CÁI GÌ RỒI CŨNG ĐẾN,
ĐẾN RỒI QUA, QUA RỒI MẤT
Tất niên Kỷ Mùi - 1980
Ngày Tất niên năm nay, tôi nói một đề tài hết sức bình dân Cái gì rồi cũng đến, đến rồi qua, qua rồi mất.
Tất cả chúng ta ai cũng như ai, sáng sớm thức dậy, nhớ đây là sáng, nghĩ đến chiều thấy như xa. Nhưng rồi lụi hụi làm vài công tác là đến trưa, sau bữa cơm trưa loanh quanh đến chiều, rồi tối. Như vậy nhìn từ sáng đến chiều dường như xa, cái xa đó rồi cũng đến, đến rồi qua. Sáng hôm sau tìm lại ngày hôm qua đã mất. Mồng một chúng ta thấy cuối tháng dường như xa, nhưng loanh quanh tới rằm rồi tới ba mươi. Như vậy, ngày ba mươi thấy xa, nhưng rồi cũng đến, đến rồi qua, qua rồi mất. Đầu năm chúng ta nghĩ đến cuối năm thấy thời gian dường như rất dài, nhưng ngày qua ngày cuối năm cũng đến. Ngày cuối năm rồi sẽ qua, qua rồi mất. Đó là nói về thời gian.
Một ngày sáng trưa chiều tối, khi đã qua rồi không còn trở lại với chúng ta nữa. Nhưng trong ngày đó, nếu chúng ta đóng một cái bàn, trồng một luống rau, hoặc viết một trang sách, việc chúng ta làm vẫn còn. Một ngày qua, chúng ta đã làm cho nhiều người buồn, giận, dù ngày đó qua mất, hôm sau gặp lại những người ấy, họ có hết buồn chưa? Như vậy thời gian qua rồi mất không bao giờ trở lại, nhưng những gì chúng ta đã làm chưa mất hẳn, nó còn có mặt với chúng ta ở ngày mai. Nếu muốn ngày mai ai gặp chúng ta cũng vui vẻ, thân mật, thì hôm nay chúng ta phải làm sao? Nếu gặp người nào chúng ta cũng thách đố, mắng chửi, thì ngày mai khi gặp lại họ chúng ta sẽ thế nào?
Chúng ta đâu cần hỏi xem ngày mai tốt hay xấu, được nhiều người thương hay không? Chỉ cần nhớ ngày qua ta đã làm gì cho người, thì hôm nay những điều đó tự nhiên sẽ đến với chúng ta. Đó là một lẽ thật mà thế gian không chịu nhớ. Ngày hôm qua chửi người ta, mà ngày nay gặp lại muốn ai cũng vui vẻ với mình. Thật không bao giờ có. Chuyện một ngày như thế, chuyện một năm cũng vậy.
Nếu một năm chúng ta làm toàn những điều dở, điều xấu, rồi đến đầu năm lại đem ít tiền, nhang đèn, bánh trái tới chùa, cúng sao cúng hạn để cho trọn năm được bình an, sung sướng thì có được không? Tại sao chúng ta không đem sự an vui đến cho mình cho người, lại làm những điều xấu xa rồi hoảng sợ, cầu cạnh mong mỏi không muốn gặp đau khổ. Chúng ta không cố tránh nhân đau khổ lại mong khỏi quả đau khổ, thì không thể được.
Như vậy một năm qua nếu ngày nào chúng ta cũng làm cho người xung quanh được vui vẻ, ngày nào cũng giúp đỡ, đem lại sự an ổn cho mọi người thì năm tới những người ấy không thể nào trở nên thù địch muốn hại chúng ta được. Nếu qua một năm chúng ta được cảm tình, được thương mến thì năm tới chúng ta sẽ gặp điều tốt. Giả sử chúng ta bị bệnh hoặc gặp một bất hạnh nào, thì những người sẵn có cảm tình với chúng ta, có thể người thì lo thuốc men, kẻ thì mách bảo thầy, hoặc giúp đỡ gia quyến chúng ta trong lúc khó khăn, gánh vác những việc nặng nhọc giúp chúng ta. Những cái không may cho bản thân chúng ta không phải là không đến, nhưng khi được mọi người mến yêu, thì những bất hạnh cũng được nhẹ đi đôi phần.
Ngược lại, nếu trong một năm chúng ta gây toàn thù hận ác cảm, phiền toái phức tạp cho mọi người thì năm tới, dù không nói ai cũng biết, chỉ thấy toàn khổ đau và bực bội. Như vậy mỗi người chúng ta phải làm gì để sang năm mới gặp những điều tốt đẹp, chớ không thể mặc tình làm gì thì làm, rồi đợi đến đầu năm đi cúng sao cúng hạn để được một năm bình an. Chúng ta là những người biết đạo, biết lẽ thật, không chấp nhận những gì huyền hoặc không đâu. Nếu năm rồi chúng ta làm những gì tốt đẹp hay xấu xa thì năm tới chúng ta phải chịu một phần ảnh hưởng chớ không thể nào tránh khỏi. Đó là điều mà mọi người chúng ta đều ý thức được.
Lẽ thật của một ngày, một năm, đến cả một đời không khác nhau. Chúng ta biết được một ngày thì có thể biết được một năm, biết được một năm thì có thể biết được một đời. Nếu một đời tạo toàn những điều tốt lành, thì đời sau chúng ta trở lại, cũng trong hoàn cảnh tốt lành. Nếu một đời chúng ta gây toàn đau khổ, phiền hận, thì sau này tránh đâu cho khỏi phiền hận khổ đau. Cho nên chúng ta phải lợi dụng thời gian để tạo những tốt đẹp cho mình cho người, đó chính là sự bảo đảm an ổn vui vẻ cho chúng ta trong năm tới, và cho cả đời sau nữa.
Bằng không chúng ta sẽ hối hận vì đã để cuộc đời trôi qua một cách vô ích. Nói đến thời gian trôi qua rồi mất, tôi có thể tượng trưng thời gian là một xâu chuỗi, một ngày qua là một hạt chuỗi, chúng ta cứ lần, hạt này đến hạt khác, tay còn lần chuỗi thì không hạt nào dừng lại. Tràng chuỗi này không phải là một trăm lẻ tám mà là ba trăm sáu mươi lăm hạt. Như vậy năm này ngày này chúng ta đã lần hết ba trăm sáu mươi lăm hạt tức là đã qua một năm rồi.
Để rõ hơn tôi kể lại trường hợp của những người gần gũi tôi nhất. Như mẹ tôi chỉ lần được năm mươi sáu tràng rồi buông tay, chuỗi mất mà người cũng mất. Cha tôi chỉ lần được bảy mươi chín tràng rồi buông tay, chuỗi mất người cũng mất. Thầy tôi chỉ lần được năm mươi lăm tràng rồi buông tay, chuỗi mất người cũng mất. Sư ông tôi chỉ lần được sáu mươi mốt tràng rồi buông tay, chuỗi và người tìm lại không được nữa. Rồi đến phiên tôi, tôi chưa biết lần được mấy chục tràng!
Mỗi xâu chuỗi lần qua rồi mất, mất cả chuỗi lẫn người lần chuỗi. Xâu chuỗi đó gọi là xâu chuỗi mộng. Người lần chuỗi cũng là người mộng. Chuỗi mộng mất, người mộng không còn. Tất cả mọi người đang sống trong mộng mà không ai biết nên tranh nhau từ lời nói, hành động, đến miếng ăn, cái mặc, rồi dồn đau khổ cho nhau. Cuộc đời là mộng, mà không đánh thức cảnh tỉnh nhau, lại gây thêm đau khổ. Tự mình đã khổ, còn làm khổ cho người, thật là đáng thương!
Thời gian đã là mộng ảo, cuộc đời cũng là mộng ảo. Người trước, người đồng thời và cả bản thân chúng ta đều là mộng. Tại sao chúng ta không thức giấc mộng đó mà cứ hết mộng này tạo mộng khác, mộng mộng chập chùng? Nếu người nằm mộng khi tỉnh dậy, biết những hình ảnh, người, vật đã thấy chỉ là mộng. Biết như vậy rồi, giấc mộng đó không còn.
Tuy nhiên có người tỉnh rồi mà lại mộng nữa. Như ta đang ngủ, nằm mơ giật mình thức dậy biết hồi nãy là mộng, nhưng cứ nhắm mắt ngủ nữa. Mộng thứ nhất mất, mộng thứ hai tiếp, mộng thứ ba và nhiều mộng nữa. Chúng ta phải gan dạ, khi tỉnh mộng liền trỗi dậy đốt đèn lên, hoặc tọa thiền làm việc, thì không còn mộng nào tiếp nối. Nếu chúng ta biết là mộng mà cứ nằm dài nhắm mắt thì hết mộng này đến mộng kia, không phải tỉnh một cơn mộng là hết mộng.
Chúng ta nhận thức rõ ràng cuộc đời là ảo mộng, vì như tôi đã nói, đầu năm thấy cuối năm là xa, nhưng rồi cuối năm cũng sẽ đến. Rồi ngày mai nó qua, qua rồi mất. Đến cuối năm khác cũng qua rồi mất. Ông bà, cha mẹ chúng ta sống đó rồi mất đó, khi mất đi chúng ta không thấy hình bóng thân yêu đó trở lại. Đến lượt chúng ta, hiện có đây, nhưng rồi ngày đó sẽ đến với chúng ta, không còn xa nữa. Đến rồi qua, qua rồi mất. Sự hiện hữu của chúng ta ngày nay quả là mộng. Nếu là thật thì nó đâu bị qua, đâu bị mất. Vậy thì, trong khi chúng ta đang sống trong mộng, phải biết là mộng. Biết mộng tức là chúng ta đã tỉnh. Đó là điều thiết yếu của cuộc đời mà cũng chính là then chốt trong sự tu hành của chúng ta. Người xưa nói:
Tại mộng na tri mộng thị hư
Tỉnh lai phương giác mộng trung vô
Mê thời kháp tợ mộng trung sự
Giác liễu hoàn đồng thùy khởi phu.
Đang trong mộng ai biết mộng là hư dối. Như chúng ta bây giờ làm sao nói là hư dối được.
Tỉnh rồi mới biết rõ việc trong mộng là không.
Khi mê thấy thân cảnh là thật, cũng như trong mộng thấy mọi sự đều thật.
Giác ngộ rồi cũng giống như người ngủ đã thức giấc vậy thôi.
Người xưa đã nhắc nhở chúng ta biết rõ mình đang sống trong mộng. Nếu biết như thế thì đó là tỉnh cơn mộng, còn cho cảnh và người là thật, đó là mình đang say mê trong mộng. Như vậy biết rõ mộng là hư dối, không thật thì hoàn toàn thức tỉnh, tự nhiên chúng ta thoát khỏi cơn mộng. Mê và giác không xa, chẳng khác nào người ngủ mê và thức giấc. Chúng ta học đạo giác ngộ thì mỗi năm, mỗi ngày, mỗi lúc đều phải tỉnh giác, đừng để cơn mộng lôi kéo mà phải chịu khổ đau phiền muộn.
Thiền sư hiệu là Hổ Khưu Thiệu Long cũng nói về mộng:
Thoát thân dĩ hiểu Nam Kha mộng
Thử giác nhân gian vạn sự không
Xuy khứ hoàn hương vô không địch
Tịch dương tà chiếu bích vân hồng.
Câu đầu Ngài nói, khi mình thoát thân, tức là thoát khỏi mê chấp về thân, thì mới hiểu rằng cuộc đời là một giấc mộng, giấc Nam Kha mà thôi. Câu kế Ngài nói tất cả nhân gian này muôn việc trở về không, có đó rồi mất đó, không lâu dài không bền chắc. Biết rõ nhân gian vạn sự không, thì chúng ta làm gì đây? Chúng ta thành không luôn sao? Không phải như vậy. Ngài nói tiếp: Thổi lên khúc nhạc hoàn hương bằng ống sáo không lỗ. Nghe lạ tai quá, sáo không lỗ làm sao mà thổi? Đã biết cuộc đời là mộng là không thì chúng ta nên trở về quê, trở về cố hương mà lâu rồi chúng ta đã bỏ quên. Trở về bằng cách nào? Bằng khúc nhạc hoàn hương thổi từ ống sáo không lỗ. Đó là tiếng sáo của nhà Thiền, như bao nhiêu tiếng hét, bao nhiêu câu nói của Thiền sư. Nói mà không lưu dấu vết, không cho chấp nê.
Câu cuối là hình ảnh ánh nắng chiều xuyên qua những đám mây xanh biến thành ráng đỏ, một cảnh trời chiều đẹp vô cùng.
Qua bốn câu thơ đó, Thiền sư muốn nói gì với chúng ta?
Trước hết phải thấy cuộc đời là giấc mộng Nam Kha. Sau đó thấy thế gian muôn sự đều trở về không. Đó là bước đầu để chúng ta trở về quê hương cũ. Nếu chúng ta biết trở về quê hương cũ, thì vạn vật trở nên tươi đẹp, hạnh phúc an lành sẽ đến với chúng ta.
ĐẾN RỒI QUA, QUA RỒI MẤT
Tất niên Kỷ Mùi - 1980
Ngày Tất niên năm nay, tôi nói một đề tài hết sức bình dân Cái gì rồi cũng đến, đến rồi qua, qua rồi mất.
Tất cả chúng ta ai cũng như ai, sáng sớm thức dậy, nhớ đây là sáng, nghĩ đến chiều thấy như xa. Nhưng rồi lụi hụi làm vài công tác là đến trưa, sau bữa cơm trưa loanh quanh đến chiều, rồi tối. Như vậy nhìn từ sáng đến chiều dường như xa, cái xa đó rồi cũng đến, đến rồi qua. Sáng hôm sau tìm lại ngày hôm qua đã mất. Mồng một chúng ta thấy cuối tháng dường như xa, nhưng loanh quanh tới rằm rồi tới ba mươi. Như vậy, ngày ba mươi thấy xa, nhưng rồi cũng đến, đến rồi qua, qua rồi mất. Đầu năm chúng ta nghĩ đến cuối năm thấy thời gian dường như rất dài, nhưng ngày qua ngày cuối năm cũng đến. Ngày cuối năm rồi sẽ qua, qua rồi mất. Đó là nói về thời gian.
Một ngày sáng trưa chiều tối, khi đã qua rồi không còn trở lại với chúng ta nữa. Nhưng trong ngày đó, nếu chúng ta đóng một cái bàn, trồng một luống rau, hoặc viết một trang sách, việc chúng ta làm vẫn còn. Một ngày qua, chúng ta đã làm cho nhiều người buồn, giận, dù ngày đó qua mất, hôm sau gặp lại những người ấy, họ có hết buồn chưa? Như vậy thời gian qua rồi mất không bao giờ trở lại, nhưng những gì chúng ta đã làm chưa mất hẳn, nó còn có mặt với chúng ta ở ngày mai. Nếu muốn ngày mai ai gặp chúng ta cũng vui vẻ, thân mật, thì hôm nay chúng ta phải làm sao? Nếu gặp người nào chúng ta cũng thách đố, mắng chửi, thì ngày mai khi gặp lại họ chúng ta sẽ thế nào?
Chúng ta đâu cần hỏi xem ngày mai tốt hay xấu, được nhiều người thương hay không? Chỉ cần nhớ ngày qua ta đã làm gì cho người, thì hôm nay những điều đó tự nhiên sẽ đến với chúng ta. Đó là một lẽ thật mà thế gian không chịu nhớ. Ngày hôm qua chửi người ta, mà ngày nay gặp lại muốn ai cũng vui vẻ với mình. Thật không bao giờ có. Chuyện một ngày như thế, chuyện một năm cũng vậy.
Nếu một năm chúng ta làm toàn những điều dở, điều xấu, rồi đến đầu năm lại đem ít tiền, nhang đèn, bánh trái tới chùa, cúng sao cúng hạn để cho trọn năm được bình an, sung sướng thì có được không? Tại sao chúng ta không đem sự an vui đến cho mình cho người, lại làm những điều xấu xa rồi hoảng sợ, cầu cạnh mong mỏi không muốn gặp đau khổ. Chúng ta không cố tránh nhân đau khổ lại mong khỏi quả đau khổ, thì không thể được.
Như vậy một năm qua nếu ngày nào chúng ta cũng làm cho người xung quanh được vui vẻ, ngày nào cũng giúp đỡ, đem lại sự an ổn cho mọi người thì năm tới những người ấy không thể nào trở nên thù địch muốn hại chúng ta được. Nếu qua một năm chúng ta được cảm tình, được thương mến thì năm tới chúng ta sẽ gặp điều tốt. Giả sử chúng ta bị bệnh hoặc gặp một bất hạnh nào, thì những người sẵn có cảm tình với chúng ta, có thể người thì lo thuốc men, kẻ thì mách bảo thầy, hoặc giúp đỡ gia quyến chúng ta trong lúc khó khăn, gánh vác những việc nặng nhọc giúp chúng ta. Những cái không may cho bản thân chúng ta không phải là không đến, nhưng khi được mọi người mến yêu, thì những bất hạnh cũng được nhẹ đi đôi phần.
Ngược lại, nếu trong một năm chúng ta gây toàn thù hận ác cảm, phiền toái phức tạp cho mọi người thì năm tới, dù không nói ai cũng biết, chỉ thấy toàn khổ đau và bực bội. Như vậy mỗi người chúng ta phải làm gì để sang năm mới gặp những điều tốt đẹp, chớ không thể mặc tình làm gì thì làm, rồi đợi đến đầu năm đi cúng sao cúng hạn để được một năm bình an. Chúng ta là những người biết đạo, biết lẽ thật, không chấp nhận những gì huyền hoặc không đâu. Nếu năm rồi chúng ta làm những gì tốt đẹp hay xấu xa thì năm tới chúng ta phải chịu một phần ảnh hưởng chớ không thể nào tránh khỏi. Đó là điều mà mọi người chúng ta đều ý thức được.
Lẽ thật của một ngày, một năm, đến cả một đời không khác nhau. Chúng ta biết được một ngày thì có thể biết được một năm, biết được một năm thì có thể biết được một đời. Nếu một đời tạo toàn những điều tốt lành, thì đời sau chúng ta trở lại, cũng trong hoàn cảnh tốt lành. Nếu một đời chúng ta gây toàn đau khổ, phiền hận, thì sau này tránh đâu cho khỏi phiền hận khổ đau. Cho nên chúng ta phải lợi dụng thời gian để tạo những tốt đẹp cho mình cho người, đó chính là sự bảo đảm an ổn vui vẻ cho chúng ta trong năm tới, và cho cả đời sau nữa.
Bằng không chúng ta sẽ hối hận vì đã để cuộc đời trôi qua một cách vô ích. Nói đến thời gian trôi qua rồi mất, tôi có thể tượng trưng thời gian là một xâu chuỗi, một ngày qua là một hạt chuỗi, chúng ta cứ lần, hạt này đến hạt khác, tay còn lần chuỗi thì không hạt nào dừng lại. Tràng chuỗi này không phải là một trăm lẻ tám mà là ba trăm sáu mươi lăm hạt. Như vậy năm này ngày này chúng ta đã lần hết ba trăm sáu mươi lăm hạt tức là đã qua một năm rồi.
Để rõ hơn tôi kể lại trường hợp của những người gần gũi tôi nhất. Như mẹ tôi chỉ lần được năm mươi sáu tràng rồi buông tay, chuỗi mất mà người cũng mất. Cha tôi chỉ lần được bảy mươi chín tràng rồi buông tay, chuỗi mất người cũng mất. Thầy tôi chỉ lần được năm mươi lăm tràng rồi buông tay, chuỗi mất người cũng mất. Sư ông tôi chỉ lần được sáu mươi mốt tràng rồi buông tay, chuỗi và người tìm lại không được nữa. Rồi đến phiên tôi, tôi chưa biết lần được mấy chục tràng!
Mỗi xâu chuỗi lần qua rồi mất, mất cả chuỗi lẫn người lần chuỗi. Xâu chuỗi đó gọi là xâu chuỗi mộng. Người lần chuỗi cũng là người mộng. Chuỗi mộng mất, người mộng không còn. Tất cả mọi người đang sống trong mộng mà không ai biết nên tranh nhau từ lời nói, hành động, đến miếng ăn, cái mặc, rồi dồn đau khổ cho nhau. Cuộc đời là mộng, mà không đánh thức cảnh tỉnh nhau, lại gây thêm đau khổ. Tự mình đã khổ, còn làm khổ cho người, thật là đáng thương!
Thời gian đã là mộng ảo, cuộc đời cũng là mộng ảo. Người trước, người đồng thời và cả bản thân chúng ta đều là mộng. Tại sao chúng ta không thức giấc mộng đó mà cứ hết mộng này tạo mộng khác, mộng mộng chập chùng? Nếu người nằm mộng khi tỉnh dậy, biết những hình ảnh, người, vật đã thấy chỉ là mộng. Biết như vậy rồi, giấc mộng đó không còn.
Tuy nhiên có người tỉnh rồi mà lại mộng nữa. Như ta đang ngủ, nằm mơ giật mình thức dậy biết hồi nãy là mộng, nhưng cứ nhắm mắt ngủ nữa. Mộng thứ nhất mất, mộng thứ hai tiếp, mộng thứ ba và nhiều mộng nữa. Chúng ta phải gan dạ, khi tỉnh mộng liền trỗi dậy đốt đèn lên, hoặc tọa thiền làm việc, thì không còn mộng nào tiếp nối. Nếu chúng ta biết là mộng mà cứ nằm dài nhắm mắt thì hết mộng này đến mộng kia, không phải tỉnh một cơn mộng là hết mộng.
Chúng ta nhận thức rõ ràng cuộc đời là ảo mộng, vì như tôi đã nói, đầu năm thấy cuối năm là xa, nhưng rồi cuối năm cũng sẽ đến. Rồi ngày mai nó qua, qua rồi mất. Đến cuối năm khác cũng qua rồi mất. Ông bà, cha mẹ chúng ta sống đó rồi mất đó, khi mất đi chúng ta không thấy hình bóng thân yêu đó trở lại. Đến lượt chúng ta, hiện có đây, nhưng rồi ngày đó sẽ đến với chúng ta, không còn xa nữa. Đến rồi qua, qua rồi mất. Sự hiện hữu của chúng ta ngày nay quả là mộng. Nếu là thật thì nó đâu bị qua, đâu bị mất. Vậy thì, trong khi chúng ta đang sống trong mộng, phải biết là mộng. Biết mộng tức là chúng ta đã tỉnh. Đó là điều thiết yếu của cuộc đời mà cũng chính là then chốt trong sự tu hành của chúng ta. Người xưa nói:
Tại mộng na tri mộng thị hư
Tỉnh lai phương giác mộng trung vô
Mê thời kháp tợ mộng trung sự
Giác liễu hoàn đồng thùy khởi phu.
Đang trong mộng ai biết mộng là hư dối. Như chúng ta bây giờ làm sao nói là hư dối được.
Tỉnh rồi mới biết rõ việc trong mộng là không.
Khi mê thấy thân cảnh là thật, cũng như trong mộng thấy mọi sự đều thật.
Giác ngộ rồi cũng giống như người ngủ đã thức giấc vậy thôi.
Người xưa đã nhắc nhở chúng ta biết rõ mình đang sống trong mộng. Nếu biết như thế thì đó là tỉnh cơn mộng, còn cho cảnh và người là thật, đó là mình đang say mê trong mộng. Như vậy biết rõ mộng là hư dối, không thật thì hoàn toàn thức tỉnh, tự nhiên chúng ta thoát khỏi cơn mộng. Mê và giác không xa, chẳng khác nào người ngủ mê và thức giấc. Chúng ta học đạo giác ngộ thì mỗi năm, mỗi ngày, mỗi lúc đều phải tỉnh giác, đừng để cơn mộng lôi kéo mà phải chịu khổ đau phiền muộn.
Thiền sư hiệu là Hổ Khưu Thiệu Long cũng nói về mộng:
Thoát thân dĩ hiểu Nam Kha mộng
Thử giác nhân gian vạn sự không
Xuy khứ hoàn hương vô không địch
Tịch dương tà chiếu bích vân hồng.
Câu đầu Ngài nói, khi mình thoát thân, tức là thoát khỏi mê chấp về thân, thì mới hiểu rằng cuộc đời là một giấc mộng, giấc Nam Kha mà thôi. Câu kế Ngài nói tất cả nhân gian này muôn việc trở về không, có đó rồi mất đó, không lâu dài không bền chắc. Biết rõ nhân gian vạn sự không, thì chúng ta làm gì đây? Chúng ta thành không luôn sao? Không phải như vậy. Ngài nói tiếp: Thổi lên khúc nhạc hoàn hương bằng ống sáo không lỗ. Nghe lạ tai quá, sáo không lỗ làm sao mà thổi? Đã biết cuộc đời là mộng là không thì chúng ta nên trở về quê, trở về cố hương mà lâu rồi chúng ta đã bỏ quên. Trở về bằng cách nào? Bằng khúc nhạc hoàn hương thổi từ ống sáo không lỗ. Đó là tiếng sáo của nhà Thiền, như bao nhiêu tiếng hét, bao nhiêu câu nói của Thiền sư. Nói mà không lưu dấu vết, không cho chấp nê.
Câu cuối là hình ảnh ánh nắng chiều xuyên qua những đám mây xanh biến thành ráng đỏ, một cảnh trời chiều đẹp vô cùng.
Qua bốn câu thơ đó, Thiền sư muốn nói gì với chúng ta?
Trước hết phải thấy cuộc đời là giấc mộng Nam Kha. Sau đó thấy thế gian muôn sự đều trở về không. Đó là bước đầu để chúng ta trở về quê hương cũ. Nếu chúng ta biết trở về quê hương cũ, thì vạn vật trở nên tươi đẹp, hạnh phúc an lành sẽ đến với chúng ta.
NHỮNG CÁI VUI TRONG ĐẠO PHẬT
Xuân Canh Thân - 1980
Trong nhà Phật ngày mồng một là ngày vía đức Di-lặc. Đức Di-lặc hiện tại là một vị Bồ-tát, nhưng mà tương lai sẽ là Phật. Cho nên khi nãy chúng ta lễ Ngài là “Đương lai hạ sanh Di-lặc Tôn Phật”. Chúng tôi gọi Ngài là Phật, vì là một vị Phật sẽ đến, sẽ thành, còn gọi Ngài là Bồ-tát vì là vị Bồ-tát hiện tại. Phần nhiều ở chùa đến ngày này đều cử lễ vía Ngài. Đó là một thông lệ nhưng mang nhiều ý nghĩa quan trọng. Người thế gian ai cũng quan trọng ngày đầu năm, cho đó là ngày chứa đựng đầy đủ ý nghĩa trong một năm. Vì vậy mọi hành động, ngôn ngữ ý niệm đều được dè dặt, dè dặt từ cử chỉ lời nói, việc làm, để giữ gìn một năm đầy tốt đẹp.
Ở đây trong nhà Phật, chúng ta gọi ngày đầu năm là ngày vía đức Di-lặc. Ngài là hình ảnh đẹp đẽ vui tươi mà ai cũng đều nhớ đều thấy. Nhìn gương mặt của Ngài, bao giờ cũng thấy Ngài nở một nụ cười, gọi là nụ cười Di-lặc. Nụ cười đó không bị thời gian giới hạn. Lúc nào quí vị nhìn thấy tượng Ngài đều là cười. Thuở bé quí vị thấy Ngài cười, đến già cũng thấy Ngài cười, cho đến chúng ta tắt thở cũng thấy Ngài cười. Nụ cười đó là nụ cười Di-lặc.
Đáng lý đề tài chúng tôi nói chuyện hôm nay lấy tên là “Nụ cười Di-lặc”, nhưng nói như vậy thì sợ e nó khuôn trong một hình thức nhỏ. Cho nên chúng tôi chọn đề tài tương xứng với ngày đầu Xuân, tức là ngày vui của dân tộc, của mọi cá nhân, cũng là ngày vui trong đạo, tức là ngày đón mừng một vị Bồ-tát sắp thành Phật ở mai sau.
Đón mừng Bồ-tát Di-lặc, một vị sẽ thành Phật, đó là hình ảnh bên ngoài. Còn hình ảnh bên trong tức là đón mừng những người Phật tử, những người con Phật mai kia cũng sẽ thành Phật. Đó là hi vọng tràn trề chứa đựng bao nhiêu cái đẹp đẽ của tương lai. Cho nên ngày đầu Xuân cũng là ngày vui của chúng ta, cũng là một ngày hứa hẹn chúng ta sẽ toàn giác thành Phật. Vì vậy đề tài hôm nay là Những cái vui trong đạo Phật. Nó hơi tầm thường một chút, nhưng nó rộng rãi để quí vị nghe cho rõ.
Người đời có quan niệm rằng đạo Phật chán đời yếm thế làm gì có cái vui. Không ngờ trong đạo Phật chứa tràn trề niềm vui, những niềm vui đó phát xuất từ cạn đến sâu.
1- Cái vui của người Phật tử đến chùa là tập cái vui “tùy hỉ”, hỉ là mừng, tùy là theo. Khi chúng ta nhìn thấy một người bạn hay một kẻ thân làm một điều lành, một việc phải thì chúng ta phát tâm vui theo. Người làm vui năm, chúng ta cũng vui được năm; người làm vui mười, chúng ta cũng vui mười. Vui theo việc làm lành làm phải của người bạn người thân, cho đến những người đồng đạo của chúng ta. Chúng ta phát được niềm vui đó, thì công đức cũng bằng của người làm việc phải, việc thiện. Nói như vậy quí vị không khỏi nghi ngờ. Thí dụ: Người ta đem mười đồng bạc tới chùa cúng Tăng hay cúng Tam Bảo, mình không có đồng xu nào hết, thấy người ta cúng Tam Bảo họ vui, mình cũng vui theo, thì công đức của người cúng mười đồng với công đức của người vui theo bằng nhau. Mới nghe qua như bất công bằng vì mình không tốn một xu nào mà lại công đức bằng. Nhưng đức Phật nói công đức bằng nhau. Có người hỏi: Bạch Thế Tôn, tại sao công đức tùy hỉ và công đức bố thí lại bằng nhau? Phật trả lời: Như một ngọn đèn, hay một cây đuốc đang cháy, có người cầm cây đuốc đến mồi. Khi mồi xong, cây đuốc này cháy, cây đuốc kia cháy, thử hỏi ánh sáng hai cây đuốc có thua nhau không? Cây đuốc bị mồi có mất ánh sáng không? Phật nói: Cũng vậy, người làm việc lành việc thiện, chính họ đã có công đức rồi. Người kia phát tâm tùy hỉ vui theo việc lành, việc thiện đó, công đức cũng ngang bằng với người làm lành làm thiện. Như vậy tốt quá, nhẹ nhàng quá, lựa là chúng ta có nhiều tiền mới làm việc công đức. Ai làm việc công đức chúng ta tùy hỉ tán dương thì chúng ta có công đức ngang bằng rồi.
Tại sao tùy hỉ có công đức lớn như vậy?
Người có của đem ra bố thí hay là có công đem ra giúp người, đó là họ xả được cái tâm ích kỷ, tham lam của họ để làm việc bố thí, làm việc cúng dường, làm việc cứu giúp. Còn người phát tâm tùy hỉ thì xả được cái tâm tật đố, vì thông thường thế gian thấy người ta làm cái gì hơn mình thì sanh tật đố.
Thí dụ hai huynh đệ đi chùa, người kia có mười đồng cúng, mình không có, thì cảm thấy buồn, rồi nói móc nói ngoéo, chớ không bao giờ có tâm tùy hỉ vui theo. Thấy người ta làm, mình làm không được thì có cái đố kỵ. Đó là tâm xấu. Bây giờ chúng ta phát tâm tùy hỉ là dẹp được cái tâm tật đố.
Người bố thí xả được cái tâm tham lam ích kỷ, người tùy hỉ xả được cái tâm tật đố, thì hai người công đức bằng nhau. Nhưng ở thế gian, chúng ta hằng thấy, cho đến em ruột trong nhà, khi thấy người anh làm được nhiều của giàu, còn mình không có của nghèo, thì tự nhiên có mặc cảm đố kỵ với anh rồi. Vì vậy tình anh em có hơi xa cách. Vì sao? Bởi cái tâm tật đố không muốn ai hơn mình. Thấy người hơn mình là sanh tâm đố kỵ. Đó là thông bệnh của con người. Cho nên ở đây chúng ta học đạo phải tập cái tâm tùy hỉ. Không phải đợi làm việc công đức mới tùy hỉ, mà thấy ai làm được cái gì an vui, hạnh phúc tốt đẹp, chúng ta đều tùy hỉ hết.
Một thí dụ nữa. Chúng ta nghèo ăn cơm hẩm với muối hột, người bạn chúng ta giàu, ăn cơm gạo lúa thơm, thịt cá đầy bàn. Thấy như vậy chúng ta vẫn tùy hỉ bảo: “Anh sung sướng quá, tôi mừng cho anh được đầy đủ sung túc.” Thấy mình tùy hỉ, người bạn giàu đó ghét mình không? Không ghét mà thương, có thể còn giúp đỡ mình nữa. Nhưng mà ở đời người ta chịu làm vậy không? Hay là nếu mình ăn cơm hẩm muối cục, bạn mình ăn cơm gạo lúa thơm, cá thịt đầy bàn, thì tự nhiên thấy không vui, rồi kiếm chuyện nói móc nói ngoéo. Do đó tình bạn bè tự nhiên xa cách. Mình đố kỵ người ta, người ta thương mình sao được. Từ cái đó mà sanh ra ngăn cách. Bạn trở thành thù, bởi đố kỵ mà ra. Từ hoàn cảnh ăn ở, cách xử sự, cho đến làm việc thiện v.v... tất cả chúng ta đều nên tập cái tâm tùy hỉ. Có người làm được việc mà chúng ta không đủ khả năng làm, chúng ta nên mừng theo.
Một thí dụ khác. Hồi thuở bé, chúng ta đi học ở trường, khi thầy giáo cô giáo kêu trả bài, hôm nào mình không thuộc bài bị điểm nhỏ, nếu bạn mình thuộc bài được điểm lớn thì mình có thương người được điểm lớn hay không? Mình lười biếng không học, nên thua người ta, người ta siêng học được điểm lớn, tại sao mình lại buồn ghét, lại đố kỵ.
Hoặc giả, trong đám học trò, đến cuối năm những đứa học giỏi được khen thưởng, được những món quà, còn mình là kẻ học dở đứng hạng chót, nhưng khi thấy người ta lãnh quà, thì mình có vui lây không? Hay là thấy ghét rồi kiếm chuyện này chuyện kia để thách đố. Cái tâm đó có từ thuở bé, chớ không phải bây giờ mới có. Chúng ta mang sẵn nó từ thơ ấu. Giờ đây biết tu chúng ta bỏ cái tật đó, nó tương đương với tham lam. Tham lam có thì tật đố cũng có. Người biết làm lành làm phước, họ xả được lòng tham, chúng ta biết tùy hỉ, thì bỏ được tâm tật đố. Như vậy cả hai đều bỏ được một tật cho nên đức Phật nói: “Công đức ngang nhau.”
Như vậy, mai mốt đi chùa, hai huynh đệ, người này có món đồ cúng Phật, cúng Tăng, mình không có mình cũng vui theo, mừng cho bạn có tiền để cúng chùa. Như vậy cả hai công đức đều như nhau. Đừng nghĩ mình nghèo không có gì cúng mà không muốn đi chung nữa. Đừng nghĩ như vậy, đó là trái với đạo lý. Hiểu ứng dụng cho đúng thì chúng ta mới thấy Phật pháp công bằng, không thiên người giàu, không bỏ người nghèo. Ai cũng có phước hết, chỉ cần có tâm lành, tâm thiện là được. Đó là cái vui nhỏ đầu tiên của người vào đạo.
Trong gia đình, anh em chúng ta ai giàu ai khá, ai được cái gì tốt hạnh phúc, chúng ta đều vui mừng như chính chúng ta được. Ngoài xã hội từ bạn bè cho đến mọi người, ai được cái gì hay cái gì tốt, cái gì sung sướng, chúng ta vui mừng như chính chúng ta được. Rồi đến trong đạo, huynh đệ chúng ta có cái gì hay cái gì tốt, chúng ta vui mừng như chính chúng ta được. Nếu được như vậy, chúng ta còn khổ hay không? Tự nhiên là vui rồi, lúc nào cũng có niềm vui, vui theo cái vui của người. Chúng ta không bị tật đố làm cho cách biệt, làm cho buồn bực, không để đố kỵ làm mất tình anh em ruột thịt trong nhà, mất cả bạn bè ngoài xã hội và mất cả tình đạo ở trong chùa. Được như vậy đi đến đâu chúng ta cũng có niềm vui, dù tay không, không giúp ai được cái gì. Trái lại mình nghèo mặc áo rách, thấy người ta mặc áo lành thì xụ mặt xuống rồi bươi móc. Như vậy làm gì có vui. Đi đâu cũng buồn hết vì thấy những người khác hơn mình. Cái buồn đó nó tràn trề, vì ở đời làm sao mình bằng tất cả được. Bây giờ chúng ta biết tùy hỉ, thấy ai có cái gì đẹp cái gì hơn, chúng ta đều vui hết, mừng cho họ. Tâm niệm của người Phật tử phải là tâm niệm làm cho mọi người hết khổ. Phật là vị cứu khổ chúng sanh, chúng ta đã là Phật tử, tức con Phật chúng ta phải mang cái quan niệm làm cho chúng sanh hết khổ. Nếu chưa hết khổ, ít ra cũng bớt khổ. Thấy một người bớt khổ về sự ăn, sự mặc, hoặc bớt khổ về cái gì, miễn thấy họ bớt khổ là chúng ta mừng. Nếu chúng ta đố kỵ là không phải con Phật rồi. Vì vậy muốn được niềm vui đầu tiên, chúng ta phải tập phát tâm tùy hỉ. Ai có điều gì hay, cái gì tốt mình đều vui theo chớ không đố kỵ. Đó là cái vui thứ nhất của người vào đạo.
2- Đến cái vui thứ hai sâu hơn, tế nhị hơn là cái vui “hỉ xả”. Hỉ là mừng, xả là buông bỏ.
Hỉ xả có hai mặt:
- Hỉ xả những tài vật bên ngoài.
- Hỉ xả những chấp chứa trong lòng.
Nếu chúng ta có tài vật dư dả, lúc nào cũng nên vui vẻ xả giúp cho những người thiếu đói bần cùng. Cái của mình làm do mồ hôi nước mắt mình tạo, mà mình cảm thấy no đủ hay dư rồi thì vui xả cho những người thiếu hay những người ít oi hơn. Đó là hỉ xả những vật bên ngoài. Cái đó chắc dễ, phải vậy không? Đó là cái xả bên ngoài. Tuy vậy cũng hơi khó làm, vì có nhiều người, kẻ khác thấy họ dư mà bản thân họ lại thấy thiếu. Có một đồng muốn hai đồng, có hai đồng muốn mười đồng, có mười đồng muốn ba mươi đồng, muốn cho đến ngày tắt thở mà vẫn chưa đủ. Như vậy làm sao xả được. Cho nên muốn có cái xả đó chúng ta phải học Phật. Phật dạy chúng ta tri túc, tức biết đủ. Chúng ta biết đủ thì mới xả được. Trong nhà Phật nói: “Người không biết đủ thì như cái túi không đáy.” Bỏ vào bao nhiêu nó tuột xuống hết bấy nhiêu. Dù bỏ bao nhiêu cũng không đầy vì cái bệnh không biết đủ, như vậy thì làm sao mà xả.
Thí dụ: Mỗi ngày buổi trưa chúng ta ăn ba chén cơm, dù bữa nào có đồ ăn ngon, chúng ta cũng ăn ba chén đủ rồi. Nếu dư thì giúp cho người nào đó, hoặc nói dễ hiểu hơn cho một con vật nào đó. Dù đó là phần dư của mình, nhưng cũng là một lối xả. Chớ nên, khi ăn ba chén vừa no rồi, thấy có đồ ăn ngon, muốn ăn thêm nữa. Như vậy là phí phạm, vì cái lượng của mình chừng đó là đủ, mà mình không ưng dừng ngang đó. Đó là nói về cái ăn, còn bao nhiêu cái khác, chẳng hạn như cái mặc. Chúng ta có ba bộ đồ đủ để mặc, giả sử chúng ta có bộ thứ tư tức dư rồi nhưng mà có đủ chưa? Có bộ thứ tư thấy đủ chưa? Đến bộ thứ năm cũng chưa đủ nữa. Như vậy chừng nào mới xả được. Cho nên muốn xả thì phải biết đủ. Biết đủ mới xả được, còn không biết đủ thì không bao giờ xả được hết.
Như vậy quí vị muốn tập hỉ xả về tài sản thì quí vị phải thấy đủ và biết đủ. Cái dư đó dùng để giúp người này người nọ không một chút luyến tiếc. Đó gọi là tâm hỉ xả, vui vẻ mà giúp chớ không bị bắt buộc, không đợi ai bắt buộc hết.
Hỉ xả tuy khó nhưng còn dễ hơn cái hỉ xả này: Hỉ xả ở tâm. Nếu có người nào làm mình phiền, mình buồn nhất là người mình thường gặp mặt, mà lại làm mình buồn. Khi buồn mình có vui được không? Nếu buồn thì gương mặt lúc nào cũng dàu dàu hoặc thêm vẻ nhăn nhó nữa. Vậy, muốn cho mình hết khổ, thì tập xả, vui vẻ mà xả. Xả này là tha thứ, là bỏ qua. Mỗi khi những người chung quanh mình có làm gì phiền là mình buồn. Phiền ở đây là phiền hận, phiền não và sân hận, hai cái đang chất trong lòng mình, mình phải buông xả nó đi. Người nào còn ôm lòng phiền hận, họ sẽ đau khổ, đau khổ từ hiện tại cho đến mai kia, chớ không phải ở một giai đoạn nào thôi. Vì vậy, khi biết rằng mình đang ôm lòng phiền hận người này kẻ khác, thì mình phải vui vẻ bỏ hết, nghĩa là hỉ xả, tức là bao nhiêu cái phiền muộn đang chứa chấp trong lòng phải bỏ hết.
Tại sao chúng ta phải bỏ hết?
Muốn bỏ của cải thì chúng ta phải biết đủ. Bây giờ muốn bỏ phiền hận, phải làm sao đây? Phải có lý do gì mình mới bỏ được chứ. Chớ nói bỏ đại thì làm sao mà bỏ. Phải bỏ làm sao? Bỏ cách nào?
Muốn bỏ được sự phiền muộn trong lòng, chúng ta phải thấy cuộc đời là vô thường, là ảo mộng. Nay chết, mai chết tới nơi, ôm hận mà làm gì. Đừng giận đừng hờn để lo tu hành. Do nghĩ cái chết sắp đến mà chúng ta buông xả được hết. Ai sống đời đây mà cứ giận hoài, buồn hoài. Cái buồn cái giận đó, chỉ làm khổ mình khổ người không lợi gì hết. Biết vậy chúng ta phải buông hết. Vì cái chết đến nơi, chúng ta phải ráng để cho tâm an ổn, đừng có buồn giận ai. Nghĩ đến vô thường mà hỉ xả.
Tiến hơn nữa, chúng ta thấy cuộc đời như ảo mộng, ngày nay có mặt đây, ngày mai đã mất rồi. Sống trong tạm bợ, mình tạm bợ, người tạm bợ, mọi người đều sống trong tạm bợ. Tại sao không thương nhau, nâng đỡ nhau?
Thí dụ: Nếu chúng ta biết rằng, chúng ta là người đang sắp bị kêu án tử hình, và những người chung quanh ta cũng bị kêu án tử hình hết, trong lúc mắc bận nghĩ đến cái chết, đâu ai có thì giờ để buồn giận nhau. Giả sử trong khi lẫn lộn chung chạ nhau đó, có giẫm lên nhau, hay có làm gì phiền toái nhau, cũng bỏ qua. Phải biết rằng cái chết là trên hết, chớ ở đó lo buồn giận làm gì.
Chính cái chết, nghĩ đến cái chết, chúng ta mới thấy cuộc đời là tạm bợ, sống không có cái gì bảo đảm hết. Như vậy chúng ta còn buồn giận nhau làm gì. Hãy buông xả hết những gì chứa chấp trong lòng. Ai ở đời đây mà giận với hờn.
Quí vị đã học Phật nhiều năm rồi, vậy có tập được cái tánh buông xả đó hay chưa? Đi chùa cúng Phật mà còn giận còn hờn bạn bè anh em huynh đệ hay không? Nếu ai còn chứa phiền giận gì đó, thì ngang đây hãy nguyện đức Phật chứng minh cho để xả hết, trong bụng trống rỗng không còn gì hết. Đừng thèm giận, đừng thèm buồn ai. Dù có cái giận cái buồn đó từ mười năm hay ba mươi năm rồi, ngày nay cũng xả. Dại gì chúng ta chứa rắn độc trong nhà. Phiền hận là rắn độc, có ai muốn chứa rắn độc trong nhà đâu. Nếu chứa rắn độc trong nhà thì sớm muộn gì cũng bị nó cắn. Cho nên khi biết là rắn độc rồi, thì xả, đuổi ra khỏi nhà, không bao giờ dung nó. Đó là cái thiết yếu. Nếu quí vị biết như vậy là quí vị tu rồi đó. Quí vị thấy hai cái rõ ràng: - Nếu phiền hận thì không vui. - Người nào hết phiền hận, tâm hồn rỗng rang trống trải thì người đó vui vẻ. Muốn cho được vui vẻ chúng ta phải tập hỉ xả những sự vật bên ngoài, hỉ xả những phiền muộn trong lòng, trong ngoài đều hỉ xả hết. Đó là cái vui tột độ của mình đó.
Sở dĩ đức Phật Ngài cười hoài, là vì Ngài hỉ xả, còn chúng ta quạu hoài là vì chúng ta còn phiền hận, chúng ta cố chấp. Đó là nguyên nhân của đau khổ của bệnh tật, nguyên nhân của xấu xa và cũng là nguyên nhân của đê hèn.
Người nào phiền hận thì người đó đau khổ, mặt mày xấu xa, tâm hồn không bao giờ được thơ thới, tâm hồn sầu não thì sanh bệnh hoạn chớ gì.
Vậy ai muốn mình xấu, ai muốn mình bệnh, ai muốn mình đê hèn?
Ai cũng muốn mình là người tươi đẹp, ai cũng muốn mình là người rất sung sướng. Mà tại sao mình lại chứa các nhân đau khổ như vậy? Có phải tự mình mâu thuẫn với mình hay không? Cho nên khi nào còn chút giận ai, buồn ai thì biết rằng mình muốn hại mình đó, muốn làm cho mình xấu, mình khổ, mình bệnh hoạn.
Như vậy quí vị có cần ngày mồng chín đi cúng sao hay không? Cúng sao là để cầu năm này mình khỏi tai nạn, mình được vui sướng. Bây giờ quí vị xả hết, không giận ai thì năm nay quí vị khỏi tai nạn, quí vị vui sướng rồi, cúng làm chi cho mất công. Nếu mình biết mình xả rồi, thì mình được an ổn, dù cho năm đó mình có gặp sao La Hầu, Kế Đô gì đó chẳng hạn, mình cũng an lành như thường. Mình không giận ai thì ai thù mình, không thù người thì ai hại mình. Đó là nguyên nhân an ổn thực tế. Còn cái kia là cái cầu mong huyền hoặc trên trời, chớ không chịu cái thực tế hiện tại.
Như vậy đức hỉ xả là cái hết sức quí báu cho cuộc sống hiện tại của chúng ta. Quí vị muốn được vui, muốn được tươi đẹp, sống lâu thì quí vị phải tập hỉ xả. Ba điều ấy có được đều do hỉ xả hết. Còn người nào không muốn hỉ xả là người đó muốn chết yểu, bệnh hoạn xấu xa. Như vậy quí vị hãy chọn lấy một cái ngày đầu năm này, chọn cái nào cho trọn năm đều vui như đức Di-lặc. Đó là cái vui thứ hai.
3- Cái vui thứ ba là vui “Pháp hỉ”.
Thông thường nhà Phật hay dùng: Đó là “Pháp hỉ thiền duyệt”, nghĩa là chúng ta nghe chánh pháp trong lòng thấy nhẹ nhàng thơ thới. Đó là vui pháp hỉ hay pháp lạc. Tại sao vậy? Vì chúng ta nghe kinh học đạo, chúng ta tìm được lẽ thật, chúng ta tìm được một nguồn an ủi vui tươi. Chính do tìm được, thấy được lẽ thật đó mà lòng chúng ta nhẹ nhàng thơ thới. Đó là cái vui của đạo. Người nào học đạo, nghe đạo mà thấy trong lòng vui tươi sung sướng, đó là người đã được pháp lạc hay pháp hỉ. Còn người nào nghe đạo mà gục lên gục xuống, nghiêng qua ngả lại, thì người đó khó tìm được pháp lạc. Nếu không có cái vui nghe pháp, dù có đi chùa nhưng khó tinh tấn nổi, có thích đâu mà tinh tấn. Bởi vì chúng ta cố gắng làm khi chúng ta thích thú làm, nếu không có sự thích thú thì không bao giờ có sự cố gắng nào hết. Người học đạo phải làm sao nghiền ngẫm thấy lẽ thật của đức Phật dạy tức là thấy được chân lý Phật đã chỉ dạy trong kinh. Nhận những lời chân thật cho rõ rồi, chúng ta mới thấy vui sướng, cái vui sướng đó gọi là pháp hỉ hay pháp lạc. Nhân nghe chánh pháp của Phật mà mình được vui thích, cái vui đó là cái vui chân thật. Có nhận được cái vui đó rồi thì tu hành mới tinh tấn được. Nếu không nhận được, có tu chăng, chẳng qua là cầu mong được cái này cái nọ, chớ không phải vui thích để mà tu. Người học đạo chân chánh là phải vui với đạo mà tu, chớ không phải là cầu mong cái gì khác. Như vậy khi nghe kinh hoặc đọc sách Phật phải ráng chịu khó đem tâm trí nghiền ngẫm tức là Chánh tư duy. Xét cho đúng đắn, cho tột cùng, thấy được lẽ thật trong đó thì mình vui thích lên. Cái vui thích đó làm cho mình có một sức mạnh tinh tấn trên con đường đạo.
Thí dụ: Ngoài đời, khi người ta vui quá người ta khóc, trong đạo cũng thế. Khi đọc kinh Phật, có một sự vui mừng lạ đời cảm động cũng rơi nước mắt. Đó là trường hợp của ngài Khuê Phong. Đi tu, được người tặng cho một quyển kinh Viên Giác, đọc qua Ngài vui mừng lạ đời, vui tới rơi nước mắt.
Cũng như vậy, chúng ta có thân nhân đi đâu xa hai mươi, ba mươi năm không gặp nhau, gặp lại mừng quá đến rơi nước mắt. Đó là cái vui sướng tột cùng khiến đến rơi nước mắt. Người học đạo mà vui đến mức đó thì không bao giờ thối chuyển. Khi nào đọc kinh mà thấy Phật nói hay quá cảm động sung sướng, rơi nước mắt, thì đó là duyên lành khá sâu rồi. Người được cái vui đó là người ít bị những sự khó khăn hay là chướng ngại làm cho họ phải lui sụt. Còn học đạo khi đọc kinh thì thấy buồn ngủ, tụng kinh ngáp lên ngáp xuống, thì đó là không tìm được cái vui trong đạo. Không có cái vui thì sự tu khó mà tiến bộ được. Đó là cái vui của Pháp hỉ hay là Pháp lạc.
4- Đến cái vui sâu hơn nữa là “Thiền duyệt”.
“Duyệt” là vui, vui nhè nhẹ, chớ không phải vui mừng hớn hở. Thường thường ở trong nhà Thiền có tả: Trong khi tọa thiền, đến giai đoạn thân tâm an ổn, hơi thở nhẹ nhàng, đến lúc đó có giai đoạn khinh an, nhẹ nhàng, thơ thới khác hơn bình thường. Cái vui lần lần chớ không phải cái vui mạnh đó gọi là Thiền duyệt. Chỉ khi nào chúng ta tọa Thiền hay tu Thiền, lúc đi sâu trong đó tâm hồn an ổn, thân thể điều hòa, rồi tự nhiên có cái vui an lành mà nhà Phật gọi là “Thiền duyệt vi thực” tức là lấy cái vui thiền định làm món ăn.
Quí Phật tử nào mới tập ngồi thiền thì thấy ngồi thiền vui hay khổ? Ngồi tay chân đau, thân thể mỏi mệt, mồ hôi chảy ướt áo, không thấy vui chút nào hết, ngồi mà khổ chớ không thấy vui. Như vậy tới giờ ngồi thiền là tới giờ hành phạt hay là giờ an ổn?
Lúc đầu, tới giờ ngồi thiền thấy như là một hành phạt nào đó, nhưng đến lúc tập quen rồi, ngồi thiền thấy nhẹ nhàng an ổn. Tới giờ đó không ngồi thì thấy như thiếu cái gì.
Thí dụ: Như mỗi buổi sáng, chúng ta ăn cơm hay là trưa chúng ta ăn cơm, khi đến giờ đó mà không được ăn cơm, chúng ta cảm thấy khó chịu. Chúng ta tu thiền cũng phải như vậy. Đến giờ ngồi thiền mà không ngồi được, chúng ta cảm thấy cái gì thiếu thốn, nó đòi hỏi không an. Đó là cái vui trong Thiền định. Nó như thức ăn rồi, thiếu nó như thiếu cơm, tức là Thiền duyệt vi thực. Ít người lấy cái vui trong Thiền định làm thức ăn, vì cần phải tu tập lâu dài mới tới trạng thái đó. Tới được trạng thái đó rồi mới thấy an vui, nhưng phải công phu kha khá một chút mới được. Không phải ngồi năm tháng ba tháng mà được, nhất là ngồi buổi đầu, khổ chớ không phải vui, nhọc nhằn khổ sở lắm. Qua cái nhọc nhằn khổ sở rồi, mình điều phục được thân tâm lúc đó mình mới được an vui, cái an vui đó gọi là Thiền duyệt. Bao giờ thấy cái vui Thiền định không thể thiếu được như là bữa cơm không thể thiếu được, gọi đó là “Thiền duyệt vi thực”. Đó là cái vui thứ tư.
5- Đến cái vui thứ năm khó hơn, là vui “Tịch lạc”. Cái vui này ít được nghe. Nó xuất xứ từ bốn câu kệ ở kinh Đại Bát Niết-bàn, trong đó nói rằng:
Chư hành vô thường
Thị sanh diệt pháp
Sanh diệt diệt dĩ
Tịch diệt vi lạc.
Tức là lấy chữ đầu Tịch và chữ cuối Lạc. Cho nên gọi là vui Tịch lạc. Cái vui đó là cái vui cứu kính của người tu. Hai cái vui đầu nó gần gũi với quí vị, nhưng mà người Phật tử làm chưa mấy được. Phải gắng từ cái vui thứ nhất đến cái vui thứ hai. Có được hai cái vui đó rồi mới đến cái vui thứ ba thứ tư, cuối cùng là cái vui thứ năm. Vui trong Tịch lạc. “Tịch” tức là tịch tịnh hay tịch diệt rồi được an lạc.
Cái vui này nó thế nào? Tôi dẫn mỗi câu của bài kệ để giải thích. “Chư hành vô thường”, hành ở đây là hành động, tức là thân miệng ý hoạt động. Thân miệng ý hành động thì thành nghiệp. Mọi hoạt động của thân miệng ý đều thành nghiệp hoặc nghiệp thiện hoặc nghiệp ác. Mọi nghiệp đều gốc từ thân miệng ý mà ra. Ý nghĩ miệng nói thân làm. Mọi hành động đó còn mãi mãi hay không. Nó qua rồi mất, ý nghĩ rồi mất, miệng nói rồi mất, thân hành động rồi mất. Tất cả những cái đó là chỗ tạo nghiệp mà thuộc về vô thường. Qua rồi mất qua rồi mất, nó không có lâu dài, nên nói “thị sanh diệt pháp”, tức là pháp sanh diệt, nó không có bền. Như vậy tất cả cái hành trên thế gian này, mọi hành động mọi tạo tác đều gọi là vô thường, nó không lâu dài bền bỉ. “Sanh diệt diệt dĩ”, cái sanh đó mà lặng rồi thì “tịch diệt vi lạc”. Cái lặng lẽ chân thật ấy mới là vui. Cái vui này quá sâu kín cũng gọi là cái vui Niết-bàn. Sau khi cái sanh diệt nó diệt hết rồi mới tới chỗ tịch diệt.
Nói sanh diệt là nói sanh diệt của ý, khẩu, và thân, nhưng chủ yếu là ý. Ý là chủ động cho nên ý lặng rồi dù có nói có làm cũng là tịch diệt. Như vậy sau khi vọng tưởng lặng hết rồi không còn dấy động nữa, đó là tịch diệt. Cái tịch diệt đó đi đến chỗ an ổn chân thật của cái bất sanh bất diệt. Cái bất sanh bất diệt đó là Niết-bàn. Đó là cái vui cứu kính chân thật ít người hưởng được.
Chúng ta học và tu Phật có cái vui gần, tới cái vui xa. Như cái vui Tùy hỉ thật là dễ làm không tốn công, chỉ xả tâm tật đố mình thì được rồi. Tới cái vui tốn công một chút, tức là của cải mình, mình xả và cái chứa chấp trong tâm niệm mình xả. Hai cái đó xả được là có cái vui Hỉ xả. Rồi cái vui thứ ba là Pháp hỉ hay Pháp lạc. Cái vui đó phải nghiền ngẫm, nghiên cứu có công phu với đạo lý, chúng ta mới thấy được niềm an vui ở trong đạo lý. Đến vui Thiền duyệt thì phải có công phu đậm nữa, phải nhiều năm nhiều tháng công phu tu hành mới được cái vui Thiền duyệt. Được cái vui Thiền duyệt rồi cuối cùng mới được cái vui Tịch lạc, tức là tâm lặng lẽ rỗng rang không còn một niệm dấy lên. Thấy tất cả sự vật cái gì cũng nên thơ, cái gì cũng đẹp đẽ. Không còn phân biệt đây là xấu, kia là tốt, đây là hay kia là dở, chỉ một niệm chân thật. Cho nên trong nhà thiền gọi là “xúc mục tức Bồ-đề”, tức là nhìn cái gì cũng là Bồ-đề, là giác ngộ hết. Không thấy có cái gì xấu, tất cả đều là vui, đều là đẹp. Tất cả là một mùa Xuân. Như vậy nếu chúng ta tới được chỗ vui đó, tức được một mùa Xuân vĩnh cửu, một mùa Xuân không bao giờ mất.
Tôi dẫn một Thiền sư đời nhà Tống, Thiền sư Phật Nhãn, một trong ba ông Phật: Phật Quả, Phật Nhãn, Phật Giám. Ba vị này là Thiền sư nổi tiếng đời Tống. Đây là Ngài Phật Nhãn hiệu là Thanh Viễn. Ngài có một bài thơ nói về Xuân như sau:
Xuân nhật xuân sơn lý
Xuân sự tận giai xuân
Xuân quang chiếu xuân thủy
Xuân khí kết xuân vân
Xuân khách xuân tình động
Xuân thi xuân cánh tân
Duy hữu thức xuân nhân
Vạn kiếp nguyên nhất xuân.
Tạm dịch:
Ngày xuân xuân trong núi
Việc xuân thảy đều xuân
Hồ xuân ánh xuân chiếu
Khí xuân kết mây xuân
Khách xuân lòng xuân động
Thi xuân xuân càng tươi
Chỉ có người biết xuân
Muôn kiếp một mùa xuân.
Tại sao câu nào cũng Xuân hết vậy?
Xuân nhật tức là ngày xuân, xuân sơn lý tức là Xuân trong núi. Ngày xuân trong núi giống hệt như Xuân hôm nay, tức là ngày vui, mà vui ở trong núi.
Xuân sự tận giai xuân, tức là việc xuân thảy đều Xuân, bởi vì thấy cái gì cũng là Xuân hết, đều là đẹp hết. Nếu trong lòng mình có nhẹ thênh thang không có buồn giận, hờn, phiền, không dấy niệm phân chia thì cái gì không phải là Xuân. Thấy ai cũng đẹp dễ thương hết. Sở dĩ chúng ta không vui được là vì thấy cái này xấu cái kia tốt, thấy người này dễ thương, người kia dễ ghét. Thấy người dễ ghét thì hết Xuân, mặt xụ xuống thì làm sao thấy Xuân được. Còn thấy ai cũng dễ thương, thì gặp ai mình cũng nở nụ cười, không phải Xuân là gì? Trên mặt mình luôn luôn là mùa Xuân, cho nên thấy cái gì cũng là Xuân, tất cả đều là Xuân.
Hồ xuân ánh xuân chiếu. Cái hồ thấy nó cũng tươi đẹp, thấy mặt trời soi sáng dưới đáy hồ cũng tươi đẹp luôn. Hồ xuân, rồi ánh nắng mặt trời cũng Xuân cái gì cũng đẹp hết.
Khí xuân kết mây xuân. Nhìn thấy mây nó mơ hồ lưa thưa ở chung quanh mấy ngôi nhà, cụm vườn tức là những mây mờ gọi là xuân khí, thấy cũng đẹp nên thơ. Rồi những cái đó kết thành những cụm mây. Những cụm mây đó cũng là mây xuân luôn. Như vậy nhìn người cũng là Xuân, nhìn vật cũng là Xuân, nhìn nước cũng là Xuân, nhìn trời cũng là Xuân. Xuân tất cả. Tại sao ta được Xuân như vậy? Tại trong lòng chứa đầy một mùa Xuân. Nếu trong lòng chứa đêm ba mươi, tức tối như mực thì cái gì cũng không Xuân hết, cái gì cũng đen như mực. Sở dĩ ở ngoài nó đẹp là do trong lòng mình đẹp.
Khách xuân xuân tình động. Tức là khách xuân rồi khởi tình xuân. Như người khách trong mùa Xuân, thấy cảnh đều vui theo nó, tức tình động theo mùa Xuân.
Xuân thi xuân cánh tân. Tức là mùa Xuân đã tươi rồi, thi nhân còn tô điểm cạo gọt, vuốt ve nó làm cho nó tươi đẹp thêm nữa.
Hai câu chót mới là tối quan trọng.
Duy hữu thức xuân nhân
Vạn kiếp nguyên nhất xuân.
Như vậy chỉ có người biết Xuân, muôn kiếp một mùa Xuân.
Cảnh xuân, khách xuân, tình xuân v.v... đó là cái bên ngoài. Chỉ có người biết được Xuân đó, mới vui muôn kiếp Xuân. Mùa Xuân đó là mùa Xuân Di-lặc cười hoài muôn kiếp, không bao giờ có vẻ mày sầu mặt héo gì hết. Đó là một mùa Xuân tươi đẹp, đầy cả một bầu trời, tràn trề cả nhân thế.
Quí vị có muốn hưởng một mùa Xuân đó hay không? Như vậy cái cạn đến cái sâu, quí vị từ từ bước. Cạn nhất là từ từ bỏ tật đố để phát tâm tùy hỉ vui theo tất cả việc tốt, việc lành của mọi người. Kế đó là cái vui hỉ xả tức là vui mừng bỏ hết tất cả những cái gì mình có thể bỏ được. Xả hết từ cái xả của cái bực bội, cố chấp, buông xả hết. Đó là tập xuân. Rồi tới hiểu giáo lý một cách đúng đắn, có niềm vui chân thật, tu hành tiến tới an ổn, đi đến cuối cùng mọi tâm niệm đều được an lành tự tại. Không có một chút gì dấy lên làm biến đổi tất cả sự kiện bên ngoài. Chỉ một tâm thênh thang trong trẻo thì nhìn đời bằng một mùa Xuân không đổi thay, không còn di dịch gì nữa hết. Xuân như thế mới là Xuân Di-lặc. Xuân như vậy mới là Xuân muôn đời muôn kiếp. Nếu mùa Xuân chỉ có ba tháng hoặc chỉ có mấy ngày Tết là Xuân thì Xuân đó hữu hạn quá. Ngày nay ráng mà gượng cười, rồi ngày mai gặp nhau quạu quọ tức tối thì không còn Xuân đâu. Nên phải cởi bỏ từ từ trong lòng những chướng ngại cho mùa Xuân muôn kiếp đó. Nếu chúng ta loại nó ra được thì cuối cùng chúng ta sẽ hưởng được một mùa Xuân muôn kiếp.
Mong rằng mùa Xuân muôn kiếp sẽ đến với quí vị.
Xuân Canh Thân - 1980
Trong nhà Phật ngày mồng một là ngày vía đức Di-lặc. Đức Di-lặc hiện tại là một vị Bồ-tát, nhưng mà tương lai sẽ là Phật. Cho nên khi nãy chúng ta lễ Ngài là “Đương lai hạ sanh Di-lặc Tôn Phật”. Chúng tôi gọi Ngài là Phật, vì là một vị Phật sẽ đến, sẽ thành, còn gọi Ngài là Bồ-tát vì là vị Bồ-tát hiện tại. Phần nhiều ở chùa đến ngày này đều cử lễ vía Ngài. Đó là một thông lệ nhưng mang nhiều ý nghĩa quan trọng. Người thế gian ai cũng quan trọng ngày đầu năm, cho đó là ngày chứa đựng đầy đủ ý nghĩa trong một năm. Vì vậy mọi hành động, ngôn ngữ ý niệm đều được dè dặt, dè dặt từ cử chỉ lời nói, việc làm, để giữ gìn một năm đầy tốt đẹp.
Ở đây trong nhà Phật, chúng ta gọi ngày đầu năm là ngày vía đức Di-lặc. Ngài là hình ảnh đẹp đẽ vui tươi mà ai cũng đều nhớ đều thấy. Nhìn gương mặt của Ngài, bao giờ cũng thấy Ngài nở một nụ cười, gọi là nụ cười Di-lặc. Nụ cười đó không bị thời gian giới hạn. Lúc nào quí vị nhìn thấy tượng Ngài đều là cười. Thuở bé quí vị thấy Ngài cười, đến già cũng thấy Ngài cười, cho đến chúng ta tắt thở cũng thấy Ngài cười. Nụ cười đó là nụ cười Di-lặc.
Đáng lý đề tài chúng tôi nói chuyện hôm nay lấy tên là “Nụ cười Di-lặc”, nhưng nói như vậy thì sợ e nó khuôn trong một hình thức nhỏ. Cho nên chúng tôi chọn đề tài tương xứng với ngày đầu Xuân, tức là ngày vui của dân tộc, của mọi cá nhân, cũng là ngày vui trong đạo, tức là ngày đón mừng một vị Bồ-tát sắp thành Phật ở mai sau.
