyện có bệnh nan y, nằm chiêm bao thấy ngài Phong Can tự xưng là đức Di-Lặc bảo ông đến đảnh lễ Bồ-tát Văn-thù, Phổ Hiền và chỉ cho ông một phương thuốc uống hết bệnh. Muốn đảnh lễ hai vị đó thì vào chùa Quốc Thanh hỏi tên Hàn Sơn, Thập Đắc. Quan huyện theo lời chỉ tìm thuốc uống lành bệnh, mới đến chùa Quốc Thanh để gặp hai vị Hàn Sơn, Thập Đắc. Khi thầy Trụ trì thấy quan huyện hỏi hai chú ăn mày, thầy ngại quá không muốn kêu. Nhưng quan huyện cho biết ông mong mỏi gặp hai vị đó, buộc lòng thầy Trụ trì cho mời. Hai Ngài nắm tay đi ra, quan huyện vừa trông thấy quì mọp xuống lạy. Hai Ngài mới cười và nói: “Cái lão Phong Can bày đặt làm cho ta phải bại lộ.” Hai Ngài, cõng nhau chạy tuốt vô rừng mất biệt. Do đó mới biết hai Ngài là hiện thân của Văn-thù, Phổ Hiền, còn ngài Tăng Can là hiện thân của đức Di-lặc. Nhưng biết thì chuyện đã rồi, không ai ngờ để đảnh lễ các Ngài được hết.

Một vị khác vào thế kỷ thứ 10 đời Ngũ đại ở Trung Hoa gọi là Bố Đại hòa thượng. Vị đó gần gũi chúng ta nhất, tức là ông già quảy cái đãy to tướng, mặt tròn, miệng cười, bụng phệ, áo phạch ngực. Bố Đại hòa thượng lúc nào cũng quảy một túi lớn, đi trong nhân gian gặp chỗ nào có cái gì, cũng xin bỏ vô đãy. Đến chỗ có con nít đông, Ngài ngồi xuống phân chia và vui chơi với chúng. Cho nên người ta thấy miệng Ngài lúc nào cũng cười vui vẻ thích thú. Đó là hình ảnh đức Di-lặc, một vị Hòa thượng bụng lớn, mập, miệng cười toe toét.
Tại sao gọi ngài Bố Đại hòa thượng là Di-lặc?
Trong sử có nói đủ những chuyện lạ xảy ra trong đời Ngài, ở đây tôi chỉ lược vài điểm thiết yếu cho quí vị biết mà thôi. Ngài đi xin và sống một thời gian ở tỉnh Minh Châu, lang thang nơi này nơi nọ. Thời đó là thời Thiền tông thạnh hành ở Trung Hoa. Một hôm Hòa thượng Thảo Đường gặp Ngài hỏi: “Đại ý Phật pháp thế nào?” Đang quảy bị trên vai Ngài liền để xuống. Vị Hòa thượng hỏi thêm: “Chỉ có thế thôi hay có con đường tiến lên?” Ngài mang bị để lên vai và đi. Đó là câu trả lời của Ngài.
Trong lịch sử Thiền tông, cũng câu hỏi đó, Tổ Lâm Tế Nghĩa Huyền đem ra hỏi Tổ Hoàng Bá liền bị ăn gậy. Ở đây ngài Bố Đại hòa thượng đối với câu hỏi đó, Ngài chỉ buông cái bị xuống đất. Hỏi có con đường tiến lên nữa không, Ngài mang bị lên vai đi luôn. Người ta vẫn chưa biết tung tích của Ngài thế nào? Nhưng một hôm, Ngài trở về chùa, ngồi trên bàn thạch, Ngài làm một bài kệ rồi tịch. Bài kệ đó như thế này:
Di-lặc chân Di-lặc
Phân thân thiên bách ức
Thời thời thị thời nhân
Thời nhân tự bất thức.
Ngài nói rằng: Di-lặc thật Di-lặc. Phân thân trong muôn ức. Thường thường chỉ dạy người đời. Người đời tự không biết. Nhờ bài kệ đó mà người ta mới biết Bố Đại hòa thượng là Hóa thân của đức Di-lặc. Vì vậy muốn vẽ hình đức Di-lặc người ta liền vẽ hình Bố Đại hòa thượng. Đó là đức Di-lặc ở Trung Hoa. Bây giờ chúng ta thờ phượng là thờ hình ảnh đức Phật đó. Chớ đức Bồ-tát Di-lặc ở Ấn Độ thì mình không biết. Còn đức Di-lặc ở cung trời Đâu-suất lại càng không biết hơn nữa. Đó là phần khảo về lịch sử.
Đây nói về ý nghĩa ngày vía mùng một Tết. Ngày vía này là ngày vía gì của đức Di-lặc? Ở Ấn Độ thì không biết ngày nào, ở Trung Hoa hóa thân hai, ba đời, cũng không biết ngày nào. Nói ở cung trời Đâu-suất lại càng không biết hơn nữa.
Như vậy ngày vía này là ngày vía gì?
Chúng ta đừng nghĩ rằng phải đợi có ngày sanh ngày tịch mới gọi là ngày vía. Đây là ý nghĩa thâm sâu trong nhà Thiền. Các Tổ đã khéo léo chọn ngày mùng một Tết làm ngày vía đức Phật Di-lặc. Chúng ta lạy Ngài với câu: Long Hoa Giáo Chủ đương lai hạ sanh Di-lặc Tôn Phật. Chư Tổ thấy thế gian xem ngày mùng một Tết là ngày định đoạt của suốt một năm. Ngày này mọi người dè dặt từng lời nói, dè dặt từng hành động, dè dặt từng tên người đến thăm mình, dè dặt đủ thứ chuyện. Như vậy ngày mùng một Tết là ngày đầy đủ ý nghĩa của tương lai mình. Trong chùa ngày mùng một Tết có ý nghĩa gì? Các Tổ lấy ngày mùng một Tết làm ngày vía đức Phật Di-lặc cũng là ngày tương lai rực rỡ, ngày tương lai sẽ thành Phật. Sáng mùng một chúng ta lạy Phật, lạy vía đức Di-lặc, là đặt hết cả niềm hi vọng vào tương lai, hi vọng chúng ta sẽ thành Phật. Không hi vọng giàu có sang trọng gì mà chỉ hi vọng sẽ thành Phật. Đó là ý nghĩa sâu đậm nhất của ngày mùng một Tết để chúng ta lễ đức Phật Di-lặc.
Ý nghĩa thứ hai là hình ảnh vui cười của đức Di-lặc. Đó là hình ảnh hạnh phúc. Vì vậy có chỗ thay vì để danh từ Di-lặc lại để một con người hạnh phúc.
Tại sao là con người hạnh phúc? Tới đây tôi bước sang giai đoạn sâu của Thiền tông.
Hỏi: Thế nào là đại ý Phật pháp?
Ngài quăng cái bị xuống mà không trả lời gì hết.
Hỏi: Có con đường tiến lên không?
Ngài quảy bị lên vai mà đi.
Đại ý Phật pháp không có gì lạ. Nói thẳng e quí vị phiền, mà không nói e cho rằng giấu giếm. Đại ý Phật pháp chỉ có một chữ xả là được. Chấp tức là chấp mình chấp người, quyền thế, danh vọng v.v... Như vậy cái mà buông tất cả đó là đại ý Phật pháp. Nói như vậy đó e quí vị khó hiểu. Tôi nói câu chuyện hơi bình dân một chút mà không kém quan trọng. Tổ Hoàng Bá, thầy của Tổ Lâm Tế Nghĩa Huyền, một vị Thiền sư nổi tiếng giữa đời Đường, Ngài dạy rằng, chỉ cần có một hạnh bố thí là đầy đủ tất cả. Bố thí là cho món này món kia, tức xả hay buông bỏ. Chỉ có một hạnh xả là đầy đủ tất cả. Khi nhắc về hạnh tu Sư thúc, Sư bá, Ngài nói: Mã đại sư sanh ra tám mươi bốn vị thiện tri thức, hỏi đến người tiêu chảy, tiêu chảy đầy đất chỉ có Qui Tông. Nói đến tiêu chảy quí vị đừng nghĩ theo lối quê mùa của mình, đó là xả tất cả. Chỉ có Hòa thượng Qui Tông là con người xả được tất cả. Con người xả là con người đáng quí hơn hết.
Như vậy quí vị thấy rõ ràng xả là một pháp khiến cho người đạt đến viên mãn trong đạo, nếu nói theo Thiền tông. Vì vậy sau khi Ngài buông cái túi xuống rồi, hỏi còn có gì nữa không thì Ngài quảy túi lên vai. Tới đó đừng tưởng rằng hết rồi mình không còn gì nữa. Chính buông hết rồi, mình mới được một quảy lên vai tự tại. Cho nên nhà chùa có câu “bỏ tất cả là được tất cả”. Nhưng nói bỏ tất cả để được tất cả thì mình còn tham quá. Bây giờ chỉ cần bỏ tất cả là đủ rồi. Chính cái hạnh xả đó là chỗ rất sâu và đưa chúng ta tới chỗ cao siêu của người giải thoát. Vì vậy trong nhà Thiền nói ta không có một pháp dạy người mà chỉ tùy phương tiện nhổ đinh tháo chốt thôi. Nhổ đinh tháo chốt là xả, là phá chấp. Xả được là xong việc.
Đến đây tôi đi sang giáo lý để quí vị dễ thấy dễ tu hơn. Nói đến xả là nói đến hạnh phúc cho nên quí vị nghe danh từ thường dùng nhất là Hỉ Xả. Hai cái đó cái nào là nhân cái nào là quả? Có thể nói hỉ là nhân, xả là quả, cũng có thể nói ngược lại xả là nhân, hỉ là quả. Tại sao vậy? Như hằng ngày có vị nào làm phật lòng mình một chút khiến mình bực bội. Khi bực bội thì không vui. Giờ đây người đó xin lỗi mình, mình liền vui vẻ mới tha được. Còn giận thì không tha được, vui vẻ mà tha thứ cho họ, như vậy mới ổn, trường hợp đó hỉ là nhân, bởi vì vui nên mình mới xả, xả là quả.
Nhưng ở đây nói con người hạnh phúc đó phần lớn xả là nhân hỉ là quả. Bởi vì chúng ta có xả được chúng ta mới vui. Nếu chúng ta không xả được thì chúng ta không bao giờ vui được. Tôi nói một việc hết sức là tầm thường, như trong gia đình quí đạo hữu, người chồng làm phật ý người vợ, trong lúc phật ý thấy nhau có vui không? Không nói chuyện nhau, không nhìn mặt nhau, bao giờ xả được thì lúc đó mới vui vẻ nói chuyện được. Như vậy trường hợp đó do xả mà được vui. Nếu không xả thì không vui. Đó là thí dụ nhỏ, tôi thí dụ rộng hơn. Trường hợp chúng ta đối với người ngoài đời hay bè bạn, nếu họ có hành động lấn hiếp mình hoặc có lời nói cao hơn mình, lúc đó làm sao, có an ổn được không? Không vui đó là tại sao? Tại nhớ người kia nói gác mình, ỷ mạnh hiếp yếu. Nghĩ như vậy ngủ không được, nếu còn nghĩ rằng người ta lấn hiếp mình, người ta gác mình, lúc đó có cảm thấy vui vẻ hạnh phúc hay không? Chắc không bao giờ có hạnh phúc được hết. Lúc đó mình sống trong phiền não trong tam độc chớ không có hạnh phúc. Bây giờ người nào bỏ được cái đó thật là hạnh phúc. Hồi đức Phật còn tại thế, một hôm Ngài đi khất thực ở vùng Bà-la-môn, vị lãnh tụ Bà-la-môn nổi tức đi theo sau mắng Ngài. Ông ta mắng bao nhiêu thì mắng, Ngài cứ chậm rãi đi. Tới ngã tư đường Ngài trải tọa cụ ngồi. Ông chạy đến trước mặt hỏi: “Ngài thua tôi chưa?” Ngài liền đáp bằng một bài kệ:
Người hơn thì thêm oán
Kẻ thua ngủ không yên
Hơn thua hai đều xả
Ấy được an ổn ngủ.
Hơn người thì người tức nên oán. Mà người ta oán mình có vui hay không? Thua người về ngủ không được nằm lăn qua trở lại hoài. Như vậy cả hai đều là cội gốc của đau khổ, của phiền não. Thành ra cái hơn cái thua bỏ phăng đi thì được an ổn ngủ. Tối đến nằm xuôi cẳng ngủ khò, không lo không tính, không phiền muộn gì hết. Đó là người hạnh phúc.
Hạnh phúc từ đâu mà có? Từ cái xả mà có, chớ chúng ta cứ ôm ấp phiền não trong lòng hoài thì làm sao mà hạnh phúc được. Quí vị nhớ, nếu trong gia đình chúng ta không xả được cứ giận vợ giận con hoài thì cũng không vui. Ra ngoài xã hội cứ nhớ người này ăn hiếp mình, người kia nói gác mình, người nọ khinh mình, v.v... Người ôm một bụng như vậy thì lúc nào cũng đau khổ, cũng phiền não hết. Chỉ người nào xem đó như gió thổi ngoài tai, rồi ngủ khò không thèm nhớ, thì hạnh phúc. Người nào mà trong nhà cũng như ở ngoài gặp cái gì phật ý, xem đó như là lỡ lầm của người không gì quan trọng hết, không có gì phải phiền muộn, người được như vậy mới là con người hạnh phúc. Đó là tôi chỉ nói hạnh phúc nho nhỏ của thế gian.
Đầu năm, chúng ta quen chúc cho nhau một năm đầy hạnh phúc. Chúc hạnh phúc mà cứ phiền giận hoài thì làm sao mà hạnh phúc được. Như vậy chỉ là một cái chúc suông. Ở đây tôi không chúc gì cho quí vị hết mà chỉ khuyên: “năm nay tập tiêu chảy kha khá một chút”, chừng nào quí vị tiêu chảy được như ngài Quy Tông, lúc đó quí vị sẽ tràn trề hạnh phúc. Đó là hạnh phúc cao siêu, tức là đạt đến cứu kính giải thoát. Trong kinh cũng dạy chúng ta đừng chấp cảnh, chấp người, đừng chấp tâm, đừng chấp pháp. Nếu chúng ta buông hết những cái chấp đó thì Niết bàn hiện tại, vĩnh viễn hạnh phúc. Không chấp tức là xả. Xả được mới thật là vĩnh viễn hạnh phúc. Vì vậy nói tới đức Di-lặc là nói tới hạnh hỷ xả nên người Trung Hoa tượng trưng Ngài bằng hình ảnh Bố Đại hòa thượng, một hình ảnh vui vẻ tươi cười lúc nào cũng sẵn sàng hỉ xả.
Vậy năm nay quý vị lễ đức Phật Di lặc là nhớ đến hạnh hỷ xả của Ngài, nhớ đến cái miệng vui cười hạnh phúc của Ngài. Nếu quý vị sống được cái hạnh phúc đó thì quý vị chẳng những hạnh phúc ở hiện tại mà còn được an lạc vĩnh viễn.
Đó là ý nghĩa của đức Di lặc.
HẠT CHUỖI MỘNG NGÀY QUA MẤT
NGHIỆP THIỆN ÁC CÒN

Tất niên Ất Mão - 1975
Chúng tôi thường nói với quí vị mỗi một ngày qua là lần đi một hạt chuỗi, rồi ngày khác tới là lần đi một hạt chuỗi. Như vậy hôm nay là cuối năm Ất Mão, chúng ta đã lần được bao nhiêu hạt chuỗi rồi? Đã lần hết ba trăm năm mươi mấy hạt. Vì có tháng thiếu nên không đủ ba trăm sáu mươi mà chỉ có ba trăm năm mươi mấy hạt chuỗi. Quí vị thấy mấy hạt chuỗi lần qua rồi, nó còn hay không? Tất cả quí vị nhớ ôn lại xem, từ đầu năm chúng ta đón giao thừa, lễ Phật ngày mồng một Tết. Giờ đây đón giao thừa nữa, như ba trăm năm mươi mấy ngày qua kiểm điểm lại đối với chúng ta nó còn hay không? Tất cả những ai muốn ôn lại thì chỉ còn nhớ mang máng ở trong ký ức của mình, chớ thực tế thì không còn, chỉ thấy hiện giờ. Mà bao nhiêu ngày qua rồi mất như vậy, tất cả qua rồi mất hay còn cái gì?

Tuy nhiên ngày qua chúng ta tìm lại không được, chẳng khác những hạt chuỗi mộng chúng ta lần qua rồi mất không còn tìm lại được hạt nào, nhưng mà trong ba trăm năm mươi mấy ngày qua chúng ta đã gây những hận thù, đã vay nợ tiền bạc của những kẻ khác. Đến ngày chót của một năm và ngày mai sang năm mới, những oán thù đó, tiền bạc của cải ta vay mượn đó có phải trả hay không? Tuy mấy trăm ngày qua chúng ta tìm lại không được, nhưng những cái gì chúng ta đã tạo, hoặc là vay mượn tiền bạc của cải hoặc là gây oán thù với kẻ này người nọ, sang năm những cái đó có mất chưa? Hay là người ta sẽ đem hận khác trả lại cho mình? Như vậy chúng ta thấy nếu một năm qua, ngày tháng trôi qua nó không dừng lại, nhưng những cái vay mượn, cái hận thù, chúng ta đã gây thì năm mới khó mà mất. Hoặc ngược lại, nếu một năm qua chúng ta đã cho người vay mượn hoặc chúng ta gieo công đức với những người chung quanh, sang năm tới, những người đó có trả hay là quên ân đức chúng ta đã gieo? Chắc chắn không quên. Như vậy quí vị thấy mỗi ngày qua rồi mất, nhưng nghiệp chúng ta đã tạo hoặc thiện hoặc ác chưa mất hẳn. Đó là nhìn ngay hiện tại thực tế cuộc sống sanh diệt của chúng ta. Thời gian trôi qua không dừng, nhưng việc thiện ác gây ra rồi cũng khó mà mất.
Người Phật tử sơ cơ tu hành, phải nghĩ đến ngày qua không tìm lại được, nhưng những việc lành việc dữ ngày đó không mất. Dù có trải qua mười năm, hai ba mươi năm rồi năm bảy mươi năm đến ngày chúng ta ra đi, tức là cái phút chót bỏ thân tiền ấm sang thân trung ấm tới thân hậu ấm, nghiệp thiện ác vẫn còn. Nếu kiểm điểm lại năm bảy mươi năm đã sống, thời gian trôi qua không tìm lại được. Khi chúng ta sắp hấp hối bỏ thân này để sang thân khác, giờ phút ấy cũng như đêm giao thừa này, tất cả những việc thiện ác đã tạo trong một đời không phải là tiêu hẳn. Nếu là việc dữ sẽ hướng dẫn chúng ta sang đời khác chịu đau khổ.
Vì chúng sanh đang gây nghiệp nên Phật luôn nhắc nhở và khuyên chúng ta thức tỉnh làm những việc lành. Dù đời này có khổ mà biết tạo nghiệp lành thì đời sau được an vui. Đó là phương hướng của người còn đi trong luân hồi.
Chúng ta còn đi trong luân hồi thì nên chọn con đường luân hồi thiện tức là đi lên chớ đừng chọn luân hồi ác để rồi phải đi xuống. Cũng như hiện tại chúng ta phải dời chỗ ở, nên dời chỗ có tiện nghi, có đầy đủ phương tiện sanh sống dễ dàng, chớ không nên tìm chỗ khổ đau đói rét v.v... đó là chúng ta khôn ngoan biết lựa chọn, sắp đặt cho cuộc sống hiện tại và tương lai. Bằng không, chúng ta cứ mù mù mịt mịt không biết thiện không biết ác. Rồi cứ như vậy qua ngày, tạo không biết bao nhiêu tội lỗi, đến ngày cuối cùng phải mang nghiệp đen tối, chịu đọa trong cõi hắc ám. Đó là những người thật đáng thương, chịu đau khổ không biết đến đời nào ra khỏi.
Chúng tôi đã nói theo chiều sanh diệt cho quí vị thấy. Chúng ta còn ở trong luân hồi thì chúng ta nên chọn con đường đi sáng sủa an lành hơn, thời gian qua là không trở lại, tuy vậy nghiệp đã tạo thì không bao giờ mất. Cho nên trong kinh Nhân Quả, Phật nói:
Giả sử bá thiên kiếp
Sở tác nghiệp bất vong
Nhân duyên hội ngộ thời
Quả báo hoàn tự thọ.
Nghĩa là giả sử mình tạo nghiệp trải qua trăm ngàn kiếp đi nữa, nghiệp báo cũng không mất. Nghiệp đó tức là nghiệp lành, nghiệp dữ đã gây. Khi duyên hội ngộ tức là gặp nhân duyên đến rồi thì phải gánh chịu quả báo chớ không chạy trốn đâu được. Nếu chúng ta biết rõ nghiệp báo, hễ tạo nghiệp dữ, là gốc đau khổ, thì bị lôi cuốn trong vòng khổ đau mãi mãi; còn tạo nghiệp lành thì được an vui, tự tại. Đó là giai đoạn đầu của việc tu hành.
Đến đây tiến lên một bước nữa. Chúng ta đã tự biết mỗi ngày qua là một hạt chuỗi mộng lần qua kẽ tay rồi không còn nữa. Cứ mỗi ngày qua rồi, thì mất. Như vậy kết thúc của cuộc đời chẳng qua là một giấc mộng dài, không có gì hết. Nếu tính một ngày là mộng ngắn, nhiều ngày mộng ngắn kết lại thành một mộng dài, gọi là tháng. Rồi mười hai tháng, thành mộng dài hơn là một năm. Ba mươi hoặc năm bảy mươi năm kết thúc lại thành một trường đại mộng, tức là mộng dài của cuộc đời. Trong một kiếp mộng như vậy, nếu chúng ta không thức tỉnh biết nó là mộng, cứ tưởng là thật, chạy theo nghiệp tạo khổ đời đời không hết. Đó là cái mê lầm của chúng ta.
Vì vậy đức Phật lúc nào cũng nhắc bảo chúng ta phải biết rõ cuộc sống không thật, thời gian không thật. Mỗi một ngày qua rồi mất, không ai kéo lại được, giữ lại được. Nói một cách gần hơn hết là một tích tắc đồng hồ đi qua rồi không trở lại. Thời gian trôi vùn vụt không dừng. Cuộc sống của chúng ta thì cứ tiến tới, tiến thẳng tới chỗ cuối cùng là chết. Không ai dừng được, không người nào có thể duy trì kiếp sống khi duyên đã mãn. Mỗi một ngày sống là thôi thúc mình đến gần cái chết. Quí vị mỗi sáng thức dậy, thử tìm lại ngày hôm qua xem nó ở đâu? Rõ ràng thời gian qua không tìm lại được nữa. Chúng ta còn mắc kẹt trong thời gian thì phải quí tiếc thời gian. Cần nỗ lực làm lợi ích cho mình, cho chúng sanh để khỏi mất thì giờ vô ích.
Nếu chúng ta có cái nhìn thấu đáo rõ ràng biết thời gian huyễn hóa, như tôi nói là những hạt chuỗi mộng hay những hạt chuỗi nước, thì chúng ta cũng ngay nơi thời gian huyễn hóa đó tìm cho được cái lẽ chân thật, cái không còn sanh diệt, không còn mắc kẹt, không còn bị lôi cuốn trong dòng sanh diệt của thời gian... như vậy chúng ta mới là người thoát ra khỏi dòng sanh tử. Bằng không như vậy thì chúng ta bị cuốn trôi mãi trong dòng thời gian. Vì vậy nên trong nhà Phật, có khi đức Phật chú trọng thời gian vô cùng, Ngài nhắc chúng ta lúc nào cũng phải quí tiếc thời gian, có khi Ngài nói thời gian là cái vô nghĩa, thời gian không có thật, tùy chỗ mà Ngài đánh giá thời gian. Nếu tính theo chiều sanh diệt thì thời gian rất là quí báu, lợi dụng thời gian để chúng ta tạo tất cả phước lành. Còn đứng về chiều vô sanh, thì thời gian vô nghĩa, không có giá trị gì. Vì chính thời gian là những hạt chuỗi mộng, như tôi thường kể cho quí vị nghe về cô Công chúa đòi xâu chuỗi nước. Chúng ta đừng dại khờ như cô Công chúa đó cứ đòi cho được xâu chuỗi nước để đeo vô cổ vì tới bao giờ mới xâu được xâu chuỗi nước. Những hạt nước kia, lóng lánh đẹp thật, nhưng ở xa nhìn thì nó đẹp, bằng khi nắm trong tay rồi, thì nó lọt qua kẽ tay và biến mất. Càng nắm bắt, càng mỏi mệt, chỉ nhọc nhằn thôi chớ không nắm được cái gì.
Nếu chúng ta cứ dại khờ chạy theo thời gian mong mỏi nắm bắt những gì mà ta cho là hạnh phúc, thì hạnh phúc đó cũng lọt qua kẽ tay như là những hạt sương, những cái bóng hay là giấc mộng vậy thôi, không có gì thật.
Công chúa sau khi nắm bắt những hạt nước lóng lánh đó mà không được hạt nào hết, mới chán nản rồi xin vua cha một xâu chuỗi thật và được vua cha cho một xâu chuỗi kim cương. Từ đó Công chúa không còn mơ xâu chuỗi nước nữa.
Chúng ta cũng như vậy. Trước kia không biết hạnh phúc của nhân gian là sanh diệt là ảo ảnh, chúng ta cố nắm bắt nó thì nó luồn qua kẽ tay, biến mất. Khi biết rồi, chúng ta mới trở lại tìm cái chân thật mà đức Phật đã chỉ dạy. Tìm được cái chân thật đó, tức là chúng ta được xâu chuỗi kim cương, không bao giờ tan hoại. Từ cái giả chúng ta chuyển sang cái thật, từ cái sanh diệt bước vào cõi vô sanh. Như vậy mới là người tỉnh giác. Tỉnh giác được cái giả không còn mê lầm nữa. Người biết được cái thật sống trở về với nó, đó là người tu theo đạo giác ngộ.
Chúng ta giác ngộ cái gì?
Giác ngộ cái giả lâu nay tưởng là thật, nhận ra cái thật mà lâu nay bị bỏ quên. Khi bỏ quên cái thật, chấp cái giả cho nó là thật đó là mê, biết được cái giả gọi đó là giác. Người hiểu đạo Phật rồi rất là đơn giản, không có gì cầu kỳ huyền bí xa lạ hết, mà chỉ thấy rõ ngay nơi mình cái nào giả cái nào thật. Cái giả mà lâu nay mình lầm, chấp nhận nó là ta, giờ đây thấy nó là hư giả, đó là chúng ta đã giác ngộ được phần thứ nhất. Qua cái giả đó, chúng ta tìm được cái thật, đang ẩn náu trong cái giả, đó là chúng ta đã giác ngộ qua giai đoạn thứ hai. Chúng ta tiến thẳng vào con đường giác ngộ viên mãn không có sai lạc.
Người thế gian thường lầm, cho cái giả là thật. Chính chúng ta cũng thế, tại sao thấy cái giả là thật? Như thân tứ đại chúng ta đây là thật hay giả? Ai động tới nó mình có ưng hay không? Bình thường lúc tỉnh táo nghe Phật dạy thì tứ đại này là giả hợp, không thật, biết nay còn mai mất, trong phút giây là tan nát, cũng như bọt nước, nhưng có ai thoi một thoi thì thấy giả hay thật? Lúc đó lại thấy thật.
Rõ ràng khi chúng ta bình tĩnh thì trí tuệ sáng suốt. Khi bị xúc phạm thì lúc đó mất bình tĩnh, trí tuệ bị che mờ, bản ngã si mê hiện ra, mình thấy nó là thật. Bởi thấy thật nên mới ăn thua tranh giành với nhau rồi tạo nghiệp. Cho nên ta theo đạo Phật là phải giữ bình tĩnh, có bình tĩnh mới sáng suốt, có sáng suốt mới khỏi lầm cái giả làm thật. Đó là điều căn bản. Khi nghe Phật dạy, nghe quí thầy giảng thì coi như tỉnh hết rồi, coi như mình là Thánh nhân rồi, nhưng đụng việc với thế gian thì mình là phàm phu hẳn. Đó là chúng ta chỉ bình tĩnh được khi vô sự, khi có sự là mê. Đó là điểm tôi nhấn mạnh nhất.
Chúng ta phải làm sao khi hữu sự coi như vô sự. Đó là điều thiết yếu, là sức mạnh của người tu hành. Ngài Vĩnh Gia nói: “Giả sử vòng lửa quay trên đỉnh, định tuệ vẫn tròn sáng không mất.” Như vậy mới thật là tỉnh ngộ. Còn tỉnh khi lặng lẽ vắng vẻ, khi ồn náo thì mê, cái đó chưa phải là thật tỉnh.
Người thiếu sự hướng dẫn của thầy, bạn, thiếu ý chí cương quyết mãnh liệt để nỗ lực tu hành nên ở mãi trong mê không giác nổi. Có nhiều người cả đời chưa bao giờ biết được thân này là hư giả, chỉ biết nó là thật, nên khi nói nó là giả họ không tin. Đó là vì thiếu sự hướng dẫn của thầy bạn, cho nên họ mê. Có người được thầy bạn hướng dẫn, nhưng thiếu ý chí mãnh liệt nên khi nghe thì tỉnh, khi hết nghe thì mê. Vậy chúng ta phải quả quyết và can đảm ngay khi biết cái nào là giả, cái nào là thật. Đừng mê cái giả và đừng bỏ cái thật để hằng sống và cố gắng mỗi ngày mỗi huân tu. Lâu ngày thuần thục, tự nhiên chúng ta được như lời ngài Vĩnh Gia nói: Dù có vòng lửa xoay trên đầu, định tuệ vẫn tròn sáng không mất. Cho nên chỗ quan trọng mà chúng ta phải thấy là tâm chúng ta dễ xao xuyến lúc ồn náo. Bây giờ mình phải nỗ lực thêm, làm sao khi ồn náo mà không xao xuyến.
Ví dụ cụ thể là khi xưa mới tập ngồi thiền nhất là khoảng tám chín giờ tối, có những cái loa ở dưới núi vọng lên các bài hát, lảnh lót, lúc đó tâm bị phân tán. Chúng ta nỗ lực hướng dẫn nó, kềm hãm nó, lần lần sẽ làm chủ nó. Đến lúc nào đó, tiếng ca hát không còn đủ hấp dẫn như xưa nữa. Đừng tưởng rằng ngồi thiền trong chỗ yên thì được yên, khi có động chạy theo tiếng động, khi có động, tiếng động sẽ lôi mình đi, không bao giờ thắng nó. Đừng tưởng như vậy. Phải tin tưởng quả quyết rằng khi động chúng ta vẫn làm chủ được. Ngày nay làm chủ một phần, ngày mai làm chủ một phần, nhiều ngày như vậy, rồi ngày nào đó tất cả tiếng động đều vô nghĩa đối với chúng ta. Đó là lẽ chân thật chớ không phải tôi bịa đặt.
Giả sử chúng ta ở trong cảnh ngộ khắt khe hay ồn náo mấy đi nữa, miễn chúng ta làm chủ được, tôi tin rằng ai cũng tu được hết. Lúc rảnh rang thì chúng ta ngồi thiền, khi bận rộn hoặc cuốc cỏ trồng rau, chúng ta cũng tu được. Như vậy lúc nào mình cũng tu được, lúc nào mình cũng vui vẻ. Nếu cho rằng ngồi thiền mới tu được, cuốc rẫy không tu được thì sẽ thấy thiệt thòi, bởi vì có ngày không ngồi thiền được giờ nào, như vậy ngày đó không tu sao? Cuốc rẫy mà tu được thì không thiệt thòi tí nào hết. Thay vì ngày xưa ngồi một ngày ba tiếng đồng hồ, bây giờ cuốc rẫy sáu tiếng tu luôn, thì mình lời được thêm ba tiếng nữa. Đây chính là cái mà chúng ta hiện nay phải tập nỗ lực như vậy, sao cho sự tu của chúng ta không bị hoàn cảnh làm chướng ngại. Đó là điều thiết yếu.
Tuy nhiên lúc đầu phải chấp nhận, mình đang ngồi yên mà có tiếng động thì thế nào cũng bị xao xuyến. Khi đó chúng ta nỗ lực tu, càng ngày càng lâu, chúng ta sẽ tự tại trước tất cả tiếng động, như vậy đừng thối chuyển. Ai trong chúng ta cũng sẽ được thử thách. Đó là điều cần phải nỗ lực. Được vậy, mình sẽ cười, hồi xưa tiếng động là cái chướng, bây giờ có tiếng động mình ngồi cũng hay.
Chúng ta thường mê lầm nhận cái giả làm thật, là chạy theo cái giả mà quên cái thật. Chúng ta cứ chấp vọng tưởng làm tâm mình, chấp tứ đại làm thân mình rồi suốt đời cứ chạy theo vọng tưởng, theo thân tứ đại, lo bảo bọc bồi dưỡng cho nó đủ thứ hết để rồi nó hoại.
Giả sử chúng ta trồng, khi nó trổ bông có trái, cho kết quả như ý thì mới săn sóc. Nếu nó èo uột hư gãy, biết rằng không thể cứu được, thì bỏ luôn. Không thể giữ được thì phải bỏ liều. Nhưng cái thân mình có bỏ được không? Ai cũng biết không giữ được mà không dám buông nó. Biết cái không bao giờ giữ được mà cứ cũng cố giữ. Thoi thóp sắp tắt thở mà cũng nói còn nước còn tát. Như vậy để thấy rõ rằng chúng ta bám vào nó cho đến phút cuối cùng, dù không có tí nào bảo đảm, không phải bảo chúng ta cố tình bỏ nó, nhưng hãy nhớ ta mang nó như mang bè qua sông, giữa sông nó có hư thì chúng ta sửa lại, khi tới bờ thì bỏ nó đi. Thân này là giả nhưng cần đến chỗ giác ngộ viên mãn nên chúng ta phải nương nó. Phải biết rõ nó là cái không giữ được, đừng bao giờ quên. Kiểm điểm lại lớp người trước đã tan hoại, mình cũng đang tan hoại. Tại sao cứ cho thân này là thật, rồi cố bảo vệ gìn giữ, tạo bao nhiêu nghiệp cũng vì nó. Đó là cái lầm lớn lao của chúng ta.
Người tỉnh giác biết rõ thân này là hư giả, nhân duyên hòa hợp không thật, kể cả vọng tưởng điên cuồng của mình. Khi suy nghĩ điều này, việc nọ, cái suy nghĩ đó là ai? Thí dụ chúng ta đang suy nghĩ điều thiện, nghĩ giúp người này người kia rồi, cho rằng cái suy nghĩ thiện là mình. Một lát có ai chọc tức, mình nghĩ hại người đó, thì cái suy nghĩ ác là ai? Thấy người kia dễ ghét, người nọ dễ thương, thấy dễ thương dễ ghét là ai thấy? Nếu nghĩ thương là mình, thì nghĩ ghét là ai? Vậy có bốn năm thứ mình sao? Cái nào là mình thật?
Rõ ràng mỗi niệm sanh diệt, sanh diệt vô thường, từng đợt từng đợt như dòng nước chảy, nó không có thật. Mới niệm thương đây rồi đến niệm ghét, niệm buồn niệm giận xen lẫn nhau. Chúng ta cứ chấp cái tâm sanh diệt từng đợt, từng đợt là thật thì sẽ đi trong con đường nào? Bám vào sanh diệt thì phải đi trong sanh diệt, phải đi trong luân hồi không chối cãi gì được hết. Nếu chúng ta cứ lầm chấp vọng tưởng cho đó là mình, chấp thân tứ đại này là mình thì không biết bao nhiêu a-tăng-kỳ kiếp mới thoát khỏi luân hồi. Chỉ bao giờ mình biết quả quyết rằng vọng tưởng là hư giả không thật thì chừng đó mới tìm cái chân thật. Như cô Công chúa nắm bắt những hạt nước không được, chừng đó không còn ham mê nữa, mới đòi nhà vua cho xâu chuỗi kim cương. Đó là xâu chuỗi thật, còn bao nhiêu hạt nước lấp lánh kia đều là hư giả.
Qua giai đoạn thứ hai là tìm cái chân thật trong cái hư giả. Được cái thật trong cái giả đó rồi chúng ta mới thấy mình từ trước đến giờ là kẻ ngu si. Mình lầm cái giả là cái thật, rồi bỏ quên cái thật. Cho nên trong kinh Phật nói: “Chúng ta có viên ngọc báu cột trong chéo áo mà quên.” Quên viên ngọc trong chéo áo rồi đi ăn xin đầu làng xó chợ, sống vất vưởng qua ngày lấy đó làm đủ. Kẻ có của báu bỏ quên chịu nghèo khổ là tỉnh hay mê? Đó là kẻ mê. Biết được cái thân hư giả này rồi, chúng ta tìm được cái chân thật của mình. Đó là tỉnh, đó mới thật là con người cầu đạo giải thoát.
Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác nói:
Cùng Thích tử, khẩu xưng bần,
Thật thị thân bần đạo bất bần.
Bần tắc thân thường phi lũ hạt,
Đạo tắc tâm tàng vô giá trân.
Người dòng họ Thích là kẻ bần cùng luôn luôn tự nhận mình là bần đạo. Nhưng có thật là bần hay không? Thân bần mà đạo không bần. Tại sao? Là vì tuy mặc áo vá mà có hạt châu vô giá. Hạt châu vô giá dùng hoài không hết. Biết rõ mình có hạt châu vô giá cho nên không chạy theo hư giả. Tìm được của báu chân thật, mới là người giác ngộ, người cầu đạo chân chánh. Chúng ta cứ chạy theo cái bên ngoài hoài thì không bao giờ thấy được kho báu nơi mình. Đó là chỗ thiết yếu của người tu hành.
Phật là giác. Tu theo Phật là đi trên con đường giác ngộ. Tu theo đạo Phật mà không giác thì không phải tu theo đạo Phật. Cũng như người đi về Sài Gòn, tức nhiên phải đi trên con đường về Sài Gòn. Nếu không tức là ngồi, hoặc là ở một chỗ, hoặc là đi con đường khác. Chớ thật tình mình đi trên con đường về Sài Gòn thì mỗi một giờ, mỗi một ngày đã tiến rồi. Cũng vậy, chúng ta theo đạo giác ngộ thì ngày nào năm nào chúng ta cũng phải có giác mới được. Nếu chúng ta không giác thì không phải tu theo đạo Phật. Như vậy chúng ta có giác hay không? Thật sự có chớ sao không? Tại vì chúng ta quen tưởng giác ngộ là như đức Phật, phải có Tam minh Lục thông. Tưởng mình không có Tam minh Lục thông thì không gọi là giác, thật sự không phải vậy. Ngày xưa lúc chưa tu, có bao giờ chúng ta nghĩ thân này là giả đâu! Hiện giờ được nghe lời Phật dạy, nghe giảng kinh, nhận thân này là giả, tức là có giác ngộ rồi, tuy nhiên lúc mê thì quên. Trong nhà Phật gọi giác ngộ như thế là bệnh rét cách ngày. Cái giác đó chưa là thuần giác, nhưng dù sao cũng là giác.