Đón mừng Bồ-tát Di-lặc, một vị sẽ thành Phật, đó là hình ảnh bên ngoài. Còn hình ảnh bên trong tức là đón mừng những người Phật tử, những người con Phật mai kia cũng sẽ thành Phật. Đó là hi vọng tràn trề chứa đựng bao nhiêu cái đẹp đẽ của tương lai. Cho nên ngày đầu Xuân cũng là ngày vui của chúng ta, cũng là một ngày hứa hẹn chúng ta sẽ toàn giác thành Phật. Vì vậy đề tài hôm nay là Những cái vui trong đạo Phật. Nó hơi tầm thường một chút, nhưng nó rộng rãi để quí vị nghe cho rõ.
Người đời có quan niệm rằng đạo Phật chán đời yếm thế làm gì có cái vui. Không ngờ trong đạo Phật chứa tràn trề niềm vui, những niềm vui đó phát xuất từ cạn đến sâu.
1- Cái vui của người Phật tử đến chùa là tập cái vui “tùy hỉ”, hỉ là mừng, tùy là theo. Khi chúng ta nhìn thấy một người bạn hay một kẻ thân làm một điều lành, một việc phải thì chúng ta phát tâm vui theo. Người làm vui năm, chúng ta cũng vui được năm; người làm vui mười, chúng ta cũng vui mười. Vui theo việc làm lành làm phải của người bạn người thân, cho đến những người đồng đạo của chúng ta. Chúng ta phát được niềm vui đó, thì công đức cũng bằng của người làm việc phải, việc thiện. Nói như vậy quí vị không khỏi nghi ngờ. Thí dụ: Người ta đem mười đồng bạc tới chùa cúng Tăng hay cúng Tam Bảo, mình không có đồng xu nào hết, thấy người ta cúng Tam Bảo họ vui, mình cũng vui theo, thì công đức của người cúng mười đồng với công đức của người vui theo bằng nhau. Mới nghe qua như bất công bằng vì mình không tốn một xu nào mà lại công đức bằng. Nhưng đức Phật nói công đức bằng nhau. Có người hỏi: Bạch Thế Tôn, tại sao công đức tùy hỉ và công đức bố thí lại bằng nhau? Phật trả lời: Như một ngọn đèn, hay một cây đuốc đang cháy, có người cầm cây đuốc đến mồi. Khi mồi xong, cây đuốc này cháy, cây đuốc kia cháy, thử hỏi ánh sáng hai cây đuốc có thua nhau không? Cây đuốc bị mồi có mất ánh sáng không? Phật nói: Cũng vậy, người làm việc lành việc thiện, chính họ đã có công đức rồi. Người kia phát tâm tùy hỉ vui theo việc lành, việc thiện đó, công đức cũng ngang bằng với người làm lành làm thiện. Như vậy tốt quá, nhẹ nhàng quá, lựa là chúng ta có nhiều tiền mới làm việc công đức. Ai làm việc công đức chúng ta tùy hỉ tán dương thì chúng ta có công đức ngang bằng rồi.
Tại sao tùy hỉ có công đức lớn như vậy?
Người có của đem ra bố thí hay là có công đem ra giúp người, đó là họ xả được cái tâm ích kỷ, tham lam của họ để làm việc bố thí, làm việc cúng dường, làm việc cứu giúp. Còn người phát tâm tùy hỉ thì xả được cái tâm tật đố, vì thông thường thế gian thấy người ta làm cái gì hơn mình thì sanh tật đố.
Thí dụ hai huynh đệ đi chùa, người kia có mười đồng cúng, mình không có, thì cảm thấy buồn, rồi nói móc nói ngoéo, chớ không bao giờ có tâm tùy hỉ vui theo. Thấy người ta làm, mình làm không được thì có cái đố kỵ. Đó là tâm xấu. Bây giờ chúng ta phát tâm tùy hỉ là dẹp được cái tâm tật đố.
Người bố thí xả được cái tâm tham lam ích kỷ, người tùy hỉ xả được cái tâm tật đố, thì hai người công đức bằng nhau. Nhưng ở thế gian, chúng ta hằng thấy, cho đến em ruột trong nhà, khi thấy người anh làm được nhiều của giàu, còn mình không có của nghèo, thì tự nhiên có mặc cảm đố kỵ với anh rồi. Vì vậy tình anh em có hơi xa cách. Vì sao? Bởi cái tâm tật đố không muốn ai hơn mình. Thấy người hơn mình là sanh tâm đố kỵ. Đó là thông bệnh của con người. Cho nên ở đây chúng ta học đạo phải tập cái tâm tùy hỉ. Không phải đợi làm việc công đức mới tùy hỉ, mà thấy ai làm được cái gì an vui, hạnh phúc tốt đẹp, chúng ta đều tùy hỉ hết.
Một thí dụ nữa. Chúng ta nghèo ăn cơm hẩm với muối hột, người bạn chúng ta giàu, ăn cơm gạo lúa thơm, thịt cá đầy bàn. Thấy như vậy chúng ta vẫn tùy hỉ bảo: “Anh sung sướng quá, tôi mừng cho anh được đầy đủ sung túc.” Thấy mình tùy hỉ, người bạn giàu đó ghét mình không? Không ghét mà thương, có thể còn giúp đỡ mình nữa. Nhưng mà ở đời người ta chịu làm vậy không? Hay là nếu mình ăn cơm hẩm muối cục, bạn mình ăn cơm gạo lúa thơm, cá thịt đầy bàn, thì tự nhiên thấy không vui, rồi kiếm chuyện nói móc nói ngoéo. Do đó tình bạn bè tự nhiên xa cách. Mình đố kỵ người ta, người ta thương mình sao được. Từ cái đó mà sanh ra ngăn cách. Bạn trở thành thù, bởi đố kỵ mà ra. Từ hoàn cảnh ăn ở, cách xử sự, cho đến làm việc thiện v.v... tất cả chúng ta đều nên tập cái tâm tùy hỉ. Có người làm được việc mà chúng ta không đủ khả năng làm, chúng ta nên mừng theo.
Một thí dụ khác. Hồi thuở bé, chúng ta đi học ở trường, khi thầy giáo cô giáo kêu trả bài, hôm nào mình không thuộc bài bị điểm nhỏ, nếu bạn mình thuộc bài được điểm lớn thì mình có thương người được điểm lớn hay không? Mình lười biếng không học, nên thua người ta, người ta siêng học được điểm lớn, tại sao mình lại buồn ghét, lại đố kỵ.
Hoặc giả, trong đám học trò, đến cuối năm những đứa học giỏi được khen thưởng, được những món quà, còn mình là kẻ học dở đứng hạng chót, nhưng khi thấy người ta lãnh quà, thì mình có vui lây không? Hay là thấy ghét rồi kiếm chuyện này chuyện kia để thách đố. Cái tâm đó có từ thuở bé, chớ không phải bây giờ mới có. Chúng ta mang sẵn nó từ thơ ấu. Giờ đây biết tu chúng ta bỏ cái tật đó, nó tương đương với tham lam. Tham lam có thì tật đố cũng có. Người biết làm lành làm phước, họ xả được lòng tham, chúng ta biết tùy hỉ, thì bỏ được tâm tật đố. Như vậy cả hai đều bỏ được một tật cho nên đức Phật nói: “Công đức ngang nhau.”
Như vậy, mai mốt đi chùa, hai huynh đệ, người này có món đồ cúng Phật, cúng Tăng, mình không có mình cũng vui theo, mừng cho bạn có tiền để cúng chùa. Như vậy cả hai công đức đều như nhau. Đừng nghĩ mình nghèo không có gì cúng mà không muốn đi chung nữa. Đừng nghĩ như vậy, đó là trái với đạo lý. Hiểu ứng dụng cho đúng thì chúng ta mới thấy Phật pháp công bằng, không thiên người giàu, không bỏ người nghèo. Ai cũng có phước hết, chỉ cần có tâm lành, tâm thiện là được. Đó là cái vui nhỏ đầu tiên của người vào đạo.
Trong gia đình, anh em chúng ta ai giàu ai khá, ai được cái gì tốt hạnh phúc, chúng ta đều vui mừng như chính chúng ta được. Ngoài xã hội từ bạn bè cho đến mọi người, ai được cái gì hay cái gì tốt, cái gì sung sướng, chúng ta vui mừng như chính chúng ta được. Rồi đến trong đạo, huynh đệ chúng ta có cái gì hay cái gì tốt, chúng ta vui mừng như chính chúng ta được. Nếu được như vậy, chúng ta còn khổ hay không? Tự nhiên là vui rồi, lúc nào cũng có niềm vui, vui theo cái vui của người. Chúng ta không bị tật đố làm cho cách biệt, làm cho buồn bực, không để đố kỵ làm mất tình anh em ruột thịt trong nhà, mất cả bạn bè ngoài xã hội và mất cả tình đạo ở trong chùa. Được như vậy đi đến đâu chúng ta cũng có niềm vui, dù tay không, không giúp ai được cái gì. Trái lại mình nghèo mặc áo rách, thấy người ta mặc áo lành thì xụ mặt xuống rồi bươi móc. Như vậy làm gì có vui. Đi đâu cũng buồn hết vì thấy những người khác hơn mình. Cái buồn đó nó tràn trề, vì ở đời làm sao mình bằng tất cả được. Bây giờ chúng ta biết tùy hỉ, thấy ai có cái gì đẹp cái gì hơn, chúng ta đều vui hết, mừng cho họ. Tâm niệm của người Phật tử phải là tâm niệm làm cho mọi người hết khổ. Phật là vị cứu khổ chúng sanh, chúng ta đã là Phật tử, tức con Phật chúng ta phải mang cái quan niệm làm cho chúng sanh hết khổ. Nếu chưa hết khổ, ít ra cũng bớt khổ. Thấy một người bớt khổ về sự ăn, sự mặc, hoặc bớt khổ về cái gì, miễn thấy họ bớt khổ là chúng ta mừng. Nếu chúng ta đố kỵ là không phải con Phật rồi. Vì vậy muốn được niềm vui đầu tiên, chúng ta phải tập phát tâm tùy hỉ. Ai có điều gì hay, cái gì tốt mình đều vui theo chớ không đố kỵ. Đó là cái vui thứ nhất của người vào đạo.
2- Đến cái vui thứ hai sâu hơn, tế nhị hơn là cái vui “hỉ xả”. Hỉ là mừng, xả là buông bỏ.
Hỉ xả có hai mặt:
- Hỉ xả những tài vật bên ngoài.
- Hỉ xả những chấp chứa trong lòng.
Nếu chúng ta có tài vật dư dả, lúc nào cũng nên vui vẻ xả giúp cho những người thiếu đói bần cùng. Cái của mình làm do mồ hôi nước mắt mình tạo, mà mình cảm thấy no đủ hay dư rồi thì vui xả cho những người thiếu hay những người ít oi hơn. Đó là hỉ xả những vật bên ngoài. Cái đó chắc dễ, phải vậy không? Đó là cái xả bên ngoài. Tuy vậy cũng hơi khó làm, vì có nhiều người, kẻ khác thấy họ dư mà bản thân họ lại thấy thiếu. Có một đồng muốn hai đồng, có hai đồng muốn mười đồng, có mười đồng muốn ba mươi đồng, muốn cho đến ngày tắt thở mà vẫn chưa đủ. Như vậy làm sao xả được. Cho nên muốn có cái xả đó chúng ta phải học Phật. Phật dạy chúng ta tri túc, tức biết đủ. Chúng ta biết đủ thì mới xả được. Trong nhà Phật nói: “Người không biết đủ thì như cái túi không đáy.” Bỏ vào bao nhiêu nó tuột xuống hết bấy nhiêu. Dù bỏ bao nhiêu cũng không đầy vì cái bệnh không biết đủ, như vậy thì làm sao mà xả.
Thí dụ: Mỗi ngày buổi trưa chúng ta ăn ba chén cơm, dù bữa nào có đồ ăn ngon, chúng ta cũng ăn ba chén đủ rồi. Nếu dư thì giúp cho người nào đó, hoặc nói dễ hiểu hơn cho một con vật nào đó. Dù đó là phần dư của mình, nhưng cũng là một lối xả. Chớ nên, khi ăn ba chén vừa no rồi, thấy có đồ ăn ngon, muốn ăn thêm nữa. Như vậy là phí phạm, vì cái lượng của mình chừng đó là đủ, mà mình không ưng dừng ngang đó. Đó là nói về cái ăn, còn bao nhiêu cái khác, chẳng hạn như cái mặc. Chúng ta có ba bộ đồ đủ để mặc, giả sử chúng ta có bộ thứ tư tức dư rồi nhưng mà có đủ chưa? Có bộ thứ tư thấy đủ chưa? Đến bộ thứ năm cũng chưa đủ nữa. Như vậy chừng nào mới xả được. Cho nên muốn xả thì phải biết đủ. Biết đủ mới xả được, còn không biết đủ thì không bao giờ xả được hết.
Như vậy quí vị muốn tập hỉ xả về tài sản thì quí vị phải thấy đủ và biết đủ. Cái dư đó dùng để giúp người này người nọ không một chút luyến tiếc. Đó gọi là tâm hỉ xả, vui vẻ mà giúp chớ không bị bắt buộc, không đợi ai bắt buộc hết.
Hỉ xả tuy khó nhưng còn dễ hơn cái hỉ xả này: Hỉ xả ở tâm. Nếu có người nào làm mình phiền, mình buồn nhất là người mình thường gặp mặt, mà lại làm mình buồn. Khi buồn mình có vui được không? Nếu buồn thì gương mặt lúc nào cũng dàu dàu hoặc thêm vẻ nhăn nhó nữa. Vậy, muốn cho mình hết khổ, thì tập xả, vui vẻ mà xả. Xả này là tha thứ, là bỏ qua. Mỗi khi những người chung quanh mình có làm gì phiền là mình buồn. Phiền ở đây là phiền hận, phiền não và sân hận, hai cái đang chất trong lòng mình, mình phải buông xả nó đi. Người nào còn ôm lòng phiền hận, họ sẽ đau khổ, đau khổ từ hiện tại cho đến mai kia, chớ không phải ở một giai đoạn nào thôi. Vì vậy, khi biết rằng mình đang ôm lòng phiền hận người này kẻ khác, thì mình phải vui vẻ bỏ hết, nghĩa là hỉ xả, tức là bao nhiêu cái phiền muộn đang chứa chấp trong lòng phải bỏ hết.
Tại sao chúng ta phải bỏ hết?
Muốn bỏ của cải thì chúng ta phải biết đủ. Bây giờ muốn bỏ phiền hận, phải làm sao đây? Phải có lý do gì mình mới bỏ được chứ. Chớ nói bỏ đại thì làm sao mà bỏ. Phải bỏ làm sao? Bỏ cách nào?
Muốn bỏ được sự phiền muộn trong lòng, chúng ta phải thấy cuộc đời là vô thường, là ảo mộng. Nay chết, mai chết tới nơi, ôm hận mà làm gì. Đừng giận đừng hờn để lo tu hành. Do nghĩ cái chết sắp đến mà chúng ta buông xả được hết. Ai sống đời đây mà cứ giận hoài, buồn hoài. Cái buồn cái giận đó, chỉ làm khổ mình khổ người không lợi gì hết. Biết vậy chúng ta phải buông hết. Vì cái chết đến nơi, chúng ta phải ráng để cho tâm an ổn, đừng có buồn giận ai. Nghĩ đến vô thường mà hỉ xả.
Tiến hơn nữa, chúng ta thấy cuộc đời như ảo mộng, ngày nay có mặt đây, ngày mai đã mất rồi. Sống trong tạm bợ, mình tạm bợ, người tạm bợ, mọi người đều sống trong tạm bợ. Tại sao không thương nhau, nâng đỡ nhau?
Thí dụ: Nếu chúng ta biết rằng, chúng ta là người đang sắp bị kêu án tử hình, và những người chung quanh ta cũng bị kêu án tử hình hết, trong lúc mắc bận nghĩ đến cái chết, đâu ai có thì giờ để buồn giận nhau. Giả sử trong khi lẫn lộn chung chạ nhau đó, có giẫm lên nhau, hay có làm gì phiền toái nhau, cũng bỏ qua. Phải biết rằng cái chết là trên hết, chớ ở đó lo buồn giận làm gì.
Chính cái chết, nghĩ đến cái chết, chúng ta mới thấy cuộc đời là tạm bợ, sống không có cái gì bảo đảm hết. Như vậy chúng ta còn buồn giận nhau làm gì. Hãy buông xả hết những gì chứa chấp trong lòng. Ai ở đời đây mà giận với hờn.
Quí vị đã học Phật nhiều năm rồi, vậy có tập được cái tánh buông xả đó hay chưa? Đi chùa cúng Phật mà còn giận còn hờn bạn bè anh em huynh đệ hay không? Nếu ai còn chứa phiền giận gì đó, thì ngang đây hãy nguyện đức Phật chứng minh cho để xả hết, trong bụng trống rỗng không còn gì hết. Đừng thèm giận, đừng thèm buồn ai. Dù có cái giận cái buồn đó từ mười năm hay ba mươi năm rồi, ngày nay cũng xả. Dại gì chúng ta chứa rắn độc trong nhà. Phiền hận là rắn độc, có ai muốn chứa rắn độc trong nhà đâu. Nếu chứa rắn độc trong nhà thì sớm muộn gì cũng bị nó cắn. Cho nên khi biết là rắn độc rồi, thì xả, đuổi ra khỏi nhà, không bao giờ dung nó. Đó là cái thiết yếu. Nếu quí vị biết như vậy là quí vị tu rồi đó. Quí vị thấy hai cái rõ ràng: - Nếu phiền hận thì không vui. - Người nào hết phiền hận, tâm hồn rỗng rang trống trải thì người đó vui vẻ. Muốn cho được vui vẻ chúng ta phải tập hỉ xả những sự vật bên ngoài, hỉ xả những phiền muộn trong lòng, trong ngoài đều hỉ xả hết. Đó là cái vui tột độ của mình đó.
Sở dĩ đức Phật Ngài cười hoài, là vì Ngài hỉ xả, còn chúng ta quạu hoài là vì chúng ta còn phiền hận, chúng ta cố chấp. Đó là nguyên nhân của đau khổ của bệnh tật, nguyên nhân của xấu xa và cũng là nguyên nhân của đê hèn.
Người nào phiền hận thì người đó đau khổ, mặt mày xấu xa, tâm hồn không bao giờ được thơ thới, tâm hồn sầu não thì sanh bệnh hoạn chớ gì.
Vậy ai muốn mình xấu, ai muốn mình bệnh, ai muốn mình đê hèn?
Ai cũng muốn mình là người tươi đẹp, ai cũng muốn mình là người rất sung sướng. Mà tại sao mình lại chứa các nhân đau khổ như vậy? Có phải tự mình mâu thuẫn với mình hay không? Cho nên khi nào còn chút giận ai, buồn ai thì biết rằng mình muốn hại mình đó, muốn làm cho mình xấu, mình khổ, mình bệnh hoạn.
Như vậy quí vị có cần ngày mồng chín đi cúng sao hay không? Cúng sao là để cầu năm này mình khỏi tai nạn, mình được vui sướng. Bây giờ quí vị xả hết, không giận ai thì năm nay quí vị khỏi tai nạn, quí vị vui sướng rồi, cúng làm chi cho mất công. Nếu mình biết mình xả rồi, thì mình được an ổn, dù cho năm đó mình có gặp sao La Hầu, Kế Đô gì đó chẳng hạn, mình cũng an lành như thường. Mình không giận ai thì ai thù mình, không thù người thì ai hại mình. Đó là nguyên nhân an ổn thực tế. Còn cái kia là cái cầu mong huyền hoặc trên trời, chớ không chịu cái thực tế hiện tại.
Như vậy đức hỉ xả là cái hết sức quí báu cho cuộc sống hiện tại của chúng ta. Quí vị muốn được vui, muốn được tươi đẹp, sống lâu thì quí vị phải tập hỉ xả. Ba điều ấy có được đều do hỉ xả hết. Còn người nào không muốn hỉ xả là người đó muốn chết yểu, bệnh hoạn xấu xa. Như vậy quí vị hãy chọn lấy một cái ngày đầu năm này, chọn cái nào cho trọn năm đều vui như đức Di-lặc. Đó là cái vui thứ hai.
3- Cái vui thứ ba là vui “Pháp hỉ”.
Thông thường nhà Phật hay dùng: Đó là “Pháp hỉ thiền duyệt”, nghĩa là chúng ta nghe chánh pháp trong lòng thấy nhẹ nhàng thơ thới. Đó là vui pháp hỉ hay pháp lạc. Tại sao vậy? Vì chúng ta nghe kinh học đạo, chúng ta tìm được lẽ thật, chúng ta tìm được một nguồn an ủi vui tươi. Chính do tìm được, thấy được lẽ thật đó mà lòng chúng ta nhẹ nhàng thơ thới. Đó là cái vui của đạo. Người nào học đạo, nghe đạo mà thấy trong lòng vui tươi sung sướng, đó là người đã được pháp lạc hay pháp hỉ. Còn người nào nghe đạo mà gục lên gục xuống, nghiêng qua ngả lại, thì người đó khó tìm được pháp lạc. Nếu không có cái vui nghe pháp, dù có đi chùa nhưng khó tinh tấn nổi, có thích đâu mà tinh tấn. Bởi vì chúng ta cố gắng làm khi chúng ta thích thú làm, nếu không có sự thích thú thì không bao giờ có sự cố gắng nào hết. Người học đạo phải làm sao nghiền ngẫm thấy lẽ thật của đức Phật dạy tức là thấy được chân lý Phật đã chỉ dạy trong kinh. Nhận những lời chân thật cho rõ rồi, chúng ta mới thấy vui sướng, cái vui sướng đó gọi là pháp hỉ hay pháp lạc. Nhân nghe chánh pháp của Phật mà mình được vui thích, cái vui đó là cái vui chân thật. Có nhận được cái vui đó rồi thì tu hành mới tinh tấn được. Nếu không nhận được, có tu chăng, chẳng qua là cầu mong được cái này cái nọ, chớ không phải vui thích để mà tu. Người học đạo chân chánh là phải vui với đạo mà tu, chớ không phải là cầu mong cái gì khác. Như vậy khi nghe kinh hoặc đọc sách Phật phải ráng chịu khó đem tâm trí nghiền ngẫm tức là Chánh tư duy. Xét cho đúng đắn, cho tột cùng, thấy được lẽ thật trong đó thì mình vui thích lên. Cái vui thích đó làm cho mình có một sức mạnh tinh tấn trên con đường đạo.
Thí dụ: Ngoài đời, khi người ta vui quá người ta khóc, trong đạo cũng thế. Khi đọc kinh Phật, có một sự vui mừng lạ đời cảm động cũng rơi nước mắt. Đó là trường hợp của ngài Khuê Phong. Đi tu, được người tặng cho một quyển kinh Viên Giác, đọc qua Ngài vui mừng lạ đời, vui tới rơi nước mắt.
Cũng như vậy, chúng ta có thân nhân đi đâu xa hai mươi, ba mươi năm không gặp nhau, gặp lại mừng quá đến rơi nước mắt. Đó là cái vui sướng tột cùng khiến đến rơi nước mắt. Người học đạo mà vui đến mức đó thì không bao giờ thối chuyển. Khi nào đọc kinh mà thấy Phật nói hay quá cảm động sung sướng, rơi nước mắt, thì đó là duyên lành khá sâu rồi. Người được cái vui đó là người ít bị những sự khó khăn hay là chướng ngại làm cho họ phải lui sụt. Còn học đạo khi đọc kinh thì thấy buồn ngủ, tụng kinh ngáp lên ngáp xuống, thì đó là không tìm được cái vui trong đạo. Không có cái vui thì sự tu khó mà tiến bộ được. Đó là cái vui của Pháp hỉ hay là Pháp lạc.
4- Đến cái vui sâu hơn nữa là “Thiền duyệt”.
“Duyệt” là vui, vui nhè nhẹ, chớ không phải vui mừng hớn hở. Thường thường ở trong nhà Thiền có tả: Trong khi tọa thiền, đến giai đoạn thân tâm an ổn, hơi thở nhẹ nhàng, đến lúc đó có giai đoạn khinh an, nhẹ nhàng, thơ thới khác hơn bình thường. Cái vui lần lần chớ không phải cái vui mạnh đó gọi là Thiền duyệt. Chỉ khi nào chúng ta tọa Thiền hay tu Thiền, lúc đi sâu trong đó tâm hồn an ổn, thân thể điều hòa, rồi tự nhiên có cái vui an lành mà nhà Phật gọi là “Thiền duyệt vi thực” tức là lấy cái vui thiền định làm món ăn.
Quí Phật tử nào mới tập ngồi thiền thì thấy ngồi thiền vui hay khổ? Ngồi tay chân đau, thân thể mỏi mệt, mồ hôi chảy ướt áo, không thấy vui chút nào hết, ngồi mà khổ chớ không thấy vui. Như vậy tới giờ ngồi thiền là tới giờ hành phạt hay là giờ an ổn?
Lúc đầu, tới giờ ngồi thiền thấy như là một hành phạt nào đó, nhưng đến lúc tập quen rồi, ngồi thiền thấy nhẹ nhàng an ổn. Tới giờ đó không ngồi thì thấy như thiếu cái gì.
Thí dụ: Như mỗi buổi sáng, chúng ta ăn cơm hay là trưa chúng ta ăn cơm, khi đến giờ đó mà không được ăn cơm, chúng ta cảm thấy khó chịu. Chúng ta tu thiền cũng phải như vậy. Đến giờ ngồi thiền mà không ngồi được, chúng ta cảm thấy cái gì thiếu thốn, nó đòi hỏi không an. Đó là cái vui trong Thiền định. Nó như thức ăn rồi, thiếu nó như thiếu cơm, tức là Thiền duyệt vi thực. Ít người lấy cái vui trong Thiền định làm thức ăn, vì cần phải tu tập lâu dài mới tới trạng thái đó. Tới được trạng thái đó rồi mới thấy an vui, nhưng phải công phu kha khá một chút mới được. Không phải ngồi năm tháng ba tháng mà được, nhất là ngồi buổi đầu, khổ chớ không phải vui, nhọc nhằn khổ sở lắm. Qua cái nhọc nhằn khổ sở rồi, mình điều phục được thân tâm lúc đó mình mới được an vui, cái an vui đó gọi là Thiền duyệt. Bao giờ thấy cái vui Thiền định không thể thiếu được như là bữa cơm không thể thiếu được, gọi đó là “Thiền duyệt vi thực”. Đó là cái vui thứ tư.
5- Đến cái vui thứ năm khó hơn, là vui “Tịch lạc”. Cái vui này ít được nghe. Nó xuất xứ từ bốn câu kệ ở kinh Đại Bát Niết-bàn, trong đó nói rằng:
Chư hành vô thường
Thị sanh diệt pháp
Sanh diệt diệt dĩ
Tịch diệt vi lạc.
Tức là lấy chữ đầu Tịch và chữ cuối Lạc. Cho nên gọi là vui Tịch lạc. Cái vui đó là cái vui cứu kính của người tu. Hai cái vui đầu nó gần gũi với quí vị, nhưng mà người Phật tử làm chưa mấy được. Phải gắng từ cái vui thứ nhất đến cái vui thứ hai. Có được hai cái vui đó rồi mới đến cái vui thứ ba thứ tư, cuối cùng là cái vui thứ năm. Vui trong Tịch lạc. “Tịch” tức là tịch tịnh hay tịch diệt rồi được an lạc.
Cái vui này nó thế nào? Tôi dẫn mỗi câu của bài kệ để giải thích. “Chư hành vô thường”, hành ở đây là hành động, tức là thân miệng ý hoạt động. Thân miệng ý hành động thì thành nghiệp. Mọi hoạt động của thân miệng ý đều thành nghiệp hoặc nghiệp thiện hoặc nghiệp ác. Mọi nghiệp đều gốc từ thân miệng ý mà ra. Ý nghĩ miệng nói thân làm. Mọi hành động đó còn mãi mãi hay không. Nó qua rồi mất, ý nghĩ rồi mất, miệng nói rồi mất, thân hành động rồi mất. Tất cả những cái đó là chỗ tạo nghiệp mà thuộc về vô thường. Qua rồi mất qua rồi mất, nó không có lâu dài, nên nói “thị sanh diệt pháp”, tức là pháp sanh diệt, nó không có bền. Như vậy tất cả cái hành trên thế gian này, mọi hành động mọi tạo tác đều gọi là vô thường, nó không lâu dài bền bỉ. “Sanh diệt diệt dĩ”, cái sanh đó mà lặng rồi thì “tịch diệt vi lạc”. Cái lặng lẽ chân thật ấy mới là vui. Cái vui này quá sâu kín cũng gọi là cái vui Niết-bàn. Sau khi cái sanh diệt nó diệt hết rồi mới tới chỗ tịch diệt.
Nói sanh diệt là nói sanh diệt của ý, khẩu, và thân, nhưng chủ yếu là ý. Ý là chủ động cho nên ý lặng rồi dù có nói có làm cũng là tịch diệt. Như vậy sau khi vọng tưởng lặng hết rồi không còn dấy động nữa, đó là tịch diệt. Cái tịch diệt đó đi đến chỗ an ổn chân thật của cái bất sanh bất diệt. Cái bất sanh bất diệt đó là Niết-bàn. Đó là cái vui cứu kính chân thật ít người hưởng được.
Chúng ta học và tu Phật có cái vui gần, tới cái vui xa. Như cái vui Tùy hỉ thật là dễ làm không tốn công, chỉ xả tâm tật đố mình thì được rồi. Tới cái vui tốn công một chút, tức là của cải mình, mình xả và cái chứa chấp trong tâm niệm mình xả. Hai cái đó xả được là có cái vui Hỉ xả. Rồi cái vui thứ ba là Pháp hỉ hay Pháp lạc. Cái vui đó phải nghiền ngẫm, nghiên cứu có công phu với đạo lý, chúng ta mới thấy được niềm an vui ở trong đạo lý. Đến vui Thiền duyệt thì phải có công phu đậm nữa, phải nhiều năm nhiều tháng công phu tu hành mới được cái vui Thiền duyệt. Được cái vui Thiền duyệt rồi cuối cùng mới được cái vui Tịch lạc, tức là tâm lặng lẽ rỗng rang không còn một niệm dấy lên. Thấy tất cả sự vật cái gì cũng nên thơ, cái gì cũng đẹp đẽ. Không còn phân biệt đây là xấu, kia là tốt, đây là hay kia là dở, chỉ một niệm chân thật. Cho nên trong nhà thiền gọi là “xúc mục tức Bồ-đề”, tức là nhìn cái gì cũng là Bồ-đề, là giác ngộ hết. Không thấy có cái gì xấu, tất cả đều là vui, đều là đẹp. Tất cả là một mùa Xuân. Như vậy nếu chúng ta tới được chỗ vui đó, tức được một mùa Xuân vĩnh cửu, một mùa Xuân không bao giờ mất.
Tôi dẫn một Thiền sư đời nhà Tống, Thiền sư Phật Nhãn, một trong ba ông Phật: Phật Quả, Phật Nhãn, Phật Giám. Ba vị này là Thiền sư nổi tiếng đời Tống. Đây là Ngài Phật Nhãn hiệu là Thanh Viễn. Ngài có một bài thơ nói về Xuân như sau:
Xuân nhật xuân sơn lý
Xuân sự tận giai xuân
Xuân quang chiếu xuân thủy
Xuân khí kết xuân vân
Xuân khách xuân tình động
Xuân thi xuân cánh tân
Duy hữu thức xuân nhân
Vạn kiếp nguyên nhất xuân.
Tạm dịch:
Ngày xuân xuân trong núi
Việc xuân thảy đều xuân
Hồ xuân ánh xuân chiếu
Khí xuân kết mây xuân
Khách xuân lòng xuân động
Thi xuân xuân càng tươi
Chỉ có người biết xuân
Muôn kiếp một mùa xuân.
Tại sao câu nào cũng Xuân hết vậy?
Xuân nhật tức là ngày xuân, xuân sơn lý tức là Xuân trong núi. Ngày xuân trong núi giống hệt như Xuân hôm nay, tức là ngày vui, mà vui ở trong núi.
Xuân sự tận giai xuân, tức là việc xuân thảy đều Xuân, bởi vì thấy cái gì cũng là Xuân hết, đều là đẹp hết. Nếu trong lòng mình có nhẹ thênh thang không có buồn giận, hờn, phiền, không dấy niệm phân chia thì cái gì không phải là Xuân. Thấy ai cũng đẹp dễ thương hết. Sở dĩ chúng ta không vui được là vì thấy cái này xấu cái kia tốt, thấy người này dễ thương, người kia dễ ghét. Thấy người dễ ghét thì hết Xuân, mặt xụ xuống thì làm sao thấy Xuân được. Còn thấy ai cũng dễ thương, thì gặp ai mình cũng nở nụ cười, không phải Xuân là gì? Trên mặt mình luôn luôn là mùa Xuân, cho nên thấy cái gì cũng là Xuân, tất cả đều là Xuân.
Hồ xuân ánh xuân chiếu. Cái hồ thấy nó cũng tươi đẹp, thấy mặt trời soi sáng dưới đáy hồ cũng tươi đẹp luôn. Hồ xuân, rồi ánh nắng mặt trời cũng Xuân cái gì cũng đẹp hết.
Khí xuân kết mây xuân. Nhìn thấy mây nó mơ hồ lưa thưa ở chung quanh mấy ngôi nhà, cụm vườn tức là những mây mờ gọi là xuân khí, thấy cũng đẹp nên thơ. Rồi những cái đó kết thành những cụm mây. Những cụm mây đó cũng là mây xuân luôn. Như vậy nhìn người cũng là Xuân, nhìn vật cũng là Xuân, nhìn nước cũng là Xuân, nhìn trời cũng là Xuân. Xuân tất cả. Tại sao ta được Xuân như vậy? Tại trong lòng chứa đầy một mùa Xuân. Nếu trong lòng chứa đêm ba mươi, tức tối như mực thì cái gì cũng không Xuân hết, cái gì cũng đen như mực. Sở dĩ ở ngoài nó đẹp là do trong lòng mình đẹp.
Khách xuân xuân tình động. Tức là khách xuân rồi khởi tình xuân. Như người khách trong mùa Xuân, thấy cảnh đều vui theo nó, tức tình động theo mùa Xuân.
Xuân thi xuân cánh tân. Tức là mùa Xuân đã tươi rồi, thi nhân còn tô điểm cạo gọt, vuốt ve nó làm cho nó tươi đẹp thêm nữa.
Hai câu chót mới là tối quan trọng.
Duy hữu thức xuân nhân
Vạn kiếp nguyên nhất xuân.
Như vậy chỉ có người biết Xuân, muôn kiếp một mùa Xuân.
Cảnh xuân, khách xuân, tình xuân v.v... đó là cái bên ngoài. Chỉ có người biết được Xuân đó, mới vui muôn kiếp Xuân. Mùa Xuân đó là mùa Xuân Di-lặc cười hoài muôn kiếp, không bao giờ có vẻ mày sầu mặt héo gì hết. Đó là một mùa Xuân tươi đẹp, đầy cả một bầu trời, tràn trề cả nhân thế.
Quí vị có muốn hưởng một mùa Xuân đó hay không? Như vậy cái cạn đến cái sâu, quí vị từ từ bước. Cạn nhất là từ từ bỏ tật đố để phát tâm tùy hỉ vui theo tất cả việc tốt, việc lành của mọi người. Kế đó là cái vui hỉ xả tức là vui mừng bỏ hết tất cả những cái gì mình có thể bỏ được. Xả hết từ cái xả của cái bực bội, cố chấp, buông xả hết. Đó là tập xuân. Rồi tới hiểu giáo lý một cách đúng đắn, có niềm vui chân thật, tu hành tiến tới an ổn, đi đến cuối cùng mọi tâm niệm đều được an lành tự tại. Không có một chút gì dấy lên làm biến đổi tất cả sự kiện bên ngoài. Chỉ một tâm thênh thang trong trẻo thì nhìn đời bằng một mùa Xuân không đổi thay, không còn di dịch gì nữa hết. Xuân như thế mới là Xuân Di-lặc. Xuân như vậy mới là Xuân muôn đời muôn kiếp. Nếu mùa Xuân chỉ có ba tháng hoặc chỉ có mấy ngày Tết là Xuân thì Xuân đó hữu hạn quá. Ngày nay ráng mà gượng cười, rồi ngày mai gặp nhau quạu quọ tức tối thì không còn Xuân đâu. Nên phải cởi bỏ từ từ trong lòng những chướng ngại cho mùa Xuân muôn kiếp đó. Nếu chúng ta loại nó ra được thì cuối cùng chúng ta sẽ hưởng được một mùa Xuân muôn kiếp.
Mong rằng mùa Xuân muôn kiếp sẽ đến với quí vị.
SANH TỬ SỰ ĐẠI
Tất niên Canh Thân - 1981
Thiền sư Huyền Giác nói: “Sanh tử sự đại. Vô thường tấn tốc.” Ngài Từ Minh lại nói: “Sanh như đắp chăn đông, tử như cởi áo hạ.”
Là Phật tử, xuất gia cũng như tại gia, chúng ta phải sống như thế nào đối với hai quan niệm trên?
Thông thường có hai hạng người tu: chưa đạt đạo và đã đạt đạo. Hạng người chưa đạt đạo muốn tiến tu thì lúc nào cũng phải khắc trên trán bốn chữ “Sanh tử sự đại”. Đó là chủ đích của đức Thích-ca lúc xuất gia. Khi đi tu là cốt giải quyết vấn đề này. Bao nhiêu người từ trước đến giờ đành bó tay đối với vấn đề sanh tử. Vì thế đức Phật quyết định giải quyết vấn đề sanh tử, chớ không chấp nhận cách đầu hàng đó. Khi đạt đạo rồi, đó là Ngài thoát ly sanh tử. Thế nên tất cả người tu sau này khi phát tâm xuất gia hay quyết chí tu hành theo đạo Phật để giải thoát thì không ai coi thường vấn đề sanh tử. Đó là ý nghĩa của bốn chữ “Sanh tử sự đại” và cũng là bước đầu trên con đường tu của chúng ta.
Nhưng đối với người đạt đạo thấy rõ mình có cái chân thật bất biến. Cái chân thật đó trong kinh gọi là Pháp thân hay Chân tâm, cái đó không bị sanh tử lôi cuốn và cũng không lệ thuộc vào sanh tử. Sống với cái không sanh tử thì cuộc sống này chỉ là tùy duyên, đủ duyên hợp lại là sanh, thiếu duyên ly tán là tử. Sanh tử là vấn đề của duyên. Đối với Pháp thân hay Chân tâm, nó không dính dáng gì hết. Vì vậy nếu sống với Pháp thân thì sanh tử như trò chơi, như ảo mộng, như huyễn hóa không gì phải bận tâm. Cho nên có Thiền sư nói rằng “ư chư sanh tử bất quan hoài” nghĩa là đối với sanh tử không bận lòng. Cùng một ý này Thiền sư Từ Minh nói: “Sanh như đắp chăn đông, tử như cởi áo hạ.”
Người đạt đạo sống với cái không sanh tử, khi đó sanh cũng như mùa đông được chiếc chăn đắp lên cho ấm, có gì mà sợ. Còn khi bỏ thân tứ đại này để trở về Pháp thân thanh tịnh cũng như mùa nực cởi chiếc áo, mát mẻ có gì mà lo. Nhưng đối với chúng ta sanh tử là sự đại, nếu chúng ta chưa đạt đạo thì “sanh tử sự đại” có giá trị. Chúng ta thấy hai câu trên đều đúng. Người tu mà chưa đạt đạo thì sanh tử là việc lớn, khi đạt đạo rồi thấy sanh tử là trò chơi.
Khoảng giữa năm tôi có làm bài kệ:
Gá thân mộng, dạo cảnh mộng
Mộng tan rồi, cười vỡ mộng
Ghi lời mộng, nhắn khách mộng
Biết được mộng, tỉnh cơn mộng.
Nhiều vị không biết, nói tôi làm kệ là sắp từ giã. Có người đồn tôi sắp tịch nên mới để kệ lại, nhưng sự thật không phải vậy. Khi dạy Trung Quán, tôi thấy lẽ thật trong đó quá rõ ràng, cho nên làm bài kệ trên. Kệ đó có hai ý:
1- Chúng tôi ước định lại đời sống và ngày cuối cùng của chúng tôi.
2- Mong mỏi người sau nhận, hiểu những cái gì tôi đã hiểu.
Giờ đây tôi đi thẳng vào bài kệ. Gá thân mộng, dạo cảnh mộng. Hiện giờ, chúng ta thấy sự sống còn của thân này thật là quan trọng. Nhưng nếu dùng con mắt Trí tuệ Bát-nhã mà thấy thì chỉ là một mớ nhân duyên hòa hợp. Sự sống do duyên mà có, đủ duyên thì còn, thiếu duyên thì mất, không có gì bảo đảm lâu dài hết. Thân chúng ta gọi là nội tứ đại, bên ngoài là ngoại tứ đại. Hai phần này hỗ tương nhau mà tồn tại. Vì vậy cuộc sống chúng ta hiện nay là tạm bợ, vay mượn tứ đại bên ngoài hòa hợp với tứ đại bên trong. Sống bằng sự vay mượn tạm bợ như thế không phải mộng là gì, không phải huyễn hóa là gì? Nhưng chẳng lẽ chỉ có thân huyễn hóa tạm bợ này thôi sao? Ở đây chúng tôi dùng chữ “gá”. Ai “gá”? Không phải chỉ có thân tứ đại này là cứu kính duy nhất, mà còn có “chủ nhân ông”. Nói “chủ nhân ông” là khi nào chúng ta tỉnh giác. Nếu chưa tỉnh giác thì phải nói danh từ khác tức là “nghiệp thức”. Như vậy cái gá đó là Ông chủ. Chính cái thân tứ đại mới là cái tầm thường để cho Ông chủ nương tựa. Khi gá vào thân tứ đại mộng huyễn này thì cảnh mà thân tứ đại tới lui qua lại đó cũng là cảnh mộng. Thân là mộng, cảnh cũng là mộng, nên nói “gá thân mộng, dạo cảnh mộng”. Tổ Qui Sơn thường nhắc nhở: Người xuất gia phải coi mình như khách qua lại trong Tam giới. Ở đây tôi dùng câu dạo cảnh mộng vì đa số chúng ta mắc kẹt trong cảnh, thấy cảnh này là thật. Nhà của mình, đất của mình, tất cả cái gì cũng là của mình hết, cho nên được thì mừng mất thì khổ, bị ngoại cảnh lôi cuốn, sống trong bất an, bất ổn. Nếu chúng ta thấy thân và cảnh đều là mộng thì còn gì ràng buộc, còn gì lo sợ, được mất đối với chúng ta như trò chơi, không còn gì phải khổ đau nữa.
Đó là tôi diễn tả lại thân và cảnh. Khi cảnh và thân này tan rồi tức “mộng tan rồi” thì thế nào? Thì “cười vỡ mộng”. Như chúng ta đã biết một khi trả ra mà không mượn lại là thân tứ đại sắp hoại. Thở ra mà không hít vào là phong đại đã hết. Phong đại đã hết thì hỏa đại sẽ tan từ từ. Rồi tới thủy đại, địa đại sẽ tan rã sau. Như vậy một khi thở ra không hít vào thì thân tứ đại chúng ta không còn hoạt động như trước nữa, đôi mắt cũng nhắm nghiền, lúc đó ngoại cảnh không còn gì với chúng ta nữa. Thân thiếu phong đại thì thân sắp tan, mắt không còn mở thì cảnh đời đối với chúng ta cũng vắng. Thân và cảnh tan hoại nên nói rằng “mộng tan rồi”. Khi đó người đời sẽ làm sao? Hoặc là khóc biệt ly, thương cha mẹ, thương anh em, thương tất cả người chung quanh… coi đó như là một chuyến đi không bao giờ gặp lại. Hoặc là bản thân người đó sẽ khổ đau vì “tiền lộ mang mang vị tri hà vãng”, nghĩa là đường trước mờ mờ không biết về đâu. Khi sắp tắt thở nhớ lại mình không có đức hạnh gì, không biết rồi sẽ ra sao, không biết mình đi đâu? Thật là đau khổ. Như vậy có hai nỗi khổ: khổ khóc vĩnh biệt và khổ không biết thân phận mình ra sao! Hai cái đó làm cho người sắp ra đi đau khổ tràn trề. Đó là thân phận những người không biết đạo.
Nhưng ở đây tôi nói: “Mộng tan rồi, cười vỡ mộng.” Tại sao chúng ta lại cười vỡ mộng? Bởi vì mình biết đó là một giấc mộng. Đã biết là một giấc mộng thì khi hết mộng chúng ta trở về thật. Đang mộng mà chúng ta chợt tỉnh là hết mộng. Khi hết mộng chúng ta còn sợ hay không? Khi biết đó là một cơn mộng thì dù đẹp, dù xấu, dù khổ, dù vui, chúng ta đâu có gì phải sợ. Khi mộng tan chúng ta nở một nụ cười từ biệt mọi người, an lành trở về quê cũ, tức trở về cái chân thật muôn đời. Đó là “cười vỡ mộng”.
Nói như vậy mà chúng tôi đã được như vậy chưa? Đó là một vấn đề ước định. Chúng tôi tự nhắc mình phải sống thế nào? Nghĩa là đối với thân và cảnh này chúng tôi phải luôn luôn thấy nó là mộng, để khi thân này sắp hoại chúng tôi thấy đó là tan cơn mộng, chỉ “cười vỡ mộng” thôi, không có gì quan trọng. Đó là một ước định cho ngày ra đi của chúng tôi.
“Ghi lời mộng, nhắn khách mộng”, nghĩa là chúng tôi tự thấy mình sống trong cõi đời tạm bợ hư ảo không có gì thật, không lẽ biết nó hư ảo rồi an ổn vui vẻ, mặc cho người khác chìm lịm trong cơn mộng đó để than khóc, chịu đủ thứ đau khổ. Chúng tôi không nỡ nên buộc lòng phải ghi lại ít lời, nhắc những người đồng hành với mình trong cơn mộng đó. Đây là tấm lòng nghĩ đến người sau, muốn cho mọi người khi ra đi đều nở một nụ cười, chớ không phải rơi lệ dầm dề.
Nhưng “ghi” và “nhắn” cái gì đây? Nhắn rằng “biết được mộng, tỉnh cơn mộng”, nghĩa là một khi biết rõ sự sống này là mộng thì tỉnh được cơn mộng. Chủ yếu là chúng ta phải thấy rõ lẽ thật, chớ đừng lầm lẫn tưởng cuộc đời là thật rồi chìm đắm, hết cơn mộng này đến cơn mộng khác. Tỉnh được cơn mộng thì mọi khổ vui trong cuộc đời không còn chi phối được chúng ta. Cho nên sau khi tôi vỡ mộng rồi, khỏi cần họa hình họa tượng gì cả, chỉ cần biên bài kệ đó, hoặc tám câu một câu ba chữ, hoặc bốn câu một câu sáu chữ để nơi nào quí vị dễ thấy, cốt nhắc nhở lấy mình, có lợi hơn là họa hình to thờ mà không nhớ cũng vô ích. Đó là sở nguyện của tôi. Nếu được, thì tôi mãn nguyện, ngược lại thì tôi chưa hài lòng.
Bao năm qua ở Thiền đường này, tôi là người hay giảng, quí vị là người nghe giảng, hình như chúng ta đều là kẻ tỉnh hết. Nhưng sau buổi giảng, có lẽ người giảng hay quên, người nghe lại càng quên hơn nữa. Như vậy là có tỉnh nhưng lại mê. Tỉnh thì ít, mê thì quá dài. Nếu chúng ta gặp cơn ngủ quá mê, vừa mãn mộng thứ nhất, là vừa hơi tỉnh. Tỉnh rồi mà chưa có sức ngồi dậy, rửa mặt và cũng còn ham ngủ nữa thì sao? Một cơn mộng thứ hai tiếp nối, và cứ thế tiếp nối tiếp nối, không biết tới lúc nào mới hết. Chỉ khi nào chúng ta biết đó là mộng, mặc cho mộng vui hay mộng buồn, chúng ta nhất định trỗi dậy rửa mặt, đi ra ngoài hoạt động thì khả dĩ hết mộng.
Đây nói tới việc tu. Nếu chúng ta biết điều nào dở, điều nào tạo nghiệp khổ, cái nào giả cái nào thật, cái biết đó chưa đủ làm cho chúng ta giải thoát và hết khổ. Biết rồi chúng ta còn phải hành. Cho nên Phật dạy người học đạo phải đủ văn tư tu. Văn là nghe, tư là suy nghĩ, nhận định đúng. Cái biết mà chúng tôi vừa nói chính là văn và tư vậy. Nhưng chưa đủ, chúng ta còn phải tu tức là hành, cái hành đó mới là thiết yếu. Như chúng tôi thường nói: Chủ động trong cuộc luân hồi, sanh tử là ba nghiệp, chủ động trong ba nghiệp là ý nghiệp. Ý nghiệp trong nhà Thiền gọi là vọng tưởng. Vọng tưởng là động cơ chánh yếu khiến ta luân hồi sanh tử. Bây giờ muốn thoát ly sanh tử không gì hơn là chận đứng hay dừng lại vọng tưởng. Nói chận nói dừng chỉ là một lối nói, đúng ra chúng ta nhè nhẹ buông thôi. Biết rõ bộ mặt nó là không thật, buông nó rồi sẽ hết. Như vậy công phu buông xả đó tuy nhẹ nhàng đơn giản nhưng đòi hỏi phải bền bỉ lâu dài. Thuở xưa, các Thiền sư muốn buông hết phải trải qua mấy mươi năm. Như ngài Triệu Châu bậc kiệt xuất trong nhà thiền ở Trung Quốc còn nói: Ngót ba mươi năm phải buông hết mới thành một khối. Huống chi chúng ta mới buông sơ sài làm sao hết được. Như vậy chúng tôi nói rằng người quyết chí tu đạt đến kết quả viên mãn, thì phải khẳng định lập trường của mình trước mọi hoàn cảnh, nhất là về tình cảm. Ở đây chúng tôi chỉ đề cập đến tình cảm của người xuất gia. Người xuất gia trước tiên phải cắt đứt tình cảm gia đình, chính nó làm chúng ta rối ren, lo sợ, khó xử. Nói đi tu mà ít bữa nhớ nhà, lo ở nhà không có cơm ăn, áo mặc. Như vậy thì làm sao thực hiện được bản nguyện của mình. Nếu chúng ta không có thái độ dứt khoát, không can đảm như đức Phật thì khó mà giải quyết nổi. Đức Phật một phen ra đi, đến khi thành đạo mới trở về. Đó là hình ảnh một con người dứt khoát, không có thái độ chần chờ. Ngài chỉ trở về thăm vua cha, độ thân quyến là sau khi đã đạt đạo. Nhờ thái độ khẳng định đó mà Ngài thành công.
Đến đây tôi dẫn Thiền sư Lương Giới, Tổ của tông Tào Động ở Trung Hoa. Khi đi tu Ngài có viết mấy lá thư cho cha mẹ. Đọc thư Ngài, ta mới thấy ý chí người xưa.
Lá thư thứ nhất:
Được nghe, chư Phật ra đời đều do cha mẹ mà có thân, muôn loài sanh trưởng thảy nhờ trời đất che chở. Cho nên, không có cha mẹ thì chẳng sanh, không có trời đất thì chẳng trưởng, thảy nhờ ân dưỡng dục, đều thọ đức chở che.
Song, tất cả hàm thức, vạn tượng hình nghi đều thuộc vô thường chưa lìa sanh diệt. Ân bú xú nặng nề, công nuôi dưỡng sâu thẳm, dù đem của cải thế gian phụng dưỡng trọn khó đáp đền, dùng máu thịt dâng hiến cũng không được bền lâu. Trong Hiếu kinh nói: “Dù một ngày giết đôi ba con vật để cung hiến cha mẹ vẫn là bất hiếu, vì sẽ lôi nhau vào vòng trầm luân chịu muôn kiếp luân hồi.” Muốn đền ân sâu dày của cha mẹ đâu bằng công đức xuất gia, cắt đứt dòng sông ái sanh tử, vượt qua khỏi biển khổ phiền não, đáp ân cha mẹ ngàn đời, đền công từ thân muôn kiếp, bốn ân ba cõi thảy đều đền đáp. Kinh nói: “Một đứa con xuất gia chín họ đều sanh lên cõi trời.” Con thệ bỏ thân mạng đời này, chẳng trở về nhà, đem căn trần muôn kiếp chóng tỏ sáng Bát-nhã.
Cúi mong cha mẹ mở lòng hỉ xả, ý chớ trông mong, học theo gương Quốc vương Tịnh Phạn và Thánh hậu Ma-da. Hẹn đến sau kia sẽ gặp nhau trong hội Phật, còn hiện nay cam chịu lìa nhau. Con chẳng phải quên ơn dưỡng dục, chỉ vì: “Thời giờ chẳng đợi người.” Cho nên nói: “Thân này chẳng thẳng đời này độ, lại đợi đời nào độ thân này.”
Xin cha mẹ lòng chớ nhớ mong.
Tụng rằng:
Vị liễu tâm nguyên độ sổ xuân
Phiên ta tịnh thế mạn thuân tuần
Kỷ nhân đắc đạo không môn lý
Độc ngã yêm lưu tại thế trần
Cẩn cụ xích thư từ quyến ái
Nguyện minh đại pháp báo từ thân
Bất tu sái lệ tần tương ức
Thí tợ đương sơ vô ngã thân.
Dịch:
Chưa rõ nguồn tâm quá mấy năm
Thương thay mê mải luống trì trầm
Cửa không đã lắm người đắc đạo
Riêng ta trì trệ ở trong trần
Xin viết lá thư từ quyến thuộc
Nguyện thông đại pháp đáp từ thân
Không nên rơi lệ thường thương nhớ
Xem tợ buổi đầu không thân con.
Qua lá thư này chúng ta thấy Ngài cố tình nhắc cha mẹ đừng buồn, đừng khóc, coi như buổi đầu không có thân Ngài. Đó là lá thư thứ nhất gởi cha mẹ.
Lá thư thứ hai:
Con từ lìa cha mẹ chống tích trượng dạo phương Nam, tháng ngày trôi qua tính đã mười năm, trên đường con đã trải qua muôn dặm.
Cúi mong mẹ đem hết tâm ý hướng về Phật pháp, đừng ôm ấp tình ly biệt, chớ đứng tựa cửa trông con. Mọi việc trong nhà tùy thời sắp đặt, việc nhiều thì phiền não thêm nhiều. Phần anh Hai thì nên tận tâm hiếu thuận, học đòi gương Vương Tường nằm giá, còn em nhỏ thì hết sức bắt chước theo Mạnh Tông khóc măng. Phàm người ở đời phải biết tu thân hiếu đễ mới hợp lòng trời. Kẻ làm Tăng trong cửa Không thì mộ đạo tham thiền để đáp ân cha mẹ.
Ngày nay hai đường xa cách muôn sông ngàn núi, mượn giấy mực viết vài hàng để bày tỏ tấc dạ.
Tụng rằng:
Bất cầu danh lợi bất cầu Nho
Nguyện nhạo không môn xả tục đồ
Phiền não tận thời sầu hỏa diệt
Ân tình đoạn xứ ái hà khô
Lục căn giới định hương phong dẫn
Nhất niệm vô sanh huệ lực phò
Vị báo bắc đường hưu trướng vọng
Thí như tử liễu thí như vô.
Dịch:
Chẳng cầu danh lợi chẳng cầu Nho
Ưa thích cửa Không bỏ thế đồ
Phiền não hết rồi lửa sầu tắt
Ân tình dứt bặt, sông ái khô
Sáu căn giới định gió thơm cuốn
Một niệm vô sanh sức huệ phò
Xin nhắc mẹ già thôi đứng ngóng
Ví như đã chết, ví như không.
Trên đây là hai lá thư của Ngài.
Bây giờ đến lá thư của bà mẹ gởi cho Ngài:
Mẹ cùng con đời trước có nhân duyên mới kết thành tình mẹ con. Kể từ ôm thai trong lòng, sớm chiều cầu thần khấn Phật nguyện sanh được con trai. Thai bào đủ tháng mạng sống như chỉ mành, sanh con được toại nguyện quí như châu bảo. Không nề sự hôi hám của phẩn uế, chẳng ngại sự bú xú nhọc nhằn. Con vừa thành người dắt đến trường lo học tập. Hoặc khi con đi chơi về trễ, mẹ đứng tựa cửa trông mong.
Con viết thư về quyết xin xuất gia. Cha đã mất, mẹ già, anh yếu, em nghèo nàn, mẹ trông cậy vào ai? Con có ý bỏ mẹ, chớ mẹ nào có tâm quên con. Từ khi con cất bước tha phương, ngày đêm mẹ thường rơi lệ! Khổ thay! Khổ thay!
Nay con lại thệ chẳng về quê, mẹ cũng tùy chí nguyện của con. Mẹ không dám mong con như Vương Tường nằm giá, Đinh Lan khắc cây, chỉ mong con như Tôn giả Mục-liên độ mẹ thoát khỏi trầm luân tiến lên Phật quả. Nếu mẹ không như vậy e phải có tội. Con cần phải giải quyết cho xong.
Người mẹ trả lời cho con như vậy, chúng ta thấy dường như mẹ Ngài trách người đi tu là kẻ quên ơn bội nghĩa, không biết gì tới cha mẹ. Thật ra trọng trách người tu là làm sao đạt đạo để giải quyết vấn đề sanh tử cho mình, cho cha mẹ và cho tất cả chúng sanh, chớ không phải muốn bỏ cha mẹ để tìm chỗ an ổn vui chơi qua ngày hết tháng. Chí cương quyết của người tu không phải là ý bất hiếu, bỏ cha mẹ phiêu bạt để tìm chỗ an ổn cho chính mình. Vì vậy khi thực hiện bản hoài cao cả đó chúng ta phải gan dạ ngay từ buổi đầu, không thể chần chờ nửa tiến nửa lùi, nay thì quả quyết mai thì do dự, như vậy không thể nào tiến xa được. Dù biết rằng việc làm đó là bất hiếu trong hiện tại nhưng có thể cứu cha mẹ và mọi người ở ngày mai. Cho nên ngài Động Sơn nhờ lòng cương quyết mà được thành đạo.
Sau khi ngộ đạo, Ngài làm Trụ trì ngót ba mươi năm. Một hôm đi xuống bếp, Ngài thấy những người trong nhà trù làm đổ tháo thức ăn nào bún, nào gạo, nào cơm vương vãi khắp nơi. Ngài quở: “Của đàn-na thí chủ không nên hủy hoại.” Vừa nói như vậy thì thấy một vị thần quì trước mặt. Ngài hỏi:
- Ông là ai?
- Tôi là thần Thổ địa, ba mươi năm rồi tìm yết kiến Ngài mà không gặp, hôm nay mới được gặp.
Do ý chí cương quyết đó mà Ngài làm Tổ tông Tào Động truyền mãi cho đến bây giờ. Nếu người xưa chần chờ hay yếu đuối thì không bao giờ có đạo hạnh để chúng ta bắt chước theo. Vì vậy tôi mong rằng người xuất gia hay tại gia, đã quyết chí tu thì phải có lập trường vững chắc. Việc làm này không phải là việc tầm thường đơn giản, mà là việc làm cả một đời người. Nếu không bền vững, chúng ta đang tu tiến, gặp chuyện gì bận bịu của gia đình thì chúng ta bị lùi, đã không cứu được mình, huống nữa là cứu được ai. Sự tu hành chánh yếu là để thoát ly sanh tử. Muốn thoát ly sanh tử phải bền chí mới được.
Trên đây, tôi đã dẫn những lá thư của ngài Động Sơn viết về cho mẹ và thư trả lời của mẹ Ngài. Người mẹ như bà thân của ngài Động Sơn rất là hiếm. Dù thương con tràn trề nhưng không nỡ ngăn ý chí xuất gia của con nên bà tùy thuận và hi vọng con mình thành tựu đạo quả. Lời nói đó chính là một sức mạnh giúp người con nỗ lực sao cho đạt đạo mới thôi. Nhờ vậy ngài Động Sơn đã làm tròn bổn phận tu hành của mình cũng như đối với tất cả những người trong gia đình, tức quyết tâm đạt đạo để đền ơn cha mẹ, đền ơn tất cả. Do đó chúng ta khi đã phát tâm học đạo đều phải cố gắng nỗ lực và quyết chí tiến lên, chớ không tu với tánh cách lưng chừng được.
Gần đây tôi thấy người phát tâm xuất gia thì đông, mà người giữ được ý chí xuất gia thì ít, nghĩa là tuy thân ở chùa, nhưng tâm cứ nghĩ việc nhà, không buông được. Như vậy tuy có tinh thần phát tâm xuất gia, nhưng chí người xuất gia đạt đạo thì quá ít. Vì vậy tôi mong những vị đã được có phước duyên sâu dày, xuất gia học đạo nên nhớ ý chí của người xuất gia, phải làm được việc mình đã nguyện làm.
Ngài Động Sơn đã nói: “Thân này chẳng thẳng đời này độ, lại đợi đời nào độ thân này”, nghĩa là nay được thân này thì hiện đời phải giải quyết cho xong, đừng đợi đời khác, đừng quan niệm rằng tôi tu để có phước, đời sau tiếp tục tu nữa. Cái lối đợi đời khác là lối ỷ lại ngu si, để rồi tu một cách lơ mơ chớ không đi tới nơi tới chốn. Đừng nghĩ rằng mình đang ở đời mạt pháp, có cố gắng cũng không tới đâu. Dù ở thời chánh pháp, tượng pháp hay mạt pháp, nếu chúng ta nỗ lực tu đều có kết quả tốt như nhau. Chỉ vì chúng ta không cố gắng nên không giống như thời trước. Hai bài kệ trong hai lá thư của Ngài có tác dụng cảnh tỉnh mạnh mẽ đối với chúng ta. Tôi nhắc lại những câu kết của hai bài kệ trên. Bài kệ trước:
Bất tu sái lệ tần tương ức
Thí tợ đương sơ vô ngã thân.
Tạm dịch:
Không nên rơi lệ thường thương nhớ
Xem tợ buổi đầu không thân con.
Bài kệ sau:
Vị báo bắc đường hưu trướng vọng
Thí như tử liễu thí như vô.
Tạm dịch:
Xin nhắc mẹ già thôi đứng ngóng
Ví như đã chết ví như không.
Chúng ta thấy đầy đủ ý chí của Ngài qua mấy lời khẳng định: Xin thưa với cha mẹ coi như con đã chết, coi như không có con. Có thái độ dứt khoát như vậy mới mong làm tròn được nhiệm vụ của mình. Chúng ta khi đã xuất gia, đối với gia đình phải xem như mình đã chết. Có như thế mình mới thật sống. Đó là điều hết sức quan trọng đối với người tu.
Phiền não tận thời sầu hỏa diệt, ân tình đoạn xứ ái hà khô, nghĩa là phiền não hết rồi lửa sầu tắt, ân tình dứt bặt sông ái khô. Khi chúng ta hết phiền não thì lửa sầu mới tắt, khi ân tình bặt thì sông ái mới khô. Như vậy, người tu nếu để tình cảm gia đình ràng buộc mãi, thì sông ái không biết chừng nào mới khô. Trái lại, sông ái tràn đầy thì chúng ta sẽ bị cuốn trôi, không thể dừng nổi.
Còn tinh thần của người mẹ, tôi chỉ cần nhắc câu cuối: “Nếu mẹ không như vậy e phải có tội. Con cần phải giải quyết cho xong.” Quả là bà mẹ biết dạy con. Còn nghĩ rằng sao con đi lâu quá không về, hoặc giả làm món gì ngon nhắn con về đãi. Cứ như vậy hoài thì đi tu một trăm năm cũng chẳng được gì. Thế nên người tu có hai điều kiện hệ trọng: thứ nhất là tinh thần dứt khoát của mình, thứ hai là sự giúp đỡ của cha mẹ bằng cách hiểu đạo khuyên con. Có nhiều người thương con mà không hiểu đạo, cho xuất gia nhưng không dạy ý chí xuất gia, cần phải tập cho con ý chí xuất gia nữa, đó là điều cao cả của bậc làm cha mẹ. Cho nên bà chỉ nói rằng mẹ không mong con như Vương Tường nằm giá, Đinh Lan khắc cây mà chỉ mong con như Tôn giả Mục-liên độ mẹ thoát khỏi trầm luân tiến lên Phật quả. Đó là điều mẹ Ngài mong mỏi và cũng là điều rất quan trọng cho tinh thần tu tiến của hàng xuất gia.
Năm nay quí Phật tử học Phật pháp tương đối kỹ rồi, chỉ cần có ý chí thực hành nữa mới đưa chúng ta đến giải thoát sanh tử. Vì vậy tôi mong muốn tất cả đều lập chí vững chắc trên đường đạo. Nếu là người tại gia khi biết đạo rồi chúng ta phải nỗ lực dùng mọi phương tiện để sống hợp với đạo, còn người xuất gia thì phải ứng dụng sự hiểu biết của mình cho đúng và tự tháo gỡ hết những ràng buộc do bản ngã, do tình lưu luyến gia đình để mạnh dạn tiến tu. Làm sao cho đời tu chúng ta xứng đáng, không hổ thẹn khi nhắm mắt, tiếc một đời không đi tới đâu. Ngày nào còn sống thì xứng đáng là người xuất gia, đến khi nhắm mắt chỉ nở một nụ cười, thanh thản ra đi. Có như thế sự tu hành mới có ý nghĩa. Đó là điều chúng tôi mong mỏi nhất.
Cuộc đời là ảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu chúng ta phải gan dạ, mạnh dạn vượt qua ảo mộng. Có một sự tích liên quan đến đến việc gá thân mộng, tôi sẽ kể cho quí vị nghe để biết cái hay của người xưa. Thiền sư “Đả Táo Đọa”, do đập bể ông táo rơi xuống đất mà thành danh. Ngài tu ở vùng núi Xuân Sơn bên Trung Hoa với một số đồ chúng. Một hôm Ngài dẫn chúng đi dạo núi, đến gần thung lũng thấy một miếu thờ, dân chúng làm thịt bò, trâu, heo, gà dâng cúng liên miên. Hỏi ra được biết vị thần Táo ở miếu này rất linh, cầu gì được nấy. Nghe rồi, Ngài cầm gậy vô miếu, thấy trên bàn thờ có để ba viên gạch, Ngài lấy gậy gõ vào đó nói: “Đây là do gạch đất hợp thành, linh từ đâu lại, thiêng ở chỗ nào?” Nói xong, Ngài đập một gậy, ba viên gạch bể nát rơi xuống đất. Lát sau trên đường đi, gặp một vị áo xanh mũ xanh quì trước mặt. Ngài hỏi:
- Ông là ai?
- Con là thần Táo trong miếu đến tạ ơn Hòa thượng.
Ngài nói:
- Ta đã làm gì mà ngươi tạ ơn?