Đức Phật dạy: Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, là cái giác của đức Phật thường hằng chân chánh viên mãn không ai hơn. Đạt được như thế gọi là thành Phật. Còn chúng ta giác ngộ cách ngày cách giờ, cái giác ngộ đó chưa được gọi là Phật nhưng cũng có giác một chút chớ chẳng phải vô phần. Như vậy chúng ta không có mặc cảm rằng mình chưa từng giác. Chúng ta biết được hoàn cảnh xã hội, sự việc chung quanh là duyên hợp nên cũng hư giả. Biết như vậy tuy chưa thường xuyên, nhưng có biết chút nào là có giác chút ấy. Lại nữa, lâu nay chúng ta chấp nhận những vọng tưởng điên cuồng là tâm mình, giờ đây biết nó là vọng tưởng thì chúng ta có giác rồi. Giờ phút nào có biết như vậy là giờ phút đó chúng ta có giác. Kiểm điểm lại so với năm rồi, năm nay chúng ta tiến nhiều chưa? Tu lâu mà thấy không tiến là tại mình chưa nhận ra, thấy nó thường quá, chưa có hào quang, chưa biết bay nên mình cho là không giác. Khi xưa cả năm chưa từng giác lần nào, bây giờ cái giác đó cách khoảng thưa thì một giờ, nhặt thì nửa giờ, hoặc là mười phút chẳng hạn. Như vậy là mình đã tiến bộ khá nhiều, đừng bi quan. Nếu là kẻ tu hành cầu đạo giác ngộ thì chúng ta phải thấy rõ rằng mỗi ngày, là mỗi ngày giác, không thể mê được. Nếu giác nhặt là chúng ta tiến, giác thưa là chúng ta lùi. Có người than thở với tôi, biết vọng mà vọng cứ sanh hoài làm sao. Vọng sanh thì mặc nó, đừng chạy theo, biết vọng đừng theo là giác. Trăm lần vọng thì có trăm lần giác, không buồn không sợ. Đó là tôi nói về tâm.
Giờ đây đến thân cũng vậy. Nếu có bệnh hoặc chướng ngại gì đi nữa, mình biết thân này là hư giả, thì ngay nơi thân này tỉnh giác.
Giác thân giác tâm là cái giác căn bản. Mình biết rõ ràng thân tâm không lầm rồi, tìm ra cái thật nữa thì quí báu vô cùng. Đó là chúng ta đã nắm được viên ngọc vô giá trong tay. Nếu chưa tìm được viên ngọc đó mà biết thân hư giả, là chúng ta đã từ bỏ con đường giả để trở về con đường thật, tức đã tiến một bước rồi. Đó là một sự thật. Hiểu đạo rồi thì tự nhiên chúng ta tu hăng hái chín chắn chớ không thối chuyển. Mình biết là có giác, mà có giác tức là đánh với giặc phiền não, còn có đánh tức là chưa thua. Thua là xếp giáp chạy dài, còn đánh dù chưa thắng hoàn toàn nhưng chưa phải là kẻ thua trận. Vừa dấy vọng, biết vọng là vọng lặng, đó là thắng được giặc rồi. Có thứ giặc mình giết nó, nó mất; có thứ giặc nó kéo mình đi xa một chút mới mất. Kiểm lại chúng ta toàn là thắng chớ không phải thua. Tại vì giặc nhiều quá, có triệu triệu chú thành ra mình cứ đánh hoài mà chưa hết, nên thắng lâu. Nếu thắng nhanh thì đã thành Phật rồi. Tất cả những chú giặc của mình là những đứa giả, Ông chủ mới là thật. Người thật đánh với kẻ giả lo gì không thắng. Tin quả quyết như vậy thì việc tu tiến của mình sẽ thành công, chắc chắn thành công một trăm phần trăm. Tôi nói thế để chúng ta thấy rõ việc tiến tu của mình.
Khi nhớ việc tiến tu của mình, chúng ta không nên quên hiện giờ là ngày ba mươi Tết. Qua một năm, tất nhiên chúng ta thấy mình cũng có già nhiều rồi. Nếu nhận xét tinh vi thì mình già đi từng giây từng phút huống là một năm. Chúng ta cũng thấy năm nay yếu đi một chút, năm tới yếu đi một chút mà mình không nỗ lực thì khó thành công. Nên nhớ qua một năm mình suy yếu đi, trí tuệ cũng yếu, tinh thần cũng yếu, vậy chúng ta phải nỗ lực, nhất là những vị sáu mươi tuổi trở lên. Con đường của mình sắp tới giai đoạn chót rồi, phải chạy nước rút, không thể chần chờ được. Chúng ta phải nỗ lực bằng mấy lần năm trước. Năm rồi ít nỗ lực thì dự bị cho năm tới phải nỗ lực bằng hai bằng ba. Bọn ma quân còn đông quá, nếu mình chần chờ thì nó thắng chớ mình không thể thắng được nó. Chẳng những sáu mươi tuổi trở lên phải nỗ lực, mà trẻ hơn cũng phải như vậy thế. Biết mình có sống tới sáu mươi tuổi hay không? Cần phải nhớ là mạng sống trong hơi thở, phải nỗ lực như những người đã lớn tuổi. Đừng ỷ lại đời còn dài đi từ từ cũng được, cần nỗ lực chớ không thể lôi thôi.
Nỗ lực thì mới có tiến và bảo đảm một ngày nào chiếc bè này rã, chúng ta bước lên bờ, bằng không thì không bảo đảm. Ai dám tin rằng ngày mai cũng còn an ổn khỏe mạnh như ngày nay. Khi thở ra mà không hít vào thì đã hết cuộc đời. Cho nên tất cả chúng ta phải nỗ lực, rất là nỗ lực mới được, chớ không phải nỗ lực tầm thường. Do đó tôi nghĩ rằng, nhớ đến ngày ba mươi đêm giao thừa thì chúng ta nên nhớ đến giây phút thở hấp hối, bà con chung quanh kẻ chấp tay niệm Phật, người thì lau nước mắt chờ đưa chúng ta qua thế giới khác. Nhớ như vậy thì đêm giao thừa sẽ là đêm thôi thúc mạnh mẽ trong lòng chúng ta, còn không nhớ như vậy thì ý nghĩa đêm giao thừa sẽ yếu ớt đi. Một năm qua là chúng ta đã già đi, phải nỗ lực tiến tới, tiến mãi không lùi. Đừng chần chờ nữa!
Ở trên tôi đã nói sự thật tôi thấy để nhắc nhở quí vị cố gắng trong sự tiến tu. Giờ đây tôi nói qua các vị Thiền sư. Cái thấy của các Thiền sư lúc nào cũng tương tự chớ không khác nhau mấy. Một hôm đến ngày Xuân, có người hỏi Thiền sư Quang Giác đời Tống có cảm tưởng gì về con người, Ngài làm một bài thơ như sau:
Khứ niên phùng thanh xuân
Châu nhan ánh đào lý
Kim niên phùng thanh xuân
Bạch phát yểm song nhỉ
Nhân sanh thất thập niên
Tật nhược đông lưu thủy
Bất liễu bản lai tâm
Sanh tử hà do ly.
Dịch:
Năm trước gặp thanh xuân
Má hồng khoe đào lý
Năm nay gặp thanh xuân
Tóc bạc đầy cả mái
Người đời tuổi bảy mươi
Nhanh như dòng nước chảy
Chẳng ngộ tâm xưa nay
Sanh tử làm sao khỏi.
Thiền sư mỗi năm qua thấy thân trẻ biến thành già, kể cả bảy mươi năm trôi nhanh như dòng nước chảy. Nếu không ngộ được Bản tâm xưa nay, làm sao thoát khỏi dòng luân hồi sanh tử. Chúng ta là con cháu trong nhà Thiền cần phải thấy như thế. Có được cái thấy này, chúng ta mới thức tỉnh tiến tu chóng thoát ly sanh tử.
Vậy mong tất cả quí vị cùng chúng tôi, chúng ta dự buổi tiệc trà đạm bạc đêm giao thừa này, là một ấn tượng đánh thức chúng ta tỉnh giác cuộc đời là vô thường, phải nỗ lực tiến tu đừng để trôi qua vô nghĩa.
Chúc quí vị sang năm mới thường tỉnh giác.
MÙA XUÂN DI-LẶC
Xuân Bính Thìn - 1976
Năm nay chúng ta tìm hiểu ý nghĩa mùa Xuân Di-lặc để biết tại sao ngày mồng một Tết là ngày vía đức Di-lặc. Khi lạy Ngài chúng ta đã xướng lên câu: “Nam-mô Long Hoa giáo chủ đương lai hạ sanh Di-lặc Tôn Phật”, nghĩa là Bồ-tát Di-lặc sẽ thành Phật trong tương lai làm Giáo chủ hội Long Hoa, chớ không phải thành Phật ngay bây giờ. Đó là ý nghĩa thâm trầm nhất trong nhà đạo. Ai ai cũng xem ngày mồng một Tết là ngày mở màn năm mới. Bao nhiêu chuyện vui buồn của năm tới gần như nảy mầm từ trong ngày này, cho nên mọi người đều rất dè dặt, rất cẩn trọng. Mỗi hành động, mỗi ngôn ngữ, chúng ta đều sợ ảnh hưởng đến sự vui buồn của năm tới. Đó là quan niệm của nhân gian.
Trong nhà đạo ngày mồng một cũng là ngày mở màn cho năm tới. Năm tới đầy hứa hẹn với chúng ta là một năm giác ngộ. Đức Phật Di-lặc là một vị Phật sẽ thành Phật ở mai sau. Hôm nay lễ Ngài để nhớ rằng năm nay là một năm hứa hẹn chúng ta sẽ được giác ngộ. Nếu chưa được thì năm tới sẽ được chớ không thể tu suông. Vì vậy ngày mồng một Tết đối với nhân gian là ngày Tết Nguyên Đán, đối với nhà đạo là ngày vía đức Bồ-tát Di-lặc. Mỗi khi nhớ đến Phật sẽ thành, nhớ ngày mồng một Tết, chúng ta nghĩ mình cũng sẽ giác ngộ, chớ không thể lôi thôi. Nhưng cái giác ngộ tôi nói đây không phải hoàn toàn như bậc Chánh đẳng Chánh giác, mà là giác ngộ từng phút từng giây. Đó là tôi nói sơ thâm ý của ngày vía đức Phật Di-lặc.
Bây giờ đi thẳng vào mùa Xuân Di-lặc. Mùa Xuân là mùa ta hằng mơ ước, mùa Xuân có cái gì hòa ấm tươi vui khiến cho mọi người hăng hái trong cuộc sống, vạn vật đâm chồi nảy lộc xanh tươi. Vì vậy, khi nói tới mùa Xuân là nói cả một cái gì đầm ấm trong con người.
Trên cuộc đời này biết bao người cứ theo cái mê lầm ảo tưởng của mình, chạy theo ngoại cảnh, bám vào ngoại cảnh cho là mình, cho nên phải khổ đau theo dòng sanh diệt. Thấy cái gì cũng nói là của mình, lệ thuộc mình. Từ bản thân cho đến sự vật bên ngoài, không có cái nào mà không bám chặt. Bởi cái chấp ngã nặng nề đó cho nên phải khổ đau, khổ đau dằng dặc từ kiếp này đến kiếp khác. Như tôi thấy cái hoa này là của tôi, nó tươi tôi vui, nó héo tôi buồn. Nếu nó là của thiên nhiên thì tươi héo không dính dáng gì đến tôi. Bởi vì mình chủ quan, bắt sự vật lệ thuộc vào mình, muốn lòng người và sự vật thuộc về mình trường tồn vĩnh cửu. Cho nên khi có trạng thái biến đổi, xê dịch thì cảm thấy bất an, không vui rồi. Do đây mà người ta đau khổ vì bắt sự vật lệ thuộc vào mình. Khi chúng ta biết bản tánh sự vật là như vậy, không lệ thuộc vào ai cả, thì lúc đó chúng ta mới nhìn sự vật với tánh cách khách quan, mới an vui tự tại. Cho nên cùng một cảnh ngộ, cùng một sự việc mà có người thì cả ngày buồn lo rầu rĩ, sợ sệt, còn có người thì an ổn vui tươi. Chẳng qua đó là người biết sống, người không biết sống.
Như khi nãy tôi nói, bắt ngoại cảnh lệ thuộc mình thì tự nhiên mình là người đau khổ. Quí vị có bắt ngoại cảnh lệ thuộc mình không? Tỉ dụ bây giờ đứng trước một trăm người, chúng ta có muốn một trăm người đó đừng để ý gì đến mình không? Hay là muốn ai cũng chú tâm, nhìn vào mình để khen, để mến v.v...? Thấy cái hoa đẹp, chúng ta có muốn hái không? Hay là để nó nằm yên trên cành để giữ trọn vẹn hương sắc? Theo Tổ Bồ-đề-đạt-ma, chúng ta cắt hoa trưng cũng có tội, vì đã ăn cắp sanh mạng của nó để làm đẹp cho mình. Đó là lối nhìn độc đáo, biết rõ ràng sự vật một cách khách quan. Ngược lại chúng ta thấy cái gì đẹp là muốn đem về phòng trưng hoặc để đâu đó, bắt nó lệ thuộc về mình. Đó là cái bệnh mà tất cả chúng sanh mắc phải. Thiền sư Bổn Tịnh đã nói lên cho chúng ta thấy bệnh đó qua bốn câu kệ:
Nhất niên Xuân tận nhất niên Xuân
Dã thảo sơn hoa kỷ độ tân
Thiên hiểu bất nhân chung cổ động
Nguyệt minh phi vị dạ hành nhân.
Tạm dịch:
Một năm Xuân trọn một năm Xuân
Cỏ dại non hoa mấy độ tươi
Trời sáng chẳng do chuông trống động
Trăng trong đâu bởi khách đi đêm.
Xưa nay ở chùa đến bốn năm giờ thức dậy công phu, đánh chuông đánh trống. Những nhà hàng xóm kêu con dậy: Ở chùa công phu đánh chuông trống, trời sáng rồi a! Dậy thả bò đi ăn. Họ quen có quan niệm chùa đánh chuông trống là trời sáng. Nhưng chùa đánh chuông trống là đánh chuông trống, còn trời sáng là trời sáng, không phải vì chùa đánh chuông trống mà trời sáng. Rồi trăng sáng có những người khách đi ban đêm. Như vậy trăng sáng cho họ đi đêm hay là khách đi đêm vì trăng sáng? Đó là chỗ mà chúng ta phải thấy rõ. Trăng sáng là trăng tự sáng, không phải vì khách đi đêm mà trăng sáng, nhưng nhờ trăng sáng người khách mới lợi dụng mà đi đêm. Như vậy rõ ràng là chúng ta nhìn sự vật bằng con mắt chủ quan, cho tất cả đều vì mình. Thí dụ khi con cái hỏi: vì sao có cá có tôm, thì cha mẹ cắt nghĩa: trời sanh ra để mình ăn đó. Rồi thấy ngoài đồng có lúa có đậu có bắp, cũng bảo trời sanh để mình ăn. Tất cả cái gì cũng để cho mình hết. Tại sao có mưa? Để mình làm ruộng. Tại sao có nắng? Để mình phơi lúa. Tất cả cái gì cũng để cho mình, mình là trung tâm vũ trụ cho nên ai không làm theo ý mình thì nổi tức lên. Như mình phơi lúa mà mưa xuống thì nổi giận, tại sao người ta đang phơi lúa mà trời lại mưa. Nuôi chó thì nghĩ để giữ nhà cho mình, khi nào có ăn trộm nó ngủ quên không sủa thì đánh đập nó. Nuôi gà, thì nghĩ để nó gáy cho mình thức đúng giờ, hoặc để mình ăn thịt. Bữa nào nó quên gáy thì mình bực bội. Như vậy là bắt mọi vật lệ thuộc về mình, mà bắt lệ thuộc một cách vô lý, nên mới khổ đau vì không được như ý. Nếu mình có cái nhìn khách quan, thì sẽ thấy ngoại cảnh là ngoại cảnh, không cái gì thuộc về mình hết, không cái gì vì mình hết. Qua bốn câu thơ đó, Thiền sư Bổn Tịnh chỉ cho chúng ta thấy phải dứt hết bệnh chủ quan là bệnh chấp ngã sở, tức bắt ngoại cảnh lệ thuộc vào mình. Trong nhà Phật dùng danh từ chuyên môn “pháp nhĩ như thị” tức là các pháp như vậy. Các pháp không thuộc vào ai hết, không bị cái gì chi phối, nó là nó, nếu bắt nó lệ thuộc là ngu si. Chúng ta biết một năm có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Bốn mùa có là do sự xoay vần của trái đất chớ không phải vì chúng ta mà có. Chúng ta lợi dụng thời tiết, mùa mưa thì ven bờ làm ruộng, mùa nắng hạn thì phơi lúa, mùa lạnh thì sắm mền, sắm áo. Mùa nào làm hợp theo mùa nấy. Nói tóm lại, bốn mùa là thiên nhiên sẵn như vậy chớ không phải vì chúng ta. Chúng ta biết làm việc sao cho phù hợp với bốn mùa, đó là chúng ta khôn ngoan biết sống. Mọi việc khác cũng thế, nếu ta nhìn nó với tánh cách khách quan thì có lúc nào buồn đâu. Thấy người có cái nhà tốt thì vui được thấy cái nhà tốt, thấy người có cái áo đẹp thì mừng được thấy cái áo đẹp. Được vậy cả ngày mình vui hoài. Người có cái này đẹp, người có cái kia tốt, rồi ngoài vũ trụ có bao nhiêu thứ tốt đẹp, mình đều vui hết, chớ không bắt nó thuộc về mình. Nếu muốn cái gì tốt đẹp cũng thuộc về mình thì cả ngày cứ buồn hoài. Đi ra thấy người có chiếc xe hơi đẹp, mình không có cũng buồn; thấy người có cái nhà đẹp, mình không có cũng buồn. Như vậy càng muốn càng khổ.
Nếu biết tất cả cái đẹp không lệ thuộc về mình thì chúng ta hết khổ, một cách an nhàn tự tại. Ai có gì đẹp thì mình tán thán tùy hỉ liền, không đố kỵ, không ganh ghét không khó khăn với ai hết. Ở thế gian, ngay cả anh em ruột mà người giàu, người nghèo cũng đố kỵ nhau rồi. Lúc nào cũng thấy mình là trung tâm vũ trụ, bắt buộc tất cả phải gồm về mình, muốn mọi người phải chú ý đến mình. Đó là chủ quan quá đáng, là chấp ngã, ngã sở nặng. Giờ đây chúng ta khách quan nhìn tất cả sự vật, thì thấy pháp nào ở bản vị pháp đó. Các pháp sanh diệt theo thời tiết nhân duyên không phải vì có ta mà nó thuộc về ta. Nhưng chúng ta có bằng lòng như thế hay không? Không ai bằng lòng hết. Chính đó là cái đau khổ muôn ngàn đời. Cho nên nói hoa nở khắp mọi vườn mà chỉ có vườn của ta thì hoa không nở, vì là của ta nên nó héo hoài. Nếu không thấy là của ta thì nó nở đầy vườn. Hiểu được như vậy, thấy được như vậy là tự chúng ta hết khổ rồi. Chúng ta sẽ cười hoài như ngài Di-lặc, sống an lành hạnh phúc như ngài Di-lặc. Kinh Pháp Hoa có câu:
Thị pháp trụ pháp vị
Thế gian tướng thường trụ.