- Nhờ ơn Hòa thượng nói lý vô sanh mà con tỉnh ngộ, thác sanh lên cõi trời, bỏ thân đọa đày trong bao nhiêu đời ở tại miếu này.
Nói xong ông đảnh lễ rồi biến mất. Thị giả thấy vậy mới thưa:
- Bạch Hòa thượng, con hầu Ngài đã lâu mà không được nghe nói lý vô sanh, thần Táo này có phước gì mà Hòa thượng mới nói một câu ông liền ngộ?
Ngài lặp lại câu nói trên cho Thị giả nghe và hỏi:
- Ông hội không?
- Dạ con không hội.
Ngài nói:
- Bể rồi! Bể rồi! Rơi rồi! Rơi rồi!
Thị giả liền ngộ.
Kể chuyện này để quí vị hiểu chỗ chúng tôi dùng chữ gá. Thần Táo gá vào đất gạch mà phải ở đó bao nhiêu năm. Còn chúng ta gá vào cái gì? Gá vào đất nước gió lửa, rồi chấp đó cho là mình, có đau khổ chưa? Cho là mình rồi thì giành hơn giành thua, chấp phải chấp quấy. Bao nhiêu tội nghiệp cũng từ đó mà ra. Nếu bây giờ nhớ thân này là cái mình gá, không có gì quan trọng hết, biết như vậy là biết được lý vô sanh. Thân này là giả tạm, là mộng, mộng thì có gì thật đâu. Trong khi mộng, sanh cũng mộng, tử cũng mộng, sanh không thật sanh, tử không thật tử. Nhận được như vậy thì lý vô sanh hiện tiền. Ngay thân này, nhận được lẽ thật thì thấy đạo, thấy đạo thì thoát ly sanh tử. Ngược lại, chúng ta cứ bám vào thân này cho là thật, là quí rồi xem cái khổ vui, hơn thua của nó là quan trọng, tức nhiên mình bị nó chi phối, không những trong hiện đời, mà cả lúc thọ thân sau. Cho nên ngay thân này chúng ta thức tỉnh, biết được nó là mộng thì tự nhiên có thể lần lần thoát ly, không bị nó cuốn lôi nữa. Do đó thần Táo chỉ nhờ nghe câu: “đây là do gạch đất hợp thành, linh từ đâu lại, thiêng ở chỗ nào”, ông giựt mình thức tỉnh liền buông được cái gạch đất và sanh lên cõi trời. Còn chúng ta, khi biết rõ thân này do đất nước gió lửa hợp thành, không phải thật mình thì sao? Thật nhẹ nhàng biết mấy, nhưng không chịu buông, cứ bám vào đó mà hơn thua phải quấy. Có những đêm tôi ngồi ở ngoài, đuổi muỗi cắn, tôi rờ thấy xương, thấy thịt, một hồi tôi tức cười quá. Thân này thật không ra gì, gá vào nó cực quá. Gá từng khúc từng mảnh, mà cứ cho là mình, từ đó bao nhiêu cái dở phát sanh, kể không thể hết. Vậy mà cứ hài lòng, động đến là phản đối chống trả mãnh liệt.
Chúng ta chỉ cần thức tỉnh thân này tạm gá mượn, lấy đó làm bè qua sông, đừng nghĩ nó là thật, cứ lo bồi bổ tô điểm đủ thứ mà chìm đắm, không qua sông được. Những điều tôi nói trên đây nhằm nhắc nhở cho cả Tăng Ni và cư sĩ. Nếu chúng ta thức tỉnh được điều đó thì chuyện thoát ly sanh tử không khó, còn nếu chúng ta mê hoài thì không biết chừng nào ra khỏi biển sanh tử. Cho nên chủ yếu Phật dạy lý vô ngã là như vậy. Thấy rõ thân này không phải thật ngã thì tự nhiên thoát ly sanh tử. Nếu thấy là thật ngã thì ngàn đời không bao giờ ra khỏi sanh tử, dù tu hạnh gì cũng thế. Đó là một lẽ thật.
Năm cũ sắp tàn, bước qua năm mới, chúng tôi mong rằng quí vị tại gia nỗ lực làm đúng tinh thần học hiểu của mình. Còn giới xuất gia lập chí đúng tinh thần người xuất gia, để chúng ta chuẩn bị cho năm mới, cương quyết tiến tới mục đích mình đã định.
Mong tất cả chuẩn bị cho năm mới đẹp đẽ hơn, mạnh mẽ hơn, cứng cỏi hơn để đạt được sở nguyện của mình. Đó là niềm mong ước của tôi.
Tất niên Canh Thân - 1981
Thiền sư Huyền Giác nói: “Sanh tử sự đại. Vô thường tấn tốc.” Ngài Từ Minh lại nói: “Sanh như đắp chăn đông, tử như cởi áo hạ.”
Là Phật tử, xuất gia cũng như tại gia, chúng ta phải sống như thế nào đối với hai quan niệm trên?
Thông thường có hai hạng người tu: chưa đạt đạo và đã đạt đạo. Hạng người chưa đạt đạo muốn tiến tu thì lúc nào cũng phải khắc trên trán bốn chữ “Sanh tử sự đại”. Đó là chủ đích của đức Thích-ca lúc xuất gia. Khi đi tu là cốt giải quyết vấn đề này. Bao nhiêu người từ trước đến giờ đành bó tay đối với vấn đề sanh tử. Vì thế đức Phật quyết định giải quyết vấn đề sanh tử, chớ không chấp nhận cách đầu hàng đó. Khi đạt đạo rồi, đó là Ngài thoát ly sanh tử. Thế nên tất cả người tu sau này khi phát tâm xuất gia hay quyết chí tu hành theo đạo Phật để giải thoát thì không ai coi thường vấn đề sanh tử. Đó là ý nghĩa của bốn chữ “Sanh tử sự đại” và cũng là bước đầu trên con đường tu của chúng ta.
Nhưng đối với người đạt đạo thấy rõ mình có cái chân thật bất biến. Cái chân thật đó trong kinh gọi là Pháp thân hay Chân tâm, cái đó không bị sanh tử lôi cuốn và cũng không lệ thuộc vào sanh tử. Sống với cái không sanh tử thì cuộc sống này chỉ là tùy duyên, đủ duyên hợp lại là sanh, thiếu duyên ly tán là tử. Sanh tử là vấn đề của duyên. Đối với Pháp thân hay Chân tâm, nó không dính dáng gì hết. Vì vậy nếu sống với Pháp thân thì sanh tử như trò chơi, như ảo mộng, như huyễn hóa không gì phải bận tâm. Cho nên có Thiền sư nói rằng “ư chư sanh tử bất quan hoài” nghĩa là đối với sanh tử không bận lòng. Cùng một ý này Thiền sư Từ Minh nói: “Sanh như đắp chăn đông, tử như cởi áo hạ.”
Người đạt đạo sống với cái không sanh tử, khi đó sanh cũng như mùa đông được chiếc chăn đắp lên cho ấm, có gì mà sợ. Còn khi bỏ thân tứ đại này để trở về Pháp thân thanh tịnh cũng như mùa nực cởi chiếc áo, mát mẻ có gì mà lo. Nhưng đối với chúng ta sanh tử là sự đại, nếu chúng ta chưa đạt đạo thì “sanh tử sự đại” có giá trị. Chúng ta thấy hai câu trên đều đúng. Người tu mà chưa đạt đạo thì sanh tử là việc lớn, khi đạt đạo rồi thấy sanh tử là trò chơi.
Khoảng giữa năm tôi có làm bài kệ:
Gá thân mộng, dạo cảnh mộng
Mộng tan rồi, cười vỡ mộng
Ghi lời mộng, nhắn khách mộng
Biết được mộng, tỉnh cơn mộng.
Nhiều vị không biết, nói tôi làm kệ là sắp từ giã. Có người đồn tôi sắp tịch nên mới để kệ lại, nhưng sự thật không phải vậy. Khi dạy Trung Quán, tôi thấy lẽ thật trong đó quá rõ ràng, cho nên làm bài kệ trên. Kệ đó có hai ý:
1- Chúng tôi ước định lại đời sống và ngày cuối cùng của chúng tôi.
2- Mong mỏi người sau nhận, hiểu những cái gì tôi đã hiểu.
Giờ đây tôi đi thẳng vào bài kệ. Gá thân mộng, dạo cảnh mộng. Hiện giờ, chúng ta thấy sự sống còn của thân này thật là quan trọng. Nhưng nếu dùng con mắt Trí tuệ Bát-nhã mà thấy thì chỉ là một mớ nhân duyên hòa hợp. Sự sống do duyên mà có, đủ duyên thì còn, thiếu duyên thì mất, không có gì bảo đảm lâu dài hết. Thân chúng ta gọi là nội tứ đại, bên ngoài là ngoại tứ đại. Hai phần này hỗ tương nhau mà tồn tại. Vì vậy cuộc sống chúng ta hiện nay là tạm bợ, vay mượn tứ đại bên ngoài hòa hợp với tứ đại bên trong. Sống bằng sự vay mượn tạm bợ như thế không phải mộng là gì, không phải huyễn hóa là gì? Nhưng chẳng lẽ chỉ có thân huyễn hóa tạm bợ này thôi sao? Ở đây chúng tôi dùng chữ “gá”. Ai “gá”? Không phải chỉ có thân tứ đại này là cứu kính duy nhất, mà còn có “chủ nhân ông”. Nói “chủ nhân ông” là khi nào chúng ta tỉnh giác. Nếu chưa tỉnh giác thì phải nói danh từ khác tức là “nghiệp thức”. Như vậy cái gá đó là Ông chủ. Chính cái thân tứ đại mới là cái tầm thường để cho Ông chủ nương tựa. Khi gá vào thân tứ đại mộng huyễn này thì cảnh mà thân tứ đại tới lui qua lại đó cũng là cảnh mộng. Thân là mộng, cảnh cũng là mộng, nên nói “gá thân mộng, dạo cảnh mộng”. Tổ Qui Sơn thường nhắc nhở: Người xuất gia phải coi mình như khách qua lại trong Tam giới. Ở đây tôi dùng câu dạo cảnh mộng vì đa số chúng ta mắc kẹt trong cảnh, thấy cảnh này là thật. Nhà của mình, đất của mình, tất cả cái gì cũng là của mình hết, cho nên được thì mừng mất thì khổ, bị ngoại cảnh lôi cuốn, sống trong bất an, bất ổn. Nếu chúng ta thấy thân và cảnh đều là mộng thì còn gì ràng buộc, còn gì lo sợ, được mất đối với chúng ta như trò chơi, không còn gì phải khổ đau nữa.
Đó là tôi diễn tả lại thân và cảnh. Khi cảnh và thân này tan rồi tức “mộng tan rồi” thì thế nào? Thì “cười vỡ mộng”. Như chúng ta đã biết một khi trả ra mà không mượn lại là thân tứ đại sắp hoại. Thở ra mà không hít vào là phong đại đã hết. Phong đại đã hết thì hỏa đại sẽ tan từ từ. Rồi tới thủy đại, địa đại sẽ tan rã sau. Như vậy một khi thở ra không hít vào thì thân tứ đại chúng ta không còn hoạt động như trước nữa, đôi mắt cũng nhắm nghiền, lúc đó ngoại cảnh không còn gì với chúng ta nữa. Thân thiếu phong đại thì thân sắp tan, mắt không còn mở thì cảnh đời đối với chúng ta cũng vắng. Thân và cảnh tan hoại nên nói rằng “mộng tan rồi”. Khi đó người đời sẽ làm sao? Hoặc là khóc biệt ly, thương cha mẹ, thương anh em, thương tất cả người chung quanh… coi đó như là một chuyến đi không bao giờ gặp lại. Hoặc là bản thân người đó sẽ khổ đau vì “tiền lộ mang mang vị tri hà vãng”, nghĩa là đường trước mờ mờ không biết về đâu. Khi sắp tắt thở nhớ lại mình không có đức hạnh gì, không biết rồi sẽ ra sao, không biết mình đi đâu? Thật là đau khổ. Như vậy có hai nỗi khổ: khổ khóc vĩnh biệt và khổ không biết thân phận mình ra sao! Hai cái đó làm cho người sắp ra đi đau khổ tràn trề. Đó là thân phận những người không biết đạo.
Nhưng ở đây tôi nói: “Mộng tan rồi, cười vỡ mộng.” Tại sao chúng ta lại cười vỡ mộng? Bởi vì mình biết đó là một giấc mộng. Đã biết là một giấc mộng thì khi hết mộng chúng ta trở về thật. Đang mộng mà chúng ta chợt tỉnh là hết mộng. Khi hết mộng chúng ta còn sợ hay không? Khi biết đó là một cơn mộng thì dù đẹp, dù xấu, dù khổ, dù vui, chúng ta đâu có gì phải sợ. Khi mộng tan chúng ta nở một nụ cười từ biệt mọi người, an lành trở về quê cũ, tức trở về cái chân thật muôn đời. Đó là “cười vỡ mộng”.
Nói như vậy mà chúng tôi đã được như vậy chưa? Đó là một vấn đề ước định. Chúng tôi tự nhắc mình phải sống thế nào? Nghĩa là đối với thân và cảnh này chúng tôi phải luôn luôn thấy nó là mộng, để khi thân này sắp hoại chúng tôi thấy đó là tan cơn mộng, chỉ “cười vỡ mộng” thôi, không có gì quan trọng. Đó là một ước định cho ngày ra đi của chúng tôi.
“Ghi lời mộng, nhắn khách mộng”, nghĩa là chúng tôi tự thấy mình sống trong cõi đời tạm bợ hư ảo không có gì thật, không lẽ biết nó hư ảo rồi an ổn vui vẻ, mặc cho người khác chìm lịm trong cơn mộng đó để than khóc, chịu đủ thứ đau khổ. Chúng tôi không nỡ nên buộc lòng phải ghi lại ít lời, nhắc những người đồng hành với mình trong cơn mộng đó. Đây là tấm lòng nghĩ đến người sau, muốn cho mọi người khi ra đi đều nở một nụ cười, chớ không phải rơi lệ dầm dề.
Nhưng “ghi” và “nhắn” cái gì đây? Nhắn rằng “biết được mộng, tỉnh cơn mộng”, nghĩa là một khi biết rõ sự sống này là mộng thì tỉnh được cơn mộng. Chủ yếu là chúng ta phải thấy rõ lẽ thật, chớ đừng lầm lẫn tưởng cuộc đời là thật rồi chìm đắm, hết cơn mộng này đến cơn mộng khác. Tỉnh được cơn mộng thì mọi khổ vui trong cuộc đời không còn chi phối được chúng ta. Cho nên sau khi tôi vỡ mộng rồi, khỏi cần họa hình họa tượng gì cả, chỉ cần biên bài kệ đó, hoặc tám câu một câu ba chữ, hoặc bốn câu một câu sáu chữ để nơi nào quí vị dễ thấy, cốt nhắc nhở lấy mình, có lợi hơn là họa hình to thờ mà không nhớ cũng vô ích. Đó là sở nguyện của tôi. Nếu được, thì tôi mãn nguyện, ngược lại thì tôi chưa hài lòng.
Bao năm qua ở Thiền đường này, tôi là người hay giảng, quí vị là người nghe giảng, hình như chúng ta đều là kẻ tỉnh hết. Nhưng sau buổi giảng, có lẽ người giảng hay quên, người nghe lại càng quên hơn nữa. Như vậy là có tỉnh nhưng lại mê. Tỉnh thì ít, mê thì quá dài. Nếu chúng ta gặp cơn ngủ quá mê, vừa mãn mộng thứ nhất, là vừa hơi tỉnh. Tỉnh rồi mà chưa có sức ngồi dậy, rửa mặt và cũng còn ham ngủ nữa thì sao? Một cơn mộng thứ hai tiếp nối, và cứ thế tiếp nối tiếp nối, không biết tới lúc nào mới hết. Chỉ khi nào chúng ta biết đó là mộng, mặc cho mộng vui hay mộng buồn, chúng ta nhất định trỗi dậy rửa mặt, đi ra ngoài hoạt động thì khả dĩ hết mộng.
Đây nói tới việc tu. Nếu chúng ta biết điều nào dở, điều nào tạo nghiệp khổ, cái nào giả cái nào thật, cái biết đó chưa đủ làm cho chúng ta giải thoát và hết khổ. Biết rồi chúng ta còn phải hành. Cho nên Phật dạy người học đạo phải đủ văn tư tu. Văn là nghe, tư là suy nghĩ, nhận định đúng. Cái biết mà chúng tôi vừa nói chính là văn và tư vậy. Nhưng chưa đủ, chúng ta còn phải tu tức là hành, cái hành đó mới là thiết yếu. Như chúng tôi thường nói: Chủ động trong cuộc luân hồi, sanh tử là ba nghiệp, chủ động trong ba nghiệp là ý nghiệp. Ý nghiệp trong nhà Thiền gọi là vọng tưởng. Vọng tưởng là động cơ chánh yếu khiến ta luân hồi sanh tử. Bây giờ muốn thoát ly sanh tử không gì hơn là chận đứng hay dừng lại vọng tưởng. Nói chận nói dừng chỉ là một lối nói, đúng ra chúng ta nhè nhẹ buông thôi. Biết rõ bộ mặt nó là không thật, buông nó rồi sẽ hết. Như vậy công phu buông xả đó tuy nhẹ nhàng đơn giản nhưng đòi hỏi phải bền bỉ lâu dài. Thuở xưa, các Thiền sư muốn buông hết phải trải qua mấy mươi năm. Như ngài Triệu Châu bậc kiệt xuất trong nhà thiền ở Trung Quốc còn nói: Ngót ba mươi năm phải buông hết mới thành một khối. Huống chi chúng ta mới buông sơ sài làm sao hết được. Như vậy chúng tôi nói rằng người quyết chí tu đạt đến kết quả viên mãn, thì phải khẳng định lập trường của mình trước mọi hoàn cảnh, nhất là về tình cảm. Ở đây chúng tôi chỉ đề cập đến tình cảm của người xuất gia. Người xuất gia trước tiên phải cắt đứt tình cảm gia đình, chính nó làm chúng ta rối ren, lo sợ, khó xử. Nói đi tu mà ít bữa nhớ nhà, lo ở nhà không có cơm ăn, áo mặc. Như vậy thì làm sao thực hiện được bản nguyện của mình. Nếu chúng ta không có thái độ dứt khoát, không can đảm như đức Phật thì khó mà giải quyết nổi. Đức Phật một phen ra đi, đến khi thành đạo mới trở về. Đó là hình ảnh một con người dứt khoát, không có thái độ chần chờ. Ngài chỉ trở về thăm vua cha, độ thân quyến là sau khi đã đạt đạo. Nhờ thái độ khẳng định đó mà Ngài thành công.
Đến đây tôi dẫn Thiền sư Lương Giới, Tổ của tông Tào Động ở Trung Hoa. Khi đi tu Ngài có viết mấy lá thư cho cha mẹ. Đọc thư Ngài, ta mới thấy ý chí người xưa.
Lá thư thứ nhất:
Được nghe, chư Phật ra đời đều do cha mẹ mà có thân, muôn loài sanh trưởng thảy nhờ trời đất che chở. Cho nên, không có cha mẹ thì chẳng sanh, không có trời đất thì chẳng trưởng, thảy nhờ ân dưỡng dục, đều thọ đức chở che.
Song, tất cả hàm thức, vạn tượng hình nghi đều thuộc vô thường chưa lìa sanh diệt. Ân bú xú nặng nề, công nuôi dưỡng sâu thẳm, dù đem của cải thế gian phụng dưỡng trọn khó đáp đền, dùng máu thịt dâng hiến cũng không được bền lâu. Trong Hiếu kinh nói: “Dù một ngày giết đôi ba con vật để cung hiến cha mẹ vẫn là bất hiếu, vì sẽ lôi nhau vào vòng trầm luân chịu muôn kiếp luân hồi.” Muốn đền ân sâu dày của cha mẹ đâu bằng công đức xuất gia, cắt đứt dòng sông ái sanh tử, vượt qua khỏi biển khổ phiền não, đáp ân cha mẹ ngàn đời, đền công từ thân muôn kiếp, bốn ân ba cõi thảy đều đền đáp. Kinh nói: “Một đứa con xuất gia chín họ đều sanh lên cõi trời.” Con thệ bỏ thân mạng đời này, chẳng trở về nhà, đem căn trần muôn kiếp chóng tỏ sáng Bát-nhã.
Cúi mong cha mẹ mở lòng hỉ xả, ý chớ trông mong, học theo gương Quốc vương Tịnh Phạn và Thánh hậu Ma-da. Hẹn đến sau kia sẽ gặp nhau trong hội Phật, còn hiện nay cam chịu lìa nhau. Con chẳng phải quên ơn dưỡng dục, chỉ vì: “Thời giờ chẳng đợi người.” Cho nên nói: “Thân này chẳng thẳng đời này độ, lại đợi đời nào độ thân này.”
Xin cha mẹ lòng chớ nhớ mong.
Tụng rằng:
Vị liễu tâm nguyên độ sổ xuân
Phiên ta tịnh thế mạn thuân tuần
Kỷ nhân đắc đạo không môn lý
Độc ngã yêm lưu tại thế trần
Cẩn cụ xích thư từ quyến ái
Nguyện minh đại pháp báo từ thân
Bất tu sái lệ tần tương ức
Thí tợ đương sơ vô ngã thân.
Dịch:
Chưa rõ nguồn tâm quá mấy năm
Thương thay mê mải luống trì trầm
Cửa không đã lắm người đắc đạo
Riêng ta trì trệ ở trong trần
Xin viết lá thư từ quyến thuộc
Nguyện thông đại pháp đáp từ thân
Không nên rơi lệ thường thương nhớ
Xem tợ buổi đầu không thân con.
Qua lá thư này chúng ta thấy Ngài cố tình nhắc cha mẹ đừng buồn, đừng khóc, coi như buổi đầu không có thân Ngài. Đó là lá thư thứ nhất gởi cha mẹ.
Lá thư thứ hai:
Con từ lìa cha mẹ chống tích trượng dạo phương Nam, tháng ngày trôi qua tính đã mười năm, trên đường con đã trải qua muôn dặm.
Cúi mong mẹ đem hết tâm ý hướng về Phật pháp, đừng ôm ấp tình ly biệt, chớ đứng tựa cửa trông con. Mọi việc trong nhà tùy thời sắp đặt, việc nhiều thì phiền não thêm nhiều. Phần anh Hai thì nên tận tâm hiếu thuận, học đòi gương Vương Tường nằm giá, còn em nhỏ thì hết sức bắt chước theo Mạnh Tông khóc măng. Phàm người ở đời phải biết tu thân hiếu đễ mới hợp lòng trời. Kẻ làm Tăng trong cửa Không thì mộ đạo tham thiền để đáp ân cha mẹ.
Ngày nay hai đường xa cách muôn sông ngàn núi, mượn giấy mực viết vài hàng để bày tỏ tấc dạ.
Tụng rằng:
Bất cầu danh lợi bất cầu Nho
Nguyện nhạo không môn xả tục đồ
Phiền não tận thời sầu hỏa diệt
Ân tình đoạn xứ ái hà khô
Lục căn giới định hương phong dẫn
Nhất niệm vô sanh huệ lực phò
Vị báo bắc đường hưu trướng vọng
Thí như tử liễu thí như vô.
Dịch:
Chẳng cầu danh lợi chẳng cầu Nho
Ưa thích cửa Không bỏ thế đồ
Phiền não hết rồi lửa sầu tắt
Ân tình dứt bặt, sông ái khô
Sáu căn giới định gió thơm cuốn
Một niệm vô sanh sức huệ phò
Xin nhắc mẹ già thôi đứng ngóng
Ví như đã chết, ví như không.
Trên đây là hai lá thư của Ngài.
Bây giờ đến lá thư của bà mẹ gởi cho Ngài:
Mẹ cùng con đời trước có nhân duyên mới kết thành tình mẹ con. Kể từ ôm thai trong lòng, sớm chiều cầu thần khấn Phật nguyện sanh được con trai. Thai bào đủ tháng mạng sống như chỉ mành, sanh con được toại nguyện quí như châu bảo. Không nề sự hôi hám của phẩn uế, chẳng ngại sự bú xú nhọc nhằn. Con vừa thành người dắt đến trường lo học tập. Hoặc khi con đi chơi về trễ, mẹ đứng tựa cửa trông mong.
Con viết thư về quyết xin xuất gia. Cha đã mất, mẹ già, anh yếu, em nghèo nàn, mẹ trông cậy vào ai? Con có ý bỏ mẹ, chớ mẹ nào có tâm quên con. Từ khi con cất bước tha phương, ngày đêm mẹ thường rơi lệ! Khổ thay! Khổ thay!
Nay con lại thệ chẳng về quê, mẹ cũng tùy chí nguyện của con. Mẹ không dám mong con như Vương Tường nằm giá, Đinh Lan khắc cây, chỉ mong con như Tôn giả Mục-liên độ mẹ thoát khỏi trầm luân tiến lên Phật quả. Nếu mẹ không như vậy e phải có tội. Con cần phải giải quyết cho xong.
Người mẹ trả lời cho con như vậy, chúng ta thấy dường như mẹ Ngài trách người đi tu là kẻ quên ơn bội nghĩa, không biết gì tới cha mẹ. Thật ra trọng trách người tu là làm sao đạt đạo để giải quyết vấn đề sanh tử cho mình, cho cha mẹ và cho tất cả chúng sanh, chớ không phải muốn bỏ cha mẹ để tìm chỗ an ổn vui chơi qua ngày hết tháng. Chí cương quyết của người tu không phải là ý bất hiếu, bỏ cha mẹ phiêu bạt để tìm chỗ an ổn cho chính mình. Vì vậy khi thực hiện bản hoài cao cả đó chúng ta phải gan dạ ngay từ buổi đầu, không thể chần chờ nửa tiến nửa lùi, nay thì quả quyết mai thì do dự, như vậy không thể nào tiến xa được. Dù biết rằng việc làm đó là bất hiếu trong hiện tại nhưng có thể cứu cha mẹ và mọi người ở ngày mai. Cho nên ngài Động Sơn nhờ lòng cương quyết mà được thành đạo.
Sau khi ngộ đạo, Ngài làm Trụ trì ngót ba mươi năm. Một hôm đi xuống bếp, Ngài thấy những người trong nhà trù làm đổ tháo thức ăn nào bún, nào gạo, nào cơm vương vãi khắp nơi. Ngài quở: “Của đàn-na thí chủ không nên hủy hoại.” Vừa nói như vậy thì thấy một vị thần quì trước mặt. Ngài hỏi:
- Ông là ai?
- Tôi là thần Thổ địa, ba mươi năm rồi tìm yết kiến Ngài mà không gặp, hôm nay mới được gặp.
Do ý chí cương quyết đó mà Ngài làm Tổ tông Tào Động truyền mãi cho đến bây giờ. Nếu người xưa chần chờ hay yếu đuối thì không bao giờ có đạo hạnh để chúng ta bắt chước theo. Vì vậy tôi mong rằng người xuất gia hay tại gia, đã quyết chí tu thì phải có lập trường vững chắc. Việc làm này không phải là việc tầm thường đơn giản, mà là việc làm cả một đời người. Nếu không bền vững, chúng ta đang tu tiến, gặp chuyện gì bận bịu của gia đình thì chúng ta bị lùi, đã không cứu được mình, huống nữa là cứu được ai. Sự tu hành chánh yếu là để thoát ly sanh tử. Muốn thoát ly sanh tử phải bền chí mới được.
Trên đây, tôi đã dẫn những lá thư của ngài Động Sơn viết về cho mẹ và thư trả lời của mẹ Ngài. Người mẹ như bà thân của ngài Động Sơn rất là hiếm. Dù thương con tràn trề nhưng không nỡ ngăn ý chí xuất gia của con nên bà tùy thuận và hi vọng con mình thành tựu đạo quả. Lời nói đó chính là một sức mạnh giúp người con nỗ lực sao cho đạt đạo mới thôi. Nhờ vậy ngài Động Sơn đã làm tròn bổn phận tu hành của mình cũng như đối với tất cả những người trong gia đình, tức quyết tâm đạt đạo để đền ơn cha mẹ, đền ơn tất cả. Do đó chúng ta khi đã phát tâm học đạo đều phải cố gắng nỗ lực và quyết chí tiến lên, chớ không tu với tánh cách lưng chừng được.
Gần đây tôi thấy người phát tâm xuất gia thì đông, mà người giữ được ý chí xuất gia thì ít, nghĩa là tuy thân ở chùa, nhưng tâm cứ nghĩ việc nhà, không buông được. Như vậy tuy có tinh thần phát tâm xuất gia, nhưng chí người xuất gia đạt đạo thì quá ít. Vì vậy tôi mong những vị đã được có phước duyên sâu dày, xuất gia học đạo nên nhớ ý chí của người xuất gia, phải làm được việc mình đã nguyện làm.
Ngài Động Sơn đã nói: “Thân này chẳng thẳng đời này độ, lại đợi đời nào độ thân này”, nghĩa là nay được thân này thì hiện đời phải giải quyết cho xong, đừng đợi đời khác, đừng quan niệm rằng tôi tu để có phước, đời sau tiếp tục tu nữa. Cái lối đợi đời khác là lối ỷ lại ngu si, để rồi tu một cách lơ mơ chớ không đi tới nơi tới chốn. Đừng nghĩ rằng mình đang ở đời mạt pháp, có cố gắng cũng không tới đâu. Dù ở thời chánh pháp, tượng pháp hay mạt pháp, nếu chúng ta nỗ lực tu đều có kết quả tốt như nhau. Chỉ vì chúng ta không cố gắng nên không giống như thời trước. Hai bài kệ trong hai lá thư của Ngài có tác dụng cảnh tỉnh mạnh mẽ đối với chúng ta. Tôi nhắc lại những câu kết của hai bài kệ trên. Bài kệ trước:
Bất tu sái lệ tần tương ức
Thí tợ đương sơ vô ngã thân.
Tạm dịch:
Không nên rơi lệ thường thương nhớ
Xem tợ buổi đầu không thân con.
Bài kệ sau:
Vị báo bắc đường hưu trướng vọng
Thí như tử liễu thí như vô.
Tạm dịch:
Xin nhắc mẹ già thôi đứng ngóng
Ví như đã chết ví như không.
Chúng ta thấy đầy đủ ý chí của Ngài qua mấy lời khẳng định: Xin thưa với cha mẹ coi như con đã chết, coi như không có con. Có thái độ dứt khoát như vậy mới mong làm tròn được nhiệm vụ của mình. Chúng ta khi đã xuất gia, đối với gia đình phải xem như mình đã chết. Có như thế mình mới thật sống. Đó là điều hết sức quan trọng đối với người tu.
Phiền não tận thời sầu hỏa diệt, ân tình đoạn xứ ái hà khô, nghĩa là phiền não hết rồi lửa sầu tắt, ân tình dứt bặt sông ái khô. Khi chúng ta hết phiền não thì lửa sầu mới tắt, khi ân tình bặt thì sông ái mới khô. Như vậy, người tu nếu để tình cảm gia đình ràng buộc mãi, thì sông ái không biết chừng nào mới khô. Trái lại, sông ái tràn đầy thì chúng ta sẽ bị cuốn trôi, không thể dừng nổi.
Còn tinh thần của người mẹ, tôi chỉ cần nhắc câu cuối: “Nếu mẹ không như vậy e phải có tội. Con cần phải giải quyết cho xong.” Quả là bà mẹ biết dạy con. Còn nghĩ rằng sao con đi lâu quá không về, hoặc giả làm món gì ngon nhắn con về đãi. Cứ như vậy hoài thì đi tu một trăm năm cũng chẳng được gì. Thế nên người tu có hai điều kiện hệ trọng: thứ nhất là tinh thần dứt khoát của mình, thứ hai là sự giúp đỡ của cha mẹ bằng cách hiểu đạo khuyên con. Có nhiều người thương con mà không hiểu đạo, cho xuất gia nhưng không dạy ý chí xuất gia, cần phải tập cho con ý chí xuất gia nữa, đó là điều cao cả của bậc làm cha mẹ. Cho nên bà chỉ nói rằng mẹ không mong con như Vương Tường nằm giá, Đinh Lan khắc cây mà chỉ mong con như Tôn giả Mục-liên độ mẹ thoát khỏi trầm luân tiến lên Phật quả. Đó là điều mẹ Ngài mong mỏi và cũng là điều rất quan trọng cho tinh thần tu tiến của hàng xuất gia.
Năm nay quí Phật tử học Phật pháp tương đối kỹ rồi, chỉ cần có ý chí thực hành nữa mới đưa chúng ta đến giải thoát sanh tử. Vì vậy tôi mong muốn tất cả đều lập chí vững chắc trên đường đạo. Nếu là người tại gia khi biết đạo rồi chúng ta phải nỗ lực dùng mọi phương tiện để sống hợp với đạo, còn người xuất gia thì phải ứng dụng sự hiểu biết của mình cho đúng và tự tháo gỡ hết những ràng buộc do bản ngã, do tình lưu luyến gia đình để mạnh dạn tiến tu. Làm sao cho đời tu chúng ta xứng đáng, không hổ thẹn khi nhắm mắt, tiếc một đời không đi tới đâu. Ngày nào còn sống thì xứng đáng là người xuất gia, đến khi nhắm mắt chỉ nở một nụ cười, thanh thản ra đi. Có như thế sự tu hành mới có ý nghĩa. Đó là điều chúng tôi mong mỏi nhất.
Cuộc đời là ảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu chúng ta phải gan dạ, mạnh dạn vượt qua ảo mộng. Có một sự tích liên quan đến đến việc gá thân mộng, tôi sẽ kể cho quí vị nghe để biết cái hay của người xưa. Thiền sư “Đả Táo Đọa”, do đập bể ông táo rơi xuống đất mà thành danh. Ngài tu ở vùng núi Xuân Sơn bên Trung Hoa với một số đồ chúng. Một hôm Ngài dẫn chúng đi dạo núi, đến gần thung lũng thấy một miếu thờ, dân chúng làm thịt bò, trâu, heo, gà dâng cúng liên miên. Hỏi ra được biết vị thần Táo ở miếu này rất linh, cầu gì được nấy. Nghe rồi, Ngài cầm gậy vô miếu, thấy trên bàn thờ có để ba viên gạch, Ngài lấy gậy gõ vào đó nói: “Đây là do gạch đất hợp thành, linh từ đâu lại, thiêng ở chỗ nào?” Nói xong, Ngài đập một gậy, ba viên gạch bể nát rơi xuống đất. Lát sau trên đường đi, gặp một vị áo xanh mũ xanh quì trước mặt. Ngài hỏi:
- Ông là ai?
- Con là thần Táo trong miếu đến tạ ơn Hòa thượng.
Ngài nói:
- Ta đã làm gì mà ngươi tạ ơn?
- Nhờ ơn Hòa thượng nói lý vô sanh mà con tỉnh ngộ, thác sanh lên cõi trời, bỏ thân đọa đày trong bao nhiêu đời ở tại miếu này.
Nói xong ông đảnh lễ rồi biến mất. Thị giả thấy vậy mới thưa:
- Bạch Hòa thượng, con hầu Ngài đã lâu mà không được nghe nói lý vô sanh, thần Táo này có phước gì mà Hòa thượng mới nói một câu ông liền ngộ?
Ngài lặp lại câu nói trên cho Thị giả nghe và hỏi:
- Ông hội không?
- Dạ con không hội.
Ngài nói:
- Bể rồi! Bể rồi! Rơi rồi! Rơi rồi!
Thị giả liền ngộ.
Kể chuyện này để quí vị hiểu chỗ chúng tôi dùng chữ gá. Thần Táo gá vào đất gạch mà phải ở đó bao nhiêu năm. Còn chúng ta gá vào cái gì? Gá vào đất nước gió lửa, rồi chấp đó cho là mình, có đau khổ chưa? Cho là mình rồi thì giành hơn giành thua, chấp phải chấp quấy. Bao nhiêu tội nghiệp cũng từ đó mà ra. Nếu bây giờ nhớ thân này là cái mình gá, không có gì quan trọng hết, biết như vậy là biết được lý vô sanh. Thân này là giả tạm, là mộng, mộng thì có gì thật đâu. Trong khi mộng, sanh cũng mộng, tử cũng mộng, sanh không thật sanh, tử không thật tử. Nhận được như vậy thì lý vô sanh hiện tiền. Ngay thân này, nhận được lẽ thật thì thấy đạo, thấy đạo thì thoát ly sanh tử. Ngược lại, chúng ta cứ bám vào thân này cho là thật, là quí rồi xem cái khổ vui, hơn thua của nó là quan trọng, tức nhiên mình bị nó chi phối, không những trong hiện đời, mà cả lúc thọ thân sau. Cho nên ngay thân này chúng ta thức tỉnh, biết được nó là mộng thì tự nhiên có thể lần lần thoát ly, không bị nó cuốn lôi nữa. Do đó thần Táo chỉ nhờ nghe câu: “đây là do gạch đất hợp thành, linh từ đâu lại, thiêng ở chỗ nào”, ông giựt mình thức tỉnh liền buông được cái gạch đất và sanh lên cõi trời. Còn chúng ta, khi biết rõ thân này do đất nước gió lửa hợp thành, không phải thật mình thì sao? Thật nhẹ nhàng biết mấy, nhưng không chịu buông, cứ bám vào đó mà hơn thua phải quấy. Có những đêm tôi ngồi ở ngoài, đuổi muỗi cắn, tôi rờ thấy xương, thấy thịt, một hồi tôi tức cười quá. Thân này thật không ra gì, gá vào nó cực quá. Gá từng khúc từng mảnh, mà cứ cho là mình, từ đó bao nhiêu cái dở phát sanh, kể không thể hết. Vậy mà cứ hài lòng, động đến là phản đối chống trả mãnh liệt.
Chúng ta chỉ cần thức tỉnh thân này tạm gá mượn, lấy đó làm bè qua sông, đừng nghĩ nó là thật, cứ lo bồi bổ tô điểm đủ thứ mà chìm đắm, không qua sông được. Những điều tôi nói trên đây nhằm nhắc nhở cho cả Tăng Ni và cư sĩ. Nếu chúng ta thức tỉnh được điều đó thì chuyện thoát ly sanh tử không khó, còn nếu chúng ta mê hoài thì không biết chừng nào ra khỏi biển sanh tử. Cho nên chủ yếu Phật dạy lý vô ngã là như vậy. Thấy rõ thân này không phải thật ngã thì tự nhiên thoát ly sanh tử. Nếu thấy là thật ngã thì ngàn đời không bao giờ ra khỏi sanh tử, dù tu hạnh gì cũng thế. Đó là một lẽ thật.
Năm cũ sắp tàn, bước qua năm mới, chúng tôi mong rằng quí vị tại gia nỗ lực làm đúng tinh thần học hiểu của mình. Còn giới xuất gia lập chí đúng tinh thần người xuất gia, để chúng ta chuẩn bị cho năm mới, cương quyết tiến tới mục đích mình đã định.
Mong tất cả chuẩn bị cho năm mới đẹp đẽ hơn, mạnh mẽ hơn, cứng cỏi hơn để đạt được sở nguyện của mình. Đó là niềm mong ước của tôi.
XUÂN TINH TẤN
Xuân Tân Dậu - 1981
Tất cả chúng ta, mọi người tin Phật đều tin đức Di-lặc là một vị Bồ-tát hiện giờ còn ở trên cung trời Đâu-suất. Khi đủ duyên thì Ngài sẽ xuống cõi Ta-bà. Khi đó Ngài ngồi dưới cội cây Long Hoa mà thành Phật hiệu là Di-lặc. Hội thuyết pháp đó gọi là hội Long Hoa. Khi nãy lạy Phật chúng ta có câu: Nam-mô Long Hoa Giáo chủ, tức là Giáo chủ ở Long Hoa. Long Hoa là tên cây như cây bồ-đề của Phật Thích-ca ngồi vậy. Như vậy đức Phật Di-lặc chừng nào mới ra đời? Đó là câu hỏi mà Phật tử thắc mắc, vì thỉnh thoảng nghe người ta đồn đại hoặc ở nơi này có đức Phật Di-lặc hiện thân, ở nơi kia có đức Di-lặc hóa thân hoặc là sẽ ra đời làm Phật v.v... Những lời đồn đại đó nghe tưởng chừng như năm mười năm nữa Ngài ra đời. Nhưng trong kinh Phật nói thế nào? Điều đó tôi nhắc lại một lần nữa để cho quí vị nhớ kỹ để chúng ta khỏi lầm lẫn. Kinh Di-lặc Thượng Sanh kể lại đức Di-lặc từ khi Ngài còn làm Bồ-tát ở thời Phật Thích-ca tu hành, nhập diệt sẽ sanh lên cung trời Đâu-suất ở trong nội điện. Đó là kinh kể lại hành tung công hạnh tu hành của Ngài. Trong kinh Di-lặc Hạ Sanh, Phật Thích-ca nói rằng: Sau thời gian ở trên cung trời Đâu-suất tu hành đến khi mãn duyên thì được gọi là Bồ-tát Nhất sanh bổ xứ tức là vị Bồ-tát chỉ còn một đời nữa thì được bổ làm Phật. Khi mãn duyên ở cung trời Đâu-suất, Ngài mới giáng sanh nơi cõi Ta-bà để rồi tu hành như đức Thích-ca thành Phật hiệu là Di-lặc ở dưới cội Long Hoa.
Bao giờ Ngài ra đời? Đó là điều mà chúng tôi sẽ nhắc lại sau này. Theo trong kinh kể thì thế giới chúng ta đang ở trong thời kỳ giảm. Cứ một trăm năm, con người giảm đi một tuổi, giảm như vậy bao giờ tuổi thọ con người còn mười tuổi. Sau thời kỳ giảm đó rồi tới thời kỳ tăng, cứ mỗi một trăm năm thì tăng một tuổi. Bao giờ tuổi thọ khá cao thì đức Phật Di-lặc mới ra đời. Cho nên trong nhà Phật có câu quở chúng ta: Tu hành thế ấy cho tới đức Phật Di-lặc ra đời cũng chưa gặp được Ngài. Ý nói thời gian xa xôi thật là xa xôi cũng chưa có thể tiến được. Như vậy mà người ta hẹn nay hẹn mai đức Phật Di-lặc ra đời thì sao? Quí vị thấy hẹn đó đúng hay sai? Chẳng qua người ta nghe danh từ trong nhà Phật rồi bắt chước hoặc lợi dụng đó để làm một cái tựa cho người ta tin rồi hướng người về mê tín. Vì vậy người Phật tử chân chánh phải hiểu rõ điều đó, đức Di-lặc không ra đời sớm đâu, ngày ấy còn xa lắm! Bởi vì Ngài còn sanh trên cung trời Đâu-suất, và trong nội điện Đâu-suất một ngày bằng một ngàn năm ở dưới mình. Trên cung trời Đâu-suất, Ngài tu cho tới mãn đời thì biết là bao xa. Vì một ngày cung trời Đao-lợi bằng dưới mình năm trăm năm, một ngày cung trời Đâu-suất bằng một ngàn năm. Ngài tu hết cuộc đời của Ngài khoảng một trăm tuổi thì ở dưới này là bao xa? Khi sự tu hành của Ngài đầy đủ, Ngài mới sanh vào cõi Ta-bà này. Như vậy tại sao chúng ta đến ngày mùng một Tết, đi chùa lễ Phật cho đó là ngày vía đức Phật Di-lặc. Tại sao vậy?
Bồ-tát đâu phải sanh một đời thành Phật. Chưa thành Phật thì cứ chết rồi sanh đời khác tu nữa. Cứ như thế cho tới khi thành Phật, chẳng biết là bao nhiêu đời. Tại sao chúng ta lấy ngày mùng một Tết làm ngày vía Bồ-tát Di-lặc? Việc ấy vẫn có ý nghĩa. Có lẽ rằng chư vị Tổ sư của chúng ta đã thông minh sáng suốt cho nên mới đặt ngày này là ngày vía đức Di-lặc. Bởi vì tất cả hàng Phật tử xuất gia cũng như tại gia ai cũng nghĩ rằng chúng ta tu để đạt đến cái kết quả cuối cùng là thành Phật. Nhưng chừng nào thì chưa biết. Nghĩa là hi vọng cuối cùng của chúng ta là sẽ thành Phật. Như vậy là nhắm tương lai về sau, đó là cái hi vọng về sau này chúng ta sẽ thành Phật.
Ngày Tết Nguyên Đán tức là ngày đầu của một năm. Cũng là ngày hi vọng của toàn dân Việt Nam. Ai cũng nghĩ rằng ngày Tết là ngày hệ trọng phải làm sao tạo điều kiện tốt, hành động tốt, ngôn ngữ tốt, làm toàn việc tốt để rồi có một năm toàn vẹn tốt. Ai cũng mơ ước như vậy. Người Phật tử chúng ta, cũng mong cái tốt đẹp ấy là mai sau sẽ thành Phật như Ngài đương lai hạ sanh Di-lặc Tôn Phật. Mỗi đầu năm chúng ta đều hi vọng tương lai sẽ thành Phật. Chúng ta mong như thế, từ năm này sang năm khác, từ đời này đến đời sau, tới bao giờ thành Phật mới thôi.
Cái mong đó là cái ước mơ chung của toàn thể. Vì vậy mà ngày đầu năm được coi như là ngày vía đức Di-lặc để chúng ta hi vọng, chúng ta tin tưởng ở mai sau chúng ta sẽ thành Phật. Lạy Ngài không phải cầu Ngài ban ơn cho chúng ta, mà với tất cả niềm tin rằng Ngài sẽ thành Phật và chúng ta sẽ thành Phật. Đó là niềm tin căn bản của tất cả người Phật tử vào ngày đầu năm. Giờ đây tôi đi qua đề tài như đã nói là, năm nay dành buổi chúc Xuân cho tất cả quí vị Tăng Ni và Phật tử tức là chúc “Một mùa Xuân tinh tấn”.
Tại sao tôi nói một mùa Xuân tinh tấn?
Đây tôi kể sơ ảnh hưởng về đức Di-lặc cho quí vị nghe. Trong kinh có một đoạn Phật Thích-ca Ngài kể lại rằng: Bồ-tát Di-lặc và đức Thích-ca hai vị đồng phát tâm Bồ-đề một lượt, nhưng khi phát tâm rồi thì Phật Thích-ca chuyên cần tinh tấn tiến tu cho nên Ngài thành Phật đến giờ đã hơn hai ngàn năm trăm năm rồi. Còn đức Di-lặc dù đã phát Bồ-đề tâm Ngài lại thích đi viếng thăm những nhà quyền quí, thích đi chơi chỗ này chỗ kia, thăm người này viếng người nọ, cho nên trong kinh gọi Ngài là Cầu Danh. Bởi Ngài thích rong Nam tẩu Bắc, nên đức Phật đã thành Phật hơn hai ngàn năm trăm năm rồi mà tới sau thăm thẳm kia Ngài mới thành Phật. Mình nghĩ rằng đồng thời tu mà người bạn mình thành Phật trước mình mười năm, mình còn buồn huống nữa là thành Phật đã lâu xa như thế. Cái lỗi đó do đâu? Tại thiếu tinh tấn. Bởi thiếu tinh tấn cho nên phát tâm thì đồng thời mà thành quả thì sai biệt, kẻ trước người sau quá xa.
Cho nên trên phương diện tu hành chúng ta đừng có đặt thời gian. Cứ nghĩ rằng tôi tu ba năm người kia tu bốn năm, người nọ tu hai năm thì người tu bốn năm coi như nhiều hơn người ba năm, người ba năm coi như tu nhiều hơn người hai năm. Đặt thời gian như vậy e không đúng. Người tinh tấn tu một năm bằng người thiếu tinh tấn tu hai năm, bằng người giải đãi tu ba năm. Người giải đãi là người làm biếng, chỉ tu cho có chừng thì người đó chắc phải chừng gấp hai gấp ba. Như vậy thời gian không phải là cố định cho người tu là phải mấy mươi năm, mà chỉ giá trị ở sự tinh tấn. Cho nên trong kinh đức Phật Thích-ca nhiều lần Ngài nói rằng: Có những kiếp Ngài tu hạnh Bồ-tát chỉ một đời tinh tấn mà vượt qua bao nhiêu kiếp. Vì vậy tinh tấn là yếu tố then chốt trên đường tu hành. Tôi xin tổng kê những phương pháp tu của đạo Phật để quí vị thấy cái hạnh tinh tấn quan trọng như thế nào.
Nếu nói về giáo lý Thanh văn Tiểu thừa thì Ba mươi bảy phẩm trợ đạo là yếu tố then chốt tu hành thành A-la-hán. Bắt đầu là Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi hay Thất bồ-đề phần, Bát chánh đạo. Tứ niệm xứ thì không có chữ tinh tấn, nhưng qua Tứ chánh cần là bốn điều chuyên cần tức là phải tinh tấn. Tôi nói trong ba mươi bảy pháp tu thì trước hết là Tứ niệm xứ, kế đến pháp thứ hai là Tứ chánh cần. Như vậy cái thứ hai là cái tinh tấn. Đó là nói chung cho ba mươi bảy pháp. Còn nói riêng thì tới Tứ như ý túc tức là bốn cái làm cho mình được như ý, trong đó có Dục như ý túc, kế là Tinh tấn như ý túc. Rồi Ngũ căn, trước là Tín căn, kế là Tấn căn (tinh tấn). Ngũ lực cũng vậy, Tín lực rồi đến Tinh tấn lực. Thất giác chi hay Thất bồ-đề phần thì Niệm giác chi, Trạch pháp giác chi rồi đến Tinh tấn giác chi. Còn Bát chánh đạo thì sau Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng rồi tới Chánh tinh tấn. Như vậy quí vị thấy trong pháp tu không thể thiếu tinh tấn được. Thiếu tinh tấn thì không thành công. Đó là tôi nói Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, chỗ nào cũng có tinh tấn đó hết, thiếu thì không đạt kết quả. Rồi đến pháp Bồ-tát thì sao?
Bồ-tát thì tu pháp Lục độ. Lục độ gồm có: 1- Bố thí, 2- Trì giới, 3- Nhẫn nhục, 4- Tinh tấn. Như vậy cũng có tinh tấn. Do có tinh tấn rồi Thiền định mới tới Trí tuệ.
Như vậy trong pháp tu của Phật, tinh tấn không thể thiếu được. Nhờ trí tuệ nhận xét, chúng ta biết được giáo lý của đức Phật dạy, nói theo danh từ chuyên môn là chân lý. Biết được chân lý rồi thì phải nỗ lực tiến hành, chớ không phải biết rồi thả trôi rề rề được, mà phải nỗ lực. Nỗ lực đó gọi là tinh tấn. Tinh tấn là một đức tánh rất là thiết yếu trên phương diện tu hành. Vì vậy đức Thích-ca nhờ tinh tấn mà thành đạo được sớm, còn ngài Di-lặc vì thiếu tinh tấn cho nên phải kéo dài đến mấy muôn năm so với thời gian trong cõi mình. Đó là điều mà chúng tôi thấy mọi người chúng ta cần phải tu tinh tấn. Như vậy hạnh tinh tấn phải tu cách nào? Chia tổng quát ra làm bốn giai đoạn tu tinh tấn.
1- Lấy Tứ chánh cần.
2- Để trừ tam độc.
3- Tinh tấn để trừ hai con quỉ tán loạn và hôn trầm.
4- Đại tinh tấn.
Đó là đường lối tôi phác họa ra nói về đề tài tinh tấn.
1. Tu Tứ chánh cần.
Có nhiều người nghe nói siêng năng tưởng là cuốc rẫy trồng khoai hay siêng năng cái gì? Nhưng không phải. Siêng năng của nhà Phật chia ra làm bốn thứ:
- Điều ác chưa sanh thì cố gắng đừng cho nó sanh.
- Điều ác đã sanh thì nỗ lực bỏ nó làm cho nó tiêu diệt đi.
- Điều thiện chưa sanh phải kích phát cho nó sanh.
- Điều thiện đã sanh phải làm sao cho nó tăng trưởng.
Như vậy quí vị thấy chúng ta phải tinh tấn chuyên cần: chuyên cần ngăn chận những điều ác, chuyên cần phá hoại cái ác đã lỡ làm, chuyên cần gây dựng cho điều thiện phát sanh, chuyên cần làm cho điều thiện được tăng trưởng. Đó là tôi kể tên của Tứ chánh cần để quí vị nhớ bốn điều chuyên cần chân chánh của người Phật tử.
Người nào là Phật tử phải nhớ như vậy.
- Điều ác chưa sanh.
Thí dụ mình chưa biết cờ bạc tức là điều ác chưa sanh. Có người rủ thì mình phải làm sao? Nhất định từ chối. Không làm để khỏi mắc kẹt trong tội lỗi đó. Như vậy điều ác chưa có thì phải giữ trọn vẹn cho nó được tốt luôn. Còn như mình chưa biết uống rượu, nhưng có ai mời, bạn bè rủ mình, mình cũng ráng đừng cho nhiễm trong đường đó. Có nhiều người không biết uống rượu, bị người ta rủ thì uống liền. Như vậy chưa có điều xấu, lại tạo thành điều xấu, chưa có tội lỗi gây thành tội lỗi, chưa phải là chánh cần. Cho nên ngăn ngừa là một sức cố gắng, phải nỗ lực chớ không phải là ngừa suông. Ở thế gian có những cái khổ, mình không có những tật xấu, người có tật xấu họ muốn mình giống họ. Nghĩa là mình không có say rượu, không bị ngã bờ ngã bụi họ muốn làm sao cho mình giống họ. Nếu mình không chịu ngồi chung bàn với họ thì họ sẽ nói làm sao? Hoặc giả họ nói mình keo kiệt sợ tốn tiền, hoặc giả sợ về bà xã rầy, làm cho mình tức lên. Họ làm nhiều cái làm cho mình tức, rồi nghĩ trong bụng nếu mình không làm như vậy nó khi dễ mình đi. Đó là họ làm cách thả câu, nếu mình đớp mồi là mắc câu. Cho nên mình phải gan dạ, dù cho họ nói xấu mình, họ nói nhục mình, mình vẫn gan dạ, không bao giờ sợ, không bao giờ để bị kích động mà sanh ra cái dở. Đó là một sức cố gắng chớ không phải thường, phải gan dạ lắm mới được. Có một người Phật tử kể câu chuyện sau khiến tôi rơi nước mắt.
Một ông Phật tử quê cách Cai Lậy năm, sáu cây số, ông qui y tại chùa Thiên Phước. Mấy năm khoảng một ngàn chín trăm năm mươi mấy, đồn bót còn nhiều lắm, thuộc về Pháp, cho nên mấy chú lính là oai lắm. Muốn giết là giết, muốn bắn ai là bắn. Người Phật tử đó đã qui y thọ năm giới rồi. Ông khoảng năm mươi tuổi. Khi đó nhằm chiều mười bốn, hay rằm gì đó, ông đi chùa sám hối. Ông đi về ngang bót, trong bót có một người lính cũng quen ở gần nhà. Chú lính quen chào và hỏi ông đi đâu, ông trả lời tôi đi chùa về. Chú xếp bót uống rượu ngà ngà, chú thấy mới kêu vô ngồi uống rượu. Kêu không vô sợ bắt lỗi, đã lỡ rồi ông Phật tử đành bước lại. Mấy người trong tiệc bảo uống rượu. Ông từ chối, thưa: “Dạ tôi không biết uống rượu.” - “Cứ uống đi, chết tôi chịu cho.”
Ông túng quá phải nói thật: “Thưa ông xếp tôi đã qui y thọ năm giới, tôi giữ giới không uống rượu.” - “Uống đại đi, Phật quở tôi chịu cho.” Cùng quá ông nói thầm trong bụng, giả sử bắn thì bắn chớ không uống rượu. Ông tìm cách năn nỉ: “Tôi đã lỡ thọ giới rồi xếp thương tha cho tôi. Tôi uống phạm tội nghiệp.” Chúng nó ép uống nếu không uống thì nó bắn. Năn nỉ quá mà nó cũng không chịu, nó đòi bắn. Bảo uống chớ không uống thì bắn, nó không cho đi. Có một người quen ở gần lối xóm biết ông là người lương thiện, mới xô bảo: “Anh đi đi, anh này dốt lắm. Thôi xếp đừng ép ảnh. Ảnh ngu không biết ăn chơi gì hết.”
Ông đi rồi, ông nghĩ giả sử bị bắn thì chịu bắn chớ nhất định không uống.
Mình thấy người Phật tử gan dạ như vậy thật là hiếm có. Chớ còn đa số thì làm sao? - Thôi uống để nó cho đi cho rồi. Cái lối say ba ngầu có biết gì phải quấy.
Một câu chuyện khác cũng nói về giới uống rượu.
Ngày xưa có một vị làm quan lớn biết Phật pháp. Có người phạm tội. Ông nói: “Bây giờ tôi bắt anh làm ba việc, anh xem coi anh nên làm việc nào? Một là anh uống rượu, hai là anh đốt nhà, ba là anh giết người. Trong ba tội ác ấy, anh thích tội nào và chọn tội nào anh cho rằng nhẹ nhất.” Anh chàng suy nghĩ một hồi rồi nói: “Thôi tôi xin lãnh uống rượu.” Không ngờ anh uống rượu say, anh nổi điên đốt nhà người ta, người ta cự anh, anh giết người ta luôn.
Như vậy tội hết sức nhẹ mà nó trùm luôn tất cả tội nặng. Cho nên hiểu rằng uống rượu mà Phật cấm không phải là vô lý. Chính nó làm cho người ta cuồng dại, khi cuồng dại rồi thì tội nào cũng dám làm hết. Vì vậy người Phật tử chân chánh, phải ngừa phải đón đừng để cho mình mắc kẹt vào cái lỗi đó. Phải có ý chí như vậy, sự tu mới tiến được. Đó là tôi nói về điều ác chưa sanh. Trong những buổi tiệc nhất là tuổi trẻ, phải nỗ lực lắm, chiến đấu ghê gớm. Chỗ đó chính là Chánh cần vậy. Nỗ lực lắm mới chận được tội lỗi chưa sanh, nếu không cố gắng thì cái chưa sanh dễ phát sanh lắm.
- Điều ác đã sanh.
Người Phật tử đã thọ giới qui y, mà giới thứ năm lỡ ghiền rượu rồi bây giờ không thể bỏ được, nên chỉ thọ bốn giới, còn chừa một giới. Vì lỡ ghiền rượu rồi, bỏ thì bỏ không nổi. Bây giờ mình cần giữ bốn giới suốt đời sao? Năm nay thọ bốn giới, năm tới nhất định phải giữ năm giới. Như vậy là điều ác đã sanh rồi, mà phải ráng bỏ dù ghiền mà bỏ có phải ụa thì ụa, mửa thì mửa. Chừng nào bỏ được thì thọ thêm một giới. Như vậy điều ác đã sanh mình phải nỗ lực tiêu diệt, chớ đừng để nó kéo dài mãi. Đó là một cố gắng phi thường. Thí dụ như người quen uống rượu, những người quen làm tổn thương người, họ quen làm rồi, bây giờ bỏ cái đó thì họ coi như khó sống hay là khó chung chạ với bạn bè. Cần phải nỗ lực can đảm mới làm được, vì vậy mà nói là “cần”. Cần là cố gắng. Đó là điểm thứ hai, điều ác đã sanh chúng ta phải nỗ lực cố gắng mà tiêu diệt nó.
- Điều thiện chưa sanh.
Con người thông thường vô tình, thấy một người đi đường vấp té, mình cứ tỉnh bơ mà đi. Đáng lẽ mình phải tới đỡ người ta lên xem họ có thương tích gì không, băng bó cho họ, nếu cần thì đưa họ về nhà. Đó là điều thiện mà mình không chịu làm. Điều đó làm được đâu đến nỗi nào, mà chưa có trong lòng mình. Mình quen lơ là vô tình, vô nghĩa như vậy. Bây giờ mình biết đạo lý, mình phải có lòng từ bi, phải thương phải giúp những người khổ hoạn nạn. Đó là tôi nói người gặp tai nạn té, còn những trường hợp khác cũng vậy. Nếu gặp ai khổ, nhiều khi mình ngó lơ, không thèm để ý gì tới. Bây giờ trong cảnh đó mình có thể làm được mình ráng kích động cho lòng mình thương xót để cố gắng mà làm. Cái thói quen lơ là, là một điều tiêu cực. Muốn cho tích cực thì phải cố gắng thúc đẩy thì nó mới phát lên, vì vậy cần phải nỗ lực mới có thể làm điều thiện được.
- Điều thiện đã sanh phải làm cho tăng trưởng.
Trên đường tu nếu chúng ta chưa thành Phật thì chưa bao giờ hài lòng, ngày nào thành Phật mới thoả nguyện. Những phước đức chúng ta đã tạo hoặc nhiều hoặc ít cũng chớ nên hài lòng. Trong kinh Tăng Nhất A-hàm, đức Phật có dạy chúng ta đừng bao giờ sợ phước mà luôn luôn sợ tội. Tội là chướng khổ làm cho ta lui sụt, cần phải sợ phải tránh. Phước là duyên tốt giúp ta tiến tu dễ dàng nên lúc nào cũng phải làm. Vì vậy chúng ta không nên thỏa mãn với việc làm phước. Chính đức Phật còn bòn mót từ phước xỏ kim. Trong kinh kể ngài A-na-luật-đà do tinh tấn tu hành mà mù cả hai mắt. Một hôm muốn vá lại chiếc y, nhưng xỏ kim không được, Ngài mới than: “Ai làm phước xỏ kim giùm tôi.” Đức Phật đi ngang nghe được, bảo: “A-na-luật-đà, đưa ta xỏ cho.” Ngài giật mình thưa: “Bạch Thế Tôn, Như Lai là bậc phước đức trên tất cả mà còn làm phước chi nữa?” Phật dạy: “Chính ta đã đầy đủ phước đức mà còn bòn mót từ phước xỏ kim.”
Đức Phật còn như thế, huống là chúng ta mới làm được chút ít phước mà đã hài lòng tự mãn. Chúng ta phải luôn nhớ hình ảnh này của đức Phật để khi làm được điều tốt không nên hài lòng, phải nỗ lực hết khả năng. Đối với phước đức đừng bao giờ thấy đủ.
Một số Phật tử làm việc từ thiện than có những điều thật khó làm. Ví dụ đi cứu trợ nạn lụt, ban tổ chức chỉ đem theo một trăm gói gạo, thế mà họ tới một trăm mười người. Những người không được quà họ chửi mình. Như vậy làm sao không chán! Muốn không chán cần phải nỗ lực lắm mới được. Khi làm những điều lành, điều tốt, vẫn có những chướng ngại làm cho chúng ta dễ chán nản. Do đó phải bền chí, nỗ lực mới viên mãn được việc làm phước của mình.
Tôi nhắc lại tinh tấn bước đầu có bốn điều:
- Tinh tấn ngăn ngừa những điều ác chưa sanh đừng cho sanh.
- Tinh tấn tiêu diệt những điều ác đã sanh.
- Tinh tấn kích phát những điều lành chưa sanh khiến cho sanh.
- Tinh tấn làm tăng trưởng những điều lành đã sanh.
Bốn điều tinh tấn căn bản trên đây, Tăng Ni và Phật tử đều phải tu tập.
2. Trừ tam độc.
Tam độc là tham, sân và si. Muốn tiêu diệt nó phải có từ bi và trí tuệ. Tập hạnh từ để diệt lòng tham. Tham là muốn gom của thiên hạ đem về mình, dùng mọi thủ đoạn để thỏa mãn lòng tham làm cho kẻ khác đau khổ. Từ là lòng thương ban vui cho tất cả. Thấy ai chúng ta cũng thương xót muốn cho họ được vui, thì lòng tham không thể khởi được. Đó là dùng hạnh từ để diệt lòng tham.
Muốn lòng bi để trừ sân hận. Bi là nhổ hết gốc khổ của chúng sanh. Bởi có lòng bi không nỡ làm cho ai đau khổ. Sợ người đau khổ, khi nổi giận chúng ta không thể mắng chửi đánh đập họ, nên vừa dấy niệm giận liền nhớ điều này thì cơn giận lắng dịu.
Như vậy do từ mà diệt được lòng tham, do bi mà diệt được sân hận. Cho nên điều căn bản tu hành là chúng ta phải có lòng từ bi. Làm sao đối với mọi người, chúng ta thương như người thân của mình. Không nỡ làm khổ người thân tức nhiên không nỡ làm cho tất cả chúng sanh khổ. Đó là lòng từ bi. Lòng từ bi giúp chúng ta dẹp dần tâm tham lam và sân hận. Người nào mình thương có làm điều gì bực tức, mình cũng dễ tha thứ. Còn người mình ghét, có sơ hở một chút thì nổi giận liền. Thương thì lỗi mười giảm còn hai ba, ghét thì hai ba tăng lên bảy tám. Người mình thương thì muốn chia sẻ cho họ được đầy đủ. Ngược lại, người mình ghét thì muốn họ thua thấp hơn mình. Cho nên lòng thương giúp chúng ta bớt nóng giận, bớt tham lam, bỏn sẻn. Vì vậy mà phải tập từ bi đối với mọi người.
Trong đạo Phật, lý luân hồi giúp chúng ta dễ khởi từ bi. Tất cả chúng sanh, ai sanh ra đây cũng không phải mới một lần, mà đã trải qua vô số đời rồi. Đời nào sanh ra cũng có ông bà, cha mẹ, anh em, con cháu, bà con quyến thuộc để mình thương, ít nhất cũng được vài chục người. Ngoài ra còn thầy bạn v.v… đáng cho mình lo, ít nhất cũng vài chục người nữa. Vô số đời như vậy thì trên thế gian này đâu còn ai xa lạ, tất cả chúng sanh đều là thân thuộc của mình. Tỉ như hai gia đình bà con chú bác ruột xa nhau, mười năm không gặp, thì không thể biết được những đứa cháu mới ra đời sau này. Ngay cả những đứa cháu gần mình thuở năm ba tuổi, bây giờ gặp lại chúng ta cũng không nhận ra. Như vậy bà con trong một đời lâu ngày không gặp còn quên thay, huống là bà con nhiều đời. Cho nên chúng ta dùng tâm quán tất cả người thế gian nếu không phải bà con ruột thịt đời này, cũng là bà con ruột thịt đời trước hoặc nhiều đời trước nữa. Nếu mình thương bà con ruột thịt bây giờ, tại sao không thương bà con ruột thịt trước kia? Vì tất cả đều là bà con ruột thịt hết, đâu nỡ hại ai, do đó khởi tâm từ bi. Nhờ trí quán xét ấy mà lòng từ bi tăng trưởng, tham và sân giảm dần đi.
Kế đến là si. Si mê thì dùng Trí tuệ Bát-nhã quán chiếu để dẹp. Si mê có hai: si mê về thân, si mê về cảnh. Thân này do duyên hợp mà tưởng lầm là thật, là cố định nên ngã mạn, chấp trước, hơn thua phải quấy. Lúc nào cũng thấy mình là quan trọng, nếu mọi người không để ý tới thì buồn giận, tức tối. Trong đạo, ai cho ta tu lơ là không ra gì ta cũng giận. Vì bản ngã mà mình tạo ra không biết bao nhiêu tội lỗi. Bản ngã có, là vì mình lầm nhận thân thật cố định. Nếu thân thật cố định thì ông bà cha mẹ mình cũng còn hoài, nhưng ông bà cha mẹ mình đã chết hoặc sẽ chết, thì mình cũng thế. Như vậy tất cả chúng ta đều là tướng duyên hợp, còn mất tùy duyên. Dùng trí Bát-nhã quán xét như vậy thì phá được si mê. Phá được si mê thì dứt được ngã mạn, tức là dứt được giận hờn tật đố xấu xa.
Người học Phật cần tu tập hai hạnh căn bản từ bi và trí tuệ, tức là phước trí song tu. Phước là từ bi, tuệ là trí tuệ. Muốn thành Phật phước và trí không thể thiếu, cho nên đức Phật được gọi là bậc Lưỡng túc tôn. Chúng ta tu phải nỗ lực tinh tấn, để lòng từ bi ngày càng tăng trưởng, cố gắng dùng trí tuệ quán sát thân này để đừng lầm. Thân không lầm thì đối cảnh chúng ta cũng hết lầm. Thấy rõ thân cảnh là duyên hợp, thì tất cả sanh tử được mất, cả thế gian không còn chi phối chúng ta được nữa. Đó là điều tinh tấn thứ hai.
3. Trừ tán loạn và hôn trầm.
Tinh tấn thứ ba là tinh tấn của người chuyên tu, để trừ hai loại ma hôn trầm và tán loạn. Khi ngồi thiền nếu tâm không nghĩ chuyện này chuyện nọ thì gục lên gục xuống, đó là ma hôn trầm nhập rồi. Nếu chấn chỉnh qua được hôn trầm thì tới tán loạn, nhớ chuyện này chuyện nọ, cái hay cái dở. Hết nói chuyện thì hình ảnh, hết hình ảnh thì nói chuyện. Ngồi một mình mà nói chuyện hoài, nhớ người này nhớ người nọ, không cho một niệm dừng. Bị hai con ma này nhập rồi thì nó dẫn chạy hoài, một giờ ngồi thiền rốt cuộc không còn được bao nhiêu.
Làm sao trị hôn trầm? Loại ma này nguy hiểm lắm. Người mới tu ít sợ hôn trầm mà sợ tán loạn. Người tu khá ít sợ tán loạn mà sợ hôn trầm. Người tu khá, tâm hơi yên thì bắt đầu buồn ngủ, tức là hôn trầm. Người mới tu, ngồi lại thì lo đau chân, nhớ những việc xảy ra trong ngày, nhớ hoài không bỏ được, nên bị tán loạn. Ma tán loạn thấy nó khó mà dễ trị. Vì tán loạn là tâm chạy đầu này đầu nọ, khi tu hơi thuần thục, dùng trí quán biết nó là bóng dáng không thật, chúng ta buông, dần dần nó lặng. Trị ma hôn trầm mới thật là cay đắng. Vừa ngồi yên yên gục hồi nào không hay, giật mình thì việc đã rồi. Chúng ta chống không được, cũng không biết đâu mà chống. Ma tán loạn quán chiếu thì lặng, còn ma này không biết đâu mà ngừa. Trong A-hàm có bài kinh Trưởng lão Thùy Miên, Trưởng lão là người đã đắc đạo mà ngồi thiền vẫn gục như thường, huống là phàm phu chúng ta làm sao khỏi gục. Ngủ gục rất khó trị chớ không phải thường, muốn trị phải làm sao?
Có vị Thiền sư ngồi thiền ngủ gục, không có cách nào trị nổi, Ngài mới nghĩ nếu như vầy thà chết còn hơn. Ngài lên núi, tìm một nhánh cây gie ra ngoài vực thẳm, rồi leo lên đó ngồi thiền, thầm nghĩ cho mầy gục. Mầy gục cắm đầu rơi xuống dưới nát thây cho rồi. Chính nhờ sợ nát thây nên không dám gục. Hết gục Ngài được chứng đạo. Phương tiện này thật là thù thắng, phải gan dạ lắm mới làm được, gan vừa không làm nổi đâu.
Người xưa cũng khổ sở như mình, nhưng nhờ sức cố gắng nên các ngài thắng được. Trong kinh có dạy nhiều cách điều trị hôn trầm. Ngồi thiền con mắt nhìn xuống nên dễ ngủ gục. Khi lỡ gục thì phải chấn chỉnh, mở mắt to lên. Khi ngồi thiền cần để đèn sáng vừa phải, mắt mở vừa chừng. Vì để tối và nhắm mắt dễ buồn ngủ. Mở mắt lớn dễ bị tán loạn, mở vừa chừng mà gục thì mở lớn, trợn mắt, chấn chỉnh lại. Nếu còn gục thì đứng dậy lễ Phật đi kinh hành, kinh hành mà chưa hết thì rửa mặt. Rửa mặt mà không hết nữa thì đến trước Phật tha thiết lạy sám hối. Phải thay đổi luôn luôn như vậy khả dĩ mới trị được nó. Chúng ta tu mà tán loạn và hôn trầm là tại thiếu sức tinh tấn. Muốn tinh tấn thì lúc nào cũng khắc chữ “tử” trên trán. Thà chết chớ không để cho tán loạn và hôn trầm xâm nhập. Do sức tinh tấn liên tục mà qua được cơn ngủ và tán loạn. Như vậy muốn thắng được buồn ngủ và tán loạn phải dùng sức mạnh tinh tấn mà trong nhà thiền gọi là phát tâm tha thiết, thà chết chớ không để cho ma dẫn. Đó là tinh tấn để trị ma hôn tán. 4. Niệm khởi liền biết.
Đến tinh tấn thứ tư, không phải chỉ ngồi thiền mà đây là phần chuyên môn trong Thiền tông. Chúng ta phải tập làm sao trong bốn oai nghi đi đứng nằm ngồi lúc nào cũng tu, nghĩa là đi đứng nằm ngồi luôn luôn tỉnh giác. Một niệm khởi lên liền biết, không cho niệm nào dẫn đi. Như vậy cả ngày trong bốn oai nghi đi đứng nằm ngồi đều làm chủ, không mất một phút giây nào, đó là đại tinh tấn. Nếu chúng ta tinh tấn như thế, thì không còn dụng công bằng hình thức lễ bái, mà trong bất cứ hoạt động nào cũng vẫn làm chủ được mình. Người được như vậy đối với đạo không còn xa, chắc chắn sẽ thoát ly sanh tử.
Để kết thúc buổi nói chuyện về mùa Xuân tinh tấn này, tôi đọc lại bài kệ của Thiền sư Hoàng Bá:
Trần lao quýnh thoát sự phi thường
Hệ bả thằng đầu tố nhất trường
Bất thị nhất phiên hàn triệt cốt
Tranh đắc mai hoa phốc tỹ hương.
Dịch:
Vượt khỏi trần lao việc chẳng thường
Nắm chặt đầu dây giữ lập trường
Chẳng phải một phen xương lạnh buốt
Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương.
Thoát khỏi trần lao là việc phi thường. Như người leo núi phải nắm dây cho thật vững. Đây cũng vậy, muốn thoát khỏi trần lao phải nắm chặt mối dây. Mối dây ở đây là mối dây buông hết vọng tưởng, phải hằng tỉnh giác, giữ lập trường không lay chuyển, dù gặp hoàn cảnh nào. Đó là đức tinh tấn.
Cũng như muốn ngửi được mùi hương ngạt ngào của hoa mai thì phải chịu một phen lạnh thấu xương.
Chúng ta muốn đạt được kết quả viên mãn của người tu, thì phải hết sức nỗ lực, cam chịu mọi khó khăn nguy khốn. Như vậy phải nỗ lực tinh tấn không lúc nào dám lười biếng, không lúc nào dám giải đãi thì sự tu hành của chúng ta sẽ được như nguyện, đúng theo những gì chúng ta phát tâm mong cầu.
Năm nay là năm Tân Dậu chúng tôi mong rằng tất cả Tăng Ni và toàn thể Phật tử khởi đầu năm tinh tấn này, trọn năm sẽ là ngày Xuân tinh tấn. Phải cố gắng như chúng tôi đã nói, dù căn cơ khác nhau, nhưng lúc nào cũng phải cố gắng. Như vậy mới xứng đáng là người Phật tử chân chánh. Như vậy mới mong thoát ly sanh tử được.
Xuân Tân Dậu - 1981
Tất cả chúng ta, mọi người tin Phật đều tin đức Di-lặc là một vị Bồ-tát hiện giờ còn ở trên cung trời Đâu-suất. Khi đủ duyên thì Ngài sẽ xuống cõi Ta-bà. Khi đó Ngài ngồi dưới cội cây Long Hoa mà thành Phật hiệu là Di-lặc. Hội thuyết pháp đó gọi là hội Long Hoa. Khi nãy lạy Phật chúng ta có câu: Nam-mô Long Hoa Giáo chủ, tức là Giáo chủ ở Long Hoa. Long Hoa là tên cây như cây bồ-đề của Phật Thích-ca ngồi vậy. Như vậy đức Phật Di-lặc chừng nào mới ra đời? Đó là câu hỏi mà Phật tử thắc mắc, vì thỉnh thoảng nghe người ta đồn đại hoặc ở nơi này có đức Phật Di-lặc hiện thân, ở nơi kia có đức Di-lặc hóa thân hoặc là sẽ ra đời làm Phật v.v... Những lời đồn đại đó nghe tưởng chừng như năm mười năm nữa Ngài ra đời. Nhưng trong kinh Phật nói thế nào? Điều đó tôi nhắc lại một lần nữa để cho quí vị nhớ kỹ để chúng ta khỏi lầm lẫn. Kinh Di-lặc Thượng Sanh kể lại đức Di-lặc từ khi Ngài còn làm Bồ-tát ở thời Phật Thích-ca tu hành, nhập diệt sẽ sanh lên cung trời Đâu-suất ở trong nội điện. Đó là kinh kể lại hành tung công hạnh tu hành của Ngài. Trong kinh Di-lặc Hạ Sanh, Phật Thích-ca nói rằng: Sau thời gian ở trên cung trời Đâu-suất tu hành đến khi mãn duyên thì được gọi là Bồ-tát Nhất sanh bổ xứ tức là vị Bồ-tát chỉ còn một đời nữa thì được bổ làm Phật. Khi mãn duyên ở cung trời Đâu-suất, Ngài mới giáng sanh nơi cõi Ta-bà để rồi tu hành như đức Thích-ca thành Phật hiệu là Di-lặc ở dưới cội Long Hoa.
Bao giờ Ngài ra đời? Đó là điều mà chúng tôi sẽ nhắc lại sau này. Theo trong kinh kể thì thế giới chúng ta đang ở trong thời kỳ giảm. Cứ một trăm năm, con người giảm đi một tuổi, giảm như vậy bao giờ tuổi thọ con người còn mười tuổi. Sau thời kỳ giảm đó rồi tới thời kỳ tăng, cứ mỗi một trăm năm thì tăng một tuổi. Bao giờ tuổi thọ khá cao thì đức Phật Di-lặc mới ra đời. Cho nên trong nhà Phật có câu quở chúng ta: Tu hành thế ấy cho tới đức Phật Di-lặc ra đời cũng chưa gặp được Ngài. Ý nói thời gian xa xôi thật là xa xôi cũng chưa có thể tiến được. Như vậy mà người ta hẹn nay hẹn mai đức Phật Di-lặc ra đời thì sao? Quí vị thấy hẹn đó đúng hay sai? Chẳng qua người ta nghe danh từ trong nhà Phật rồi bắt chước hoặc lợi dụng đó để làm một cái tựa cho người ta tin rồi hướng người về mê tín. Vì vậy người Phật tử chân chánh phải hiểu rõ điều đó, đức Di-lặc không ra đời sớm đâu, ngày ấy còn xa lắm! Bởi vì Ngài còn sanh trên cung trời Đâu-suất, và trong nội điện Đâu-suất một ngày bằng một ngàn năm ở dưới mình. Trên cung trời Đâu-suất, Ngài tu cho tới mãn đời thì biết là bao xa. Vì một ngày cung trời Đao-lợi bằng dưới mình năm trăm năm, một ngày cung trời Đâu-suất bằng một ngàn năm. Ngài tu hết cuộc đời của Ngài khoảng một trăm tuổi thì ở dưới này là bao xa? Khi sự tu hành của Ngài đầy đủ, Ngài mới sanh vào cõi Ta-bà này. Như vậy tại sao chúng ta đến ngày mùng một Tết, đi chùa lễ Phật cho đó là ngày vía đức Phật Di-lặc. Tại sao vậy?
Bồ-tát đâu phải sanh một đời thành Phật. Chưa thành Phật thì cứ chết rồi sanh đời khác tu nữa. Cứ như thế cho tới khi thành Phật, chẳng biết là bao nhiêu đời. Tại sao chúng ta lấy ngày mùng một Tết làm ngày vía Bồ-tát Di-lặc? Việc ấy vẫn có ý nghĩa. Có lẽ rằng chư vị Tổ sư của chúng ta đã thông minh sáng suốt cho nên mới đặt ngày này là ngày vía đức Di-lặc. Bởi vì tất cả hàng Phật tử xuất gia cũng như tại gia ai cũng nghĩ rằng chúng ta tu để đạt đến cái kết quả cuối cùng là thành Phật. Nhưng chừng nào thì chưa biết. Nghĩa là hi vọng cuối cùng của chúng ta là sẽ thành Phật. Như vậy là nhắm tương lai về sau, đó là cái hi vọng về sau này chúng ta sẽ thành Phật.
Ngày Tết Nguyên Đán tức là ngày đầu của một năm. Cũng là ngày hi vọng của toàn dân Việt Nam. Ai cũng nghĩ rằng ngày Tết là ngày hệ trọng phải làm sao tạo điều kiện tốt, hành động tốt, ngôn ngữ tốt, làm toàn việc tốt để rồi có một năm toàn vẹn tốt. Ai cũng mơ ước như vậy. Người Phật tử chúng ta, cũng mong cái tốt đẹp ấy là mai sau sẽ thành Phật như Ngài đương lai hạ sanh Di-lặc Tôn Phật. Mỗi đầu năm chúng ta đều hi vọng tương lai sẽ thành Phật. Chúng ta mong như thế, từ năm này sang năm khác, từ đời này đến đời sau, tới bao giờ thành Phật mới thôi.
Cái mong đó là cái ước mơ chung của toàn thể. Vì vậy mà ngày đầu năm được coi như là ngày vía đức Di-lặc để chúng ta hi vọng, chúng ta tin tưởng ở mai sau chúng ta sẽ thành Phật. Lạy Ngài không phải cầu Ngài ban ơn cho chúng ta, mà với tất cả niềm tin rằng Ngài sẽ thành Phật và chúng ta sẽ thành Phật. Đó là niềm tin căn bản của tất cả người Phật tử vào ngày đầu năm. Giờ đây tôi đi qua đề tài như đã nói là, năm nay dành buổi chúc Xuân cho tất cả quí vị Tăng Ni và Phật tử tức là chúc “Một mùa Xuân tinh tấn”.
Tại sao tôi nói một mùa Xuân tinh tấn?
Đây tôi kể sơ ảnh hưởng về đức Di-lặc cho quí vị nghe. Trong kinh có một đoạn Phật Thích-ca Ngài kể lại rằng: Bồ-tát Di-lặc và đức Thích-ca hai vị đồng phát tâm Bồ-đề một lượt, nhưng khi phát tâm rồi thì Phật Thích-ca chuyên cần tinh tấn tiến tu cho nên Ngài thành Phật đến giờ đã hơn hai ngàn năm trăm năm rồi. Còn đức Di-lặc dù đã phát Bồ-đề tâm Ngài lại thích đi viếng thăm những nhà quyền quí, thích đi chơi chỗ này chỗ kia, thăm người này viếng người nọ, cho nên trong kinh gọi Ngài là Cầu Danh. Bởi Ngài thích rong Nam tẩu Bắc, nên đức Phật đã thành Phật hơn hai ngàn năm trăm năm rồi mà tới sau thăm thẳm kia Ngài mới thành Phật. Mình nghĩ rằng đồng thời tu mà người bạn mình thành Phật trước mình mười năm, mình còn buồn huống nữa là thành Phật đã lâu xa như thế. Cái lỗi đó do đâu? Tại thiếu tinh tấn. Bởi thiếu tinh tấn cho nên phát tâm thì đồng thời mà thành quả thì sai biệt, kẻ trước người sau quá xa.
Cho nên trên phương diện tu hành chúng ta đừng có đặt thời gian. Cứ nghĩ rằng tôi tu ba năm người kia tu bốn năm, người nọ tu hai năm thì người tu bốn năm coi như nhiều hơn người ba năm, người ba năm coi như tu nhiều hơn người hai năm. Đặt thời gian như vậy e không đúng. Người tinh tấn tu một năm bằng người thiếu tinh tấn tu hai năm, bằng người giải đãi tu ba năm. Người giải đãi là người làm biếng, chỉ tu cho có chừng thì người đó chắc phải chừng gấp hai gấp ba. Như vậy thời gian không phải là cố định cho người tu là phải mấy mươi năm, mà chỉ giá trị ở sự tinh tấn. Cho nên trong kinh đức Phật Thích-ca nhiều lần Ngài nói rằng: Có những kiếp Ngài tu hạnh Bồ-tát chỉ một đời tinh tấn mà vượt qua bao nhiêu kiếp. Vì vậy tinh tấn là yếu tố then chốt trên đường tu hành. Tôi xin tổng kê những phương pháp tu của đạo Phật để quí vị thấy cái hạnh tinh tấn quan trọng như thế nào.
Nếu nói về giáo lý Thanh văn Tiểu thừa thì Ba mươi bảy phẩm trợ đạo là yếu tố then chốt tu hành thành A-la-hán. Bắt đầu là Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi hay Thất bồ-đề phần, Bát chánh đạo. Tứ niệm xứ thì không có chữ tinh tấn, nhưng qua Tứ chánh cần là bốn điều chuyên cần tức là phải tinh tấn. Tôi nói trong ba mươi bảy pháp tu thì trước hết là Tứ niệm xứ, kế đến pháp thứ hai là Tứ chánh cần. Như vậy cái thứ hai là cái tinh tấn. Đó là nói chung cho ba mươi bảy pháp. Còn nói riêng thì tới Tứ như ý túc tức là bốn cái làm cho mình được như ý, trong đó có Dục như ý túc, kế là Tinh tấn như ý túc. Rồi Ngũ căn, trước là Tín căn, kế là Tấn căn (tinh tấn). Ngũ lực cũng vậy, Tín lực rồi đến Tinh tấn lực. Thất giác chi hay Thất bồ-đề phần thì Niệm giác chi, Trạch pháp giác chi rồi đến Tinh tấn giác chi. Còn Bát chánh đạo thì sau Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng rồi tới Chánh tinh tấn. Như vậy quí vị thấy trong pháp tu không thể thiếu tinh tấn được. Thiếu tinh tấn thì không thành công. Đó là tôi nói Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, chỗ nào cũng có tinh tấn đó hết, thiếu thì không đạt kết quả. Rồi đến pháp Bồ-tát thì sao?
Bồ-tát thì tu pháp Lục độ. Lục độ gồm có: 1- Bố thí, 2- Trì giới, 3- Nhẫn nhục, 4- Tinh tấn. Như vậy cũng có tinh tấn. Do có tinh tấn rồi Thiền định mới tới Trí tuệ.
Như vậy trong pháp tu của Phật, tinh tấn không thể thiếu được. Nhờ trí tuệ nhận xét, chúng ta biết được giáo lý của đức Phật dạy, nói theo danh từ chuyên môn là chân lý. Biết được chân lý rồi thì phải nỗ lực tiến hành, chớ không phải biết rồi thả trôi rề rề được, mà phải nỗ lực. Nỗ lực đó gọi là tinh tấn. Tinh tấn là một đức tánh rất là thiết yếu trên phương diện tu hành. Vì vậy đức Thích-ca nhờ tinh tấn mà thành đạo được sớm, còn ngài Di-lặc vì thiếu tinh tấn cho nên phải kéo dài đến mấy muôn năm so với thời gian trong cõi mình. Đó là điều mà chúng tôi thấy mọi người chúng ta cần phải tu tinh tấn. Như vậy hạnh tinh tấn phải tu cách nào? Chia tổng quát ra làm bốn giai đoạn tu tinh tấn.
1- Lấy Tứ chánh cần.
2- Để trừ tam độc.
3- Tinh tấn để trừ hai con quỉ tán loạn và hôn trầm.
4- Đại tinh tấn.
Đó là đường lối tôi phác họa ra nói về đề tài tinh tấn.
1. Tu Tứ chánh cần.
Có nhiều người nghe nói siêng năng tưởng là cuốc rẫy trồng khoai hay siêng năng cái gì? Nhưng không phải. Siêng năng của nhà Phật chia ra làm bốn thứ:
- Điều ác chưa sanh thì cố gắng đừng cho nó sanh.
- Điều ác đã sanh thì nỗ lực bỏ nó làm cho nó tiêu diệt đi.
- Điều thiện chưa sanh phải kích phát cho nó sanh.
- Điều thiện đã sanh phải làm sao cho nó tăng trưởng.
Như vậy quí vị thấy chúng ta phải tinh tấn chuyên cần: chuyên cần ngăn chận những điều ác, chuyên cần phá hoại cái ác đã lỡ làm, chuyên cần gây dựng cho điều thiện phát sanh, chuyên cần làm cho điều thiện được tăng trưởng. Đó là tôi kể tên của Tứ chánh cần để quí vị nhớ bốn điều chuyên cần chân chánh của người Phật tử.
Người nào là Phật tử phải nhớ như vậy.
- Điều ác chưa sanh.
Thí dụ mình chưa biết cờ bạc tức là điều ác chưa sanh. Có người rủ thì mình phải làm sao? Nhất định từ chối. Không làm để khỏi mắc kẹt trong tội lỗi đó. Như vậy điều ác chưa có thì phải giữ trọn vẹn cho nó được tốt luôn. Còn như mình chưa biết uống rượu, nhưng có ai mời, bạn bè rủ mình, mình cũng ráng đừng cho nhiễm trong đường đó. Có nhiều người không biết uống rượu, bị người ta rủ thì uống liền. Như vậy chưa có điều xấu, lại tạo thành điều xấu, chưa có tội lỗi gây thành tội lỗi, chưa phải là chánh cần. Cho nên ngăn ngừa là một sức cố gắng, phải nỗ lực chớ không phải là ngừa suông. Ở thế gian có những cái khổ, mình không có những tật xấu, người có tật xấu họ muốn mình giống họ. Nghĩa là mình không có say rượu, không bị ngã bờ ngã bụi họ muốn làm sao cho mình giống họ. Nếu mình không chịu ngồi chung bàn với họ thì họ sẽ nói làm sao? Hoặc giả họ nói mình keo kiệt sợ tốn tiền, hoặc giả sợ về bà xã rầy, làm cho mình tức lên. Họ làm nhiều cái làm cho mình tức, rồi nghĩ trong bụng nếu mình không làm như vậy nó khi dễ mình đi. Đó là họ làm cách thả câu, nếu mình đớp mồi là mắc câu. Cho nên mình phải gan dạ, dù cho họ nói xấu mình, họ nói nhục mình, mình vẫn gan dạ, không bao giờ sợ, không bao giờ để bị kích động mà sanh ra cái dở. Đó là một sức cố gắng chớ không phải thường, phải gan dạ lắm mới được. Có một người Phật tử kể câu chuyện sau khiến tôi rơi nước mắt.
Một ông Phật tử quê cách Cai Lậy năm, sáu cây số, ông qui y tại chùa Thiên Phước. Mấy năm khoảng một ngàn chín trăm năm mươi mấy, đồn bót còn nhiều lắm, thuộc về Pháp, cho nên mấy chú lính là oai lắm. Muốn giết là giết, muốn bắn ai là bắn. Người Phật tử đó đã qui y thọ năm giới rồi. Ông khoảng năm mươi tuổi. Khi đó nhằm chiều mười bốn, hay rằm gì đó, ông đi chùa sám hối. Ông đi về ngang bót, trong bót có một người lính cũng quen ở gần nhà. Chú lính quen chào và hỏi ông đi đâu, ông trả lời tôi đi chùa về. Chú xếp bót uống rượu ngà ngà, chú thấy mới kêu vô ngồi uống rượu. Kêu không vô sợ bắt lỗi, đã lỡ rồi ông Phật tử đành bước lại. Mấy người trong tiệc bảo uống rượu. Ông từ chối, thưa: “Dạ tôi không biết uống rượu.” - “Cứ uống đi, chết tôi chịu cho.”
Ông túng quá phải nói thật: “Thưa ông xếp tôi đã qui y thọ năm giới, tôi giữ giới không uống rượu.” - “Uống đại đi, Phật quở tôi chịu cho.” Cùng quá ông nói thầm trong bụng, giả sử bắn thì bắn chớ không uống rượu. Ông tìm cách năn nỉ: “Tôi đã lỡ thọ giới rồi xếp thương tha cho tôi. Tôi uống phạm tội nghiệp.” Chúng nó ép uống nếu không uống thì nó bắn. Năn nỉ quá mà nó cũng không chịu, nó đòi bắn. Bảo uống chớ không uống thì bắn, nó không cho đi. Có một người quen ở gần lối xóm biết ông là người lương thiện, mới xô bảo: “Anh đi đi, anh này dốt lắm. Thôi xếp đừng ép ảnh. Ảnh ngu không biết ăn chơi gì hết.”
Ông đi rồi, ông nghĩ giả sử bị bắn thì chịu bắn chớ nhất định không uống.
Mình thấy người Phật tử gan dạ như vậy thật là hiếm có. Chớ còn đa số thì làm sao? - Thôi uống để nó cho đi cho rồi. Cái lối say ba ngầu có biết gì phải quấy.
Một câu chuyện khác cũng nói về giới uống rượu.
Ngày xưa có một vị làm quan lớn biết Phật pháp. Có người phạm tội. Ông nói: “Bây giờ tôi bắt anh làm ba việc, anh xem coi anh nên làm việc nào? Một là anh uống rượu, hai là anh đốt nhà, ba là anh giết người. Trong ba tội ác ấy, anh thích tội nào và chọn tội nào anh cho rằng nhẹ nhất.” Anh chàng suy nghĩ một hồi rồi nói: “Thôi tôi xin lãnh uống rượu.” Không ngờ anh uống rượu say, anh nổi điên đốt nhà người ta, người ta cự anh, anh giết người ta luôn.
Như vậy tội hết sức nhẹ mà nó trùm luôn tất cả tội nặng. Cho nên hiểu rằng uống rượu mà Phật cấm không phải là vô lý. Chính nó làm cho người ta cuồng dại, khi cuồng dại rồi thì tội nào cũng dám làm hết. Vì vậy người Phật tử chân chánh, phải ngừa phải đón đừng để cho mình mắc kẹt vào cái lỗi đó. Phải có ý chí như vậy, sự tu mới tiến được. Đó là tôi nói về điều ác chưa sanh. Trong những buổi tiệc nhất là tuổi trẻ, phải nỗ lực lắm, chiến đấu ghê gớm. Chỗ đó chính là Chánh cần vậy. Nỗ lực lắm mới chận được tội lỗi chưa sanh, nếu không cố gắng thì cái chưa sanh dễ phát sanh lắm.
- Điều ác đã sanh.
Người Phật tử đã thọ giới qui y, mà giới thứ năm lỡ ghiền rượu rồi bây giờ không thể bỏ được, nên chỉ thọ bốn giới, còn chừa một giới. Vì lỡ ghiền rượu rồi, bỏ thì bỏ không nổi. Bây giờ mình cần giữ bốn giới suốt đời sao? Năm nay thọ bốn giới, năm tới nhất định phải giữ năm giới. Như vậy là điều ác đã sanh rồi, mà phải ráng bỏ dù ghiền mà bỏ có phải ụa thì ụa, mửa thì mửa. Chừng nào bỏ được thì thọ thêm một giới. Như vậy điều ác đã sanh mình phải nỗ lực tiêu diệt, chớ đừng để nó kéo dài mãi. Đó là một cố gắng phi thường. Thí dụ như người quen uống rượu, những người quen làm tổn thương người, họ quen làm rồi, bây giờ bỏ cái đó thì họ coi như khó sống hay là khó chung chạ với bạn bè. Cần phải nỗ lực can đảm mới làm được, vì vậy mà nói là “cần”. Cần là cố gắng. Đó là điểm thứ hai, điều ác đã sanh chúng ta phải nỗ lực cố gắng mà tiêu diệt nó.
- Điều thiện chưa sanh.
Con người thông thường vô tình, thấy một người đi đường vấp té, mình cứ tỉnh bơ mà đi. Đáng lẽ mình phải tới đỡ người ta lên xem họ có thương tích gì không, băng bó cho họ, nếu cần thì đưa họ về nhà. Đó là điều thiện mà mình không chịu làm. Điều đó làm được đâu đến nỗi nào, mà chưa có trong lòng mình. Mình quen lơ là vô tình, vô nghĩa như vậy. Bây giờ mình biết đạo lý, mình phải có lòng từ bi, phải thương phải giúp những người khổ hoạn nạn. Đó là tôi nói người gặp tai nạn té, còn những trường hợp khác cũng vậy. Nếu gặp ai khổ, nhiều khi mình ngó lơ, không thèm để ý gì tới. Bây giờ trong cảnh đó mình có thể làm được mình ráng kích động cho lòng mình thương xót để cố gắng mà làm. Cái thói quen lơ là, là một điều tiêu cực. Muốn cho tích cực thì phải cố gắng thúc đẩy thì nó mới phát lên, vì vậy cần phải nỗ lực mới có thể làm điều thiện được.
- Điều thiện đã sanh phải làm cho tăng trưởng.
Trên đường tu nếu chúng ta chưa thành Phật thì chưa bao giờ hài lòng, ngày nào thành Phật mới thoả nguyện. Những phước đức chúng ta đã tạo hoặc nhiều hoặc ít cũng chớ nên hài lòng. Trong kinh Tăng Nhất A-hàm, đức Phật có dạy chúng ta đừng bao giờ sợ phước mà luôn luôn sợ tội. Tội là chướng khổ làm cho ta lui sụt, cần phải sợ phải tránh. Phước là duyên tốt giúp ta tiến tu dễ dàng nên lúc nào cũng phải làm. Vì vậy chúng ta không nên thỏa mãn với việc làm phước. Chính đức Phật còn bòn mót từ phước xỏ kim. Trong kinh kể ngài A-na-luật-đà do tinh tấn tu hành mà mù cả hai mắt. Một hôm muốn vá lại chiếc y, nhưng xỏ kim không được, Ngài mới than: “Ai làm phước xỏ kim giùm tôi.” Đức Phật đi ngang nghe được, bảo: “A-na-luật-đà, đưa ta xỏ cho.” Ngài giật mình thưa: “Bạch Thế Tôn, Như Lai là bậc phước đức trên tất cả mà còn làm phước chi nữa?” Phật dạy: “Chính ta đã đầy đủ phước đức mà còn bòn mót từ phước xỏ kim.”
Đức Phật còn như thế, huống là chúng ta mới làm được chút ít phước mà đã hài lòng tự mãn. Chúng ta phải luôn nhớ hình ảnh này của đức Phật để khi làm được điều tốt không nên hài lòng, phải nỗ lực hết khả năng. Đối với phước đức đừng bao giờ thấy đủ.
Một số Phật tử làm việc từ thiện than có những điều thật khó làm. Ví dụ đi cứu trợ nạn lụt, ban tổ chức chỉ đem theo một trăm gói gạo, thế mà họ tới một trăm mười người. Những người không được quà họ chửi mình. Như vậy làm sao không chán! Muốn không chán cần phải nỗ lực lắm mới được. Khi làm những điều lành, điều tốt, vẫn có những chướng ngại làm cho chúng ta dễ chán nản. Do đó phải bền chí, nỗ lực mới viên mãn được việc làm phước của mình.
Tôi nhắc lại tinh tấn bước đầu có bốn điều:
- Tinh tấn ngăn ngừa những điều ác chưa sanh đừng cho sanh.
- Tinh tấn tiêu diệt những điều ác đã sanh.
- Tinh tấn kích phát những điều lành chưa sanh khiến cho sanh.
- Tinh tấn làm tăng trưởng những điều lành đã sanh.
Bốn điều tinh tấn căn bản trên đây, Tăng Ni và Phật tử đều phải tu tập.
2. Trừ tam độc.
Tam độc là tham, sân và si. Muốn tiêu diệt nó phải có từ bi và trí tuệ. Tập hạnh từ để diệt lòng tham. Tham là muốn gom của thiên hạ đem về mình, dùng mọi thủ đoạn để thỏa mãn lòng tham làm cho kẻ khác đau khổ. Từ là lòng thương ban vui cho tất cả. Thấy ai chúng ta cũng thương xót muốn cho họ được vui, thì lòng tham không thể khởi được. Đó là dùng hạnh từ để diệt lòng tham.
Muốn lòng bi để trừ sân hận. Bi là nhổ hết gốc khổ của chúng sanh. Bởi có lòng bi không nỡ làm cho ai đau khổ. Sợ người đau khổ, khi nổi giận chúng ta không thể mắng chửi đánh đập họ, nên vừa dấy niệm giận liền nhớ điều này thì cơn giận lắng dịu.
Như vậy do từ mà diệt được lòng tham, do bi mà diệt được sân hận. Cho nên điều căn bản tu hành là chúng ta phải có lòng từ bi. Làm sao đối với mọi người, chúng ta thương như người thân của mình. Không nỡ làm khổ người thân tức nhiên không nỡ làm cho tất cả chúng sanh khổ. Đó là lòng từ bi. Lòng từ bi giúp chúng ta dẹp dần tâm tham lam và sân hận. Người nào mình thương có làm điều gì bực tức, mình cũng dễ tha thứ. Còn người mình ghét, có sơ hở một chút thì nổi giận liền. Thương thì lỗi mười giảm còn hai ba, ghét thì hai ba tăng lên bảy tám. Người mình thương thì muốn chia sẻ cho họ được đầy đủ. Ngược lại, người mình ghét thì muốn họ thua thấp hơn mình. Cho nên lòng thương giúp chúng ta bớt nóng giận, bớt tham lam, bỏn sẻn. Vì vậy mà phải tập từ bi đối với mọi người.
Trong đạo Phật, lý luân hồi giúp chúng ta dễ khởi từ bi. Tất cả chúng sanh, ai sanh ra đây cũng không phải mới một lần, mà đã trải qua vô số đời rồi. Đời nào sanh ra cũng có ông bà, cha mẹ, anh em, con cháu, bà con quyến thuộc để mình thương, ít nhất cũng được vài chục người. Ngoài ra còn thầy bạn v.v… đáng cho mình lo, ít nhất cũng vài chục người nữa. Vô số đời như vậy thì trên thế gian này đâu còn ai xa lạ, tất cả chúng sanh đều là thân thuộc của mình. Tỉ như hai gia đình bà con chú bác ruột xa nhau, mười năm không gặp, thì không thể biết được những đứa cháu mới ra đời sau này. Ngay cả những đứa cháu gần mình thuở năm ba tuổi, bây giờ gặp lại chúng ta cũng không nhận ra. Như vậy bà con trong một đời lâu ngày không gặp còn quên thay, huống là bà con nhiều đời. Cho nên chúng ta dùng tâm quán tất cả người thế gian nếu không phải bà con ruột thịt đời này, cũng là bà con ruột thịt đời trước hoặc nhiều đời trước nữa. Nếu mình thương bà con ruột thịt bây giờ, tại sao không thương bà con ruột thịt trước kia? Vì tất cả đều là bà con ruột thịt hết, đâu nỡ hại ai, do đó khởi tâm từ bi. Nhờ trí quán xét ấy mà lòng từ bi tăng trưởng, tham và sân giảm dần đi.
Kế đến là si. Si mê thì dùng Trí tuệ Bát-nhã quán chiếu để dẹp. Si mê có hai: si mê về thân, si mê về cảnh. Thân này do duyên hợp mà tưởng lầm là thật, là cố định nên ngã mạn, chấp trước, hơn thua phải quấy. Lúc nào cũng thấy mình là quan trọng, nếu mọi người không để ý tới thì buồn giận, tức tối. Trong đạo, ai cho ta tu lơ là không ra gì ta cũng giận. Vì bản ngã mà mình tạo ra không biết bao nhiêu tội lỗi. Bản ngã có, là vì mình lầm nhận thân thật cố định. Nếu thân thật cố định thì ông bà cha mẹ mình cũng còn hoài, nhưng ông bà cha mẹ mình đã chết hoặc sẽ chết, thì mình cũng thế. Như vậy tất cả chúng ta đều là tướng duyên hợp, còn mất tùy duyên. Dùng trí Bát-nhã quán xét như vậy thì phá được si mê. Phá được si mê thì dứt được ngã mạn, tức là dứt được giận hờn tật đố xấu xa.
Người học Phật cần tu tập hai hạnh căn bản từ bi và trí tuệ, tức là phước trí song tu. Phước là từ bi, tuệ là trí tuệ. Muốn thành Phật phước và trí không thể thiếu, cho nên đức Phật được gọi là bậc Lưỡng túc tôn. Chúng ta tu phải nỗ lực tinh tấn, để lòng từ bi ngày càng tăng trưởng, cố gắng dùng trí tuệ quán sát thân này để đừng lầm. Thân không lầm thì đối cảnh chúng ta cũng hết lầm. Thấy rõ thân cảnh là duyên hợp, thì tất cả sanh tử được mất, cả thế gian không còn chi phối chúng ta được nữa. Đó là điều tinh tấn thứ hai.
3. Trừ tán loạn và hôn trầm.
Tinh tấn thứ ba là tinh tấn của người chuyên tu, để trừ hai loại ma hôn trầm và tán loạn. Khi ngồi thiền nếu tâm không nghĩ chuyện này chuyện nọ thì gục lên gục xuống, đó là ma hôn trầm nhập rồi. Nếu chấn chỉnh qua được hôn trầm thì tới tán loạn, nhớ chuyện này chuyện nọ, cái hay cái dở. Hết nói chuyện thì hình ảnh, hết hình ảnh thì nói chuyện. Ngồi một mình mà nói chuyện hoài, nhớ người này nhớ người nọ, không cho một niệm dừng. Bị hai con ma này nhập rồi thì nó dẫn chạy hoài, một giờ ngồi thiền rốt cuộc không còn được bao nhiêu.
Làm sao trị hôn trầm? Loại ma này nguy hiểm lắm. Người mới tu ít sợ hôn trầm mà sợ tán loạn. Người tu khá ít sợ tán loạn mà sợ hôn trầm. Người tu khá, tâm hơi yên thì bắt đầu buồn ngủ, tức là hôn trầm. Người mới tu, ngồi lại thì lo đau chân, nhớ những việc xảy ra trong ngày, nhớ hoài không bỏ được, nên bị tán loạn. Ma tán loạn thấy nó khó mà dễ trị. Vì tán loạn là tâm chạy đầu này đầu nọ, khi tu hơi thuần thục, dùng trí quán biết nó là bóng dáng không thật, chúng ta buông, dần dần nó lặng. Trị ma hôn trầm mới thật là cay đắng. Vừa ngồi yên yên gục hồi nào không hay, giật mình thì việc đã rồi. Chúng ta chống không được, cũng không biết đâu mà chống. Ma tán loạn quán chiếu thì lặng, còn ma này không biết đâu mà ngừa. Trong A-hàm có bài kinh Trưởng lão Thùy Miên, Trưởng lão là người đã đắc đạo mà ngồi thiền vẫn gục như thường, huống là phàm phu chúng ta làm sao khỏi gục. Ngủ gục rất khó trị chớ không phải thường, muốn trị phải làm sao?
Có vị Thiền sư ngồi thiền ngủ gục, không có cách nào trị nổi, Ngài mới nghĩ nếu như vầy thà chết còn hơn. Ngài lên núi, tìm một nhánh cây gie ra ngoài vực thẳm, rồi leo lên đó ngồi thiền, thầm nghĩ cho mầy gục. Mầy gục cắm đầu rơi xuống dưới nát thây cho rồi. Chính nhờ sợ nát thây nên không dám gục. Hết gục Ngài được chứng đạo. Phương tiện này thật là thù thắng, phải gan dạ lắm mới làm được, gan vừa không làm nổi đâu.
Người xưa cũng khổ sở như mình, nhưng nhờ sức cố gắng nên các ngài thắng được. Trong kinh có dạy nhiều cách điều trị hôn trầm. Ngồi thiền con mắt nhìn xuống nên dễ ngủ gục. Khi lỡ gục thì phải chấn chỉnh, mở mắt to lên. Khi ngồi thiền cần để đèn sáng vừa phải, mắt mở vừa chừng. Vì để tối và nhắm mắt dễ buồn ngủ. Mở mắt lớn dễ bị tán loạn, mở vừa chừng mà gục thì mở lớn, trợn mắt, chấn chỉnh lại. Nếu còn gục thì đứng dậy lễ Phật đi kinh hành, kinh hành mà chưa hết thì rửa mặt. Rửa mặt mà không hết nữa thì đến trước Phật tha thiết lạy sám hối. Phải thay đổi luôn luôn như vậy khả dĩ mới trị được nó. Chúng ta tu mà tán loạn và hôn trầm là tại thiếu sức tinh tấn. Muốn tinh tấn thì lúc nào cũng khắc chữ “tử” trên trán. Thà chết chớ không để cho tán loạn và hôn trầm xâm nhập. Do sức tinh tấn liên tục mà qua được cơn ngủ và tán loạn. Như vậy muốn thắng được buồn ngủ và tán loạn phải dùng sức mạnh tinh tấn mà trong nhà thiền gọi là phát tâm tha thiết, thà chết chớ không để cho ma dẫn. Đó là tinh tấn để trị ma hôn tán. 4. Niệm khởi liền biết.
Đến tinh tấn thứ tư, không phải chỉ ngồi thiền mà đây là phần chuyên môn trong Thiền tông. Chúng ta phải tập làm sao trong bốn oai nghi đi đứng nằm ngồi lúc nào cũng tu, nghĩa là đi đứng nằm ngồi luôn luôn tỉnh giác. Một niệm khởi lên liền biết, không cho niệm nào dẫn đi. Như vậy cả ngày trong bốn oai nghi đi đứng nằm ngồi đều làm chủ, không mất một phút giây nào, đó là đại tinh tấn. Nếu chúng ta tinh tấn như thế, thì không còn dụng công bằng hình thức lễ bái, mà trong bất cứ hoạt động nào cũng vẫn làm chủ được mình. Người được như vậy đối với đạo không còn xa, chắc chắn sẽ thoát ly sanh tử.
Để kết thúc buổi nói chuyện về mùa Xuân tinh tấn này, tôi đọc lại bài kệ của Thiền sư Hoàng Bá:
Trần lao quýnh thoát sự phi thường
Hệ bả thằng đầu tố nhất trường
Bất thị nhất phiên hàn triệt cốt
Tranh đắc mai hoa phốc tỹ hương.
Dịch:
Vượt khỏi trần lao việc chẳng thường
Nắm chặt đầu dây giữ lập trường
Chẳng phải một phen xương lạnh buốt
Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương.
Thoát khỏi trần lao là việc phi thường. Như người leo núi phải nắm dây cho thật vững. Đây cũng vậy, muốn thoát khỏi trần lao phải nắm chặt mối dây. Mối dây ở đây là mối dây buông hết vọng tưởng, phải hằng tỉnh giác, giữ lập trường không lay chuyển, dù gặp hoàn cảnh nào. Đó là đức tinh tấn.
Cũng như muốn ngửi được mùi hương ngạt ngào của hoa mai thì phải chịu một phen lạnh thấu xương.
Chúng ta muốn đạt được kết quả viên mãn của người tu, thì phải hết sức nỗ lực, cam chịu mọi khó khăn nguy khốn. Như vậy phải nỗ lực tinh tấn không lúc nào dám lười biếng, không lúc nào dám giải đãi thì sự tu hành của chúng ta sẽ được như nguyện, đúng theo những gì chúng ta phát tâm mong cầu.
Năm nay là năm Tân Dậu chúng tôi mong rằng tất cả Tăng Ni và toàn thể Phật tử khởi đầu năm tinh tấn này, trọn năm sẽ là ngày Xuân tinh tấn. Phải cố gắng như chúng tôi đã nói, dù căn cơ khác nhau, nhưng lúc nào cũng phải cố gắng. Như vậy mới xứng đáng là người Phật tử chân chánh. Như vậy mới mong thoát ly sanh tử được.
NIỀM VUI ĐẦU XUÂN
Năm Quí Hợi - 1983
Hôm nay là Tết Nguyên Đán, năm Quí Hợi, 1983 DL, chư Tăng Ni và Phật tử đến đây chúc mừng năm mới và cầu tuổi thọ cho tôi. Vì tôi có một chút niềm vui, nên muốn nói chuyện nhiều với quí vị nhân buổi đầu xuân.
Một hôm, đang ngồi nghỉ, bỗng dưng tôi nhớ đến câu chuyện Thiền sư Huệ Hải đến hỏi đạo với Mã Tổ. Khi Huệ Hải đến, Mã Tổ hỏi: “Ông đến đây cầu việc gì?” Huệ Hải thưa: “Con đến đây cầu Phật pháp.” Mã Tổ bảo: “Kho báu nhà mình chẳng đoái hoài, bỏ nhà chạy đi tìm cái gì?” Huệ Hải thưa: “Cái gì là kho báu của Huệ Hải?” Mã Tổ nói: “Chính cái ngươi hỏi ta, đó là kho báu của ngươi, đâu nhờ tìm cầu bên ngoài.” Ngay câu này, ngài Huệ Hải liền nhận ra kho báu nhà mình, vui mừng lễ tạ. Về sau, khi giáo hóa đồ đệ, Ngài bảo: “Từ khi ta đến Mã Tổ, nhận được kho báu nhà mình đến giờ sử dụng tự tại, không bao giờ thiếu thốn.” Khi ấy bỗng dưng tôi tự hỏi: “mình thiếu thốn cái gì”, rồi tôi cười…
Tôi lại nhớ đến hai thí dụ trong kinh Pháp Hoa: thí dụ Cùng tử và thí dụ Hệ châu.
Các đệ tử lớn của đức Phật, sau khi ngộ được Tri kiến Phật, mới trình lên thí dụ “Cùng tử”, để đức Phật ấn chứng. Cùng tử từ thuở nhỏ, đã bỏ cha trốn đi lang thang ở xứ người, sống chật vật nghèo khổ. Khi tuổi đã lớn, chàng tình cờ về đến cố hương. Gặp lại cha sống trong cảnh giàu sang quyền quí, chàng không dám nhìn cha. Vì không nhận ra ông Trưởng giả đầy thế lực kia là cha mình, nên cùng tử hoảng sợ bỏ chạy, khiến ông Trưởng giả phải khổ nhọc sai ngưởi đi dụ dỗ. Sau cùng chàng chịu trở về với tư cách làm thuê cho ông Trưởng giả, chớ không dám tự nhận mình là con. Lần lần về sau, nhờ sự khôn ngoan khéo léo, nên đến giờ sắp chết, ông gọi người con đến và hội cả thân tộc lại, mới tuyên bố rằng: “ngươi thật là con ta, ta thật là cha ngươi…” và trao cả sự nghiệp cho chàng. Từ đó cùng tử mới thấy mình thật là con ông Trưởng giả và thừa hưởng sự nghiệp của cha.
Qua thí dụ trên, chúng ta nhận thấy chàng cùng tử đi lang thang, khi trở về không dám nhận ông Trưởng giả là cha, nên hoảng sợ bỏ chạy. Và khi được dụ dỗ mới trở lại. Nếu chàng cùng tử ấy ngay khi trở về liền tự nhận mình là con thì chắc khỏi bận tâm người cha.
Đến thí dụ “Hệ châu”. Đây là hình ảnh một người cùng khổ đói rét về thăm bạn thân, rồi say rượu nằm ngủ. Người bạn thương, cột trong chéo áo của anh một hạt châu quí nhưng vì say nên anh không hay biết. Người bạn bận việc phải đi, anh chàng say khi tỉnh dậy bèn đi lang thang xứ này xứ khác, vì việc ăn mặc mà phải gắng sức cầu tìm rất là khổ nhọc. Một hôm, người bạn thân gặp lại anh bèn nói: “Ngày xưa tôi đã tặng anh một hạt châu quí, giá trị vô luợng, cột trong chéo áo của anh, nếu anh đem ra dùng thì sẽ thành một cự phú, đâu phải sống lang thang đói rét đến thế này.” Người bạn mới chỉ thẳng hạt châu cho anh. Nhận ra hạt châu, anh chàng kia liền hết thiếu thốn, nghèo khổ.
Qua thí dụ trên chúng ta thấy chỉ cần một phen nhận lại mình có hạt châu thì hết nghèo; nếu quên mình có hạt châu thì đói khổ, nhớ mình có hạt châu thì giàu có.
Như vậy cái giàu có và nghèo khổ cách nhau bao nhiêu. Chỉ giữa tỉnh và mê. Ví như cùng tử khi gặp lại cha, nhận ngay cha mình là ông Trưởng giả, lúc ấy tuy chưa thay đổi y phục nhưng còn thấy mình là cùng tử hay không? Và anh chàng có sẵn hạt châu trong chéo áo, vừa nhớ lại mình có hạt châu, lúc ấy tuy còn đội nón lá, mặc áo rách, nhưng anh còn thấy mình nghèo chăng? Cái nghèo của cùng tử và của gã say, lỗi tại chỗ nào? Chỉ tại quên mình là con ông Trưởng gia, chỉ tại quên mình là người có hạt châu.
Kinh Pháp Hoa rất cao siêu, thuộc về Đại thừa đốn giáo, đốn nghĩa là nhanh. Nhớ mình là con ông Trưởng giả, nhớ mình có hạt châu, liền thấy mình giàu. Quên mình là con Trưởng giả, quên mình có hạt châu, là kẻ bần cùng. Chỉ trong tích tắc đồng hồ bỏ nghèo thành giàu, chỉ trong tích tắc đồng hồ chuyển mê thành ngộ. Đó là chỗ cao siêu đốn ngộ của kinh Pháp Hoa. Đó cũng chính là chỗ nhận ra kho báu nhà mình của Thiền sư Huệ Hải. Chỉ ngay câu nói của Mã Tổ, ngài Huệ Hải liền nhận ra kho báu nhà mình vốn tự đầy đủ, chưa từng thiếu thốn, không phải đi lang thang cầu pháp nơi này nơi khác. Chỉ một phen nhận ra một cách nhanh chóng kho báu nhà mình liền trở thành người giàu có, đó gọi là đốn ngộ. Còn quên gọi là mê, mê lộ là quên đường. Chỉ vì quên kho báu của chính mình nên chúng ta lang thang đi trong luân hồi sanh tử không biết bao nhiêu kiếp. Cho đến ngày nay, tuy đôi lúc tỉnh giác trở về với đạo, nhưng vẫn còn thấy mình nghèo thiếu, nên đi học hỏi nơi này nơi kia, tìm cầu bên ngoài, nếu nhớ lại thì hết đói khát thiếu thốn. Đó là tinh thần đốn ngộ của Thiền tông, là tinh thần “truyền đốn pháp” trong bài kệ của Lục Tổ, cũng là tinh thần đốn ngộ của kinh điển Đại thừa.
Pháp đốn ngộ này không có thời gian, như câu chuyện Long nữ thành Phật trong kinh Pháp Hoa. Long nữ là con gái của vua rồng, mới tám tuổi mà căn tánh lanh lẹ, có trí tuệ thấy rõ các pháp, được ngài Văn-thù-sư-lợi hóa độ nên chứng được quả Vô thượng Bồ-đề mau chóng. Ngài Xá-lợi-phất không tin việc này. Vô lý, thân nữ lại thuộc loài súc sanh, mà được thành Phật, việc này khó tin. Long nữ có một hạt châu quí báu, đem dâng lên đức Phật. Phật liền nhận lấy. Long nữ nói với Tôn giả Xá-lợi-phất: Tôi dâng châu báu, đức Thế Tôn nhận lấy, việc này trong khoảng bao lâu? Đáp: Trong chốc lát. Long nữ nói: Tôi thành Phật cũng nhanh như vậy.
Thật vậy, nếu chúng ta nhận mình là con ông Trưởng giả thì trong chớp mắt mình không còn là kẻ lang thang đói rách nữa. Nếu chúng ta biết mình có hạt châu trong chéo áo, dù có ai chê cười mình là kẻ ăn mày nghèo khổ, mình vẫn thản nhiên vì biết mình là cự phú. Nhận rõ được điều này, chúng ta không còn lo sợ thiếu thốn. Nghĩ như vậy tôi cảm thấy vui vì năm nay chúng ta đều là những người giàu có, là những cự phú ngày mai.
Kinh điển Đại thừa thường hay nói mê và ngộ nhanh như trở bàn tay. Vì sao? Vì mê là chúng sanh, ngộ là Phật. Hạt châu đã sẵn trong túi áo, chỉ cần nhớ lại mình có hạt châu là thành kẻ giàu, cái nhớ lại chỉ trong khoảnh khắc, không thể nói thời gian được. Tuy chúng ta chưa bán hạt châu để sắm xe cộ, nhà cửa v.v… nhưng chúng ta chắc chắn không phải kẻ nghèo khổ. Cũng như vậy, một phen ngộ rồi chúng ta là Phật tương lai không nghi ngờ gì, ngộ rồi chúng ta không còn là chúng sanh lang thang nữa. Trong nhà thiền thường nói mê là chúng sanh, ngộ là Phật. Chỉ mê và ngộ thôi, cũng như chỉ nhớ và quên thôi. Nhớ và quên còn mau hơn cả cái tích tắc đồng hồ, không thể định thời gian được. Đó gọi là đốn ngộ, nghĩa là ngộ nhanh không tưởng được. Mê thì Phật là chúng sanh, quên mình có hạt châu, thấy mình là kẻ ăn mày. Ngộ thì chúng sanh là Phật, chính kẻ ăn mày nhận ra hạt châu trong chéo áo, thấy mình là tay cự phú.
Nhưng thử hỏi, vì sao chúng ta không giác ngộ, mà cứ mãi si mê như vậy? Đó là câu hỏi mà người tu hành vẫn thường thắc mắc. Lỗi tại đâu mà chúng ta không ngộ, mà cứ mê hoài? Sau đây là câu chuyện của ngài Sa-di Cao. Sa-di Cao đến với Thiền sư Dược Sơn. Dược Sơn hỏi: “Ta nghe nói ở Trường An ồn ào lắm phải chăng?” Sa-di Cao trả lời : “Xứ con an ổn.” Qua câu trả lời, chúng ta thấy ngài Sa-di Cao là kẻ giàu phải không? Và tại sao giàu? Ngài Dược Sơn hỏi tiếp: “Ngươi do đọc kinh mà được hay do thưa hỏi được?” Sa-di Cao thưa: “Không do đọc kinh cũng không do thưa hỏi.” Dược Sơn bảo: “Những người khác không đọc kinh, không thưa hỏi, tại sao họ không được?” Sa-di Cao thưa: “Không phải họ không có, tại vì họ không chịu nhận thôi.” Chính vì những người khác không nhận cái ấy sẵn có nơi mình, nên làm kẻ nghèo lang thang. Chỉ một phen nhận ra, từ đó về sau đi đứng nằm ngồi không bao giờ quên, không bao giờ thấy mình là kẻ nghèo đói thiếu thốn nữa.
Khi nghe hỏi Trường An ồn ào lắm phải chăng, ngài Sa-di Cao trả lời: Xứ con an ổn. Vậy xứ Ngài là xứ nào? Vì Trường An là kinh đô ồn náo, xứ của Ngài có phải ở trong đồng hoang rừng vắng chăng? Nếu ai chỉ được chỗ ấy là biết xứ của Ngài. Để chỉ người dám chỉ, chúng tôi xin dẫn câu chuyện của ngài Qui Chơn. Qui Chơn đến với Tổ Qui Sơn. Tổ hỏi: “Ngươi tên gì?” Đáp: “Dạ con tên Qui Chơn.” Tổ hỏi: “Qui Chơn ở chỗ nào?” Ngài trả lời không được, rồi từ giã Tổ xuống núi, và gặp ngài Ngưỡng Sơn đang chăn trâu. Ngưỡng Sơn hỏi: “Sao Thượng tọa lên núi xuống mau vậy?” Qui Chơn đáp: ‘Tại vì cơ duyên không hợp.” Hỏi: “Vậy Hoà thượng hỏi gì?” Đáp: “Hoà thuợng hỏi tôi tên gì, tôi nói Qui Chơn, rồi Hoà thượng hỏi Qui Chơn ở đâu, tôi trả lời không được nên xuống núi.” Ngưỡng Sơn nói: “Thôi Thượng tọa trở lên thưa: Con nói được. Hoà thượng hỏi ở đâu, Thượng tọa chỉ đáp “trong mắt, tai, mũi…” Qui Chơn vội vã trở lên thưa: “Con trả lời được.” Tổ hỏi: “Qui Chơn ở đâu?” Ngài liền đáp: “Trong mắt, tai, mũi…” Tổ Qui Sơn liền bảo: “Kẻ nói dối, nói rỗng, đó là lời của thiện tri thức năm trăm người.” Như vậy “Qui Chơn” là trở về chỗ ấy, trở về cái chân thật. Chỗ an ổn của ngài Sa-di Cao cũng là ở chỗ đó, chỗ đó lúc nào cũng an ổn. Sở dĩ chúng ta không an ổn là tại trong tâm ta lăng xăng, còn ở mắt, ở tai đâu có lăng xăng. Tai nghe tiếng rồi tâm chạy theo tiếng, mắt thấy sắc tâm liền duyên theo sắc, nên chúng ta mới lăng xăng dao động, còn ở tai ở mắt có bao giờ lăng xăng đâu. Sống với cái không động tịnh bao giờ, nên ngài Sa-di Cao được luôn luôn an ổn. Như vậy, khi nhận ra được kho báu nhà mình thì sung sướng suốt đời, không còn nghèo khổ. Nếu không nhận ra được thì khi nghe ai nói nơi nào có Phật, chúng ta liền chạy đến tìm cầu, không ngờ mình đã vác Phật đi cầu Phật.
Khi nhớ lại những câu chuyện vừa kể trên, chúng tôi nhận thấy pháp tu thiền của chúng ta theo hai cách thức, tạm dùng danh từ là tu toàn phần và tu cục bộ. Đó là điều quan trọng chúng tôi cần phải nói rõ.
Thế nào là tu toàn phần? Chúng tôi dẫn lời của ngài Đại An nói với môn đệ: “Tất cả các ngươi đều có viên ngọc quý thường phóng quang ra sáu cửa gọi là phóng quang tam muội.” Như vậy nếu chúng ta trong các động tác hằng ngày đi đứng nằm ngồi nói nín trông nghe đều nhớ được viên ngọc quí của chính mình thường phóng quang ra sáu cửa, đó gọi là tu toàn phần. Tu toàn phần là sống với ánh sáng do viên ngọc quí phóng ra, không lệ thuộc vào sáu trần, ánh sáng ấy không phải động, không phải tịnh vì vượt ngoài vòng đối đãi động tịnh. Trong quyển “Yếu Chỉ Thiền Tông”, chúng tôi gọi lối tu toàn phần này là tu nhớ Ông chủ, nghĩa là trong mọi hoạt động đi đứng nằm ngồi, chúng ta hằng nhớ ánh sáng của viên ngọc quí phóng ra sáu cửa, không bao giờ quên việc ấy. Trong nhà thiền gọi đó là trưởng dưỡng Thánh thai hay là nuôi lớn Thánh thai của chính mình.
Tổ Lâm Tế có nói:
Tùy duyên tiêu cựu nghiệp
Nhậm vận trước y xiêm.
Dịch:
Tùy duyên tiêu nghiệp cũ
Hồn nhiên mặc áo xiêm.
Chúng ta vẫn sống bình thường như bao nhiêu người, những nghiệp cũ lần lần lặng bớt. Ăn cơm, mặc áo đều hồn nhiên, không có những suy nghĩ lăng xăng chen vào, đó gọi là sống với Ông chủ. Sống được như vậy gọi là người nhớ, người tỉnh. Còn những ai sống chạy theo sáu trần, phân biệt sáu trần, gọi là người quên, người mê. Tỉnh với mê chỉ là sống được với Ông chủ, hay chạy theo sáu trần.
Đó là lối tu toàn phần, nói một cách tổng quát, nếu muốn thực hành chúng ta phải tu như thế nào? Vọng tưởng chúng ta còn quá nhiều, tâm ý cứ mãi lăng xăng, không hằng sống được với Ông chủ, chúng ta muốn tu toàn phần phải làm sao? Như khi chúng ta đang đi, bỗng nhớ lại chuyện năm trước, chúng ta chỉ cần nhắc lại một câu: “Đi chỉ là đi.” Những ý tưởng lăng xăng liền dừng lại. Khi chúng ta đang ngồi chơi, vọng niệm vừa khởi, chúng ta liền nhắc lại “ngồi chơi chỉ là ngồi chơi”. Hoặc khi chúng ta đang làm việc gì như bửa củi hay nấu cơm, những ý nghĩ lăng xăng vừa mống lên, liền tự nhắc: “bửa củi chỉ là bửa củi”, “nấu cơm chỉ là nấu cơm” v.v… nghĩa là nhắc lại những việc mình đang làm, tự nhiên những ý nghĩ lăng xăng sẽ dứt hết.
Thật ra, người tu toàn phần phải gan dạ vô cùng vì không thấy ngồi thiền, coi như là ở không, biếng nhác, bê trễ. Nhưng đúng ra các Tổ khi xưa, ít khi ngồi thiền vì các ngài sống trong hành động nào cũng là nhớ, cũng là tỉnh, cần gì phải ngồi thiền. Nhưng riêng chúng tôi vẫn ngồi thiền, vì ngồi thiền có lợi, tránh được sương gió, bệnh hoạn, nhất là vào buổi khuya hay đầu hôm khi khí trời lành lạnh. Ngồi thiền phải như thế nào? Chúng ta ngồi đúng phương pháp đàng hoàng, mắt nhìn xuống vừa tầm, hơi thở điều hòa, tâm trí lặng lẽ tỉnh táo, vừa dấy niệm liền nhắc: “ngồi thiền chỉ là ngồi thiền”, thì tự nhiên sẽ được thảnh thơi. Ngồi thiền chỉ chừng ấy việc thôi, không thêm cái gì khác nữa. Pháp tu này thật là nhàn hạ.
Ngoài giờ ngồi thiền, trong các hoạt động đi đứng nằm ngồi cho đến vào nhà vệ sinh, vào nhà tắm chúng ta cũng hằng nhớ “đi cầu chỉ là đi cầu, đi tắm chỉ là đi tắm v.v…” không thêm cái gì khác nữa. Tu như vậy cả ngày, chúng ta sẽ thấy thảnh thơi, nhàn nhã. Chủ yếu của việc tu này chỉ nhớ đừng quên, nhớ lại là mình giàu, quên đi thành kẻ nghèo, chỉ chừng ấy việc để ứng dụng tu trong mọi trường hợp.
Thế nào là tu cục bộ? Tu cục bộ tức là tu một bộ phận. Chúng tôi xin dẫn ra đây một thí dụ. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật chủ yếu dạy ngài A-nan ngộ đạo. Đến phần đức Phật giải thích về thất đại, ngài A-nan liền ngộ và phát thệ nguyện. Sau đó Ngài thưa với đức Phật: “Con cũng như kẻ nghèo nàn, bỗng dưng được nhà vua tặng cho một ngôi nhà lầu đẹp, mà không biết làm sao vào, cúi xin Thế Tôn chỉ cho con cửa vào trong ngôi nhà ấy.” Đức Phật liền hỏi pháp môn tu của hai mươi lăm vị Thánh và cuối cùng Phật bảo ngài Văn-thù tuyển chọn pháp nào phù hợp với căn cơ chúng sanh cõi này. Ngài chọn pháp môn “Phản văn văn tự tánh” của Bồ-tát Quán Thế Âm làm cửa vào. Đây là một phương tiện rất phù hợp với chúng sanh ở cõi Ta-bà, và ngài Văn-thù dùng pháp môn này chỉ cho ngài A-nan tu. Việc chủ yếu là sau khi ngộ đạo rồi phải tu, ở đây là tu một bộ phận trong sáu bộ phận, nghĩa là trong sáu căn chỉ lấy Tánh nghe để trở về. Vì vậy mà chúng tôi tạm gọi là tu cục bộ.
Từ trước đến nay những vị tu theo pháp Phản văn văn tự tánh thường hay lầm, mà chính chúng tôi cũng bị lầm. Chúng ta cứ nghĩ nghe lại Tánh nghe thì nghe làm sao? Chúng tôi kinh nghiệm nhiều lần, nếu ngồi lại nghe cái mình hay nghe, một lúc sau lỗ tai bắt đầu nhức. Có vị nghe trở vô trong, về sau bị ran ngực, lâu ngày thổ huyết thành bệnh. Tu lối phản văn như vậy là một lầm lẫn quá lớn.
Vậy muốn tu pháp Phản văn phải tu làm sao cho đúng? Muốn dạy tu pháp Phản văn phải dạy những người nào? Không phải những ai vừa học kinh Lăng Nghiêm sơ qua đều tu được pháp “Phản văn văn tự tánh”. Chính ngài A-nan sau khi ngộ rồi, đức Phật mới dạy tu pháp ấy. Ngài A-nan ngộ rồi, thấy được tánh mình trùm khắp mười phương. Nhưng nếu một lúc ứng dụng cả sáu căn thì hơi khó, nên dùng một phương tiện thôi, tức là Tánh nghe để tỉnh và nhớ mãi. Vì vậy Phật mới dạy Phản văn văn tự tánh.
Phản văn nghĩa là gì? Từ trước đến nay, cái nghe của chúng ta là theo âm thanh bên ngoài, gọi đó là tùy lưu. Nếu chúng ta không trôi theo thanh trần mà chỉ nhớ lại tánh nghe, gọi đó là phản văn. Tánh nghe như thế nào và ở đâu? Khi nói nghe lại Tánh nghe, chúng ta nghĩ là Tánh nghe ở tại lỗ tai, rồi chúng ta nghe một lúc lâu, lỗ tai bắt đầu nhức. Phải nhớ Tánh nghe trùm khắp mười phương, không kẹt ở lỗ tai mới không bị nhức, không sanh bệnh. Tánh nghe không có tướng mạo nên nó không bị hạn chế hay ngăn cách. Chúng ta luôn luôn nhớ thẳng Tánh nghe của mình trùm khắp mười phương, đó gọi là tu Phản văn văn tự tánh.