Các pháp ở bản vị của nó, tướng thế gian thường còn mãi mãi.
Ở trên là nói về sự vật bên ngoài, đến đây nói thẳng thân tứ đại của chúng ta. Thân tứ đại này do đất nước gió lửa hòa hợp mà thành, hơi thở là không khí, chất lỏng là nước, chất cứng là đất, hơi ấm là lửa. Tại sao chúng ta chấp tứ đại là nhà của mình? Nếu tứ đại ở ngoài không phải là của mình, thì tứ đại ở trong là của mình được sao? Như không khí khi hít vô thành hơi thở của mình, khi thở ra là nó đi đâu, của ai? Như ly nước khi uống vào thành nước của mình, hai, ba tiếng đồng hồ sau, trả ra rồi là nước của ai? Đất và lửa cũng thế. Vậy cái “của” này chỉ là cái tạm. Như cái nhà, người này vô người kia ra, khi bước vô nhà người đó có thuộc về cái nhà này không? Tứ đại không phải của mình, nếu thật sự của mình thì mình hoàn toàn làm chủ. Mình muốn còn thì nó còn, muốn bỏ thì nó mất, nhưng mình muốn giữ mà giữ không được. Như vậy chứng tỏ nó không thuộc của mình, đủ duyên thì còn, thiếu duyên thì rã. Khi rã nó có thật mất hay không?
Chúng ta mượn không khí làm hơi thở, khi hết duyên, thì trở lại bản vị của nó. Nước đến khi hết dùng trả ra lại trở thành nước. Cái thân đất này tới chừng trả ra trở lại thành đất. Đâu trả về bản vị nấy không mất tí nào, nhưng duyên hợp thì đổi hình đổi tướng vậy thôi. Cho nên nói “tướng thế gian thường trụ”. Trong khi duyên hợp chúng ta lầm mê bám vào tứ đại này cho là mình nên cả cuộc đời chúng ta đau khổ. Nhớ tới thân này, ai mà không bệnh, không tê thấp thì đau gan, không đau gan thì đau bao tử, hoặc phổi tim v.v... có đủ thứ đau nên sợ thân hoại. Vì nghĩ nó là mình, nên lo sợ nó rã nó mất. Đối với thân thì lo sợ, đối với ngoại cảnh thì bắt nó thuộc về mình, cho nên không được như ý.
Chúng ta mượn thân tứ đại giả hợp làm bè qua sông. Nó còn ngày nào thì chúng ta sử dụng, nó tan rã thì thôi. Do đó đối với thân không sợ còn mất, đối với cảnh không còn tham đắm. Người sống như vậy có an vui không, không cười còn đợi cái gì. Được như thế là ta hưởng mùa Xuân Di-lặc sơ sơ rồi. Năm nào, ngày nào, tháng nào, chúng ta cũng thấy là ngày Xuân an lành đẹp đẽ hết.
Một Thiền sư Tịnh Thử am có làm bốn câu kệ nói lên mùa Xuân:
Lưu thủy hạ sơn phi hữu ý
Phiên vân qui động bản vô tâm
Nhân sanh nhược đắc như vân thủy
Thiết thọ khai hoa biến giới xuân.
Tạm dịch:
Nước tuôn xuống núi nào có ý
Mây bay về động vốn không tâm
Người đời nếu được như mây nước
Cây sắt trổ hoa khắp chốn xuân.
Sở dĩ chúng ta không được mùa Xuân vĩnh cửu là vì chúng ta chỉ thấy Xuân qua tâm niệm sanh diệt. Thấy cây cỏ tươi tốt trổ hoa đâm chồi, chúng ta vui mừng cho đó là Xuân. Như vậy chúng ta vui mừng theo cảnh, theo thời gian là cái vui mừng của tâm sanh diệt. Khi cảnh tàn, thời gian qua thì cái vui cũng hết. Xuân như thế là mùa Xuân hữu hạn. Cái Xuân của thời gian thì biến đổi, cái Xuân của ngoại cảnh thì suy vi. Nếu chúng ta hoạt động như bao nhiêu người, nhưng vô tâm như mây bay nước chảy, trong khi hoạt động ta không bị vọng tưởng làm chủ là hằng sống với tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh đó nó lặng lẽ trong trẻo chẳng khác nào như cây sắt. Nhưng trong cái lặng lẽ trong trẻo đó không phải nó không có gì. Chính trong cái lặng lẽ, trong trẻo đó nó phát ra trí tuệ sáng suốt. Đây dụ như cây sắt trổ bông. Trong cái thanh tịnh lặng lẽ đó tưởng chừng như không có gì hết, nhưng không ngờ lại có trí tuệ diệu dụng bất tư nghì. Cho nên đây ví dụ như cây sắt trổ bông là việc tưởng như không bao giờ có, cây sắt trổ bông rồi sẽ thấy khắp bầu trời đều là Xuân không cùng tận.
Thông thường khi chúng ta có dấy niệm thì nói tôi nghĩ thế này tôi nghĩ thế kia, khi không dấy niệm thì tưởng chừng như không có mình. Nhưng không ngờ sau khi dừng hết những ý niệm, chừng đó mới phát trí tuệ sáng suốt; trong kinh Bát-nhã gọi là “Thanh tịnh trí”. Nhìn sự vật, nhìn vũ trụ bằng tâm thanh tịnh, không còn tâm sanh diệt nữa, nên vũ trụ theo đó mà thanh tịnh. Tất cả đều là an lành đều là vĩnh cửu, lúc đó mới gọi là “biến giới Xuân”, Xuân khắp bầu trời. Như vậy muôn người muôn cảnh, đều là Xuân, thời gian nào cũng đều là Xuân. Được mùa Xuân như thế là sau khi tâm chúng ta giống như mây bay nước chảy. Lúc đó chúng ta hoạt động tất cả mà không có vọng tưởng, nếu còn vọng tưởng là mùa Xuân có hạn có chừng. Ai muốn hưởng mùa Xuân Di-lặc, thì đừng lệ thuộc vọng tưởng sanh diệt, đó mới là mùa Xuân chân thật.
Tôi đã đứng trên hai mặt để diễn đạt mùa Xuân Di-lặc:
1- Dứt mê lầm chấp ngã bắt ngoại cảnh và tứ đại lệ thuộc vào mình, lúc đó chúng ta hưởng được mùa Xuân an lành tự tại.
2- Bặt hết vọng tưởng điên cuồng, dùng tâm thanh tịnh sáng suốt nhìn vạn vật, chúng ta sẽ hưởng mùa Xuân vĩnh cửu bất sanh bất diệt.
Thiền sư Thiền Lão đã nói đến mùa Xuân đó dù không đề cập đến chữ Xuân. Khi vua Lý Nhân Tông hỏi Ngài ở núi được bao lâu, Ngài trả lời:
Đản tri kim nhật nguyệt
Thùy thức cựu xuân thu.
Tạm dịch:
Chỉ biết ngày tháng này
Ai rành xuân thu trước.
Hỏi hằng ngày Hòa thượng làm gì, Ngài nói:
Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh
Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân.
Tạm dịch:
Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác
Trăng trong mây bạc hiện toàn chân.
Như vậy ngày nào chỗ nào chẳng phải là Xuân? Nếu tâm chúng ta không còn lệ thuộc vào thời gian quá khứ hiện tại vị lai, lúc đó chúng ta an nhiên tự tại thanh tịnh. Đó là cái tâm bất sanh bất diệt của chúng ta. Sống với cái tâm bất sanh bất diệt đó để nhìn sự vật thì cái nào chẳng đẹp, cái nào chẳng thanh tịnh, vì đâu cũng là Chân tâm biến hiện, đâu đâu cũng là cảnh đẹp của mùa Xuân. Tóm lại muốn hưởng một mùa Xuân Di-lặc thì không gì hơn: trước hết chúng ta phá cái chấp u mê bản ngã, bắt ngoại cảnh phải lệ thuộc về mình; kế đó chúng ta phải lặng hết vọng tưởng, sống với tâm thanh tịnh. Như vậy chúng ta thấy cõi đời này đều an lành tự tại, thế gian này là thế giới của chư Phật chớ không phải của phàm phu nữa. Đó là MÙA XUÂN DI-LẶC vĩnh cửu trường tồn nơi chúng ta.
ĐỨC DI-LẶC
VÀ Ý NGHĨA SÁU ĐỨA BÉ

Xuân Đinh Tỵ - 1977
Mỗi mùa Xuân đến, mọi người đều in thiệp chúc Tết nhau. Trong nhà chùa nói chung, nhất là Phật giáo Bắc tông, hầu hết đều chúc nhau một mùa Xuân Di-lặc. Như vậy đức Phật Di-lặc có liên hệ gì đến mùa Xuân, mà chúng ta cầu chúc nhau như thế. Có nhiều người cho rằng ngày mồng một Tết là ngày vía đản sanh của đức Di-lặc. Tôi chưa biết đó là ngày đản sanh của Hóa thân nào, vào thời đại nào.
Bởi vì lịch sử của Bồ-tát ứng thân vô lượng, làm sao chúng ta căn cứ một bề, lấy đó làm tiêu chuẩn. Chúng tôi chỉ biết một điều thật là quan trọng trên danh nghĩa Di-lặc mà chúng ta thường tụng thường nguyện.
Khi chúng ta tụng: Nam-mô Long Hoa giáo chủ đương lai hạ sanh Di-lặc Tôn Phật, đó là thể theo lời huyền ký của đức Bổn sư Thích-ca Mâu-ni rằng, sau khi Bồ-tát Di-lặc sanh lên cung trời Đâu-suất mãn công hạnh, sẽ đến thế giới Ta-bà này thuyết giảng. Lúc tuổi thọ con người giảm tột cùng chỉ còn mười tuổi, rồi do nhờ phát tâm tu hành, gìn giữ Thập thiện, tuổi thọ tăng lên đến sáu mươi bốn ngàn tuổi, chừng đó đức Phật Di-lặc ra đời. Như vậy thời gian Ngài ra đời còn xa lắm. Tôi đã từng nói mỗi đức Phật ra đời không làm việc trùng lập nhau. Bao giờ  giáo lý của đức Phật Thích-ca Mâu-ni, danh từ Tam Bảo không còn được biết tới nữa thì đức Phật Di-lặc mới ra đời.
Đức Phật Thích-ca được gọi là Ta-bà giáo chủ, là vị Giáo chủ trong cõi Ta-bà này. Còn đức Phật Di-lặc sẽ thành đạo dưới cội Long Hoa, cho nên được gọi là Long Hoa giáo chủ. Tuy thời gian Ngài ra đời còn lâu xa, nhưng chúng ta tin rằng tương lai sẽ có Phật ra đời. Đức Phật ra đời, đó là một diễm phúc cho chúng sanh, là ngọn đuốc sáng cho nhân loại. Vì vậy khi nghĩ đến đức Phật ra đời, chúng ta cảm thấy cả một nguồn hạnh phúc an lành. Ngày mồng một Tết là ngày vía đức Phật Di-lặc, cũng là ngày hứa hẹn hạnh phúc cho chúng sanh. Hạnh phúc bằng cách giải thoát khổ đau, ra khỏi luân hồi, chớ không phải hạnh phúc trong ngũ dục tầm thường. Đầu năm Tăng Ni cùng Phật tử lễ vía đức Phật Di-lặc, Ngài là hình ảnh bên ngoài mà cũng là sự hứa hẹn ở nội tâm chúng ta. Nhớ đến đức Phật sẽ thành, chúng ta cũng nhớ luôn mai kia mình sẽ thành Phật. Vì vậy chúng ta không chỉ lạy đức Phật với lòng thành kính, mà còn cầu chúc cho nhau một mùa Xuân hứa hẹn sẽ thành Phật. Đó là ý nghĩa thâm sâu của ngày vía đức Phật Di-lặc.
Bây giờ chúng ta đi vào ý nghĩa hình tượng của Ngài. Chắc rằng chúng ta ai cũng từng thấy hình tượng đức Di-lặc ở các ngôi chùa. Có khi người ta thờ Ngài với vẻ mập mạp, cười toe toét; có chỗ khác cũng thờ hình tượng như vậy mà có sáu đứa nhỏ: đứa thì chọc ngón tay vô rún, đứa thì móc lỗ mũi, đứa thì móc miệng, đứa thì dùi lỗ tai v.v... mà Ngài cứ vui cười không phiền, không chướng ngại gì hết.
Tại sao như vậy? Hình ảnh đó nói lên cái gì? Điều này rất thiết yếu, chúng ta nên chú tâm như trong kinh Lăng Nghiêm, có đoạn mười phương chư Phật dị khẩu đồng âm tuyên bố cho ngài A-nan và đại chúng: “Khiến ông phải luân hồi sanh tử, chính là sáu căn của ông, chớ không phải vật gì khác; khiến ông chóng chứng Vô thượng Bồ-đề, cũng chính là sáu căn của ông, chớ không phải vật gì khác.” Như vậy cội gốc sanh tử cũng là sáu căn của chúng ta: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; cội gốc Bồ-đề Niết-bàn cũng là sáu căn của chúng ta. Như vậy con đường trở về giác ngộ hay con đường sanh tử luân hồi là một hay hai? Sanh tử luân hồi cũng đi con đường đó mà Bồ-đề Niết-bàn cũng đi con đường đó, có khác nhau. Người thì đi theo chiều thuận gọi là thuận lưu, người đi theo chiều nghịch, gọi là nghịch lưu. Đi theo chiều thuận là sanh tử luân hồi, đi theo chiều nghịch là giải thoát sanh tử. Như vậy thì không có hai đường. Ví dụ chúng ta về Sài Gòn, cũng đi trên đường Vũng Tàu - Sài Gòn. Sài Gòn - Vũng Tàu cũng đi đường đó. Nhưng nói về Sài Gòn là đi trở về, nói đi Vũng Tàu là đi trở ngược ra. Chỉ khác một người đi trở ra, một người đi trở vô thôi. Khác nhau ở chỗ đó. Đường thì một mà hai người đi nghịch hoặc thuận chiều, kết quả sẽ có hai ngả khác nhau, và hai địa điểm khác nhau. Cũng như vậy, nếu sáu căn của chúng ta nếu ta thuận chiều với nó, đó là chúng ta đi trong luân hồi sanh tử. Chúng ta đi ngược chiều với nó là chúng ta trở về Niết-bàn, Bồ-đề, giải thoát v.v... Nếu sáu căn đi theo sáu trần gọi là thuận lưu, đi theo chiều luân hồi. Nếu sáu căn không chạy theo sáu trần, không nhiễm, không dính, không mắc, đó là người trở về Bồ-đề Niết-bàn không đâu xa lạ. Như vậy để thấy rõ con đường tu tuy có rất nhiều, nhưng sự tu căn bản chỉ đừng cho sáu căn chạy theo sáu trần bên ngoài. Đức Phật Di-lặc là một vị Phật sẽ thành ở ngày mai do Ngài tu hạnh gì? Chính hình ảnh đó là câu trả lời cụ thể nhất. Mỗi đứa bé soi lỗ tai móc lỗ mũi của Ngài mà Ngài vẫn cười không tỏ vẻ bực dọc, không tỏ vẻ chướng ngại buồn bã. Vì vậy Ngài sẽ thành Phật chắc chắn.
Còn chúng ta thì sao? Nếu ai móc lỗ tai mình thì không đánh cũng đá, không đập cũng la; móc lỗ mũi mình cũng thế... Như vậy đối sáu căn, có ai động tới thì chúng ta không chịu nổi. Chỗ không chịu nổi đó làm chướng ngại chúng ta. Sáu đứa bé gọi là lục tặc, tức là sáu đứa cướp phá phách. Nhưng thật tình chúng có phá mình hay không? Nếu bị móc lỗ tai mà mình không cảm thấy khó chịu lại thấy đã ngứa thêm thì không bị chướng ngại. Hiện tại hầu hết chúng ta đều bị chướng ngại bởi những lời nói bên ngoài. Nếu những lời chửi mắng gièm pha, nguyền rủa tới lỗ tai, mà mình coi như gió thổi lá dương cành liễu cho nó nương theo gió đi đâu thì đi, đừng vướng mắc tự nhiên mình an lành tự tại. Nếu thấy đó là lời nói thù hằn, mỉa mai sâu độc mà mình bực bội tức tối, ghi nhận nó vào với những tâm niệm hận thù, đen tối thì nó sẽ thành giặc cướp làm tan hoang của báu nhà mình. Tai nghe những tiếng khen chê hoặc là chửi bới đề cao v.v... mình cũng xem thường, vì tiếng nói không thật. Chính bản thân mình còn không thật, huống là tiếng nói bên ngoài. Tâm không động đó là mình đã thắng đứa bé móc lỗ tai rồi.

Khi con mắt thấy tất cả hình ảnh phía trước, có đẹp có xấu, dù hình ảnh nào mình cũng dửng dưng không lay động không dính mắc, như vậy bao nhiêu hình ảnh dàn trải tràn trề trước mắt, mình cũng vẫn an lành tự tại. Ngược lại khi thấy một hình ảnh, mình liền cho là đẹp là xấu, đẹp thì sợ mất, xấu thì sanh tâm bực tức, thế là hình ảnh nào cũng gây phiền não hết, không có hình ảnh nào là an vui tự tại. Sự thật những hình ảnh đó có phải là phiền não không? Phiền não là tự ai? Gốc tại mình. Nếu thấy nó mà không luyến ái, không ghét bỏ, thì nó vẫn là nó. Có lỗi lầm gì đâu! Lỗi lầm là chính lòng luyến ái, lòng sân hận của mình chớ không phải hình ảnh có lỗi lầm. Khi chứa chấp sân hận, chứa chấp luyến ái, thì của báu nhà mình bị cướp mất. Con mắt đem những hình ảnh vào để cướp mất của báu nhà mình, đó là cái chướng biểu trưng qua hình ảnh đứa bé móc mắt. Còn nếu ngược lại mình không mắc kẹt, hình ảnh là hình ảnh, mình vẫn an nhiên, thì đứa bé ấy có làm gì thì làm, mình vẫn an ổn.
Lỗ mũi cũng thế, ngửi mùi hôi mùi thơm đừng mắc kẹt, coi như khói như gió vừa qua mũi rồi mất, không có gì thật, thì có gì làm cho mình nhiễm, tự nhiên trong lòng được tự tại. Ngược lại, tại chúng ta si mê, cho nên mùi thơm đến thì thích, mùi hôi đến thì bực. Do đó tự mình đem giặc vào cướp của báu nhà mình, tự làm chướng ngại.
Như lưỡi chúng ta nếm những vị cay, đắng, mặn, ngọt; cái nào hợp thì thích, cái nào không hợp thì không thích. Vì vậy mà chúng ta chạy tìm kiếm, khổ từ năm này sang năm khác. Mỗi khi lên mâm cơm, thấy món gì mình cảm nghĩ là hợp với lưỡi của mình thì vui, món gì không hợp thì bực. Vui và bực đó làm mình phải chướng, rồi nói lời thô ác làm cho người chung quanh không vui. Vì lẽ đó chúng ta tập cho lưỡi mình đừng tham đắm vị. Tất cả cái ngon cái dở chẳng qua là tạm mà thôi, cốt sao cho mình được an ổn tu hành là quí. Như vậy chúng ta thắng được các thứ vị, tức là đã thắng đứa bé móc miệng rồi.