Tu toàn phần hay tu cục bộ đều là lối tu chung của thiền giáo. Trong kinh dạy Bồ-tát Quán Thế Âm đã tu phản văn, mà chính tông Tào Động hiện nay đã tu lối Phản văn này. Khi học kinh Lăng Nghiêm chúng ta cố gắng nhận ra lối tu này, do đó mới biết rõ rằng đường lối tu thiền đã được dạy trong kinh. Nhưng muốn tu như vậy là phải ngộ trước, sau mới tu. Tu toàn phần hay tu cục bộ chủ yếu ở một chữ nhớ. Nhớ thì mình là con ông Trưởng giả, nhớ thì mình là người giàu có; còn quên thì mình là gã cùng tử, quên thì mình là kẻ ăn mày. Chỉ nhớ và quên, đó là tinh thần đốn ngộ của Thiền tông cũng là của Đại thừa. Chỉ một chữ nhớ thôi là chuyển phàm thành Thánh, còn quên là đem Thánh vào phàm. Đốn ngộ là như vậy.
Dù tu toàn phần hay tu cục bộ, chúng ta phải đủ lòng tin, như ngài Đại Mai trong câu chuyện sau đây: Ngài Đại Mai, sau khi ngộ đạo với Mã Tổ liền lên núi Đại Mai ở ẩn. Mã Tổ nghe Ngài ở núi bèn sai một vị Tăng đến thăm dò. Vị Tăng hỏi: “Hoà thượng đến Mã Tổ được cái gì mà về ở núi này?” Ngài đáp: “Ta nghe Mã Tổ nói tức tâm tức Phật, ta liền về ở núi.” Tăng nói: “Gần đây Mã Tổ lại dạy phi tâm phi Phật.” Ngài bảo: “Ông già mê hoặc người không có ngày thôi, mặc ông nói phi tâm phi Phật, ta chỉ biết tức tâm tức Phật!” Vị Tăng trở về thuật lại, Mã Tổ nói: “Trái mai đã chín”, tức là ngài Đại Mai đã nhận ra cái tức tâm tức Phật ấy.
Tin như ngài Đại Mai gọi là xác tín, nghĩa là tin một cách không lung lay. Chính vị thầy đã dạy mình ngộ đạo, cũng chính vị thầy ấy ngày sau dạy khác đi, mà niềm tin của Ngài vẫn vững chắc không bị lung lay, huống nữa là người nào khác.
Còn chúng ta, vì không đủ niềm tin, nên hôm nay nghe ai bảo pháp tu này hay, ngày mai nghe người khác bảo pháp tu kia hay, chúng ta liền hưởng ứng theo, thật ra chúng ta có tin chi đâu. Chúng ta phải tin, phải nhận ra cho đúng, không ai lay chuyển được, mới có thể tu toàn phần hay cục bộ. Muốn ứng dụng hai pháp tu này, phải có lòng tin không lung lay như ngài Đại Mai, phải ngộ đạo rồi tin như ngài A-nan nhận ra Pháp thân trùm khắp mười phương.
Nếu chưa được như ngài A-nan và ngài Đại Mai, chúng ta phải tu cách nào? Đó là điều chúng tôi thấy cần chỉ cho quí vị biết rõ đường lối tu hành từ trước đến nay của Thiền viện.
Các Tăng Ni đến đây nhận sự hướng dẫn tu hành của chúng tôi ít nhất phải học ba năm. Học ba năm để làm gì? Chủ trương của tôi y theo đường lối chư Tổ dạy là “Kiến tánh khởi tu”, tức là nhận ra Bản tánh của mình, rồi sau đó ứng dụng tu. Như phần trước chúng tôi đã nói, nhận ra nơi mình có viên ngọc quí phóng ánh sáng ra sáu cửa. Nhận ra như vậy rồi mới tu toàn phần hay cục bộ, tức là nhận ra được Bản tánh bất sanh bất diệt của chính mình, rồi mới ứng dụng tu.
Muốn nhận ra Bản tánh bất sanh bất diệt phải làm sao? Khi xưa chư Tổ cho đồ đệ đi tham vấn các nơi, gọi là đi tham thiền để một ngày nào phát minh, phát ngộ. Nhưng ngày nay chúng ta không có phương tiện như vậy, nên chúng tôi dùng phương pháp giảng kinh, luận và sử các Thiền sư. Khi nghe giảng lâu ngày quí vị tự thầm nhận, thầm nhận là tự ngộ một cách nhẹ nhàng, nhận ra nơi mình có viên ngọc quí hằng phóng quang ra sáu cửa. Khi nhận được như vậy tạm gọi là kiến tánh, kiến tánh này là lóe thấy thôi chớ không phải là hằng sống. Lóe thấy rồi bắt đầu ứng dụng tu hằng nhớ, hằng nhớ chúng ta có viên ngọc quí luôn luôn, hoặc tu toàn phần, hoặc tu cục bộ. Vì vậy chúng tôi chủ trương phải học ba năm.
Nếu chưa nhận ra được Bản tánh bất sanh bất diệt của chính mình, chúng ta phải tu bằng cách nào? Chúng tôi chỉ quí vị ứng dụng lối tu của Tổ Huệ Khả trong câu chuyện sau đây:
Ngài Huệ Khả hỏi Tổ Bồ-đề-đạt-ma: “Tâm con không an, xin Thầy dạy con phương pháp an tâm.”
Tổ Đạt-ma bảo: “Đem tâm ra ta an cho.”
Ngài Huệ Khả xoay lại tìm, tìm một lúc không được, Ngài thưa: “Con tìm tâm không được.”
Tổ bảo: “Ta đã an tâm cho ngươi rồi.”
Ngay nơi đó ngài Huệ Khả biết cách an tâm. Đây là biết cách an tâm chớ chưa phải ngộ.
Qua câu chuyện trên, chúng ta nhận rõ rằng sở dĩ chúng ta bất an vì lầm vọng tưởng là tâm, các vọng tưởng ấy làm chúng ta xao xuyến âu lo mãi, nên gọi đó là tâm bất an. Để giải cái lầm này, chúng ta phải nhớ các tư tưởng lăng xăng là vọng tưởng chớ không phải tâm. Vì vậy đầu tiên chúng tôi chủ trương lối tu biết vọng. Thay vì ngày xưa cho đó là tâm, ngày nay chúng ta biết đó là vọng. Như vậy chúng ta đã tỉnh được một chút trong cơn mê, mê là vì cho vọng tưởng là tâm mình, tỉnh là vì biết đó là vọng tưởng chớ không phải tâm.
Tại sao chúng tôi quả quyết như vậy? Vì chúng tôi thấy rõ vọng tưởng mà chúng ta đang chạy theo chỉ là bóng dáng của sáu trần. Tỉ dụ: Ban sáng khi xuống chợ, chúng tôi thấy một người ăn mày đáng thương và chú ý đến họ. Chiều về khi ngồi chơi, bỗng nhiên hình ảnh người ăn mày hiện ra khiến chúng tôi suy nghĩ về họ. Như vậy, hình ảnh người ăn mày là sẵn nơi mình hay từ đâu đến? Đó là cái bóng ở bên ngoài, cái bóng của khi sáng. Duyên theo cái bóng ấy, chúng ta suy nghĩ, thành ra suy nghĩ những gì chúng ta đã nghe, đã thấy là suy nghĩ theo bóng, nó đâu phải là mình. Cho đó là tâm mình là lầm, mà tất cả chúng ta lâu nay đều lầm như vậy.
Chúng ta phải nhớ những suy nghĩ duyên theo bóng dáng sáu trần là vọng, vừa dấy niệm suy nghĩ liền biết đó là vọng. Biết như vậy vừa tránh khỏi lầm, vừa dừng được vọng, tức là dừng được động. Động dừng gọi là định. Đường lối tu như vậy rất đơn giản, không có gì phiền phức. Đó là đường lối của Tổ sư đã dạy cho người chưa ngộ.
Khi chúng ta biết được vọng mà vọng quá mạnh cứ chạy lung tung kéo lôi mình không dừng, chúng ta phải làm sao đây? Tỉ dụ chúng ta có một số tiền để dành, mà quên không nhớ cất nó ở đâu, tìm mãi chưa ra. Đến khi ngồi thiền, cứ nhớ không biết tiền để ở đâu. Chính khi nhớ đó, biết là vọng mà dừng không được, vì vọng quá mạnh lôi kéo mình hoài. Để dừng được loại vọng này, chúng ta phải áp dụng lối tu mạnh hơn, là tìm lại xem vọng này xuất phát từ chỗ nào. Tìm một lúc mới nhận thấy chúng không cội rễ, và tự chúng mất đi. Đây cũng là trường hợp ngài Huệ Khả tìm tâm mình ở đâu, khi tìm lại thì thấy nó không có, đó gọi là an tâm. Và chúng tôi đã ứng dụng tu theo phương pháp an tâm của Tổ Huệ Khả ngay từ buổi đầu. Hai lối tu biết vọng và tìm vọng được áp dụng hỗ tương cho nhau trong lúc chúng ta ngồi thiền. Đây cũng là lối tu cục bộ xoay trở lại Tánh biết của ý. Sự diễn tiến của lối tu này cụ thể hóa bằng mười bức họa chăn trâu. Vì thế lối tu này cũng gọi là Chăn trâu. Ngoài giờ ngồi thiền, chúng ta phải tu như thế nào? Chúng ta phải ứng dụng tinh thần Bát-nhã trong hai phép quán: một là quán thân năm uẩn không thật, hai là quán sáu trần không thật. Tất cả trần cảnh đều là tướng duyên hợp như huyễn, thân này cũng là duyên hợp như huyễn. Chúng ta phải hằng quán như vậy, thấy các pháp như huyễn để phá tan những mê chấp về thân, tâm và cảnh giới.
Phép tu quán các pháp như huyễn đều được dạy trong các kinh điển Đại thừa. Càng học kinh chúng ta càng thấy rõ ý nghĩa tu như vậy. Trong kinh, Phật dạy các Bồ-tát đem thân như huyễn cứu độ hữu tình như huyễn v.v… Vì sao Phật dạy như vậy? Tại vì, như chúng ta nhận xét, phàm những gì do duyên hợp đều như huyễn. Những hiểu biết của chúng ta và những lời Phật dạy đều rất phù hợp có thể ứng dụng ngay trong cuộc sống. Càng học kinh càng sáng tỏ việc tu. Vì vậy mà chúng tôi chủ trương đường lối tu ở đây là Thiền Giáo đồng hành. Giáo là kinh, Thiền là ứng dụng tu thiền, hai việc đồng hành. Học kinh để chúng ta biết rõ đường lối tu thiền, tu thiền để chúng ta sáng tỏ được ý kinh, Thiền và Giáo hỗ tương cho nhau là như vậy.
Trong phần thực hành, chúng ta phải biết ứng dụng linh động ba phép tu: biết vọng, tìm vọng và quán các pháp như huyễn. Khi ngồi thiền chúng ta dùng phương pháp nhẹ là biết vọng thường xuyên, phương pháp mạnh hơn là tìm vọng xem nó xuất phát từ đâu. Dùng lối tu biết vọng lâu ngày, nhất là khi nhập thất đôi ba tháng, do tu chăm quá chúng ta bị đau đầu, mặt mày buồn xo, tánh tình dễ cau có, nhìn qua là biết ngay người này đang cố gắng thái quá trong khi tu biết vọng. Đến giai đoạn này, chúng ta phải chuyển lại dùng phép quán thân như huyễn, quán cảnh như huyễn, nhìn trời nhìn nước đều như huyễn, chúng ta cười nhẹ nhàng thoải mái. Do nhìn ra ngoại cảnh biết các pháp như huyễn như hóa, chúng ta bớt cố gắng kềm ở bên trong, tinh thần thư giãn, lần lần không kềm nữa. Đi đứng nằm ngồi lúc nào cũng biết các pháp như huyễn nên tâm trí chúng ta sẽ được thảnh thơi.
Nhìn ra ngoại cảnh biết như huyễn, đến một lúc tâm bắt đầu loạn, bị ngoại cảnh lôi cuốn, chúng ta phải xoay vào bên trong biết đó là vọng, tâm sẽ an ổn trở lại. Ứng dụng linh động các phép tu như vậy sẽ không bệnh hoạn, buồn bực và cáu kỉnh nữa. Đó là kinh nghiệm chúng tôi đã thấy rõ trong khi tu hành.
Đối với người sơ cơ chưa nhận ra Ông chủ, chúng tôi ứng dụng tinh thần Bát-nhã vào việc tu. Vì vậy mở đầu chúng tôi giảng kinh Bát-nhã và kinh Kim Cang, dùng Trí tuệ Bát- nhã làm cửa vào nhà thiền. Dùng trí tuệ ấy mãi đến bao giờ khi nghe kinh Phật dạy, hoặc học sử các Thiền sư, chúng ta tin chắc rằng nơi mình có viên ngọc quí, không còn nghi ngờ gì nữa. Sau khi nhận ra Ông chủ rồi, từ đó về sau chúng ta sẽ tu hoặc toàn phần hoặc cục bộ.
Theo tinh thần Bát-nhã, đức Phật dạy chúng ta phá tất cả chấp, chấp về thân và tâm v.v… mà không chỉ ra cái chân thật. Đó gọi là tinh thần giá thuyên, một danh từ chuyên môn trong nhà Phật. Giá là ngăn, thuyên là nói, tức là dạy bằng cách ngăn không cho chấp trước, danh từ hiện nay gọi là phủ định. Còn dùng lối tu toàn phần hay cục bộ là theo tinh thần biểu thuyên, tức là nói rõ ra, hay cũng gọi là khẳng định. Nghĩa là chỉ thẳng nơi mình có Ông chủ, và quyết định rằng Ông chủ đó là mình, không còn nghi ngờ gì nữa.
Phần tu phá các chấp trước thuộc về hệ thống các kinh Bát-nhã. Phần tu chỉ thẳng cái chân thật nơi mình thuộc về hệ thống các kinh Lăng Nghiêm, kinh Pháp Hoa và kinh Hoa Nghiêm. Nhân theo các lối tu, giáo lý đức Phật được chia thành thời Bát-nhã, gọi là trung kỳ Phật giáo, và thời Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, gọi là hậu kỳ Phật giáo.
Nhân đây, chúng tôi thấy rõ Thiền Giáo không hai. Bên kinh nói rộng, bên thiền chỉ tắt nên thấy dường như có khác. Bởi chỉ tắt nên quá cô đọng, khi nói rộng nên rất thênh thang, chúng ta phải học suốt năm này qua năm khác. Nhưng thật ra cái thênh thang của Giáo, các Thiền sư cô đọng lại trong một hai câu thôi. Nếu một hai câu nhận ra thì biết cái thênh thang này, cũng như nhờ học cái thênh thang mà biết cái cô đọng kia, hai bên Thiền Giáo hỗ tương cho nhau.
Tóm lại, ở Thiền viện chúng tôi ứng dụng tu thiền theo hai lối: một là tu biết vọng hay tìm vọng, đồng thời quán các pháp như huyễn, lối tu này dành cho người sơ cơ; hai là tu toàn phần hay cục bộ dành cho người đã nhận ra Ông chủ hay viên ngọc quí hằng phóng quang ra sáu cửa, người này phải đủ lòng tin vững chắc không lay chuyển. Đường lối tu của Thiền viện đã rõ ràng, y cứ theo kinh điển làm bằng, không phải đặt suông.
Chúng tôi nhận thấy một cách chắc chắn không nghi ngờ rằng: Tất cả chúng ta có sẵn viên ngọc quí hằng phóng quang ở sáu cửa. Nhận ra điều này và nhờ một thời gian dài tĩnh tu, chúng tôi đã ứng dụng và có kinh nghiệm chín chắn. Vì vậy chúng tôi cảm thấy vui, vui vì có viên ngọc quí mà mình dùng được nên trở thành giàu có. Chúng tôi giàu và tin rằng mọi người cũng đều giàu như vậy nên năm nay tôi lạc quan muốn nói nhiều với quí vị.
Để kết thúc, không gì hơn chúng tôi chúc tất cả Tăng Ni và Phật tử sang năm mới sẽ là người nhận ra kho báu nhà mình, là con ông Trưởng giả, là người có viên ngọc quí vô giá, trở thành người cự phú để từ đây về sau khỏi lang thang vất vả nữa.
Năm Quí Hợi - 1983
Hôm nay là Tết Nguyên Đán, năm Quí Hợi, 1983 DL, chư Tăng Ni và Phật tử đến đây chúc mừng năm mới và cầu tuổi thọ cho tôi. Vì tôi có một chút niềm vui, nên muốn nói chuyện nhiều với quí vị nhân buổi đầu xuân.
Một hôm, đang ngồi nghỉ, bỗng dưng tôi nhớ đến câu chuyện Thiền sư Huệ Hải đến hỏi đạo với Mã Tổ. Khi Huệ Hải đến, Mã Tổ hỏi: “Ông đến đây cầu việc gì?” Huệ Hải thưa: “Con đến đây cầu Phật pháp.” Mã Tổ bảo: “Kho báu nhà mình chẳng đoái hoài, bỏ nhà chạy đi tìm cái gì?” Huệ Hải thưa: “Cái gì là kho báu của Huệ Hải?” Mã Tổ nói: “Chính cái ngươi hỏi ta, đó là kho báu của ngươi, đâu nhờ tìm cầu bên ngoài.” Ngay câu này, ngài Huệ Hải liền nhận ra kho báu nhà mình, vui mừng lễ tạ. Về sau, khi giáo hóa đồ đệ, Ngài bảo: “Từ khi ta đến Mã Tổ, nhận được kho báu nhà mình đến giờ sử dụng tự tại, không bao giờ thiếu thốn.” Khi ấy bỗng dưng tôi tự hỏi: “mình thiếu thốn cái gì”, rồi tôi cười…
Tôi lại nhớ đến hai thí dụ trong kinh Pháp Hoa: thí dụ Cùng tử và thí dụ Hệ châu.
Các đệ tử lớn của đức Phật, sau khi ngộ được Tri kiến Phật, mới trình lên thí dụ “Cùng tử”, để đức Phật ấn chứng. Cùng tử từ thuở nhỏ, đã bỏ cha trốn đi lang thang ở xứ người, sống chật vật nghèo khổ. Khi tuổi đã lớn, chàng tình cờ về đến cố hương. Gặp lại cha sống trong cảnh giàu sang quyền quí, chàng không dám nhìn cha. Vì không nhận ra ông Trưởng giả đầy thế lực kia là cha mình, nên cùng tử hoảng sợ bỏ chạy, khiến ông Trưởng giả phải khổ nhọc sai ngưởi đi dụ dỗ. Sau cùng chàng chịu trở về với tư cách làm thuê cho ông Trưởng giả, chớ không dám tự nhận mình là con. Lần lần về sau, nhờ sự khôn ngoan khéo léo, nên đến giờ sắp chết, ông gọi người con đến và hội cả thân tộc lại, mới tuyên bố rằng: “ngươi thật là con ta, ta thật là cha ngươi…” và trao cả sự nghiệp cho chàng. Từ đó cùng tử mới thấy mình thật là con ông Trưởng giả và thừa hưởng sự nghiệp của cha.
Qua thí dụ trên, chúng ta nhận thấy chàng cùng tử đi lang thang, khi trở về không dám nhận ông Trưởng giả là cha, nên hoảng sợ bỏ chạy. Và khi được dụ dỗ mới trở lại. Nếu chàng cùng tử ấy ngay khi trở về liền tự nhận mình là con thì chắc khỏi bận tâm người cha.
Đến thí dụ “Hệ châu”. Đây là hình ảnh một người cùng khổ đói rét về thăm bạn thân, rồi say rượu nằm ngủ. Người bạn thương, cột trong chéo áo của anh một hạt châu quí nhưng vì say nên anh không hay biết. Người bạn bận việc phải đi, anh chàng say khi tỉnh dậy bèn đi lang thang xứ này xứ khác, vì việc ăn mặc mà phải gắng sức cầu tìm rất là khổ nhọc. Một hôm, người bạn thân gặp lại anh bèn nói: “Ngày xưa tôi đã tặng anh một hạt châu quí, giá trị vô luợng, cột trong chéo áo của anh, nếu anh đem ra dùng thì sẽ thành một cự phú, đâu phải sống lang thang đói rét đến thế này.” Người bạn mới chỉ thẳng hạt châu cho anh. Nhận ra hạt châu, anh chàng kia liền hết thiếu thốn, nghèo khổ.
Qua thí dụ trên chúng ta thấy chỉ cần một phen nhận lại mình có hạt châu thì hết nghèo; nếu quên mình có hạt châu thì đói khổ, nhớ mình có hạt châu thì giàu có.
Như vậy cái giàu có và nghèo khổ cách nhau bao nhiêu. Chỉ giữa tỉnh và mê. Ví như cùng tử khi gặp lại cha, nhận ngay cha mình là ông Trưởng giả, lúc ấy tuy chưa thay đổi y phục nhưng còn thấy mình là cùng tử hay không? Và anh chàng có sẵn hạt châu trong chéo áo, vừa nhớ lại mình có hạt châu, lúc ấy tuy còn đội nón lá, mặc áo rách, nhưng anh còn thấy mình nghèo chăng? Cái nghèo của cùng tử và của gã say, lỗi tại chỗ nào? Chỉ tại quên mình là con ông Trưởng gia, chỉ tại quên mình là người có hạt châu.
Kinh Pháp Hoa rất cao siêu, thuộc về Đại thừa đốn giáo, đốn nghĩa là nhanh. Nhớ mình là con ông Trưởng giả, nhớ mình có hạt châu, liền thấy mình giàu. Quên mình là con Trưởng giả, quên mình có hạt châu, là kẻ bần cùng. Chỉ trong tích tắc đồng hồ bỏ nghèo thành giàu, chỉ trong tích tắc đồng hồ chuyển mê thành ngộ. Đó là chỗ cao siêu đốn ngộ của kinh Pháp Hoa. Đó cũng chính là chỗ nhận ra kho báu nhà mình của Thiền sư Huệ Hải. Chỉ ngay câu nói của Mã Tổ, ngài Huệ Hải liền nhận ra kho báu nhà mình vốn tự đầy đủ, chưa từng thiếu thốn, không phải đi lang thang cầu pháp nơi này nơi khác. Chỉ một phen nhận ra một cách nhanh chóng kho báu nhà mình liền trở thành người giàu có, đó gọi là đốn ngộ. Còn quên gọi là mê, mê lộ là quên đường. Chỉ vì quên kho báu của chính mình nên chúng ta lang thang đi trong luân hồi sanh tử không biết bao nhiêu kiếp. Cho đến ngày nay, tuy đôi lúc tỉnh giác trở về với đạo, nhưng vẫn còn thấy mình nghèo thiếu, nên đi học hỏi nơi này nơi kia, tìm cầu bên ngoài, nếu nhớ lại thì hết đói khát thiếu thốn. Đó là tinh thần đốn ngộ của Thiền tông, là tinh thần “truyền đốn pháp” trong bài kệ của Lục Tổ, cũng là tinh thần đốn ngộ của kinh điển Đại thừa.
Pháp đốn ngộ này không có thời gian, như câu chuyện Long nữ thành Phật trong kinh Pháp Hoa. Long nữ là con gái của vua rồng, mới tám tuổi mà căn tánh lanh lẹ, có trí tuệ thấy rõ các pháp, được ngài Văn-thù-sư-lợi hóa độ nên chứng được quả Vô thượng Bồ-đề mau chóng. Ngài Xá-lợi-phất không tin việc này. Vô lý, thân nữ lại thuộc loài súc sanh, mà được thành Phật, việc này khó tin. Long nữ có một hạt châu quí báu, đem dâng lên đức Phật. Phật liền nhận lấy. Long nữ nói với Tôn giả Xá-lợi-phất: Tôi dâng châu báu, đức Thế Tôn nhận lấy, việc này trong khoảng bao lâu? Đáp: Trong chốc lát. Long nữ nói: Tôi thành Phật cũng nhanh như vậy.
Thật vậy, nếu chúng ta nhận mình là con ông Trưởng giả thì trong chớp mắt mình không còn là kẻ lang thang đói rách nữa. Nếu chúng ta biết mình có hạt châu trong chéo áo, dù có ai chê cười mình là kẻ ăn mày nghèo khổ, mình vẫn thản nhiên vì biết mình là cự phú. Nhận rõ được điều này, chúng ta không còn lo sợ thiếu thốn. Nghĩ như vậy tôi cảm thấy vui vì năm nay chúng ta đều là những người giàu có, là những cự phú ngày mai.
Kinh điển Đại thừa thường hay nói mê và ngộ nhanh như trở bàn tay. Vì sao? Vì mê là chúng sanh, ngộ là Phật. Hạt châu đã sẵn trong túi áo, chỉ cần nhớ lại mình có hạt châu là thành kẻ giàu, cái nhớ lại chỉ trong khoảnh khắc, không thể nói thời gian được. Tuy chúng ta chưa bán hạt châu để sắm xe cộ, nhà cửa v.v… nhưng chúng ta chắc chắn không phải kẻ nghèo khổ. Cũng như vậy, một phen ngộ rồi chúng ta là Phật tương lai không nghi ngờ gì, ngộ rồi chúng ta không còn là chúng sanh lang thang nữa. Trong nhà thiền thường nói mê là chúng sanh, ngộ là Phật. Chỉ mê và ngộ thôi, cũng như chỉ nhớ và quên thôi. Nhớ và quên còn mau hơn cả cái tích tắc đồng hồ, không thể định thời gian được. Đó gọi là đốn ngộ, nghĩa là ngộ nhanh không tưởng được. Mê thì Phật là chúng sanh, quên mình có hạt châu, thấy mình là kẻ ăn mày. Ngộ thì chúng sanh là Phật, chính kẻ ăn mày nhận ra hạt châu trong chéo áo, thấy mình là tay cự phú.
Nhưng thử hỏi, vì sao chúng ta không giác ngộ, mà cứ mãi si mê như vậy? Đó là câu hỏi mà người tu hành vẫn thường thắc mắc. Lỗi tại đâu mà chúng ta không ngộ, mà cứ mê hoài? Sau đây là câu chuyện của ngài Sa-di Cao. Sa-di Cao đến với Thiền sư Dược Sơn. Dược Sơn hỏi: “Ta nghe nói ở Trường An ồn ào lắm phải chăng?” Sa-di Cao trả lời : “Xứ con an ổn.” Qua câu trả lời, chúng ta thấy ngài Sa-di Cao là kẻ giàu phải không? Và tại sao giàu? Ngài Dược Sơn hỏi tiếp: “Ngươi do đọc kinh mà được hay do thưa hỏi được?” Sa-di Cao thưa: “Không do đọc kinh cũng không do thưa hỏi.” Dược Sơn bảo: “Những người khác không đọc kinh, không thưa hỏi, tại sao họ không được?” Sa-di Cao thưa: “Không phải họ không có, tại vì họ không chịu nhận thôi.” Chính vì những người khác không nhận cái ấy sẵn có nơi mình, nên làm kẻ nghèo lang thang. Chỉ một phen nhận ra, từ đó về sau đi đứng nằm ngồi không bao giờ quên, không bao giờ thấy mình là kẻ nghèo đói thiếu thốn nữa.
Khi nghe hỏi Trường An ồn ào lắm phải chăng, ngài Sa-di Cao trả lời: Xứ con an ổn. Vậy xứ Ngài là xứ nào? Vì Trường An là kinh đô ồn náo, xứ của Ngài có phải ở trong đồng hoang rừng vắng chăng? Nếu ai chỉ được chỗ ấy là biết xứ của Ngài. Để chỉ người dám chỉ, chúng tôi xin dẫn câu chuyện của ngài Qui Chơn. Qui Chơn đến với Tổ Qui Sơn. Tổ hỏi: “Ngươi tên gì?” Đáp: “Dạ con tên Qui Chơn.” Tổ hỏi: “Qui Chơn ở chỗ nào?” Ngài trả lời không được, rồi từ giã Tổ xuống núi, và gặp ngài Ngưỡng Sơn đang chăn trâu. Ngưỡng Sơn hỏi: “Sao Thượng tọa lên núi xuống mau vậy?” Qui Chơn đáp: ‘Tại vì cơ duyên không hợp.” Hỏi: “Vậy Hoà thượng hỏi gì?” Đáp: “Hoà thuợng hỏi tôi tên gì, tôi nói Qui Chơn, rồi Hoà thượng hỏi Qui Chơn ở đâu, tôi trả lời không được nên xuống núi.” Ngưỡng Sơn nói: “Thôi Thượng tọa trở lên thưa: Con nói được. Hoà thượng hỏi ở đâu, Thượng tọa chỉ đáp “trong mắt, tai, mũi…” Qui Chơn vội vã trở lên thưa: “Con trả lời được.” Tổ hỏi: “Qui Chơn ở đâu?” Ngài liền đáp: “Trong mắt, tai, mũi…” Tổ Qui Sơn liền bảo: “Kẻ nói dối, nói rỗng, đó là lời của thiện tri thức năm trăm người.” Như vậy “Qui Chơn” là trở về chỗ ấy, trở về cái chân thật. Chỗ an ổn của ngài Sa-di Cao cũng là ở chỗ đó, chỗ đó lúc nào cũng an ổn. Sở dĩ chúng ta không an ổn là tại trong tâm ta lăng xăng, còn ở mắt, ở tai đâu có lăng xăng. Tai nghe tiếng rồi tâm chạy theo tiếng, mắt thấy sắc tâm liền duyên theo sắc, nên chúng ta mới lăng xăng dao động, còn ở tai ở mắt có bao giờ lăng xăng đâu. Sống với cái không động tịnh bao giờ, nên ngài Sa-di Cao được luôn luôn an ổn. Như vậy, khi nhận ra được kho báu nhà mình thì sung sướng suốt đời, không còn nghèo khổ. Nếu không nhận ra được thì khi nghe ai nói nơi nào có Phật, chúng ta liền chạy đến tìm cầu, không ngờ mình đã vác Phật đi cầu Phật.
Khi nhớ lại những câu chuyện vừa kể trên, chúng tôi nhận thấy pháp tu thiền của chúng ta theo hai cách thức, tạm dùng danh từ là tu toàn phần và tu cục bộ. Đó là điều quan trọng chúng tôi cần phải nói rõ.
Thế nào là tu toàn phần? Chúng tôi dẫn lời của ngài Đại An nói với môn đệ: “Tất cả các ngươi đều có viên ngọc quý thường phóng quang ra sáu cửa gọi là phóng quang tam muội.” Như vậy nếu chúng ta trong các động tác hằng ngày đi đứng nằm ngồi nói nín trông nghe đều nhớ được viên ngọc quí của chính mình thường phóng quang ra sáu cửa, đó gọi là tu toàn phần. Tu toàn phần là sống với ánh sáng do viên ngọc quí phóng ra, không lệ thuộc vào sáu trần, ánh sáng ấy không phải động, không phải tịnh vì vượt ngoài vòng đối đãi động tịnh. Trong quyển “Yếu Chỉ Thiền Tông”, chúng tôi gọi lối tu toàn phần này là tu nhớ Ông chủ, nghĩa là trong mọi hoạt động đi đứng nằm ngồi, chúng ta hằng nhớ ánh sáng của viên ngọc quí phóng ra sáu cửa, không bao giờ quên việc ấy. Trong nhà thiền gọi đó là trưởng dưỡng Thánh thai hay là nuôi lớn Thánh thai của chính mình.
Tổ Lâm Tế có nói:
Tùy duyên tiêu cựu nghiệp
Nhậm vận trước y xiêm.
Dịch:
Tùy duyên tiêu nghiệp cũ
Hồn nhiên mặc áo xiêm.
Chúng ta vẫn sống bình thường như bao nhiêu người, những nghiệp cũ lần lần lặng bớt. Ăn cơm, mặc áo đều hồn nhiên, không có những suy nghĩ lăng xăng chen vào, đó gọi là sống với Ông chủ. Sống được như vậy gọi là người nhớ, người tỉnh. Còn những ai sống chạy theo sáu trần, phân biệt sáu trần, gọi là người quên, người mê. Tỉnh với mê chỉ là sống được với Ông chủ, hay chạy theo sáu trần.
Đó là lối tu toàn phần, nói một cách tổng quát, nếu muốn thực hành chúng ta phải tu như thế nào? Vọng tưởng chúng ta còn quá nhiều, tâm ý cứ mãi lăng xăng, không hằng sống được với Ông chủ, chúng ta muốn tu toàn phần phải làm sao? Như khi chúng ta đang đi, bỗng nhớ lại chuyện năm trước, chúng ta chỉ cần nhắc lại một câu: “Đi chỉ là đi.” Những ý tưởng lăng xăng liền dừng lại. Khi chúng ta đang ngồi chơi, vọng niệm vừa khởi, chúng ta liền nhắc lại “ngồi chơi chỉ là ngồi chơi”. Hoặc khi chúng ta đang làm việc gì như bửa củi hay nấu cơm, những ý nghĩ lăng xăng vừa mống lên, liền tự nhắc: “bửa củi chỉ là bửa củi”, “nấu cơm chỉ là nấu cơm” v.v… nghĩa là nhắc lại những việc mình đang làm, tự nhiên những ý nghĩ lăng xăng sẽ dứt hết.
Thật ra, người tu toàn phần phải gan dạ vô cùng vì không thấy ngồi thiền, coi như là ở không, biếng nhác, bê trễ. Nhưng đúng ra các Tổ khi xưa, ít khi ngồi thiền vì các ngài sống trong hành động nào cũng là nhớ, cũng là tỉnh, cần gì phải ngồi thiền. Nhưng riêng chúng tôi vẫn ngồi thiền, vì ngồi thiền có lợi, tránh được sương gió, bệnh hoạn, nhất là vào buổi khuya hay đầu hôm khi khí trời lành lạnh. Ngồi thiền phải như thế nào? Chúng ta ngồi đúng phương pháp đàng hoàng, mắt nhìn xuống vừa tầm, hơi thở điều hòa, tâm trí lặng lẽ tỉnh táo, vừa dấy niệm liền nhắc: “ngồi thiền chỉ là ngồi thiền”, thì tự nhiên sẽ được thảnh thơi. Ngồi thiền chỉ chừng ấy việc thôi, không thêm cái gì khác nữa. Pháp tu này thật là nhàn hạ.
Ngoài giờ ngồi thiền, trong các hoạt động đi đứng nằm ngồi cho đến vào nhà vệ sinh, vào nhà tắm chúng ta cũng hằng nhớ “đi cầu chỉ là đi cầu, đi tắm chỉ là đi tắm v.v…” không thêm cái gì khác nữa. Tu như vậy cả ngày, chúng ta sẽ thấy thảnh thơi, nhàn nhã. Chủ yếu của việc tu này chỉ nhớ đừng quên, nhớ lại là mình giàu, quên đi thành kẻ nghèo, chỉ chừng ấy việc để ứng dụng tu trong mọi trường hợp.
Thế nào là tu cục bộ? Tu cục bộ tức là tu một bộ phận. Chúng tôi xin dẫn ra đây một thí dụ. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật chủ yếu dạy ngài A-nan ngộ đạo. Đến phần đức Phật giải thích về thất đại, ngài A-nan liền ngộ và phát thệ nguyện. Sau đó Ngài thưa với đức Phật: “Con cũng như kẻ nghèo nàn, bỗng dưng được nhà vua tặng cho một ngôi nhà lầu đẹp, mà không biết làm sao vào, cúi xin Thế Tôn chỉ cho con cửa vào trong ngôi nhà ấy.” Đức Phật liền hỏi pháp môn tu của hai mươi lăm vị Thánh và cuối cùng Phật bảo ngài Văn-thù tuyển chọn pháp nào phù hợp với căn cơ chúng sanh cõi này. Ngài chọn pháp môn “Phản văn văn tự tánh” của Bồ-tát Quán Thế Âm làm cửa vào. Đây là một phương tiện rất phù hợp với chúng sanh ở cõi Ta-bà, và ngài Văn-thù dùng pháp môn này chỉ cho ngài A-nan tu. Việc chủ yếu là sau khi ngộ đạo rồi phải tu, ở đây là tu một bộ phận trong sáu bộ phận, nghĩa là trong sáu căn chỉ lấy Tánh nghe để trở về. Vì vậy mà chúng tôi tạm gọi là tu cục bộ.
Từ trước đến nay những vị tu theo pháp Phản văn văn tự tánh thường hay lầm, mà chính chúng tôi cũng bị lầm. Chúng ta cứ nghĩ nghe lại Tánh nghe thì nghe làm sao? Chúng tôi kinh nghiệm nhiều lần, nếu ngồi lại nghe cái mình hay nghe, một lúc sau lỗ tai bắt đầu nhức. Có vị nghe trở vô trong, về sau bị ran ngực, lâu ngày thổ huyết thành bệnh. Tu lối phản văn như vậy là một lầm lẫn quá lớn.
Vậy muốn tu pháp Phản văn phải tu làm sao cho đúng? Muốn dạy tu pháp Phản văn phải dạy những người nào? Không phải những ai vừa học kinh Lăng Nghiêm sơ qua đều tu được pháp “Phản văn văn tự tánh”. Chính ngài A-nan sau khi ngộ rồi, đức Phật mới dạy tu pháp ấy. Ngài A-nan ngộ rồi, thấy được tánh mình trùm khắp mười phương. Nhưng nếu một lúc ứng dụng cả sáu căn thì hơi khó, nên dùng một phương tiện thôi, tức là Tánh nghe để tỉnh và nhớ mãi. Vì vậy Phật mới dạy Phản văn văn tự tánh.
Phản văn nghĩa là gì? Từ trước đến nay, cái nghe của chúng ta là theo âm thanh bên ngoài, gọi đó là tùy lưu. Nếu chúng ta không trôi theo thanh trần mà chỉ nhớ lại tánh nghe, gọi đó là phản văn. Tánh nghe như thế nào và ở đâu? Khi nói nghe lại Tánh nghe, chúng ta nghĩ là Tánh nghe ở tại lỗ tai, rồi chúng ta nghe một lúc lâu, lỗ tai bắt đầu nhức. Phải nhớ Tánh nghe trùm khắp mười phương, không kẹt ở lỗ tai mới không bị nhức, không sanh bệnh. Tánh nghe không có tướng mạo nên nó không bị hạn chế hay ngăn cách. Chúng ta luôn luôn nhớ thẳng Tánh nghe của mình trùm khắp mười phương, đó gọi là tu Phản văn văn tự tánh.
Tu toàn phần hay tu cục bộ đều là lối tu chung của thiền giáo. Trong kinh dạy Bồ-tát Quán Thế Âm đã tu phản văn, mà chính tông Tào Động hiện nay đã tu lối Phản văn này. Khi học kinh Lăng Nghiêm chúng ta cố gắng nhận ra lối tu này, do đó mới biết rõ rằng đường lối tu thiền đã được dạy trong kinh. Nhưng muốn tu như vậy là phải ngộ trước, sau mới tu. Tu toàn phần hay tu cục bộ chủ yếu ở một chữ nhớ. Nhớ thì mình là con ông Trưởng giả, nhớ thì mình là người giàu có; còn quên thì mình là gã cùng tử, quên thì mình là kẻ ăn mày. Chỉ nhớ và quên, đó là tinh thần đốn ngộ của Thiền tông cũng là của Đại thừa. Chỉ một chữ nhớ thôi là chuyển phàm thành Thánh, còn quên là đem Thánh vào phàm. Đốn ngộ là như vậy.
Dù tu toàn phần hay tu cục bộ, chúng ta phải đủ lòng tin, như ngài Đại Mai trong câu chuyện sau đây: Ngài Đại Mai, sau khi ngộ đạo với Mã Tổ liền lên núi Đại Mai ở ẩn. Mã Tổ nghe Ngài ở núi bèn sai một vị Tăng đến thăm dò. Vị Tăng hỏi: “Hoà thượng đến Mã Tổ được cái gì mà về ở núi này?” Ngài đáp: “Ta nghe Mã Tổ nói tức tâm tức Phật, ta liền về ở núi.” Tăng nói: “Gần đây Mã Tổ lại dạy phi tâm phi Phật.” Ngài bảo: “Ông già mê hoặc người không có ngày thôi, mặc ông nói phi tâm phi Phật, ta chỉ biết tức tâm tức Phật!” Vị Tăng trở về thuật lại, Mã Tổ nói: “Trái mai đã chín”, tức là ngài Đại Mai đã nhận ra cái tức tâm tức Phật ấy.
Tin như ngài Đại Mai gọi là xác tín, nghĩa là tin một cách không lung lay. Chính vị thầy đã dạy mình ngộ đạo, cũng chính vị thầy ấy ngày sau dạy khác đi, mà niềm tin của Ngài vẫn vững chắc không bị lung lay, huống nữa là người nào khác.
Còn chúng ta, vì không đủ niềm tin, nên hôm nay nghe ai bảo pháp tu này hay, ngày mai nghe người khác bảo pháp tu kia hay, chúng ta liền hưởng ứng theo, thật ra chúng ta có tin chi đâu. Chúng ta phải tin, phải nhận ra cho đúng, không ai lay chuyển được, mới có thể tu toàn phần hay cục bộ. Muốn ứng dụng hai pháp tu này, phải có lòng tin không lung lay như ngài Đại Mai, phải ngộ đạo rồi tin như ngài A-nan nhận ra Pháp thân trùm khắp mười phương.
Nếu chưa được như ngài A-nan và ngài Đại Mai, chúng ta phải tu cách nào? Đó là điều chúng tôi thấy cần chỉ cho quí vị biết rõ đường lối tu hành từ trước đến nay của Thiền viện.
Các Tăng Ni đến đây nhận sự hướng dẫn tu hành của chúng tôi ít nhất phải học ba năm. Học ba năm để làm gì? Chủ trương của tôi y theo đường lối chư Tổ dạy là “Kiến tánh khởi tu”, tức là nhận ra Bản tánh của mình, rồi sau đó ứng dụng tu. Như phần trước chúng tôi đã nói, nhận ra nơi mình có viên ngọc quí phóng ánh sáng ra sáu cửa. Nhận ra như vậy rồi mới tu toàn phần hay cục bộ, tức là nhận ra được Bản tánh bất sanh bất diệt của chính mình, rồi mới ứng dụng tu.
Muốn nhận ra Bản tánh bất sanh bất diệt phải làm sao? Khi xưa chư Tổ cho đồ đệ đi tham vấn các nơi, gọi là đi tham thiền để một ngày nào phát minh, phát ngộ. Nhưng ngày nay chúng ta không có phương tiện như vậy, nên chúng tôi dùng phương pháp giảng kinh, luận và sử các Thiền sư. Khi nghe giảng lâu ngày quí vị tự thầm nhận, thầm nhận là tự ngộ một cách nhẹ nhàng, nhận ra nơi mình có viên ngọc quí hằng phóng quang ra sáu cửa. Khi nhận được như vậy tạm gọi là kiến tánh, kiến tánh này là lóe thấy thôi chớ không phải là hằng sống. Lóe thấy rồi bắt đầu ứng dụng tu hằng nhớ, hằng nhớ chúng ta có viên ngọc quí luôn luôn, hoặc tu toàn phần, hoặc tu cục bộ. Vì vậy chúng tôi chủ trương phải học ba năm.
Nếu chưa nhận ra được Bản tánh bất sanh bất diệt của chính mình, chúng ta phải tu bằng cách nào? Chúng tôi chỉ quí vị ứng dụng lối tu của Tổ Huệ Khả trong câu chuyện sau đây:
Ngài Huệ Khả hỏi Tổ Bồ-đề-đạt-ma: “Tâm con không an, xin Thầy dạy con phương pháp an tâm.”
Tổ Đạt-ma bảo: “Đem tâm ra ta an cho.”
Ngài Huệ Khả xoay lại tìm, tìm một lúc không được, Ngài thưa: “Con tìm tâm không được.”
Tổ bảo: “Ta đã an tâm cho ngươi rồi.”
Ngay nơi đó ngài Huệ Khả biết cách an tâm. Đây là biết cách an tâm chớ chưa phải ngộ.
Qua câu chuyện trên, chúng ta nhận rõ rằng sở dĩ chúng ta bất an vì lầm vọng tưởng là tâm, các vọng tưởng ấy làm chúng ta xao xuyến âu lo mãi, nên gọi đó là tâm bất an. Để giải cái lầm này, chúng ta phải nhớ các tư tưởng lăng xăng là vọng tưởng chớ không phải tâm. Vì vậy đầu tiên chúng tôi chủ trương lối tu biết vọng. Thay vì ngày xưa cho đó là tâm, ngày nay chúng ta biết đó là vọng. Như vậy chúng ta đã tỉnh được một chút trong cơn mê, mê là vì cho vọng tưởng là tâm mình, tỉnh là vì biết đó là vọng tưởng chớ không phải tâm.
Tại sao chúng tôi quả quyết như vậy? Vì chúng tôi thấy rõ vọng tưởng mà chúng ta đang chạy theo chỉ là bóng dáng của sáu trần. Tỉ dụ: Ban sáng khi xuống chợ, chúng tôi thấy một người ăn mày đáng thương và chú ý đến họ. Chiều về khi ngồi chơi, bỗng nhiên hình ảnh người ăn mày hiện ra khiến chúng tôi suy nghĩ về họ. Như vậy, hình ảnh người ăn mày là sẵn nơi mình hay từ đâu đến? Đó là cái bóng ở bên ngoài, cái bóng của khi sáng. Duyên theo cái bóng ấy, chúng ta suy nghĩ, thành ra suy nghĩ những gì chúng ta đã nghe, đã thấy là suy nghĩ theo bóng, nó đâu phải là mình. Cho đó là tâm mình là lầm, mà tất cả chúng ta lâu nay đều lầm như vậy.
Chúng ta phải nhớ những suy nghĩ duyên theo bóng dáng sáu trần là vọng, vừa dấy niệm suy nghĩ liền biết đó là vọng. Biết như vậy vừa tránh khỏi lầm, vừa dừng được vọng, tức là dừng được động. Động dừng gọi là định. Đường lối tu như vậy rất đơn giản, không có gì phiền phức. Đó là đường lối của Tổ sư đã dạy cho người chưa ngộ.
Khi chúng ta biết được vọng mà vọng quá mạnh cứ chạy lung tung kéo lôi mình không dừng, chúng ta phải làm sao đây? Tỉ dụ chúng ta có một số tiền để dành, mà quên không nhớ cất nó ở đâu, tìm mãi chưa ra. Đến khi ngồi thiền, cứ nhớ không biết tiền để ở đâu. Chính khi nhớ đó, biết là vọng mà dừng không được, vì vọng quá mạnh lôi kéo mình hoài. Để dừng được loại vọng này, chúng ta phải áp dụng lối tu mạnh hơn, là tìm lại xem vọng này xuất phát từ chỗ nào. Tìm một lúc mới nhận thấy chúng không cội rễ, và tự chúng mất đi. Đây cũng là trường hợp ngài Huệ Khả tìm tâm mình ở đâu, khi tìm lại thì thấy nó không có, đó gọi là an tâm. Và chúng tôi đã ứng dụng tu theo phương pháp an tâm của Tổ Huệ Khả ngay từ buổi đầu. Hai lối tu biết vọng và tìm vọng được áp dụng hỗ tương cho nhau trong lúc chúng ta ngồi thiền. Đây cũng là lối tu cục bộ xoay trở lại Tánh biết của ý. Sự diễn tiến của lối tu này cụ thể hóa bằng mười bức họa chăn trâu. Vì thế lối tu này cũng gọi là Chăn trâu. Ngoài giờ ngồi thiền, chúng ta phải tu như thế nào? Chúng ta phải ứng dụng tinh thần Bát-nhã trong hai phép quán: một là quán thân năm uẩn không thật, hai là quán sáu trần không thật. Tất cả trần cảnh đều là tướng duyên hợp như huyễn, thân này cũng là duyên hợp như huyễn. Chúng ta phải hằng quán như vậy, thấy các pháp như huyễn để phá tan những mê chấp về thân, tâm và cảnh giới.
Phép tu quán các pháp như huyễn đều được dạy trong các kinh điển Đại thừa. Càng học kinh chúng ta càng thấy rõ ý nghĩa tu như vậy. Trong kinh, Phật dạy các Bồ-tát đem thân như huyễn cứu độ hữu tình như huyễn v.v… Vì sao Phật dạy như vậy? Tại vì, như chúng ta nhận xét, phàm những gì do duyên hợp đều như huyễn. Những hiểu biết của chúng ta và những lời Phật dạy đều rất phù hợp có thể ứng dụng ngay trong cuộc sống. Càng học kinh càng sáng tỏ việc tu. Vì vậy mà chúng tôi chủ trương đường lối tu ở đây là Thiền Giáo đồng hành. Giáo là kinh, Thiền là ứng dụng tu thiền, hai việc đồng hành. Học kinh để chúng ta biết rõ đường lối tu thiền, tu thiền để chúng ta sáng tỏ được ý kinh, Thiền và Giáo hỗ tương cho nhau là như vậy.
Trong phần thực hành, chúng ta phải biết ứng dụng linh động ba phép tu: biết vọng, tìm vọng và quán các pháp như huyễn. Khi ngồi thiền chúng ta dùng phương pháp nhẹ là biết vọng thường xuyên, phương pháp mạnh hơn là tìm vọng xem nó xuất phát từ đâu. Dùng lối tu biết vọng lâu ngày, nhất là khi nhập thất đôi ba tháng, do tu chăm quá chúng ta bị đau đầu, mặt mày buồn xo, tánh tình dễ cau có, nhìn qua là biết ngay người này đang cố gắng thái quá trong khi tu biết vọng. Đến giai đoạn này, chúng ta phải chuyển lại dùng phép quán thân như huyễn, quán cảnh như huyễn, nhìn trời nhìn nước đều như huyễn, chúng ta cười nhẹ nhàng thoải mái. Do nhìn ra ngoại cảnh biết các pháp như huyễn như hóa, chúng ta bớt cố gắng kềm ở bên trong, tinh thần thư giãn, lần lần không kềm nữa. Đi đứng nằm ngồi lúc nào cũng biết các pháp như huyễn nên tâm trí chúng ta sẽ được thảnh thơi.
Nhìn ra ngoại cảnh biết như huyễn, đến một lúc tâm bắt đầu loạn, bị ngoại cảnh lôi cuốn, chúng ta phải xoay vào bên trong biết đó là vọng, tâm sẽ an ổn trở lại. Ứng dụng linh động các phép tu như vậy sẽ không bệnh hoạn, buồn bực và cáu kỉnh nữa. Đó là kinh nghiệm chúng tôi đã thấy rõ trong khi tu hành.
Đối với người sơ cơ chưa nhận ra Ông chủ, chúng tôi ứng dụng tinh thần Bát-nhã vào việc tu. Vì vậy mở đầu chúng tôi giảng kinh Bát-nhã và kinh Kim Cang, dùng Trí tuệ Bát- nhã làm cửa vào nhà thiền. Dùng trí tuệ ấy mãi đến bao giờ khi nghe kinh Phật dạy, hoặc học sử các Thiền sư, chúng ta tin chắc rằng nơi mình có viên ngọc quí, không còn nghi ngờ gì nữa. Sau khi nhận ra Ông chủ rồi, từ đó về sau chúng ta sẽ tu hoặc toàn phần hoặc cục bộ.
Theo tinh thần Bát-nhã, đức Phật dạy chúng ta phá tất cả chấp, chấp về thân và tâm v.v… mà không chỉ ra cái chân thật. Đó gọi là tinh thần giá thuyên, một danh từ chuyên môn trong nhà Phật. Giá là ngăn, thuyên là nói, tức là dạy bằng cách ngăn không cho chấp trước, danh từ hiện nay gọi là phủ định. Còn dùng lối tu toàn phần hay cục bộ là theo tinh thần biểu thuyên, tức là nói rõ ra, hay cũng gọi là khẳng định. Nghĩa là chỉ thẳng nơi mình có Ông chủ, và quyết định rằng Ông chủ đó là mình, không còn nghi ngờ gì nữa.
Phần tu phá các chấp trước thuộc về hệ thống các kinh Bát-nhã. Phần tu chỉ thẳng cái chân thật nơi mình thuộc về hệ thống các kinh Lăng Nghiêm, kinh Pháp Hoa và kinh Hoa Nghiêm. Nhân theo các lối tu, giáo lý đức Phật được chia thành thời Bát-nhã, gọi là trung kỳ Phật giáo, và thời Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, gọi là hậu kỳ Phật giáo.
Nhân đây, chúng tôi thấy rõ Thiền Giáo không hai. Bên kinh nói rộng, bên thiền chỉ tắt nên thấy dường như có khác. Bởi chỉ tắt nên quá cô đọng, khi nói rộng nên rất thênh thang, chúng ta phải học suốt năm này qua năm khác. Nhưng thật ra cái thênh thang của Giáo, các Thiền sư cô đọng lại trong một hai câu thôi. Nếu một hai câu nhận ra thì biết cái thênh thang này, cũng như nhờ học cái thênh thang mà biết cái cô đọng kia, hai bên Thiền Giáo hỗ tương cho nhau.
Tóm lại, ở Thiền viện chúng tôi ứng dụng tu thiền theo hai lối: một là tu biết vọng hay tìm vọng, đồng thời quán các pháp như huyễn, lối tu này dành cho người sơ cơ; hai là tu toàn phần hay cục bộ dành cho người đã nhận ra Ông chủ hay viên ngọc quí hằng phóng quang ra sáu cửa, người này phải đủ lòng tin vững chắc không lay chuyển. Đường lối tu của Thiền viện đã rõ ràng, y cứ theo kinh điển làm bằng, không phải đặt suông.
Chúng tôi nhận thấy một cách chắc chắn không nghi ngờ rằng: Tất cả chúng ta có sẵn viên ngọc quí hằng phóng quang ở sáu cửa. Nhận ra điều này và nhờ một thời gian dài tĩnh tu, chúng tôi đã ứng dụng và có kinh nghiệm chín chắn. Vì vậy chúng tôi cảm thấy vui, vui vì có viên ngọc quí mà mình dùng được nên trở thành giàu có. Chúng tôi giàu và tin rằng mọi người cũng đều giàu như vậy nên năm nay tôi lạc quan muốn nói nhiều với quí vị.
Để kết thúc, không gì hơn chúng tôi chúc tất cả Tăng Ni và Phật tử sang năm mới sẽ là người nhận ra kho báu nhà mình, là con ông Trưởng giả, là người có viên ngọc quí vô giá, trở thành người cự phú để từ đây về sau khỏi lang thang vất vả nữa.
TÙY DUYÊN BẤT BIẾN
Tất niên năm Quí Hợi - 1984
Sáng mai là ngày đầu của năm Giáp Tý.
Đêm nay chúng ta chờ đón Giao thừa, tôi sẽ giải thích hai bài kệ của Thiền sư Thiện Chiêu ở Phần Dương thuộc đời thứ năm tông Lâm Tế, vì hai bài này có liên hệ đến tuổi Giáp Tý của tôi một chút.
Trước hết tôi xin nói về ngài Thiện Chiêu, Ngài là một Thiền sư đặc sắc, người đương thời gọi Ngài là Sư tử Phần Dương. Ngài có những hành động mà thiên hạ khó chấp nhận nổi. Dưới hội của Ngài có năm trăm chúng. Một hôm đến ngày giỗ mẹ, Ngài sai đệ tử mua ít thịt cá và rượu về cúng. Cúng xong, Ngài mời chúng cùng ăn. Toàn chúng đều ngẩn ngơ, một vị đức hạnh nổi tiếng như thế mà nay lại mời người ăn thịt, uống rượu! Không ai dám dự, chỉ một mình Ngài điềm nhiên ngồi ăn. Sau bữa giỗ, năm trăm chúng bỏ đi gần hết chỉ còn lại tám người, trong đó có ngài Từ Minh. Ngài bảo: “Ta chỉ tốn một bữa rượu thịt mà tống được mấy trăm người.” Ngài biết chúng nghe danh Ngài mà đến chớ không hiểu Ngài, nên thí nghiệm một lần thử xem. Vừa thí nghiệm là chúng bỏ đi hết, người hiểu Ngài mới ở lại và sau mới kế thừa được. Ngài kỳ đặc như thế nên có được người đệ tử xuất sắc là ngài Từ Minh. Sau này nối pháp Từ Minh có hai vị lỗi lạc là Dương Kỳ Phượng Hội và Hoàng Long Huệ Nam. Tông Lâm Tế từ đó chia làm hai nhánh Hoàng Long và Dương Kỳ tức Lâm Tế Chánh Tông và Lâm Tế Gia Phổ.
Về sau, Ngài được một vị thuộc hàng vương tước nhà Tống mời về kinh đô trụ trì. Ngài từ chối, Sứ giả thưa: “Ngài không đi thì con ở đây luôn, nếu về sẽ bị tội.” Ngài nói: “Chi mà khổ vậy! Thôi về trước, ta có đường đi sau.”
Sứ vừa đi, Ngài họp chúng lại bảo: “Nay ta phải đi, trong chúng có ai theo ta được không?” Có một vị Tăng đứng ra thưa: “Con theo Hòa thượng được.” Ngài hỏi: “Ông đi một ngày bao nhiêu dặm?” Thưa: “Con đi một ngày năm mươi dặm.” Ngài nói: “Chưa theo ta được.” Người thứ hai thưa: “Con xin theo Hòa thượng.” Hỏi: “Ngươi đi một ngày bao nhiêu dặm?” Thưa: “Con đi ngày bảy mươi dặm.” Ngài bảo: “Ngươi cũng chưa đủ sức theo ta.” Cuối cùng Thị giả bước ra thưa: “Con xin theo Hòa thượng.” Hỏi: “Ngươi đi một ngày được bao nhiêu dặm?” Thị giả thưa: “Hòa thượng đến đâu con đến đó.” Ngài bảo: “Ngươi theo ta được.” Ngài liền ngồi kiết-già, bảo: “ta đi đây”, rồi tịch. Thị giả đứng khoanh tay tịch theo.
Đó là những chuyện đặc biệt của ngài Phần Dương. Sau đây là hai bài kệ Ngài làm vào Tết Nguyên Đán.
Bài thứ nhất:
Như kim châu giáp tý
Thục khả tri sanh tử
Tứ đại mộng trung âu
Nhất thân diệp thượng thủy
Phù vân bất cửu đình
Cam giá khởi trường mỹ
Duy hữu nhất linh quang
Khoáng kiếp hà tằng trụy.
Dịch:
Nay tôi tròn một giáp
Ai biết được sanh tử
Bốn đại bọt trong mơ,
Một thân lá trên nước
Mây nổi chẳng dừng lâu
Cây mía nào ngọt mãi
Chỉ có một linh quang
Nhiều kiếp đâu từng mất.
Như kim châu giáp tý, nay tôi tròn một giáp. Tròn một giáp là sáu mươi năm. Thục khả tri sanh tử là ai có thể biết được sự sanh tử. Tứ đại mộng trung âu, thân tứ đại này chẳng khác bọt nước trong giấc mơ. Mơ đã là hư dối rồi, bọt nước trong mơ còn hư dối tới bậc nào? Như chúng ta đang thức, thấy bọt nước, chạm vào nó vỡ ngay. Thế mà Ngài nói thân tứ đại này là bọt nước trong giấc mơ thì nó như thế nào? Vậy mà chúng ta chấp nó, xem nó là tối thượng. Nhất thân diệp thượng thủy, một thân như chiếc lá trôi trên dòng nước. Chúng ta đi qua những dòng sông, con suối, thấy những chiếc lá theo gió bay rơi trên mặt nước, trôi dạt nơi này, tắp nơi kia rồi rã ngoài cồn, ngoài bãi. Thân này cũng vậy chẳng nghĩa lý gì cả. Phù vân bất cửu đình, thân này chẳng khác đám mây nổi, không dừng lâu, tạm bợ lúc hợp, lúc tan. Cam giá khởi trường mỹ, cam giá là mía mà cũng có nghĩa là đường. Đường đâu có ngon ngọt mãi, như ngậm một viên kẹo hay nhai một miếng mứt, ngọt trong vòng năm ba phút thôi chớ không ngọt hoài. Duy hữu nhất linh quang, khoáng kiếp hà tằng trụy, linh là linh tri, quang là sáng suốt, khoáng kiếp là muôn kiếp. Chỉ có một linh tri sáng suốt, nhiều kiếp đâu từng bị rơi mất.
Đầu tiên Ngài cho biết tuổi Ngài đã tròn một giáp tức là được sáu mươi hay sáu mươi mốt tuổi. Thế mà mấy ai ở tuổi này biết được rõ ràng lẽ sanh tử. Thân tứ đại này thật như hòn bọt trong giấc mơ, như chiếc lá trôi giữa dòng sông không có nghĩa lý gì, như một đám mây nổi trong hư không, như một miếng đường nhai nuốt rồi mất không có gì bền lâu. Cuộc sanh tử vô thường, tạm bợ không có gì quí báu, nhưng chúng ta lại thấy nó quí, nó bền nên sân si chấp ngã đủ thứ... Vậy cái quí báu lâu bền là cái gì? Chỉ có một linh tri sáng suốt, tức là cái biết rất thanh tịnh sáng suốt, muôn kiếp chưa bao giờ bị mất, bị tan hoại. Một cái như hòn bọt trong giấc mơ hay như chiếc lá rơi trên mặt nước và một cái sáng suốt linh hoạt muôn đời, muôn kiếp chưa từng hoại, chưa từng mất, chúng ta chọn cái nào? Giữ một hòn bọt trong giấc mơ là khôn hay không khôn? Việc sanh tử tạm bợ không bền lâu mà bám vào đó để sân si, để tạo nghiệp, thật không biết phải nói sao! Trong khi chúng ta lại có một cái linh tri hằng sáng suốt muôn đời không bao giờ mất, tại sao không sống với cái đó mà lại bám vào cái kia? Thế nên giữ gìn thân tứ đại cho là quí báu, Phật gọi là vô minh. Biết rõ thân tứ đại như bọt nước, như chiếc lá rơi v.v... đó là tỉnh, là giác và sống được với cái không bao giờ bị suy hao, không bao giờ bị tan rã, đó mới là người được thoát khỏi sanh tử. Mục đích chúng ta tu là để làm gì? Có người nào nói tôi vào chùa tu để có cơm ăn, áo mặc, ấm no khỏi cực không? Chúng ta tu là cốt để giác ngộ, để thoát ly sanh tử. Tức là phải thấy rõ thân này như hòn bọt, như chiếc lá rơi, như áng mây nổi không bền, không trường cửu và phải thấy rõ nơi mình có một cái trường cửu bất sanh bất diệt, sống với cái đó, đừng chấp lấy thân. Trái lại nếu quên cái đó mà chấp lấy thân bọt nước này thì thật là chưa thoát khỏi vô minh.
Tóm lại bài kệ này Ngài dạy chúng ta phải tỉnh giác biết cái nào tạm bợ, cái nào lâu dài để chọn lấy mà sống. Biết chọn như thế, sống như thế là chúng ta tu. Việc tu rất đơn giản không có gì lạ, xưa nay chúng ta cứ nghĩ tu là tụng kinh nhiều, bái sám lắm, niệm Phật phải đủ mấy trăm chuỗi v.v... nhưng sự thật tu là có trí tuệ thấy rõ cái giả đừng lầm, biết cái thật để sống. Cái thật không hoại, không hoại tức là không sanh tử; trái lại cái giả thì nát, giờ này nát rồi tụ lại giờ sau, giờ kia nát tụ lại giờ khác, cứ như thế mà tụ tán... Bám vào cái tụ tán đó thì luân hồi muôn kiếp không cùng. Thế nên bài kệ này là một lời nhắc nhở quí giá của Ngài vào đầu năm.
Đến bài thứ hai:
Như kim lục thập nhất,
Bạch phát tương thôi xuất,
Huyễn chất tỉ phù vân,
Không tâm đồng Tổ Phật,
Xuân lai bất tiện hoa,
Thu khứ khởi hiềm vật,
Cánh dữ tam thập niên,
Miết nhiên như điện phất.
Dịch :
Nay tôi sáu mươi mốt,
Tóc bạc đuổi nhau điểm,
Chất huyễn dường mây trôi,
Tâm không đồng Tổ Phật,
Xuân đến chẳng chê hoa,
Thu về nào ghét vật,
Lại cùng năm ba mươi,
Bỗng nhiên như điện chớp.
Như kim lục thập nhất là nay tôi sáu mươi mốt. Bạch phát tương thôi xuất là tóc bạc đẩy nhau trồi ra. Chúng ta thấy Ngài dùng chữ rất hay, chữ thôi là đẩy, xuất là trồi ra. Ngày hôm qua chúng ta cạo tóc sạch rồi, hôm nay chúng đẩy nhau trồi ra nữa, cũng bạc trắng!
Huyễn chất tỉ phù vân, không tâm đồng Tổ Phật, thân huyễn chất này giống như mây nổi, không có gì thật cả, nếu được không tâm thì đồng với Tổ Phật. Ngài luôn luôn nêu cho chúng ta thấy cái giả rồi đưa đến cái thật. Nếu chúng ta bám vào thân huyễn chất như mây nổi thì không có gì là lâu bền. Không tâm tức là không tất cả những tâm thị phi, thiện ác, hay dở, tốt xấu v.v..., được như thế thì đồng với Tổ Phật.
Xuân lai bất tiện hoa, thu khứ khởi hiềm vật. Nếu được không tâm rồi thì mùa xuân đến chúng ta không chê hoa này đẹp, hoa kia xấu; mùa thu về cũng không khởi niệm trách cây này lá vàng, cây kia khô héo...
Cánh dữ tam thập niên, miết nhiên như điện phất, nhớ lại năm ba mươi tuổi, bỗng dưng như điện chớp. Sáu mươi mốt tuổi nhớ lại thuở ba mươi tuổi như là điện chớp, không có gì lâu dài. Ngài nhắc cho chúng ta thấy cái già của Ngài, khi Ngài sáu mươi mốt tuổi, bao nhiêu tóc bạc ở trong đẩy ra từ từ. Tóc bạc đã trồi ra tức nhiên biết thân này không bền nên nói thân chất huyễn như mây nổi. Phải không tâm mới đồng với Phật Tổ. Không tâm là bao nhiêu vọng tưởng đều buông sạch, khi ấy chúng ta đồng với Phật Tổ, chớ không có gì khác. Nếu không tâm rồi thì không còn thích vật này, ghét vật kia nữa, nếu còn ưa ghét thì chưa phải là không tâm. Chợt nhớ lại thuở nào ba mươi tuổi và hiện nay sáu mươi mốt tuổi, thật ra như một luồng điện chớp. Trên quãng đường sống thì thấy dài, nhưng qua rồi nhớ lại thì quá ngắn.