Tôi đã đơn cử các căn như mắt tai mũi lưỡi để thấy chúng ta tu là phải tu ngay tại sáu căn của mình, đó là các cơ quan hằng tiếp xúc với những hoàn cảnh thuận tiện làm cho mình ưa, những hoàn cảnh trái ngược làm cho mình giận. Tuy nói sáu căn chớ thật tình có năm căn quan trọng, tức là mắt tai mũi lưỡi thân, năm cửa đón tiếp bên ngoài. Mỗi khi năm căn tiếp xúc với năm trần thì ý theo đó phân biệt để thương ghét buồn giận. Vì vậy, ngay năm căn kia mà chúng ta đón nhận đúng pháp thì căn thứ sáu (ý căn) không còn trở ngại nữa. Khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần mà chúng ta mắc kẹt, nhiễm theo thì gọi là sáu đứa cướp, bởi vì kho báu nhà mình bị chúng cướp đi. Cướp bằng cách nào? Ví dụ lỗ tai nghe tiếng rồi phân biệt tiếng khen tiếng chê, sanh buồn sanh mừng là bị mất của. Của đó giặc mang đi đường nào và lấy ở đâu? Nói suông thì khó biết. Cần phải biết của mình ở đâu và dấu vết giặc mang đi đường nào, mới có thể giữ của được.
Sự thật nó không mang đi đâu, đó chỉ là hình ảnh tượng trưng thôi. Nhưng chúng ta thường nghĩ khi có lấy tức là có mang đi, không ngờ nếu thật tình nó mang đi thì sau này dù có giữ cũng là giữ cái kho không còn của đâu mà giữ. Vì vậy phải biết rõ ràng là tuy nói nó cướp của mình, nhưng không cướp gì hết. Chỉ do năm căn tiếp xúc bên ngoài, rồi tâm mình xao xuyến hoặc buồn hoặc giận. Đó là những đám mây đen nổi dậy che lấp mặt trời trí tuệ của mình, gọi là đã cướp. Khi nào nghe những tiếng khen chê mà trong lòng không xao động, những đám mây đen không nổi dậy, thì mặt trời trí tuệ của chúng ta vẫn sáng rực, gọi là giữ được của báu.
Khi trí tuệ chúng ta hằng sáng tỏ, lúc đó gọi là giàu. Còn nếu phút giây nào trí tuệ bị mờ tối không còn phát hiện nữa gọi là mất của báu, ta nghèo đi. Cái nghèo đó là cái nghèo tạm thời, nhưng cũng có thể là nghèo muôn kiếp. Nếu giờ phút nào bị mây phiền não che khuất thì chúng ta mất trí tuệ, nhưng khi nào chúng ta dẹp tan những đám mây đó, thì mặt trời trí tuệ sáng trở lại gọi là nghèo tạm thời. Còn cứ nuôi dưỡng những đám mây đen, hết đám này tới đám khác, dù có mặt trời trí tuệ mà cả đời vẫn sống trong đen tối. Đời này đen tối, đời sau đen tối, cứ tiếp nối như thế mãi thì không bao giờ hết nghèo. Thế nên người biết tu và không biết tu khác nhau tại chỗ đó. Dù chúng ta cũng bị cướp của báu, cũng bị mây đen che lấp mặt trời trí tuệ, nhưng chúng ta tin rằng chỉ bị che trong một phút một giây, rồi sẽ sáng lại.
Vì vậy ý nghĩa Đương lai hạ sanh của đức Phật Di-lặc là một ý nghĩa hứa hẹn trong tâm chúng ta, chúng ta sẽ sáng ra ở ngày mai chớ không tối mãi. Đó phải là cái hứa hẹn thật sự chớ không phải hứa hẹn suông, hứa hẹn rỗng. Có người cũng hứa hẹn, nhưng hứa hẹn suông, nghĩa là cũng có hình thức người tu, đi chùa lễ Phật, nhưng cứ chất chứa bao nhiêu phiền não. Tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, cứ như thế mà dồn hết vào trong lòng. Lo kiếm những món ngon, lo chứa những mùi thơm, lo chứa những hình tướng đẹp v.v... cả ngày cứ xao xuyến lo buồn làm khuất đi mặt trời trí tuệ sáng ngời, cho nên phải chịu khổ đen tối. Còn người biết tu, khi trí tuệ bị che khuất thì hối hận, ăn năn cố làm cho tan đám mây mờ, và nguyện làm sao đừng để mặt trời trí tuệ bị che khuất phút giây nào hết. Đó là hứa hẹn thật, hứa hẹn của người biết tu, chớ không phải hứa hẹn suông.
Chính chỗ thiết yếu đó mà đức Phật Di-lặc được gọi là con người hạnh phúc, con người hạnh phúc thường mập mạp vui tươi. Cái mập mạp vui tươi đó là nhờ trong lòng không có những đám mây phiền não che lấp mặt trời trí tuệ, mà dù sáu đứa giặc có móc tai, móc mũi v.v... Ngài vẫn thấy như không. Còn chúng ta thấy chướng nên trán nhăn, mày cau, mắt đỏ, gương mặt đau khổ. Cái khổ đó chính vì mình không chịu nổi sáu đứa giặc phá phách nên tự nhiên sanh ra bực dọc, khó chịu. Nếu nó phá phách mà mình không thấy chướng, thì cái phá đó trở thành đùa vui với nhau. Chúng ta không ai chẳng có sáu đứa giặc, sáu đứa cướp đó nhưng nó thành giặc hay bạn là chính tại mình. Thế nên biết tu nơi sáu căn rồi tự nhiên được an lành tự tại. Dù chưa thành Phật, hiện đời ta cũng hạnh phúc tràn trề. Ngày nào tháng nào cũng đều là ngày tháng vui tươi, năm nào cũng là năm đẹp đẽ. Vì vậy mà chúng ta hay chúc nhau một mùa Xuân viên miễn.
Đó là mùa Xuân Di-lặc, mùa Xuân hạnh phúc, mùa Xuân mà trong lòng không phiền muộn lo âu. Còn lo âu, còn phiền muộn thì chưa phải là hạnh phúc. Cho nên nhớ đến đức Phật Di-lặc, nhớ đến sáu đứa bé móc tai, móc mũi của Ngài, chúng ta nên hằng giờ hằng phút kiểm điểm lại mình, thử xem giặc có cướp của mình hay không. Nếu chúng ta cứ nuôi dưỡng sáu đứa giặc khiến chúng luôn cướp của mình, thì dù có khao khát nguyện cầu thành Phật mấy đi nữa, quả Phật cũng còn xa lơ xa lắc. Trái lại nếu chúng ta ở mọi trường hợp, đi đứng nằm ngồi, tiếp duyên đối cảnh, đều sống đúng với tinh thần của đức Phật Di-lặc thì tôi tin rằng dù không cầu được an vui, tự nhiên cũng được an vui, không cầu thành Phật, tự nhiên cũng thành Phật.
Tóm lại chỗ tu thiết yếu là biết trở về mình, chính là đừng để cho sáu căn dẫn giặc vào, gọi là nghịch lưu. Nghịch lưu tức là trở về Tánh giác. Còn nếu luôn luôn bị sáu căn dẫn giặc về cướp mất của báu nhà mình gọi là thuận lưu, tức là thuận theo chiều sanh tử. Do đó, hôm nay nhân ngày vía đức Phật Di-lặc và cũng là ngày Tết Nguyên Đán, tôi cầu chúc cho tất cả quí vị Tăng Ni, cư sĩ nam nữ đều trở về nguồn giác của mình. Nguyện cầu cho tất cả quí vị kể từ ngày mồng một Tết này cho đến trọn năm và cho đến suốt đời đều luôn luôn là “bối trần hiệp giác”.
CON NGƯỜI HẠNH PHÚC
- ĐỨC HỶ XẢ -

Xuân Mậu Ngọ - 1978
Con người hạnh phúc, có thân khỏe tâm an. Muốn được thân tâm đều khỏe thì chúng ta phải làm sao?
Sở dĩ chúng ta hay áo não sầu bi là tại trong lòng có những điều không vui, bất như ý. Nếu gặp ai, mình muốn cười xã giao một chút thì cười ra sao? - Nửa cười nửa mếu. Cười như vậy chưa phải là thật cười. Đức Phật Di-lặc cười một cách hỉ hả không có gì gượng gạo hết, còn chúng ta xã giao nên nhiều khi cười gượng gạo, vì không phải thật vui vẻ trong lòng. Nếu trong lòng thật vui vẻ, gặp ai mình cũng cười, lúc nào cũng tươi. Thấy trời mây đất nước, tất cả cảnh đều vui tươi, không có gì bận tâm rối loạn trong lòng. Được như vậy chúng ta mới hạnh phúc, dù buổi sáng chỉ ăn vài củ khoai. Tâm hồn an vui, thì ở cảnh nào cũng an vui. Nếu tâm hồn bực bội rối loạn, thì ở cảnh nào chúng ta cũng sầu bi hết. Vì vậy nên mỗi năm, ngày đầu Xuân, chúng ta cần đến lễ đức Di-lặc.
Lễ đức Di-lặc không phải là lễ suông để Ngài ban phước cho mình. Ta lễ Ngài với cả tâm hồn hướng về và học theo hạnh của Ngài. Làm sao mỗi năm cho đến suốt cả đời, cuộc sống chúng ta vui tươi và hạnh phúc như Ngài, đừng sống trong sầu não bi thảm. Muốn vui tươi thì điều kiện thiết yếu phải thế nào? Phải hỉ xả, vì đức Di-lặc do tu hạnh hỉ xả mà được vui tươi.
“Hỉ” là vui, “xả” là buông hết. Có việc gì hoặc ai động đến, Ngài cũng cười cũng buông hết, chớ không giận. Còn chúng ta? Ai nói một câu trái lỗ tai, mình có vui không? Nếu vui chỉ là vui gượng chớ không thật vui. Do đó muốn vui trọn vẹn thì chúng ta phải buông hết những buồn phiền trong lòng. Lúc nào chúng ta sống ngây thơ như đứa bé. Đừng sống với nhiều nếp nhăn, mặt ủ rũ, mắt chớp lia lịa, không tỉnh táo sáng suốt. Sống như vậy, chúng ta sẽ chết lần chết mòn do lửa phiền não thiêu đốt. Con người quí ở cuộc sống hạnh phúc. Muốn sống hạnh phúc phải có thân khỏe tâm an. Muốn thân khỏe tâm an phải tu theo hạnh hỉ xả của đức Di-lặc.
Khi Ngài thị hiện ở Trung Quốc, làm một vị Hòa thượng mập mạp mang cái đãy to, nên được gọi là Bố Đại hòa thượng. Ngài không có của tiền gì hết, khi ra chợ, ai cho thức ăn gì đều bỏ vô túi, gặp con nít móc túi ra chia cho chúng nó ăn. Gặp ai Ngài cũng vui vẻ. Khi sắp tịch Ngài để lại một bài kệ:
Di-lặc chân Di-lặc
Hóa thân thiên bách ức
Thời thời thị thời nhân
Thời nhân giai bất thức.
Dịch:
Di-lặc thật Di-lặc
Phân thân trăm ngàn ức
Thường thường dạy người đời
Người đời đều chẳng biết.
Nhờ bài kệ này, người sau mới biết Ngài là đức Di-lặc hóa sanh, chớ không phải người thường. Cho nên trong chùa hay thờ Ngài qua hình tượng một vị Hòa thượng mập mạp mang cái đãy to.
Nói đến đức hỉ xả chúng ta nên nhớ thật kỹ ý nghĩa của nó. Tôi lặp lại “hỉ” là vui, “xả” là buông. Buông mà vui chớ không phải buông mà bị bắt buộc. Thí dụ mình ghét người nào đó, nhưng vì một người thân của mình thương họ, bảo ráng vui với họ, vị tình người thân mà mình vui, cái vui đó là vui gượng gạo, chớ không phải thật sự vui. Khi nào trong lòng không có buồn phiền, tức tối bực bội gì hết, chỉ một niềm vui an ổn, gặp ai mình cũng vui, đó mới thật là vui. Muốn được vậy, chúng ta phải hỉ để mà xả, tức là vui để mà buông.

Chúng ta sống trên thế gian này, cũng như đám trẻ con đông năm bảy chục đứa chạy loạn. Chạy một hồi, thế nào cũng va đầu, chạm trán với nhau. Đứa u đầu, đứa chảy máu, trặc chân, nhưng rồi thôi, bỏ qua vui vẻ với nhau. Nếu cố chấp, khi đụng nhau chúng giận cả năm, cả đời không bao giờ vui được. Một người đụng, ta giận và ôm ấp mối giận đó, hai người cho tới trăm người, ngàn người đụng, thì giận chừng bao nhiêu? Khối giận ấy tưởng tượng chắc bằng cái chùa. Thế gian này chúng ta sống với mấy chục triệu người, chớ đâu phải với một người, nếu cứ cố chấp hờn giận thì khối buồn phiền biết bao to? Trong mấy chục triệu người, chắc gì được một triệu người thương mình, cao lắm chỉ vài trăm người thôi. Còn người những người khác, họ đối không phải với mình một vài điều, ta cứ ôm ấp thì chắc rằng không bao giờ vui được. Cả một đời từ thuở bé cho tới già năm, sáu mươi tuổi, mỗi năm ít nhất cũng đụng nhau vài chục lần. Con số đó cộng lại thì chừng bao nhiêu lần giận hờn? Mỗi lần giận hờn đều giữ, như vậy trong A-lại-da thức hay Tàng thức của mình chứa toàn là giận. Thế thì khi nhắm mắt sẽ ra sao? Tức là thù giận sẽ dẫn mình đi, trở lại gặp thù giận nữa. Đời này hận thù, đời sau hận thù, thù hận tiếp nối, thì cuộc đời chỉ toàn là khổ đau với khổ đau. Cho nên muốn được an vui chúng ta phải tập hỉ xả. Những gì qua rồi tha thứ cho nhau, sống vui vẻ.
Bảo tha thứ thì dễ quá, nhưng làm sao tha thứ đây? Cứ nghĩ người đó hơn mình, người đó ăn hiếp mình, khinh mình v.v... thì không thể nào tha thứ được. Muốn tha thứ được, phải có phương pháp, có đường lối, chớ không thể nói suông.
Trong nhà Phật dạy rằng, muốn hỉ xả phải có từ bi, có thương thì mới có tha thứ. Người đó làm khổ mình mà mình không giận tại vì mình thương họ. Khi thương chuyện lớn cũng biến thành nhỏ. Khi ghét chuyện nhỏ cũng biến thành lớn. Do đó muốn hỉ xả phải biết thương người. Có từ bi thì có hỉ xả, có lòng thương thì mới tha thứ được. Như người dưng kẻ lạ làm khổ mình một chút, mình giận cả đời. Còn con ruột làm khổ, mình giận chừng bao lâu? Chỉ một lát thôi. Rõ ràng mình dễ tha thứ vì thương nó, nếu không thương thì không bao giờ tha thứ cho nó được. Chúng ta không có lòng thương mà nói tha thứ thì không phải tha thứ chân thật.
Làm sao có lòng thương? Nói thương suông được không? Thường chúng ta nói thương tất cả, khi tất cả không chửi ta, chớ họ chửi là hết thương họ. Làm sao người ta chửi mà mình vẫn thương họ được, cái đó mới là khó. Muốn có lòng thương tất cả, tức là từ bi thì phải có trí tuệ. Nhờ có trí tuệ chúng ta mới có lòng thương rộng rãi, mới hỉ xả cho nhau được. Tóm lại đầu mối là trí tuệ, kế đó là từ bi, sau cùng là hỉ xả. Hỉ xả là kết quả của trí tuệ và từ bi.
Nói về trí tuệ, trước hết chúng ta phải quán xét cuộc đời là vô thường để có lòng thương nhau. Nhưng quán xét vô thường thế nào? Quán sự nghiệp, quán của cải, quán cây cối, quán đất nước là vô thường chưa đủ có lòng từ bi. Ở đây muốn có từ bi chúng ta phải quán thẳng vào tánh chất vô thường của con người. Ngày xưa đức Phật thấy rõ con người sanh ra, ai rồi cũng đi đến già bệnh chết. Bây giờ chúng ta cũng quán về lẽ đó, nhưng khác hơn: Ai sanh ra cũng đều bị kêu án tử hình. Quán mạnh như vậy đó. Tôi và quí vị đều có án tử hình, nhưng bản án đó không định ngày xử. Có thể lát nữa đây, hoặc mai, hoặc hai ba mươi năm, hoặc lâu hơn là bốn năm mươi năm nữa xử cũng được. Biết như vậy, chúng ta có giành giựt, có tranh hơn thua từ lời nói không? Cứ nhớ án tử hình thì có thể tha thứ cho nhau hết.
Như vậy muốn thương nhau chúng ta nên nhớ rằng: Sanh ra, ai nấy đều mang án tử hình rồi. Có sanh tự nhiên phải có tử, chắc chắn như vậy. Mọi người đều mang sẵn bản án tử hình, nên lúc nào cũng hồi hộp như có tên đao phủ ở bên cạnh. Nhớ hình ảnh đó, ai có chửi thì chửi, mai mốt chết rồi, còn đâu hơn thua. Hơn thua rồi cũng phải chết. Án tử hình đó bình đẳng cho tất cả mọi người, không kể người giàu kẻ nghèo, người có quyền thế, kẻ không quyền thế. Chi bằng chúng ta tha thứ nhau, thương yêu nhau, đùm bọc nhau, sống vui với nhau, làm khổ nhau chi nữa. Hay hơn nữa là vui hòa cùng tiến tu để phá tan bản án đó. Tuy ai cũng mang bản án tử hình, nhưng người biết đạo lý thì còn có cửa để thoát khỏi tử hình. Nghĩ đến cửa đó, chắc rằng năm nào tháng nào ngày nào, chúng ta cũng chỉ lo làm sao giải quyết được bản án tử hình hơn là giành giựt hơn thua. Bản án chưa giải quyết, có thua thiệt chúng ta cũng làm thinh, chuyện kia mới là chuyện lớn. Kẻ bị án tử hình, được người chỉ dạy để thoát khỏi án đó, lại không chịu làm, cứ lo hơn thua phải quấy thì khờ khạo hay khôn ngoan? Nếu nói theo thế gian thì đó là người ngu. Điều quan trọng thiết yếu mà ngó lơ, cái tầm thường mà cố chấp, không phải ngu là gì?
Biết có phương pháp thoát khỏi bản án tử hình, tức nhiên chúng ta phải cố gắng làm sao đem hết khả năng của mình lo giải quyết bản án. Đó là điều trên hết. Cho nên tu để thoát khỏi sanh tử là điều hết sức cần đối với người biết đạo. Nếu chưa khỏi sanh tử thì ít ra chúng ta cũng tha thứ cho nhau, vì tất cả đều mang án tử hình. Ngày nào còn sống trên thế gian là ngày an ổn, đừng làm khổ cho nhau. Như vậy mới là người có lòng từ bi. Đó là điểm thứ nhất.
Điểm thứ hai là chúng ta phải dùng trí tuệ xét rõ tánh chất giả tạm của con người. Thí dụ có kẻ cuồng loạn, vừa mượn đồ đạc của người ta, liền nói của mình. Người như thế là người khôn hay khờ? Đó là kẻ cuồng si. Vì điên cuồng nên đồ đạc của người mà nói là của mình, nói không đúng sự thật.
Hiện nay chúng ta có thấy mình là kẻ cuồng si hay không? Thân này là giả mà nói giả thì không ai bằng lòng hết. Chúng ta sống đây là đang sống hay đang vay mượn? Nếu thật sống thì cần gì phải vay mượn bên ngoài. Nếu vay mượn bên ngoài thì không phải thật sống. Trong nhà Phật nói thân này do tứ đại: đất, nước, gió, lửa kết hợp mà thành. Từ lúc ra khỏi bào thai mẹ, cuộc sống là cuộc sống vay mượn chớ không phải thật.