Ngài Phần Dương nhân làm hai bài kệ nhắc cho chúng ta thấy rõ mục đích của người học đạo là thoát khỏi sanh tử luân hồi. Mỗi khi năm cũ qua, năm mới đến thiên hạ vui mừng chào xuân, còn chúng ta vui mừng chào cái gì? Chào cái sắp chết. Mỗi một năm đến là cái chết đến gần, cái chết đến gần thì vui mừng chào ta sắp chết! Nếu chúng ta biết rõ thời gian trôi mau, năm cũ qua năm mới đến cứ thế mà chồng chất đến một ngày chúng ta phải ra đi, thân tứ đại phải tan nát thì mừng khi thấy đạo, còn chưa thấy đạo thì phải tủi rằng một năm trôi qua suông mà cái chết gần kề. Người xưa một ngày qua chưa thấy đạo còn khóc thay, huống nữa là chúng ta một năm qua chưa thấy đạo lại mừng cái gì? Thế nên nhìn trên phương diện đạo lý, một năm qua nhưng công phu tu hành của mình chưa ra gì thì thật là một điều đáng hổ thẹn buồn tủi. Song không lẽ cuối năm chúng ta lại khóc nên phải gượng vui, vui với một niềm hứa hẹn: Thôi năm qua đã lỡ, có hối cũng không làm gì được, hãy chuẩn bị cho năm tới, hứa hẹn rằng trong năm tới mọi việc sẽ đẹp hơn, sáng sủa hơn. Chúng ta đặt mục đích: thứ nhất là chúng ta sẽ tiến hơn năm cũ về đạo đức, thứ hai là chúng ta phải nỗ lực hơn năm cũ, thứ ba là có thể chúng ta sẽ sáng được đạo. Đó là nguồn vui, là hi vọng của năm mới. Đừng nghĩ rằng năm tới cũng như năm nay vì như thế thì thật là đáng buồn. Nếu cứ nghĩ năm tới cũng như năm nay và năm tới nữa cũng như thế thì cuộc đời là một con số không, thật là uổng một kiếp! Thế nên, lý đáng chúng ta phải buồn vì chúng ta đã mất một năm rồi mà công phu chưa đến đâu, song chúng ta hi vọng để tự an ủi, hi vọng năm tới chúng ta sẽ tiến bộ hơn, nỗ lực hơn và thành công hơn trên đường tu. Đó là ý nghĩa thâm trầm của việc tiễn năm cũ và chào đón năm mới. Nếu không như thế thì tiễn năm cũ trở thành vô nghĩa, chào đón năm mới cũng không lợi ích gì. Đấy là tôi nhắc để chúng ta đồng tu đồng tiến.
Đến phần thứ hai là phần tôi đã từng nói chuyện với một số ít Tăng Ni và cư sĩ trong những ngày trước, hôm nay tôi nói rộng cho tất cả nghe để chúng ta có con đường tu hành, khiến năm tới chúng ta được nhiều an vui. Đề mục là y cứ vào hai câu thơ của ngài Lâm Tế:
Tùy duyên tiêu cựu nghiệp,
Nhậm vận trước y xiêm.
Khi Ngài thấy đạo rồi, Ngài không tu lăng xăng như chúng ta, Ngài chỉ nói tùy duyên để những nghiệp cũ hết, hồn nhiên mặc áo xiêm, nghĩa là trong khi ăn cơm, mặc áo tâm vẫn rỗng rang hồn nhiên. Như vậy suốt đời Ngài chỉ tu chừng ấy. Một hôm Vương Thường Thị tức như quận trưởng ở địa phương, cũng là một Phật tử thấm nhuần giáo lý của Ngài, đến thăm Thiền viện. Thấy Tăng chúng đông quá, Vương Thường Thị mới hỏi:
- Bạch Hòa thượng, Tăng chúng đông như vậy có tọa thiền không?
Ngài đáp:
- Không.
Hỏi:
- Có xem kinh không?
Đáp:
- Không.
Vương Thường Thị hỏi:
- Không xem kinh, không tọa thiền, vậy làm gì?
Ngài đáp:
- Làm Phật, làm Tổ!
Sống tùy duyên và hồn nhiên, hai điểm đó là then chốt. Tại sao tùy duyên? Tại sao hồn nhiên? Giáo lý Đại thừa luôn nhắc nhở chúng ta “tùy duyên mà bất biến”. Lý tùy duyên bất biến nằm trong hai câu của Tổ Lâm Tế. “Tùy duyên” thì Ngài nói thêm “tùy duyên tiêu cựu nghiệp”, “bất biến” thì Ngài nói là “nhậm vận trước y xiêm”.
Nay tôi nói trước về lý tùy duyên. Đó là một thuật sống và cũng là lẽ thật của con người và vũ trụ. Trong cuộc sống tất cả chúng ta nhìn đời, nhìn sự vật với đôi mắt tùy duyên hay chấp nê? Tỉ dụ có một tách nước lã để trên bàn, tôi đặt câu hỏi tách nước này sẽ thế nào? Có nhiều câu trả lời. Nếu có người nói tách nước này sẽ thành hơi hay có người nói tách nước này sẽ thành thuốc v.v... thì những câu nói đó chưa đúng, câu đáp khôn ngoan nhất là tách nước này tùy duyên. Tùy duyên là nếu tách nước này để trong nồi nấu thì nó bốc thành hơi, nếu để trong tủ lạnh thì nó thành khối, nếu vắt một miếng chanh, để chút đường vào thì nó thành nước chanh, hoặc hòa tan vào đó một ít thuốc thì nó thành thuốc v.v... Như vậy cùng một tách nước tùy duyên sử dụng, không cố định. Nếu chúng ta nói trước nó thành cái gì cũng đều sai cả. “Tùy duyên” là một lẽ thật, còn nói cố định là cái gì, đều sai. Cuộc sống của chúng ta liên hệ đến lẽ “tùy duyên” đó. Tất cả sự vật chuyển biến theo duyên, nghĩa là duyên tụ tán hoặc nóng lạnh v.v... sự vật cũng chuyển biến theo duyên chớ không dừng trụ một chỗ nào. Từ cổ chí kim không một sự vật nào an ở mãi một chỗ mà luôn luôn chuyển theo duyên, một cách linh động, bây giờ khoa học cũng xác nhận như thế, thế mà chúng ta nhìn sự vật bằng đôi mắt chấp nê thì đúng hay sai? Thấy tất cả sự vật là một dòng biến chuyển tùy duyên, chúng ta phải sống cách nào cho phù hợp, đó là điều cần phải biết.
Vì thế với nhà Phật trong tùy duyên còn có bất biến, chính bất biến mới quan trọng. Tôi dùng ví dụ nước để quí vị thấy đâu là tùy duyên, đâu là bất biến. Như từ nước lã có thể biến thành hơi, thành khối v.v..., đó là lý tùy duyên. Nhưng dù biến thành hơi, thành khối, thành chi đi nữa, nước cũng vẫn là nước. Nước đá cũng ướt, hơi nước cũng ướt, nước gì cũng ướt... thành ra hình dáng đổi thay nhưng tánh ướt không đổi, đó là “bất biến”. Tánh ướt không đổi nhưng trên hình tướng, tùy theo cách sử dụng mà hình tướng nước có đổi thay, đó là tùy duyên. Tùy duyên mà bất biến. Tất cả sự vật đều luôn luôn về hình tướng là tùy duyên, về bản tánh là bất biến. Hiểu như thế chúng ta mới thấy lý tùy duyên của đạo Phật, nghĩa là không phải tùy duyên rồi như ngọn cỏ, gió thổi phía nào ngả phía ấy, không có chủ đích, hay như những cánh bèo trôi sông, theo gió thổi tấp bên này, tấp bên kia... Tùy duyên của đạo Phật khác hơn, vì có cái bất biến ở trong. Như cây tre bị gió thổi ngả nghiêng, nhưng gió dừng nó đứng lại như cũ, chớ không ngả nghiêng mãi. Cũng như thế, người biết tu trong lý tùy duyên phải ứng dụng cả bất biến, chớ chỉ nói tùy duyên là thiếu sót.
Trong cuộc sống nếu ứng dụng lý tùy duyên thì chúng ta không cố chấp cuộc sống của chúng ta phải thế này, phải thế kia, chúng ta nhìn sự vật, nhìn cuộc sống tùy duyên linh động, nay thế này, mai thế kia, không bị chấp chặt vào một nơi, một việc. Chúng ta thường có nhiều bệnh, bệnh chấp theo phong tục tập quán, bệnh chấp những ý kiến riêng tư, bệnh chấp của mình, của người v.v... vì bệnh chấp mà chúng ta khổ mãi. Về tập quán, ông bà chúng ta làm thế nào, chúng ta quen theo thế ấy, nay ai làm khác đi, chúng ta không chấp nhận, nhưng sự vật luôn chuyển biến, mỗi thời mỗi khác, do đó chúng ta khổ. Ví dụ như sự trang sức, năm trước kiểu này, năm sau đổi kiểu khác, luôn luôn thay đổi, người thợ phải học những kiểu mới lạ, mới theo kịp thời đại. Chữ thời trang là chỉ cho mỗi thời có mỗi trang sức khác nhau. Trang sức thời ông bà chúng ta khác, trang sức thời cha mẹ chúng ta khác, trang sức của chúng ta hiện nay cũng khác, đến trang sức của con cháu chúng ta sau này lại sẽ khác nữa. Nếu chúng ta giữ theo nếp cũ, ông bà chúng ta làm thế nào, chúng ta làm thế ấy, chúng ta làm thế nào thì bắt con cháu làm thế ấy, cuộc sống sẽ ra sao? Người đồng thời sẽ cho chúng ta là lạc hậu và con cháu chúng ta sẽ bị bạn bè chê lạc hậu! Như vậy thời nào, chúng ta phải tùy duyên sống theo thời ấy. Thời con cháu chúng ta đổi khác thì nó phải sống khác, tại sao mình bắt nó sống như mình? Nếu ông bà chúng ta bắt chúng ta sống như ông bà, chúng ta chấp nhận không? Như vậy thấy được lý tùy duyên, chúng ta cởi mở những cố chấp về phong tục, về tập quán, về những tư kiến v.v... không còn những cố chấp đó nữa, chúng ta không còn khổ. Cái buồn của chúng ta là tại chúng ta cố chấp, muốn những gì mình đang làm người khác cũng làm theo mình, khi người ta không giống mình thì buồn giận. Tu trong phiền não, buồn giận làm sao tiến?
Lý tùy duyên là tinh thần Bát-nhã cho chúng ta thấy rằng sự vật luôn luôn là một dòng chuyển biến, đừng bám chặt vào một cái gì, bám chặt là khổ đau vì đó là trái sự thật. Thí dụ như chúng ta ngồi trên chiếc xe đang chạy, xe chạy ngang cây số bảy mươi, chúng ta nói đây là cây số bảy mươi, khi ấy người khác nhìn theo tay mình thì thấy xe đã qua khỏi mấy trăm thước rồi. Nếu chúng ta cho mình chỉ đúng cây số bảy mươi là sai, vì xe đang chạy nên chúng ta không thể chỉ đúng chỗ. Nó không dừng thì chúng ta phải nhìn theo sự không dừng. Thế nên cuộc sống tùy duyên thì không nhìn lại phía sau. Hoàn cảnh thế nào chúng ta tùy theo đó mà sống, còn nhìn lui lại chúng ta sẽ thở dài hối tiếc vì thấy cái này mất, cái kia mất... Như xe đang chạy ngang thành phố, người người xe cộ đông đảo vui vẻ, xe chạy đến ngọn đồi, ngọn đồi cao đẹp, xe xuống dốc, thung lũng nên thơ v.v... lúc nào chúng ta cũng có những niềm vui mới. Còn nhìn lui lại toàn những việc buồn, ví dụ như nhìn trở lại ngày xưa, ông nội, bà nội mình đã mất, rồi nhớ buồn. Ba má mình cũng đã mất rồi buồn, anh em mình xa cách cũng rất buồn... nhìn lui là buồn, là khổ. Như vậy lý tùy duyên đem lại một nguồn vui và một cuộc sống linh động, chúng ta không có gì phải luyến tiếc. Sự vật là như vậy, nó đâu có dừng một chỗ mà luyến tiếc. Hiểu được điều đó thì cuộc sống của chúng ta linh động, vui tươi trong bất cứ hoàn cảnh nào, vẻ đẹp của thành phố khác vẻ đẹp của đồng quê, chỗ nào lúc nào chúng ta cũng thấy đẹp cả. Như vậy cuộc sống không có sầu não, bi quan. Ở một chỗ, nhìn một cảnh mãi cũng chán tức nhiên buồn, vì thế phải có sự đổi thay. Mỗi lần đổi không khí là mỗi lần vui, người ở thành phố chán, thích ra đồng quê chơi, người ở đồng quê lại thích trở về thành phố. Thế nên đổi thay là một nguồn vui chớ không phải buồn.
Tôi nhắc lại, chúng ta phải cởi mở hết những cố chấp, những ràng buộc. Chúng ta cứ nhớ rõ cuộc sống là tùy duyên, đã là tùy duyên thì cái gì đến chúng ta đều nhìn với niềm vui tươi, chớ không buồn khổ. Đừng nhìn lại quá khứ, vì chúng ta luôn luôn đổi mới, luôn luôn mới, ngày hôm qua đến ngày hôm nay cũng mới, chúng ta giữ cái cũ làm sao được. Tất cả đều mới thì cuộc sống phải mới. Vậy tất cả chúng ta phải hiểu được lý tùy duyên để cuộc sống của chúng ta lúc nào cũng vui tươi.
Tuy nhiên có người nói rằng: nếu tùy duyên như thế mãi thì mất mình làm sao, nên trong đoạn này tôi nói đến “bất biến”. Như tôi vừa nói tuy nước đổi ra thiên hình vạn trạng, nhưng tánh ướt của nước không mất; cũng thế chúng ta tùy duyên khi ở trên núi, khi xuống đồng bằng, khi vào thành phố v.v..., cảnh đổi thay nhưng việc tu hành thì ở núi cũng tu, xuống đồng bằng cũng tu, vào thành thị cũng tu... lúc nào cũng vẫn tu. Như vậy tu là bất biến, nhưng chỗ ở là tùy duyên. Đó là tùy duyên nhưng bất biến. Vậy dù ở cảnh nào cũng an vui để tu hành. Biết lý tùy duyên quí vị mới an vui, có an vui thì việc tu mới tiến. Trái lại quí vị không biết lý tùy duyên, khi ở nơi này thì nhớ chỗ kia, đến chỗ kia lại mong nơi khác, làm sao an vui? Không an vui thì phiền não, phiền não thì tu sao được?
Thế nên phải hiểu được lý tùy duyên, tùy duyên nhưng bất biến, nghĩa là trường hợp nào, hoàn cảnh nào cũng là trường hợp, hoàn cảnh để tu, chớ không vì lẽ ở nơi này mới tu được, ở nơi khác không tu được, đó là sai, là không hiểu nghĩa bất biến. Tùy duyên nhưng bất biến thì chúng ta thấy cuộc sống hiện tại lợi ích vô cùng. Vì tùy duyên nên chúng ta linh động chúng ta không chết khô, không cằn cỗi. Khô khan, cằn cỗi là bám vào một cái đã chết. Nếu quí vị biết lý tùy duyên thì vui mãi, dù thế nào cũng vui cười, có vui tươi thì tu mới được. Như vậy quí vị thấy chính lý tùy duyên mới giữ được sự bất biến, nếu không biết tùy duyên thì không tiến, không tiến thì tu đâu có được. Biết lý tùy duyên là tinh thần Bát-nhã, còn giữ được bất biến là đạo lý mình sống hằng ngày. Như trong đoạn trước tôi nói “không tâm đồng Tổ Phật” thì hoàn cảnh nào mình cũng vẫn “hồn nhiên mặc áo xiêm”, có gì là khổ? “Hồn nhiên mặc áo xiêm” là chỉ cho không tâm; còn tùy duyên là biết linh động, trong hoàn cảnh nào cũng an ổn, cũng đặt mình trong thế an vui tự tại. Thí dụ nếu bữa cơm nào cũng mâm cao cỗ đầy toàn là xào chiên, thì rất ngán. Thỉnh thoảng đổi một bữa rau luộc, muối tiêu, muối ớt chúng ta sẽ thấy ngon miệng. Như vậy sự đổi cho mình được mùi vị mới, ngon. Thuở xưa đức Phật, nay khất thực xóm này, mai dời đến làng kia, như một dòng suối chảy, nhưng đi nơi nào Phật cũng vẫn là Phật, chớ không phải đi nơi này Ngài là Phật, nơi kia Ngài không phải là Phật. Khi đến cung vua thọ trai, khi đi trong xóm làng khất thực, khi được các trưởng giả dâng cúng, khi lại ăn lúa mạch v.v... nhưng Ngài vẫn không đổi thay, Phật vẫn là Phật. Phật như vậy thì chúng ta hiện nay cũng như vậy, có gì mà buồn. Chúng ta cũng là một dòng sông trôi chảy, chúng ta không bằng được Phật nhưng cũng phải tương tợ một chút. Cảnh nào cũng là cảnh vui, nghĩa là trong cảnh sung túc thì vui với cảnh sung túc, trong cảnh chật vật thì vui với cảnh chật vật, hôm nay mâm cao cỗ đầy thì vui với mâm cao cỗ đầy, ngày mai muối tiêu muối ớt thì vui với muối tiêu muối ớt, cảnh nào cũng vui, không thấy có gì là đau khổ, như thế chúng ta mới tu tiến được. Chúng ta phải - nói theo thế gian - “hưởng cho hết những ngày trời”. Những ngày trời là những ngày gì? Là ngày nào đến với chúng ta, chúng ta hưởng hết ngày ấy không có phí mất, phút giây nào cũng là phút giây an vui của chúng ta. Chuyện sang năm chưa biết ra sao mà nay cứ ngồi lo chuyện sang năm; chuyện năm qua trôi đâu mất, nay ngồi nhớ lại mặt ủ mày chau. Việc đã qua để nó qua, việc sắp đến tự nó đến, hiện tại cứ vui với hiện tại, như thế cuộc sống của chúng ta không phí mất thì giờ vô ích. Quí vị nhớ như vậy thì cuộc sống của chúng ta là một cuộc sống an vui tự tại; tuy chưa làm Phật nhưng cũng được an nhàn, được bớt khổ rồi. Còn những người cứ mơ ước vị lai, hối tiếc quá khứ thì họ đau khổ mãi, không bao giờ an ổn được. Chúng ta phải hiểu rõ như vậy. Thế nên Tổ Lâm Tế dạy: Tùy duyên tiêu cựu nghiệp. Tiêu bằng cách nào? Nếu không biết tùy duyên thì oán hờn, buồn trách nên tạo thêm nghiệp mới. Lại nữa, người không biết tùy duyên gặp cảnh vui thì cho ta là người hơn thiên hạ, sanh kiêu căng, do đó những thói cũ thuở xưa sống dậy, nghiệp cũ chưa dứt lại tạo thêm nghiệp mới. Trái lại biết tùy duyên thì cảnh đến an nhiên với cảnh đến, cảnh đi cũng an nhiên với cảnh đi, duyên đến vui hay buồn cũng vẫn an ổn. Không thấy vui mà tự hào, không thấy buồn mà sầu thảm. Không tự hào tức không ngã mạn, không sầu thảm tức không oán hờn, lòng an nhiên, bao nhiêu nghiệp cũ lần lần tiêu sạch. Ví như người bệnh bao tử, hoặc bệnh tim, bệnh phổi v.v... nếu có bệnh cũ rồi nay giữ mình không để cho bị cảm, tức là thời tiết xấu đến, khéo linh động không cho xâm nhập vào mình thì bệnh cũ lần lần hết. Trái lại nếu bị cảm, người bệnh phổi thì ho, người đau tim thì mệt, người đau bao tử thì đau bụng. Đó là gốc tại thời tiết xấu hiện nay làm cho bệnh cũ phát lại, nếu cũng thời tiết đó mà chúng ta khéo vượt qua được thì bệnh cũ cũng lành. Vì thế biết được lẽ tùy duyên thì nghiệp cũ lần lần sạch, còn không biết được lẽ tùy duyên thì nghiệp cũ cũng khó tiêu mòn. Chúng ta tu là phải làm thế nào nghiệp mới không tạo, nghiệp cũ dứt sạch, mới thoát ly sanh tử được. Đấy là nghĩa “tùy duyên tiêu cựu nghiệp”.
Nhậm vận trước y xiêm là ở trong cảnh nào tâm chúng ta cũng rỗng rang tự tại, không phiền muộn, không có những niệm lăng xăng suy tưởng, như ngài Thiện Chiêu nói: “Tâm không, đồng Tổ Phật.” Tâm rỗng rang tự tại là chúng ta sống một cách hồn nhiên, sống hồn nhiên nên chúng ta đồng Phật, Tổ. Đồng với Phật, Tổ là thoát ly sanh tử, đó là mục đích của người tu. Như vậy cuộc sống chúng ta đang và sẽ sống là một cuộc sống linh động; đừng cố chấp, đừng bám chặt vào bất cứ một điều gì thì tự nhiên chúng ta an lành, tâm lần lần thảnh thơi, sự tu hành được tiến, thoát được những phiền não quấy nhiễu. Chúng ta tu là cốt thoát ly sanh tử, nếu còn phiền não thì không thể nào ra khỏi sanh tử. Muốn dứt phiền não thì phải có trí tuệ sáng suốt mới được.
Tóm lại khi năm cũ sắp hết, chúng ta ôn lại xem có điều gì dở thì ráng đập cho nát, chuẩn bị qua năm mới chúng ta sẽ sống tùy duyên tiêu cựu nghiệp, đừng để nghiệp cũ dấy lên lôi chúng ta trở lại những điều hư dở của năm cũ nữa. Phải tập sống hồn nhiên để “tâm không, đồng Tổ Phật”, nghĩa là làm thế nào càng ngày tâm chúng ta càng rỗng nhẹ, cho đến rỗng trơn không còn chi cả để đồng với Phật Tổ, như vậy mới khỏi uổng một đời tu. Nếu để chứa ăm ắp, nặng trình trịch trong tâm thì rất nguy, dễ bị rơi chìm tận đáy biển, phải cố gột rửa cho sạch những cố chấp, những phiền não cho tâm hồn thảnh thơi nhàn hạ. Muốn được như thế thì phải biết tùy duyên, nhưng tùy duyên mà bất biến, đừng nói ở cảnh cũ tôi tu hay quá, nay đến cảnh này tôi tu không được, thôi không tu nữa. Đó là tùy duyên rồi tan biến, mất mình. Vì thế nên nhớ tùy duyên mà bất biến mới thật là người hiểu đạo, còn tùy duyên mà tan biến thì đó là người không tiến tu được và phải bị trầm luân.
Tôi nhắc lại: Hôm nay là buổi Tất niên tức là từ biệt năm cũ, nhìn lại những điều dở, chúng ta phải đập tan hết để chuẩn bị cho năm mới tập sống tùy duyên mà bất biến, đó là điều tôi mong mọi người ứng dụng ngay từ năm mới này.
Tất niên năm Quí Hợi - 1984
Sáng mai là ngày đầu của năm Giáp Tý.
Đêm nay chúng ta chờ đón Giao thừa, tôi sẽ giải thích hai bài kệ của Thiền sư Thiện Chiêu ở Phần Dương thuộc đời thứ năm tông Lâm Tế, vì hai bài này có liên hệ đến tuổi Giáp Tý của tôi một chút.
Trước hết tôi xin nói về ngài Thiện Chiêu, Ngài là một Thiền sư đặc sắc, người đương thời gọi Ngài là Sư tử Phần Dương. Ngài có những hành động mà thiên hạ khó chấp nhận nổi. Dưới hội của Ngài có năm trăm chúng. Một hôm đến ngày giỗ mẹ, Ngài sai đệ tử mua ít thịt cá và rượu về cúng. Cúng xong, Ngài mời chúng cùng ăn. Toàn chúng đều ngẩn ngơ, một vị đức hạnh nổi tiếng như thế mà nay lại mời người ăn thịt, uống rượu! Không ai dám dự, chỉ một mình Ngài điềm nhiên ngồi ăn. Sau bữa giỗ, năm trăm chúng bỏ đi gần hết chỉ còn lại tám người, trong đó có ngài Từ Minh. Ngài bảo: “Ta chỉ tốn một bữa rượu thịt mà tống được mấy trăm người.” Ngài biết chúng nghe danh Ngài mà đến chớ không hiểu Ngài, nên thí nghiệm một lần thử xem. Vừa thí nghiệm là chúng bỏ đi hết, người hiểu Ngài mới ở lại và sau mới kế thừa được. Ngài kỳ đặc như thế nên có được người đệ tử xuất sắc là ngài Từ Minh. Sau này nối pháp Từ Minh có hai vị lỗi lạc là Dương Kỳ Phượng Hội và Hoàng Long Huệ Nam. Tông Lâm Tế từ đó chia làm hai nhánh Hoàng Long và Dương Kỳ tức Lâm Tế Chánh Tông và Lâm Tế Gia Phổ.
Về sau, Ngài được một vị thuộc hàng vương tước nhà Tống mời về kinh đô trụ trì. Ngài từ chối, Sứ giả thưa: “Ngài không đi thì con ở đây luôn, nếu về sẽ bị tội.” Ngài nói: “Chi mà khổ vậy! Thôi về trước, ta có đường đi sau.”
Sứ vừa đi, Ngài họp chúng lại bảo: “Nay ta phải đi, trong chúng có ai theo ta được không?” Có một vị Tăng đứng ra thưa: “Con theo Hòa thượng được.” Ngài hỏi: “Ông đi một ngày bao nhiêu dặm?” Thưa: “Con đi một ngày năm mươi dặm.” Ngài nói: “Chưa theo ta được.” Người thứ hai thưa: “Con xin theo Hòa thượng.” Hỏi: “Ngươi đi một ngày bao nhiêu dặm?” Thưa: “Con đi ngày bảy mươi dặm.” Ngài bảo: “Ngươi cũng chưa đủ sức theo ta.” Cuối cùng Thị giả bước ra thưa: “Con xin theo Hòa thượng.” Hỏi: “Ngươi đi một ngày được bao nhiêu dặm?” Thị giả thưa: “Hòa thượng đến đâu con đến đó.” Ngài bảo: “Ngươi theo ta được.” Ngài liền ngồi kiết-già, bảo: “ta đi đây”, rồi tịch. Thị giả đứng khoanh tay tịch theo.
Đó là những chuyện đặc biệt của ngài Phần Dương. Sau đây là hai bài kệ Ngài làm vào Tết Nguyên Đán.
Bài thứ nhất:
Như kim châu giáp tý
Thục khả tri sanh tử
Tứ đại mộng trung âu
Nhất thân diệp thượng thủy
Phù vân bất cửu đình
Cam giá khởi trường mỹ
Duy hữu nhất linh quang
Khoáng kiếp hà tằng trụy.
Dịch:
Nay tôi tròn một giáp
Ai biết được sanh tử
Bốn đại bọt trong mơ,
Một thân lá trên nước
Mây nổi chẳng dừng lâu
Cây mía nào ngọt mãi
Chỉ có một linh quang
Nhiều kiếp đâu từng mất.
Như kim châu giáp tý, nay tôi tròn một giáp. Tròn một giáp là sáu mươi năm. Thục khả tri sanh tử là ai có thể biết được sự sanh tử. Tứ đại mộng trung âu, thân tứ đại này chẳng khác bọt nước trong giấc mơ. Mơ đã là hư dối rồi, bọt nước trong mơ còn hư dối tới bậc nào? Như chúng ta đang thức, thấy bọt nước, chạm vào nó vỡ ngay. Thế mà Ngài nói thân tứ đại này là bọt nước trong giấc mơ thì nó như thế nào? Vậy mà chúng ta chấp nó, xem nó là tối thượng. Nhất thân diệp thượng thủy, một thân như chiếc lá trôi trên dòng nước. Chúng ta đi qua những dòng sông, con suối, thấy những chiếc lá theo gió bay rơi trên mặt nước, trôi dạt nơi này, tắp nơi kia rồi rã ngoài cồn, ngoài bãi. Thân này cũng vậy chẳng nghĩa lý gì cả. Phù vân bất cửu đình, thân này chẳng khác đám mây nổi, không dừng lâu, tạm bợ lúc hợp, lúc tan. Cam giá khởi trường mỹ, cam giá là mía mà cũng có nghĩa là đường. Đường đâu có ngon ngọt mãi, như ngậm một viên kẹo hay nhai một miếng mứt, ngọt trong vòng năm ba phút thôi chớ không ngọt hoài. Duy hữu nhất linh quang, khoáng kiếp hà tằng trụy, linh là linh tri, quang là sáng suốt, khoáng kiếp là muôn kiếp. Chỉ có một linh tri sáng suốt, nhiều kiếp đâu từng bị rơi mất.
Đầu tiên Ngài cho biết tuổi Ngài đã tròn một giáp tức là được sáu mươi hay sáu mươi mốt tuổi. Thế mà mấy ai ở tuổi này biết được rõ ràng lẽ sanh tử. Thân tứ đại này thật như hòn bọt trong giấc mơ, như chiếc lá trôi giữa dòng sông không có nghĩa lý gì, như một đám mây nổi trong hư không, như một miếng đường nhai nuốt rồi mất không có gì bền lâu. Cuộc sanh tử vô thường, tạm bợ không có gì quí báu, nhưng chúng ta lại thấy nó quí, nó bền nên sân si chấp ngã đủ thứ... Vậy cái quí báu lâu bền là cái gì? Chỉ có một linh tri sáng suốt, tức là cái biết rất thanh tịnh sáng suốt, muôn kiếp chưa bao giờ bị mất, bị tan hoại. Một cái như hòn bọt trong giấc mơ hay như chiếc lá rơi trên mặt nước và một cái sáng suốt linh hoạt muôn đời, muôn kiếp chưa từng hoại, chưa từng mất, chúng ta chọn cái nào? Giữ một hòn bọt trong giấc mơ là khôn hay không khôn? Việc sanh tử tạm bợ không bền lâu mà bám vào đó để sân si, để tạo nghiệp, thật không biết phải nói sao! Trong khi chúng ta lại có một cái linh tri hằng sáng suốt muôn đời không bao giờ mất, tại sao không sống với cái đó mà lại bám vào cái kia? Thế nên giữ gìn thân tứ đại cho là quí báu, Phật gọi là vô minh. Biết rõ thân tứ đại như bọt nước, như chiếc lá rơi v.v... đó là tỉnh, là giác và sống được với cái không bao giờ bị suy hao, không bao giờ bị tan rã, đó mới là người được thoát khỏi sanh tử. Mục đích chúng ta tu là để làm gì? Có người nào nói tôi vào chùa tu để có cơm ăn, áo mặc, ấm no khỏi cực không? Chúng ta tu là cốt để giác ngộ, để thoát ly sanh tử. Tức là phải thấy rõ thân này như hòn bọt, như chiếc lá rơi, như áng mây nổi không bền, không trường cửu và phải thấy rõ nơi mình có một cái trường cửu bất sanh bất diệt, sống với cái đó, đừng chấp lấy thân. Trái lại nếu quên cái đó mà chấp lấy thân bọt nước này thì thật là chưa thoát khỏi vô minh.
Tóm lại bài kệ này Ngài dạy chúng ta phải tỉnh giác biết cái nào tạm bợ, cái nào lâu dài để chọn lấy mà sống. Biết chọn như thế, sống như thế là chúng ta tu. Việc tu rất đơn giản không có gì lạ, xưa nay chúng ta cứ nghĩ tu là tụng kinh nhiều, bái sám lắm, niệm Phật phải đủ mấy trăm chuỗi v.v... nhưng sự thật tu là có trí tuệ thấy rõ cái giả đừng lầm, biết cái thật để sống. Cái thật không hoại, không hoại tức là không sanh tử; trái lại cái giả thì nát, giờ này nát rồi tụ lại giờ sau, giờ kia nát tụ lại giờ khác, cứ như thế mà tụ tán... Bám vào cái tụ tán đó thì luân hồi muôn kiếp không cùng. Thế nên bài kệ này là một lời nhắc nhở quí giá của Ngài vào đầu năm.
Đến bài thứ hai:
Như kim lục thập nhất,
Bạch phát tương thôi xuất,
Huyễn chất tỉ phù vân,
Không tâm đồng Tổ Phật,
Xuân lai bất tiện hoa,
Thu khứ khởi hiềm vật,
Cánh dữ tam thập niên,
Miết nhiên như điện phất.
Dịch :
Nay tôi sáu mươi mốt,
Tóc bạc đuổi nhau điểm,
Chất huyễn dường mây trôi,
Tâm không đồng Tổ Phật,
Xuân đến chẳng chê hoa,
Thu về nào ghét vật,
Lại cùng năm ba mươi,
Bỗng nhiên như điện chớp.
Như kim lục thập nhất là nay tôi sáu mươi mốt. Bạch phát tương thôi xuất là tóc bạc đẩy nhau trồi ra. Chúng ta thấy Ngài dùng chữ rất hay, chữ thôi là đẩy, xuất là trồi ra. Ngày hôm qua chúng ta cạo tóc sạch rồi, hôm nay chúng đẩy nhau trồi ra nữa, cũng bạc trắng!
Huyễn chất tỉ phù vân, không tâm đồng Tổ Phật, thân huyễn chất này giống như mây nổi, không có gì thật cả, nếu được không tâm thì đồng với Tổ Phật. Ngài luôn luôn nêu cho chúng ta thấy cái giả rồi đưa đến cái thật. Nếu chúng ta bám vào thân huyễn chất như mây nổi thì không có gì là lâu bền. Không tâm tức là không tất cả những tâm thị phi, thiện ác, hay dở, tốt xấu v.v..., được như thế thì đồng với Tổ Phật.
Xuân lai bất tiện hoa, thu khứ khởi hiềm vật. Nếu được không tâm rồi thì mùa xuân đến chúng ta không chê hoa này đẹp, hoa kia xấu; mùa thu về cũng không khởi niệm trách cây này lá vàng, cây kia khô héo...
Cánh dữ tam thập niên, miết nhiên như điện phất, nhớ lại năm ba mươi tuổi, bỗng dưng như điện chớp. Sáu mươi mốt tuổi nhớ lại thuở ba mươi tuổi như là điện chớp, không có gì lâu dài. Ngài nhắc cho chúng ta thấy cái già của Ngài, khi Ngài sáu mươi mốt tuổi, bao nhiêu tóc bạc ở trong đẩy ra từ từ. Tóc bạc đã trồi ra tức nhiên biết thân này không bền nên nói thân chất huyễn như mây nổi. Phải không tâm mới đồng với Phật Tổ. Không tâm là bao nhiêu vọng tưởng đều buông sạch, khi ấy chúng ta đồng với Phật Tổ, chớ không có gì khác. Nếu không tâm rồi thì không còn thích vật này, ghét vật kia nữa, nếu còn ưa ghét thì chưa phải là không tâm. Chợt nhớ lại thuở nào ba mươi tuổi và hiện nay sáu mươi mốt tuổi, thật ra như một luồng điện chớp. Trên quãng đường sống thì thấy dài, nhưng qua rồi nhớ lại thì quá ngắn.
Ngài Phần Dương nhân làm hai bài kệ nhắc cho chúng ta thấy rõ mục đích của người học đạo là thoát khỏi sanh tử luân hồi. Mỗi khi năm cũ qua, năm mới đến thiên hạ vui mừng chào xuân, còn chúng ta vui mừng chào cái gì? Chào cái sắp chết. Mỗi một năm đến là cái chết đến gần, cái chết đến gần thì vui mừng chào ta sắp chết! Nếu chúng ta biết rõ thời gian trôi mau, năm cũ qua năm mới đến cứ thế mà chồng chất đến một ngày chúng ta phải ra đi, thân tứ đại phải tan nát thì mừng khi thấy đạo, còn chưa thấy đạo thì phải tủi rằng một năm trôi qua suông mà cái chết gần kề. Người xưa một ngày qua chưa thấy đạo còn khóc thay, huống nữa là chúng ta một năm qua chưa thấy đạo lại mừng cái gì? Thế nên nhìn trên phương diện đạo lý, một năm qua nhưng công phu tu hành của mình chưa ra gì thì thật là một điều đáng hổ thẹn buồn tủi. Song không lẽ cuối năm chúng ta lại khóc nên phải gượng vui, vui với một niềm hứa hẹn: Thôi năm qua đã lỡ, có hối cũng không làm gì được, hãy chuẩn bị cho năm tới, hứa hẹn rằng trong năm tới mọi việc sẽ đẹp hơn, sáng sủa hơn. Chúng ta đặt mục đích: thứ nhất là chúng ta sẽ tiến hơn năm cũ về đạo đức, thứ hai là chúng ta phải nỗ lực hơn năm cũ, thứ ba là có thể chúng ta sẽ sáng được đạo. Đó là nguồn vui, là hi vọng của năm mới. Đừng nghĩ rằng năm tới cũng như năm nay vì như thế thì thật là đáng buồn. Nếu cứ nghĩ năm tới cũng như năm nay và năm tới nữa cũng như thế thì cuộc đời là một con số không, thật là uổng một kiếp! Thế nên, lý đáng chúng ta phải buồn vì chúng ta đã mất một năm rồi mà công phu chưa đến đâu, song chúng ta hi vọng để tự an ủi, hi vọng năm tới chúng ta sẽ tiến bộ hơn, nỗ lực hơn và thành công hơn trên đường tu. Đó là ý nghĩa thâm trầm của việc tiễn năm cũ và chào đón năm mới. Nếu không như thế thì tiễn năm cũ trở thành vô nghĩa, chào đón năm mới cũng không lợi ích gì. Đấy là tôi nhắc để chúng ta đồng tu đồng tiến.
Đến phần thứ hai là phần tôi đã từng nói chuyện với một số ít Tăng Ni và cư sĩ trong những ngày trước, hôm nay tôi nói rộng cho tất cả nghe để chúng ta có con đường tu hành, khiến năm tới chúng ta được nhiều an vui. Đề mục là y cứ vào hai câu thơ của ngài Lâm Tế:
Tùy duyên tiêu cựu nghiệp,
Nhậm vận trước y xiêm.
Khi Ngài thấy đạo rồi, Ngài không tu lăng xăng như chúng ta, Ngài chỉ nói tùy duyên để những nghiệp cũ hết, hồn nhiên mặc áo xiêm, nghĩa là trong khi ăn cơm, mặc áo tâm vẫn rỗng rang hồn nhiên. Như vậy suốt đời Ngài chỉ tu chừng ấy. Một hôm Vương Thường Thị tức như quận trưởng ở địa phương, cũng là một Phật tử thấm nhuần giáo lý của Ngài, đến thăm Thiền viện. Thấy Tăng chúng đông quá, Vương Thường Thị mới hỏi:
- Bạch Hòa thượng, Tăng chúng đông như vậy có tọa thiền không?
Ngài đáp:
- Không.
Hỏi:
- Có xem kinh không?
Đáp:
- Không.
Vương Thường Thị hỏi:
- Không xem kinh, không tọa thiền, vậy làm gì?
Ngài đáp:
- Làm Phật, làm Tổ!
Sống tùy duyên và hồn nhiên, hai điểm đó là then chốt. Tại sao tùy duyên? Tại sao hồn nhiên? Giáo lý Đại thừa luôn nhắc nhở chúng ta “tùy duyên mà bất biến”. Lý tùy duyên bất biến nằm trong hai câu của Tổ Lâm Tế. “Tùy duyên” thì Ngài nói thêm “tùy duyên tiêu cựu nghiệp”, “bất biến” thì Ngài nói là “nhậm vận trước y xiêm”.
Nay tôi nói trước về lý tùy duyên. Đó là một thuật sống và cũng là lẽ thật của con người và vũ trụ. Trong cuộc sống tất cả chúng ta nhìn đời, nhìn sự vật với đôi mắt tùy duyên hay chấp nê? Tỉ dụ có một tách nước lã để trên bàn, tôi đặt câu hỏi tách nước này sẽ thế nào? Có nhiều câu trả lời. Nếu có người nói tách nước này sẽ thành hơi hay có người nói tách nước này sẽ thành thuốc v.v... thì những câu nói đó chưa đúng, câu đáp khôn ngoan nhất là tách nước này tùy duyên. Tùy duyên là nếu tách nước này để trong nồi nấu thì nó bốc thành hơi, nếu để trong tủ lạnh thì nó thành khối, nếu vắt một miếng chanh, để chút đường vào thì nó thành nước chanh, hoặc hòa tan vào đó một ít thuốc thì nó thành thuốc v.v... Như vậy cùng một tách nước tùy duyên sử dụng, không cố định. Nếu chúng ta nói trước nó thành cái gì cũng đều sai cả. “Tùy duyên” là một lẽ thật, còn nói cố định là cái gì, đều sai. Cuộc sống của chúng ta liên hệ đến lẽ “tùy duyên” đó. Tất cả sự vật chuyển biến theo duyên, nghĩa là duyên tụ tán hoặc nóng lạnh v.v... sự vật cũng chuyển biến theo duyên chớ không dừng trụ một chỗ nào. Từ cổ chí kim không một sự vật nào an ở mãi một chỗ mà luôn luôn chuyển theo duyên, một cách linh động, bây giờ khoa học cũng xác nhận như thế, thế mà chúng ta nhìn sự vật bằng đôi mắt chấp nê thì đúng hay sai? Thấy tất cả sự vật là một dòng biến chuyển tùy duyên, chúng ta phải sống cách nào cho phù hợp, đó là điều cần phải biết.
Vì thế với nhà Phật trong tùy duyên còn có bất biến, chính bất biến mới quan trọng. Tôi dùng ví dụ nước để quí vị thấy đâu là tùy duyên, đâu là bất biến. Như từ nước lã có thể biến thành hơi, thành khối v.v..., đó là lý tùy duyên. Nhưng dù biến thành hơi, thành khối, thành chi đi nữa, nước cũng vẫn là nước. Nước đá cũng ướt, hơi nước cũng ướt, nước gì cũng ướt... thành ra hình dáng đổi thay nhưng tánh ướt không đổi, đó là “bất biến”. Tánh ướt không đổi nhưng trên hình tướng, tùy theo cách sử dụng mà hình tướng nước có đổi thay, đó là tùy duyên. Tùy duyên mà bất biến. Tất cả sự vật đều luôn luôn về hình tướng là tùy duyên, về bản tánh là bất biến. Hiểu như thế chúng ta mới thấy lý tùy duyên của đạo Phật, nghĩa là không phải tùy duyên rồi như ngọn cỏ, gió thổi phía nào ngả phía ấy, không có chủ đích, hay như những cánh bèo trôi sông, theo gió thổi tấp bên này, tấp bên kia... Tùy duyên của đạo Phật khác hơn, vì có cái bất biến ở trong. Như cây tre bị gió thổi ngả nghiêng, nhưng gió dừng nó đứng lại như cũ, chớ không ngả nghiêng mãi. Cũng như thế, người biết tu trong lý tùy duyên phải ứng dụng cả bất biến, chớ chỉ nói tùy duyên là thiếu sót.
Trong cuộc sống nếu ứng dụng lý tùy duyên thì chúng ta không cố chấp cuộc sống của chúng ta phải thế này, phải thế kia, chúng ta nhìn sự vật, nhìn cuộc sống tùy duyên linh động, nay thế này, mai thế kia, không bị chấp chặt vào một nơi, một việc. Chúng ta thường có nhiều bệnh, bệnh chấp theo phong tục tập quán, bệnh chấp những ý kiến riêng tư, bệnh chấp của mình, của người v.v... vì bệnh chấp mà chúng ta khổ mãi. Về tập quán, ông bà chúng ta làm thế nào, chúng ta quen theo thế ấy, nay ai làm khác đi, chúng ta không chấp nhận, nhưng sự vật luôn chuyển biến, mỗi thời mỗi khác, do đó chúng ta khổ. Ví dụ như sự trang sức, năm trước kiểu này, năm sau đổi kiểu khác, luôn luôn thay đổi, người thợ phải học những kiểu mới lạ, mới theo kịp thời đại. Chữ thời trang là chỉ cho mỗi thời có mỗi trang sức khác nhau. Trang sức thời ông bà chúng ta khác, trang sức thời cha mẹ chúng ta khác, trang sức của chúng ta hiện nay cũng khác, đến trang sức của con cháu chúng ta sau này lại sẽ khác nữa. Nếu chúng ta giữ theo nếp cũ, ông bà chúng ta làm thế nào, chúng ta làm thế ấy, chúng ta làm thế nào thì bắt con cháu làm thế ấy, cuộc sống sẽ ra sao? Người đồng thời sẽ cho chúng ta là lạc hậu và con cháu chúng ta sẽ bị bạn bè chê lạc hậu! Như vậy thời nào, chúng ta phải tùy duyên sống theo thời ấy. Thời con cháu chúng ta đổi khác thì nó phải sống khác, tại sao mình bắt nó sống như mình? Nếu ông bà chúng ta bắt chúng ta sống như ông bà, chúng ta chấp nhận không? Như vậy thấy được lý tùy duyên, chúng ta cởi mở những cố chấp về phong tục, về tập quán, về những tư kiến v.v... không còn những cố chấp đó nữa, chúng ta không còn khổ. Cái buồn của chúng ta là tại chúng ta cố chấp, muốn những gì mình đang làm người khác cũng làm theo mình, khi người ta không giống mình thì buồn giận. Tu trong phiền não, buồn giận làm sao tiến?
Lý tùy duyên là tinh thần Bát-nhã cho chúng ta thấy rằng sự vật luôn luôn là một dòng chuyển biến, đừng bám chặt vào một cái gì, bám chặt là khổ đau vì đó là trái sự thật. Thí dụ như chúng ta ngồi trên chiếc xe đang chạy, xe chạy ngang cây số bảy mươi, chúng ta nói đây là cây số bảy mươi, khi ấy người khác nhìn theo tay mình thì thấy xe đã qua khỏi mấy trăm thước rồi. Nếu chúng ta cho mình chỉ đúng cây số bảy mươi là sai, vì xe đang chạy nên chúng ta không thể chỉ đúng chỗ. Nó không dừng thì chúng ta phải nhìn theo sự không dừng. Thế nên cuộc sống tùy duyên thì không nhìn lại phía sau. Hoàn cảnh thế nào chúng ta tùy theo đó mà sống, còn nhìn lui lại chúng ta sẽ thở dài hối tiếc vì thấy cái này mất, cái kia mất... Như xe đang chạy ngang thành phố, người người xe cộ đông đảo vui vẻ, xe chạy đến ngọn đồi, ngọn đồi cao đẹp, xe xuống dốc, thung lũng nên thơ v.v... lúc nào chúng ta cũng có những niềm vui mới. Còn nhìn lui lại toàn những việc buồn, ví dụ như nhìn trở lại ngày xưa, ông nội, bà nội mình đã mất, rồi nhớ buồn. Ba má mình cũng đã mất rồi buồn, anh em mình xa cách cũng rất buồn... nhìn lui là buồn, là khổ. Như vậy lý tùy duyên đem lại một nguồn vui và một cuộc sống linh động, chúng ta không có gì phải luyến tiếc. Sự vật là như vậy, nó đâu có dừng một chỗ mà luyến tiếc. Hiểu được điều đó thì cuộc sống của chúng ta linh động, vui tươi trong bất cứ hoàn cảnh nào, vẻ đẹp của thành phố khác vẻ đẹp của đồng quê, chỗ nào lúc nào chúng ta cũng thấy đẹp cả. Như vậy cuộc sống không có sầu não, bi quan. Ở một chỗ, nhìn một cảnh mãi cũng chán tức nhiên buồn, vì thế phải có sự đổi thay. Mỗi lần đổi không khí là mỗi lần vui, người ở thành phố chán, thích ra đồng quê chơi, người ở đồng quê lại thích trở về thành phố. Thế nên đổi thay là một nguồn vui chớ không phải buồn.
Tôi nhắc lại, chúng ta phải cởi mở hết những cố chấp, những ràng buộc. Chúng ta cứ nhớ rõ cuộc sống là tùy duyên, đã là tùy duyên thì cái gì đến chúng ta đều nhìn với niềm vui tươi, chớ không buồn khổ. Đừng nhìn lại quá khứ, vì chúng ta luôn luôn đổi mới, luôn luôn mới, ngày hôm qua đến ngày hôm nay cũng mới, chúng ta giữ cái cũ làm sao được. Tất cả đều mới thì cuộc sống phải mới. Vậy tất cả chúng ta phải hiểu được lý tùy duyên để cuộc sống của chúng ta lúc nào cũng vui tươi.
Tuy nhiên có người nói rằng: nếu tùy duyên như thế mãi thì mất mình làm sao, nên trong đoạn này tôi nói đến “bất biến”. Như tôi vừa nói tuy nước đổi ra thiên hình vạn trạng, nhưng tánh ướt của nước không mất; cũng thế chúng ta tùy duyên khi ở trên núi, khi xuống đồng bằng, khi vào thành phố v.v..., cảnh đổi thay nhưng việc tu hành thì ở núi cũng tu, xuống đồng bằng cũng tu, vào thành thị cũng tu... lúc nào cũng vẫn tu. Như vậy tu là bất biến, nhưng chỗ ở là tùy duyên. Đó là tùy duyên nhưng bất biến. Vậy dù ở cảnh nào cũng an vui để tu hành. Biết lý tùy duyên quí vị mới an vui, có an vui thì việc tu mới tiến. Trái lại quí vị không biết lý tùy duyên, khi ở nơi này thì nhớ chỗ kia, đến chỗ kia lại mong nơi khác, làm sao an vui? Không an vui thì phiền não, phiền não thì tu sao được?
Thế nên phải hiểu được lý tùy duyên, tùy duyên nhưng bất biến, nghĩa là trường hợp nào, hoàn cảnh nào cũng là trường hợp, hoàn cảnh để tu, chớ không vì lẽ ở nơi này mới tu được, ở nơi khác không tu được, đó là sai, là không hiểu nghĩa bất biến. Tùy duyên nhưng bất biến thì chúng ta thấy cuộc sống hiện tại lợi ích vô cùng. Vì tùy duyên nên chúng ta linh động chúng ta không chết khô, không cằn cỗi. Khô khan, cằn cỗi là bám vào một cái đã chết. Nếu quí vị biết lý tùy duyên thì vui mãi, dù thế nào cũng vui cười, có vui tươi thì tu mới được. Như vậy quí vị thấy chính lý tùy duyên mới giữ được sự bất biến, nếu không biết tùy duyên thì không tiến, không tiến thì tu đâu có được. Biết lý tùy duyên là tinh thần Bát-nhã, còn giữ được bất biến là đạo lý mình sống hằng ngày. Như trong đoạn trước tôi nói “không tâm đồng Tổ Phật” thì hoàn cảnh nào mình cũng vẫn “hồn nhiên mặc áo xiêm”, có gì là khổ? “Hồn nhiên mặc áo xiêm” là chỉ cho không tâm; còn tùy duyên là biết linh động, trong hoàn cảnh nào cũng an ổn, cũng đặt mình trong thế an vui tự tại. Thí dụ nếu bữa cơm nào cũng mâm cao cỗ đầy toàn là xào chiên, thì rất ngán. Thỉnh thoảng đổi một bữa rau luộc, muối tiêu, muối ớt chúng ta sẽ thấy ngon miệng. Như vậy sự đổi cho mình được mùi vị mới, ngon. Thuở xưa đức Phật, nay khất thực xóm này, mai dời đến làng kia, như một dòng suối chảy, nhưng đi nơi nào Phật cũng vẫn là Phật, chớ không phải đi nơi này Ngài là Phật, nơi kia Ngài không phải là Phật. Khi đến cung vua thọ trai, khi đi trong xóm làng khất thực, khi được các trưởng giả dâng cúng, khi lại ăn lúa mạch v.v... nhưng Ngài vẫn không đổi thay, Phật vẫn là Phật. Phật như vậy thì chúng ta hiện nay cũng như vậy, có gì mà buồn. Chúng ta cũng là một dòng sông trôi chảy, chúng ta không bằng được Phật nhưng cũng phải tương tợ một chút. Cảnh nào cũng là cảnh vui, nghĩa là trong cảnh sung túc thì vui với cảnh sung túc, trong cảnh chật vật thì vui với cảnh chật vật, hôm nay mâm cao cỗ đầy thì vui với mâm cao cỗ đầy, ngày mai muối tiêu muối ớt thì vui với muối tiêu muối ớt, cảnh nào cũng vui, không thấy có gì là đau khổ, như thế chúng ta mới tu tiến được. Chúng ta phải - nói theo thế gian - “hưởng cho hết những ngày trời”. Những ngày trời là những ngày gì? Là ngày nào đến với chúng ta, chúng ta hưởng hết ngày ấy không có phí mất, phút giây nào cũng là phút giây an vui của chúng ta. Chuyện sang năm chưa biết ra sao mà nay cứ ngồi lo chuyện sang năm; chuyện năm qua trôi đâu mất, nay ngồi nhớ lại mặt ủ mày chau. Việc đã qua để nó qua, việc sắp đến tự nó đến, hiện tại cứ vui với hiện tại, như thế cuộc sống của chúng ta không phí mất thì giờ vô ích. Quí vị nhớ như vậy thì cuộc sống của chúng ta là một cuộc sống an vui tự tại; tuy chưa làm Phật nhưng cũng được an nhàn, được bớt khổ rồi. Còn những người cứ mơ ước vị lai, hối tiếc quá khứ thì họ đau khổ mãi, không bao giờ an ổn được. Chúng ta phải hiểu rõ như vậy. Thế nên Tổ Lâm Tế dạy: Tùy duyên tiêu cựu nghiệp. Tiêu bằng cách nào? Nếu không biết tùy duyên thì oán hờn, buồn trách nên tạo thêm nghiệp mới. Lại nữa, người không biết tùy duyên gặp cảnh vui thì cho ta là người hơn thiên hạ, sanh kiêu căng, do đó những thói cũ thuở xưa sống dậy, nghiệp cũ chưa dứt lại tạo thêm nghiệp mới. Trái lại biết tùy duyên thì cảnh đến an nhiên với cảnh đến, cảnh đi cũng an nhiên với cảnh đi, duyên đến vui hay buồn cũng vẫn an ổn. Không thấy vui mà tự hào, không thấy buồn mà sầu thảm. Không tự hào tức không ngã mạn, không sầu thảm tức không oán hờn, lòng an nhiên, bao nhiêu nghiệp cũ lần lần tiêu sạch. Ví như người bệnh bao tử, hoặc bệnh tim, bệnh phổi v.v... nếu có bệnh cũ rồi nay giữ mình không để cho bị cảm, tức là thời tiết xấu đến, khéo linh động không cho xâm nhập vào mình thì bệnh cũ lần lần hết. Trái lại nếu bị cảm, người bệnh phổi thì ho, người đau tim thì mệt, người đau bao tử thì đau bụng. Đó là gốc tại thời tiết xấu hiện nay làm cho bệnh cũ phát lại, nếu cũng thời tiết đó mà chúng ta khéo vượt qua được thì bệnh cũ cũng lành. Vì thế biết được lẽ tùy duyên thì nghiệp cũ lần lần sạch, còn không biết được lẽ tùy duyên thì nghiệp cũ cũng khó tiêu mòn. Chúng ta tu là phải làm thế nào nghiệp mới không tạo, nghiệp cũ dứt sạch, mới thoát ly sanh tử được. Đấy là nghĩa “tùy duyên tiêu cựu nghiệp”.
Nhậm vận trước y xiêm là ở trong cảnh nào tâm chúng ta cũng rỗng rang tự tại, không phiền muộn, không có những niệm lăng xăng suy tưởng, như ngài Thiện Chiêu nói: “Tâm không, đồng Tổ Phật.” Tâm rỗng rang tự tại là chúng ta sống một cách hồn nhiên, sống hồn nhiên nên chúng ta đồng Phật, Tổ. Đồng với Phật, Tổ là thoát ly sanh tử, đó là mục đích của người tu. Như vậy cuộc sống chúng ta đang và sẽ sống là một cuộc sống linh động; đừng cố chấp, đừng bám chặt vào bất cứ một điều gì thì tự nhiên chúng ta an lành, tâm lần lần thảnh thơi, sự tu hành được tiến, thoát được những phiền não quấy nhiễu. Chúng ta tu là cốt thoát ly sanh tử, nếu còn phiền não thì không thể nào ra khỏi sanh tử. Muốn dứt phiền não thì phải có trí tuệ sáng suốt mới được.
Tóm lại khi năm cũ sắp hết, chúng ta ôn lại xem có điều gì dở thì ráng đập cho nát, chuẩn bị qua năm mới chúng ta sẽ sống tùy duyên tiêu cựu nghiệp, đừng để nghiệp cũ dấy lên lôi chúng ta trở lại những điều hư dở của năm cũ nữa. Phải tập sống hồn nhiên để “tâm không, đồng Tổ Phật”, nghĩa là làm thế nào càng ngày tâm chúng ta càng rỗng nhẹ, cho đến rỗng trơn không còn chi cả để đồng với Phật Tổ, như vậy mới khỏi uổng một đời tu. Nếu để chứa ăm ắp, nặng trình trịch trong tâm thì rất nguy, dễ bị rơi chìm tận đáy biển, phải cố gột rửa cho sạch những cố chấp, những phiền não cho tâm hồn thảnh thơi nhàn hạ. Muốn được như thế thì phải biết tùy duyên, nhưng tùy duyên mà bất biến, đừng nói ở cảnh cũ tôi tu hay quá, nay đến cảnh này tôi tu không được, thôi không tu nữa. Đó là tùy duyên rồi tan biến, mất mình. Vì thế nên nhớ tùy duyên mà bất biến mới thật là người hiểu đạo, còn tùy duyên mà tan biến thì đó là người không tiến tu được và phải bị trầm luân.
Tôi nhắc lại: Hôm nay là buổi Tất niên tức là từ biệt năm cũ, nhìn lại những điều dở, chúng ta phải đập tan hết để chuẩn bị cho năm mới tập sống tùy duyên mà bất biến, đó là điều tôi mong mọi người ứng dụng ngay từ năm mới này.
PHÁP MÔN KHÔNG HAI
Xuân Giáp Tý - 1984
Năm nay là năm Giáp Tý, dương lịch 1984, tất cả quí vị đã đến đây chúc mừng năm mới, tôi sẽ có nhiều lời nói chuyện cùng quí vị, gọi là nhắc nhở nhau trên con đường tu hành, để mỗi người sang năm mới này có đầy đủ những tư liệu tiến tu cho được sớm giác ngộ và giải thoát.
Điều căn bản mà chúng tôi muốn nói hôm nay là “PHÁP MÔN KHÔNG HAI” hay nói cách khác là “BẤT NHỊ PHÁP MÔN”. Nói không hai đây, tôi sẽ dẫn từ kinh cho đến thiền, để quí vị nghiệm và nghiền ngẫm thấy lý đạo rõ ràng, khiến trên đường tu chúng ta khỏi ngờ vực, và khỏi mắc phải những bệnh thiên chấp hoặc bên này hoặc bên nọ. Tất cả người tu, muốn thoát khổ được vui không gì hơn phải dùng Trí tuệ Bát-nhã soi sáng phá tan mọi chấp nê của mình. Nhờ phá được cái chấp mình mới hết khổ. Vì vậy mở đầu là kinh Bát-nhã. Quí vị nhớ trong kinh Bát-nhã nói về Pháp Môn Không Hai thế nào? Đây tôi dẫn như câu: “Sắc tức thị không, không tức thị sắc.” Như vậy sắc và không là hai, phải vậy không? Mà ở đây tinh thần Bát-nhã cho chúng ta thấy sắc chính là không, không chính là sắc; thì như vậy có hai không? Ngay cái sắc đã là không, ngay cái không đã là sắc, thì làm gì có hai? Đó là tinh thần Bát-nhã. Tại sao sắc tức là không, không tức là sắc? Đây tôi nói hai mặt.
Mặt thứ nhất là trong cái sắc có không, tức là cái không và cái sắc tương đối. Trong cái sắc này có không, trong cái không này có cái sắc. Trong cái sắc có không là thế nào? Chắc rằng quí vị cũng nghe rõ với tinh thần khoa học, gần đây nhất có những nhà khoa học nói rằng dùng kính hiển vi khuếch đại tối đa nhìn thấy trong cái sắc này phần không nhiều hơn phần sắc. Như vậy, chính trong cái có đó, trong cái sắc đó đã chan chứa cái không ở trong rồi. Cũng như về thân chúng ta, quí vị thấy cái sắc chất này cái không nhiều hay cái sắc nhiều? Mỗi lỗ chân lông là thưa hở, là trống, rồi lỗ mũi, lỗ tai, cái miệng, tất cả đều là trống hở cho nên mới có không khí ra vào, mới có thức ăn lưu chuyển ở trong v.v... Chính cái thân sắc chất này, đã mang đầy tính chất không ở trong. Cũng chính cái không mà chúng ta thấy đó, mang đầy đủ hình sắc, nhưng vì tế vi nhỏ nhít mà chúng ta không thấy được. Mắt thấy dường như không mà thật ra nếu dùng kính hiển vi nhìn thì nó hoàn toàn có tất cả thứ ở trong đó chớ không phải là không. Như vậy không, không hẳn là không, sắc không hẳn là sắc. Trong sắc có không, trong không có sắc.
Lối nói sắc là không đó là lối nói tương đối không đúng lẽ thật; mà trên lẽ thật nó không hẳn là không, không hẳn là sắc mà ngay cái này đã có cái kia, ngay cái kia đã có cái này. Như vậy thấy rõ không và sắc là hai cái đối đãi, cho đến thị phi, hữu vô v.v... đều nằm trong cái đối đãi đó hết. Tất cả cái đối đãi đó đều là không thật, chỉ là gượng nói, tạm nói, chớ không có cái thật của nó. Vì vậy, với Trí tuệ Bát-nhã thấy không có cái không ngoài cái sắc và không có cái sắc ngoài cái không. Đó là tôi nói cái “Không đối đãi”. Nếu nói cái không của bản tánh, thì sắc chất có là do duyên hợp mà có. Bởi duyên hợp mà có, nên nó có mà không phải tự có, do nhiều yếu tố, nhiều nguyên nhân hợp lại thành. Do nhiều thứ hợp thành, nên nó không có cái thể cố định của nó. Không có thể cố định của nó mà tùy duyên. Đủ duyên thì hợp, hợp gọi là có; thiếu duyên thì tan, tan gọi là không. Vậy thì cái hiện có của nó là cái hiện có của duyên, chớ không có cái tự tánh, bởi không có tự tánh nên nói là không. Tuy mắt thấy nó hiện có mà tự tánh nó là không. Cũng như cái không, tuy không mà không cố định là không, tại sao? Vì đủ duyên hợp thành sắc. Đang trống không mà nếu có một cái gì tụ họp lại hoặc là đất, là đá, là nhà cửa v.v... thì ngay trong không biến thành sắc, ngay trong sắc đổi thành không.
Đứng về mặt thứ hai nói, cái sắc và không đều là do tướng của duyên. Đã là tướng của duyên nên nó không bị tự tánh. Bởi không có tự tánh nên có cũng vẫn là không. Đó là trí Bát-nhã thấy tường tận như vậy. Cái có đã là không, thì không chấp cái có thật có, cũng như cái không là có, thì không chấp cái không thật không. Không chấp cái có thật có, không chấp cái không thật không, khi mình nói cái đó là có mà có người khác nói là không thì mình nói làm sao, mình nên cãi không? Bởi mình đã thấy có không thật có, không không thật không thì có cần cãi làm gì? Bởi thấy có là thật có, không là thật không, nên mình nói có, mà người ta nói không, mình không chịu, vì không chịu nên sanh cãi. Như vậy, quí vị thấy rõ rằng khi thấy sắc không không hai thì chúng ta mất hết những niệm tranh hơn tranh thua, tranh phải tranh quấy. Nếu chúng ta không tranh hơn thua phải quấy thì tâm chúng ta có phiền não hay không? Sở dĩ chúng ta giận người này buồn người kia là tại sao, tại mình nói cái này phải, mà họ nói quấy. Mình nói cái này quấy họ nói phải. Hai cái khác nhau nên có sự chống đối, chống đối thì bực bội. Mình nói có mà họ nói không, thì mình bực bội không chấp nhận. Đó là sanh phiền não. Bấy giờ chúng ta thấy rõ tường tận: Sắc và không, không hai. Sắc không, không hai, thì có không cũng không hai, phải quấy cũng không hai, tốt xấu cũng không hai. Tất cả đối đãi đều không có thật. Bởi không có thật, hay không cố định, nên chúng ta đừng chấp. Chúng ta không chấp thì cái khổ không còn. Đó là một lối tu rất là dễ, rất là gần. Cho nên lý sắc không của Bát-nhã cho chúng ta thấy rõ tất cả sự vật ở thế gian này, trên phương diện ngôn ngữ thì tạm đặt, hoặc là có hoặc là không, hoặc là thiện, hoặc là ác, hoặc là phải, hoặc là quấy. Tạm đặt để dùng thôi, không phải là cứu kính, không phải là chân lý. Hiểu như vậy chúng ta đừng chấp. Nếu không chấp thì chúng ta sẽ tự tại trước mọi hình tượng đổi thay, trước mọi ngôn ngữ sai biệt, không còn gì phiền não hết. Vì vậy, quí vị nhớ trong nhà Phật luôn luôn nói phiền não tức Bồ-đề, phải vậy không? Không phải rời phiền não mà có Bồ-đề riêng, như thế gian nói: “tôi phiền não quá”, phiền não là tâm điên đảo rối rắm, Bồ-đề là tâm giác ngộ. Người ta nói phiền não là khác với giác ngộ, giác ngộ là khác với phiền não, nhưng với tinh thần Đại thừa thấy ngay phiền não tức là Bồ-đề, ngay Bồ-đề không khéo thì thành phiền não. Như vậy phiền não tức Bồ-đề là sao? Bồ-đề tức phiền não là sao?
Tôi thí dụ, mình lên chùa tụng kinh là Bồ-đề, mà tụng kinh người đánh mõ cứ đánh chậm, lùi lùi lại hoài, lúc đó Bồ-đề dấy phiền não. Mình lên chánh điện tụng kinh là phát tâm Bồ-đề, tâm giác ngộ, mà người đánh mõ không vừa ý, mình bực mình muốn sân lên, như vậy Bồ-đề dấy phiền não rồi. Sao là phiền não tức Bồ-đề? Ví dụ: Mình đang giận một huynh đệ nào đó, giận đỏ mặt. Đang giận đỏ mặt là phiền não. Khi ấy bất thần có một Sư huynh đi ngang thấy nói: “Đã tu mà giận sao?” Mình xấu hổ hết giận, tâm lặng lẽ thanh tịnh lại. Vậy phiền não thành Bồ-đề, khỏi tìm kiếm đâu xa hết. Quí vị thấy phiền não, Bồ-đề đâu có xa, tâm dấy lên điên đảo là phiền não, lặng xuống thanh tịnh là Bồ-đề. Ngay trong Bồ-đề không khéo thành phiền não. Đâu có cái thứ hai ở ngoài chạy vô. Chúng ta khéo tu biết rõ hai cái không có rời nhau, ngay phiền não chuyển thành Bồ-đề, không khéo Bồ-đề biến thành phiền não, hiếm gì người từ Bồ-đề biến thành phiền não. Đây là tôi nói một chút ít để quí vị hiểu. Lý sắc tức thị không, không tức thị sắc cũng tương tự như vậy. Đó là dẫn đại khái kinh Bát-nhã cho quí vị thấy lý không hai.