Chúng ta thấy từ đứa bé cho đến người lớn, ai cũng như ai, lỗ mũi có lúc nào nghỉ thở không? Chúng ta sống mà quên mình đang mượn không khí ở ngoài, đem vô rồi trả ra, trả ra rồi hít vô, cả ngày như vậy. Đó là sự sống, sự sống này do vay mượn mà có. Khi ở ngoài là không khí của trời đất, hít vô mũi, liền nói là hơi thở của tôi. Đó là nói lỗ mũi mượn không khí, mượn gió.
Đến miệng mượn cái gì? Như khô cổ thì xin một tách nước. Khi còn ở ngoài nói là nước trà hoặc nước lạnh. Vô khỏi cổ rồi nói là nước của tôi. Mượn vô ở miệng, xuống thân trả ra, chỉ đi có một đường quanh, như vậy mà cũng nói là của tôi. Mượn hơi gió, mượn nước, rồi tới mượn đất, lửa nữa. Tức là mượn thức ăn, chất bột để nuôi dưỡng phần đất; chất nóng để nuôi dưỡng phần lửa. Chúng ta cứ mượn rồi trả, mượn rồi trả. Nếu một phút giây nào không mượn thì phút giây đó còn sống hay không?
Như vậy chúng ta là thật hay giả? Nói giả thì ngán quá không dám nói. Nhưng chân lý là vậy. Con người có những cố chấp lạ, si mê không bao giờ chịu thấy lẽ thật. Một lẽ thật trăm phần trăm, mà nghe qua mình sẽ nổi giận liền. Thí dụ sáng dậy chưa kịp súc miệng rửa mặt, khách tới buộc lòng phải tiếp chuyện, vô tình hơi bay vào mũi khách. Nếu người đó nói thẳng: “chà! hơi thở chị hôi quá”, nghe như vậy mình giận liền. Tại sao sự thật trăm phần trăm, mình biết rõ mà lại giận? Như vậy có phải là chạy trốn sự thật không? Không dám thấy sự thật, không dám nghe sự thật, phải chăng là kẻ cuồng si?
Thân này rõ là thân vay mượn, mà lúc nào chúng ta cũng nói là thân thật. Bởi nói thân mình thật nên quan trọng nó. Bởi quan trọng nó, nên những gì nuôi dưỡng nó, những lời khen ngợi nó mình đều quan trọng theo. Thân ta là trọng, vật ta dùng là quí, nên ai đụng chạm đến, chê bai hay làm hư hại thì ta nổi tức lên. Sở dĩ chúng ta buồn thương giận ghét… là tại thấy thân thật, nên thấy khen chê cũng thật. Nếu ta thấy thân này giả tạm, thì khen chê đối với thân này không còn quan trọng. Khi sự khen chê không còn quan trọng nữa, chúng ta sẽ dễ tha thứ những gì đụng chạm đến mình. Hỉ xả không còn khó khăn nữa.
Giờ đây, ai chấp thân này là thật, ta thấy người đó rất đáng thương. Mình tỉnh mà thấy người mê thì thương, cũng như thấy người điên ta thương vì họ không biết lẽ thật. Vì vậy nên tha thứ những sai lầm của họ. Giả sử bị người điên chửi, ta có giận không? Dù bị họ đánh hai, ba bạt tai, mình chạy chớ không giận họ. Vì họ là kẻ điên, mình phải thương họ, đâu nỡ giận. Mình biết thân là giả, người chấp thân là thật, nếu họ lỡ xúc phạm đến, chúng ta sẵn sàng tha thứ, vì ta biết họ si mê. Người si mê là người đáng thương không đáng giận. Nghĩ như vậy chúng ta thương được tất cả. Đó là điểm thứ hai.
Hai điểm then chốt trên là do trí tuệ quán chiếu mà phát sanh lòng từ bi. Một là quán vô thường, chúng ta đều mang án tử hình, sớm muộn gì rồi cũng chết; do đó thương yêu giúp đỡ, không nỡ làm khổ thêm cho nhau. Hai là quán thân này giả tạm, vay mượn thì hơn thua, khen chê chỉ là chuyện thường, không có gì quan trọng. Nhờ thế chúng ta có thể tha thứ, có thể hỉ xả hết. Muốn có lòng từ bi, chúng ta phải có trí tuệ là vậy.
Trong kinh A-hàm kể lại: Ngày xưa, đức Phật đi hoằng hóa ở chỗ ngoại đạo, có một Bà-la-môn ghét Ngài, phỉ báng mạ nhục nói nhiều lời nặng nề. Đức Phật vẫn lặng thinh. Nói một lúc, Bà-la-môn hỏi:
- Cù-đàm có nghe không?
Phật đáp:
- Ta nghe.
- Tôi nói như vậy sao ông không trả lời?
Đức Phật bảo:
- Giả sử ở nhà ngươi có một buổi lễ mời bà con thân quyến tới. Sau khi dự lễ xong họ ra về, ngươi đem quà bánh tặng cho họ. Những người đó không nhận thì quà bánh về ai?
- Về tôi.
- Cũng vậy, ngươi mắng chửi ta mà ta không nhận, có dính dáng gì đến ta đâu.
Đức Phật biết thân này là giả, ngôn ngữ khen chê đâu có gì quan trọng mà hơn thua.
Lần khác, đức Phật đi khất thực gặp một Bà-la-môn còn quá hơn ông trên. Đức Phật đi trước, ông theo sau chửi hoài. Phật cũng từ từ đi, tới ngã ba đường, Phật trải tọa cụ ngồi, ông chạy lại trước mặt hỏi:
- Cù-đàm thua tôi chưa?
Đức Phật thong thả đáp bằng bốn câu kệ:
Kẻ hơn thì thêm oán
Người thua ngủ chẳng yên
Hơn thua hai đều xả
Ấy được an ổn ngủ.
Phật dạy hơn người thì người oán mình, còn thua thì trằn trọc ngủ không yên. Một bên thêm oán, một bên ngủ không yên. Chỉ hơn thua đều bỏ hết thì ngủ khò không gì bận tâm. Người hơn thua đều xả thì an ổn nhất trên trần gian. Đó là người hạnh phúc, cần ăn thì ăn cần ngủ thì ngủ, không bận bịu ưu tư gì hết. Đức Phật đối với cảnh người ta khinh bỉ hạ nhục mà Ngài vẫn tự tại, không rối rắm không bực bội. Tại sao? Tại Ngài đã giác ngộ rồi, đầy đủ lòng từ bi nên hỷ xả không khó khăn gì hết.
Chúng ta thấy rõ trước có trí tuệ, kế đó có lòng từ bi, rồi sau đạt được hỉ xả cùng tột. Nếu không có trí tuệ, thiếu từ bi thì hỷ xả không bao giờ có. Ở thế gian này phần nhiều người ta sống hăng say với sự hơn thua. Kẻ ngồi mãi trong sòng bạc không biết mỏi lưng là sao? Tại nghĩ hơn thua. Người xem đá bóng, mỏi mắt không biết chán cũng tại nghĩ ăn thua. Vì hơn thua mà người ta say mê trong cuộc sống. Càng say mê thì càng giành giựt để được hơn thua. Còn người biết hơn thua không có gì quan trọng, thì không bận bịu giành giựt chi hết. Người đó vẫn bình tĩnh điềm đạm trước mọi cảnh, không có gì nóng nảy lo sợ. Vì nghĩ được mất hơn thua mà lòng chúng ta lúc nào cũng hồi hộp lo âu. Nếu hơn thua không còn thì mọi vấn đề không còn quan trọng nữa, lo âu hồi hộp hết liền. Như vậy cái khổ của tất cả chúng sanh gốc từ tranh hơn tranh thua. Chính vì tranh hơn tranh thua, chúng ta mới cố chấp để rồi thù địch hại nhau v.v... nếu coi thường hơn thua thì chúng ta an ổn và hỉ xả hết. Đối với người khác không buồn không giận, không oán thù, đó là do tự biết mình không thật. Biết mình cùng mọi người ở trong cảnh khổ, nên chúng ta thương nhau và tha thứ cho nhau. Thương nhau tha thứ cho nhau gốc từ trí. Như vậy rõ ràng trí tuệ đến đâu, thì từ bi theo đó. Có từ bi mới hỉ xả được. Sở dĩ đức Di-lặc hạnh phúc vui cười hoài là vì Ngài có trí tuệ, đầy đủ từ bi, hỉ xả nên mới vui vẻ như vậy.
Hôm nay là ngày đầu năm, tôi nhắc lại cho quí vị nhớ, hạnh phúc của chúng ta là phải có trí tuệ, thấy được lẽ thật để thương yêu nhau và đùm bọc nhau. Còn chúng ta cứ câu mâu hơn thiệt, thì chưa chắc có bao nhiêu lần vui mà có thể buồn nhiều, vì thế gian lúc nào cũng đụng chạm. Người tu theo đạo Phật là tự lợi lợi tha tức tự cứu và cứu người. Vậy chúng ta phải nỗ lực làm sao cho mình được vui tươi hạnh phúc, để rồi niềm vui đó lan tỏa đến mọi người.
Năm mới tôi cầu nguyện Tam Bảo gia hộ cho quí vị một năm đầy đủ hạnh phúc, thân khỏe tâm an, hỉ xả như đức Phật Di-lặc. Đó là lời cầu chúc của tôi, mong quí vị cố gắng thực hiện.
HÒN NGỌC HỌ HÒA
Tất niên Mậu Ngọ - 1979
Tất niên năm nay, trước hết tôi xin kể một câu chuyện thế gian. Thuở xưa trong thời Xuân Thu nước Sở ở Trung Hoa, trên ngọn Kinh Sơn có một người tìm ngọc tên là Biện Hòa. Anh vô núi, tìm được một hòn ngọc bích, anh đem về dâng lên cho vua Sở. Vua Sở lúc đó là Sở Lệ Vương, mới đưa cho thợ ngọc xem. Họ trả lời đó là đá chớ không phải ngọc. Vua Sở nổi giận bắt chàng họ Hòa chặt một chân, bảo là khi quân. Bị chặt một chân, chàng ta mang ngọc về. Thời gian sau Sở Lệ Vương thăng hà. Sở Võ Vương lên ngôi, chàng họ Hòa còn một chân, nhưng cũng mang ngọc tới dâng. Sở Võ Vương bảo thợ ngọc xem, lần này họ cũng trả lời là đá chớ không phải ngọc. Vua nổi giận bắt chàng họ Hòa chặt một chân nữa. Sau Sở Võ Vương tới Sở Văn Vương lên ngôi. Chàng họ Hòa không còn chân đem dâng ngọc nữa, đành ôm hòn ngọc ở Kinh Sơn mà khóc. Khóc năm, bảy ngày đến máu ra nước mắt. Sở Văn Vương nghe vậy cảm động cho đòi y về triều. Vua Sở hỏi: Tại sao ngươi khóc lắm vậy? Có phải bị chặt chân mà ngươi khóc hay chăng? Ông ấy trả lời: Tôi khóc không phải vì bị chặt hai chân, mà khóc vì ngọc mà nói là đá, vì nói thật mà cho là nói dối.
Vua Sở Văn Vương bảo thợ ngọc xét lại cho kỹ, coi phải thật là ngọc hay không. Rốt cuộc đó là một viên ngọc bích rất đẹp. Từ đó về sau mới đặt tên là “Ngọc Bích họ Hòa”.
Qua câu chuyện đó chúng ta thấy điều gì?
Thiện chí của chàng họ Hòa đưa đến kết quả cụt hai chân. Chàng đau khổ không phải vì cụt hai chân, mà vì ngọc lại nói là đá. Đau khổ vì nói thật mà cho là nói dối. Chúng ta nghĩ sao về tâm trạng chàng họ Hòa? Hòn ngọc bích của chàng có quí thật hay không? Nếu theo thế gian thì hòn ngọc ấy rất quí. Nhưng giả sử có người tặng ta hòn ngọc quí hơn thì sao?
Tôi nhắc lại như trường hợp trong kinh Pháp Hoa, Bồ-tát Thường Bất Khinh đi đâu gặp ai cũng chấp tay bái bái nói: “Tôi không dám khinh các ngài, các ngài đều sẽ thành Phật.” Như vậy phải chăng Bồ-tát Thường Bất Khinh đã tặng cho chúng ta một hòn ngọc. Khi đó có kẻ rầy la, có kẻ vác đá chọi Ngài... nhưng dù muốn dù không hòn ngọc ấy cũng được trở về với mọi người.
Thực tế mà nhìn, giả sử có người tặng chúng ta một hòn ngọc quí hơn trăm ngàn lần hòn ngọc ở Kinh Sơn, mình có ưng nhận hay không? Nếu ưng nhận, có chịu giữ hay là quăng lang lệ ở ngoài đường? Như vậy người tặng ngọc có buồn không? Chúng ta thử tưởng tượng một việc tầm thường, ngọc mà mắt người không chuyên môn, cho là đá, khi thì người biết chắc chắn là ngọc có đau khổ hay không. Đau khổ chặt chân vẫn chưa đau khổ bằng ngọc mà cho là đá, chưa đau khổ bằng nói thật mà cho là nói dối.
Đó là chuyện xưa mà cũng là tình trạng hiện giờ. Có người tặng chúng ta hòn ngọc quí hơn trăm ngàn lần hòn ngọc Kinh Sơn của họ Hòa. Thế nhưng có nhiều người xem thường hoặc không chấp nhận nó, hoặc chấp nhận rồi cũng bỏ rơi không gìn giữ. Như vậy có tội nghiệp cho người tặng ngọc không? Bây giờ hòn ngọc đó ở đâu và ai tặng cho chúng ta? Chúng ta có giống như hai ông vua Sở trước hay không? Mỗi người có hòn ngọc mà không biết giữ. Hòn ngọc bích có quí chăng chỉ là lóng lánh đẹp đẽ trong việc trang sức thôi. Còn có hòn ngọc quí không biết bao nhiêu lần, đem lại cho ta sự an lành tự tại. Có người tặng ngọc cho một trăm một ngàn người, trăm ngàn người có ngọc mà ngọc đem tặng không mất. Vậy hòn ngọc này hẳn quí hơn nhiều. Hòn ngọc này chẳng những làm cho chúng ta an lành tự tại mà còn bảo đảm kiếp kiếp đời đời không bao giờ mất, không bao giờ khổ. Đó là hòn ngọc quí tối thượng. Trong kinh Pháp Hoa, đó là hạt minh châu trong búi tóc của nhà vua tặng cho người thắng trận sau khi trở về, hoặc của người bạn thân tặng cho anh bạn cũ đang lang thang, cột trong chéo áo. Đức Phật đã nói rất nhiều về hòn ngọc này.
Tôi nói việc tặng ngọc của họ Hòa để chúng ta thấy tâm trạng của người tặng ngọc. Bây giờ cũng có người tặng ngọc cho mình, chúng ta nhớ nhận và giữ cho người tặng khỏi tủi buồn, mới thật không hoài công, không phụ lòng người sẵn sàng tặng ngọc cho mình.
Hạt minh châu như thế nào? Tôi sẽ dẫn các Thiền sư để nói lên hạt minh châu có sẵn nơi chúng ta. Có một vị Tăng đến hỏi Thiền sư Thạch Cựu: Thế nào là hạt châu trong tay Địa Tạng? Thiền sư Thạch Cựu trả lời: Trong tay ông lại có chăng? Tăng thưa: Con chẳng hội. Thiền sư Thạch Cựu nói: Chớ dối đại chúng. Như vậy Ngài xác nhận cái gì? Quả tang trong tay ông có hòn ngọc mà ông không biết có hay không. Nếu nói không có là ông dối đại chúng. Kế đó Ngài làm bài kệ:
Bất thức tự gia bảo
Tùy tha nhận ngoại trần
Nhật trung đào ảnh chất
Cảnh lý thất đầu nhân.
Tạm dịch:
Báu nhà mình chẳng biết
Theo người nhận ngoại trần
Giữa trưa chạy trốn bóng
Người nhìn gương mất đầu.
Bất thức tự gia bảo: nghĩa là không biết được của báu chính nhà mình.
Tùy tha nhận ngoại trần: nghĩa là theo kẻ khác mà nhận bụi bặm bên ngoài.
Nhật trung đào ảnh chất: nghĩa là giữa trưa mà người chạy ngoài nắng trốn bóng.
Cảnh lý thất đầu nhân: nghĩa là nhìn vô gương thấy đầu, mặt mình trong gương, quên mất đầu mặt thật của mình. Xoay gương lại không thấy đầu kêu lên “tôi mất đầu rồi”.
Đó là hình ảnh của chàng Diễn-nhã-đạt-đa trong kinh Lăng Nghiêm. Chúng ta có giống như chàng ấy hay không? Mỗi người có sẵn hạt minh châu trong tay, không chịu nhận mà lại nhận những gì loanh quanh tầm phào bên ngoài. Người như vậy chẳng khác nào tự chối mình không có hạt minh châu, giống như kẻ trốn bóng chạy ngoài trời lúc trưa nắng hay người nhìn gương xoay gương lại, cho mình không có đầu, thật là cuồng vọng. Qua bài kệ Thiền sư nhắc cho chúng ta biết mỗi người có hòn ngọc như vậy.
Sau đây là câu chuyện của đức Phật: Một hôm năm vị Thiên vương đến hỏi đạo đức Thế Tôn, Ngài để hạt châu ở giữa, năm vị đứng năm góc. Ngài hỏi hạt châu này màu gì, mỗi vị nói mỗi màu khác nhau. Ông ở phương Đông thấy phản ánh màu trắng, nói hạt châu màu trắng. Ông ở phương Tây thấy phản ánh màu đỏ, nói hạt châu màu đỏ. Cả năm ông nói năm màu khác nhau. Thế Tôn cất hạt châu, đưa tay lên hỏi: Hạt châu này màu gì? Mấy vị Thiên vương thưa: Trong tay Phật không có châu, chỗ nào có màu? Đức Phật quở: Tại sao các ông điên đảo lắm vậy? Ta đem thế châu chỉ cho liền nói có màu xanh vàng đỏ trắng. Ta đem chân châu chỉ cho thảy đều không biết. Năm vị Thiên vương nghe xong đều ngộ đạo thấy hạt chân châu. Tại sao Phật đưa tay không lại nói là chân châu? Quí vị có thấy hạt châu đó không? Quí vị có thấy thì tự thấy, chớ tôi không giải thích. Đó là tôi đã chỉ châu cho quí vị.
Một câu chuyện khác cũng nói về châu. Có vị Tăng hỏi Thiền sư Pháp Đăng: Đầu sào trăm trượng làm sao tiến bước?
Thiền sư Pháp Đăng đáp: Câm.
Ngài Úc Sơn Chủ khán câu đó do một vị Hóa Sĩ ở Lô Sơn dạy trải qua ba năm. Một hôm Ngài cưỡi ngựa qua cầu ván, bất thần con ngựa đạp nhằm chỗ ván mục bị lọt chân. Ngài té nhào xuống ngựa, bỗng nhiên đại ngộ làm bài tụng:
Ngã hữu minh châu nhất khỏa
Cữu bị trần lao quan tỏa
Kim triêu trần tận quang sanh
Chiếu phá sơn hà vạn đóa.
Dịch:
Ta có một viên minh châu
Đã lâu bị bụi vùi sâu
Hôm nay bụi sạch sáng sanh
Soi thấu núi sông vạn cảnh.
Như vậy Ngài lượm được hạt châu ở đâu? Chỉ cần khán câu đó bất thần Ngài thấy hạt châu của mình. Viên minh châu chôn vùi dưới bụi lâu rồi, hôm nay bất thần bụi tan nên ánh sáng phát hiện, chiếu khắp sơn hà đại địa. Diệu dụng của hạt minh châu như thế, nên quí vô cùng vô tận.