Đến kinh Pháp Hoa.
Kinh Pháp Hoa nếu quí vị tụng phẩm Tự tức là phẩm mở đầu, quí vị thấy Phật dạy điều gì trong ấy? Phật không nói câu nào hết. Thấy Ngài ngồi kiết-già nhập định, lông trắng giữa chân mày phóng một luồng hào quang soi thấu đến cõi trời Hữu Đảnh, nương theo hào quang, đại chúng thấy trong đó các vị Bồ-tát tu nhân thế nào thành đạo thế nào, đều rõ ràng. Soi thấu xuống địa ngục A-tì, đại chúng nương hào quang thấy người nào tạo nhân gì, tạo nghiệp gì đọa địa ngục thứ mấy, thấy rõ hết. Nhân nào cũng biết, từ nhân địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh thấy rõ, còn nhìn lên thì nhân sanh các cõi trời cho tới nhân của các vị Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát đều thấy tu nhân nào được quả nào thấy rõ ràng hết. Như vậy Phật muốn nói cái gì? Chân mày là hai bên, phải vậy không? Ở giữa là sao? Là không hai bên, hào quang là tượng trưng cho trí tuệ, giữa chân mày là không kẹt hai bên. Cái trí tuệ không mắc kẹt hai bên đó mới thấy được tột cùng lý sanh tử luân hồi, tột cùng lẽ giải thoát thành Phật. Trí không mắc kẹt hai bên đó, trong kinh Pháp Hoa gọi là Tri kiến Phật. Nếu quí vị đọc lại thấy rõ ràng, bởi Tri kiến Phật (trí không mắc kẹt hai bên) là cái trí thấy rõ nhân sanh tử luân hồi, cũng như thấy rõ cái nhân và quả của Bồ-đề Niết-bàn giải thoát. Như vậy người nào sống với trí đó, người đó sẽ thành Phật. Vì Phật là thấy rõ con đường luân hồi sanh tử của chúng sanh, nhân thế nào, quả thế nào đều biết rõ Phật mới dạy. Và Ngài cũng biết rõ nhân thế nào, quả thế nào trên con đường giải thoát, Ngài mới dạy. Như vậy, thấy rõ hai manh mối đó và kết quả của hai con đường đó, thấy rõ không nghi ngờ nữa đó tức là Phật. Vì vậy Tri kiến Phật là trí tuệ không dính mắc hai bên, mới thấy rõ lý luân hồi sanh tử và lý giải thoát sanh tử, không còn nghi ngờ mà đạt tới chỗ viên mãn, đó là Phật. Đến phẩm thứ mười hai là phẩm Đề bà đạt đa.
Quý vị nhớ bà Long nữ bao nhiêu tuổi? Người ta kêu nàng Long nữ, nhưng tôi kêu bà Long nữ, vì Phật nói kinh trên hai ngàn năm rồi, thì kêu bà gì mới vừa? Vì trong hội Pháp Hoa là nàng Long nữ tám tuổi, nay trên hai ngàn năm rồi thì kêu bà gì mới được? Tôi kêu bà cũng là chưa xứng đó. Bà Long nữ do ngài Văn-thù giáo hóa nhận ra Tri kiến Phật. Tri kiến Phật không có hai bên thì có mắc kẹt nam nữ hay không? Không mắc kẹt nam nữ, vì nam nữ là hai bên mà Tri kiến Phật là không kẹt hai bên (nam nữ). Than ôi! Gần đây người ta tu hành lại cầu chuyển nữ thành nam để tu hành tinh tấn giáo hóa chúng sanh, chớ mang thân nữ nghiệp chướng ê chề tu hành không tiến. Cứ nghĩ như thế thật là xa xôi quanh co. Ngay nơi Tri kiến Phật không có nam nữ, mình cứ sống với cái Tri kiến Phật đó. Không có nam nữ thật, chuyển nữ thành nam làm gì cho mất công. Bà Long nữ khi nhận ra Tri kiến Phật, Bồ-tát Trí Tích hỏi Bồ-tát Văn-thù, ngài Văn-thù giáo hóa ở Long cung có vị nào ngộ đạo chưa, ngài Văn-thù nói: có. Giây lát bà Long nữ xuất hiện, ngài Trí Tích và ngài Xá-lợi-phất nghi. Vì Phật nói người nữ có chín điều chướng tu hành không thành Phật. Thành Ma vương còn không được, huống nữa là thành Phật. Bà Long nữ mới tám tuổi, còn là con nít, trẻ con đã là tệ, lại là nữ nữa, cộng thêm là rồng, rồng tức là súc sanh. Ba thứ tệ như vậy, mà ngài Văn-thù nói đó là nguời đã ngộ đạo thì làm sao ngài Xá-lợi-phất tin nổi. Cho nên, ngài Xá-lợi-phất không tin, làm sao con người như vậy mà thành Phật, ngộ đạo tức sẽ thành Phật. Bà Long nữ biết hai Ngài không tin mình, nên đến trước Phật lấy hạt châu trong áo dâng lên Phật, Phật nhận để lên bàn, bà xoay lại hỏi hai ngài Trí Tích và Xá-lợi-phất:
- Các Ngài thấy Thế Tôn nhận hạt châu của tôi dâng, lâu hay là mau?
Ngài Xá-lợi-phất nói:
- Mau lắm!
Bà Long nữ nói:
- Tôi thành Phật cũng nhanh như vậy.
Liền đó thấy bà sang phương Nam ở nước Vô Cấu chuyển thân thành Bồ-tát, thành Phật liền. Nhờ cái gì mau thành Phật lắm vậy? Nhờ bà nhận ra Tri kiến Phật, là cái trí không mắc kẹt hai bên. Trí đó không nam không nữ nên không bị chướng, còn cái thân nghiệp chướng sâu dày của người nữ (tôi nói đây không phải chê) theo trong kinh nói là đứng trên nghiệp tướng mà nói, còn cái Tri kiến Phật là đứng trên Phật tánh mà nói hay trên Pháp thân mà nói. Nhìn trên Phật tánh hay Pháp thân thì không có nam nữ. Bởi không có hai làm gì có nam nữ, còn thấy nam thấy nữ, là nhìn ở trên nghiệp tướng tương đối. Nghiệp tướng là tương đối, là hư giả đâu có thật. Vậy tại sao mình khư khư chấp cái giả rồi khổ sở mong chuyển cái giả này qua cái giả kia, chi cho cực, phải vậy không? Biết rõ cái giả này giả rồi, thì cái giả nữ giả, cái giả nam cũng giả, ngay đó mình sống với cái thật không nam không nữ cho khỏe. Quí vị thấy rõ nhớ không thấy hai, là trí tuệ siêu thoát cái chấp tương đối. Trí tuệ đó là Tri kiến Phật, cho nên bà Long nữ thành Phật chỉ trong chớp mắt. Quí vị tu theo đường lối này cũng vậy. Làm sao thành Phật trong chớp mắt, khỏi chuyển nữ thành nam gì hết. Đó là kinh Pháp Hoa.
Đến kinh Duy-ma-cật.
Trong kinh Duy-ma-cật về phẩm “Bất Nhị Pháp Môn”, trong phẩm này có cả thảy ba mươi hai vị Bồ-tát giải thích về Pháp môn bất nhị. Tôi kể vị Bồ-tát thứ nhất là Bồ-tát Pháp Tự Tại giải thích về Pháp môn bất nhị như vầy: “Sanh diệt là hai, pháp xưa chẳng sanh nay chẳng diệt, được vô sanh pháp nhẫn, gọi là nhập Pháp môn bất nhị (vào pháp môn không hai).”
Sanh diệt là hai, đây là sanh, kia là diệt, thấy hai cái đó là hai bên, giờ cái sanh không thật sanh, cái diệt không thật diệt thì không hai, thấy được cái lẽ không hai đó là nhập, là được vô sanh pháp nhẫn, là nhập Pháp môn bất nhị.
Pháp môn bất nhị là không mắc kẹt hai bên. Không mắc kẹt hai bên là nhập Pháp môn bất nhị. Kế đó mỗi vị Bồ-tát đều trình bày từng cặp như vậy, tức là hai cái, nào là động tịnh v.v... cũng giống hệt như vậy, ở đây chúng tôi không kể. Cuối cùng ngài Văn-thù cũng trình bày về Pháp môn không hai, nghĩa là dùng ngôn ngữ để dẹp ngôn ngữ. Ngài Văn-thù trình bày xong, Ngài nói với ông Duy-ma-cật: “Chúng tôi đã trình bày về lý Pháp môn bất nhị xong, tới phiên nhân giả, nhân giả nên nói về Pháp môn bất nhị cho chúng tôi nghe.” Ngài Duy-ma-cật lên tòa ngồi kiết-già rồi làm thinh. Khi ông Duy-ma-cật lặng thinh thì ngài Văn-thù khen: “Hay thay, hay thay, cho đến không có văn tự ngữ ngôn, mới là chân thật nhập Pháp môn không hai.” Chân thật nhập Pháp môn bất nhị là không có ngôn ngữ. Tại sao vậy? Vì mở miệng là thành hai mất rồi, bởi vì ngôn ngữ luôn luôn lập trong đối đãi. Nói phải thì có quấy, nói có rồi có không, nói hơn thì có thua, nói đen rồi có trắng, nói tốt thì có xấu, luôn luôn như vậy, mở miệng là nằm trong cái hai. Vì vậy ngài Duy-ma-cật ngồi lặng thinh, được Bồ-tát Văn-thù khen. Đó là chỗ không còn ngôn ngữ, chỗ đó mới thật là nhập Pháp môn bất nhị. Tôi đã dẫn phần kinh rồi, bây giờ tới Thiền sư.
Trước là Tổ Tăng Xán. Tổ Tăng Xán là Tổ thứ ba ở Trung Hoa. Bài “Tín Tâm Minh” của Ngài tôi đọc vài đoạn cho quí vị nghe để thấy:
Chí đạo vô nan,
Duy hiềm giản trạch.
Đản mạc tắng ái,
Đỗng nhiên minh bạch.
Hào ly hữu sai,
Thiên địa huyển cách.
Đạo đắc hiện tiền,
Mạc tồn thuận nghịch.
Tôi chỉ dẫn hai đoạn thôi. Bốn câu trên Ngài nhấn mạnh hai chữ tắng ái. “Đản mạc tắng ái”, nghĩa là chỉ chớ yêu ghét thì “đỗng nhiên minh bạch” là rõ ràng sáng suốt. Tiếp theo “đạo đắc hiện tiền” nghĩa là muốn thấy cái chân thật hiện tiền (trước mắt), thì “mạc tồn thuận nghịch” là chớ còn thuận nghịch. Nếu còn thuận nghịch thì không có hiện tiền, nếu còn yêu ghét thì không thể rõ ràng minh bạch. Ngài chỉ cho chúng ta thấy người còn thấy hai, là còn ở trong cái kẹt. Tôi giải thích từ đầu:
“Chí đạo vô nan”: Chí đạo là cái đạo tột cùng, cái đạo đó không khó, mà tại sao khó? “Duy hiềm giản trạch”: Chỉ bởi mình giản trạch. Giản trạch là sao? Là chọn lựa, có một có hai, có tốt có xấu, có phải có quấy đó. Bởi giản trạch nên chí đạo trở thành nan, chớ chí đạo thì vô nan, vì giản trạch mà trở thành nan mất rồi. Như vậy, Ngài mới chỉ cái lỗi, bởi giản trạch nên mới có yêu ghét. Nếu dứt được yêu ghét thì rõ ràng minh bạch, chí đạo hiện tiền rõ ràng minh bạch, chớ không có gì hết. Sau đó Ngài bảo, nếu mình còn có một mảy may sai biệt, thì xa cách với đạo như trời với đất. Vậy muốn được thấy chí đạo hiện tiền, thì đừng còn thuận nghịch. Yêu ghét, thuận nghịch là những vế chỉ về hai; cái hai mà mất rồi, thì chí đạo hiện tiền; cái hai mà mất rồi, thì rõ ràng minh bạch không nghi ngờ nữa.
Đây Tổ Tăng Xán Ngài chỉ cho chúng ta rõ ràng, cái cứu kính thấy đạo phải rời cái chấp hai phải không?
Bây giờ đến Lục Tổ. Lục Tổ ngài dạy chúng ta sao? Đây trong phẩm “Phó Chúc”, ở kinh Pháp Bảo Đàn, Ngài nói: Nay tôi dạy các ông nói pháp chẳng mất bản tông, nếu người hỏi “có” đem “không” đối, hỏi “không” đem “có” đối, hỏi “phàm” lấy “Thánh” đối, hỏi “Thánh” lấy “phàm” đối. Như hỏi thế nào là có? Phải nói bởi không mà có. Hỏi thế nào là không? Bởi có thành không. Nói vậy là giải thích có và không là đối đãi, có và không nương nhau. Nhân cái không mà nói có, có không không có thật. Nếu thấy có không không thật thì phàm Thánh không thật, tốt xấu cũng không thật, hơn thua cũng không thật, phải quấy cũng không thật. Nhưng mà mình có chịu chấp nhận sống với phải quấy không thật đó không? hơn thua không thật không? Chắc không chịu, nếu chịu sống với cái không thật là Thánh mất rồi. Tại sợ làm Thánh buồn, nên ưng làm phàm, rồi chấp nhận phải quấy, cho nên gặp nhau thì ngồi nói chuyện phải quấy. Bởi muốn làm phàm cho nên chấp nhận hơn thua, tốt xấu, vì vậy gặp nhau thì nói chuyện hơn thua, tốt xấu, nói người này tốt người kia xấu, người này phải người kia quấy, người này hơn người kia thua, cái này hay cái nọ dở. Cứ như vậy nói hoài, nói không cùng, do đó làm phàm mãi không thôi. Bây giờ muốn làm Thánh thì sao? Chỉ lần bỏ hai cái đó, đừng nói phải nói quấy, đừng nói hơn nói thua, đừng nói tốt nói xấu v.v... những cái đó thấy đều không thật. Thấy không thật thì không chấp, mà không chấp thì phiền não từ đâu mà sanh, mà bỏ những cái đó dễ không? Người xưa đã nói: “Điểm thiết hóa thành kim ngọc dị, khuyến nhân trừ khước thị phi nan”, nghĩa là chỉ sắt biến thành vàng ngọc dễ, khuyên người dẹp bỏ phải quấy khó. Bỏ được phải quấy khó lắm.
Tại sao khó lắm vậy? Tại vì cái nghiệp chủng chúng sanh nó sâu dày quá phải không? Quí vị nhớ nói phải nói quấy, nói hơn nói thua, nói tốt nói xấu đều là cái nói của phàm phu. Cái chủng nghiệp phàm phu nó sâu quá nên ngồi lại thì cứ như vậy mà tiếp tục. Bây giờ bỏ hết những cái đó, dừng hết đừng thấy phải quấy thật, đừng thấy tốt xấu thật, đừng thấy hơn thua thật, đừng thấy có không thật v.v..., tất cả những cái hai bên mình không chấp nữa, đó là trí tuệ của Thánh nhân, là Tri kiến Phật, dễ hay khó? Bảo quí vị làm cái gì? Chỉ cần đừng mắc kẹt hai bên là Thánh mất rồi, tìm đâu cho xa. Đừng chấp như vậy là Thánh, cho nên người tu muốn thoát khỏi những cái phàm tục thì phải ứng dụng triệt để cái thấy không hai bên đó, phải thoát khỏi cái thấy hai bên. Nếu chúng ta thoát được cái thấy hai bên là chúng ta đã thoát ly được sanh tử, còn mắc kẹt trong cái hai bên, là chúng ta đi trong dòng sanh tử. Bởi vì không thấy hai bên là trí tuệ siêu sanh tử, gọi là Tri kiến Phật hay Phật tuệ, còn nếu thấy hai bên là trí tuệ của phàm phu là sanh tử.
Cho nên các Thiền sư ứng dụng triệt để lối phá chấp hai bên. Bây giờ tới Hòa thượng Thạch Đầu.
Có vị Tăng hỏi: Thế nào là giải thoát?
Ngài trả lời: Ai trói ngươi?
Hỏi: Thế nào là Tịnh Độ?
Ngài trả lời: Cái gì làm nhơ ngươi?
Hỏi: Thế nào là Niết-bàn?
Ngài trả lời: Ai đem sanh tử đến cho ngươi?
Như vậy ngài Thạch Đầu có trung thực với Lục Tổ dạy không? Ngài Thạch Đầu trả lời có mắc kẹt hai bên không? Hỏi giải thoát thì Ngài dùng triền phược tức trói buộc để đáp giải thoát, hỏi Tịnh độ thì Ngài dùng cái uế mà đáp, hỏi Niết-bàn thì Ngài dùng sanh tử mà đáp, phải vậy không? Như vậy để chúng ta thấy rằng, nếu sanh tử không thật thì Niết-bàn cũng không thật, tịnh không thật thì uế cũng không thật, giải thoát không thật thì triền phược cũng không thật. Hai cái đều là đối đãi tạm có không thật. Bởi không thật mà chấp tức là ngu si, vì chấp là thấy có thật. Cái gì mình chấp đều là do thấy nó thật, nếu thấy nó giả thì hết chấp. Quí vị xét thấy phải không? Thí dụ có người chửi mình là con chó, mà mình biết lời nói đó giả dối không thật, thì mình có giận không? Nếu họ nói mình là con chó, mình giận đùng đùng lên, là mình thấy lời nói đó có thật. Bởi thấy thật nên mới giận. Như vậy, thấy không thật thì mọi cái chấp hết. Cái chấp hết thì khổ đau mới hết hay không? Tu để thoát khổ đau, chấp là nguồn gốc của khổ đau. Tu là để giải thoát, mà chấp là cái triền phược không giải thoát nổi. Cho nên các Thiền sư ứng dụng triệt để lối phá chấp hai bên đó. Đó là ngài Thạch Đầu.
Đây tới ngài Mục Châu.
Thiền sư Mục Châu là Sư huynh của Tổ Lâm Tế.
Có vị Tăng hỏi: Lấy một lớp dẹp một lớp thì chẳng hỏi, khi chẳng lấy chẳng dẹp thì thế nào?
Ngài đáp: Hôm qua trồng cà, ngày nay trồng dưa.
Là thế nào? Nói lấy một lớp dẹp một lớp thì không hỏi, nghĩa là tôi không hỏi cái lấy cái dẹp, tôi không hỏi cái hai bên. Bây giờ chẳng lấy chẳng dẹp, tức bỏ cả cái hai bên thì lúc đó làm sao? Ngài nói: hôm qua trồng cà, hôm nay trồng dưa là sao? Nếu tôi nói ra thì hết đi tức là dành phần của quí vị hết rồi. Đó là hình ảnh của người xưa vậy.
Đến một hình ảnh nữa, là câu chuyện gần đây tôi kể cho quí vị nghe. Đó là chuyện ngài Sơ Sơn hỏi đạo ngài Qui Sơn. Ngài Sơ Sơn là một Thiền khách đến chỗ ngài Qui Sơn để hỏi đạo. Khi đến nơi, ngài Sơ Sơn thưa rằng:
- Con được nghe Hòa thượng nói: “Câu có câu không như bìm leo cây.” Bỗng dưng cây ngã bìm khô thì câu về chỗ nào?
Câu hỏi này giống như câu hỏi ở trên không? Giống hệt, bởi vì “câu có câu không như bìm leo cây”, tức là có và không Tổ Qui Sơn ý nói có không giống như cây và dây bìm. Dây bìm và cây là hai, phải vậy không? Nó nương nhau. Có và không cũng nương nhau là hai. Bây giờ, con không hỏi cái hai nữa; khi cây ngã bìm khô thì câu về chỗ nào? Là khi hết hai rồi thì lúc đó sao? Ngài Qui Sơn cười hả hả mà không nói thêm câu nào hết. Ngài Sơ Sơn thấy ngài Qui Sơn cười hả hả thì tức mình quá, thưa: Con từ bốn ngàn dặm mang khăn gói đến đây hỏi đạo, mà Hòa thượng đùa như vậy. Khi đó, ngài Qui Sơn kêu: Thị giả! Đem tiền hoàn lại cho Thượng tọa này. Thôi bây giờ tôi hoàn tiền lại, công ông đi xa đó. Rồi Ngài dặn: Sau sẽ có con rồng một mắt vì ông mà điểm phá.
Ngài Sơ Sơn từ giã ra đi. Ngài đi một thời gian lâu xa, đến một Thiền sư là ngài Huệ Chiêu. Huệ Chiêu là một Thiền sư có một con mắt. Khi đến ngài Huệ Chiêu, ngài Sơ Sơn đảnh lễ thưa hỏi. Ngài Huệ Chiêu hỏi:
- Ông từ đâu đến?
Ngài Sơ Sơn đáp:
- Từ Qui Sơn đến.
Ngài Huệ Chiêu hỏi:
- Có những gì ở Qui Sơn, kể lại nghe.
Ngài Sơ Sơn thuật lại, đến đó hỏi như vậy, Tổ Qui Sơn cười như vậy.
Ngài Huệ Chiêu nói:
- Qui Sơn đầu chánh, đuôi chánh, chỉ vì không gặp tri âm.
Ngài Sơ Sơn nghe, không hiểu gì hết, nên đặt câu hỏi lại với ngài Huệ Chiêu:
- Khi cây ngã bìm khô rồi câu về chỗ nào?
Ngài Huệ Chiêu liền nói:
- Nụ cười của Qui Sơn lại thêm tươi.
Ngay đó, ngài Sơ Sơn ngộ đạo. Khi ngộ đạo rồi, Ngài nói, nguyên lai trong tiếng cười của Qui Sơn có đao.
Ngang đó xong. Có một Thiền sư sau này là ngài Hoằng Trí làm bài tụng bốn câu:
Thọ đảo đằng khô vấn Qui Sơn,
Đại tiếu ha ha khởi đẳng nhàn.
Tiểu lý hữu đao huy đắc phá,
Ngôn tư vô lộ tuyệt cơ quan.
Tôi tạm dịch:
Bìm khô cây ngã hỏi Quy Sơn,
Ha hả cười to há rỗng trơn.
Đao sẵn trong cười xem được thấu,
Không đường bàn nghĩ bặt mối mang.
Đó là bài tụng. Qua bài tụng quí vị thấy Ngài nói gì? “Bìm khô cây ngã hỏi Qui Sơn”, là lập lại câu hỏi của ngài Sơ Sơn.
“Ha hả cười to há rỗng trơn”, cười ha hả đó không phải là cười suông đâu, nên nói:
“Đao sẵn trong cười xem được thấu”, là biết trong tiếng cười có đao là đã ngộ rồi, chừng đó mới thấy sao?
“Không đường bàn nghĩ bặt mối mang”, chỗ đó không có đường nói năng, suy nghĩ bặt hết, mọi mối mang, manh mối không còn. Quí vị thấy chỗ đó không?
Bây giờ, tôi có thể đổi lại câu nói rằng trong tiếng cười của Qui Sơn có đao, tôi nói trong nụ cười của Qui Sơn có cam lồ được không? Quí vị thấy được không? - Được. Tại sao nói đao, lại nói cam lồ mà được? Quí vị mới thấy, lý đạo sâu kín mà nó lại hiện tiền. Ngài Qui Sơn cười, đối với ngài Sơ Sơn lúc đó tưởng Ngài đùa với mình, khi mình đang khao khát, băn khoăn tới để hỏi đạo, mà hỏi rồi Ngài chỉ cười mà không nói một lời, không tức sao được, phải vậy không? Vì thế, Sơ Sơn nói: Con từ ngàn dặm mang khăn gói đến mà Hòa thượng đùa như vậy. Nhưng ngài Qui Sơn bình tĩnh nói thôi lấy tiền trả thù lao cho công ông đi xa, chớ không nói gì hết. Mặc Sơ Sơn tức tối, ngài Qui Sơn không nói thêm một câu. Như vậy, tiếng cười của ngài Qui Sơn cười để mà cười hay cười để làm gì? Như vậy cái cười của Qui Sơn và cái im lặng của Duy-ma-cật có giống nhau không? Tại sao cười và im lặng mà giống nhau? Nếu cái cười của Qui Sơn và cái im lặng của Duy-ma-cật giống, thì trong tiếng cười có đao hay trong tiếng cười có cam lồ cũng giống, phải vậy không? Mà thấy được như vậy đó là sao? Nếu thấy trong tiếng cười có đao, là người đó xem được thấu, còn nếu thấy trong tiếng cười có cam lồ thì xem cũng được thấu. Tại sao cười và im lặng mà giống? Câu chót của bài tụng: “Ngôn tư vô lộ tuyệt cơ quan.” Vì chỗ đó không còn hai bên rồi, đâu còn lời để nói, đâu còn chỗ để nghĩ, cho nên bặt hết mối mang. Chỗ bặt hết mối mang chỉ còn một tiếng cười, chỉ còn cái im lặng. Vì vậy hiểu được rồi, thấy cười, hoặc thấy im lặng, là thấy được chỗ cuối cùng đó. Còn nổi tức tối như ngài Sơ Sơn thì mang gói đi nữa.
Quí vị thấy cái chỗ tột cùng của người xưa muốn cho người ta thấy, mà không dùng lời. Vì dùng lời đã trật, nên Ngài chỉ cười thôi. Còn bên kia nói chỗ hai bên mà đã cuối cùng rồi thì chỉ còn im lặng thôi. Một bên thì im lặng, một bên thì cười, như vậy quí vị thấy, ngài Duy-ma-cật là Kinh, Tổ Qui Sơn là Thiền, hai bên có giống nhau không? Đâu có hai, phải vậy không? Như vậy, chúng ta mới thấy, Thiền là cốt tủy của Kinh, Kinh là nguồn gốc của Thiền, chớ không có gì lạ hết. Hiểu như vậy, chúng ta mới thấy, sự tu hành của chúng ta muốn đạt đạo, muốn đến chỗ không còn bị trầm luân sanh tử nữa thì phải làm sao? Đừng mắc kẹt ở hai bên. Cho nên các vị Thiền sư khi nói câu gì, hỏi cái gì thì luôn luôn gài Thiền khách bằng cái hai bên, hoặc là có, hoặc là không v.v... Nếu mình y đó mà trả lời hoặc bên này hoặc bên kia thì Ngài đưa hai ngón tay, để cho mình biết rõ rằng vừa còn kẹt bên này hay bên kia, là người chưa thấy đạo. Người thấy đạo là cười hoặc im lặng. Chỗ đó là chỗ thấy đạo đó, quí vị thấy chưa?
Đây là kết luận của tôi: Sang năm Giáp Tý này, tôi chúc quí vị được “nụ cười của Qui Sơn lại thêm tươi”. Đó là câu chúc đầu năm của tôi.
Xuân Giáp Tý - 1984
Năm nay là năm Giáp Tý, dương lịch 1984, tất cả quí vị đã đến đây chúc mừng năm mới, tôi sẽ có nhiều lời nói chuyện cùng quí vị, gọi là nhắc nhở nhau trên con đường tu hành, để mỗi người sang năm mới này có đầy đủ những tư liệu tiến tu cho được sớm giác ngộ và giải thoát.
Điều căn bản mà chúng tôi muốn nói hôm nay là “PHÁP MÔN KHÔNG HAI” hay nói cách khác là “BẤT NHỊ PHÁP MÔN”. Nói không hai đây, tôi sẽ dẫn từ kinh cho đến thiền, để quí vị nghiệm và nghiền ngẫm thấy lý đạo rõ ràng, khiến trên đường tu chúng ta khỏi ngờ vực, và khỏi mắc phải những bệnh thiên chấp hoặc bên này hoặc bên nọ. Tất cả người tu, muốn thoát khổ được vui không gì hơn phải dùng Trí tuệ Bát-nhã soi sáng phá tan mọi chấp nê của mình. Nhờ phá được cái chấp mình mới hết khổ. Vì vậy mở đầu là kinh Bát-nhã. Quí vị nhớ trong kinh Bát-nhã nói về Pháp Môn Không Hai thế nào? Đây tôi dẫn như câu: “Sắc tức thị không, không tức thị sắc.” Như vậy sắc và không là hai, phải vậy không? Mà ở đây tinh thần Bát-nhã cho chúng ta thấy sắc chính là không, không chính là sắc; thì như vậy có hai không? Ngay cái sắc đã là không, ngay cái không đã là sắc, thì làm gì có hai? Đó là tinh thần Bát-nhã. Tại sao sắc tức là không, không tức là sắc? Đây tôi nói hai mặt.
Mặt thứ nhất là trong cái sắc có không, tức là cái không và cái sắc tương đối. Trong cái sắc này có không, trong cái không này có cái sắc. Trong cái sắc có không là thế nào? Chắc rằng quí vị cũng nghe rõ với tinh thần khoa học, gần đây nhất có những nhà khoa học nói rằng dùng kính hiển vi khuếch đại tối đa nhìn thấy trong cái sắc này phần không nhiều hơn phần sắc. Như vậy, chính trong cái có đó, trong cái sắc đó đã chan chứa cái không ở trong rồi. Cũng như về thân chúng ta, quí vị thấy cái sắc chất này cái không nhiều hay cái sắc nhiều? Mỗi lỗ chân lông là thưa hở, là trống, rồi lỗ mũi, lỗ tai, cái miệng, tất cả đều là trống hở cho nên mới có không khí ra vào, mới có thức ăn lưu chuyển ở trong v.v... Chính cái thân sắc chất này, đã mang đầy tính chất không ở trong. Cũng chính cái không mà chúng ta thấy đó, mang đầy đủ hình sắc, nhưng vì tế vi nhỏ nhít mà chúng ta không thấy được. Mắt thấy dường như không mà thật ra nếu dùng kính hiển vi nhìn thì nó hoàn toàn có tất cả thứ ở trong đó chớ không phải là không. Như vậy không, không hẳn là không, sắc không hẳn là sắc. Trong sắc có không, trong không có sắc.
Lối nói sắc là không đó là lối nói tương đối không đúng lẽ thật; mà trên lẽ thật nó không hẳn là không, không hẳn là sắc mà ngay cái này đã có cái kia, ngay cái kia đã có cái này. Như vậy thấy rõ không và sắc là hai cái đối đãi, cho đến thị phi, hữu vô v.v... đều nằm trong cái đối đãi đó hết. Tất cả cái đối đãi đó đều là không thật, chỉ là gượng nói, tạm nói, chớ không có cái thật của nó. Vì vậy, với Trí tuệ Bát-nhã thấy không có cái không ngoài cái sắc và không có cái sắc ngoài cái không. Đó là tôi nói cái “Không đối đãi”. Nếu nói cái không của bản tánh, thì sắc chất có là do duyên hợp mà có. Bởi duyên hợp mà có, nên nó có mà không phải tự có, do nhiều yếu tố, nhiều nguyên nhân hợp lại thành. Do nhiều thứ hợp thành, nên nó không có cái thể cố định của nó. Không có thể cố định của nó mà tùy duyên. Đủ duyên thì hợp, hợp gọi là có; thiếu duyên thì tan, tan gọi là không. Vậy thì cái hiện có của nó là cái hiện có của duyên, chớ không có cái tự tánh, bởi không có tự tánh nên nói là không. Tuy mắt thấy nó hiện có mà tự tánh nó là không. Cũng như cái không, tuy không mà không cố định là không, tại sao? Vì đủ duyên hợp thành sắc. Đang trống không mà nếu có một cái gì tụ họp lại hoặc là đất, là đá, là nhà cửa v.v... thì ngay trong không biến thành sắc, ngay trong sắc đổi thành không.
Đứng về mặt thứ hai nói, cái sắc và không đều là do tướng của duyên. Đã là tướng của duyên nên nó không bị tự tánh. Bởi không có tự tánh nên có cũng vẫn là không. Đó là trí Bát-nhã thấy tường tận như vậy. Cái có đã là không, thì không chấp cái có thật có, cũng như cái không là có, thì không chấp cái không thật không. Không chấp cái có thật có, không chấp cái không thật không, khi mình nói cái đó là có mà có người khác nói là không thì mình nói làm sao, mình nên cãi không? Bởi mình đã thấy có không thật có, không không thật không thì có cần cãi làm gì? Bởi thấy có là thật có, không là thật không, nên mình nói có, mà người ta nói không, mình không chịu, vì không chịu nên sanh cãi. Như vậy, quí vị thấy rõ rằng khi thấy sắc không không hai thì chúng ta mất hết những niệm tranh hơn tranh thua, tranh phải tranh quấy. Nếu chúng ta không tranh hơn thua phải quấy thì tâm chúng ta có phiền não hay không? Sở dĩ chúng ta giận người này buồn người kia là tại sao, tại mình nói cái này phải, mà họ nói quấy. Mình nói cái này quấy họ nói phải. Hai cái khác nhau nên có sự chống đối, chống đối thì bực bội. Mình nói có mà họ nói không, thì mình bực bội không chấp nhận. Đó là sanh phiền não. Bấy giờ chúng ta thấy rõ tường tận: Sắc và không, không hai. Sắc không, không hai, thì có không cũng không hai, phải quấy cũng không hai, tốt xấu cũng không hai. Tất cả đối đãi đều không có thật. Bởi không có thật, hay không cố định, nên chúng ta đừng chấp. Chúng ta không chấp thì cái khổ không còn. Đó là một lối tu rất là dễ, rất là gần. Cho nên lý sắc không của Bát-nhã cho chúng ta thấy rõ tất cả sự vật ở thế gian này, trên phương diện ngôn ngữ thì tạm đặt, hoặc là có hoặc là không, hoặc là thiện, hoặc là ác, hoặc là phải, hoặc là quấy. Tạm đặt để dùng thôi, không phải là cứu kính, không phải là chân lý. Hiểu như vậy chúng ta đừng chấp. Nếu không chấp thì chúng ta sẽ tự tại trước mọi hình tượng đổi thay, trước mọi ngôn ngữ sai biệt, không còn gì phiền não hết. Vì vậy, quí vị nhớ trong nhà Phật luôn luôn nói phiền não tức Bồ-đề, phải vậy không? Không phải rời phiền não mà có Bồ-đề riêng, như thế gian nói: “tôi phiền não quá”, phiền não là tâm điên đảo rối rắm, Bồ-đề là tâm giác ngộ. Người ta nói phiền não là khác với giác ngộ, giác ngộ là khác với phiền não, nhưng với tinh thần Đại thừa thấy ngay phiền não tức là Bồ-đề, ngay Bồ-đề không khéo thì thành phiền não. Như vậy phiền não tức Bồ-đề là sao? Bồ-đề tức phiền não là sao?
Tôi thí dụ, mình lên chùa tụng kinh là Bồ-đề, mà tụng kinh người đánh mõ cứ đánh chậm, lùi lùi lại hoài, lúc đó Bồ-đề dấy phiền não. Mình lên chánh điện tụng kinh là phát tâm Bồ-đề, tâm giác ngộ, mà người đánh mõ không vừa ý, mình bực mình muốn sân lên, như vậy Bồ-đề dấy phiền não rồi. Sao là phiền não tức Bồ-đề? Ví dụ: Mình đang giận một huynh đệ nào đó, giận đỏ mặt. Đang giận đỏ mặt là phiền não. Khi ấy bất thần có một Sư huynh đi ngang thấy nói: “Đã tu mà giận sao?” Mình xấu hổ hết giận, tâm lặng lẽ thanh tịnh lại. Vậy phiền não thành Bồ-đề, khỏi tìm kiếm đâu xa hết. Quí vị thấy phiền não, Bồ-đề đâu có xa, tâm dấy lên điên đảo là phiền não, lặng xuống thanh tịnh là Bồ-đề. Ngay trong Bồ-đề không khéo thành phiền não. Đâu có cái thứ hai ở ngoài chạy vô. Chúng ta khéo tu biết rõ hai cái không có rời nhau, ngay phiền não chuyển thành Bồ-đề, không khéo Bồ-đề biến thành phiền não, hiếm gì người từ Bồ-đề biến thành phiền não. Đây là tôi nói một chút ít để quí vị hiểu. Lý sắc tức thị không, không tức thị sắc cũng tương tự như vậy. Đó là dẫn đại khái kinh Bát-nhã cho quí vị thấy lý không hai.
Đến kinh Pháp Hoa.
Kinh Pháp Hoa nếu quí vị tụng phẩm Tự tức là phẩm mở đầu, quí vị thấy Phật dạy điều gì trong ấy? Phật không nói câu nào hết. Thấy Ngài ngồi kiết-già nhập định, lông trắng giữa chân mày phóng một luồng hào quang soi thấu đến cõi trời Hữu Đảnh, nương theo hào quang, đại chúng thấy trong đó các vị Bồ-tát tu nhân thế nào thành đạo thế nào, đều rõ ràng. Soi thấu xuống địa ngục A-tì, đại chúng nương hào quang thấy người nào tạo nhân gì, tạo nghiệp gì đọa địa ngục thứ mấy, thấy rõ hết. Nhân nào cũng biết, từ nhân địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh thấy rõ, còn nhìn lên thì nhân sanh các cõi trời cho tới nhân của các vị Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát đều thấy tu nhân nào được quả nào thấy rõ ràng hết. Như vậy Phật muốn nói cái gì? Chân mày là hai bên, phải vậy không? Ở giữa là sao? Là không hai bên, hào quang là tượng trưng cho trí tuệ, giữa chân mày là không kẹt hai bên. Cái trí tuệ không mắc kẹt hai bên đó mới thấy được tột cùng lý sanh tử luân hồi, tột cùng lẽ giải thoát thành Phật. Trí không mắc kẹt hai bên đó, trong kinh Pháp Hoa gọi là Tri kiến Phật. Nếu quí vị đọc lại thấy rõ ràng, bởi Tri kiến Phật (trí không mắc kẹt hai bên) là cái trí thấy rõ nhân sanh tử luân hồi, cũng như thấy rõ cái nhân và quả của Bồ-đề Niết-bàn giải thoát. Như vậy người nào sống với trí đó, người đó sẽ thành Phật. Vì Phật là thấy rõ con đường luân hồi sanh tử của chúng sanh, nhân thế nào, quả thế nào đều biết rõ Phật mới dạy. Và Ngài cũng biết rõ nhân thế nào, quả thế nào trên con đường giải thoát, Ngài mới dạy. Như vậy, thấy rõ hai manh mối đó và kết quả của hai con đường đó, thấy rõ không nghi ngờ nữa đó tức là Phật. Vì vậy Tri kiến Phật là trí tuệ không dính mắc hai bên, mới thấy rõ lý luân hồi sanh tử và lý giải thoát sanh tử, không còn nghi ngờ mà đạt tới chỗ viên mãn, đó là Phật. Đến phẩm thứ mười hai là phẩm Đề bà đạt đa.
Quý vị nhớ bà Long nữ bao nhiêu tuổi? Người ta kêu nàng Long nữ, nhưng tôi kêu bà Long nữ, vì Phật nói kinh trên hai ngàn năm rồi, thì kêu bà gì mới vừa? Vì trong hội Pháp Hoa là nàng Long nữ tám tuổi, nay trên hai ngàn năm rồi thì kêu bà gì mới được? Tôi kêu bà cũng là chưa xứng đó. Bà Long nữ do ngài Văn-thù giáo hóa nhận ra Tri kiến Phật. Tri kiến Phật không có hai bên thì có mắc kẹt nam nữ hay không? Không mắc kẹt nam nữ, vì nam nữ là hai bên mà Tri kiến Phật là không kẹt hai bên (nam nữ). Than ôi! Gần đây người ta tu hành lại cầu chuyển nữ thành nam để tu hành tinh tấn giáo hóa chúng sanh, chớ mang thân nữ nghiệp chướng ê chề tu hành không tiến. Cứ nghĩ như thế thật là xa xôi quanh co. Ngay nơi Tri kiến Phật không có nam nữ, mình cứ sống với cái Tri kiến Phật đó. Không có nam nữ thật, chuyển nữ thành nam làm gì cho mất công. Bà Long nữ khi nhận ra Tri kiến Phật, Bồ-tát Trí Tích hỏi Bồ-tát Văn-thù, ngài Văn-thù giáo hóa ở Long cung có vị nào ngộ đạo chưa, ngài Văn-thù nói: có. Giây lát bà Long nữ xuất hiện, ngài Trí Tích và ngài Xá-lợi-phất nghi. Vì Phật nói người nữ có chín điều chướng tu hành không thành Phật. Thành Ma vương còn không được, huống nữa là thành Phật. Bà Long nữ mới tám tuổi, còn là con nít, trẻ con đã là tệ, lại là nữ nữa, cộng thêm là rồng, rồng tức là súc sanh. Ba thứ tệ như vậy, mà ngài Văn-thù nói đó là nguời đã ngộ đạo thì làm sao ngài Xá-lợi-phất tin nổi. Cho nên, ngài Xá-lợi-phất không tin, làm sao con người như vậy mà thành Phật, ngộ đạo tức sẽ thành Phật. Bà Long nữ biết hai Ngài không tin mình, nên đến trước Phật lấy hạt châu trong áo dâng lên Phật, Phật nhận để lên bàn, bà xoay lại hỏi hai ngài Trí Tích và Xá-lợi-phất:
- Các Ngài thấy Thế Tôn nhận hạt châu của tôi dâng, lâu hay là mau?
Ngài Xá-lợi-phất nói:
- Mau lắm!
Bà Long nữ nói:
- Tôi thành Phật cũng nhanh như vậy.
Liền đó thấy bà sang phương Nam ở nước Vô Cấu chuyển thân thành Bồ-tát, thành Phật liền. Nhờ cái gì mau thành Phật lắm vậy? Nhờ bà nhận ra Tri kiến Phật, là cái trí không mắc kẹt hai bên. Trí đó không nam không nữ nên không bị chướng, còn cái thân nghiệp chướng sâu dày của người nữ (tôi nói đây không phải chê) theo trong kinh nói là đứng trên nghiệp tướng mà nói, còn cái Tri kiến Phật là đứng trên Phật tánh mà nói hay trên Pháp thân mà nói. Nhìn trên Phật tánh hay Pháp thân thì không có nam nữ. Bởi không có hai làm gì có nam nữ, còn thấy nam thấy nữ, là nhìn ở trên nghiệp tướng tương đối. Nghiệp tướng là tương đối, là hư giả đâu có thật. Vậy tại sao mình khư khư chấp cái giả rồi khổ sở mong chuyển cái giả này qua cái giả kia, chi cho cực, phải vậy không? Biết rõ cái giả này giả rồi, thì cái giả nữ giả, cái giả nam cũng giả, ngay đó mình sống với cái thật không nam không nữ cho khỏe. Quí vị thấy rõ nhớ không thấy hai, là trí tuệ siêu thoát cái chấp tương đối. Trí tuệ đó là Tri kiến Phật, cho nên bà Long nữ thành Phật chỉ trong chớp mắt. Quí vị tu theo đường lối này cũng vậy. Làm sao thành Phật trong chớp mắt, khỏi chuyển nữ thành nam gì hết. Đó là kinh Pháp Hoa.
Đến kinh Duy-ma-cật.
Trong kinh Duy-ma-cật về phẩm “Bất Nhị Pháp Môn”, trong phẩm này có cả thảy ba mươi hai vị Bồ-tát giải thích về Pháp môn bất nhị. Tôi kể vị Bồ-tát thứ nhất là Bồ-tát Pháp Tự Tại giải thích về Pháp môn bất nhị như vầy: “Sanh diệt là hai, pháp xưa chẳng sanh nay chẳng diệt, được vô sanh pháp nhẫn, gọi là nhập Pháp môn bất nhị (vào pháp môn không hai).”
Sanh diệt là hai, đây là sanh, kia là diệt, thấy hai cái đó là hai bên, giờ cái sanh không thật sanh, cái diệt không thật diệt thì không hai, thấy được cái lẽ không hai đó là nhập, là được vô sanh pháp nhẫn, là nhập Pháp môn bất nhị.
Pháp môn bất nhị là không mắc kẹt hai bên. Không mắc kẹt hai bên là nhập Pháp môn bất nhị. Kế đó mỗi vị Bồ-tát đều trình bày từng cặp như vậy, tức là hai cái, nào là động tịnh v.v... cũng giống hệt như vậy, ở đây chúng tôi không kể. Cuối cùng ngài Văn-thù cũng trình bày về Pháp môn không hai, nghĩa là dùng ngôn ngữ để dẹp ngôn ngữ. Ngài Văn-thù trình bày xong, Ngài nói với ông Duy-ma-cật: “Chúng tôi đã trình bày về lý Pháp môn bất nhị xong, tới phiên nhân giả, nhân giả nên nói về Pháp môn bất nhị cho chúng tôi nghe.” Ngài Duy-ma-cật lên tòa ngồi kiết-già rồi làm thinh. Khi ông Duy-ma-cật lặng thinh thì ngài Văn-thù khen: “Hay thay, hay thay, cho đến không có văn tự ngữ ngôn, mới là chân thật nhập Pháp môn không hai.” Chân thật nhập Pháp môn bất nhị là không có ngôn ngữ. Tại sao vậy? Vì mở miệng là thành hai mất rồi, bởi vì ngôn ngữ luôn luôn lập trong đối đãi. Nói phải thì có quấy, nói có rồi có không, nói hơn thì có thua, nói đen rồi có trắng, nói tốt thì có xấu, luôn luôn như vậy, mở miệng là nằm trong cái hai. Vì vậy ngài Duy-ma-cật ngồi lặng thinh, được Bồ-tát Văn-thù khen. Đó là chỗ không còn ngôn ngữ, chỗ đó mới thật là nhập Pháp môn bất nhị. Tôi đã dẫn phần kinh rồi, bây giờ tới Thiền sư.
Trước là Tổ Tăng Xán. Tổ Tăng Xán là Tổ thứ ba ở Trung Hoa. Bài “Tín Tâm Minh” của Ngài tôi đọc vài đoạn cho quí vị nghe để thấy:
Chí đạo vô nan,
Duy hiềm giản trạch.
Đản mạc tắng ái,
Đỗng nhiên minh bạch.
Hào ly hữu sai,
Thiên địa huyển cách.
Đạo đắc hiện tiền,
Mạc tồn thuận nghịch.
Tôi chỉ dẫn hai đoạn thôi. Bốn câu trên Ngài nhấn mạnh hai chữ tắng ái. “Đản mạc tắng ái”, nghĩa là chỉ chớ yêu ghét thì “đỗng nhiên minh bạch” là rõ ràng sáng suốt. Tiếp theo “đạo đắc hiện tiền” nghĩa là muốn thấy cái chân thật hiện tiền (trước mắt), thì “mạc tồn thuận nghịch” là chớ còn thuận nghịch. Nếu còn thuận nghịch thì không có hiện tiền, nếu còn yêu ghét thì không thể rõ ràng minh bạch. Ngài chỉ cho chúng ta thấy người còn thấy hai, là còn ở trong cái kẹt. Tôi giải thích từ đầu:
“Chí đạo vô nan”: Chí đạo là cái đạo tột cùng, cái đạo đó không khó, mà tại sao khó? “Duy hiềm giản trạch”: Chỉ bởi mình giản trạch. Giản trạch là sao? Là chọn lựa, có một có hai, có tốt có xấu, có phải có quấy đó. Bởi giản trạch nên chí đạo trở thành nan, chớ chí đạo thì vô nan, vì giản trạch mà trở thành nan mất rồi. Như vậy, Ngài mới chỉ cái lỗi, bởi giản trạch nên mới có yêu ghét. Nếu dứt được yêu ghét thì rõ ràng minh bạch, chí đạo hiện tiền rõ ràng minh bạch, chớ không có gì hết. Sau đó Ngài bảo, nếu mình còn có một mảy may sai biệt, thì xa cách với đạo như trời với đất. Vậy muốn được thấy chí đạo hiện tiền, thì đừng còn thuận nghịch. Yêu ghét, thuận nghịch là những vế chỉ về hai; cái hai mà mất rồi, thì chí đạo hiện tiền; cái hai mà mất rồi, thì rõ ràng minh bạch không nghi ngờ nữa.
Đây Tổ Tăng Xán Ngài chỉ cho chúng ta rõ ràng, cái cứu kính thấy đạo phải rời cái chấp hai phải không?
Bây giờ đến Lục Tổ. Lục Tổ ngài dạy chúng ta sao? Đây trong phẩm “Phó Chúc”, ở kinh Pháp Bảo Đàn, Ngài nói: Nay tôi dạy các ông nói pháp chẳng mất bản tông, nếu người hỏi “có” đem “không” đối, hỏi “không” đem “có” đối, hỏi “phàm” lấy “Thánh” đối, hỏi “Thánh” lấy “phàm” đối. Như hỏi thế nào là có? Phải nói bởi không mà có. Hỏi thế nào là không? Bởi có thành không. Nói vậy là giải thích có và không là đối đãi, có và không nương nhau. Nhân cái không mà nói có, có không không có thật. Nếu thấy có không không thật thì phàm Thánh không thật, tốt xấu cũng không thật, hơn thua cũng không thật, phải quấy cũng không thật. Nhưng mà mình có chịu chấp nhận sống với phải quấy không thật đó không? hơn thua không thật không? Chắc không chịu, nếu chịu sống với cái không thật là Thánh mất rồi. Tại sợ làm Thánh buồn, nên ưng làm phàm, rồi chấp nhận phải quấy, cho nên gặp nhau thì ngồi nói chuyện phải quấy. Bởi muốn làm phàm cho nên chấp nhận hơn thua, tốt xấu, vì vậy gặp nhau thì nói chuyện hơn thua, tốt xấu, nói người này tốt người kia xấu, người này phải người kia quấy, người này hơn người kia thua, cái này hay cái nọ dở. Cứ như vậy nói hoài, nói không cùng, do đó làm phàm mãi không thôi. Bây giờ muốn làm Thánh thì sao? Chỉ lần bỏ hai cái đó, đừng nói phải nói quấy, đừng nói hơn nói thua, đừng nói tốt nói xấu v.v... những cái đó thấy đều không thật. Thấy không thật thì không chấp, mà không chấp thì phiền não từ đâu mà sanh, mà bỏ những cái đó dễ không? Người xưa đã nói: “Điểm thiết hóa thành kim ngọc dị, khuyến nhân trừ khước thị phi nan”, nghĩa là chỉ sắt biến thành vàng ngọc dễ, khuyên người dẹp bỏ phải quấy khó. Bỏ được phải quấy khó lắm.
Tại sao khó lắm vậy? Tại vì cái nghiệp chủng chúng sanh nó sâu dày quá phải không? Quí vị nhớ nói phải nói quấy, nói hơn nói thua, nói tốt nói xấu đều là cái nói của phàm phu. Cái chủng nghiệp phàm phu nó sâu quá nên ngồi lại thì cứ như vậy mà tiếp tục. Bây giờ bỏ hết những cái đó, dừng hết đừng thấy phải quấy thật, đừng thấy tốt xấu thật, đừng thấy hơn thua thật, đừng thấy có không thật v.v..., tất cả những cái hai bên mình không chấp nữa, đó là trí tuệ của Thánh nhân, là Tri kiến Phật, dễ hay khó? Bảo quí vị làm cái gì? Chỉ cần đừng mắc kẹt hai bên là Thánh mất rồi, tìm đâu cho xa. Đừng chấp như vậy là Thánh, cho nên người tu muốn thoát khỏi những cái phàm tục thì phải ứng dụng triệt để cái thấy không hai bên đó, phải thoát khỏi cái thấy hai bên. Nếu chúng ta thoát được cái thấy hai bên là chúng ta đã thoát ly được sanh tử, còn mắc kẹt trong cái hai bên, là chúng ta đi trong dòng sanh tử. Bởi vì không thấy hai bên là trí tuệ siêu sanh tử, gọi là Tri kiến Phật hay Phật tuệ, còn nếu thấy hai bên là trí tuệ của phàm phu là sanh tử.
Cho nên các Thiền sư ứng dụng triệt để lối phá chấp hai bên. Bây giờ tới Hòa thượng Thạch Đầu.
Có vị Tăng hỏi: Thế nào là giải thoát?
Ngài trả lời: Ai trói ngươi?
Hỏi: Thế nào là Tịnh Độ?
Ngài trả lời: Cái gì làm nhơ ngươi?
Hỏi: Thế nào là Niết-bàn?
Ngài trả lời: Ai đem sanh tử đến cho ngươi?
Như vậy ngài Thạch Đầu có trung thực với Lục Tổ dạy không? Ngài Thạch Đầu trả lời có mắc kẹt hai bên không? Hỏi giải thoát thì Ngài dùng triền phược tức trói buộc để đáp giải thoát, hỏi Tịnh độ thì Ngài dùng cái uế mà đáp, hỏi Niết-bàn thì Ngài dùng sanh tử mà đáp, phải vậy không? Như vậy để chúng ta thấy rằng, nếu sanh tử không thật thì Niết-bàn cũng không thật, tịnh không thật thì uế cũng không thật, giải thoát không thật thì triền phược cũng không thật. Hai cái đều là đối đãi tạm có không thật. Bởi không thật mà chấp tức là ngu si, vì chấp là thấy có thật. Cái gì mình chấp đều là do thấy nó thật, nếu thấy nó giả thì hết chấp. Quí vị xét thấy phải không? Thí dụ có người chửi mình là con chó, mà mình biết lời nói đó giả dối không thật, thì mình có giận không? Nếu họ nói mình là con chó, mình giận đùng đùng lên, là mình thấy lời nói đó có thật. Bởi thấy thật nên mới giận. Như vậy, thấy không thật thì mọi cái chấp hết. Cái chấp hết thì khổ đau mới hết hay không? Tu để thoát khổ đau, chấp là nguồn gốc của khổ đau. Tu là để giải thoát, mà chấp là cái triền phược không giải thoát nổi. Cho nên các Thiền sư ứng dụng triệt để lối phá chấp hai bên đó. Đó là ngài Thạch Đầu.
Đây tới ngài Mục Châu.
Thiền sư Mục Châu là Sư huynh của Tổ Lâm Tế.
Có vị Tăng hỏi: Lấy một lớp dẹp một lớp thì chẳng hỏi, khi chẳng lấy chẳng dẹp thì thế nào?
Ngài đáp: Hôm qua trồng cà, ngày nay trồng dưa.
Là thế nào? Nói lấy một lớp dẹp một lớp thì không hỏi, nghĩa là tôi không hỏi cái lấy cái dẹp, tôi không hỏi cái hai bên. Bây giờ chẳng lấy chẳng dẹp, tức bỏ cả cái hai bên thì lúc đó làm sao? Ngài nói: hôm qua trồng cà, hôm nay trồng dưa là sao? Nếu tôi nói ra thì hết đi tức là dành phần của quí vị hết rồi. Đó là hình ảnh của người xưa vậy.
Đến một hình ảnh nữa, là câu chuyện gần đây tôi kể cho quí vị nghe. Đó là chuyện ngài Sơ Sơn hỏi đạo ngài Qui Sơn. Ngài Sơ Sơn là một Thiền khách đến chỗ ngài Qui Sơn để hỏi đạo. Khi đến nơi, ngài Sơ Sơn thưa rằng:
- Con được nghe Hòa thượng nói: “Câu có câu không như bìm leo cây.” Bỗng dưng cây ngã bìm khô thì câu về chỗ nào?
Câu hỏi này giống như câu hỏi ở trên không? Giống hệt, bởi vì “câu có câu không như bìm leo cây”, tức là có và không Tổ Qui Sơn ý nói có không giống như cây và dây bìm. Dây bìm và cây là hai, phải vậy không? Nó nương nhau. Có và không cũng nương nhau là hai. Bây giờ, con không hỏi cái hai nữa; khi cây ngã bìm khô thì câu về chỗ nào? Là khi hết hai rồi thì lúc đó sao? Ngài Qui Sơn cười hả hả mà không nói thêm câu nào hết. Ngài Sơ Sơn thấy ngài Qui Sơn cười hả hả thì tức mình quá, thưa: Con từ bốn ngàn dặm mang khăn gói đến đây hỏi đạo, mà Hòa thượng đùa như vậy. Khi đó, ngài Qui Sơn kêu: Thị giả! Đem tiền hoàn lại cho Thượng tọa này. Thôi bây giờ tôi hoàn tiền lại, công ông đi xa đó. Rồi Ngài dặn: Sau sẽ có con rồng một mắt vì ông mà điểm phá.
Ngài Sơ Sơn từ giã ra đi. Ngài đi một thời gian lâu xa, đến một Thiền sư là ngài Huệ Chiêu. Huệ Chiêu là một Thiền sư có một con mắt. Khi đến ngài Huệ Chiêu, ngài Sơ Sơn đảnh lễ thưa hỏi. Ngài Huệ Chiêu hỏi:
- Ông từ đâu đến?
Ngài Sơ Sơn đáp:
- Từ Qui Sơn đến.
Ngài Huệ Chiêu hỏi:
- Có những gì ở Qui Sơn, kể lại nghe.
Ngài Sơ Sơn thuật lại, đến đó hỏi như vậy, Tổ Qui Sơn cười như vậy.
Ngài Huệ Chiêu nói:
- Qui Sơn đầu chánh, đuôi chánh, chỉ vì không gặp tri âm.
Ngài Sơ Sơn nghe, không hiểu gì hết, nên đặt câu hỏi lại với ngài Huệ Chiêu:
- Khi cây ngã bìm khô rồi câu về chỗ nào?
Ngài Huệ Chiêu liền nói:
- Nụ cười của Qui Sơn lại thêm tươi.
Ngay đó, ngài Sơ Sơn ngộ đạo. Khi ngộ đạo rồi, Ngài nói, nguyên lai trong tiếng cười của Qui Sơn có đao.
Ngang đó xong. Có một Thiền sư sau này là ngài Hoằng Trí làm bài tụng bốn câu:
Thọ đảo đằng khô vấn Qui Sơn,
Đại tiếu ha ha khởi đẳng nhàn.
Tiểu lý hữu đao huy đắc phá,
Ngôn tư vô lộ tuyệt cơ quan.
Tôi tạm dịch:
Bìm khô cây ngã hỏi Quy Sơn,
Ha hả cười to há rỗng trơn.
Đao sẵn trong cười xem được thấu,
Không đường bàn nghĩ bặt mối mang.
Đó là bài tụng. Qua bài tụng quí vị thấy Ngài nói gì? “Bìm khô cây ngã hỏi Qui Sơn”, là lập lại câu hỏi của ngài Sơ Sơn.
“Ha hả cười to há rỗng trơn”, cười ha hả đó không phải là cười suông đâu, nên nói:
“Đao sẵn trong cười xem được thấu”, là biết trong tiếng cười có đao là đã ngộ rồi, chừng đó mới thấy sao?
“Không đường bàn nghĩ bặt mối mang”, chỗ đó không có đường nói năng, suy nghĩ bặt hết, mọi mối mang, manh mối không còn. Quí vị thấy chỗ đó không?
Bây giờ, tôi có thể đổi lại câu nói rằng trong tiếng cười của Qui Sơn có đao, tôi nói trong nụ cười của Qui Sơn có cam lồ được không? Quí vị thấy được không? - Được. Tại sao nói đao, lại nói cam lồ mà được? Quí vị mới thấy, lý đạo sâu kín mà nó lại hiện tiền. Ngài Qui Sơn cười, đối với ngài Sơ Sơn lúc đó tưởng Ngài đùa với mình, khi mình đang khao khát, băn khoăn tới để hỏi đạo, mà hỏi rồi Ngài chỉ cười mà không nói một lời, không tức sao được, phải vậy không? Vì thế, Sơ Sơn nói: Con từ ngàn dặm mang khăn gói đến mà Hòa thượng đùa như vậy. Nhưng ngài Qui Sơn bình tĩnh nói thôi lấy tiền trả thù lao cho công ông đi xa, chớ không nói gì hết. Mặc Sơ Sơn tức tối, ngài Qui Sơn không nói thêm một câu. Như vậy, tiếng cười của ngài Qui Sơn cười để mà cười hay cười để làm gì? Như vậy cái cười của Qui Sơn và cái im lặng của Duy-ma-cật có giống nhau không? Tại sao cười và im lặng mà giống nhau? Nếu cái cười của Qui Sơn và cái im lặng của Duy-ma-cật giống, thì trong tiếng cười có đao hay trong tiếng cười có cam lồ cũng giống, phải vậy không? Mà thấy được như vậy đó là sao? Nếu thấy trong tiếng cười có đao, là người đó xem được thấu, còn nếu thấy trong tiếng cười có cam lồ thì xem cũng được thấu. Tại sao cười và im lặng mà giống? Câu chót của bài tụng: “Ngôn tư vô lộ tuyệt cơ quan.” Vì chỗ đó không còn hai bên rồi, đâu còn lời để nói, đâu còn chỗ để nghĩ, cho nên bặt hết mối mang. Chỗ bặt hết mối mang chỉ còn một tiếng cười, chỉ còn cái im lặng. Vì vậy hiểu được rồi, thấy cười, hoặc thấy im lặng, là thấy được chỗ cuối cùng đó. Còn nổi tức tối như ngài Sơ Sơn thì mang gói đi nữa.
Quí vị thấy cái chỗ tột cùng của người xưa muốn cho người ta thấy, mà không dùng lời. Vì dùng lời đã trật, nên Ngài chỉ cười thôi. Còn bên kia nói chỗ hai bên mà đã cuối cùng rồi thì chỉ còn im lặng thôi. Một bên thì im lặng, một bên thì cười, như vậy quí vị thấy, ngài Duy-ma-cật là Kinh, Tổ Qui Sơn là Thiền, hai bên có giống nhau không? Đâu có hai, phải vậy không? Như vậy, chúng ta mới thấy, Thiền là cốt tủy của Kinh, Kinh là nguồn gốc của Thiền, chớ không có gì lạ hết. Hiểu như vậy, chúng ta mới thấy, sự tu hành của chúng ta muốn đạt đạo, muốn đến chỗ không còn bị trầm luân sanh tử nữa thì phải làm sao? Đừng mắc kẹt ở hai bên. Cho nên các vị Thiền sư khi nói câu gì, hỏi cái gì thì luôn luôn gài Thiền khách bằng cái hai bên, hoặc là có, hoặc là không v.v... Nếu mình y đó mà trả lời hoặc bên này hoặc bên kia thì Ngài đưa hai ngón tay, để cho mình biết rõ rằng vừa còn kẹt bên này hay bên kia, là người chưa thấy đạo. Người thấy đạo là cười hoặc im lặng. Chỗ đó là chỗ thấy đạo đó, quí vị thấy chưa?
Đây là kết luận của tôi: Sang năm Giáp Tý này, tôi chúc quí vị được “nụ cười của Qui Sơn lại thêm tươi”. Đó là câu chúc đầu năm của tôi.
TÂM HẠNH NGƯỜI TU
Tất niên năm Giáp Tý - 1985
Đề tài tôi nói hôm nay là Tâm hạnh người tu. Đây là tôi muốn nhắm vào Tăng Ni tâm hạnh người tu như thế nào? Mục đích của chúng ta khi đi tu, cốt làm sao lợi ích cho mình, cho người, chớ không ai nghĩ rằng mình đi tu để làm trò cười cho nhân thế. Thế nên muốn trở thành người tu đứng đắn lợi mình, lợi người, thì cần phải hiểu rõ tâm hạnh của mình. Tâm là chỉ nội tâm, hạnh là chỉ hành động của thân; nội tâm và hoạt động của bản thân phải làm sao cho xứng đáng tư cách một người tu, để không hổ thẹn là đệ tử Phật. Nói đến tâm hạnh người tu, tôi không có dạy gì riêng mà chỉ dẫn những việc làm và những lời dạy của chư Tổ, của các vị Thiền sư để quí vị nhớ ứng dụng.
Đầu tiên tôi kể lại câu chuyện của ngài Ca-diếp, vị Tổ thứ nhất trong Thiền tông và cũng là một vị đệ tử lớn của đức Phật. Trong Thiền tông thường hay kể rằng ngài Ca-diếp được đức Phật truyền tâm ấn ba lần, nhưng chúng ta phần nhiều chỉ thấy có một lần. Hình ảnh thường được nhắc đến là trong hội Linh Sơn, khi đức Phật cầm cành hoa sen đưa lên, ngài Ca-diếp nhìn thấy mỉm cười, đức Phật mới truyền tâm ấn. Đó là điểm nổi bật, còn những hội khác thì chúng ta ít nhớ, ít biết.
Nay tôi kể lại câu chuyện ngài Ca-diếp đến yết kiến Phật tại tháp Đa Hòa. Một hôm đức Phật đang thuyết pháp cho một số thầy Tỳ-kheo nghe tại tháp Đa Hòa, ngài Ca-diếp từ xa về yết kiến Phật. Ngài tu theo hạnh đầu-đà nên mặc y phấn tảo - y do giẻ rách kết thành - và râu tóc xồm xoàm, hình tướng vừa dơ vừa xấu xí, nên các Tỳ-kheo có ý khinh bỉ Ngài. Đức Phật biết được tâm niệm chúng Tỳ-kheo, nên gọi: “Này Ca-diếp! Đến đây, ta nhường cho ông nửa tòa ngồi.” Phật lại bảo tiếp: “Này các Tỳ-kheo! Ta có Tam minh Lục thông, thì Ca-diếp cũng có như ta vậy...” Phật kể tất cả những pháp mà Phật có và kết luận: “Ca-diếp cũng có như ta vậy, vì thế ta mời Ca-diếp đến đây nhường nửa tòa cho ngồi.” Khi ấy ngài Ca-diếp quì trước đức Phật, Ngài bạch: “Bạch đức Thế Tôn, con là đệ tử, Thế Tôn là thầy, con không dám đến, xin Thế Tôn cho con được phép ngồi đây.”
Câu chuyện trên trích từ kinh A-hàm, trong hội đó đức Phật nhắm phá tâm ngã mạn của chúng Tỳ-kheo, nhưng trong nhà thiền thì thấy đức Phật đã ca tụng ngài Ca-diếp đầy đủ những pháp mà đức Phật có và xứng đáng được đức Phật nhường nửa tòa ngồi, như vậy không phải truyền tâm ấn là gì? Đó là lần truyền tâm ấn thứ hai.
Lần thứ ba ở đâu? Đó là khi đức Phật tịch, ngài Ca-diếp từ xa hay tin vội tìm về, đến nơi thì nhục thân đức Phật đã được tôn trí vào kim quan. Ngài Ca-diếp đến phía sau kim quan đảnh lễ, đức Phật duỗi chân ra, ngài Ca-diếp rờ chân Phật. Đó là chỗ thông cảm giữa thầy trò và sự thông cảm đó là truyền tâm ấn. Vì vậy nên các Thiền sư sau này theo thuật đó.