Hạt minh châu, còn có tên khác nữa nhưng thể vẫn không khác. Trong hội Quốc sư Đức Thiều, một hôm ngài Hồng Thọ - Hưng Giáo bửa củi. Một búa củi tét ra, Ngài liền ngộ đạo, nói kệ:
Phốc lạc phi tha vật
Tung hoành bất thị trần
Sơn hà cập đại địa
Toàn lộ Pháp vương thân.
Dịch:
Bửa tét không vật khác
Dọc ngang chẳng phải trần
Núi sông và quả đất
Toàn bày thân pháp vương.

Bửa củi tét ra thì bày thân Pháp vương chớ không ở đâu xa lạ. Người tu thiền ngộ đạo không hẳn ở trong giờ phút yên lặng, mà có thể trong khi làm công tác hay lúc đi đường, bất chợt gặp cái gì đó cũng ngộ được. Đó là tinh thần Thiền tông thấy đạo bất cứ lúc nào và ở đâu. Cũng như ngài Hồng Thọ bửa củi, ngài Úc Sơn Chủ cưỡi ngựa, có tu hay không? Nếu không tu tại sao bất thần các Ngài ngộ đạo. Như vậy để thấy người xưa, đi đứng nằm ngồi, bất cứ hoạt động nào các ngài cũng không bỏ quên tâm niệm tu hành của mình. Chính ôm ấp, mài dũa như vậy nên mới có cơ phát hiện ra. Còn chúng ta, đi thì lo nói chuyện thế gian, bửa củi thì nói chuyện vui để quên mệt, vì vậy mà chúng ta không thấy đạo.
Thiền sư Thạch Thê, cháu gọi Nam Tuyền bằng Sư ông. Một hôm, Thị giả mời Ngài đi tắm.
Sư bảo:
- Đã chẳng rửa bụi cũng chẳng rửa bợn tắm làm gì?
Thị giả thưa:
- Hòa thượng đi trước con đem xà phòng đến sau.
Sư cười.
Hôm khác Sư hỏi Thị giả:
- Đi đâu?
Thị giả thưa:
- Con lên trai đường.
Sư bảo:
- Ta đâu không biết ngươi lên trai đường.
Thị giả thưa:
- Trừ ngoài việc này, riêng nói cái gì?
Sư bảo:
- Ta chỉ hỏi việc bổn phận của ngươi.
Thị giả thưa:
- Nếu hỏi việc bổn phận, con thật là đi lên trai đường.
Sư bảo:
- Quả thật là Thị giả của ta.
Chúng ta thấy Thị giả của Ngài nói năng như lệch lạc vậy.
Mời đi tắm, Ngài bảo: Nước không phải rửa bụi cũng không phải rửa bợn, tắm làm gì? Thị giả không trả lời câu đó mà nói: Hòa thượng đi trước con đem xà phòng theo sau.
Sư cười.
Có phải Thị giả lạc đề nên Ngài cười không?
Sao lạ vậy? Đoạn sau thấy Thị giả bưng bát lên trai đường, Ngài hỏi đi đâu, Thị giả thưa: Con đi lên trai đường. Ngài nói: Ta đã biết ông đi lên trai đường. Ý Ngài muốn hỏi cái gì đó.
Thị giả thưa: Ngoài việc đi lên trai đường, Hòa thượng bảo con nói cái gì bây giờ?
Ngài đáp: Ta hỏi việc bổn phận của ngươi.
Thị giả thưa: Nếu Hòa thượng hỏi việc bổn phận của con thì quả thật là con đi lên trai đường. Ngài liền khen: Ông mới thật là Thị giả của ta.
Chúng ta thấy vị Thị giả này đáng là Thị giả chưa?
Tôi nhắc thêm một Thiền sư nữa. Ngài Bổn Nhân ở huyện Bạch Thủy, đệ tử của ngài Động Sơn. Một hôm Ngài thượng đường nói với chúng:
- Trong con mắt dính cát chẳng được, trong lỗ tai dính nước chẳng được.
Một vị Tăng bước ra hỏi:
- Tại sao trong con mắt dính cát chẳng được?
Ngài đáp:
- Hợp chân không sánh.
Tăng hỏi:
- Tại sao trong lỗ tai dính nước chẳng được?
Ngài đáp:
- Trắng sạch không nhơ.
Trả lời sao mà lệch lạc vậy? Trong con mắt dính cát không được, điều đó ai cũng nhận rõ. Trong lỗ tai dính nước không được, đó cũng chẳng khó hiểu. Nhưng tại sao con mắt dính cát không được? Ngài đáp: Hợp chân không sánh. Tức là hợp với cái chân, không có gì so sánh được.
Hỏi: Tại sao lỗ tai dính nước không được?
Ngài đáp: Trắng sạch không nhơ.
Như vậy, Ngài nói chuyện gì, có chỉ hạt châu không, có giống đức Phật đưa tay lên cho năm vị Thiên vương đó chăng?
Đó là lối diễn tả khác mà cùng một nghĩa của các Thiền sư. Đạo vị này thâm thúy mà người đọc hơi đau đầu, không biết đức Phật nói gì, Thiền sư nói gì? Ở đây nếu tôi giải thích hết, sẽ không hay.
Bây giờ tôi kể chuyện Thiền sư ni Viên Ấn, ở đời nhà Thanh niên hiệu Khang Hi, đến tham vấn Thiền sư Chân Diễn ở Trúc Am.
Thiền sư hỏi:
- Thế Tôn đưa cành hoa, ngài Ca-diếp cười chúm chím, là cười cái gì?
Ni Viên Ấn hét một tiếng.
Thiền sư bảo:
- Tiếng hét này rơi vào chỗ nào?
Ni thưa:
- Chẳng cần nghĩ đến.
Thiền sư dựng phất tử hỏi:
- Cái này là gì?
Ni thưa:
- Chẳng được vọng thông tin tức.
Thiền sư hỏi:
- Vừa rồi Sơn tăng nói gì?
Ni thưa:
- Lời trước đâu còn.
Thiền sư bảo:
- Sơn tăng tuổi già.
Ni thưa:
- Tuổi già thì được.
Ni liền lễ bái.
Chúng ta thấy trả lời như vậy có lạc đề không?
Thiền sư đưa cây phất tử lên hỏi “cái này là gì”, Ni Viên Ấn nói “không được dối thông tin tức”.
Trả lời như vậy, chúng ta thấy vị Ni ấy ra sao? Tiếc rằng câu chuyện này kể ra nghe hơi đau lỗ tai, nhưng tôi cứ kể vì muốn hiến châu cho quí vị.
Đến câu chuyện Thiền sư Huyền Thiết Dung thượng đường nói chuyện với đại chúng. Vừa đăng pháp tòa chúng nhóm họp đầy đủ thì Ngài bước xuống tòa. Thầy Tri sự tức quá chạy đến nắm đứng Ngài lại hỏi: “Tại sao không dạy một lời liền bước xuống tòa?” Ngài trả lời: “Sơn tăng sáng ăn hai chén cháo nguội, trong bụng có chút bất an, đợi đi cầu một chút, hãy vì các ông nói.” Chúng ngơ ngác không biết gì. Ngài về phương trượng không ra nữa.
Tại sao kỳ vậy? Câu chuyện này có lạ không? Ngài có nói pháp cho chúng ta nghe chưa? Thật tình Ngài có đau bụng hay không? Đó là một câu chuyện đặc biệt.
Hôm khác Ngài cũng thượng đường nói: Sơn tăng hôm qua đi thọ trai trong xóm, nhai nhằm một hạt cát hắc quang, cho đến sáng nay răng vẫn còn đau không thể cùng chư huynh đệ nói vàng nói trắng. Nói xong Ngài bước xuống tòa và trở về phương trượng.
Sao lạ vậy. Ngài có thuyết pháp câu nào chưa?
Lại một hôm, Ngài hỏi một vị Tăng:
- Người xưa nói “ăn cháo xong rửa bát đi” là thế nào?
Tăng trả lời:
- Khi hôm trong mộng có người hỏi con câu này, vì lúc đó con mê ngủ nên không đáp cho y.
Sư bèn thôi và gật đầu.
Vị Tăng có lạc đề không? Tôi không giải thích mỗi người tự hiểu.
Một Thiền sư khác, ngài Quảng Thanh. Đầu mùa Xuân năm Canh Thân niên hiệu Khang Hi đời Thanh, Ngài mang bệnh ba tháng trời. Một hôm đệ tử là Viên Tịnh dẫn chúng vào phương trượng viếng thăm và cầu chỉ dạy.
Sư bảo: Sơn tăng xưa nay không dính mê ngộ. Bị bệnh kiết ba tháng khiến thân gầy bày xương. Nếu người hiểu đạo như thế bảo đảm siêu Phật vượt Tổ.
Nói xong Ngài nằm nghiêng bên mặt mà tịch.
Như vậy Ngài dạy cái gì? Tôi nhớ lại câu Tổ Hoàng Bá nói: “Dưới Mã Tổ có tám mươi tư thiện tri thức nhưng chỉ có ngài Qui Tông là tiêu chảy đầy đất.” Trong nhà Thiền có những câu chuyện tương tự như vậy. Ngài Quảng Thanh nói Ngài bị bệnh kiết ba tháng, bây giờ sạch hết thân gầy bày xương. Nếu người nào hiểu được việc đó, thì siêu Phật vượt Tổ.
Khi đọc qua câu chuyện đó chúng ta cảm thấy như Ngài tả bệnh trạng của mình. Bệnh hoành hành làm cho Ngài đi tiêu chảy, không còn gì trong bụng hết, ốm gầy còn da bọc xương.
Thiền sư nói nửa thật nửa hư, mượn bệnh của mình để chỉ cái khác. Thật tình nếu chúng ta là người tu Thiền hay tu theo đạo Phật, chỉ có một chuyện là uống thuốc xổ thôi, thì chúng ta hết bệnh. Chúng ta tích lũy chất độc đã nhiều năm, độc tố chứa lâu quá rồi thành ra sanh bá bệnh. Bây giờ muốn hết chỉ còn phương thuốc là xổ. Xổ sạch rồi là lành bệnh. Đó là phương pháp duy nhất, nhưng khổ nỗi thiên hạ không chịu xổ hết. Đã tích độc rồi mà muốn tích thêm hoài, ngày nào cũng thêm chớ không chịu xổ.
Ra chợ nghe người ta nói câu gì bất như ý, về nhà nằm thở ra thở vô rồi tức. Người như vậy là biết xổ chưa? Những gì hay, những gì dở năm trên năm dưới, nếu rảnh ngồi lại thì ôn mãi trong đầu. Ôn tới ôn lui hoặc cười hoặc tức. Chúng ta tích lũy những thứ đó từ ngàn đời, do không chịu xổ, nên biến ra đủ thứ bệnh trạng. Rồi cứ than đau quá, khổ quá không ai cứu giùm. Phật bảo xổ không chịu xổ thì bệnh không thể cứu được.
Cuối năm, không có gì hơn là chúng ta xổ hết mọi thứ mà trọn năm đã dồn vô làm cho mình bận bịu, khổ sở. Cuối năm xổ hết thì sang năm tới chúng ta sạch bong như ngài Quảng Thanh, chỉ còn thân gầy bụng trống. Nếu không thì cứ ấm ách trong bụng và chúng ta sẽ đau khổ dài dài không biết đến bao giờ hết.
Như tôi đã nói, chúng ta có sẵn viên ngọc quí vô giá không gì bì được, mà lại vùi nó trong bụi. Bây giờ muốn viên ngọc bày ra thì phải phủi cho sạch bụi.
Ở đây chúng ta xổ hết chất độc thì tức nhiên trắng sạch, cái chân thật hiện ra. Tu là biết buông tất cả những gì đã nắm. Nếu càng tích lũy thì càng khổ đau. Cho nên người biết tu chỉ cần xả hết các thứ tích lũy thì an lành tự tại.
Thiền sư không muốn nói danh từ chuyên môn mà nói tiêu chảy. Bao nhiêu phiền não tích lũy, mình xổ được rồi thì sẽ nhẹ nhàng. Khi chúng ta sạch hết trần lao thì viên ngọc phát ánh sáng, hết phiền não là Bồ-đề hiện. Đó là chủ yếu của sự tu hành.
Tất cả chúng ta cùng tu, nguyện một đời đi tới chỗ an lành tự tại, tức là nắm được hòn ngọc của mình. Lau nó sạch, không để dính bụi bặm, thì tất cả diệu dụng hiện tiền. Đó là việc thiết yếu của người tu. Được như vậy, bao nhiêu đau khổ sẽ theo đó mà hết. Cũng như kẻ nghèo, đói khát lang thang được của quí rồi thì sẽ hết nghèo, trở thành sang cả. Đó là đường lối tu đơn giản thẳng tắt nhất để tiến đến chỗ an lạc giải thoát.
Tôi mong rằng sang năm mới này tất cả chúng ta đều xổ hết những cái cũ để tâm hồn trong trắng hầu hưởng trọn vẹn một mùa Xuân Di-lặc.
MỘT MÙA XUÂN HẠNH PHÚC
Hôm nay là ngày Tết Nguyên Đán, cũng là ngày vía đức Phật Di-lặc. Hàng Phật tử xuất gia và tại gia không quên được ngày quan trọng này. Đối với thế gian, ngày lễ Nguyên Đán là ngày dân chúng mừng năm mới. Đối với Phật pháp, ngày vía đức Phật Di-lặc là ngày rất hoan hỉ của giới xuất gia. Tất cả người tu đều có một nguyện vọng là giác ngộ viên mãn.
Ngày vía đức Phật Di-lặc đúng vào ngày mồng một Tết, ngày đầu của một năm mới, đó là thời gian hi vọng của tất cả chúng ta. Hi vọng điều gì? Hi vọng chúng ta đạt đạo, công phu tu hành đạt kết quả viên mãn. Nhớ đến ngày vía đức Phật Di-lặc, tức là nhớ đến những gì hứa hẹn ở ngày mai của chúng ta. Hứa hẹn không phải là ước nguyện suông, cầu mong hão huyền, mà chúng ta phải làm thế nào để được thọ ký như đức Phật Di-lặc. Cho nên, tới ngày đầu Xuân, hàng Phật tử thường chúc mừng: Chúc quí Thầy quí Cô hưởng một mùa Xuân Di-lặc, Xuân bất diệt, Xuân miên viễn. Lời chúc mừng đó có ý nghĩa gì? Chúng tôi sẽ lần lượt giải thích từng phần những lời chúc mừng ấy.
Trước hết là chúc một mùa Xuân Di-lặc. Hầu hết Tăng Ni cũng như Phật tử đều thấy tượng ngài Di-lặc với hình ảnh quen thuộc nhất là miệng luôn cười, gương mặt luôn vui vẻ. Như vậy chúc một mùa Xuân Di-lặc là chúc một mùa Xuân hoan hỉ, một mùa Xuân hạnh phúc. Hạnh phúc là gì? Là an vui. Mỗi gia đình hay mỗi người, trọn ngày, trọn tháng, trọn năm đều được an vui, đó gọi là hạnh phúc theo nghĩa gần, dễ thấy. Nhưng làm sao để được an vui? An và vui thế nào?
An là tâm không lo không buồn không sợ hãi. Nếu muốn được an, thì niệm vui buồn sợ hãi phải dẹp qua một bên, không lo buồn sợ hãi thì tự nhiên tâm an. Làm sao được vui? Sở dĩ chúng ta không vui là tại giận hờn bực tức. Khi vui thì không giận, khi giận thì không vui. Cho nên muốn được an vui chỉ có cách là không lo buồn, không giận hờn, tự nhiên tâm an vui. Đó là chúng ta hưởng được một mùa Xuân Di-lặc. Nếu không thì, dù là ngày mồng một Tết cũng không thấy Xuân chút nào. Đã lỡ lo sợ buồn giận thì làm sao cho hết? Nói suông không thể hết, nói suông tức là không biết tu.
Trong nhà Phật có dạy nhiều phương pháp để hết lo buồn sợ hải. Ở đây tôi chỉ nói phương pháp gần cho chúng ta ứng dụng. Khi lo buồn sợ hãi, liền đặt câu hỏi: - Cái gì lo? Rồi tự trả lời: - Cái lăng xăng. Khi lo, lo cho ai, lo cho mình, cho gia đình mình, cho chung quanh mình. Mình là cái gì? Mình là thân tứ đại giả hợp v.v... phân chia xét nét như vậy rồi, cái lo mất tiêu, vì nó không thật thì còn gì nữa để mà lo. Cái buồn cái sợ hãi cũng vậy. Phần nhiều chúng ta cứ tưởng tượng rồi sợ, mà không tìm xem sợ là cái gì? Tại sao mình sợ?
Thí dụ khi gặp con rắn chúng ta run lên vì sợ. Thử hỏi cái gì sợ? Khi đặt câu hỏi là đã hơi tỉnh, bớt sợ. Vì sao sợ? Sợ nó cắn mình. Xét cái mình này thật hay không? Xét một hồi thấy mình không thật, tâm lo sợ cũng mất. Cho nên các Tổ ngày xưa, gặp cảnh hãi hùng mà không sợ vì các ngài biết tâm sợ không thật và đối tượng để sợ cũng không thật. Đức Phật khi ngồi dưới cội bồ-đề, có con rồng chín đầu đến trước mặt phun lửa phì phì, đức Phật vẫn điềm nhiên không sợ, vì Ngài thấy rõ tâm sợ hãi không thật và đối tượng làm mình sợ cũng không thật luôn. Giả sử chúng ta gặp trường hợp đó thì kinh hoàng sợ hãi tâm không còn bình tĩnh sáng suốt. Cho nên khi gặp cảnh lo sợ, chúng ta dùng trí tuệ phân tích thì sẽ hết sợ hết lo. Nếu không quán xét, cứ theo tình cảm lo lắng thì cái lo sẽ tăng mãi đến mất ăn, mất ngủ, sanh bệnh hoạn, rốt cuộc không tới đâu cả. Đó là cái gốc nuôi dưỡng vọng tưởng.
Giờ đây nếu gặp cảnh lo buồn sợ hãi, chúng ta chịu khó nhớ lại những phương tiện Phật chỉ dạy trong các kinh như Bát Đại Nhân Giác, Bát-nhã v.v... cứ theo đó mà ứng dụng thì hết lo hết sợ. Hơn nữa muốn tâm mình an phải nhìn lại nó. Cái đang lăng xăng lộn xộn đó ở đâu? Nó là cái gì? Nhìn mãi tự nhiên nó tan hoang không còn, tức khắc mình được an ổn. Đó là phương pháp thiết yếu, chỉ có người biết ứng dụng mới thấy kết quả tốt.
Đến bực tức giận hờn làm sao cho hết? Bực tức giận hờn đố kỵ làm người ta không vui. Hạnh đức Di-lặc là hỉ xả nên Ngài cười hoài. Việc gì tới Ngài cũng cười, buông hết, không bận lòng. Cũng như chúng ta học uống “thuốc xổ”. Cứ mỗi ba tháng xổ luôn thì bụng sẽ sạch trơn. Biết buông xả thì lòng mới không bực bội. Ở đời có ai làm vừa ý mình hết đâu. Một trăm người thì tám chục người làm cho mình không vui rồi. Chừng hai mươi người mình hơi vừa ý một chút, chớ chưa hoàn toàn. Chỉ có một người có lẽ mình vừa ý hoàn toàn. Đó là ai? - Là mình. Thế mà có khi mình còn muốn rầy nó nữa. Ở thế gian này có lúc nào mình vui hoàn toàn đâu? Nếu cứ ôm ấp chuyện người này làm mình bực, người kia làm mình buồn, cứ dồn vô chứa cả một kho sân kho lửa, động đến là cháy. Chúng ta để ý, người nào đang bực bội, mà mình hỏi họ một câu, dù là câu không quan trọng, không đụng chạm gì hết, mới mở miệng hỏi là họ muốn cự với mình rồi. Vì lửa sân có sẵn bên trong, động một cái là nháng lên. Cho nên chúng ta phải biết rõ chủ yếu của bất an, không vui là tại tâm niệm ta chứa chấp cả một kho tật đố, giận hờn, sân hận. Gặp ai cũng cảm thấy hơi tức tối, bực bội. Muốn an vui chúng ta phải ứng dụng bằng hai cách:
1- Tùy hỷ để phá tâm tật đố.
Muốn tùy hỳ phải làm sao? Thí dụ người mình mến nhất, nghe người đó phát tài mình vui lây. Trái lại mình ghét nhất, nghe họ phát tài mình bực liền. Tại sao? Tại vì người mình không ưa mà họ được hơn, nên mình sanh tâm đố kỵ. Đó là tật đố. Dù cho đối với bạn thân cùng nghề với mình mà cấp trên cứ khen họ hoài mình cũng không vui. Người thù của mình được khen, mình không vui đã đành; còn người thân của mình được khen tốt, mình cũng không vui nữa. Như vậy người nào được khen tốt thì mình vui? - Chỉ có mình thôi. Nhìn thật kỹ, chúng ta thấy khó tìm được cái vui, vì lúc nào mình cũng muốn hơn thiên hạ hết. Cho nên lòng buồn hận xảy ra luôn luôn, đó là điều khó tránh. Vì vậy đức Phật dạy chúng ta muốn được vui thì phải phát tâm tùy hỉ. Tùy hỉ là vui theo người, coi người được như mình được. Người phát tài như mình phát tài, người được khen như mình được khen. Lúc đó mình mới hết tâm tức tối bực bội.
Như chúng ta thường chịu đố kỵ hơn là chịu tùy hỉ. Thấy người hơn mình thì tức, không bao giờ chấp nhận, không bao giờ vui với cái vui của người. Trong kinh đức Phật nói: Người nào phát tâm tùy hỉ thì công đức vô lượng vô biên. Người làm việc tốt được bao nhiêu công đức, mình tùy hỉ thì công đức cũng bằng với họ không thua chút nào hết. Người làm được việc tốt là đã có lòng tốt, mình tùy hỉ là phá tâm tật đố thì cũng tốt luôn. Công đức của cả hai như nhau. Cũng như cây đuốc này mồi qua cây đuốc kia, hai cây đều sáng mà không cây nào mất ánh sáng hết. Tùy hỉ cũng vậy, ai được cái gì tốt mình phát tâm vui mừng: Huynh được cái đó tốt quá, huynh sung sướng phát tài, tôi mừng tôi sung sướng như tôi phát tài vậy. Như vậy chắc chắn đời mình không nghèo. Ai sung sướng mình cũng mừng như mình được, thế nào họ cũng không bỏ mình. Khổ là, người ta được mình lại ghét, cho nên mình kiếm chuyện châm biếm, mỉa mai làm họ tức, do đó ai cũng không ưa mình hết. Vì vậy mà khổ suốt đời. Mầm an vui phát xuất từ lòng tùy hỉ, tức là biết nhìn thấy và nhận cái vui của người làm cái vui của mình. Cho nên Phật dạy: Phải phát tâm tùy hỉ, vui theo cái vui của những người chung quanh dù thân hay sơ. Chư Bồ-tát thấy một chúng sanh đau khổ, coi như mình đau khổ; thấy một chúng sanh an vui, coi như mình an vui. Chúng ta chưa bằng Bồ-tát, ít ra cũng phải tập theo hạnh đó để mang hạnh phúc đến cho mình.
Lối tu tập này không tốn công bao nhiêu mà được vui vẻ cả làng. Còn không là tự mình chuốc thêm tai họa có ích lợi gì đâu. Cho nên chúng ta cần gột bỏ hết những cái gây đau khổ để được an lành vui vẻ. Phải buông hết, đừng cố chấp thì lòng người mới nhẹ, tức là không sân không hờn và phải tùy hỷ.
2- Tỉnh giác để phá tâm sân hận.
Sân hận là tâm bệnh hoạn nhất. Động tới là nổi quạu lên la om sòm, tay chân lay động đưa đến tai họa không nhỏ. Thiền sư Đạo Thông đời Tống, một hôm Tướng công Vu Địch tới hỏi đạo. Vu Công thường tụng kinh Phổ Môn nên hỏi rằng: Thế nào là gió đen thổi thuyền trôi vào nước quỉ La-sát? Thiền sư trả lời: Kẻ khách Vu Địch hỏi việc ấy làm gì? Vu Địch liền đổi sắc. Ngài bèn nói: Cái đó là gió đen thổi thuyền trôi vào nước quỉ La-sát. Vu Địch liền hết nổi nóng. Chỗ này thật là tối quan trọng. Kinh nói: Giả sử luồng gió đen thổi thuyền trôi vào nước quỉ La-sát, lúc đó trong thuyền có người niệm Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát, thì bọn quỉ không dám lại gần. Nghe linh nghiệm như thế nên chúng ta nghĩ khi đi biển đi sông mà gặp gió to sóng lớn thì cứ niệm Quán Thế Âm Bồ-tát tức là qua hết. Nếu hiểu như vậy thì rất tội nghiệp cho kinh điển Đại thừa.

Hắc phong mà Thiền sư nói ở đây không phải là gió lớn bên ngoài. Hắc phong là luồng gió đen tự trong lòng mình dấy lên, nó thổi chiếc thuyền người tới cõi nước quỉ liền. Nghe một lời nói trái tai, nổi giận lên miệng nói lời ác, tay chân làm việc ác tức thì mình bị đưa tới cõi La-sát, phải ở tù phải khổ. Hắc phong là như vậy. Cho nên khi chúng ta nghe những lời trái tai, cơn giận vừa dấy lên thì biết đó là hắc phong thổi. Phải dừng nó lại thì nhất định không trôi đến nước quỉ, mà quỉ cũng không dám hại. Nếu lỡ bị thổi trôi đến nước quỉ, thì phải nhớ niệm Quán Thế Âm. Niệm bằng cách nào? Sở dĩ chúng ta giận vì do mắt thấy tai nghe, mà phần lớn là tai nghe những lời trái nên mới giận. Khi niệm Quán Thế Âm Bồ-tát tức là nhớ lại Tánh nghe của mình, bao nhiêu lời trái tai đều tan hết, cơn giận cũng chìm luôn. Đâu còn cái gì đưa đến nước quỉ, La-sát đâu dám ngó tới mình. Rõ ràng như vậy.
Kinh thường nói: “Bất phạ sân tâm khởi, duy khủng tự giác trì”, nghĩa là chẳng sợ tâm sân nổi lên, chỉ sợ giác chậm thôi. Giác thì tâm sân liền mất.
Như vậy, trước hết mình phải đề phòng gió dữ. Lỡ bị gió dữ rồi thì nhớ niệm Quán Thế Âm. Niệm Quán Thế Âm là nghe lại Tánh nghe, không chạy theo thanh trần tức là giác. Đó là ý nghĩa thâm trầm trong kinh. Nhiều khi chúng ta chờ tai nạn xảy ra mới niệm, mà không nhớ niệm hằng ngày. Muốn hết sân, hết hận, chúng ta phải nhớ như vậy để hằng ngày, hằng đêm dừng được bao nhiêu trận gió đen. Tỉnh giác kịp rồi thì tai nạn không đến với chúng ta, còn không tỉnh giác kịp thì thế nào rồi cũng bị quỉ xé thây. Chắc chắn như vậy không nghi. Đường lối rõ ràng như thế. Trên đây chỉ là ý nghĩa cạn của mùa Xuân Di-lặc thôi.
Đến ý nghĩa sâu hơn của mùa Xuân Di-lặc tức là mùa Xuân bất diệt mùa Xuân miên viễn. Nói đến đức Di-lặc là nói đến đức Phật sẽ thành. Đức Phật Thích-ca xác nhận rằng Ngài là Phật đã thành, còn tất cả chúng ta là Phật sẽ thành, như đức Phật Di-lặc vậy.
Phật sẽ thành là Phật ở chính nơi chúng ta, nhưng vì mình bỏ quên nên không nhận ra, như có viên ngọc quí mà không biết, cứ lo hỏi viên ngọc của đức Địa Tạng cầm trong tay. Có mà không chịu nhận là dối gạt thiên hạ.
Chúng ta còn quá lầm mê, không tự tỉnh giác nên bỏ quên ông Phật của chính mình, vì vậy phải lăn lộn trong luân hồi sanh tử. Sanh tử là biến chuyển sanh diệt, là vô thường, gốc của khổ đau. Còn luân hồi là còn khổ đau, muốn ra khỏi khổ đau thì phải thoát khỏi luân hồi sanh diệt. Đó mới là miên viễn, là bất diệt, là an vui cứu kính của con người.
Chúng ta đang sống trong vô thường sanh diệt nên luôn luôn bị bức bách ép ngặt. Thoát khỏi vô thường bức bách thì tự nhiên chúng ta an vui giải thoát.
Nói cách khác, thoát khỏi luân hồi sanh tử là sống với cái vô sanh an lạc. Vì vô sanh nên không bị dao động, hằng tỉnh táo an lạc, đó là niềm vui chân thật cũng là mùa Xuân Di-lặc bất diệt, miên viễn, mùa Xuân của Bản tâm thanh tịnh ở mỗi người. Chính đây là chỗ khao khát, ước mơ của chúng ta. Trong kinh gọi đó là Niết-bàn, an lạc tịch tĩnh. Còn hiện tại mùa Xuân của chúng ta chỉ là mùa Xuân sanh diệt, đến rồi đi qua rồi mất.
Giờ đây làm sao chúng ta hưởng được mùa Xuân bất diệt, mùa Xuân mà chính mình mong muốn? Muốn hưởng mùa Xuân bất diệt thì chúng ta phải sống với tâm bất diệt, còn tâm sanh diệt thì không bao giờ hưởng được. Trong kinh Kim Cang đức Phật dạy: “Tâm quá khứ không thể được, tâm hiện tại không thể được, tâm vị lai không thể được.” Tâm chạy theo quá khứ, hiện tại, vị lai là tâm sanh diệt. Đức Phật nói tâm đó không thể được vì nó không thật. Chúng ta đang sống với tâm nào? Với tâm quá khứ hiện tại vị lai. Tại sao tâm quá khứ không thể được? Như trước giờ nằm ngủ, chúng ta gác tay lên trán, nhớ chuyện năm ngoái năm xưa, tháng rồi tháng trước, không chịu buông, một hồi không ngủ được rồi than tôi mất ngủ. Đó là chưa kể có nhiều cuốn nhật ký đầy ắp bút tích kỷ niệm. Vì sợ ký ức nhớ không hết nên phải ghi thêm nhật ký để mai mốt có quên thì lật lại. Cái đó thuộc về quá khứ, mà quá khứ qua rồi đâu tìm lại được! Càng nghĩ càng rối cho mình thôi, nó đâu có thật mà nghĩ. Vậy mà hết một phần ba đời người chúng ta sống về quá khứ.
Còn những người trẻ thì sao? Sống với vị lai. Nghĩ bây giờ mình nhỏ quá, chưa làm được việc gì đáng kể rồi mong ước sau này mình sẽ như thế này như thế kia. Cũng mất hết phần ba cuộc đời.
Rồi một phần ba cuộc đời về sống về hiện tại. Hiện tại mà không hiện tại gì hết, nghĩa là hiện tại đầy ắp niệm tưởng suy nghĩ tính toán là khen, là chê, việc phải việc quấy. Niệm này hết thì niệm kia sanh. Cứ như vậy liên miên sanh diệt thì hiện tại đâu có.
Thế nên nghĩ đến quá khứ thì quá khứ là chuyện đã qua, nghĩ lại cái không có, cái nghĩ đó cũng là không. Cho nên quá khứ không thể được. Hiện tại hết nghĩ cái này tới cái khác, trong một ngày nghĩ không biết bao nhiêu thứ. Đó là tâm suy nghĩ sanh diệt nên không thể được. Vị lai chưa đến mà cứ phóng đại cái này cái nọ. Ngồi đó mà tưởng tượng đủ thứ. Cái chưa đến mà tưởng cũng là không tưởng, nên cũng không được luôn. Như vậy quá khứ hiện tại vị lai, ba thời đều không được. Chúng ta sống với ba cái đó là sống với cái hão huyền, không thực tế. Kiểm lại xem một ngày sống của chúng ta như thế nào?
Có chạy theo ba thời đó hay không? Nếu cả ngày sống với tâm chạy theo đó thì chúng ta đã mất tâm rồi. Gọi là tâm mà thật sự tâm đã mất. Sống với tâm sanh diệt thì có gì thật đâu. Hằng ngày chúng ta nói sống cho mình mà thật đã mất mình. Chỉ sống với ba cái tâm chết rất là đáng thương. Ba cái không có đó mà ráp lại thành cái có để sống, tuy nói sống mà thật ra không sống gì hết. Có gì mà hãnh diện.
Như vậy phải làm sao? Tôi nhắc lại muốn hưởng mùa Xuân bất diệt thì tâm mình cũng phải bất diệt. Mà muốn bất diệt thì phải bất sanh, tức không chạy theo cái sanh diệt thì tâm mình lặng lẽ thanh tịnh.
Thiền sư Thiền Lão diễn tả điều này rất rõ. Khi vua Lý Nhân Tông vào núi gặp Ngài, hỏi: Hòa thượng bao nhiêu tuổi? Ngài đáp:
Đản tri kim nhật nguyệt
Thùy thức cựu xuân thu.
Nghĩa là chỉ biết ngày nay thôi, còn bao nhiêu năm trước ai đâu nhớ. Như vậy Ngài không sống với tâm quá khứ, chỉ biết có ngày nay. Sống với ngày nay đó là sống với tâm lặng lẽ hiện tiền. Vua Lý Nhân Tông hỏi tiếp: Hòa thượng ở đây làm gì? Ngài trả lời:
Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh
Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân.
Nghĩa là trúc biếc hoa vàng đều là cảnh chân thật, trăng trong mây bạc đều hiện chân thể hoàn toàn. Như vậy những gì hiện bày trước mắt Ngài đều là mùa Xuân miên viễn. Sống như thế mới thật là sống. Còn chúng ta hiện nay sống mà không thật sống. Chỉ khi nào không chạy theo cái suy tính phân biệt, sống với tâm thanh tịnh thản nhiên đó mới gọi là sống ngày nay biết ngày nay. Với tâm thanh thản lặng lẽ, nhìn muôn vật hiện có trước mắt đều là một màu chân thật, như như, không sanh không diệt, đó mới là mùa Xuân miên viễn, bất diệt, nhìn đâu cũng nên thơ, không thấy có lò lửa địa ngục, để than trách như chúng ta bây giờ. Thấy hoa cúc, thấy trăng, thấy mây, thấy cái gì cũng đều là Xuân rạng rỡ. Các Thiền sư nhìn đâu cũng thấy một mùa Xuân tràn trề, không cần tìm kiếm, không cần chờ đến tháng giêng mới có mùa Xuân.
Đức Di-lặc đã hưởng mùa Xuân đó rồi, cho nên Ngài cười hoài. Chúng ta tu hành cốt làm sao hưởng được mùa Xuân như thế, mùa Xuân thú vị, đẹp đẽ nhất mà người xưa đã hưởng.
Để kết thúc, tôi dẫn thêm Thiền sư Thiên Tùng, trong ngày đầu năm Ngài làm thơ dạy chúng, tựa là Tuế Triêu.
Kim tiêu tận đạo thiêm nhất tuế
Ngô đạo như kim giảm nhất niên
Tăng giảm khứ lai vô định số
Duy năng tiêu tận thế gian duyên
Tất tu thức đắc duyên trung chủ
Bách thiên vạn kiếp thường như nhiên
Vô tăng vô giảm như hà đạo
Nhất cú hà tu dụng khẩu truyền.
Dịch:
Sáng nay đều nói thêm một tuổi
Tôi bảo hôm nay bớt một năm
Thêm bớt lại qua số khôn tính
Chỉ hay dứt sạch duyên thế gian
Cốt là trong duyên biết được chủ
Trăm ngàn ức kiếp thường như nhiên
Không bớt không thêm làm sao nói
Một câu nào thiết dùng miệng truyền.
Ngài Thiên Tùng giải thích quá rõ ràng. Đến ngày mồng một Tết chúng ta đều nói chúc thầy cô thêm một tuổi thọ, chớ có ai chúc thầy cô mất một tuổi thọ đâu. Quả thật chúng ta đã mất một năm rồi. Nếu tuổi thọ chúng ta là sáu mươi, năm rồi năm mươi ba, năm nay năm mươi bốn, thì tuổi thọ đã bớt đi một năm. Qua một năm là bớt, tại sao lại nói thêm? Người đời chỉ nghĩ theo chiều thêm mà quên nghĩa bớt. Vì vậy Ngài nói “sáng nay đều nói thêm một tuổi, tôi bảo hôm nay bớt một năm”. Rõ ràng như vậy, nhưng có ai gan dạ thấy thế đâu. “Thêm bớt lại qua số khôn tính” là thêm bớt qua lại số không nhất định, nói thêm cũng được, nói bớt cũng được. Tính theo chiều sáu mươi để trừ lại thì thấy bớt, theo chiều năm mươi mấy cộng lại thì thấy thêm. Vì có cộng có trừ nên có thêm có bớt. Thật ra không biết nói thế nào cho đúng, nên Ngài nói con số không nhất định. Điều quan trọng là “chỉ hay dứt sạch duyên thế gian” tức là chỉ người tiêu sạch duyên thế gian giống như người tiêu chảy sạch hết, bụng trống rỗng. Nhưng chưa đủ còn phải thêm “cốt là trong duyên biết được chủ” tức là cần phải biết được Ông chủ trong các duyên đó, biết Ông chủ mới là điều tối thiết yếu. “Trăm ngàn ức kiếp thường như nhiên” tức biết được Ông chủ rồi thì trăm ngàn muôn kiếp đều như vậy. Chính đó là mùa Xuân bất diệt. Tất cả quá khứ hiện tại vị lai đều không biến chuyển. “Không bớt không thêm làm sao nói”, Ông chủ đó trăm ngàn muôn kiếp vẫn như nhiên, không thêm cũng không bớt. Thế gian có thêm có bớt nên nói được, còn đến chỗ không thêm không bớt thì nói cái gì? “Một câu nào thiết dùng miệng truyền”, một câu duy nhất đó đâu cần dùng miệng nói với nhau. Chỉ người nhận được, thấy được, sống được thì hưởng được mùa Xuân bất diệt. Chớ dùng lời thì nói không đến.
Thế nên đầu năm nay tôi không biết chúc câu gì, chỉ tạm chúc quý vị một mùa Xuân Di lặc tùy theo nhận thức của mỗi người. Ráng hưởng cho được, đừng để ba tháng Xuân mất rồi tới Thu tới Đông, lại trông đến Xuân nữa, cực lắm. Phải luôn luôn hưởng mùa Xuân Di lặc, lúc nào cũng là Xuân, dù sống trong cảnh nào gặp nhau chúng ta cũng cười. Như vậy là hạnh phúc ngay ở trần gian.
Thanh Từ
Theo http://www.truclambachma.net/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Một chuyến hoa xuân

Một chuyến hoa xuân Nhà văn trẻ Trác Diễm vừa trở thành hội viên mới Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Chị sinh năm 1988 ở Quảng Bình, bắt đầ...