Như Thiền sư Thanh Nguyên ở Trung Hoa, Ngài sai đệ tử là Thạch Đầu Hi Thiên đem thơ cho ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng. Khi trở về ngài Thạch Đầu thưa: “Hòa thượng bảo con đem thơ xong, Hòa thượng sẽ cho con chiếc búa ở núi, xin Hòa thượng cho chiếc búa.” Ngài Thanh Nguyên duỗi một chân thẳng ra, ngài Thạch Đầu đảnh lễ, rồi về ở núi.
Ở Việt Nam, ngài Pháp Loa Tổ thứ hai trong Tam tổ Trúc Lâm, bệnh sắp tịch, ngài Huyền Quang đến hầu. Hai thầy trò vấn đáp xong, cuối cùng ngài Pháp Loa duỗi chân ra. Những người viết sử sau này không biết nói ngài Pháp Loa giận đá một cái, đó là điều lầm lẫn của những người không hiểu ý nghĩa Thiền, Ngài duỗi chân ra là Ngài chấp nhận ngài Huyền Quang đã thông cảm với Ngài, đó là một hình thức truyền tâm ấn. Hiểu như vậy chúng ta mới không lấy làm lạ. Một vị Tổ khi sắp tịch, giận đệ tử Ngài đá, thật hết sức vô lý. Hiểu chỗ này chúng ta mới thông cảm được đường lối truyền thừa của Thiền tông.
Câu chuyện ngài Ca-diếp mỉm cười khi đức Phật đưa cành hoa sen lên, có ý nghĩa gì? Về điểm này, tôi nhắc lại Thiền sư Phong Huyệt đời Tống, sau khi kiểm điểm sự tu hành của chúng, Ngài chưa được hài lòng nên khóc. Niệm Pháp Hoa( ) mới hỏi: “Tại sao Hòa thượng khóc?” Ngài Phong Huyệt nói: “Tông Lâm Tế đến ta e phải chìm mất, trong chúng đây không có người nào kế thừa được ta, ta buồn khóc.” Tỉnh Niệm thưa: “Hòa thượng thấy con thế nào?” Ngài Phong Huyệt nói: “Ngươi thì được, nhưng ngươi còn mê tụng Pháp Hoa quá.” Tỉnh Niệm thưa: “Việc đó không khó, Hòa thượng chỉ cho con biết yếu chỉ thì con sẽ buông.” Ngài Phong Huyệt hứa: “Như vậy sáng mai khi lên tòa, ta sẽ chỉ cho ngươi.” Khi ngài Phong Huyệt lên tòa, thuật lại việc đức Thế Tôn trong hội Linh Sơn, cầm cành hoa đưa lên rồi lấy mắt trong như hoa sen nhìn chúng, ngài Ca-diếp nhìn thấy liền mỉm cười, khi đó Tỉnh Niệm đứng dậy phủi áo đi, ngài Phong Huyệt cũng quăng gậy xuống tòa.
Ở Việt Nam đời Lê, Thiền sư Chân Nguyên đã làm mấy bài kệ nói về việc này. Bài thứ nhất là kệ “Giơ Cánh Hoa Lòng”, chữ lòng là dịch chữ Tâm.
Nhân duyên to lớn Phật ra đời,
Ca-diếp ấn truyền ngộ được thôi.
Cầm hoa cười mỉm còn nguyên đó,
Lá đẹp hương bay khắp đất trời.
Kinh Pháp Hoa nói đức Phật ra đời vì một đại sự nhân duyên, là chỉ cho chúng sanh Tri kiến Phật. Như vậy trong hội Linh Sơn chỉ ngài Ca-diếp là người được ấn truyền và được ngộ đạo ngay trong hội đó. Ấn truyền bằng cái gì? “Cầm hoa cười mỉm còn nguyên đó.” Đức Phật cầm cành hoa sen đưa lên, ngài Ca-diếp nhìn thấy chúm chím cười, là truyền ở chỗ đó, và từ đấy về sau “lá đẹp hương bay khắp đất trời”. Lá sen và hương sen bay khắp đất trời, từ Ấn Độ sang Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam...
Bài kệ thứ hai là “Mật Trao Đèn Lòng” tức thầm trao đèn tâm.
Một điểm đèn lòng mắt Phật sinh,
Tương truyền bốn mắt đối phân minh.
Nối hương tiếp lửa luôn luôn sáng,
Gieo khắp rừng thiền gởi hữu tình.
Một điểm đèn lòng mắt Phật sinh, là ngọn đèn tâm sáng, trao được tâm ấy là từ mắt Phật. Phật đưa mắt như hoa sen nhìn chúng, ngài Ca-diếp nhìn lên, giữa Phật và Ngài cảm thông được nhau, nên Phật mới truyền tâm ấn, vì thế nói “tương truyền bốn mắt đối phân minh”. Lối truyền này còn gọi là “Tứ mục tương cố”, nghĩa là bốn mắt nhìn nhau, đó là chỗ ngộ đạo. “Nối hương tiếp lửa luôn luôn sáng”, từ đấy về sau ngọn đèn đó nối tiếp sáng mãi không cùng. “Gieo khắp rừng thiền gởi hữu tình” nghĩa là gieo khắp trong rừng thiền và gởi tất cả chúng hữu tình ngọn đèn từ mắt Phật sanh ra. Thế nên trong nhà thiền khi nói chuyện với nhau, các Thiền sư hay nhìn thẳng, thử xem người đệ tử thấu được điều mình muốn nói không.
Tổ Đạt-ma nói chuyện với ngài Huệ Khả, Huệ Khả thưa: “Xin Hòa thượng dạy con pháp an tâm.” Tổ Đạt-ma nhìn thẳng vào mặt Ngài bảo: “Đem tâm ra ta an cho.” Huệ Khả bối rối thưa: “Con tìm tâm không được.” Tổ Đạt-ma nói: “Ta an tâm cho ngươi rồi!” Như vậy, chính cái nhìn là điều quan trọng. Hiểu như thế mới thấy lối truyền thừa của Thiền tông phần nhiều hay dùng cái thấy, cái nghe.
Trở lại câu chuyện của ngài Ca-diếp để phù hợp với đề mục tôi đã nêu về tâm hạnh người tu. Tâm hạnh của ngài Ca-diếp như thế nào? Về hạnh thì Ngài tu hạnh đầu-đà, tức là khổ hạnh, nhọc nhằn, thiếu thốn... còn tâm Ngài thì Phật có cái gì Ngài cũng có cái ấy, tức là những gì Phật truyền cho Ngài, Ngài đều thừa hưởng hết. Vì vậy mới gọi Ngài là vị Tổ thứ nhất kế thừa Phật.
Vậy chúng ta phải như thế nào? Về thân chúng ta phải nghèo, phải thiếu, nhưng về tâm chúng ta phải giàu, phải có hòn ngọc quí, chớ không thể người tu mà thân thì sang trọng còn trong lòng thì rỗng tuếch, như vậy là không hợp đạo lý, không xứng đáng tư cách người tu.
Đây là lời răn nhắc cũng là lời tự thuật của ngài Vĩnh Gia. Cùng Thích tử, khẩu xưng bần, người Thích tử là kẻ nghèo, luôn luôn thấy mình nghèo, miệng tự xưng nghèo, xưng Bần đạo hay Bần tăng, nhưng bần đó là bần cái gì? Thật thị thân bần đạo bất bần, bần tức thân thường phi lũ hạt, đạo tắc tâm tàng vô giá trân. Về thân thì mặc áo vá, nhưng về đạo thì chẳng nghèo. Trong tâm chứa được hạt châu vô giá. Như thế Ngài chỉ cho chúng ta thấy rõ bổn phận của người tu. Đến đây tôi nhắc lại chữ Tỳ-kheo dịch nghĩa chánh là khất sĩ, khất là ăn mày, khất sĩ là kẻ ăn mày. Kẻ ăn mày làm sao giàu được, nên mới nói “cùng Thích tử, khẩu xưng bần”. Như vậy đứng về thân, chúng ta phải nghèo, mặc áo vá, nhưng tâm có hạt châu vô giá. Ngài còn dặn thêm:
Tòng tha báng, nhậm tha phi,
Bả hỏa thiêu thiên đồ tự bì,
Ngã văn kháp tợ ẩm cam lộ,
Tiêu dung đốn nhập bất tư nghì.
Người ta chê hay phỉ báng, chúng ta cứ xem như họ cầm lửa đốt trời, hay nói cách khác là cầm lửa đốt hư không. Cầm lửa đốt hư không thì chừng nào cháy hư không? Chỉ một lúc rồi tự thấy nhọc và có thể cháy tới tay nữa. Như vậy là người tu, dầu cho bị người chê bai, phỉ báng, tâm chúng ta không dính mắc, rỗng rang tự tại thì chẳng khác nào người kia cầm lửa đốt hư không vậy. Trái lại, nếu tâm mình có dính mắc tức là có bổi thì lửa dễ cháy. Họ mắng mình, lúc đó trong lòng họ có ấm ấm chưa? Tức là có nổi lửa rồi; mình nổi sân lại, họ vừa có lửa nhúm lên, gặp bổi của mình, hai cái phát cháy. Còn nếu họ nhen lửa đưa vào hư không thì bao giờ hư không cháy? Thế nên nếu thật tâm người tu chúng ta rỗng rang tự tại thì mặc tình họ khen chê, mặc tình họ phỉ báng, chúng ta vẫn rỗng rang tự tại, người chê bai phỉ báng đó chẳng khác nào kẻ cầm lửa đốt hư không và tự họ khổ. “Ngã văn kháp tợ ẩm cam lộ”, ta nghe giống như uống nước cam lồ. “Tiêu dung đốn nhập bất tư nghì”, nó đều tiêu dung vào chỗ không thể nghĩ bàn. Nếu chúng ta tu được như vậy thì thật là đẹp biết mấy. Người tu khi bị chê, bị khinh miệt, tâm vẫn rỗng rang tự tại, nghe những lời chê bai đó giống như uống nước cam lồ, mát rượi ngọt ngào, tất cả lời chê bai khinh bỉ đều tiêu dung vào chỗ không thể nghĩ bàn, đó mới đúng là người tu chân chánh.
Nếu người tu nghe chê mà nổi giận, la lối thì chưa đúng là người tu. Vậy quí vị tự kiểm lại xem mình xứng đáng là người tu chưa, nếu chưa thì ráng nỗ lực.
Quán ác ngôn thị công đức,
Thử tắc thành ngô thiện tri thức,
Bất nhân san báng khởi oan thân,
Hà biểu vô sanh từ nhẫn lực?
Ngài bảo chúng ta phải quán xét lời nói ác là công đức. Tại sao? Nếu chúng ta thấy những lời nói ác của người là công đức thì họ trở thành thiện tri thức của ta. Vì sao? Vì người mắng chửi, nhưng tâm mình vẫn an nhiên tự tại, thì lời mắng chửi đó là một thử thách để lường xem đạo lực mình đến đâu. Nếu đạo lực đã vượt qua được điều đó, là mình đã thắng được cái sân, thắng được sân là đã thành công trên đường đạo. Như vậy chính lời mắng chửi là bằng chứng để nghiệm xem đạo đức của mình, và nếu đó là sự thử thách đạo lực của mình thì người mắng đâu không phải là thiện tri thức. Nếu không nhân lời chê bai mắng nhiếc mình khởi lên oán hay thân thì đâu có đủ tiêu biểu cho sức vô sanh từ nhẫn. Chúng ta là người tu thì lòng từ bi đức nhẫn nhục tiêu biểu cho đạo lực, cho sức tu hành của mình. Nếu trước mọi cảnh trái nghịch mà tâm không dấy khởi đó gọi là vô sanh từ nhẫn lực. Thế nên nói đến người tu là nói đến người chiến thắng lòng mình, chớ không phải chiến thắng kẻ bên ngoài. Nếu trước những khó khăn, những nhục nhã mình chống đối lại đối tượng bên ngoài thì đó chưa phải là tư cách của người tu. Trái lại những đối tượng xấu đến, tâm mình vẫn an nhiên tự tại thì đó là tiêu biểu cho sức từ nhẫn vô sanh, tư cách người tu là phải như thế. Nếu chúng ta nói rằng mình tu được nhiều thời khóa, nhưng gặp cảnh vẫn sân si thì thời khóa đó trở thành vô nghĩa.
Lại Thiền sư Chân Nguyên cũng nhắc chúng ta tương tự như thế. Tôi trích một đoạn trong bài “Thiền Tịch Phú”:
Sãi chưng nay,
Mộ đạo tu hành,
Xả đường kinh lịch.
Chí dốc nên Phật Tổ siêu thăng,
Lòng nguyện độ chúng sanh trầm nịch.
Đêm đông trường khi mật niệm, gióng tiếng chuông thánh thót lênh kênh,
Ngày hạ tiết lúc tụng kinh, nện dùi mõ khoan mau lịch kịch;
Chỉn chuộng một bề đạo đức, miệng chẳng hiềm ăn đắng ăn cay.
Vốn yêu hai chữ từ bi, thân nào quản mặc lành mặc rách ...
Trong bài phú Ngài tự xưng là Sãi. “Sãi chưng nay mộ đạo tu hành”, hôm nay sãi này vì lòng mộ đạo tu hành. “Xả đường kinh lịch” tức là xả bỏ hết những việc trải qua trước kia. “Chí dốc nên Phật Tổ siêu thăng” sự lập chí của Ngài là dốc làm Phật làm Tổ để siêu thăng giải thoát, đó là đứng về thượng cầu. Còn về hạ hóa thì “lòng nguyện độ chúng sanh trầm nịch”, lòng nguyện độ những chúng sanh đang chìm đắm trong sông mê bể khổ. Như vậy hai câu trên nói lên ý chí và lòng từ bi của người xuất gia, ý chí thì quyết định tu để thành Phật, thành Tổ, còn lòng từ bi thì tu để cứu độ chúng sanh đang chìm trong sông mê bể khổ. Đã có chí nguyện và lòng từ như vậy thì hằng ngày làm việc gì? “Đêm đông trường khi mật niệm, gióng tiếng chuông thánh thót lênh kênh”, nghĩa là đêm đông khuya lạnh thức dậy vừa mật niệm vừa đánh chuông. “Ngày hạ tiết lúc tụng kinh, nện dùi mõ khoan mau lịch kịch”, nghĩa là mùa hè trong lúc tụng kinh đánh mõ cộp cộp, đó là diễn tả bổn phận của người tu. Ngài lại giải thích tại sao mình phải chịu ăn chay ăn lạt, kham khổ. “Chỉn chuộng một bề đạo đức, miệng chẳng hiềm ăn đắng ăn cay”, vì chuộng quí đạo đức nên chẳng hiềm ăn món đắng, món cay, không chuộng thức ngon, không đòi thức quí. “Vốn yêu hai chữ từ bi, thân nào quản mặc lành mặc rách” bởi yêu hai chữ từ bi nên mặc lành rách đều được, không vì lý do mặc rách mà buồn tủi. Người xưa luôn luôn nhắc nhở chúng ta đã đi tu thì quyết làm Phật làm Tổ, chớ không phải đi tu để rồi hết ngày hết tháng, hết cả cuộc đời! Trên thì mình quyết định tiến đến thành Phật, thành Tổ, nhưng thành Phật, thành Tổ để làm gì? Để cứu độ chúng sanh đang trầm luân trong bể khổ. Đã có tinh thần đó thì tất cả những chuyện ăn mặc phải đơn sơ đạm bạc, như vậy mới hợp đạo đức, mới hợp với tinh thần giải thoát cao cả của chúng ta.
Thiền sư Tuyết Đậu Trùng Hiển ở Trung Hoa, nhắc chúng ta cái quí của mình. Trên đường tu, có nhiều người khi tu thì quyết chí, nhưng đạo lý không thâm nhập được, nên tuy nói tu mà chỉ chạy tìm cầu bên ngoài, quên cái chân thật bên trong của mình. Tôi trích một đoạn trong bài “Thể Châu Ca” của Ngài:
Bần tử y trung châu,
Bản tự viên minh hảo,
Bất hội tự tầm cầu,
Khước sổ tha trân bảo.
Sổ tha bảo, chung vô ích,
Chỉ thị giáo quân không phí lực,
Tranh như nhận thủ tự gia trân,
Giá trị huỳnh kim thiên vạn ức...
Dịch:
Kẻ nghèo áo có châu,
Vốn tự tròn sáng đẹp,
Chẳng biết tự tìm cầu,
Bèn vì người đếm báu.
Đếm báu người trọn vô ích,
Chỉ là khiến anh luống nhọc sức,
Đâu bằng nhận lấy của báu nhà,
Giá trị vàng ròng ngàn muôn ức...
“Bần tử y trung châu” là kẻ nghèo nhưng trong áo có hạt châu. Đó là ý “Hệ Châu” trong kinh Pháp Hoa. “Bản tự viên minh hảo”, hạt châu đó vốn tròn sáng đẹp. “Bất hội tự tầm cầu, khước sổ tha trân bảo” chẳng biết tự tìm cầu, trở lại đếm báu cho người, nghĩa là sẵn có hạt châu quí trong áo mà không chịu tìm, lấy ra xài, trái lại đi đếm của báu cho người, đó là điều lầm lẫn. Đếm của báu cho người là gì? Tức là khi chúng ta tu mà không nhận rõ Bản tâm mình, cứ nghĩ đến chuyện cầu Phật ở bên ngoài hay tụng kinh cho có phước nhiều v.v... đó chẳng khác nào đếm của báu cho người. Kinh Phật chủ yếu dạy chúng ta thấy rõ được cái chân thật nơi mình, như trong kinh thường dụ kinh là ngón tay chỉ mặt trăng, nhưng chúng ta lại không chịu nhận, cứ cho kinh là cứu kính, chẳng khác nào người đếm của báu cho kẻ khác.
“Sổ tha bảo, chung vô ích” nếu cứ đếm của báu cho người thì trọn không có ích gì! “Chỉ thị giáo quân không phí lực” chỉ là khiến anh luống nhọc sức. “Tranh như nhận thủ tự gia trân”, đâu bằng nhận lấy hạt châu quý của chính nhà mình. “Giá trị huỳnh kim thiên vạn ức”, hạt châu quí đó có giá trị ngàn vạn ức lượng vàng ròng. Như vậy ý Ngài chỉ cho chúng ta thấy rõ người tu cốt làm sao nhận nơi mình có hạt châu quí, tìm cho được, đó mới là giá trị trên tất cả. Nếu chúng ta quên nó để đi tìm cái gì khác, thì thật là uổng cho một đời tu. Tuy nhiên, Ngài chỉ cho chúng ta hạt châu quí nhưng nó còn nằm trong áo, chớ chưa phải nắm được trong tay. Đã là nằm trong áo, nếu chịu khó vạch, chịu khó mở thì sẽ được. Tóm lại, Ngài chỉ cho chúng ta biết chúng ta là kẻ nghèo, tuy nghèo nhưng trong áo có hạt châu quí chớ không phải kẻ nghèo hoàn toàn không có gì. Như vậy tất cả Thiền sư nhìn chúng ta đều thấy giống nhau, tức là tuy nghèo mà ai cũng có hạt châu quí, chớ không phải nghèo một cách tuyệt đối không có gì cả.
Thiền sư Sở Thạch đời Thanh, cũng nhắc tương tự nhưng có những điểm hơi khác hơn là vì chúng ta đa sự nên luôn luôn lầm lẫn không thấy được của báu chính mình:
Thị chư Thiền nhân
Đô duyên ngụy khước tự gia tâm,
Chỉ quản mang mang hướng ngoại tầm.
Bất thức thể kê hô tác phượng,
Hoàn tương huỳnh diệp nhận vi câm.
Cầu sư bạt thiệp sơn xuyên viễn,
Trục cảnh nhân tuần tuế nguyệt thâm.
Hữu vấn khước tu hướng y đạo:
Thùy gia thất lý một Quan Âm?
Dịch:
Dạy các thiền nhân
Duyên nhiều quên hết tự gia tâm,
Chỉ nhắm xa xôi bên ngoài tầm.
Chẳng biết gà bông mà gọi phụng,
Lại đem lá úa nhận là vàng.
Cầu thầy vượt núi trèo non khắp,
Theo cảnh trôi qua năm tháng thâm.
Có hỏi cần nên đến y đáp:
Nhà ai trong ấy chẳng Quan Âm?
“Đô duyên ngụy khước tự gia tâm”, đô duyên là nhiều duyên, nhiều duyên quá thì “ngụy khước tự gia tâm”, là quên mất tâm của nhà mình. Bởi vì nhiều duyên bên ngoài quá nên quên mất tâm của chính mình. “Chỉ quản mang mang hướng ngoại tầm”, chỉ một bề mờ mờ chạy ra ngoài tìm kiếm. Nay nghe nói Phật ở chỗ kia linh liền tới lễ bái, mai nghe nói vị Sư ở nơi khác có cái gì lạ, lại chạy tới tìm cầu, chớ không biết nhận ngay tâm mình. “Bất thức thể kê hô tác phượng”, không biết những con gà bông, những con gà đốm mà gọi là chim phượng. Đó là vì học đạo mà không biết được gốc nguồn, chỉ chạy ra ngoài tìm kiếm, nên chẳng khác người thấy con gà bông đẹp tưởng lầm là chim phượng. “Hoàn tương huỳnh diệp nhận vi câm”, lại đem lá vàng nhận cho là vàng, đây là trích dẫn trong kinh. Phật bảo: “Tất cả những gì Phật dạy cho các Tỳ-kheo, như là nắm lá vàng để dỗ con nít khóc”, ý nói rằng bà mẹ đi chợ, đứa con khóc đòi theo, bà mẹ không cho nó đi nhưng muốn dỗ nó nín, mới cầm một lá vàng trong tay nói: “đây mẹ cho con vàng, con đừng khóc nữa”, đứa nhỏ thấy tưởng là vàng thật nên nín khóc, nhưng mở tay ra thì chỉ là chiếc lá thôi. Tất cả những gì Phật dạy là những phương tiện để chỉ cái chân thật cho chúng ta, nhưng những phương tiện đó chúng ta lại tưởng là thật thì chẳng khác nào thấy lá vàng mà tưởng là vàng, đó là điều lầm lẫn. “Cầu sư bạt thiệp sơn xuyên viễn” nghĩa là chúng ta hướng ra ngoài nên nay chạy xứ này, mai chạy xứ kia tìm thầy, đi qua sông qua núi xa xôi, rốt cuộc rồi không đến đâu. “Trục cảnh nhân tuần tuế nguyệt thâm” là chạy theo cảnh theo người mà mất hết thời gian. “Hữu vấn khước tu hướng y đạo”, nếu người đó có hỏi thì nên nói với y rằng: “thùy gia thất lý một Quan Âm”, nhà ai trong ấy chẳng Quan Âm? Trong nhà nào cũng có đức Quan Âm. Nhà đó là nhà tứ đại. Nhà tứ đại ngũ uẩn nào cũng có đức Quan Âm cả.
Qua bài này, Ngài chủ ý dạy chúng ta muốn tu, đầu tiên phải bớt duyên, mới có thể nhận ra Bản tâm mình. Nếu nhiều duyên quá thì quên mất Bản tâm. Quên Bản tâm thì học đạo, cầu đạo chỉ một bề hướng ra ngoài tìm kiếm, như thế là lầm lẫn chẳng khác nào cho gà bông là chim phượng hay lá vàng là vàng thật vậy. Đã hướng ra ngoài tìm thì nghe đây nghe kia chạy tìm thầy, tìm người, rốt cuộc hết ngày, hết tháng, vẫn không thấy được cái chân thật. Thế nên với người đó phải nhắc họ rằng nhà nào cũng có Phật, đừng đi tìm ở đâu xa, đừng lang thang núi này núi nọ để tìm cầu, ngay trong nhà mình đã có đức Quan Âm rồi, nếu cứ tìm Quan Âm ở Phổ Đà Sơn hay ở núi nào khác thì quá xa. Như vậy người học đạo phải biết đạo không ở bên ngoài mà chính là cái sẵn có nơi chúng ta, phải thức tỉnh xoay trở lại chớ không rong ruổi tìm cầu bên ngoài mà được. Đó là những lời của người xưa nhắc nhở, là chỗ thiết yếu, nếu chúng ta cứ một bề rong ruổi theo bên ngoài, dù cho hết một đời cũng không bao giờ thấy đạo.
Sau cùng là một bài kệ trích trong “Cư Trần Lạc Đạo” của Sơ tổ Trúc Lâm, Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông:
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,
Cơ tắc san hề khốn tắc miên,
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.
Dịch:
Ở đời vui đạo hãy tùy duyên,
Đói đến thì ăn mệt ngủ liền,
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm,
Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền.
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên, cư là ở, trần là bụi bặm, lạc đạo là vui với đạo. Ở trong cảnh trần mà vui với đạo thì phải thế nào? Hãy tùy duyên. Tùy duyên bằng cách nào? Cơ tắc san hề khốn tắc miên là đói thì ăn, mệt thì ngủ. Tùy duyên là như thế. Tại sao? Bởi vì nếu chúng ta biết đạo thì đạo không phải là những gì xa xôi kỳ lạ, mà chính là cái chân thật sẵn có nơi mình, như chúng ta thấy qua lối truyền tâm của Phật cho Tổ Ca-diếp thì ngay trong cái thấy đã có đạo rồi. Nhận được đạo ngay đó thì tuỳ duyên đói ăn, mệt ngủ, chớ không thêm sự suy tính nghĩ lo gì nữa. Gia trung hữu bảo hưu tầm mích, là ngay trong nhà mình có hòn ngọc báu, đừng chạy tìm bên ngoài. Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền - câu cuối này tôi thích nhất - mắt thấy cảnh, tai nghe tiếng nhưng tâm mình không dính mắc vào cảnh, vào tiếng thì khi ấy đừng hỏi thiền làm gì. Vì đó là thiền rồi, đừng nghĩ rằng thiền là cái gì xa xôi kỳ lạ. Chúng ta từ trước đến nay cứ nghĩ thiền là phải làm sao ngồi cho tỏa hào quang, chớ không ngờ ngay nơi cảnh mà không dính mắc là thiền rồi và cũng chính khi ấy hạt châu của mình hiển lộ. Thế nên tu không phải là những dụng công nhọc nhằn, những cố gắng khổ sở, mà chính là cái khéo léo làm sao ở trong cõi đời điên đảo, tâm mình vẫn an lạc. Nếu tâm an lạc thì cảnh nào đến, chúng ta tùy đó ứng dụng chớ không đòi hỏi, không tìm kiếm.
Tóm lại, khi đối cảnh tâm không dính mắc đó là chúng ta đã tu thiền và cũng chính đó là hạt châu, là tâm mình hiện bày. Như vậy là hiểu đạo, là học đạo chớ đừng nghĩ rằng phải tìm cái gì xa xôi ở trên trời hay ngoài biển. Đạo chính là cái sẵn có nơi mình.
Trên tôi đã dẫn các vị Thiền sư từ Trung Hoa đến Việt Nam để nhắc nhở quí vị nhớ ứng dụng, nhưng câu chuyện mà tôi hằng nhớ, hằng nhắc nhiều nhất là chuyện Thiền sư Đạo Giai ở Phù Dung. Ngài tu hành đức hạnh cao nên được quan địa phương tâu về triều đình. Triều đình nhà Tống quý các vị đạo đức, nên nhà vua mới phong tước hiệu và ban tử y cho Ngài. Khi viên quan địa phương đem sắc lệnh phong tước hiệu và ban tử y đến, Ngài từ chối không nhận. Việc này được tâu lên triều đình, nhà vua ra lệnh bắt điều tra và đánh. Quan địa phương thấy một người tu đức hạnh mà bị đánh đập thì không nỡ, nhưng lệnh trên không dám trái, nên mời Ngài đến, viên quan nói: “Theo luật, người bệnh thì không bị điều tra, nay thấy Hòa thượng thân thể gầy ốm, có lẽ Hòa thượng bệnh chăng?” Nếu chúng ta, khi ấy nói thế nào? - “Chúng tôi bệnh vô kể v.v...” Tư cách của chúng ta hiện nay chắc là như vậy, nhưng ngài Đạo Giai thì không. Ngài nói: “Bần đạo thân tuy ốm, nhưng hiện nay không có bệnh.” Không có bệnh thì phải bị đánh, bị điều tra. Quý vị thấy người xưa thà chịu bị đánh, nhưng không nói dối, còn chúng ta hiện nay nhiều chuyện chưa quan trọng gì cả, đã nói dối trước rồi. Nghĩa là khi hỏi đến điều gì hơi mất giá trị, có thể tráo trở để cho giá trị mình được tăng, chớ không cho giảm. Như vậy để thấy tâm niệm tu hành của chúng ta còn non yếu, không cứng cỏi như người xưa. Đạo là chỗ chân thật, như trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật nói “trực tâm thị đạo tràng”, nghĩa là tâm ngay thẳng là đạo tràng. Tâm chúng ta hiện nay quanh co, làm sao lập đạo tràng được! Vì thế người tu phải gan, dám nói những lời chân thật, dù có những điều khổ đến với mình cũng không sợ, huống là những lời thật chỉ mất giá trị một ít thì sợ làm gì. Như vậy mới giữ cho giá trị đạo đức không mất, không tiêu hao. Chúng ta phải gìn thân, gìn khẩu cho xứng đáng là người tu. Thân phải nghèo, ăn đạm bạc, mặc rách rưới, ngôn ngữ thật thà, như vậy mới hợp với người tu. Nếu tu mà không thật thà cũng không được, sang quá cũng không được, ăn ngon quá cũng không được. Đó là những điều chúng ta phải nhớ.
Ngài Phù Dung nói: “Ngộ thanh, ngộ sắc như thạch thượng tài hoa; kiến lợi, kiến danh như nhãn trung trước tiết”, nghĩa là: “Gặp thanh gặp sắc như hoa trồng trên đá; thấy lợi, thấy danh như bụi rơi trong mắt.” Chúng ta được như thế chưa? Ngài nói để nhắc chúng ta thấy sắc đẹp, nghe âm thanh hay mà vẫn như hoa trồng trên đá. Hoa trồng trên đá không ra rễ nổi, nghĩa là không dính dáng gì tới mình hết. Còn thấy lợi thấy danh cũng như bụi rớt trong con mắt, xốn lắm! Chúng ta hiện nay con mắt mờ mờ, thấy lợi thấy danh thì sáng lên, chớ không phải như bụi rớt. Đó là tôi nhắc để tất cả quý vị thấy rõ trên đường tu, chúng ta phải đủ những tư cách như vầy:
- Một là phải biết rằng chúng ta là kẻ Bần tăng, là người nghèo, chớ không phải người giàu. Đã là người nghèo thì phải xử sự đúng tinh thần của người nghèo.
- Hai là chúng ta phải chấp nhận mọi sự khen chê, chúng ta đều thấy như uống nước cam lồ, chớ không phải thấy là cái khó, cái khổ.
- Ba là sự sống của chúng ta rất đạm bạc, ăn uống đơn sơ, mặc cũng đơn sơ.
- Bốn là dù gặp những trường hợp làm cho chúng ta bị mất chút ít uy tín, nhưng cần nói thẳng, nói thật, thì chúng ta cũng chấp nhận, chớ đừng dối trá làm mất tâm đạo đức của mình.
- Năm là ngay nơi chúng ta đã có hòn ngọc quý không phải tìm cầu ở đâu nữa. Chỉ cần khéo nhận ra để sử dụng.
- Sáu là Thiền không phải cái gì khác lạ mà chính là chỗ đối cảnh vô tâm. “Đối cảnh vô tâm” tức là Thiền chớ không phải cầu kiếm cái gì lạ nữa hết.
Tất niên năm Giáp Tý - 1985
Đề tài tôi nói hôm nay là Tâm hạnh người tu. Đây là tôi muốn nhắm vào Tăng Ni tâm hạnh người tu như thế nào? Mục đích của chúng ta khi đi tu, cốt làm sao lợi ích cho mình, cho người, chớ không ai nghĩ rằng mình đi tu để làm trò cười cho nhân thế. Thế nên muốn trở thành người tu đứng đắn lợi mình, lợi người, thì cần phải hiểu rõ tâm hạnh của mình. Tâm là chỉ nội tâm, hạnh là chỉ hành động của thân; nội tâm và hoạt động của bản thân phải làm sao cho xứng đáng tư cách một người tu, để không hổ thẹn là đệ tử Phật. Nói đến tâm hạnh người tu, tôi không có dạy gì riêng mà chỉ dẫn những việc làm và những lời dạy của chư Tổ, của các vị Thiền sư để quí vị nhớ ứng dụng.
Đầu tiên tôi kể lại câu chuyện của ngài Ca-diếp, vị Tổ thứ nhất trong Thiền tông và cũng là một vị đệ tử lớn của đức Phật. Trong Thiền tông thường hay kể rằng ngài Ca-diếp được đức Phật truyền tâm ấn ba lần, nhưng chúng ta phần nhiều chỉ thấy có một lần. Hình ảnh thường được nhắc đến là trong hội Linh Sơn, khi đức Phật cầm cành hoa sen đưa lên, ngài Ca-diếp nhìn thấy mỉm cười, đức Phật mới truyền tâm ấn. Đó là điểm nổi bật, còn những hội khác thì chúng ta ít nhớ, ít biết.
Nay tôi kể lại câu chuyện ngài Ca-diếp đến yết kiến Phật tại tháp Đa Hòa. Một hôm đức Phật đang thuyết pháp cho một số thầy Tỳ-kheo nghe tại tháp Đa Hòa, ngài Ca-diếp từ xa về yết kiến Phật. Ngài tu theo hạnh đầu-đà nên mặc y phấn tảo - y do giẻ rách kết thành - và râu tóc xồm xoàm, hình tướng vừa dơ vừa xấu xí, nên các Tỳ-kheo có ý khinh bỉ Ngài. Đức Phật biết được tâm niệm chúng Tỳ-kheo, nên gọi: “Này Ca-diếp! Đến đây, ta nhường cho ông nửa tòa ngồi.” Phật lại bảo tiếp: “Này các Tỳ-kheo! Ta có Tam minh Lục thông, thì Ca-diếp cũng có như ta vậy...” Phật kể tất cả những pháp mà Phật có và kết luận: “Ca-diếp cũng có như ta vậy, vì thế ta mời Ca-diếp đến đây nhường nửa tòa cho ngồi.” Khi ấy ngài Ca-diếp quì trước đức Phật, Ngài bạch: “Bạch đức Thế Tôn, con là đệ tử, Thế Tôn là thầy, con không dám đến, xin Thế Tôn cho con được phép ngồi đây.”
Câu chuyện trên trích từ kinh A-hàm, trong hội đó đức Phật nhắm phá tâm ngã mạn của chúng Tỳ-kheo, nhưng trong nhà thiền thì thấy đức Phật đã ca tụng ngài Ca-diếp đầy đủ những pháp mà đức Phật có và xứng đáng được đức Phật nhường nửa tòa ngồi, như vậy không phải truyền tâm ấn là gì? Đó là lần truyền tâm ấn thứ hai.
Lần thứ ba ở đâu? Đó là khi đức Phật tịch, ngài Ca-diếp từ xa hay tin vội tìm về, đến nơi thì nhục thân đức Phật đã được tôn trí vào kim quan. Ngài Ca-diếp đến phía sau kim quan đảnh lễ, đức Phật duỗi chân ra, ngài Ca-diếp rờ chân Phật. Đó là chỗ thông cảm giữa thầy trò và sự thông cảm đó là truyền tâm ấn. Vì vậy nên các Thiền sư sau này theo thuật đó.
Như Thiền sư Thanh Nguyên ở Trung Hoa, Ngài sai đệ tử là Thạch Đầu Hi Thiên đem thơ cho ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng. Khi trở về ngài Thạch Đầu thưa: “Hòa thượng bảo con đem thơ xong, Hòa thượng sẽ cho con chiếc búa ở núi, xin Hòa thượng cho chiếc búa.” Ngài Thanh Nguyên duỗi một chân thẳng ra, ngài Thạch Đầu đảnh lễ, rồi về ở núi.
Ở Việt Nam, ngài Pháp Loa Tổ thứ hai trong Tam tổ Trúc Lâm, bệnh sắp tịch, ngài Huyền Quang đến hầu. Hai thầy trò vấn đáp xong, cuối cùng ngài Pháp Loa duỗi chân ra. Những người viết sử sau này không biết nói ngài Pháp Loa giận đá một cái, đó là điều lầm lẫn của những người không hiểu ý nghĩa Thiền, Ngài duỗi chân ra là Ngài chấp nhận ngài Huyền Quang đã thông cảm với Ngài, đó là một hình thức truyền tâm ấn. Hiểu như vậy chúng ta mới không lấy làm lạ. Một vị Tổ khi sắp tịch, giận đệ tử Ngài đá, thật hết sức vô lý. Hiểu chỗ này chúng ta mới thông cảm được đường lối truyền thừa của Thiền tông.
Câu chuyện ngài Ca-diếp mỉm cười khi đức Phật đưa cành hoa sen lên, có ý nghĩa gì? Về điểm này, tôi nhắc lại Thiền sư Phong Huyệt đời Tống, sau khi kiểm điểm sự tu hành của chúng, Ngài chưa được hài lòng nên khóc. Niệm Pháp Hoa( ) mới hỏi: “Tại sao Hòa thượng khóc?” Ngài Phong Huyệt nói: “Tông Lâm Tế đến ta e phải chìm mất, trong chúng đây không có người nào kế thừa được ta, ta buồn khóc.” Tỉnh Niệm thưa: “Hòa thượng thấy con thế nào?” Ngài Phong Huyệt nói: “Ngươi thì được, nhưng ngươi còn mê tụng Pháp Hoa quá.” Tỉnh Niệm thưa: “Việc đó không khó, Hòa thượng chỉ cho con biết yếu chỉ thì con sẽ buông.” Ngài Phong Huyệt hứa: “Như vậy sáng mai khi lên tòa, ta sẽ chỉ cho ngươi.” Khi ngài Phong Huyệt lên tòa, thuật lại việc đức Thế Tôn trong hội Linh Sơn, cầm cành hoa đưa lên rồi lấy mắt trong như hoa sen nhìn chúng, ngài Ca-diếp nhìn thấy liền mỉm cười, khi đó Tỉnh Niệm đứng dậy phủi áo đi, ngài Phong Huyệt cũng quăng gậy xuống tòa.
Ở Việt Nam đời Lê, Thiền sư Chân Nguyên đã làm mấy bài kệ nói về việc này. Bài thứ nhất là kệ “Giơ Cánh Hoa Lòng”, chữ lòng là dịch chữ Tâm.
Nhân duyên to lớn Phật ra đời,
Ca-diếp ấn truyền ngộ được thôi.
Cầm hoa cười mỉm còn nguyên đó,
Lá đẹp hương bay khắp đất trời.
Kinh Pháp Hoa nói đức Phật ra đời vì một đại sự nhân duyên, là chỉ cho chúng sanh Tri kiến Phật. Như vậy trong hội Linh Sơn chỉ ngài Ca-diếp là người được ấn truyền và được ngộ đạo ngay trong hội đó. Ấn truyền bằng cái gì? “Cầm hoa cười mỉm còn nguyên đó.” Đức Phật cầm cành hoa sen đưa lên, ngài Ca-diếp nhìn thấy chúm chím cười, là truyền ở chỗ đó, và từ đấy về sau “lá đẹp hương bay khắp đất trời”. Lá sen và hương sen bay khắp đất trời, từ Ấn Độ sang Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam...
Bài kệ thứ hai là “Mật Trao Đèn Lòng” tức thầm trao đèn tâm.
Một điểm đèn lòng mắt Phật sinh,
Tương truyền bốn mắt đối phân minh.
Nối hương tiếp lửa luôn luôn sáng,
Gieo khắp rừng thiền gởi hữu tình.
Một điểm đèn lòng mắt Phật sinh, là ngọn đèn tâm sáng, trao được tâm ấy là từ mắt Phật. Phật đưa mắt như hoa sen nhìn chúng, ngài Ca-diếp nhìn lên, giữa Phật và Ngài cảm thông được nhau, nên Phật mới truyền tâm ấn, vì thế nói “tương truyền bốn mắt đối phân minh”. Lối truyền này còn gọi là “Tứ mục tương cố”, nghĩa là bốn mắt nhìn nhau, đó là chỗ ngộ đạo. “Nối hương tiếp lửa luôn luôn sáng”, từ đấy về sau ngọn đèn đó nối tiếp sáng mãi không cùng. “Gieo khắp rừng thiền gởi hữu tình” nghĩa là gieo khắp trong rừng thiền và gởi tất cả chúng hữu tình ngọn đèn từ mắt Phật sanh ra. Thế nên trong nhà thiền khi nói chuyện với nhau, các Thiền sư hay nhìn thẳng, thử xem người đệ tử thấu được điều mình muốn nói không.
Tổ Đạt-ma nói chuyện với ngài Huệ Khả, Huệ Khả thưa: “Xin Hòa thượng dạy con pháp an tâm.” Tổ Đạt-ma nhìn thẳng vào mặt Ngài bảo: “Đem tâm ra ta an cho.” Huệ Khả bối rối thưa: “Con tìm tâm không được.” Tổ Đạt-ma nói: “Ta an tâm cho ngươi rồi!” Như vậy, chính cái nhìn là điều quan trọng. Hiểu như thế mới thấy lối truyền thừa của Thiền tông phần nhiều hay dùng cái thấy, cái nghe.
Trở lại câu chuyện của ngài Ca-diếp để phù hợp với đề mục tôi đã nêu về tâm hạnh người tu. Tâm hạnh của ngài Ca-diếp như thế nào? Về hạnh thì Ngài tu hạnh đầu-đà, tức là khổ hạnh, nhọc nhằn, thiếu thốn... còn tâm Ngài thì Phật có cái gì Ngài cũng có cái ấy, tức là những gì Phật truyền cho Ngài, Ngài đều thừa hưởng hết. Vì vậy mới gọi Ngài là vị Tổ thứ nhất kế thừa Phật.
Vậy chúng ta phải như thế nào? Về thân chúng ta phải nghèo, phải thiếu, nhưng về tâm chúng ta phải giàu, phải có hòn ngọc quí, chớ không thể người tu mà thân thì sang trọng còn trong lòng thì rỗng tuếch, như vậy là không hợp đạo lý, không xứng đáng tư cách người tu.
Đây là lời răn nhắc cũng là lời tự thuật của ngài Vĩnh Gia. Cùng Thích tử, khẩu xưng bần, người Thích tử là kẻ nghèo, luôn luôn thấy mình nghèo, miệng tự xưng nghèo, xưng Bần đạo hay Bần tăng, nhưng bần đó là bần cái gì? Thật thị thân bần đạo bất bần, bần tức thân thường phi lũ hạt, đạo tắc tâm tàng vô giá trân. Về thân thì mặc áo vá, nhưng về đạo thì chẳng nghèo. Trong tâm chứa được hạt châu vô giá. Như thế Ngài chỉ cho chúng ta thấy rõ bổn phận của người tu. Đến đây tôi nhắc lại chữ Tỳ-kheo dịch nghĩa chánh là khất sĩ, khất là ăn mày, khất sĩ là kẻ ăn mày. Kẻ ăn mày làm sao giàu được, nên mới nói “cùng Thích tử, khẩu xưng bần”. Như vậy đứng về thân, chúng ta phải nghèo, mặc áo vá, nhưng tâm có hạt châu vô giá. Ngài còn dặn thêm:
Tòng tha báng, nhậm tha phi,
Bả hỏa thiêu thiên đồ tự bì,
Ngã văn kháp tợ ẩm cam lộ,
Tiêu dung đốn nhập bất tư nghì.
Người ta chê hay phỉ báng, chúng ta cứ xem như họ cầm lửa đốt trời, hay nói cách khác là cầm lửa đốt hư không. Cầm lửa đốt hư không thì chừng nào cháy hư không? Chỉ một lúc rồi tự thấy nhọc và có thể cháy tới tay nữa. Như vậy là người tu, dầu cho bị người chê bai, phỉ báng, tâm chúng ta không dính mắc, rỗng rang tự tại thì chẳng khác nào người kia cầm lửa đốt hư không vậy. Trái lại, nếu tâm mình có dính mắc tức là có bổi thì lửa dễ cháy. Họ mắng mình, lúc đó trong lòng họ có ấm ấm chưa? Tức là có nổi lửa rồi; mình nổi sân lại, họ vừa có lửa nhúm lên, gặp bổi của mình, hai cái phát cháy. Còn nếu họ nhen lửa đưa vào hư không thì bao giờ hư không cháy? Thế nên nếu thật tâm người tu chúng ta rỗng rang tự tại thì mặc tình họ khen chê, mặc tình họ phỉ báng, chúng ta vẫn rỗng rang tự tại, người chê bai phỉ báng đó chẳng khác nào kẻ cầm lửa đốt hư không và tự họ khổ. “Ngã văn kháp tợ ẩm cam lộ”, ta nghe giống như uống nước cam lồ. “Tiêu dung đốn nhập bất tư nghì”, nó đều tiêu dung vào chỗ không thể nghĩ bàn. Nếu chúng ta tu được như vậy thì thật là đẹp biết mấy. Người tu khi bị chê, bị khinh miệt, tâm vẫn rỗng rang tự tại, nghe những lời chê bai đó giống như uống nước cam lồ, mát rượi ngọt ngào, tất cả lời chê bai khinh bỉ đều tiêu dung vào chỗ không thể nghĩ bàn, đó mới đúng là người tu chân chánh.
Nếu người tu nghe chê mà nổi giận, la lối thì chưa đúng là người tu. Vậy quí vị tự kiểm lại xem mình xứng đáng là người tu chưa, nếu chưa thì ráng nỗ lực.
Quán ác ngôn thị công đức,
Thử tắc thành ngô thiện tri thức,
Bất nhân san báng khởi oan thân,
Hà biểu vô sanh từ nhẫn lực?
Ngài bảo chúng ta phải quán xét lời nói ác là công đức. Tại sao? Nếu chúng ta thấy những lời nói ác của người là công đức thì họ trở thành thiện tri thức của ta. Vì sao? Vì người mắng chửi, nhưng tâm mình vẫn an nhiên tự tại, thì lời mắng chửi đó là một thử thách để lường xem đạo lực mình đến đâu. Nếu đạo lực đã vượt qua được điều đó, là mình đã thắng được cái sân, thắng được sân là đã thành công trên đường đạo. Như vậy chính lời mắng chửi là bằng chứng để nghiệm xem đạo đức của mình, và nếu đó là sự thử thách đạo lực của mình thì người mắng đâu không phải là thiện tri thức. Nếu không nhân lời chê bai mắng nhiếc mình khởi lên oán hay thân thì đâu có đủ tiêu biểu cho sức vô sanh từ nhẫn. Chúng ta là người tu thì lòng từ bi đức nhẫn nhục tiêu biểu cho đạo lực, cho sức tu hành của mình. Nếu trước mọi cảnh trái nghịch mà tâm không dấy khởi đó gọi là vô sanh từ nhẫn lực. Thế nên nói đến người tu là nói đến người chiến thắng lòng mình, chớ không phải chiến thắng kẻ bên ngoài. Nếu trước những khó khăn, những nhục nhã mình chống đối lại đối tượng bên ngoài thì đó chưa phải là tư cách của người tu. Trái lại những đối tượng xấu đến, tâm mình vẫn an nhiên tự tại thì đó là tiêu biểu cho sức từ nhẫn vô sanh, tư cách người tu là phải như thế. Nếu chúng ta nói rằng mình tu được nhiều thời khóa, nhưng gặp cảnh vẫn sân si thì thời khóa đó trở thành vô nghĩa.
Lại Thiền sư Chân Nguyên cũng nhắc chúng ta tương tự như thế. Tôi trích một đoạn trong bài “Thiền Tịch Phú”:
Sãi chưng nay,
Mộ đạo tu hành,
Xả đường kinh lịch.
Chí dốc nên Phật Tổ siêu thăng,
Lòng nguyện độ chúng sanh trầm nịch.
Đêm đông trường khi mật niệm, gióng tiếng chuông thánh thót lênh kênh,
Ngày hạ tiết lúc tụng kinh, nện dùi mõ khoan mau lịch kịch;
Chỉn chuộng một bề đạo đức, miệng chẳng hiềm ăn đắng ăn cay.
Vốn yêu hai chữ từ bi, thân nào quản mặc lành mặc rách ...
Trong bài phú Ngài tự xưng là Sãi. “Sãi chưng nay mộ đạo tu hành”, hôm nay sãi này vì lòng mộ đạo tu hành. “Xả đường kinh lịch” tức là xả bỏ hết những việc trải qua trước kia. “Chí dốc nên Phật Tổ siêu thăng” sự lập chí của Ngài là dốc làm Phật làm Tổ để siêu thăng giải thoát, đó là đứng về thượng cầu. Còn về hạ hóa thì “lòng nguyện độ chúng sanh trầm nịch”, lòng nguyện độ những chúng sanh đang chìm đắm trong sông mê bể khổ. Như vậy hai câu trên nói lên ý chí và lòng từ bi của người xuất gia, ý chí thì quyết định tu để thành Phật, thành Tổ, còn lòng từ bi thì tu để cứu độ chúng sanh đang chìm trong sông mê bể khổ. Đã có chí nguyện và lòng từ như vậy thì hằng ngày làm việc gì? “Đêm đông trường khi mật niệm, gióng tiếng chuông thánh thót lênh kênh”, nghĩa là đêm đông khuya lạnh thức dậy vừa mật niệm vừa đánh chuông. “Ngày hạ tiết lúc tụng kinh, nện dùi mõ khoan mau lịch kịch”, nghĩa là mùa hè trong lúc tụng kinh đánh mõ cộp cộp, đó là diễn tả bổn phận của người tu. Ngài lại giải thích tại sao mình phải chịu ăn chay ăn lạt, kham khổ. “Chỉn chuộng một bề đạo đức, miệng chẳng hiềm ăn đắng ăn cay”, vì chuộng quí đạo đức nên chẳng hiềm ăn món đắng, món cay, không chuộng thức ngon, không đòi thức quí. “Vốn yêu hai chữ từ bi, thân nào quản mặc lành mặc rách” bởi yêu hai chữ từ bi nên mặc lành rách đều được, không vì lý do mặc rách mà buồn tủi. Người xưa luôn luôn nhắc nhở chúng ta đã đi tu thì quyết làm Phật làm Tổ, chớ không phải đi tu để rồi hết ngày hết tháng, hết cả cuộc đời! Trên thì mình quyết định tiến đến thành Phật, thành Tổ, nhưng thành Phật, thành Tổ để làm gì? Để cứu độ chúng sanh đang trầm luân trong bể khổ. Đã có tinh thần đó thì tất cả những chuyện ăn mặc phải đơn sơ đạm bạc, như vậy mới hợp đạo đức, mới hợp với tinh thần giải thoát cao cả của chúng ta.
Thiền sư Tuyết Đậu Trùng Hiển ở Trung Hoa, nhắc chúng ta cái quí của mình. Trên đường tu, có nhiều người khi tu thì quyết chí, nhưng đạo lý không thâm nhập được, nên tuy nói tu mà chỉ chạy tìm cầu bên ngoài, quên cái chân thật bên trong của mình. Tôi trích một đoạn trong bài “Thể Châu Ca” của Ngài:
Bần tử y trung châu,
Bản tự viên minh hảo,
Bất hội tự tầm cầu,
Khước sổ tha trân bảo.
Sổ tha bảo, chung vô ích,
Chỉ thị giáo quân không phí lực,
Tranh như nhận thủ tự gia trân,
Giá trị huỳnh kim thiên vạn ức...
Dịch:
Kẻ nghèo áo có châu,
Vốn tự tròn sáng đẹp,
Chẳng biết tự tìm cầu,
Bèn vì người đếm báu.
Đếm báu người trọn vô ích,
Chỉ là khiến anh luống nhọc sức,
Đâu bằng nhận lấy của báu nhà,
Giá trị vàng ròng ngàn muôn ức...
“Bần tử y trung châu” là kẻ nghèo nhưng trong áo có hạt châu. Đó là ý “Hệ Châu” trong kinh Pháp Hoa. “Bản tự viên minh hảo”, hạt châu đó vốn tròn sáng đẹp. “Bất hội tự tầm cầu, khước sổ tha trân bảo” chẳng biết tự tìm cầu, trở lại đếm báu cho người, nghĩa là sẵn có hạt châu quí trong áo mà không chịu tìm, lấy ra xài, trái lại đi đếm của báu cho người, đó là điều lầm lẫn. Đếm của báu cho người là gì? Tức là khi chúng ta tu mà không nhận rõ Bản tâm mình, cứ nghĩ đến chuyện cầu Phật ở bên ngoài hay tụng kinh cho có phước nhiều v.v... đó chẳng khác nào đếm của báu cho người. Kinh Phật chủ yếu dạy chúng ta thấy rõ được cái chân thật nơi mình, như trong kinh thường dụ kinh là ngón tay chỉ mặt trăng, nhưng chúng ta lại không chịu nhận, cứ cho kinh là cứu kính, chẳng khác nào người đếm của báu cho kẻ khác.
“Sổ tha bảo, chung vô ích” nếu cứ đếm của báu cho người thì trọn không có ích gì! “Chỉ thị giáo quân không phí lực” chỉ là khiến anh luống nhọc sức. “Tranh như nhận thủ tự gia trân”, đâu bằng nhận lấy hạt châu quý của chính nhà mình. “Giá trị huỳnh kim thiên vạn ức”, hạt châu quí đó có giá trị ngàn vạn ức lượng vàng ròng. Như vậy ý Ngài chỉ cho chúng ta thấy rõ người tu cốt làm sao nhận nơi mình có hạt châu quí, tìm cho được, đó mới là giá trị trên tất cả. Nếu chúng ta quên nó để đi tìm cái gì khác, thì thật là uổng cho một đời tu. Tuy nhiên, Ngài chỉ cho chúng ta hạt châu quí nhưng nó còn nằm trong áo, chớ chưa phải nắm được trong tay. Đã là nằm trong áo, nếu chịu khó vạch, chịu khó mở thì sẽ được. Tóm lại, Ngài chỉ cho chúng ta biết chúng ta là kẻ nghèo, tuy nghèo nhưng trong áo có hạt châu quí chớ không phải kẻ nghèo hoàn toàn không có gì. Như vậy tất cả Thiền sư nhìn chúng ta đều thấy giống nhau, tức là tuy nghèo mà ai cũng có hạt châu quí, chớ không phải nghèo một cách tuyệt đối không có gì cả.
Thiền sư Sở Thạch đời Thanh, cũng nhắc tương tự nhưng có những điểm hơi khác hơn là vì chúng ta đa sự nên luôn luôn lầm lẫn không thấy được của báu chính mình:
Thị chư Thiền nhân
Đô duyên ngụy khước tự gia tâm,
Chỉ quản mang mang hướng ngoại tầm.
Bất thức thể kê hô tác phượng,
Hoàn tương huỳnh diệp nhận vi câm.
Cầu sư bạt thiệp sơn xuyên viễn,
Trục cảnh nhân tuần tuế nguyệt thâm.
Hữu vấn khước tu hướng y đạo:
Thùy gia thất lý một Quan Âm?
Dịch:
Dạy các thiền nhân
Duyên nhiều quên hết tự gia tâm,
Chỉ nhắm xa xôi bên ngoài tầm.
Chẳng biết gà bông mà gọi phụng,
Lại đem lá úa nhận là vàng.
Cầu thầy vượt núi trèo non khắp,
Theo cảnh trôi qua năm tháng thâm.
Có hỏi cần nên đến y đáp:
Nhà ai trong ấy chẳng Quan Âm?
“Đô duyên ngụy khước tự gia tâm”, đô duyên là nhiều duyên, nhiều duyên quá thì “ngụy khước tự gia tâm”, là quên mất tâm của nhà mình. Bởi vì nhiều duyên bên ngoài quá nên quên mất tâm của chính mình. “Chỉ quản mang mang hướng ngoại tầm”, chỉ một bề mờ mờ chạy ra ngoài tìm kiếm. Nay nghe nói Phật ở chỗ kia linh liền tới lễ bái, mai nghe nói vị Sư ở nơi khác có cái gì lạ, lại chạy tới tìm cầu, chớ không biết nhận ngay tâm mình. “Bất thức thể kê hô tác phượng”, không biết những con gà bông, những con gà đốm mà gọi là chim phượng. Đó là vì học đạo mà không biết được gốc nguồn, chỉ chạy ra ngoài tìm kiếm, nên chẳng khác người thấy con gà bông đẹp tưởng lầm là chim phượng. “Hoàn tương huỳnh diệp nhận vi câm”, lại đem lá vàng nhận cho là vàng, đây là trích dẫn trong kinh. Phật bảo: “Tất cả những gì Phật dạy cho các Tỳ-kheo, như là nắm lá vàng để dỗ con nít khóc”, ý nói rằng bà mẹ đi chợ, đứa con khóc đòi theo, bà mẹ không cho nó đi nhưng muốn dỗ nó nín, mới cầm một lá vàng trong tay nói: “đây mẹ cho con vàng, con đừng khóc nữa”, đứa nhỏ thấy tưởng là vàng thật nên nín khóc, nhưng mở tay ra thì chỉ là chiếc lá thôi. Tất cả những gì Phật dạy là những phương tiện để chỉ cái chân thật cho chúng ta, nhưng những phương tiện đó chúng ta lại tưởng là thật thì chẳng khác nào thấy lá vàng mà tưởng là vàng, đó là điều lầm lẫn. “Cầu sư bạt thiệp sơn xuyên viễn” nghĩa là chúng ta hướng ra ngoài nên nay chạy xứ này, mai chạy xứ kia tìm thầy, đi qua sông qua núi xa xôi, rốt cuộc rồi không đến đâu. “Trục cảnh nhân tuần tuế nguyệt thâm” là chạy theo cảnh theo người mà mất hết thời gian. “Hữu vấn khước tu hướng y đạo”, nếu người đó có hỏi thì nên nói với y rằng: “thùy gia thất lý một Quan Âm”, nhà ai trong ấy chẳng Quan Âm? Trong nhà nào cũng có đức Quan Âm. Nhà đó là nhà tứ đại. Nhà tứ đại ngũ uẩn nào cũng có đức Quan Âm cả.
Qua bài này, Ngài chủ ý dạy chúng ta muốn tu, đầu tiên phải bớt duyên, mới có thể nhận ra Bản tâm mình. Nếu nhiều duyên quá thì quên mất Bản tâm. Quên Bản tâm thì học đạo, cầu đạo chỉ một bề hướng ra ngoài tìm kiếm, như thế là lầm lẫn chẳng khác nào cho gà bông là chim phượng hay lá vàng là vàng thật vậy. Đã hướng ra ngoài tìm thì nghe đây nghe kia chạy tìm thầy, tìm người, rốt cuộc hết ngày, hết tháng, vẫn không thấy được cái chân thật. Thế nên với người đó phải nhắc họ rằng nhà nào cũng có Phật, đừng đi tìm ở đâu xa, đừng lang thang núi này núi nọ để tìm cầu, ngay trong nhà mình đã có đức Quan Âm rồi, nếu cứ tìm Quan Âm ở Phổ Đà Sơn hay ở núi nào khác thì quá xa. Như vậy người học đạo phải biết đạo không ở bên ngoài mà chính là cái sẵn có nơi chúng ta, phải thức tỉnh xoay trở lại chớ không rong ruổi tìm cầu bên ngoài mà được. Đó là những lời của người xưa nhắc nhở, là chỗ thiết yếu, nếu chúng ta cứ một bề rong ruổi theo bên ngoài, dù cho hết một đời cũng không bao giờ thấy đạo.
Sau cùng là một bài kệ trích trong “Cư Trần Lạc Đạo” của Sơ tổ Trúc Lâm, Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông:
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,
Cơ tắc san hề khốn tắc miên,
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.
Dịch:
Ở đời vui đạo hãy tùy duyên,
Đói đến thì ăn mệt ngủ liền,
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm,
Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền.
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên, cư là ở, trần là bụi bặm, lạc đạo là vui với đạo. Ở trong cảnh trần mà vui với đạo thì phải thế nào? Hãy tùy duyên. Tùy duyên bằng cách nào? Cơ tắc san hề khốn tắc miên là đói thì ăn, mệt thì ngủ. Tùy duyên là như thế. Tại sao? Bởi vì nếu chúng ta biết đạo thì đạo không phải là những gì xa xôi kỳ lạ, mà chính là cái chân thật sẵn có nơi mình, như chúng ta thấy qua lối truyền tâm của Phật cho Tổ Ca-diếp thì ngay trong cái thấy đã có đạo rồi. Nhận được đạo ngay đó thì tuỳ duyên đói ăn, mệt ngủ, chớ không thêm sự suy tính nghĩ lo gì nữa. Gia trung hữu bảo hưu tầm mích, là ngay trong nhà mình có hòn ngọc báu, đừng chạy tìm bên ngoài. Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền - câu cuối này tôi thích nhất - mắt thấy cảnh, tai nghe tiếng nhưng tâm mình không dính mắc vào cảnh, vào tiếng thì khi ấy đừng hỏi thiền làm gì. Vì đó là thiền rồi, đừng nghĩ rằng thiền là cái gì xa xôi kỳ lạ. Chúng ta từ trước đến nay cứ nghĩ thiền là phải làm sao ngồi cho tỏa hào quang, chớ không ngờ ngay nơi cảnh mà không dính mắc là thiền rồi và cũng chính khi ấy hạt châu của mình hiển lộ. Thế nên tu không phải là những dụng công nhọc nhằn, những cố gắng khổ sở, mà chính là cái khéo léo làm sao ở trong cõi đời điên đảo, tâm mình vẫn an lạc. Nếu tâm an lạc thì cảnh nào đến, chúng ta tùy đó ứng dụng chớ không đòi hỏi, không tìm kiếm.
Tóm lại, khi đối cảnh tâm không dính mắc đó là chúng ta đã tu thiền và cũng chính đó là hạt châu, là tâm mình hiện bày. Như vậy là hiểu đạo, là học đạo chớ đừng nghĩ rằng phải tìm cái gì xa xôi ở trên trời hay ngoài biển. Đạo chính là cái sẵn có nơi mình.
Trên tôi đã dẫn các vị Thiền sư từ Trung Hoa đến Việt Nam để nhắc nhở quí vị nhớ ứng dụng, nhưng câu chuyện mà tôi hằng nhớ, hằng nhắc nhiều nhất là chuyện Thiền sư Đạo Giai ở Phù Dung. Ngài tu hành đức hạnh cao nên được quan địa phương tâu về triều đình. Triều đình nhà Tống quý các vị đạo đức, nên nhà vua mới phong tước hiệu và ban tử y cho Ngài. Khi viên quan địa phương đem sắc lệnh phong tước hiệu và ban tử y đến, Ngài từ chối không nhận. Việc này được tâu lên triều đình, nhà vua ra lệnh bắt điều tra và đánh. Quan địa phương thấy một người tu đức hạnh mà bị đánh đập thì không nỡ, nhưng lệnh trên không dám trái, nên mời Ngài đến, viên quan nói: “Theo luật, người bệnh thì không bị điều tra, nay thấy Hòa thượng thân thể gầy ốm, có lẽ Hòa thượng bệnh chăng?” Nếu chúng ta, khi ấy nói thế nào? - “Chúng tôi bệnh vô kể v.v...” Tư cách của chúng ta hiện nay chắc là như vậy, nhưng ngài Đạo Giai thì không. Ngài nói: “Bần đạo thân tuy ốm, nhưng hiện nay không có bệnh.” Không có bệnh thì phải bị đánh, bị điều tra. Quý vị thấy người xưa thà chịu bị đánh, nhưng không nói dối, còn chúng ta hiện nay nhiều chuyện chưa quan trọng gì cả, đã nói dối trước rồi. Nghĩa là khi hỏi đến điều gì hơi mất giá trị, có thể tráo trở để cho giá trị mình được tăng, chớ không cho giảm. Như vậy để thấy tâm niệm tu hành của chúng ta còn non yếu, không cứng cỏi như người xưa. Đạo là chỗ chân thật, như trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật nói “trực tâm thị đạo tràng”, nghĩa là tâm ngay thẳng là đạo tràng. Tâm chúng ta hiện nay quanh co, làm sao lập đạo tràng được! Vì thế người tu phải gan, dám nói những lời chân thật, dù có những điều khổ đến với mình cũng không sợ, huống là những lời thật chỉ mất giá trị một ít thì sợ làm gì. Như vậy mới giữ cho giá trị đạo đức không mất, không tiêu hao. Chúng ta phải gìn thân, gìn khẩu cho xứng đáng là người tu. Thân phải nghèo, ăn đạm bạc, mặc rách rưới, ngôn ngữ thật thà, như vậy mới hợp với người tu. Nếu tu mà không thật thà cũng không được, sang quá cũng không được, ăn ngon quá cũng không được. Đó là những điều chúng ta phải nhớ.
Ngài Phù Dung nói: “Ngộ thanh, ngộ sắc như thạch thượng tài hoa; kiến lợi, kiến danh như nhãn trung trước tiết”, nghĩa là: “Gặp thanh gặp sắc như hoa trồng trên đá; thấy lợi, thấy danh như bụi rơi trong mắt.” Chúng ta được như thế chưa? Ngài nói để nhắc chúng ta thấy sắc đẹp, nghe âm thanh hay mà vẫn như hoa trồng trên đá. Hoa trồng trên đá không ra rễ nổi, nghĩa là không dính dáng gì tới mình hết. Còn thấy lợi thấy danh cũng như bụi rớt trong con mắt, xốn lắm! Chúng ta hiện nay con mắt mờ mờ, thấy lợi thấy danh thì sáng lên, chớ không phải như bụi rớt. Đó là tôi nhắc để tất cả quý vị thấy rõ trên đường tu, chúng ta phải đủ những tư cách như vầy:
- Một là phải biết rằng chúng ta là kẻ Bần tăng, là người nghèo, chớ không phải người giàu. Đã là người nghèo thì phải xử sự đúng tinh thần của người nghèo.
- Hai là chúng ta phải chấp nhận mọi sự khen chê, chúng ta đều thấy như uống nước cam lồ, chớ không phải thấy là cái khó, cái khổ.
- Ba là sự sống của chúng ta rất đạm bạc, ăn uống đơn sơ, mặc cũng đơn sơ.
- Bốn là dù gặp những trường hợp làm cho chúng ta bị mất chút ít uy tín, nhưng cần nói thẳng, nói thật, thì chúng ta cũng chấp nhận, chớ đừng dối trá làm mất tâm đạo đức của mình.
- Năm là ngay nơi chúng ta đã có hòn ngọc quý không phải tìm cầu ở đâu nữa. Chỉ cần khéo nhận ra để sử dụng.
- Sáu là Thiền không phải cái gì khác lạ mà chính là chỗ đối cảnh vô tâm. “Đối cảnh vô tâm” tức là Thiền chớ không phải cầu kiếm cái gì lạ nữa hết.
Thanh Từ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét