BÌNH THƯỜNG TÂM THỊ ĐẠO
Xuân Ất Sửu - 1985
Tết Nguyên Đán năm Ất Sửu (1985) chư Tăng Ni và Phật tử đến chúc mừng năm mới, đáp lại lòng tốt của quí vị, tôi xin nói chuyện nhiều. Trước nhất nhắc cho quí vị nhận ra cái chân thật nơi mình để ứng dụng tu hành, thứ nữa để quí vị cùng tôi, chúng ta sống được cái chân thật này tròn một năm hay là từ đây về sau hằng được chân thật. Hôm nay tôi không tiếc những sợi lông mày, vì quí vị mà nói trắng ra những điều gì cần nói, đó là chủ yếu buổi nói chuyện hôm nay với đề tài Bình thường tâm thị đạo.
Đề tài này quí vị chắc cũng thường nghe, tôi không nói những chuyện gì mới lạ ở đâu xa, chỉ dẫn những chuyện cũ mà tôi từng giảng những năm về trước, nhưng ở đây tôi nói lại có khác hơn thuở xưa; bởi vì ngày trước tôi nghĩ rằng tôi chỉ nói tổng quát hay là gần một chút để cho quí vị thầm nhận, nếu ai không nhận được thì qua những buổi khác hoặc qua thời gian tu rồi cũng có thể nhận, chớ tôi không nói trắng, không nói thẳng. Nhưng hôm nay sẽ nói thẳng ra cho quí vị thấy, nếu quí vị thấy rồi ứng dụng được thì đó là một điều rất quí mà tôi mong mỏi.
Trước tiên tôi dẫn câu chuyện ngài Triệu Châu đến hỏi đạo ngài Nam Tuyền. Triệu Châu hỏi: “Thế nào là đạo?” Ngài Nam Tuyền đáp: “Bình thường tâm thị đạo”, nghĩa là tâm bình thường là đạo. Triệu Châu hỏi: “Lại có thể nhằm tiến đến chăng?” Nếu nói tâm bình thường là đạo như vậy mình có thể nhằm tiến tới để được tâm đó hay không. Ngài Nam Tuyền trả lời: “Nghĩ nhằm tiến đến là trái.” Vừa nghĩ tiến đến để đạt đạo là trái với đạo rồi. Triệu Châu hỏi thêm: “Khi chẳng nghĩ làm sao biết là đạo?” Theo quan niệm của Triệu Châu là muốn biết đạo phải do nghĩ mà biết, hay không do nghĩ tiến đến thì làm sao biết đạo. Ngài Nam Tuyền đáp: “Đạo chẳng thuộc biết, chẳng biết; biết là vọng giác, không biết là vô ký, nếu thật đạt đạo thì chẳng nghi, ví như hư không thênh thang rỗng rang, đâu thể dối nói phải quấy.” Ngay đó ngài Triệu Châu liền ngộ.
Nay tôi giải thích trắng ra cho quí vị thấy. Tất cả chúng ta, người học đạo hay tầm đạo, ai cũng nghĩ rằng trên đường tu phải tìm cho được đạo hay là thấy được đạo; nhưng muốn tìm được đạo, thấy được đạo phải làm sao? Chúng ta cứ nghĩ đạo là cái gì quí giá cao cả ở bên ngoài, chớ không phải ở nơi mình. Ngài Triệu Châu cũng có tâm niệm tương tự chúng ta nên đến hỏi ngài Nam Tuyền “thế nào là đạo”, ngài Nam Tuyền chỉ thẳng “tâm bình thường là đạo”. Tâm bình thường không phải là tâm nghĩ chuyện năm trên năm dưới, vừa có dấy niệm lên là động, mà động là bất bình thường. Thế nên tâm bình thường là tâm phẳng lặng không động, tâm đó là đạo, chớ chẳng đâu xa, cũng như nói mặt nước phẳng là khi nào không dậy sóng. Phẳng tức là lặng lẽ, là bình thường, vừa dấy sóng lên là động, là bất bình thường. Như vậy ngài Nam Tuyền không ngại chỉ thẳng cho chúng ta thấy “tâm bình thường là đạo” chớ không phải cái gì xa xôi. Ngài Triệu Châu chưa hài lòng, nói “lại có thể nhằm tiến đến chăng”, nếu tâm bình thường như vậy thì tôi có thể tiến đến để đạt đạo được chăng. Ngài nói tiến đến để đạt đạo, thì cái nghĩ tiến đến là bình thường hay bất bình thường. Vừa nghĩ tiến đến là bất bình thường, mà bất bình thường là mất đạo, mất tâm. Vì vậy ngài Nam Tuyền trả lời “nghĩ nhằm tiến đến là trái”, trái với đạo, trái với tâm. Ngài Triệu Châu cũng chưa hài lòng, Ngài nghĩ đạo là cái gì phải do suy nghĩ mà biết mới gọi là đạo, chẳng lẽ tâm lặng xuống bình thường là đạo hay sao. Vì vậy Ngài mới hỏi thêm “khi chẳng nghĩ làm sao biết là đạo”, nghĩa là đạo là cái do suy nghĩ mà biết, nhận ra, nay không cho suy nghĩ, không cho biết thì làm sao biết đó là đạo. Ngài Nam Tuyền mới bảo “đạo chẳng thuộc biết và chẳng biết, biết là vọng giác, không biết là vô ký”, nghĩa là tâm lặng lẽ đó là đạo, vừa dấy biết thì đó là vọng giác, còn không biết gì cả đó là vô ký, cả hai đều sai. Nếu thật đạt đạo thì không còn nghi ngờ gì nữa. Đạo rỗng rang thênh thang như hư không, không thể nói là phải hay quấy, vừa nói phải quấy là hai bên, là trái với đạo. Ngay đó ngài Triệu Châu ngộ được tâm bình thường là đạo.
Tôi dẫn thêm Thiền sư Đạo Ngộ. Sùng Tín trước kia là người làm bánh bao trước cổng chùa, biết phát tâm cúng dường nên hôm nào cũng đem vài cái bánh bao đến cúng thầy (tức Thiền sư Đạo Ngộ). Như thế trong một thời gian, ngài Đạo Ngộ nghĩ thương tình người có đạo tâm, nên khi Sùng Tín đem bánh bao cúng cho Ngài, Ngài để lại một cái và nói: “Ta cho lại ngươi để về nuôi dưỡng con cháu.” Sùng Tín ngạc nhiên quá thưa: “Con cúng cho Thầy mà Thầy cho lại con để làm gì?” Đạo Ngộ nói: “Ngươi cúng cho ta, ta cho lại ngươi thì có lỗi gì?” Câu chuyện đối đáp đó làm Sùng Tín băn khoăn: Tại sao mình cúng cho thầy mà thầy cho lại mình? Suy nghĩ một lúc không biết ông hiểu làm sao rồi phát tâm đi tu. Sau khi ông xuất gia, ngài Đạo Ngộ bảo: “Nay ông làm Thị giả cho ta, ta sẽ chỉ tâm yếu cho ông.” Từ đó Sư bắt đầu làm Thị giả, mãi đến hai ba năm không thấy ngài Đạo Ngộ chỉ dạy tâm yếu gì cả. Cho đến một hôm thắc mắc quá, Sư ẩn nhẫn không nổi mới ra hỏi thầy: “Từ ngày con vào đây đến nay chưa được Thầy chỉ tâm yếu.” Đạo Ngộ bảo: “Từ ngày ngươi vào đây, ta chưa từng chẳng chỉ dạy tâm yếu cho ngươi.” Sư nghi, hỏi thêm: “Thầy chỉ dạy ở chỗ nào?” Đạo Ngộ bảo: “Ngươi dâng trà lên, ta vì ngươi mà tiếp, ngươi bưng cơm đến, ta vì ngươi mà nhận, ngươi xá lui ra thì ta gật đầu, chỗ nào chẳng chỉ dạy tâm yếu?” Như vậy chỉ dạy tâm yếu không có lời. Nghĩa là dâng trà thì đưa tay tiếp, dọn cơm xong mời thì bắt đầu đến ngồi cầm đũa. Cho tới xá lui ra thì gật đầu, chỗ nào mà không chỉ dạy tâm yếu. Sùng Tín cúi đầu im lặng suy nghĩ, tại sao việc đó là tâm yếu? Sư vừa suy nghĩ, Đạo Ngộ liền bảo: “Thấy thì thẳng đó liền thấy, suy nghĩ liền sai.” Qua câu nói đó, Sư ngộ, liền hỏi thêm: “Làm sao giữ gìn?” Đạo Ngộ bảo: “Mặc tánh tiêu dao, tuỳ duyên phóng khoáng, chỉ hết tâm phàm chẳng có Thánh giải khác.” Đó là điểm đặc biệt tôi sẽ giải thích thêm cho rõ.
Khi Thị giả dâng chung trà, mình đưa tay nhận chung trà, lúc đó có suy nghĩ gì không, có biết không? Đón nhận chung trà mà không có một niệm suy nghĩ gì cả. Khi Thị giả dọn cơm sẵn, xá mời thì mình bước tới ngồi và cầm đũa, lúc đó thế nào? Ngồi cầm đũa đâu có gì phải suy nghĩ. Khi Thị giả xá chào lui thì mình gật đầu, trong lúc gật đầu đâu có suy nghĩ gì. Như vậy trong những động tác hằng ngày của chúng ta mà không có một niệm nghĩ suy, đó là tâm yếu rồi. Tâm yếu hiện rõ ràng trong mọi hành động, nếu thấy được chỗ đó thì chỗ nào mà không chỉ tâm yếu, không dạy tâm yếu. Như vậy tâm yếu này có giống tâm bình thường không? Đâu có hai. Nhưng ở đây đặc biệt là khi Sùng Tín cúi đầu suy nghĩ việc đó sao gọi là tâm yếu thì Đạo Ngộ nói thẳng một câu “thấy thì thẳng đó liền thấy, vừa suy nghĩ liền sai”. Trong những hành động, ngay đó mà thấy, vừa suy nghĩ liền sai; chúng ta thấy rõ tâm yếu là gì rồi. Nên ngay câu đó Sư mới ngộ, chớ khi kể những hành động trên Sư chưa ngộ được. Nhưng khi ngộ rồi, làm sao gìn giữ để đừng mất tâm yếu đó? Đây là vấn đề then chốt. Khi hỏi làm sao gìn giữ thì Đạo Ngộ trả lời: “Mặc tánh tiêu dao, tuỳ duyên phóng khoáng, chỉ hết tâm phàm chẳng có Thánh giải khác.” Rất nhiều người hiểu lầm câu này: “mặc tánh tiêu dao” nghĩa là thế nào? Nghĩa là chúng ta thổi sáo, đi dọc đường dọc sá như là người điên phải không? Thong thả rong chơi xứ này xứ nọ, thổi sáo thổi kèn hoặc là đàn địch v.v... như vậy có phải là “nhậm tánh tiêu dao” không? “Nhậm tánh tiêu dao” hay “mặc tánh tiêu dao” là thế nào? Quí vị nhớ tánh tiêu dao chớ không phải thân tiêu dao, phải rõ chỗ đó. Tánh của mình thế nào gọi là mặc tánh tiêu dao? Tánh thấy, tánh nghe có động không? Có giới hạn không? Bởi nó không động, không giới hạn cho nên nó thênh thang; trong cái thênh thang không động đó, cứ mặc nó đừng kềm đừng giữ thì đó là mặc tánh tiêu dao; chớ không phải nói mặc tánh tiêu dao rồi cầm ống sáo đi nơi này, nơi kia thổi, rồi nói tôi mặc tánh tiêu dao. Đó là cuồng Tăng chớ không phải tiêu dao, đừng hiểu lầm điểm đó.
Tánh của mình thênh thang lặng lẽ, không bận không phiền, đừng thêm một cái gì cho nó nữa, đừng kềm đừng giữ thì gọi là tánh tiêu dao. Chúng ta lâu nay tu là kềm giữ, bởi kềm giữ nên trái với Tự tánh, phải hiểu thật rõ chỗ đó. Có khi ta hiểu lầm chữ tuỳ duyên phóng khoáng. Tuỳ duyên là duyên đến thì mình theo; phóng là buông, khoáng là rộng rãi; buông hết, không vướng, không bận, không bị điều gì làm phiền nhiễu, đó gọi là tuỳ duyên phóng khoáng. Chúng ta đâu không nghe bài kệ của Sơ tổ Trúc Lâm: “Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên”, nghĩa là ở trong chỗ bụi trần mà vui với đạo, tức là vui với tâm bình thường, rồi hãy tuỳ duyên. Tuỳ duyên như thế nào? “Cơ tắc san hề khốn tắc miên” đói thì ăn, mệt thì ngủ đó gọi là tuỳ duyên, là phóng khoáng. Còn gặp quán rượu thì bước vào hay thấy rạp hát thì lao tới, đó phải là tuỳ duyên phóng khoáng không? Tuỳ duyên phóng khoáng là trong cuộc sống bình thường, đến ăn thì ăn, đến mặc thì mặc, đến nghỉ thì nghỉ hay làm công tác trong phạm vi nhà chùa, như quét chùa, nhổ cỏ mà tâm vẫn thênh thang rộng rãi, vẫn an nhiên tự tại, không để một niệm nào làm rối làm bận lòng mình. Đừng nói phóng khoáng rồi bày ra những chuyện tầm phào, gặp nữ sắc cũng không kỵ, gặp rượu chè cũng không tránh, rồi nói tuỳ duyên phóng khoáng. Trong nhà thiền gọi đó là cuồng thiền. Chính những trọng điểm này tôi muốn nhắc thật kỹ để quí vị hiểu mà tu, chớ nhiều khi hiểu lầm có thể là hoạ trên đường tu.
Tôi nhắc lại tánh chúng ta lặng lẽ thênh thang, không phải kềm, không phải giữ, đó là mặc tánh tiêu dao. Gặp công tác nào làm công tác ấy, gặp ăn thì ăn, gặp nghỉ thì nghỉ, mà tâm chúng ta vẫn lặng lẽ thênh thang đó là tuỳ duyên phóng khoáng. Ăn, nghỉ, mặc, trong nề nếp đạo đức, chớ không phải ăn, mặc, nghỉ theo cách của nhiều người nói “đói thì ăn”, rồi khi xuống chợ, đói liền vào quán ngồi ăn, hay khi đi đường mệt thì nằm ì ngoài đường ngủ rồi nói “mệt thì ngủ”. Đó gọi là cuồng thiền, thiền hiểu một cách loạn không đúng lẽ thật, làm trái với tư cách người tu, làm trò cười cho thiên hạ.
“Chỉ hết tâm phàm chẳng có Thánh giải khác”, chủ yếu là hết tâm phàm. Tâm phàm là tâm vọng tưởng điên đảo. Buông xả hết những tâm vọng tưởng điên đảo là đủ, đó là đạo, chớ đừng mong thấy gì đặc biệt hay tuyệt vời. Thường người tu hay mong thấy những gì kỳ đặc, mong có những tiếng lạ, mong có những điều huyền diệu. Thế nên khi lặng hết vọng tưởng, chúng ta chưa hài lòng, chúng ta muốn thấy hào quang, muốn biết bay v.v... muốn có cái gì của Thánh đem vào mình, đó là bệnh của đa số người tu. Ngài dạy: “chỉ hết tâm phàm chẳng có Thánh giải khác”, tức là những vọng tưởng điên đảo của chúng ta sạch hết thì đó là Thánh rồi, không có Thánh giải nào ở ngoài đến. Ngừng ngay phàm tình tức là vọng tưởng, nó là chủ của nghiệp, là nhân của luân hồi sanh tử, hết nhân đó là giải thoát sanh tử. Chỗ không sanh, không diệt nhưng hằng tri hằng giác là cái bất sanh, bất tử, như vậy không phải Thánh là gì? Thế mà chúng ta đòi thêm Thánh nữa, có phải là đầu lại thêm đầu hay không? Do đây Ngài chỉ thẳng cho chúng ta biết chỉ cần hết vọng tưởng thôi, đừng đòi thêm điều gì khác nữa. Có nhiều người thường hỏi tôi, sau khi vọng tưởng lặng hết thì còn cái gì, tức là muốn thêm Thánh giải nữa phải không? Tôi chỉ trả lời: Ráng hết vọng tưởng giùm tôi đã, đừng có đòi. Như vậy chủ yếu của người tu là dứt mầm sanh tử luân hồi, khi nhân sanh tử luân hồi hết, đó là giải thoát, chớ không còn giải thoát nào khác nữa. Hết tâm phàm thì ngay đó là đạo. Đây là chỗ thiết yếu của ngài Đạo Ngộ dạy. Sau khi chúng ta nhận được đạo hay tâm yếu trong mọi hành động của mình, muốn gìn giữ nó thì phải mặc tánh tiêu dao tức là đừng kềm đừng giữ. Có nhiều người nói “giữ tâm thanh tịnh” thì tôi hay nhắc giữ là sai, là trái với mặc tánh tiêu dao. Vì cái thanh tịnh đó là Tự tánh của mình mà giữ nó tức nhiên là bị kềm, là hết tiêu dao. Còn tùy duyên phóng khoáng là theo duyên gặp hành động nào thì thực thi hành động đó, gặp ăn thì ăn, mặc thì mặc, nghỉ thì nghỉ, nhưng tâm thênh thang rộng rãi, chớ không phải nói tuỳ duyên phóng khoáng rồi làm những điều trái đạo đức. Lâu ngày tâm phàm tự hết, khi ấy không cần Thánh giải nào khác, vì tự nó là Thánh. Đó là chỗ chỉ dạy đầy đủ của ngài Đạo Ngộ.
Tôi dẫn thêm một câu chuyện nữa, như trong đoạn đầu chúng ta thấy ngài Triệu Châu ngộ đạo nơi ngài Nam Tuyền, ngộ ngay chỗ “bình thường tâm là đạo” nên sau này Ngài dạy lại đồ đệ, đây tôi dẫn câu chuyện: Một hôm có vị Tăng mới vào chùa, đến thưa với Ngài rằng: “Con mới vào tùng lâm, xin Thầy chỉ dạy.” Ngài Triệu Châu hỏi: “Ăn cháo xong chưa?” Tăng thưa: “Ăn xong.” Ngài bảo: “Rửa bát đi.” Dạy cái gì lạ vậy? Người ta nói giải thoát nói giác ngộ v.v... phải không? Đây chỉ hỏi “ăn cháo xong chưa”, khi ông Tăng trả lời “ăn xong”, Ngài bảo “rửa bát đi”, ngay đó ông Tăng ngộ. Như vậy ông Tăng ngộ cái gì? Cái ngộ này có khác với cái ngộ của ngài Sùng Tín hay không?
Dâng trà thì tiếp, dâng cơm thì nhận, xá lui ra thì cúi đầu. Ở đây ăn cháo xong thì rửa bát, có phải là “bình thường tâm” hay không? Như thế quí vị mới thấy rõ các ngài chỉ dạy lại nhau cái đó, chớ chẳng cái gì khác hơn, chính cái mình đã nhận được nơi thầy thì đem truyền lại cho đệ tử, nhưng truyền lại một cách rất lạ lùng phải không? Không ai có thể hiểu nổi! Tại sao bảo ăn cháo, bảo rửa bát mà lại ngộ đạo, đạo ở chỗ nào? Vì vậy nên sau này Thiền sư Hoằng Trí có làm một bài tụng để ca ngợi chỗ đó. Ngài nói:
Chúc bãi linh giao tẩy bát bồn,
Hoát nhiên tâm địa tự tương phù.
Như kim tham bảo tùng lâm khách,
Thả đạo kỳ gian hữu ngộ vô?
Tôi tạm dịch:
Cháo xong liền dạy rửa chén tô,
Bỗng dưng tâm địa tự tương phù
Hiện nay là khách tùng lâm cũ,
Hãy nói khoảng này có ngộ không?
Chúng ta ở trong tùng lâm mười năm, mười lăm năm có bằng vị Tăng bảo ăn cháo, bảo rửa chén đó không? Thật là đơn giản, mới vào mà bảo “ăn cháo đi”, thưa “ăn cháo xong”, bảo “rửa bát đi” liền ngộ đạo. Quí vị thấy người xưa dạy: Đạo là chỗ bình thường đó. Ăn cháo rửa bát có phải là mặc tánh tiêu dao, tuỳ duyên phóng khoáng hay không? Hiểu được đoạn trên thì đến chỗ này chúng ta không thấy lạ.
Đến câu chuyện thứ tư: Ngài Động Sơn Thủ Sơ, khi còn là một Thiền khách, Ngài đến hỏi đạo nơi ngài Vân Môn. Ngài Vân Môn hỏi: “Ông vừa rời chỗ nào?” Ngài thưa: “rời Tra Độ”, tức là từ Tra Độ đến. Ngài Vân Môn hỏi: “Mùa hạ ở đâu?” Thủ Sơ đáp: “Ở chùa Báo Ân tại Hồ Nam.” Vân Môn hỏi: “Rời chỗ kia lúc nào?” Thủ Sơ đáp: “Ngày 25 tháng 8.” Vân Môn bảo: “Tha ông ba gậy! Đến nhà tham thiền đi.” Quí vị có thấy thắc mắc không? Có lỗi gì mà bảo “tha ông ba gậy, xuống nhà tham thiền đi”? Thủ Sơ làm lỗi gì? Nếu không có lỗi tại sao tha ba gậy? Đó là cái kỳ đặc của ngài Vân Môn. Đọc sách thiền, đến đoạn này, ai cũng bóp trán, phải không? Hỏi đâu nói đó một cách thật thà không một chút điêu ngoa, tại sao lại tha ba gậy, rồi bảo xuống nhà tham thiền. Đó là một thắc mắc, mà chính sư Thủ Sơ cũng thắc mắc; có lẽ trưa đó Sư ngủ không được, cho nên đến chiều Sư đi thẳng vào thất của ngài Vân Môn hỏi: “Bạch Hòa thượng khi sáng con có lỗi gì?” Nếu ở trường hợp Sư, chúng ta cũng thắc mắc như vậy. Ngài Vân Môn nói: “Cái túi cơm, Giang Tây, Hồ Nam là thế ấy!” Quí vị thấy Ngài nói làm sao? Ngài quở “cái túi cơm, Giang Tây, Hồ Nam là thế ấy”, Giang Tây tức là chỗ của Mã Tổ, Hồ Nam là chỗ của ngài Thạch Đầu. Đó là hai vị Thiền sư nổi tiếng đời Đường. “Là thế ấy” nghĩa là sao?
Quí vị thấy hỏi “ở đâu”, thưa “ở Tra Độ”; hỏi “mùa hạ ở đâu”, thưa “ở chùa Báo Ân tại Hồ Nam”; hỏi “rời chỗ kia lúc nào”, thưa “ngày 25 tháng 8”; đó có phải là chuyện bình thường hay không? Trả lời như vậy có cần phải suy nghĩ gì không? Hỏi đâu đáp đó rõ ràng bình dị, không phải suy nghĩ gì cả. Trong khi hỏi đáp bình thường không bận suy nghĩ đó có phải là tâm bình thường hay không? Chính chỗ đó. Nhưng Ngài muốn làm cho nổi sóng, nổi gió nên Ngài nói “tha ông ba gậy”, đó là nổi sóng đó. Chúng ta không hiểu lỗi tại chỗ nào, đó là cái kỳ đặc của ngài Vân Môn, ta phục Ngài là phục ở điểm đó. Câu “tha ba gậy” làm cho mình thắc mắc băn khoăn không biết tại sao câu trả lời rất bình dị mà Ngài cho là có lỗi. Thế nên sư Thủ Sơ đợi đến chiều lên hỏi lại, khi hỏi lại thì ngài Vân Môn quở “cái túi cơm”, nghĩa là ông không có thông minh chút nào hết, như là cái túi cơm vậy thôi! Ở “Giang Tây, Hồ Nam là thế ấy”: chỗ Mã Tổ, chỗ ngài Thạch Đầu chỉ dạy cái đó thôi, cái chỗ bình thường đó! Ngay đó Thủ Sơ ngộ. Sư ngộ đạo là nhờ cái kỳ đặc hay cái khéo tay của ngài Vân Môn. Đọc qua câu chuyện ai cũng phải ngạc nhiên, ngạc nhiên ở điểm nào? Chỗ “tha ông ba gậy” đó. Trong nhà thiền gọi đó là cái thuật làm sóng gió, chính nhờ cái thuật đó mà sư Thủ Sơ mới nhận ra một cách dễ dàng. Như vậy quí vị thấy các Thiền sư ngày xưa có dạy điều gì khác đâu phải không? Các ngài chỉ muốn chỉ cái chân thật cho chúng ta, mà cái chân thật đó là ngay chỗ bình thường. Trong mọi hành động, mọi ngôn ngữ, nếu không thêm dấy niệm suy nghĩ thì ngay trong đó là đạo. Như vậy ở đây có người nào không có cái đó? Tất cả chúng ta ai thiếu cái đó? Thế mà có ai dám nhận không?
Đến đây tôi dẫn câu chuyện có mà không chịu nhận: chuyện ông Sa-di Cao. Khi ngài Dược Sơn và ông Sa-di Cao nói chuyện, qua câu trả lời của Sa-di Cao, ngài Dược Sơn biết đó là người đã thấy, nên mới khoe với các đồ đệ lớn như Vân Nham, Đạo Ngô, nhưng hai vị này chưa tin. Vì vậy ngài Dược Sơn muốn hỏi lại một lần nữa, để xác định lối trả lời của Sa-di Cao đúng lẽ thật cho hai vị kia tin. Ngài mới hỏi ông Sa-di Cao: “Ta nghe ở Trường An rất náo loạn, ngươi có biết chăng?” Sa-di Cao trả lời: “Nước con an ổn.” Ngài hỏi thêm: “Ngươi do xem kinh được hay thưa hỏi được?” Ông Sa-di Cao đáp: “Chẳng do xem kinh được cũng chẳng do thưa hỏi được.” Ngài Dược Sơn hỏi: “Có lắm người chẳng xem kinh, chẳng thưa hỏi sao chẳng được?” Ông Sa-di Cao đáp: “Chẳng nói họ không được, chỉ vì họ không chịu thừa nhận.” Câu chuyện ngừng ngang đây.
Tôi nói ra ngoài một chút, tôi hỏi quí vị: “Vào mười hai giờ đêm giao thừa này, ở dưới phố đốt pháo ồn lắm, quí vị có nghe chăng?” Quí vị thử trả lời tôi xem. Sao không trả lời giống ông Sa-di Cao? Sao không trả lời rằng: “Chùa con yên tĩnh.” Quí vị trả lời theo câu hỏi của tôi mà không trả lời theo ông Sa-di Cao. Dưới chợ thì pháo nổ ồn, nhưng ở chùa mình thì yên tĩnh. Tôi nói như vậy, quí vị thấy sao? Có thấy gì ở chỗ đó chưa? Nếu quí vị trả lời như tôi trả lời là hợp với ông Sa-di Cao, còn nếu nói “nghe pháo nổ ở dưới phố” thì chưa hợp.
Tôi nhắc lại cho quí vị thấy, ngài Dược Sơn nói: “Ta nghe ở Trường An (Trường An là thủ đô của nhà Đường) rất náo loạn (tức là ồn náo) ngươi có biết chăng?” Nếu trả lời như quí vị thì nói “dạ biết” phải không? Cũng như tôi hỏi: “Ở dưới chợ, khi hôm pháo nổ ồn, quí vị có nghe chăng?” Quí vị nói: “Dạ nghe.” Như vậy câu trả lời đó không hợp với ý Sa-di Cao. Sa-di Cao liền thưa: “Nước con an ổn.” Ông ở trong nước Tàu, Trường An là thủ đô nước Tàu, tại sao ông nói “nước con an ổn”? Câu trả lời của tôi “chùa con yên tĩnh” hợp với ý ông Sa-di Cao. Tại sao vậy? Trả lời như vậy có cái kỳ đặc gì trong đó? Quí vị thấy chưa? Động là ồn, người qua lại xôn xao là náo, ồn náo là tiếng động và người xôn xao. Thấy kẻ qua người lại xôn xao là thấy, tiếng động là ồn là nghe. Khi hỏi ồn náo là muốn hỏi ông có thấy có nghe sự ồn náo ngoài kia chăng. Sa-di Cao trả lời “nước con an ổn”, hay là nước con yên tĩnh. Người đi là xôn xao mà cái thấy có xôn xao hay không? Như vậy động là tiếng, xôn xao là người, còn cái thấy, cái nghe có động, có xôn xao bao giờ. Thế nên nói “nước con an ổn” hay “chùa con yên tĩnh” là để chứng minh người đó đang nhớ cái của mình không động. Động là cái bên ngoài! Trái lại, khi hỏi “nghe không”, chúng ta đáp “dạ nghe”, là chúng ta đã lệ thuộc vào bên ngoài mất rồi! Như vậy để thấy người xưa muốn thí nghiệm người được luôn luôn nhớ mình, nhớ không quên; đó mới là người thường sống với cái thật. Thế nên qua câu trả lời thì ngài Dược Sơn chấp nhận ngay, cả hai huynh đệ là ngài Vân Nham và ngài Đạo Ngô đều gật đầu. Nhưng muốn thí nghiệm thêm nữa, ngài Dược Sơn mới hỏi “ngươi do xem kinh được hay thưa hỏi được”, cái không động đó là do ngươi xem kinh được hay thưa hỏi thiện tri thức mà được. Nếu là chúng ta thì trả lời như thế nào? “Dạ do thưa hỏi được.” Ông trả lời rằng “chẳng do xem kinh được cũng chẳng do thưa hỏi được”. Cái nghe, cái thấy đâu phải do kinh mà được, đâu phải do thầy dạy mà được, phải không? Cái đó đã sẵn nơi mình từ khi cha mẹ sanh đến giờ. Nó đã sẵn rồi đâu đợi xem kinh hay thưa hỏi. Thế nên ông trả lời “chẳng do xem kinh được, cũng chẳng do thưa hỏi được”, đó là chỉ thẳng cái của mình có sẵn từ xưa, mới nghe như có vẻ phủ nhận công ơn Thầy Tổ phải không? Nhưng sự thật là như vậy, Thầy Tổ chỉ là người chỉ bóng thôi, còn cái thật là cái sẵn nơi mình. Ngài Dược Sơn mới hỏi thêm câu nữa “có lắm người chẳng xem kinh, chẳng thưa hỏi, sao chẳng được”, ý Ngài nói chẳng xem kinh, chẳng thưa hỏi mà được thì có nhiều người họ không xem kinh, không thưa hỏi sao chẳng được. Đây là gạn lại lần chót, Sa-di Cao trả lời “chẳng nói họ không được, chỉ vì không chịu thừa nhận thôi”, có sẵn đó mà không nhận nên coi như không được, chớ có người nào không được. Câu nói chí lý vô cùng! Quí vị được hay không được? Chỉ cần biết thừa nhận hay không, phải vậy không? Nếu không biết thừa nhận, thì mình là kẻ lang thang, hạt châu trong chéo áo mà vẫn là kẻ cùng tử, quí vị phải nhớ rõ. Để kết thúc tôi dẫn một câu chuyện lý thú nữa là chuyện ngài Tử Hồ bắt ăn trộm. Câu chuyện này tôi thích nhất và hay kể nhiều nhất, tôi biết quí vị thuộc, nhưng mỗi lần kể là một lần mới. Nhớ như vậy! Ngài Tử Hồ là một vị Hòa thượng Thiền sư, chúng của Ngài được trên năm trăm người. Một hôm giữa đêm, bỗng Ngài la to: “Ăn trộm! Ăn trộm!” Chúng hốt hoảng chạy đến, người đầu tiên chạy đến bị Ngài chụp ôm nói: “Bắt được rồi! Bắt được rồi!” Người bị bắt hoảng hốt thưa: “Dạ con! Không phải, không phải!” Ngài nói: “Phải! Phải! Chỉ tại ông không dám nhận thôi!” Quí vị thấy câu chuyện nói điều gì? Cả năm trăm người, ai cũng có cái đó mà không dám nhận, buộc lòng Ngài phải dùng phương tiện kỳ đặc: Ôm một ông thầy nói ăn trộm, tự nhiên ông phải bào chữa “dạ con, không phải ăn trộm”. Thế nên ông nói “con, không phải, không phải” thì Ngài nói “phải, phải, chỉ tại ông không dám nhận thôi”. Thành ra hai chữ “phải” và “không phải” nhắm vào việc gì? Ông Tăng nói “không phải” là không phải ăn trộm, nhưng Ngài nói “phải” là phải cái gì? Thành ra chữ thì như đối đáp nhau, mà ý thì thật là khác muôn dặm! Chữ “phải, phải” của Ngài là chỉ cho chúng ta ai cũng sẵn có mà không chịu nhận. Như vậy hình ảnh Ngài chụp một người la ăn trộm, người đó nói con không phải ăn trộm thì Ngài nói “phải, phải, tại ngươi không dám nhận”, câu chuyện đó chừng nào chúng ta mới quên được?
Người xưa muốn cho chúng ta thừa nhận cái thật của mình mà lâu nay đã bỏ quên, nên các ngài dùng đủ phương tiện để nhắc chúng ta nhớ. Riêng tôi không có phương tiện khéo như vậy, nên tôi mới dẫn chuyện của người xưa để nhắc cho quí vị nhớ. Qua những câu chuyện tôi kể và giải thích ở đây, nếu quí vị nhận được, biết quí nó như hòn ngọc vô giá hay một hạt minh châu thì lời giải thích của tôi hôm nay là hữu ích, tức tôi là kẻ có công. Nếu quí vị nhận được nó mà xem thường, nghĩ rằng cái đó ai mà không có, một thằng bé con cũng có, ông già cũng có, có gì quan trọng; nếu quí vị xem thường như vậy thì tôi là kẻ có tội. Vì muốn cho quí vị tiến tu không còn ngờ vực nữa, nên tôi không ngại rụng hết lông mày vì quí vị mà chỉ thẳng, nếu quí vị biết ngay nơi đó quí trọng gìn giữ như hòn ngọc báu thì quí vị sẽ là người hữu dụng trong nhà đạo, và tôi cũng là người giúp quí vị đủ lòng tin để tiến tu. Bằng không, nếu quí vị xem thường điều đó, thì đó là lỗi lớn của chúng tôi.
Xuân Ất Sửu - 1985
Tết Nguyên Đán năm Ất Sửu (1985) chư Tăng Ni và Phật tử đến chúc mừng năm mới, đáp lại lòng tốt của quí vị, tôi xin nói chuyện nhiều. Trước nhất nhắc cho quí vị nhận ra cái chân thật nơi mình để ứng dụng tu hành, thứ nữa để quí vị cùng tôi, chúng ta sống được cái chân thật này tròn một năm hay là từ đây về sau hằng được chân thật. Hôm nay tôi không tiếc những sợi lông mày, vì quí vị mà nói trắng ra những điều gì cần nói, đó là chủ yếu buổi nói chuyện hôm nay với đề tài Bình thường tâm thị đạo.
Đề tài này quí vị chắc cũng thường nghe, tôi không nói những chuyện gì mới lạ ở đâu xa, chỉ dẫn những chuyện cũ mà tôi từng giảng những năm về trước, nhưng ở đây tôi nói lại có khác hơn thuở xưa; bởi vì ngày trước tôi nghĩ rằng tôi chỉ nói tổng quát hay là gần một chút để cho quí vị thầm nhận, nếu ai không nhận được thì qua những buổi khác hoặc qua thời gian tu rồi cũng có thể nhận, chớ tôi không nói trắng, không nói thẳng. Nhưng hôm nay sẽ nói thẳng ra cho quí vị thấy, nếu quí vị thấy rồi ứng dụng được thì đó là một điều rất quí mà tôi mong mỏi.
Trước tiên tôi dẫn câu chuyện ngài Triệu Châu đến hỏi đạo ngài Nam Tuyền. Triệu Châu hỏi: “Thế nào là đạo?” Ngài Nam Tuyền đáp: “Bình thường tâm thị đạo”, nghĩa là tâm bình thường là đạo. Triệu Châu hỏi: “Lại có thể nhằm tiến đến chăng?” Nếu nói tâm bình thường là đạo như vậy mình có thể nhằm tiến tới để được tâm đó hay không. Ngài Nam Tuyền trả lời: “Nghĩ nhằm tiến đến là trái.” Vừa nghĩ tiến đến để đạt đạo là trái với đạo rồi. Triệu Châu hỏi thêm: “Khi chẳng nghĩ làm sao biết là đạo?” Theo quan niệm của Triệu Châu là muốn biết đạo phải do nghĩ mà biết, hay không do nghĩ tiến đến thì làm sao biết đạo. Ngài Nam Tuyền đáp: “Đạo chẳng thuộc biết, chẳng biết; biết là vọng giác, không biết là vô ký, nếu thật đạt đạo thì chẳng nghi, ví như hư không thênh thang rỗng rang, đâu thể dối nói phải quấy.” Ngay đó ngài Triệu Châu liền ngộ.
Nay tôi giải thích trắng ra cho quí vị thấy. Tất cả chúng ta, người học đạo hay tầm đạo, ai cũng nghĩ rằng trên đường tu phải tìm cho được đạo hay là thấy được đạo; nhưng muốn tìm được đạo, thấy được đạo phải làm sao? Chúng ta cứ nghĩ đạo là cái gì quí giá cao cả ở bên ngoài, chớ không phải ở nơi mình. Ngài Triệu Châu cũng có tâm niệm tương tự chúng ta nên đến hỏi ngài Nam Tuyền “thế nào là đạo”, ngài Nam Tuyền chỉ thẳng “tâm bình thường là đạo”. Tâm bình thường không phải là tâm nghĩ chuyện năm trên năm dưới, vừa có dấy niệm lên là động, mà động là bất bình thường. Thế nên tâm bình thường là tâm phẳng lặng không động, tâm đó là đạo, chớ chẳng đâu xa, cũng như nói mặt nước phẳng là khi nào không dậy sóng. Phẳng tức là lặng lẽ, là bình thường, vừa dấy sóng lên là động, là bất bình thường. Như vậy ngài Nam Tuyền không ngại chỉ thẳng cho chúng ta thấy “tâm bình thường là đạo” chớ không phải cái gì xa xôi. Ngài Triệu Châu chưa hài lòng, nói “lại có thể nhằm tiến đến chăng”, nếu tâm bình thường như vậy thì tôi có thể tiến đến để đạt đạo được chăng. Ngài nói tiến đến để đạt đạo, thì cái nghĩ tiến đến là bình thường hay bất bình thường. Vừa nghĩ tiến đến là bất bình thường, mà bất bình thường là mất đạo, mất tâm. Vì vậy ngài Nam Tuyền trả lời “nghĩ nhằm tiến đến là trái”, trái với đạo, trái với tâm. Ngài Triệu Châu cũng chưa hài lòng, Ngài nghĩ đạo là cái gì phải do suy nghĩ mà biết mới gọi là đạo, chẳng lẽ tâm lặng xuống bình thường là đạo hay sao. Vì vậy Ngài mới hỏi thêm “khi chẳng nghĩ làm sao biết là đạo”, nghĩa là đạo là cái do suy nghĩ mà biết, nhận ra, nay không cho suy nghĩ, không cho biết thì làm sao biết đó là đạo. Ngài Nam Tuyền mới bảo “đạo chẳng thuộc biết và chẳng biết, biết là vọng giác, không biết là vô ký”, nghĩa là tâm lặng lẽ đó là đạo, vừa dấy biết thì đó là vọng giác, còn không biết gì cả đó là vô ký, cả hai đều sai. Nếu thật đạt đạo thì không còn nghi ngờ gì nữa. Đạo rỗng rang thênh thang như hư không, không thể nói là phải hay quấy, vừa nói phải quấy là hai bên, là trái với đạo. Ngay đó ngài Triệu Châu ngộ được tâm bình thường là đạo.
Tôi dẫn thêm Thiền sư Đạo Ngộ. Sùng Tín trước kia là người làm bánh bao trước cổng chùa, biết phát tâm cúng dường nên hôm nào cũng đem vài cái bánh bao đến cúng thầy (tức Thiền sư Đạo Ngộ). Như thế trong một thời gian, ngài Đạo Ngộ nghĩ thương tình người có đạo tâm, nên khi Sùng Tín đem bánh bao cúng cho Ngài, Ngài để lại một cái và nói: “Ta cho lại ngươi để về nuôi dưỡng con cháu.” Sùng Tín ngạc nhiên quá thưa: “Con cúng cho Thầy mà Thầy cho lại con để làm gì?” Đạo Ngộ nói: “Ngươi cúng cho ta, ta cho lại ngươi thì có lỗi gì?” Câu chuyện đối đáp đó làm Sùng Tín băn khoăn: Tại sao mình cúng cho thầy mà thầy cho lại mình? Suy nghĩ một lúc không biết ông hiểu làm sao rồi phát tâm đi tu. Sau khi ông xuất gia, ngài Đạo Ngộ bảo: “Nay ông làm Thị giả cho ta, ta sẽ chỉ tâm yếu cho ông.” Từ đó Sư bắt đầu làm Thị giả, mãi đến hai ba năm không thấy ngài Đạo Ngộ chỉ dạy tâm yếu gì cả. Cho đến một hôm thắc mắc quá, Sư ẩn nhẫn không nổi mới ra hỏi thầy: “Từ ngày con vào đây đến nay chưa được Thầy chỉ tâm yếu.” Đạo Ngộ bảo: “Từ ngày ngươi vào đây, ta chưa từng chẳng chỉ dạy tâm yếu cho ngươi.” Sư nghi, hỏi thêm: “Thầy chỉ dạy ở chỗ nào?” Đạo Ngộ bảo: “Ngươi dâng trà lên, ta vì ngươi mà tiếp, ngươi bưng cơm đến, ta vì ngươi mà nhận, ngươi xá lui ra thì ta gật đầu, chỗ nào chẳng chỉ dạy tâm yếu?” Như vậy chỉ dạy tâm yếu không có lời. Nghĩa là dâng trà thì đưa tay tiếp, dọn cơm xong mời thì bắt đầu đến ngồi cầm đũa. Cho tới xá lui ra thì gật đầu, chỗ nào mà không chỉ dạy tâm yếu. Sùng Tín cúi đầu im lặng suy nghĩ, tại sao việc đó là tâm yếu? Sư vừa suy nghĩ, Đạo Ngộ liền bảo: “Thấy thì thẳng đó liền thấy, suy nghĩ liền sai.” Qua câu nói đó, Sư ngộ, liền hỏi thêm: “Làm sao giữ gìn?” Đạo Ngộ bảo: “Mặc tánh tiêu dao, tuỳ duyên phóng khoáng, chỉ hết tâm phàm chẳng có Thánh giải khác.” Đó là điểm đặc biệt tôi sẽ giải thích thêm cho rõ.
Khi Thị giả dâng chung trà, mình đưa tay nhận chung trà, lúc đó có suy nghĩ gì không, có biết không? Đón nhận chung trà mà không có một niệm suy nghĩ gì cả. Khi Thị giả dọn cơm sẵn, xá mời thì mình bước tới ngồi và cầm đũa, lúc đó thế nào? Ngồi cầm đũa đâu có gì phải suy nghĩ. Khi Thị giả xá chào lui thì mình gật đầu, trong lúc gật đầu đâu có suy nghĩ gì. Như vậy trong những động tác hằng ngày của chúng ta mà không có một niệm nghĩ suy, đó là tâm yếu rồi. Tâm yếu hiện rõ ràng trong mọi hành động, nếu thấy được chỗ đó thì chỗ nào mà không chỉ tâm yếu, không dạy tâm yếu. Như vậy tâm yếu này có giống tâm bình thường không? Đâu có hai. Nhưng ở đây đặc biệt là khi Sùng Tín cúi đầu suy nghĩ việc đó sao gọi là tâm yếu thì Đạo Ngộ nói thẳng một câu “thấy thì thẳng đó liền thấy, vừa suy nghĩ liền sai”. Trong những hành động, ngay đó mà thấy, vừa suy nghĩ liền sai; chúng ta thấy rõ tâm yếu là gì rồi. Nên ngay câu đó Sư mới ngộ, chớ khi kể những hành động trên Sư chưa ngộ được. Nhưng khi ngộ rồi, làm sao gìn giữ để đừng mất tâm yếu đó? Đây là vấn đề then chốt. Khi hỏi làm sao gìn giữ thì Đạo Ngộ trả lời: “Mặc tánh tiêu dao, tuỳ duyên phóng khoáng, chỉ hết tâm phàm chẳng có Thánh giải khác.” Rất nhiều người hiểu lầm câu này: “mặc tánh tiêu dao” nghĩa là thế nào? Nghĩa là chúng ta thổi sáo, đi dọc đường dọc sá như là người điên phải không? Thong thả rong chơi xứ này xứ nọ, thổi sáo thổi kèn hoặc là đàn địch v.v... như vậy có phải là “nhậm tánh tiêu dao” không? “Nhậm tánh tiêu dao” hay “mặc tánh tiêu dao” là thế nào? Quí vị nhớ tánh tiêu dao chớ không phải thân tiêu dao, phải rõ chỗ đó. Tánh của mình thế nào gọi là mặc tánh tiêu dao? Tánh thấy, tánh nghe có động không? Có giới hạn không? Bởi nó không động, không giới hạn cho nên nó thênh thang; trong cái thênh thang không động đó, cứ mặc nó đừng kềm đừng giữ thì đó là mặc tánh tiêu dao; chớ không phải nói mặc tánh tiêu dao rồi cầm ống sáo đi nơi này, nơi kia thổi, rồi nói tôi mặc tánh tiêu dao. Đó là cuồng Tăng chớ không phải tiêu dao, đừng hiểu lầm điểm đó.
Tánh của mình thênh thang lặng lẽ, không bận không phiền, đừng thêm một cái gì cho nó nữa, đừng kềm đừng giữ thì gọi là tánh tiêu dao. Chúng ta lâu nay tu là kềm giữ, bởi kềm giữ nên trái với Tự tánh, phải hiểu thật rõ chỗ đó. Có khi ta hiểu lầm chữ tuỳ duyên phóng khoáng. Tuỳ duyên là duyên đến thì mình theo; phóng là buông, khoáng là rộng rãi; buông hết, không vướng, không bận, không bị điều gì làm phiền nhiễu, đó gọi là tuỳ duyên phóng khoáng. Chúng ta đâu không nghe bài kệ của Sơ tổ Trúc Lâm: “Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên”, nghĩa là ở trong chỗ bụi trần mà vui với đạo, tức là vui với tâm bình thường, rồi hãy tuỳ duyên. Tuỳ duyên như thế nào? “Cơ tắc san hề khốn tắc miên” đói thì ăn, mệt thì ngủ đó gọi là tuỳ duyên, là phóng khoáng. Còn gặp quán rượu thì bước vào hay thấy rạp hát thì lao tới, đó phải là tuỳ duyên phóng khoáng không? Tuỳ duyên phóng khoáng là trong cuộc sống bình thường, đến ăn thì ăn, đến mặc thì mặc, đến nghỉ thì nghỉ hay làm công tác trong phạm vi nhà chùa, như quét chùa, nhổ cỏ mà tâm vẫn thênh thang rộng rãi, vẫn an nhiên tự tại, không để một niệm nào làm rối làm bận lòng mình. Đừng nói phóng khoáng rồi bày ra những chuyện tầm phào, gặp nữ sắc cũng không kỵ, gặp rượu chè cũng không tránh, rồi nói tuỳ duyên phóng khoáng. Trong nhà thiền gọi đó là cuồng thiền. Chính những trọng điểm này tôi muốn nhắc thật kỹ để quí vị hiểu mà tu, chớ nhiều khi hiểu lầm có thể là hoạ trên đường tu.
Tôi nhắc lại tánh chúng ta lặng lẽ thênh thang, không phải kềm, không phải giữ, đó là mặc tánh tiêu dao. Gặp công tác nào làm công tác ấy, gặp ăn thì ăn, gặp nghỉ thì nghỉ, mà tâm chúng ta vẫn lặng lẽ thênh thang đó là tuỳ duyên phóng khoáng. Ăn, nghỉ, mặc, trong nề nếp đạo đức, chớ không phải ăn, mặc, nghỉ theo cách của nhiều người nói “đói thì ăn”, rồi khi xuống chợ, đói liền vào quán ngồi ăn, hay khi đi đường mệt thì nằm ì ngoài đường ngủ rồi nói “mệt thì ngủ”. Đó gọi là cuồng thiền, thiền hiểu một cách loạn không đúng lẽ thật, làm trái với tư cách người tu, làm trò cười cho thiên hạ.
“Chỉ hết tâm phàm chẳng có Thánh giải khác”, chủ yếu là hết tâm phàm. Tâm phàm là tâm vọng tưởng điên đảo. Buông xả hết những tâm vọng tưởng điên đảo là đủ, đó là đạo, chớ đừng mong thấy gì đặc biệt hay tuyệt vời. Thường người tu hay mong thấy những gì kỳ đặc, mong có những tiếng lạ, mong có những điều huyền diệu. Thế nên khi lặng hết vọng tưởng, chúng ta chưa hài lòng, chúng ta muốn thấy hào quang, muốn biết bay v.v... muốn có cái gì của Thánh đem vào mình, đó là bệnh của đa số người tu. Ngài dạy: “chỉ hết tâm phàm chẳng có Thánh giải khác”, tức là những vọng tưởng điên đảo của chúng ta sạch hết thì đó là Thánh rồi, không có Thánh giải nào ở ngoài đến. Ngừng ngay phàm tình tức là vọng tưởng, nó là chủ của nghiệp, là nhân của luân hồi sanh tử, hết nhân đó là giải thoát sanh tử. Chỗ không sanh, không diệt nhưng hằng tri hằng giác là cái bất sanh, bất tử, như vậy không phải Thánh là gì? Thế mà chúng ta đòi thêm Thánh nữa, có phải là đầu lại thêm đầu hay không? Do đây Ngài chỉ thẳng cho chúng ta biết chỉ cần hết vọng tưởng thôi, đừng đòi thêm điều gì khác nữa. Có nhiều người thường hỏi tôi, sau khi vọng tưởng lặng hết thì còn cái gì, tức là muốn thêm Thánh giải nữa phải không? Tôi chỉ trả lời: Ráng hết vọng tưởng giùm tôi đã, đừng có đòi. Như vậy chủ yếu của người tu là dứt mầm sanh tử luân hồi, khi nhân sanh tử luân hồi hết, đó là giải thoát, chớ không còn giải thoát nào khác nữa. Hết tâm phàm thì ngay đó là đạo. Đây là chỗ thiết yếu của ngài Đạo Ngộ dạy. Sau khi chúng ta nhận được đạo hay tâm yếu trong mọi hành động của mình, muốn gìn giữ nó thì phải mặc tánh tiêu dao tức là đừng kềm đừng giữ. Có nhiều người nói “giữ tâm thanh tịnh” thì tôi hay nhắc giữ là sai, là trái với mặc tánh tiêu dao. Vì cái thanh tịnh đó là Tự tánh của mình mà giữ nó tức nhiên là bị kềm, là hết tiêu dao. Còn tùy duyên phóng khoáng là theo duyên gặp hành động nào thì thực thi hành động đó, gặp ăn thì ăn, mặc thì mặc, nghỉ thì nghỉ, nhưng tâm thênh thang rộng rãi, chớ không phải nói tuỳ duyên phóng khoáng rồi làm những điều trái đạo đức. Lâu ngày tâm phàm tự hết, khi ấy không cần Thánh giải nào khác, vì tự nó là Thánh. Đó là chỗ chỉ dạy đầy đủ của ngài Đạo Ngộ.
Tôi dẫn thêm một câu chuyện nữa, như trong đoạn đầu chúng ta thấy ngài Triệu Châu ngộ đạo nơi ngài Nam Tuyền, ngộ ngay chỗ “bình thường tâm là đạo” nên sau này Ngài dạy lại đồ đệ, đây tôi dẫn câu chuyện: Một hôm có vị Tăng mới vào chùa, đến thưa với Ngài rằng: “Con mới vào tùng lâm, xin Thầy chỉ dạy.” Ngài Triệu Châu hỏi: “Ăn cháo xong chưa?” Tăng thưa: “Ăn xong.” Ngài bảo: “Rửa bát đi.” Dạy cái gì lạ vậy? Người ta nói giải thoát nói giác ngộ v.v... phải không? Đây chỉ hỏi “ăn cháo xong chưa”, khi ông Tăng trả lời “ăn xong”, Ngài bảo “rửa bát đi”, ngay đó ông Tăng ngộ. Như vậy ông Tăng ngộ cái gì? Cái ngộ này có khác với cái ngộ của ngài Sùng Tín hay không?
Dâng trà thì tiếp, dâng cơm thì nhận, xá lui ra thì cúi đầu. Ở đây ăn cháo xong thì rửa bát, có phải là “bình thường tâm” hay không? Như thế quí vị mới thấy rõ các ngài chỉ dạy lại nhau cái đó, chớ chẳng cái gì khác hơn, chính cái mình đã nhận được nơi thầy thì đem truyền lại cho đệ tử, nhưng truyền lại một cách rất lạ lùng phải không? Không ai có thể hiểu nổi! Tại sao bảo ăn cháo, bảo rửa bát mà lại ngộ đạo, đạo ở chỗ nào? Vì vậy nên sau này Thiền sư Hoằng Trí có làm một bài tụng để ca ngợi chỗ đó. Ngài nói:
Chúc bãi linh giao tẩy bát bồn,
Hoát nhiên tâm địa tự tương phù.
Như kim tham bảo tùng lâm khách,
Thả đạo kỳ gian hữu ngộ vô?
Tôi tạm dịch:
Cháo xong liền dạy rửa chén tô,
Bỗng dưng tâm địa tự tương phù
Hiện nay là khách tùng lâm cũ,
Hãy nói khoảng này có ngộ không?
Chúng ta ở trong tùng lâm mười năm, mười lăm năm có bằng vị Tăng bảo ăn cháo, bảo rửa chén đó không? Thật là đơn giản, mới vào mà bảo “ăn cháo đi”, thưa “ăn cháo xong”, bảo “rửa bát đi” liền ngộ đạo. Quí vị thấy người xưa dạy: Đạo là chỗ bình thường đó. Ăn cháo rửa bát có phải là mặc tánh tiêu dao, tuỳ duyên phóng khoáng hay không? Hiểu được đoạn trên thì đến chỗ này chúng ta không thấy lạ.
Đến câu chuyện thứ tư: Ngài Động Sơn Thủ Sơ, khi còn là một Thiền khách, Ngài đến hỏi đạo nơi ngài Vân Môn. Ngài Vân Môn hỏi: “Ông vừa rời chỗ nào?” Ngài thưa: “rời Tra Độ”, tức là từ Tra Độ đến. Ngài Vân Môn hỏi: “Mùa hạ ở đâu?” Thủ Sơ đáp: “Ở chùa Báo Ân tại Hồ Nam.” Vân Môn hỏi: “Rời chỗ kia lúc nào?” Thủ Sơ đáp: “Ngày 25 tháng 8.” Vân Môn bảo: “Tha ông ba gậy! Đến nhà tham thiền đi.” Quí vị có thấy thắc mắc không? Có lỗi gì mà bảo “tha ông ba gậy, xuống nhà tham thiền đi”? Thủ Sơ làm lỗi gì? Nếu không có lỗi tại sao tha ba gậy? Đó là cái kỳ đặc của ngài Vân Môn. Đọc sách thiền, đến đoạn này, ai cũng bóp trán, phải không? Hỏi đâu nói đó một cách thật thà không một chút điêu ngoa, tại sao lại tha ba gậy, rồi bảo xuống nhà tham thiền. Đó là một thắc mắc, mà chính sư Thủ Sơ cũng thắc mắc; có lẽ trưa đó Sư ngủ không được, cho nên đến chiều Sư đi thẳng vào thất của ngài Vân Môn hỏi: “Bạch Hòa thượng khi sáng con có lỗi gì?” Nếu ở trường hợp Sư, chúng ta cũng thắc mắc như vậy. Ngài Vân Môn nói: “Cái túi cơm, Giang Tây, Hồ Nam là thế ấy!” Quí vị thấy Ngài nói làm sao? Ngài quở “cái túi cơm, Giang Tây, Hồ Nam là thế ấy”, Giang Tây tức là chỗ của Mã Tổ, Hồ Nam là chỗ của ngài Thạch Đầu. Đó là hai vị Thiền sư nổi tiếng đời Đường. “Là thế ấy” nghĩa là sao?
Quí vị thấy hỏi “ở đâu”, thưa “ở Tra Độ”; hỏi “mùa hạ ở đâu”, thưa “ở chùa Báo Ân tại Hồ Nam”; hỏi “rời chỗ kia lúc nào”, thưa “ngày 25 tháng 8”; đó có phải là chuyện bình thường hay không? Trả lời như vậy có cần phải suy nghĩ gì không? Hỏi đâu đáp đó rõ ràng bình dị, không phải suy nghĩ gì cả. Trong khi hỏi đáp bình thường không bận suy nghĩ đó có phải là tâm bình thường hay không? Chính chỗ đó. Nhưng Ngài muốn làm cho nổi sóng, nổi gió nên Ngài nói “tha ông ba gậy”, đó là nổi sóng đó. Chúng ta không hiểu lỗi tại chỗ nào, đó là cái kỳ đặc của ngài Vân Môn, ta phục Ngài là phục ở điểm đó. Câu “tha ba gậy” làm cho mình thắc mắc băn khoăn không biết tại sao câu trả lời rất bình dị mà Ngài cho là có lỗi. Thế nên sư Thủ Sơ đợi đến chiều lên hỏi lại, khi hỏi lại thì ngài Vân Môn quở “cái túi cơm”, nghĩa là ông không có thông minh chút nào hết, như là cái túi cơm vậy thôi! Ở “Giang Tây, Hồ Nam là thế ấy”: chỗ Mã Tổ, chỗ ngài Thạch Đầu chỉ dạy cái đó thôi, cái chỗ bình thường đó! Ngay đó Thủ Sơ ngộ. Sư ngộ đạo là nhờ cái kỳ đặc hay cái khéo tay của ngài Vân Môn. Đọc qua câu chuyện ai cũng phải ngạc nhiên, ngạc nhiên ở điểm nào? Chỗ “tha ông ba gậy” đó. Trong nhà thiền gọi đó là cái thuật làm sóng gió, chính nhờ cái thuật đó mà sư Thủ Sơ mới nhận ra một cách dễ dàng. Như vậy quí vị thấy các Thiền sư ngày xưa có dạy điều gì khác đâu phải không? Các ngài chỉ muốn chỉ cái chân thật cho chúng ta, mà cái chân thật đó là ngay chỗ bình thường. Trong mọi hành động, mọi ngôn ngữ, nếu không thêm dấy niệm suy nghĩ thì ngay trong đó là đạo. Như vậy ở đây có người nào không có cái đó? Tất cả chúng ta ai thiếu cái đó? Thế mà có ai dám nhận không?
Đến đây tôi dẫn câu chuyện có mà không chịu nhận: chuyện ông Sa-di Cao. Khi ngài Dược Sơn và ông Sa-di Cao nói chuyện, qua câu trả lời của Sa-di Cao, ngài Dược Sơn biết đó là người đã thấy, nên mới khoe với các đồ đệ lớn như Vân Nham, Đạo Ngô, nhưng hai vị này chưa tin. Vì vậy ngài Dược Sơn muốn hỏi lại một lần nữa, để xác định lối trả lời của Sa-di Cao đúng lẽ thật cho hai vị kia tin. Ngài mới hỏi ông Sa-di Cao: “Ta nghe ở Trường An rất náo loạn, ngươi có biết chăng?” Sa-di Cao trả lời: “Nước con an ổn.” Ngài hỏi thêm: “Ngươi do xem kinh được hay thưa hỏi được?” Ông Sa-di Cao đáp: “Chẳng do xem kinh được cũng chẳng do thưa hỏi được.” Ngài Dược Sơn hỏi: “Có lắm người chẳng xem kinh, chẳng thưa hỏi sao chẳng được?” Ông Sa-di Cao đáp: “Chẳng nói họ không được, chỉ vì họ không chịu thừa nhận.” Câu chuyện ngừng ngang đây.
Tôi nói ra ngoài một chút, tôi hỏi quí vị: “Vào mười hai giờ đêm giao thừa này, ở dưới phố đốt pháo ồn lắm, quí vị có nghe chăng?” Quí vị thử trả lời tôi xem. Sao không trả lời giống ông Sa-di Cao? Sao không trả lời rằng: “Chùa con yên tĩnh.” Quí vị trả lời theo câu hỏi của tôi mà không trả lời theo ông Sa-di Cao. Dưới chợ thì pháo nổ ồn, nhưng ở chùa mình thì yên tĩnh. Tôi nói như vậy, quí vị thấy sao? Có thấy gì ở chỗ đó chưa? Nếu quí vị trả lời như tôi trả lời là hợp với ông Sa-di Cao, còn nếu nói “nghe pháo nổ ở dưới phố” thì chưa hợp.
Tôi nhắc lại cho quí vị thấy, ngài Dược Sơn nói: “Ta nghe ở Trường An (Trường An là thủ đô của nhà Đường) rất náo loạn (tức là ồn náo) ngươi có biết chăng?” Nếu trả lời như quí vị thì nói “dạ biết” phải không? Cũng như tôi hỏi: “Ở dưới chợ, khi hôm pháo nổ ồn, quí vị có nghe chăng?” Quí vị nói: “Dạ nghe.” Như vậy câu trả lời đó không hợp với ý Sa-di Cao. Sa-di Cao liền thưa: “Nước con an ổn.” Ông ở trong nước Tàu, Trường An là thủ đô nước Tàu, tại sao ông nói “nước con an ổn”? Câu trả lời của tôi “chùa con yên tĩnh” hợp với ý ông Sa-di Cao. Tại sao vậy? Trả lời như vậy có cái kỳ đặc gì trong đó? Quí vị thấy chưa? Động là ồn, người qua lại xôn xao là náo, ồn náo là tiếng động và người xôn xao. Thấy kẻ qua người lại xôn xao là thấy, tiếng động là ồn là nghe. Khi hỏi ồn náo là muốn hỏi ông có thấy có nghe sự ồn náo ngoài kia chăng. Sa-di Cao trả lời “nước con an ổn”, hay là nước con yên tĩnh. Người đi là xôn xao mà cái thấy có xôn xao hay không? Như vậy động là tiếng, xôn xao là người, còn cái thấy, cái nghe có động, có xôn xao bao giờ. Thế nên nói “nước con an ổn” hay “chùa con yên tĩnh” là để chứng minh người đó đang nhớ cái của mình không động. Động là cái bên ngoài! Trái lại, khi hỏi “nghe không”, chúng ta đáp “dạ nghe”, là chúng ta đã lệ thuộc vào bên ngoài mất rồi! Như vậy để thấy người xưa muốn thí nghiệm người được luôn luôn nhớ mình, nhớ không quên; đó mới là người thường sống với cái thật. Thế nên qua câu trả lời thì ngài Dược Sơn chấp nhận ngay, cả hai huynh đệ là ngài Vân Nham và ngài Đạo Ngô đều gật đầu. Nhưng muốn thí nghiệm thêm nữa, ngài Dược Sơn mới hỏi “ngươi do xem kinh được hay thưa hỏi được”, cái không động đó là do ngươi xem kinh được hay thưa hỏi thiện tri thức mà được. Nếu là chúng ta thì trả lời như thế nào? “Dạ do thưa hỏi được.” Ông trả lời rằng “chẳng do xem kinh được cũng chẳng do thưa hỏi được”. Cái nghe, cái thấy đâu phải do kinh mà được, đâu phải do thầy dạy mà được, phải không? Cái đó đã sẵn nơi mình từ khi cha mẹ sanh đến giờ. Nó đã sẵn rồi đâu đợi xem kinh hay thưa hỏi. Thế nên ông trả lời “chẳng do xem kinh được, cũng chẳng do thưa hỏi được”, đó là chỉ thẳng cái của mình có sẵn từ xưa, mới nghe như có vẻ phủ nhận công ơn Thầy Tổ phải không? Nhưng sự thật là như vậy, Thầy Tổ chỉ là người chỉ bóng thôi, còn cái thật là cái sẵn nơi mình. Ngài Dược Sơn mới hỏi thêm câu nữa “có lắm người chẳng xem kinh, chẳng thưa hỏi, sao chẳng được”, ý Ngài nói chẳng xem kinh, chẳng thưa hỏi mà được thì có nhiều người họ không xem kinh, không thưa hỏi sao chẳng được. Đây là gạn lại lần chót, Sa-di Cao trả lời “chẳng nói họ không được, chỉ vì không chịu thừa nhận thôi”, có sẵn đó mà không nhận nên coi như không được, chớ có người nào không được. Câu nói chí lý vô cùng! Quí vị được hay không được? Chỉ cần biết thừa nhận hay không, phải vậy không? Nếu không biết thừa nhận, thì mình là kẻ lang thang, hạt châu trong chéo áo mà vẫn là kẻ cùng tử, quí vị phải nhớ rõ. Để kết thúc tôi dẫn một câu chuyện lý thú nữa là chuyện ngài Tử Hồ bắt ăn trộm. Câu chuyện này tôi thích nhất và hay kể nhiều nhất, tôi biết quí vị thuộc, nhưng mỗi lần kể là một lần mới. Nhớ như vậy! Ngài Tử Hồ là một vị Hòa thượng Thiền sư, chúng của Ngài được trên năm trăm người. Một hôm giữa đêm, bỗng Ngài la to: “Ăn trộm! Ăn trộm!” Chúng hốt hoảng chạy đến, người đầu tiên chạy đến bị Ngài chụp ôm nói: “Bắt được rồi! Bắt được rồi!” Người bị bắt hoảng hốt thưa: “Dạ con! Không phải, không phải!” Ngài nói: “Phải! Phải! Chỉ tại ông không dám nhận thôi!” Quí vị thấy câu chuyện nói điều gì? Cả năm trăm người, ai cũng có cái đó mà không dám nhận, buộc lòng Ngài phải dùng phương tiện kỳ đặc: Ôm một ông thầy nói ăn trộm, tự nhiên ông phải bào chữa “dạ con, không phải ăn trộm”. Thế nên ông nói “con, không phải, không phải” thì Ngài nói “phải, phải, chỉ tại ông không dám nhận thôi”. Thành ra hai chữ “phải” và “không phải” nhắm vào việc gì? Ông Tăng nói “không phải” là không phải ăn trộm, nhưng Ngài nói “phải” là phải cái gì? Thành ra chữ thì như đối đáp nhau, mà ý thì thật là khác muôn dặm! Chữ “phải, phải” của Ngài là chỉ cho chúng ta ai cũng sẵn có mà không chịu nhận. Như vậy hình ảnh Ngài chụp một người la ăn trộm, người đó nói con không phải ăn trộm thì Ngài nói “phải, phải, tại ngươi không dám nhận”, câu chuyện đó chừng nào chúng ta mới quên được?
Người xưa muốn cho chúng ta thừa nhận cái thật của mình mà lâu nay đã bỏ quên, nên các ngài dùng đủ phương tiện để nhắc chúng ta nhớ. Riêng tôi không có phương tiện khéo như vậy, nên tôi mới dẫn chuyện của người xưa để nhắc cho quí vị nhớ. Qua những câu chuyện tôi kể và giải thích ở đây, nếu quí vị nhận được, biết quí nó như hòn ngọc vô giá hay một hạt minh châu thì lời giải thích của tôi hôm nay là hữu ích, tức tôi là kẻ có công. Nếu quí vị nhận được nó mà xem thường, nghĩ rằng cái đó ai mà không có, một thằng bé con cũng có, ông già cũng có, có gì quan trọng; nếu quí vị xem thường như vậy thì tôi là kẻ có tội. Vì muốn cho quí vị tiến tu không còn ngờ vực nữa, nên tôi không ngại rụng hết lông mày vì quí vị mà chỉ thẳng, nếu quí vị biết ngay nơi đó quí trọng gìn giữ như hòn ngọc báu thì quí vị sẽ là người hữu dụng trong nhà đạo, và tôi cũng là người giúp quí vị đủ lòng tin để tiến tu. Bằng không, nếu quí vị xem thường điều đó, thì đó là lỗi lớn của chúng tôi.
BÀI THUYẾT PHÁP ĐẦU TIÊN CỦA ĐỨC PHẬT:
NGUỒN GỐC PHẬT PHÁP
Tất niên năm Ất Sửu - 1986
Hôm nay nhân ngày cuối năm, chúng tôi nhắc lại bài thuyết pháp đầu tiên của đức Phật để chúng ta nắm vững đầu mối của sự tu hành và đi đúng con đường đức Phật đã vạch sẵn.
Là con người, ai cũng yêu thương, quí trọng, gìn giữ bản thân mình, vì thế mà lo âu sợ hãi, khổ đau. Chủ yếu của sự tu hành là phải biết rõ bản thân chúng ta như thế nào? Thường chúng ta hướng bên ngoài, luôn chạy theo ngũ dục lục trần, cả đời tạo nghiệp khổ mà không tự biết. Thế nên trong bài thuyết pháp đầu tiên cho năm anh em ông Kiều-trần-như, đức Phật đi thẳng vào vấn đề với bài pháp Tứ đế.
Đức Phật chỉ thẳng con người thật của chúng ta, con người đó thật sự là đau khổ hay an vui mà mình quí trọng, thương yêu, gìn giữ? Nếu không hiểu con người thật của mình, mà lo tìm hiểu những việc bên ngoài, đó là bỏ cội gốc theo ngọn ngành. Cũng như đứng trước một căn nhà, muốn tìm hiểu căn nhà ấy, trước tiên chúng ta phải tìm hiểu ông chủ, sau đó tìm hiểu căn nhà không khó, con người là chủ còn sự vật chung quanh chỉ là bạn, là phụ thuộc. Danh từ chuyên môn nhà Phật gọi con người là chánh báo, ngoại cảnh là y báo. Chánh báo tốt, y báo theo đó mà tốt; chánh báo xấu, y báo theo đó mà xấu. Vì vậy chánh báo là chủ, y báo là bạn, là phụ. Nhưng chúng ta chỉ tìm hiểu y báo mà không hiểu rõ chánh báo, đó là một khuyết điểm lớn.
Khi dạy tu hành, việc đầu tiên đức Phật bắt buộc chúng ta phải xác định thân này là khổ hay vui? Thấy thật rõ điều đó, chúng ta mới nhận đúng tất cả vấn đề. Mọi sự mọi vật đều phải qua cách nhìn và cách phán đoán của chúng ta, nếu chúng ta không tự biết mình mà nói biết sự vật chung quanh đúng lẽ thật, điều đó không bao giờ có. Vì vậy phải biết mình đúng như thật, rồi mới biết người, biết ngoại cảnh đúng như thật. Nếu biết mình một cách sai lầm, thì với người và ngoại cảnh mình cũng biết sai lầm. Cho nên chủ yếu của đạo Phật là phải biết rõ mình.
Bài thuyết pháp đầu tiên của đức Phật là pháp Tứ đế. Thứ nhất đức Phật nói về Khổ đế. Chúng ta lầm tưởng Khổ đế là cái gì xa lạ bên ngoài, sự thật Khổ đế xác nhận sự khổ ngay nơi con người chúng ta. Chúng ta phải xét lại thật kỹ con người mình là khổ hay vui? Nếu là khổ phải cố gắng tu cho hết khổ, nếu là vui thì tu làm chi cho thừa. Biết đúng như thật rồi, chúng ta mới nói đến chuyện tu hành. Thân này là cội gốc, nếu không biết rõ nó mà biết những việc khác cũng chỉ là việc bên ngoài thôi.
Khi nghe đức Phật nói thân này là khổ, chúng ta đều cho rằng đạo Phật là bi quan, chán đời. Nhưng đây là một lẽ thật không thể chối cãi được. Vì thế dùng chữ khổ suông chưa đủ mà phải nói “Khổ đế”, tức là cái khổ đúng như thật, chớ không phải chuyện tưởng tượng phi lý.
Đức Phật nêu lên Tứ khổ hoặc Bát khổ. Tứ khổ gồm có: sanh, già, bệnh, chết. Chúng ta thường nghĩ sanh là mới lọt lòng mẹ, khóc oa oa là khổ. Nhưng theo chúng tôi nghĩ, sanh còn là sanh hoạt của mình trong cuộc sống hằng ngày. Từ thuở bé thơ đến lúc tuổi già, những điều chúng ta ước muốn được như ý nhiều hay không như ý nhiều? Trong mười điều ước muốn, chúng ta đạt được nhiều lắm là ba điều, còn lại là không như ý. Như ý là vui, không như ý là khổ, vui ít, khổ nhiều, tức là đau khổ quá nhiều.
Tuổi già có khổ không? Khi còn trẻ, da dẻ hồng hào, sức khỏe đầy đủ muốn làm điều gì, muốn đi nơi nào đều được như ý. Đến lúc già nua, sức khỏe suy mòn, đi đứng run rẩy, nói năng lập cập, răng long má cóp, còn gì là sung sướng như tuổi thanh xuân. Tuổi già chẳng khổ là gì?
Đến cái khổ thứ ba là bệnh. Bệnh thì làm sao vui được! Cái khổ thứ tư là chết. Như vậy sanh, già, bệnh, chết là bốn cái khổ không ai chối cãi được. Bốn cái khổ đó do đâu mà có? Do thân vô thường của chúng ta luôn luôn đổi thay chuyển biến nên có sanh, già, bệnh, chết. Vì thế mà chúng ta đau khổ. Thử kiểm lại xem trên thế gian này có ai thoát khỏi bốn cái khổ đó không? Chắc hẳn là không, vì đó là luật chung của kiếp người. Cho nên Phật nói Khổ đế tức cái khổ là một lẽ thật.
Xa hơn nữa, Phật nói đến tám cái khổ. Ngoài bốn cái khổ: sanh, già, bệnh, chết nơi bản thân mình, Phật nói thêm bốn cái khổ nữa là: Ái biệt ly khổ, người mình thương yêu mà phải xa lìa nên đau khổ; oán tắng hội khổ, người mình không ưa mà phải giáp mặt nên khổ; cầu bất đắc khổ, những gì mình thích và mong cầu mà không được như ý nên khổ. Đó là ba cái khổ liên hệ giữa mình với người và sự vật chung quanh. Đến cái khổ cuối là ngũ ấm xí thạnh khổ, tức thân ngũ ấm này là gốc của đau khổ, cái khổ này chung cả thể xác lẫn tinh thần. Thân ngũ ấm của con người gồm phần vật chất và tinh thần, là một dòng biến chuyển, bởi thân vô thường biến chuyển nên đau khổ. Khi biết thân là vô thường chúng ta có nên say mê, tô điểm nó cho đẹp hơn người không, có vun bồi nó để thụ hưởng cho lâu dài không? Như khi chúng ta biết rõ món đồ giả, chỉ dùng đôi ba năm thì hư bể, thử hỏi làm sao giữ gìn nó được một trăm năm. Cho nên khi biết món vật chỉ dùng được đôi ba năm, chúng ta phải tận dụng nó cho hữu ích, chớ không cố giữ nó làm gì. Thân chúng ta cũng như vậy, tạm bợ, vô thường và đau khổ, nếu chúng ta không sử dụng nó cho hữu ích, lợi mình, lợi người, thì uổng phí cuộc đời. Nếu thấy thân mình quí đẹp thì chúng ta sanh tâm kiêu căng ngã mạn, thấy thân mình lâu bền thì chúng ta lo tích lũy dành dụm, thấy mình hơn người nên sanh tâm khinh rẻ kẻ khác. Thế là vừa thấy thân lâu dài quí báu, thì bao nhiêu tật xấu theo đó mà sanh.
Hiện nay chúng ta thấy thân mình vô thường, đau khổ hay thấy nó chân thật lâu dài? Chúng ta không dám xác nhận mạnh mẽ thân này là vô thường, cứ nghĩ rằng mình sẽ sống đến tám chín mươi tuổi. Già như những vị bảy mươi tuổi cũng nghĩ mình sẽ sống đến chín mươi tuổi, chớ không bao giờ nghĩ mình có thể chết một vài năm gần đây! Đó là lẽ thật mà chúng ta không gan dạ nhìn thẳng, cứ tưởng tượng đời sống mình còn lâu dài, nên việc tu cũng yếu, việc làm lợi ích chúng sanh cũng nhẹ. Đó là một khuyết điểm của chúng ta.
Biết rõ thân này là đau khổ vì vô thường, chúng ta phải cố làm sao cho mình và người hết khổ. Chúng ta phải tìm nguyên nhân của đau khổ, điều này đức Phật đã chỉ rõ trong đế thứ hai, đó là Tập đế. Nguyên nhân của đau khổ là ba độc: tham, sân, si, hay nói nhiều hơn là sáu thứ căn bản phiền não: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến.
Sở dĩ chúng ta khổ trong cuộc sống vì muốn mà không được nên bất như ý. Muốn thuộc về tham, bởi tham nên mới có bất như ý. Có những cái tham vượt quá khả năng mình, ví dụ khả năng mình có năm hay bảy, mà mình tham đến một ngàn, như vậy là tham muốn quá sức, nên bất như ý quá nhiều thì đau khổ cũng quá lắm. Khi muốn cái này được rồi, lại muốn đến cái khác, lòng tham cứ tăng mãi không dừng, nên địa vị nào, ở hoàn cảnh nào, con người cũng bất như ý. Khả năng mình hữu hạn mà lòng tham vô hạn, làm sao không đau khổ.
Khi đến tuổi già, chúng ta khổ, vì sao? Vì muốn trẻ mãi. Nếu không tham trẻ, khi già đến chúng ta cứ cười với cái già, thì có khổ gì đâu! Cái chết cũng như vậy. Vì muốn sống nên khi cái chết đến mình khổ. Sanh, già, bệnh, chết đều khổ, gốc từ lòng tham mà ra, nếu hết tham thì bốn cái khổ đâu còn.
Do sân nên khổ, điều này dễ hiểu. Do si nên khổ, cũng dễ hiểu. Si là không thấy đúng như thật, vì không thấy đúng như thật nên mới tham. Thấy đúng lẽ thật rồi, khả năng mình bao nhiêu, thấy rõ bấy nhiêu, không sai lầm, không tham quá sức mình thì đâu có khổ. Vì vậy tham, sân, si là nguyên nhân của đau khổ, rõ ràng như vậy.
Khi biết rõ nguồn gốc của đau khổ là tham, sân, si, hay chung tất cả là sáu thứ căn bản phiền não, muốn hết đau khổ, phải làm sao? Đến đây đức Phật nói đế thứ ba là Diệt đế. Như một ông thầy thuốc thấy bệnh nhân đang bị bệnh hoành hành, ông thầy muốn trị bệnh, trước hết phải làm sao? Tức phải tìm nguyên nhân bệnh, rồi sau đó mới trị, nguyên nhân bệnh hết rồi, quả bệnh tự dứt. Vì thế Diệt đế là diệt hết nguyên nhân tạo thành quả đau khổ, nguyên nhân diệt sạch rồi, quả đau khổ hết, hết khổ gọi là vui.
Chủ yếu đạo Phật là dạy chúng ta thấy được quả đau khổ, rồi tìm nguyên nhân gây đau khổ, và tiêu diệt nguyên nhân đó, tức nhiên quả đau khổ hết. Cũng như khi biết bệnh do một loại vi trùng phá hoại hoành hành, biết được vi trùng đó rồi, dùng thuốc trị, vi trùng chết hết, bệnh sẽ được lành. Vì thế, Diệt đế là diệt sạch nguyên nhân đau khổ.
Muốn diệt sạch nguyên nhân đau khổ, tức phải dùng những phương pháp, đến đây đức Phật dạy đế thứ tư là Đạo đế. Trong các kinh A-hàm, Đạo đế gồm Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, nhưng căn bản là Bát chánh đạo. Chúng ta thấy rõ đức Phật nói Khổ đế là chỉ lẽ thật nơi bản thân mình. Khi nhận thức thấu đáo lẽ thật đó, chúng ta phăng lần đến nguyên nhân của nó, rồi tìm cách diệt sạch các nguyên nhân ấy thì quả đau khổ đâu còn. Muốn tiêu diệt các nguyên nhân đau khổ phải dùng những phương pháp, đó là Đạo đế.
Pháp Tứ đế nhắm thẳng vào con người chúng ta từ quả đến nhân, từ khổ đến hết khổ, chớ không có nghĩa khổ rồi cam chịu khổ. Người đời mang thân khổ mà không biết khổ, không biết khổ thì nói gì đến diệt khổ! Vì vậy mang thân khổ mà tưởng là vui, rồi tự hào hãnh diện. Chúng ta thử nghĩ đáng giận hay đáng thương? Như một người bị bệnh hủi nặng không còn sống bao lâu nữa, nhiều lắm là sáu tháng hay một năm mà họ cứ giận người này, ghét người kia, hung dữ, tham lam, tật đố, như vậy đáng thương hay đáng giận? Mang cái thân đau khổ, mỏng manh mà không tự biết, thật là đáng thương chớ không đáng ghét.
Chúng ta tu Phật bắt đầu bằng chữ khổ, mà kết thúc bằng chữ lạc. Cho nên biết khổ, rồi tiêu diệt nguyên nhân khổ để được vui, chớ đâu phải biết khổ để rồi chịu khổ. Pháp Phật dạy rất lạc quan, vì Phật chỉ cho chúng ta thấy quả đau khổ rồi tìm cách tiêu diệt nguyên nhân đau khổ, hết đau khổ tức là an vui. Quả thật mở màn bằng khổ mà kết thúc lại là vui. Còn ở thế gian mở màn bằng vui mà kết thúc lại là khổ. Thí dụ một người chưa biết uống rượu, gặp bạn bè nài nỉ uống rượu, lúc ấy thì vui lắm phải không? Nhưng đến khi uống say rồi ngã bờ ngã bụi lúc ấy khổ hay vui? Mở màn là vui mà kết quả là khổ, đó là điều lầm lẫn của thế gian.
Đức Phật chỉ thẳng đau khổ là căn bản để rồi tìm cách tiêu diệt nó để đưa đến an vui. Nhưng an vui trong đạo Phật như thế nào? Ví dụ khi chúng ta bị đói bụng quá sức, bao tử xót xa bào bọt, đó là khổ. Nhưng khi chúng ta ăn vào vừa đủ no, lúc bấy giờ cơn đói bụng hết thì cái khổ khi đói bụng cũng hết, nên nói ăn no thì vui. Hết khổ nên nói được vui. Như vậy cái vui ở đây, không phải là cái vui của tiệc trà mâm rượu, mà là cái vui an ổn, an nhiên tự tại. Thân mình khi đói đi không nổi, đứng không yên, đến chừng ăn được vài chén cơm thân thể khỏe mạnh trở lại muốn đi đâu, muốn làm việc gì cũng được nên gọi là vui. Cái vui này không phải cái vui nhộn nhịp bên ngoài.
Còn mang thân này chứa chấp tham sân si, chúng ta còn đau khổ. Nếu tiêu diệt hết tham sân si, tuy còn thân này mà lúc đó chúng ta không còn đau khổ. Còn thân là còn già còn chết, nhưng tham sân si, nguyên nhân của đau khổ đã diệt sạch rồi, lúc đó còn đau khổ hay không? Chúng ta phải xác nhận điều này cho thật rõ. Như những vị A-la-hán khi chứng quả rồi, tham sân si đã sạch hết, khi ấy các ngài cũng còn thân mà các ngài có khổ như chúng ta không? Khi già, chết đến các ngài có rên rỉ, có buồn thảm hay không? Các vị A-la-hán khi gần tịch, các ngài vui vẻ chớ không sợ sệt như chúng ta vì nhân đau khổ dứt rồi. Dù còn thân này, quả đau khổ cũng đã giảm bớt. Hiểu như vậy, chúng ta mới thấy hiệu nghiệm của sự tu hành. Nhiều người không hiểu nói rằng Diệt đế là diệt sạch nguyên nhân đau khổ rồi chết mới được Niết-bàn, mới hết khổ. Nếu chết rồi ai biết mình được Niết-bàn, ai biết mình hết khổ? Đó là chuyện hứa hẹn xa xôi thiếu thực tế. Như đức Phật sau khi thành đạo, Ngài mới ba mươi mốt tuổi cho đến tám mươi tuổi nhập Niết-bàn, trong khoảng thời gian bốn mươi chín năm, Ngài cũng già, cũng bệnh, cũng chết, nhưng Ngài đâu có khổ như chúng ta. Đó là điểm đặc biệt, là bằng chứng cụ thể của sự tu, không phải nói đợi đến chết nhập Niết-bàn mới hết khổ. Các vị Bồ-tát, A-la-hán cũng mang thân như chúng ta mà các ngài không khổ là như vậy. Chúng ta cũng thế, ngay trong thân này nếu diệt hết nguyên nhân đau khổ rồi cũng hết khổ.
Chúng ta tu cốt để dứt khổ, được vui. Chúng ta an vui nên muốn đem niềm vui đến cho mọi người, đó là tự lợi, lợi tha và cũng là lòng từ bi. Có giác ngộ liền có từ bi là như vậy. Nếu không giác ngộ, lòng từ cũng chỉ gượng thôi chớ không thật. Vì sao? Vì không giác ngộ thì còn mê lầm, tức còn đau khổ, nếu có thương người cũng chỉ thương gượng mà thôi, vì mình có hết khổ đâu mà lo cho người hết khổ. Thí dụ như chúng ta có nhiều của cải, khi thấy người đói thiếu mình tìm cách giúp họ dễ dàng. Nếu đang đói thiếu như họ, mình có nói tôi thương anh quá, tôi thương chị quá, đó cũng là lời nói suông, chớ không giúp họ một cách thiết thực được. Vì thế, có giác ngộ mới có từ bi, đó là lòng từ bi chân thật. Do hưởng được sự an vui, mình mới đem niềm vui đó cho người.
Hiện tại chúng ta chưa làm được nhiều lợi ích cho người, nhưng nỗ lực tu, dẹp sạch tham sân si. Khi được an ổn rồi, muốn làm lợi ích cho người rất là thuận lợi. Tham sân si chưa hết mà muốn làm lợi ích cho người, đôi khi cũng gặp trở ngại. Thí dụ bình thường tỉnh táo sáng suốt, thấy huynh đệ có nhiều phiền não, chúng ta khuyên nhủ. Nhưng đến khi chúng ta gặp việc bối rối, lời nói việc làm không còn sáng suốt nữa. Vì vậy người mà chúng ta khuyên dạy khi trước mất lòng tin nơi chúng ta, nên sự lợi tha không được trọn vẹn. Nếu được tỉnh mãi mãi, chắc không bao giờ làm mất lòng tin của người. Thế nên, tỉnh giác trọn vẹn, việc lợi tha mới được trọn vẹn, tỉnh giác chưa trọn vẹn, dù có lợi tha, cũng chỉ một phần nào thôi.
Nói tóm lại, khi biết rõ bản chất của thân là vô thường, đau khổ, chúng ta cố gắng dẹp sạch nguyên nhân đau khổ thì chúng ta được an vui. Đó là tinh thần pháp Tứ đế trong các bộ kinh A-hàm.
Qua cái nhìn của Tứ đế, thấy thân này là vô thường, đau khổ, nguyên nhân từ tham sân si mà ra. Dẹp sạch tham sân si thì đau khổ cũng hết. Còn qua cái nhìn của Bồ-tát Đại thừa và các Thiền sư lại khác, các ngài thấy rõ thân này là vô thường huyễn hóa. Nhưng trong cái vô thường huyễn hóa đó, bươi sâu vào lại có một cái không vô thường, không huyễn hoá. Đến đây là bước qua giai đoạn thứ hai.
Cái không vô thường, không huyễn hóa là gì? Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật nói chuyện với vua Ba-tư-nặc, nhà vua nói thân của ông lúc mười tuổi trẻ hơn lúc hai mươi tuổi, lúc hai mươi tuổi trẻ hơn lúc ba mươi tuổi, cho đến năm nay già hơn năm ngoái, tháng này già hơn tháng trước v.v... cho đến mỗi ngày mỗi phút mỗi giây nó đã đổi thay. Đức Phật bảo: Trong cái sanh diệt vô thường, hay trong cái già chết đổi thay đó, có một cái chưa từng già chết, ông có biết không? Nhà vua thưa không biết. Đức Phật mới chỉ cho Vua cái không già không chết ở ngay trong cái thân già chết. Cái không già không chết đó, đức Phật chỉ từ cái thấy, cái nghe.
Cũng trong kinh Lăng Nghiêm, đến đoạn đức Phật đưa tay lên xòe nắm, xòe nắm rồi hỏi ngài A-nan: Ông có thấy không? Ngài A-nan thưa: Dạ thấy. Hỏi: Thấy cái gì? Thưa: Thấy tay Phật xòe nắm. Hỏi: Tay ta xòe nắm, còn cái thấy của ông có xòe nắm không? Ngài A-nan thưa: Tay Phật có xòe nắm, chớ cái thấy của con không có xòe nắm. Xòe nắm tức là động, động là vô thường, là sanh diệt. Cái thấy không có xòe nắm, không xòe nắm tức không động, không động là không vô thường, không sanh diệt. Như vậy chúng ta thấy ngay trong thân vô thường sanh diệt này có cái không vô thường, không sanh diệt.
Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác nhận thấy ngay trong thân sanh diệt vô thường có Pháp thân chưa từng vô thường sanh diệt, cho nên phần đầu bài ca Chứng đạo, Ngài nói:
Pháp thân giác liễu vô nhất vật,
Bản nguyên tự tánh thiên chân Phật,
Ngũ uẩn phù vân không khứ lai,
Tam độc thủy bào hư xuất một.
Pháp thân giác liễu vô nhất vật là ngay trong thân ngũ uẩn này nhận ra được Pháp thân. Pháp thân đó không có một vật, cũng gọi là Bản nguyên, là Tự tánh, là Phật thiên chân. Khi nhận được Pháp thân rồi, nhìn lại ngũ uẩn này, thấy như thế nào? Ngũ uẩn phù vân không khứ lai, nghĩa là thân ngũ uẩn này chẳng khác nào như mây nổi bay qua lại trong bầu trời, khi tụ khi tán, lúc có lúc không, có nghĩa lý gì đâu! Tam độc thủy bào hư xuất một. Tam độc là tham sân si, chẳng khác nào như bọt nước chợt nổi chợt tan, mất còn trong khoảnh khắc, đâu có lâu bền.
Ngộ được Pháp thân rồi, thấy thân ngũ uẩn như mây nổi, tham sân si như bong bóng nước, chúng ta tuy còn thân này nhưng có thấy khổ hay không? Hàng Nhị thừa thấy thân này là khổ, nguyên nhân của khổ là tham sân si. Đến Đại thừa nhất là Thiền tông, ngay nơi thân đau khổ sanh diệt vô thường, thấy được Pháp thân chưa từng vô thường sanh diệt. Đứng từ Pháp thân nhìn lại thân vô thường sanh diệt chẳng khác nào như đám mây nổi, ba độc tham sân si như bong bóng nước. Như vậy quả và nhân của thân này đều là tạm bợ giả dối, không có nghĩa lý gì. Đối với thân này còn buồn khổ hay không, còn rên rỉ trước sự mất còn của nó hay không? Nhận được Pháp thân chân thật rồi, thân vô thường đau khổ này không còn gì quan trọng.
Bồ-tát không sợ tam độc, cũng không quí tiếc thân này, vì sao? Vì các ngài đã giác ngộ, thấy được Pháp thân ngay trong thân sanh diệt. Giác ngộ tức là hết si mê, biết thân như mây nổi nên không còn tham lam, tham lam hết sân hận dứt. Các hàng Bồ-tát không còn sợ thân này đau khổ, cũng không còn sợ nguyên nhân làm cho thân này đau khổ, cho nên các ngài luôn luôn vui vẻ.
Các vị chưa chứng Bồ-tát, còn tu theo hạnh A-la-hán, thấy thân này là đau khổ, sanh tử là đau khổ, thấy tham sân si là nguyên nhân gây đau khổ, cho nên nếu chưa dẹp sạch ba độc, các ngài không bao giờ vui được. Các ngài tu hành khổ hạnh, luôn luôn cố gắng để tiêu diệt tham sân si. Còn các Bồ-tát nhận được thân chân thật ngay trong thân này nên các ngài hằng tỉnh hằng an.
Cổ đức có bài tụng sau đây:
Chư Phật tại tâm đầu,
Người mê chạy ngoài cầu,
Trong ôm báu vô giá,
Chẳng biết một đời thôi.
Phật tại tâm đầu. Phật ở đâu? Tức ở ngay nơi tâm của mình. Dấy niệm là động, trước khi dấy niệm là tịnh. Khi chưa dấy niệm, Phật ở ngay đó rồi, vừa dấy niệm là thành chúng sanh. Niệm lặng xuống Phật hiện trở lại. Người mê chạy ngoài cầu. Người mê chạy tìm Phật ở núi này, non kia, ở Tà Lơn, Ông Cấm, không bao giờ thấy Phật ngay nơi tâm mình. Trong ôm báu vô giá tức là trong lòng đã ôm sẵn châu báu vô giá. Chẳng biết một đời thôi, trong tâm ôm sẵn ngọc báu vô giá mà không biết để luống qua uổng phí một đời.
Qua bốn câu tụng đơn giản của Thiền sư, chúng ta thấy rõ ràng Phật không ở đâu xa, chỉ ngay nơi tâm. Mình không biết nên chạy nơi này nơi kia, trèo non lội suối để tìm Phật, nào có gặp Phật đâu. Đã có sẵn ngọc báu vô giá ở trong lòng mà không hay biết để trôi qua một đời, thật đáng tiếc đáng thương!
Người tu Phật dù tu theo hạnh Thanh văn hay hạnh Bồ-tát, mục đích là đạt được sự an vui. Hàng Thanh văn thấy thân là khổ, tìm nguyên nhân của khổ để tiêu diệt, khổ diệt sạch hết là được an vui. Còn Bồ-tát thấy rõ trong thân đau khổ có cái chân thường an lạc, các ngài sống với cái chân thường an lạc đó, cũng được an vui. Thanh văn và Bồ-tát ở hai quan điểm khác nhau, nảy sanh lòng từ bi, chỉ dạy cũng khác nhau. Các vị Thanh văn thấy thân là đau khổ, diệt hết khổ được an vui. Nhìn lại chúng sanh mang thân đau khổ mà không tự biết, lại say sưa trong đó, các ngài khởi lòng từ bi chỉ dạy cho con người diệt nguyên nhân đau khổ để được an vui. Còn Bồ-tát thấy ngay nơi thân vô thường đau khổ, có cái chân thường an lạc. Các ngài không dạy dẹp tham sân si, mà dạy phải giác ngộ, thấy được cái chân thật ngay trong cái hư dối. Giác ngộ là phá được si, nên tham không còn, mà sân cũng hết. Các ngài không dạy pháp tu, mà bảo chúng ta phải nhận được cái chân thường an lạc, Thiền tông gọi đây là Kiến tánh khởi tu. Nhận được cái chân thật rồi, chúng ta từ từ bỏ những sai lầm. Hàng Đại thừa chỉ thẳng cho chúng ta thấy trong thân vô thường có cái chân thường. Vì thế biết bao nhiêu kinh điển Đại thừa đều nhắm vào điểm này. Trong kinh Pháp Hoa, Phật nói chỉ có một Phật thừa, chỉ thẳng cho chúng ta Tri kiến Phật. Kinh Lăng Nghiêm cốt chỉ Chân tâm, kinh Viên Giác chỉ thẳng tánh Viên giác.
Thiền tông cũng vậy, bảo chúng ta phải kiến tánh, nghĩa là nhận ra Bản tánh rồi khởi tu, đó là căn bản. Chúng ta phải thấy ngay nơi thân tạm bợ hư dối có cái chân thật. Đừng lầm thân giả dối cho là chân thật. Nếu mê lầm cho thân giả dối là chân thật, thì mọi mê lầm khác sẽ theo đó sanh ra không thể kể hết. Nhận được cái chân thật rồi, biết thân giả dối như mây nổi thì bao nhiêu vấn đề đều được giải quyết. Cho nên nói Đại thừa là đốn ngộ.
Lòng từ bi của Đại thừa là chỉ cho chúng ta nhận được cái chân thật nơi mình. Nhận được cái chân thật rồi, thì thân này không còn quan trọng, cho nên hết đau khổ. Trong kinh Pháp Hoa, có ví dụ người nghèo đi lang thang say sưa, được bạn cho một viên ngọc báu vô giá cột trong chéo áo, bảo nhớ lấy ra mà tiêu dùng. Lòng từ bi là chỉ thẳng cho chúng ta thấy ngọc báu vô giá. Thế nên cả đời Bồ-tát Thường Bất Khinh chỉ làm một việc là nói: “Tôi không dám khinh các ngài, các ngài đều sẽ thành Phật.” Ngài cốt chỉ cho mọi người nhận được viên ngọc báu của mình. Các Bồ-tát đều nhắm thẳng chỉ cho chúng ta nhận ra ngọc báu đó, sự tu hành theo đó được dễ dàng và kết quả đúng như sở nguyện.
Không riêng gì hàng Bồ-tát Đại thừa mới có từ bi, mà hàng Nhị thừa cũng từ bi. Nhưng cái nhìn của hai bên khác nhau, nên mới chia thành Tiểu thừa Đại thừa. Dù sao mục tiêu chánh yếu cũng không hai, thấy rõ thân này là khổ, giải hết đau khổ là được an vui. Chủ yếu của đạo Phật dù Tiểu thừa hay Đại thừa cũng là đem lại nguồn vui cho chúng sanh, chớ không có chán nản. Đem lại nguồn vui tức là nguồn an ổn, phấn khởi, vui tươi. Người tu lâu có hiệu lực thì không buồn mà vui. Nếu tu lôi thôi, nghĩ đến cái được cái mất thì còn vui buồn. Thật tình tu có đạo lực thì được an ổn, ít có buồn vui.
Tất cả chúng ta từ Tăng Ni đến Phật tử nam nữ phải nỗ lực tu, làm sao mỗi ngày mỗi bớt khổ mới gọi là thật tu. Nếu tu mà càng ngày càng chồng chất thêm đau khổ, đó chưa phải là biết tu. Tu có nghĩa là giải khổ, chớ không phải tu để thêm khổ. Giải khổ gọi là biết tu, chưa giải khổ được chút nào đó là chưa biết tu. Dù ở chùa, dù học đạo nhiều năm mà chưa bớt khổ, cũng chưa phải là biết tu, đó là điều chúng tôi xác nhận rõ ràng như vậy.
Chúng ta học đạo cốt làm sao cho hết khổ. Với tinh thần Thiền tông, muốn hết khổ là phải nhận ra ngọc báu của mình hay là nhận được Pháp thân. Chúng tôi nhắc lại câu chuyện của ngài Cảnh Thanh, ngồi trong am với Thị giả. Ở bên ngoài có con rắn bắt con nhái, tiếng con nhái kêu ẹo ẹo. Ngài hỏi Thị giả: “Là tiếng gì?” Thị giả thưa: “Tiếng rắn bắt nhái, nhái kêu.” Ngài nói: “Chúng sanh khổ, lại có khổ chúng sanh.” Ý nghĩa làm sao? Cái nào là chúng sanh khổ, cái nào là khổ chúng sanh? Con nhái bị con rắn bắt, đó là chúng sanh khổ. Còn khổ chúng sanh là ai? Là chú Thị giả hay là ai? Hay là người quên mình theo vật? Ai quên mình theo vật thì người đó khổ, đó là khổ chúng sanh.
Ngay nơi mình có ngọc báu mà lúc nào cũng bỏ quên, mải chạy theo âm thanh sắc tướng bên ngoài, nên bị vô thường chi phối, do đó chúng ta khổ. Khi nghe tiếng chỉ theo tiếng mà không nhớ mình, khi thấy cảnh chỉ theo cảnh mà không nhớ mình. Vì vậy cảnh khổ gọi là chúng sanh khổ, quên mình đó là khổ chúng sanh. Khi ngài Cảnh Thanh hỏi, muốn không bị Ngài nói là khổ chúng sanh, chúng ta phải đáp thế nào thay cho Thị giả? Nếu có mặt nơi đó, chúng tôi sẽ đáp:
Quan Âm diệu trí lực,
Năng cứu chúng sanh khổ.
Để kết luận buổi nói chuyện hôm nay, chúng tôi dẫn một bài kệ bằng chữ Hán của Thiền sư Chân Nguyên vào đời Lê ở Việt Nam:
Nhất tánh viên minh cá cá đồng,
Bao la thiên địa tổng hư không,
Ngã kim trực chỉ Tây lai ý,
Tâm tịch linh tri thị chánh tông.
Nhất tánh viên minh cá cá đồng, một tánh tròn sáng mỗi người ai cũng đồng có sẵn như vậy. Bao la thiên địa tổng hư không, tánh tròn sáng ấy bao trùm cả trời đất và hư không. Nếu thấy được tánh bao la ấy thì thân này thật là bèo bọt không đáng kể. Ngã kim trực chỉ Tây lai ý, nay tôi nhắm thẳng ý Tây lai, tức là ý của Tổ sư từ Ấn Độ sang. Tâm tịch linh tri thị chánh tông, câu kết thúc này thật là quá hay. Tâm tịch là khi những tâm vọng tưởng phân biệt lặng xuống rồi, còn cái linh tri tức cái biết sáng suốt không phân biệt, đó là chánh tông mà Tổ Đạt-ma truyền sang.
Dịch:
Một tánh sáng tròn mỗi mỗi đồng,
Bao trùm trời đất cả hư không,
Nay ta nhắm thẳng Tây lai ý,
Tâm tịch linh tri ấy chánh tông.
Chúng ta tu thiền thấy ý Tổ sư từ Ấn Độ sang rõ ràng bằng một câu kết thúc: Tâm tịch linh tri ấy chánh tông.
NGUỒN GỐC PHẬT PHÁP
Tất niên năm Ất Sửu - 1986
Hôm nay nhân ngày cuối năm, chúng tôi nhắc lại bài thuyết pháp đầu tiên của đức Phật để chúng ta nắm vững đầu mối của sự tu hành và đi đúng con đường đức Phật đã vạch sẵn.
Là con người, ai cũng yêu thương, quí trọng, gìn giữ bản thân mình, vì thế mà lo âu sợ hãi, khổ đau. Chủ yếu của sự tu hành là phải biết rõ bản thân chúng ta như thế nào? Thường chúng ta hướng bên ngoài, luôn chạy theo ngũ dục lục trần, cả đời tạo nghiệp khổ mà không tự biết. Thế nên trong bài thuyết pháp đầu tiên cho năm anh em ông Kiều-trần-như, đức Phật đi thẳng vào vấn đề với bài pháp Tứ đế.
Đức Phật chỉ thẳng con người thật của chúng ta, con người đó thật sự là đau khổ hay an vui mà mình quí trọng, thương yêu, gìn giữ? Nếu không hiểu con người thật của mình, mà lo tìm hiểu những việc bên ngoài, đó là bỏ cội gốc theo ngọn ngành. Cũng như đứng trước một căn nhà, muốn tìm hiểu căn nhà ấy, trước tiên chúng ta phải tìm hiểu ông chủ, sau đó tìm hiểu căn nhà không khó, con người là chủ còn sự vật chung quanh chỉ là bạn, là phụ thuộc. Danh từ chuyên môn nhà Phật gọi con người là chánh báo, ngoại cảnh là y báo. Chánh báo tốt, y báo theo đó mà tốt; chánh báo xấu, y báo theo đó mà xấu. Vì vậy chánh báo là chủ, y báo là bạn, là phụ. Nhưng chúng ta chỉ tìm hiểu y báo mà không hiểu rõ chánh báo, đó là một khuyết điểm lớn.
Khi dạy tu hành, việc đầu tiên đức Phật bắt buộc chúng ta phải xác định thân này là khổ hay vui? Thấy thật rõ điều đó, chúng ta mới nhận đúng tất cả vấn đề. Mọi sự mọi vật đều phải qua cách nhìn và cách phán đoán của chúng ta, nếu chúng ta không tự biết mình mà nói biết sự vật chung quanh đúng lẽ thật, điều đó không bao giờ có. Vì vậy phải biết mình đúng như thật, rồi mới biết người, biết ngoại cảnh đúng như thật. Nếu biết mình một cách sai lầm, thì với người và ngoại cảnh mình cũng biết sai lầm. Cho nên chủ yếu của đạo Phật là phải biết rõ mình.
Bài thuyết pháp đầu tiên của đức Phật là pháp Tứ đế. Thứ nhất đức Phật nói về Khổ đế. Chúng ta lầm tưởng Khổ đế là cái gì xa lạ bên ngoài, sự thật Khổ đế xác nhận sự khổ ngay nơi con người chúng ta. Chúng ta phải xét lại thật kỹ con người mình là khổ hay vui? Nếu là khổ phải cố gắng tu cho hết khổ, nếu là vui thì tu làm chi cho thừa. Biết đúng như thật rồi, chúng ta mới nói đến chuyện tu hành. Thân này là cội gốc, nếu không biết rõ nó mà biết những việc khác cũng chỉ là việc bên ngoài thôi.
Khi nghe đức Phật nói thân này là khổ, chúng ta đều cho rằng đạo Phật là bi quan, chán đời. Nhưng đây là một lẽ thật không thể chối cãi được. Vì thế dùng chữ khổ suông chưa đủ mà phải nói “Khổ đế”, tức là cái khổ đúng như thật, chớ không phải chuyện tưởng tượng phi lý.
Đức Phật nêu lên Tứ khổ hoặc Bát khổ. Tứ khổ gồm có: sanh, già, bệnh, chết. Chúng ta thường nghĩ sanh là mới lọt lòng mẹ, khóc oa oa là khổ. Nhưng theo chúng tôi nghĩ, sanh còn là sanh hoạt của mình trong cuộc sống hằng ngày. Từ thuở bé thơ đến lúc tuổi già, những điều chúng ta ước muốn được như ý nhiều hay không như ý nhiều? Trong mười điều ước muốn, chúng ta đạt được nhiều lắm là ba điều, còn lại là không như ý. Như ý là vui, không như ý là khổ, vui ít, khổ nhiều, tức là đau khổ quá nhiều.
Tuổi già có khổ không? Khi còn trẻ, da dẻ hồng hào, sức khỏe đầy đủ muốn làm điều gì, muốn đi nơi nào đều được như ý. Đến lúc già nua, sức khỏe suy mòn, đi đứng run rẩy, nói năng lập cập, răng long má cóp, còn gì là sung sướng như tuổi thanh xuân. Tuổi già chẳng khổ là gì?
Đến cái khổ thứ ba là bệnh. Bệnh thì làm sao vui được! Cái khổ thứ tư là chết. Như vậy sanh, già, bệnh, chết là bốn cái khổ không ai chối cãi được. Bốn cái khổ đó do đâu mà có? Do thân vô thường của chúng ta luôn luôn đổi thay chuyển biến nên có sanh, già, bệnh, chết. Vì thế mà chúng ta đau khổ. Thử kiểm lại xem trên thế gian này có ai thoát khỏi bốn cái khổ đó không? Chắc hẳn là không, vì đó là luật chung của kiếp người. Cho nên Phật nói Khổ đế tức cái khổ là một lẽ thật.
Xa hơn nữa, Phật nói đến tám cái khổ. Ngoài bốn cái khổ: sanh, già, bệnh, chết nơi bản thân mình, Phật nói thêm bốn cái khổ nữa là: Ái biệt ly khổ, người mình thương yêu mà phải xa lìa nên đau khổ; oán tắng hội khổ, người mình không ưa mà phải giáp mặt nên khổ; cầu bất đắc khổ, những gì mình thích và mong cầu mà không được như ý nên khổ. Đó là ba cái khổ liên hệ giữa mình với người và sự vật chung quanh. Đến cái khổ cuối là ngũ ấm xí thạnh khổ, tức thân ngũ ấm này là gốc của đau khổ, cái khổ này chung cả thể xác lẫn tinh thần. Thân ngũ ấm của con người gồm phần vật chất và tinh thần, là một dòng biến chuyển, bởi thân vô thường biến chuyển nên đau khổ. Khi biết thân là vô thường chúng ta có nên say mê, tô điểm nó cho đẹp hơn người không, có vun bồi nó để thụ hưởng cho lâu dài không? Như khi chúng ta biết rõ món đồ giả, chỉ dùng đôi ba năm thì hư bể, thử hỏi làm sao giữ gìn nó được một trăm năm. Cho nên khi biết món vật chỉ dùng được đôi ba năm, chúng ta phải tận dụng nó cho hữu ích, chớ không cố giữ nó làm gì. Thân chúng ta cũng như vậy, tạm bợ, vô thường và đau khổ, nếu chúng ta không sử dụng nó cho hữu ích, lợi mình, lợi người, thì uổng phí cuộc đời. Nếu thấy thân mình quí đẹp thì chúng ta sanh tâm kiêu căng ngã mạn, thấy thân mình lâu bền thì chúng ta lo tích lũy dành dụm, thấy mình hơn người nên sanh tâm khinh rẻ kẻ khác. Thế là vừa thấy thân lâu dài quí báu, thì bao nhiêu tật xấu theo đó mà sanh.
Hiện nay chúng ta thấy thân mình vô thường, đau khổ hay thấy nó chân thật lâu dài? Chúng ta không dám xác nhận mạnh mẽ thân này là vô thường, cứ nghĩ rằng mình sẽ sống đến tám chín mươi tuổi. Già như những vị bảy mươi tuổi cũng nghĩ mình sẽ sống đến chín mươi tuổi, chớ không bao giờ nghĩ mình có thể chết một vài năm gần đây! Đó là lẽ thật mà chúng ta không gan dạ nhìn thẳng, cứ tưởng tượng đời sống mình còn lâu dài, nên việc tu cũng yếu, việc làm lợi ích chúng sanh cũng nhẹ. Đó là một khuyết điểm của chúng ta.
Biết rõ thân này là đau khổ vì vô thường, chúng ta phải cố làm sao cho mình và người hết khổ. Chúng ta phải tìm nguyên nhân của đau khổ, điều này đức Phật đã chỉ rõ trong đế thứ hai, đó là Tập đế. Nguyên nhân của đau khổ là ba độc: tham, sân, si, hay nói nhiều hơn là sáu thứ căn bản phiền não: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến.
Sở dĩ chúng ta khổ trong cuộc sống vì muốn mà không được nên bất như ý. Muốn thuộc về tham, bởi tham nên mới có bất như ý. Có những cái tham vượt quá khả năng mình, ví dụ khả năng mình có năm hay bảy, mà mình tham đến một ngàn, như vậy là tham muốn quá sức, nên bất như ý quá nhiều thì đau khổ cũng quá lắm. Khi muốn cái này được rồi, lại muốn đến cái khác, lòng tham cứ tăng mãi không dừng, nên địa vị nào, ở hoàn cảnh nào, con người cũng bất như ý. Khả năng mình hữu hạn mà lòng tham vô hạn, làm sao không đau khổ.
Khi đến tuổi già, chúng ta khổ, vì sao? Vì muốn trẻ mãi. Nếu không tham trẻ, khi già đến chúng ta cứ cười với cái già, thì có khổ gì đâu! Cái chết cũng như vậy. Vì muốn sống nên khi cái chết đến mình khổ. Sanh, già, bệnh, chết đều khổ, gốc từ lòng tham mà ra, nếu hết tham thì bốn cái khổ đâu còn.
Do sân nên khổ, điều này dễ hiểu. Do si nên khổ, cũng dễ hiểu. Si là không thấy đúng như thật, vì không thấy đúng như thật nên mới tham. Thấy đúng lẽ thật rồi, khả năng mình bao nhiêu, thấy rõ bấy nhiêu, không sai lầm, không tham quá sức mình thì đâu có khổ. Vì vậy tham, sân, si là nguyên nhân của đau khổ, rõ ràng như vậy.
Khi biết rõ nguồn gốc của đau khổ là tham, sân, si, hay chung tất cả là sáu thứ căn bản phiền não, muốn hết đau khổ, phải làm sao? Đến đây đức Phật nói đế thứ ba là Diệt đế. Như một ông thầy thuốc thấy bệnh nhân đang bị bệnh hoành hành, ông thầy muốn trị bệnh, trước hết phải làm sao? Tức phải tìm nguyên nhân bệnh, rồi sau đó mới trị, nguyên nhân bệnh hết rồi, quả bệnh tự dứt. Vì thế Diệt đế là diệt hết nguyên nhân tạo thành quả đau khổ, nguyên nhân diệt sạch rồi, quả đau khổ hết, hết khổ gọi là vui.
Chủ yếu đạo Phật là dạy chúng ta thấy được quả đau khổ, rồi tìm nguyên nhân gây đau khổ, và tiêu diệt nguyên nhân đó, tức nhiên quả đau khổ hết. Cũng như khi biết bệnh do một loại vi trùng phá hoại hoành hành, biết được vi trùng đó rồi, dùng thuốc trị, vi trùng chết hết, bệnh sẽ được lành. Vì thế, Diệt đế là diệt sạch nguyên nhân đau khổ.
Muốn diệt sạch nguyên nhân đau khổ, tức phải dùng những phương pháp, đến đây đức Phật dạy đế thứ tư là Đạo đế. Trong các kinh A-hàm, Đạo đế gồm Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, nhưng căn bản là Bát chánh đạo. Chúng ta thấy rõ đức Phật nói Khổ đế là chỉ lẽ thật nơi bản thân mình. Khi nhận thức thấu đáo lẽ thật đó, chúng ta phăng lần đến nguyên nhân của nó, rồi tìm cách diệt sạch các nguyên nhân ấy thì quả đau khổ đâu còn. Muốn tiêu diệt các nguyên nhân đau khổ phải dùng những phương pháp, đó là Đạo đế.
Pháp Tứ đế nhắm thẳng vào con người chúng ta từ quả đến nhân, từ khổ đến hết khổ, chớ không có nghĩa khổ rồi cam chịu khổ. Người đời mang thân khổ mà không biết khổ, không biết khổ thì nói gì đến diệt khổ! Vì vậy mang thân khổ mà tưởng là vui, rồi tự hào hãnh diện. Chúng ta thử nghĩ đáng giận hay đáng thương? Như một người bị bệnh hủi nặng không còn sống bao lâu nữa, nhiều lắm là sáu tháng hay một năm mà họ cứ giận người này, ghét người kia, hung dữ, tham lam, tật đố, như vậy đáng thương hay đáng giận? Mang cái thân đau khổ, mỏng manh mà không tự biết, thật là đáng thương chớ không đáng ghét.
Chúng ta tu Phật bắt đầu bằng chữ khổ, mà kết thúc bằng chữ lạc. Cho nên biết khổ, rồi tiêu diệt nguyên nhân khổ để được vui, chớ đâu phải biết khổ để rồi chịu khổ. Pháp Phật dạy rất lạc quan, vì Phật chỉ cho chúng ta thấy quả đau khổ rồi tìm cách tiêu diệt nguyên nhân đau khổ, hết đau khổ tức là an vui. Quả thật mở màn bằng khổ mà kết thúc lại là vui. Còn ở thế gian mở màn bằng vui mà kết thúc lại là khổ. Thí dụ một người chưa biết uống rượu, gặp bạn bè nài nỉ uống rượu, lúc ấy thì vui lắm phải không? Nhưng đến khi uống say rồi ngã bờ ngã bụi lúc ấy khổ hay vui? Mở màn là vui mà kết quả là khổ, đó là điều lầm lẫn của thế gian.
Đức Phật chỉ thẳng đau khổ là căn bản để rồi tìm cách tiêu diệt nó để đưa đến an vui. Nhưng an vui trong đạo Phật như thế nào? Ví dụ khi chúng ta bị đói bụng quá sức, bao tử xót xa bào bọt, đó là khổ. Nhưng khi chúng ta ăn vào vừa đủ no, lúc bấy giờ cơn đói bụng hết thì cái khổ khi đói bụng cũng hết, nên nói ăn no thì vui. Hết khổ nên nói được vui. Như vậy cái vui ở đây, không phải là cái vui của tiệc trà mâm rượu, mà là cái vui an ổn, an nhiên tự tại. Thân mình khi đói đi không nổi, đứng không yên, đến chừng ăn được vài chén cơm thân thể khỏe mạnh trở lại muốn đi đâu, muốn làm việc gì cũng được nên gọi là vui. Cái vui này không phải cái vui nhộn nhịp bên ngoài.
Còn mang thân này chứa chấp tham sân si, chúng ta còn đau khổ. Nếu tiêu diệt hết tham sân si, tuy còn thân này mà lúc đó chúng ta không còn đau khổ. Còn thân là còn già còn chết, nhưng tham sân si, nguyên nhân của đau khổ đã diệt sạch rồi, lúc đó còn đau khổ hay không? Chúng ta phải xác nhận điều này cho thật rõ. Như những vị A-la-hán khi chứng quả rồi, tham sân si đã sạch hết, khi ấy các ngài cũng còn thân mà các ngài có khổ như chúng ta không? Khi già, chết đến các ngài có rên rỉ, có buồn thảm hay không? Các vị A-la-hán khi gần tịch, các ngài vui vẻ chớ không sợ sệt như chúng ta vì nhân đau khổ dứt rồi. Dù còn thân này, quả đau khổ cũng đã giảm bớt. Hiểu như vậy, chúng ta mới thấy hiệu nghiệm của sự tu hành. Nhiều người không hiểu nói rằng Diệt đế là diệt sạch nguyên nhân đau khổ rồi chết mới được Niết-bàn, mới hết khổ. Nếu chết rồi ai biết mình được Niết-bàn, ai biết mình hết khổ? Đó là chuyện hứa hẹn xa xôi thiếu thực tế. Như đức Phật sau khi thành đạo, Ngài mới ba mươi mốt tuổi cho đến tám mươi tuổi nhập Niết-bàn, trong khoảng thời gian bốn mươi chín năm, Ngài cũng già, cũng bệnh, cũng chết, nhưng Ngài đâu có khổ như chúng ta. Đó là điểm đặc biệt, là bằng chứng cụ thể của sự tu, không phải nói đợi đến chết nhập Niết-bàn mới hết khổ. Các vị Bồ-tát, A-la-hán cũng mang thân như chúng ta mà các ngài không khổ là như vậy. Chúng ta cũng thế, ngay trong thân này nếu diệt hết nguyên nhân đau khổ rồi cũng hết khổ.
Chúng ta tu cốt để dứt khổ, được vui. Chúng ta an vui nên muốn đem niềm vui đến cho mọi người, đó là tự lợi, lợi tha và cũng là lòng từ bi. Có giác ngộ liền có từ bi là như vậy. Nếu không giác ngộ, lòng từ cũng chỉ gượng thôi chớ không thật. Vì sao? Vì không giác ngộ thì còn mê lầm, tức còn đau khổ, nếu có thương người cũng chỉ thương gượng mà thôi, vì mình có hết khổ đâu mà lo cho người hết khổ. Thí dụ như chúng ta có nhiều của cải, khi thấy người đói thiếu mình tìm cách giúp họ dễ dàng. Nếu đang đói thiếu như họ, mình có nói tôi thương anh quá, tôi thương chị quá, đó cũng là lời nói suông, chớ không giúp họ một cách thiết thực được. Vì thế, có giác ngộ mới có từ bi, đó là lòng từ bi chân thật. Do hưởng được sự an vui, mình mới đem niềm vui đó cho người.
Hiện tại chúng ta chưa làm được nhiều lợi ích cho người, nhưng nỗ lực tu, dẹp sạch tham sân si. Khi được an ổn rồi, muốn làm lợi ích cho người rất là thuận lợi. Tham sân si chưa hết mà muốn làm lợi ích cho người, đôi khi cũng gặp trở ngại. Thí dụ bình thường tỉnh táo sáng suốt, thấy huynh đệ có nhiều phiền não, chúng ta khuyên nhủ. Nhưng đến khi chúng ta gặp việc bối rối, lời nói việc làm không còn sáng suốt nữa. Vì vậy người mà chúng ta khuyên dạy khi trước mất lòng tin nơi chúng ta, nên sự lợi tha không được trọn vẹn. Nếu được tỉnh mãi mãi, chắc không bao giờ làm mất lòng tin của người. Thế nên, tỉnh giác trọn vẹn, việc lợi tha mới được trọn vẹn, tỉnh giác chưa trọn vẹn, dù có lợi tha, cũng chỉ một phần nào thôi.
Nói tóm lại, khi biết rõ bản chất của thân là vô thường, đau khổ, chúng ta cố gắng dẹp sạch nguyên nhân đau khổ thì chúng ta được an vui. Đó là tinh thần pháp Tứ đế trong các bộ kinh A-hàm.
Qua cái nhìn của Tứ đế, thấy thân này là vô thường, đau khổ, nguyên nhân từ tham sân si mà ra. Dẹp sạch tham sân si thì đau khổ cũng hết. Còn qua cái nhìn của Bồ-tát Đại thừa và các Thiền sư lại khác, các ngài thấy rõ thân này là vô thường huyễn hóa. Nhưng trong cái vô thường huyễn hóa đó, bươi sâu vào lại có một cái không vô thường, không huyễn hoá. Đến đây là bước qua giai đoạn thứ hai.
Cái không vô thường, không huyễn hóa là gì? Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật nói chuyện với vua Ba-tư-nặc, nhà vua nói thân của ông lúc mười tuổi trẻ hơn lúc hai mươi tuổi, lúc hai mươi tuổi trẻ hơn lúc ba mươi tuổi, cho đến năm nay già hơn năm ngoái, tháng này già hơn tháng trước v.v... cho đến mỗi ngày mỗi phút mỗi giây nó đã đổi thay. Đức Phật bảo: Trong cái sanh diệt vô thường, hay trong cái già chết đổi thay đó, có một cái chưa từng già chết, ông có biết không? Nhà vua thưa không biết. Đức Phật mới chỉ cho Vua cái không già không chết ở ngay trong cái thân già chết. Cái không già không chết đó, đức Phật chỉ từ cái thấy, cái nghe.
Cũng trong kinh Lăng Nghiêm, đến đoạn đức Phật đưa tay lên xòe nắm, xòe nắm rồi hỏi ngài A-nan: Ông có thấy không? Ngài A-nan thưa: Dạ thấy. Hỏi: Thấy cái gì? Thưa: Thấy tay Phật xòe nắm. Hỏi: Tay ta xòe nắm, còn cái thấy của ông có xòe nắm không? Ngài A-nan thưa: Tay Phật có xòe nắm, chớ cái thấy của con không có xòe nắm. Xòe nắm tức là động, động là vô thường, là sanh diệt. Cái thấy không có xòe nắm, không xòe nắm tức không động, không động là không vô thường, không sanh diệt. Như vậy chúng ta thấy ngay trong thân vô thường sanh diệt này có cái không vô thường, không sanh diệt.
Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác nhận thấy ngay trong thân sanh diệt vô thường có Pháp thân chưa từng vô thường sanh diệt, cho nên phần đầu bài ca Chứng đạo, Ngài nói:
Pháp thân giác liễu vô nhất vật,
Bản nguyên tự tánh thiên chân Phật,
Ngũ uẩn phù vân không khứ lai,
Tam độc thủy bào hư xuất một.
Pháp thân giác liễu vô nhất vật là ngay trong thân ngũ uẩn này nhận ra được Pháp thân. Pháp thân đó không có một vật, cũng gọi là Bản nguyên, là Tự tánh, là Phật thiên chân. Khi nhận được Pháp thân rồi, nhìn lại ngũ uẩn này, thấy như thế nào? Ngũ uẩn phù vân không khứ lai, nghĩa là thân ngũ uẩn này chẳng khác nào như mây nổi bay qua lại trong bầu trời, khi tụ khi tán, lúc có lúc không, có nghĩa lý gì đâu! Tam độc thủy bào hư xuất một. Tam độc là tham sân si, chẳng khác nào như bọt nước chợt nổi chợt tan, mất còn trong khoảnh khắc, đâu có lâu bền.
Ngộ được Pháp thân rồi, thấy thân ngũ uẩn như mây nổi, tham sân si như bong bóng nước, chúng ta tuy còn thân này nhưng có thấy khổ hay không? Hàng Nhị thừa thấy thân này là khổ, nguyên nhân của khổ là tham sân si. Đến Đại thừa nhất là Thiền tông, ngay nơi thân đau khổ sanh diệt vô thường, thấy được Pháp thân chưa từng vô thường sanh diệt. Đứng từ Pháp thân nhìn lại thân vô thường sanh diệt chẳng khác nào như đám mây nổi, ba độc tham sân si như bong bóng nước. Như vậy quả và nhân của thân này đều là tạm bợ giả dối, không có nghĩa lý gì. Đối với thân này còn buồn khổ hay không, còn rên rỉ trước sự mất còn của nó hay không? Nhận được Pháp thân chân thật rồi, thân vô thường đau khổ này không còn gì quan trọng.
Bồ-tát không sợ tam độc, cũng không quí tiếc thân này, vì sao? Vì các ngài đã giác ngộ, thấy được Pháp thân ngay trong thân sanh diệt. Giác ngộ tức là hết si mê, biết thân như mây nổi nên không còn tham lam, tham lam hết sân hận dứt. Các hàng Bồ-tát không còn sợ thân này đau khổ, cũng không còn sợ nguyên nhân làm cho thân này đau khổ, cho nên các ngài luôn luôn vui vẻ.
Các vị chưa chứng Bồ-tát, còn tu theo hạnh A-la-hán, thấy thân này là đau khổ, sanh tử là đau khổ, thấy tham sân si là nguyên nhân gây đau khổ, cho nên nếu chưa dẹp sạch ba độc, các ngài không bao giờ vui được. Các ngài tu hành khổ hạnh, luôn luôn cố gắng để tiêu diệt tham sân si. Còn các Bồ-tát nhận được thân chân thật ngay trong thân này nên các ngài hằng tỉnh hằng an.
Cổ đức có bài tụng sau đây:
Chư Phật tại tâm đầu,
Người mê chạy ngoài cầu,
Trong ôm báu vô giá,
Chẳng biết một đời thôi.
Phật tại tâm đầu. Phật ở đâu? Tức ở ngay nơi tâm của mình. Dấy niệm là động, trước khi dấy niệm là tịnh. Khi chưa dấy niệm, Phật ở ngay đó rồi, vừa dấy niệm là thành chúng sanh. Niệm lặng xuống Phật hiện trở lại. Người mê chạy ngoài cầu. Người mê chạy tìm Phật ở núi này, non kia, ở Tà Lơn, Ông Cấm, không bao giờ thấy Phật ngay nơi tâm mình. Trong ôm báu vô giá tức là trong lòng đã ôm sẵn châu báu vô giá. Chẳng biết một đời thôi, trong tâm ôm sẵn ngọc báu vô giá mà không biết để luống qua uổng phí một đời.
Qua bốn câu tụng đơn giản của Thiền sư, chúng ta thấy rõ ràng Phật không ở đâu xa, chỉ ngay nơi tâm. Mình không biết nên chạy nơi này nơi kia, trèo non lội suối để tìm Phật, nào có gặp Phật đâu. Đã có sẵn ngọc báu vô giá ở trong lòng mà không hay biết để trôi qua một đời, thật đáng tiếc đáng thương!
Người tu Phật dù tu theo hạnh Thanh văn hay hạnh Bồ-tát, mục đích là đạt được sự an vui. Hàng Thanh văn thấy thân là khổ, tìm nguyên nhân của khổ để tiêu diệt, khổ diệt sạch hết là được an vui. Còn Bồ-tát thấy rõ trong thân đau khổ có cái chân thường an lạc, các ngài sống với cái chân thường an lạc đó, cũng được an vui. Thanh văn và Bồ-tát ở hai quan điểm khác nhau, nảy sanh lòng từ bi, chỉ dạy cũng khác nhau. Các vị Thanh văn thấy thân là đau khổ, diệt hết khổ được an vui. Nhìn lại chúng sanh mang thân đau khổ mà không tự biết, lại say sưa trong đó, các ngài khởi lòng từ bi chỉ dạy cho con người diệt nguyên nhân đau khổ để được an vui. Còn Bồ-tát thấy ngay nơi thân vô thường đau khổ, có cái chân thường an lạc. Các ngài không dạy dẹp tham sân si, mà dạy phải giác ngộ, thấy được cái chân thật ngay trong cái hư dối. Giác ngộ là phá được si, nên tham không còn, mà sân cũng hết. Các ngài không dạy pháp tu, mà bảo chúng ta phải nhận được cái chân thường an lạc, Thiền tông gọi đây là Kiến tánh khởi tu. Nhận được cái chân thật rồi, chúng ta từ từ bỏ những sai lầm. Hàng Đại thừa chỉ thẳng cho chúng ta thấy trong thân vô thường có cái chân thường. Vì thế biết bao nhiêu kinh điển Đại thừa đều nhắm vào điểm này. Trong kinh Pháp Hoa, Phật nói chỉ có một Phật thừa, chỉ thẳng cho chúng ta Tri kiến Phật. Kinh Lăng Nghiêm cốt chỉ Chân tâm, kinh Viên Giác chỉ thẳng tánh Viên giác.
Thiền tông cũng vậy, bảo chúng ta phải kiến tánh, nghĩa là nhận ra Bản tánh rồi khởi tu, đó là căn bản. Chúng ta phải thấy ngay nơi thân tạm bợ hư dối có cái chân thật. Đừng lầm thân giả dối cho là chân thật. Nếu mê lầm cho thân giả dối là chân thật, thì mọi mê lầm khác sẽ theo đó sanh ra không thể kể hết. Nhận được cái chân thật rồi, biết thân giả dối như mây nổi thì bao nhiêu vấn đề đều được giải quyết. Cho nên nói Đại thừa là đốn ngộ.
Lòng từ bi của Đại thừa là chỉ cho chúng ta nhận được cái chân thật nơi mình. Nhận được cái chân thật rồi, thì thân này không còn quan trọng, cho nên hết đau khổ. Trong kinh Pháp Hoa, có ví dụ người nghèo đi lang thang say sưa, được bạn cho một viên ngọc báu vô giá cột trong chéo áo, bảo nhớ lấy ra mà tiêu dùng. Lòng từ bi là chỉ thẳng cho chúng ta thấy ngọc báu vô giá. Thế nên cả đời Bồ-tát Thường Bất Khinh chỉ làm một việc là nói: “Tôi không dám khinh các ngài, các ngài đều sẽ thành Phật.” Ngài cốt chỉ cho mọi người nhận được viên ngọc báu của mình. Các Bồ-tát đều nhắm thẳng chỉ cho chúng ta nhận ra ngọc báu đó, sự tu hành theo đó được dễ dàng và kết quả đúng như sở nguyện.
Không riêng gì hàng Bồ-tát Đại thừa mới có từ bi, mà hàng Nhị thừa cũng từ bi. Nhưng cái nhìn của hai bên khác nhau, nên mới chia thành Tiểu thừa Đại thừa. Dù sao mục tiêu chánh yếu cũng không hai, thấy rõ thân này là khổ, giải hết đau khổ là được an vui. Chủ yếu của đạo Phật dù Tiểu thừa hay Đại thừa cũng là đem lại nguồn vui cho chúng sanh, chớ không có chán nản. Đem lại nguồn vui tức là nguồn an ổn, phấn khởi, vui tươi. Người tu lâu có hiệu lực thì không buồn mà vui. Nếu tu lôi thôi, nghĩ đến cái được cái mất thì còn vui buồn. Thật tình tu có đạo lực thì được an ổn, ít có buồn vui.
Tất cả chúng ta từ Tăng Ni đến Phật tử nam nữ phải nỗ lực tu, làm sao mỗi ngày mỗi bớt khổ mới gọi là thật tu. Nếu tu mà càng ngày càng chồng chất thêm đau khổ, đó chưa phải là biết tu. Tu có nghĩa là giải khổ, chớ không phải tu để thêm khổ. Giải khổ gọi là biết tu, chưa giải khổ được chút nào đó là chưa biết tu. Dù ở chùa, dù học đạo nhiều năm mà chưa bớt khổ, cũng chưa phải là biết tu, đó là điều chúng tôi xác nhận rõ ràng như vậy.
Chúng ta học đạo cốt làm sao cho hết khổ. Với tinh thần Thiền tông, muốn hết khổ là phải nhận ra ngọc báu của mình hay là nhận được Pháp thân. Chúng tôi nhắc lại câu chuyện của ngài Cảnh Thanh, ngồi trong am với Thị giả. Ở bên ngoài có con rắn bắt con nhái, tiếng con nhái kêu ẹo ẹo. Ngài hỏi Thị giả: “Là tiếng gì?” Thị giả thưa: “Tiếng rắn bắt nhái, nhái kêu.” Ngài nói: “Chúng sanh khổ, lại có khổ chúng sanh.” Ý nghĩa làm sao? Cái nào là chúng sanh khổ, cái nào là khổ chúng sanh? Con nhái bị con rắn bắt, đó là chúng sanh khổ. Còn khổ chúng sanh là ai? Là chú Thị giả hay là ai? Hay là người quên mình theo vật? Ai quên mình theo vật thì người đó khổ, đó là khổ chúng sanh.
Ngay nơi mình có ngọc báu mà lúc nào cũng bỏ quên, mải chạy theo âm thanh sắc tướng bên ngoài, nên bị vô thường chi phối, do đó chúng ta khổ. Khi nghe tiếng chỉ theo tiếng mà không nhớ mình, khi thấy cảnh chỉ theo cảnh mà không nhớ mình. Vì vậy cảnh khổ gọi là chúng sanh khổ, quên mình đó là khổ chúng sanh. Khi ngài Cảnh Thanh hỏi, muốn không bị Ngài nói là khổ chúng sanh, chúng ta phải đáp thế nào thay cho Thị giả? Nếu có mặt nơi đó, chúng tôi sẽ đáp:
Quan Âm diệu trí lực,
Năng cứu chúng sanh khổ.
Để kết luận buổi nói chuyện hôm nay, chúng tôi dẫn một bài kệ bằng chữ Hán của Thiền sư Chân Nguyên vào đời Lê ở Việt Nam:
Nhất tánh viên minh cá cá đồng,
Bao la thiên địa tổng hư không,
Ngã kim trực chỉ Tây lai ý,
Tâm tịch linh tri thị chánh tông.
Nhất tánh viên minh cá cá đồng, một tánh tròn sáng mỗi người ai cũng đồng có sẵn như vậy. Bao la thiên địa tổng hư không, tánh tròn sáng ấy bao trùm cả trời đất và hư không. Nếu thấy được tánh bao la ấy thì thân này thật là bèo bọt không đáng kể. Ngã kim trực chỉ Tây lai ý, nay tôi nhắm thẳng ý Tây lai, tức là ý của Tổ sư từ Ấn Độ sang. Tâm tịch linh tri thị chánh tông, câu kết thúc này thật là quá hay. Tâm tịch là khi những tâm vọng tưởng phân biệt lặng xuống rồi, còn cái linh tri tức cái biết sáng suốt không phân biệt, đó là chánh tông mà Tổ Đạt-ma truyền sang.
Dịch:
Một tánh sáng tròn mỗi mỗi đồng,
Bao trùm trời đất cả hư không,
Nay ta nhắm thẳng Tây lai ý,
Tâm tịch linh tri ấy chánh tông.
Chúng ta tu thiền thấy ý Tổ sư từ Ấn Độ sang rõ ràng bằng một câu kết thúc: Tâm tịch linh tri ấy chánh tông.
TIN TÂM
Xuân Bính Dần - 1986
Năm mới, tôi muốn nhắc nhở quí vị tinh tấn tu hành đúng theo tinh thần Thiền tông, nên sẽ nói rõ về việc Tin tâm. Phần nhiều người tu chúng ta tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, nhưng ít tin tâm mình. Hôm nay tôi nói thẳng về đường lối tu để chúng ta nhận hiểu, tin được tâm của mình.
Từ xưa đến nay ai cũng hay nói: “Tôi không cần đi chùa, chỉ tu tâm được rồi.” Nhưng tâm là cái gì để tu? Có người bảo rằng: “tâm tôi nghĩ thế này, tâm tôi tính thế kia”, như vậy tâm là cái nghĩ tính hay cái gì khác nữa? Đó là điều chúng ta phải biết rõ. Chữ Tâm của nhà Phật là chỉ cho cái “biết”. Biết nghĩ, biết tính, biết tốt, biết xấu, biết dở, biết hay... tóm lại tất cả những gì thuộc lãnh vực “biết” đều gọi là tâm. Vì thế, nếu chúng ta không phân biệt rành rẽ sẽ chỉ nhận tâm là cái biết phân biệt, mà quên tâm còn là cái biết thầm lặng sáng suốt không phân biệt. Thế nên trong nhà Phật chia tổng quát tâm làm hai loại: tâm vọng và tâm chân.
Tâm vọng là gì? Là những cái biết thuộc về suy nghĩ, phân biệt. Cái biết đó động, sanh diệt nên gọi là vọng. Vọng là dối, không thật, có rồi mất hoặc chợt sanh chợt diệt, không bền lâu nên gọi là vọng. Trái lại, cái biết thường hằng không đổi, mãi mãi bất sanh bất diệt, không động, không có tướng trạng, cái biết đó gọi là tâm chân. Như vậy tâm chân thật là chỉ cái biết không bao giờ đổi thay, không bao giờ sanh diệt. Nhưng tất cả chúng ta ai cũng chỉ nhận được cái biết thuộc về suy tính, phân biệt, ít ai nhận được cái biết thầm lặng hằng còn và không sanh diệt. Bởi không hiểu điều đó nên ta chỉ nhận cái hư dối cho là tâm thật, còn Tâm chân thật lại quên đi. Thế nên trong kinh Tứ Thập Nhị Chương, đức Phật dạy các thầy Tỳ-kheo: “Tỳ-kheo các ông chớ nên tin tâm của các ông, khi nào chứng A-la-hán thì mới nên tin.” Đức Phật nói “các ông chớ nên tin tâm của các ông”, đó là tâm nào? Là tâm hư dối. Tâm hư dối thì tin không được vì nó đổi thay, sanh diệt. Tin cái đổi thay sanh diệt thì thế nào chúng ta cũng bị biến đổi, bị sanh diệt. Đợi “khi chứng A-la-hán rồi mới tin tâm các ông”, chứng A-la-hán thì tâm đó là tâm gì? Sau khi chứng A-la-hán, cái biết không còn sanh diệt nữa, khi ấy mới đáng tin.
Đức Phật muốn chúng ta đừng lầm lẫn hai cái tâm: tâm phân biệt hư dối và tâm lặng lẽ chân thật. Nếu cho cái hư dối là thật thì tự chúng ta bị lầm mê, đi mãi trong sanh tử. Chủ yếu là phải biết mình có Tâm chân thật. Muốn biết Tâm chân thật thì phải làm sao? Những vị tu khi ngộ đạo tự nhiên thấy, tự nhiên nhận ra. Nếu chưa ngộ đạo thì khó nhận, khó biết. Nay tôi chỉ y theo lời dạy của Phật của Tổ để chỉ ra, khả dĩ chúng ta có thể nhận được phần nào.
Trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật nói: Có một cái gọi là “Nhất tinh minh sanh lục hòa hợp”. Chữ “tinh” là ròng rặc, “minh” là sáng suốt, “tinh minh” là ròng rặc sáng suốt hay sáng suốt một cách thuần túy. Từ một cái sáng suốt thuần túy đó sanh ra sáu cái hòa hợp. Sáu cái hòa hợp là gì? Là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Tại sao gọi là sáu hòa hợp? Vì muốn thấy phải có con mắt, có cảnh bên ngoài và thức theo đó phân biệt. Cái biết của con mắt thuộc về hòa hợp, đủ duyên hòa hợp mới có. Ý suy nghĩ cũng có cảnh bên ngoài, có danh, có tướng mới nương đó suy nghĩ, như thế cũng duyên theo cảnh, nên gọi là lục hòa hợp. Tuy nhiên khi duyên theo cảnh đó lại có cái ngầm không theo mà chúng ta không thấy. Nên chư Phật, chư Tổ luôn luôn bảo chúng ta phải khéo, đừng lầm chạy theo cảnh mà phải thấy cái thật ngầm ở trong. Chư Thiền sư hay nói, phải như con ngỗng chúa khi uống sữa, chỉ uống sữa mà chừa nước lại. Sữa hòa lẫn với nước, chỉ uống sữa, bỏ nước lại, việc đó rất khó. Cũng vậy, nơi sáu căn trong chỗ hòa hợp, chúng ta phải làm sao nhận ra được cái thuần túy tinh anh mà đừng theo cái hư dối phân biệt, đó là sự khôn ngoan khéo léo của mình. Vì vậy người tu phải khéo nhận nơi mình có một tinh minh sáng suốt phát ra sáu căn gọi là sáu hòa hợp. Mắt nhìn cảnh, tai nghe tiếng nhưng đừng lệ thuộc vào cái sanh diệt bên ngoài hay cái sanh diệt của vọng tâm mà nhớ sống được với Chân tâm, đó là điều khôn ngoan nhất, như ngỗng chúa uống sữa bỏ nước lại vậy.
Ý nghĩa trên trong kinh Lăng Nghiêm, các Thiền sư diễn tả lại bằng một hình thức lạ lùng. Mới nghe chúng ta không hiểu nhưng khi thâm nhập, hiểu được thì thấy rất hay. Như Thiền sư Dược Sơn hỏi Vân Nham:
- Ông biết làm sư tử múa phải không?
- Dạ phải!
- Ông múa được mấy xuất?
- Múa được sáu xuất.
- Ta cũng múa được.
- Hòa thượng múa được mấy xuất?
- Ta múa được một xuất.
Vân Nham nói:
- Một tức sáu, sáu tức một.
Hai thầy trò ngài Dược Sơn nói chuyện sư tử chơi cho vui hay nói chuyện trong kinh Lăng Nghiêm? Ông thầy múa một xuất tức là nhất tinh minh, đệ tử múa sáu xuất tức là lục hòa hợp. Nhưng tại sao dùng hình ảnh con sư tử? Vì sư tử là chúa loài thú, mọi loài nghe tiếng của nó đều kinh hoàng, không loài nào dám chống lại. Cái chân thật dụ như sư tử, còn những vọng tưởng phân biệt dụ cho các loài thú khác. Biết làm sư tử múa là chỉ cho biết được cái thể nhất tinh minh. Hiểu như vậy chúng ta mới thấy từ Phật đến Tổ đều thấy rõ nơi mình có cái chân thật, từ cái chân thật đó theo duyên phát ra sáu cửa. Chúng ta có đủ Tâm chân thật mà không nhận, không biết tưởng mình không có.
Tôn giả Ba-la-đề ở Ấn Độ, khi nghe vua Dị Kiến hỏi về Phật tánh, Ngài đáp: “Nơi thai gọi là thân, ở đời gọi là người, nơi mắt gọi là thấy, nơi tai gọi là nghe, nơi mũi phân biệt các mùi, nơi lưỡi đàm luận, nơi tay nắm bắt, nơi chân chạy nhảy, biến hiện thì khắp sa giới, thu lại chỉ trong hạt bụi, người hiểu cho là Phật tánh, người không hiểu gọi là tinh hồn.” Như vậy nơi tai, mũi, lưỡi đều mang tánh chất Phật trong đó, kinh Pháp hoa gọi là Tri kiến Phật. Tuy mang tánh Phật, nhưng người hiểu mới thấy đó là Phật tánh, còn người không hiểu nói là tinh hồn, tức hồn linh của mình. Tại sao? Hiểu thì như ngỗng chúa biết lọc sữa uống chừa nước lại, còn không hiểu thì như sữa hòa với nước, chúng ta uống luôn cả nước đầy bụng mà không thể lọc sữa nổi. Hiểu và không hiểu khác nhau ở chỗ đó. Chư Tổ đã trình bày thật rõ ràng, không giấu giếm chút nào, nhưng vì chúng ta mê muội nhiều đời nên nghe dường như hiểu mà sống thì sống không được. Đó là tại cái mê lầm muôn đời của chúng ta.
Thiền sư Đại An dạy chúng: “Cả thảy các ngươi, mỗi người có hòn ngọc lớn vô giá, từ cửa mắt phóng quang soi sáng núi sông cây cỏ, từ cửa tai phóng quang nhận lãnh phân biệt tất cả âm thanh lành dữ. Sáu cửa ngày đêm thường phóng quang sáng cũng gọi là phóng quang tam-muội. Các ngươi không biết lại nhận bóng trong thân tứ đại v.v...” Nhà thiền nói tất cả chúng ta đều có hòn ngọc quí, trong kinh Lăng Nghiêm gọi là một tinh minh. Cái tinh minh hay hòn ngọc quí chỉ có một, nhưng tùy duyên phóng ra sáu cửa. Khi phóng ra sáu cửa, ở tai nhận lãnh âm thanh, ở mũi nhận lãnh mùi thơm hôi. Như vậy nó hằng phóng quang ra sáu cửa mà chúng ta không biết, do không biết nên nhận cái bóng trong thân tứ đại, là những vọng tưởng suy nghĩ làm tâm mình. Chúng ta suy nghĩ những gì mình đã nghe tên, thấy tướng, vì có thấy tướng, nghe tên mới suy nghĩ được. Có danh, có tướng là có bóng gieo rắc vào tâm thức, chúng ta duyên theo bóng đó mà khởi suy nghĩ. Duyên bóng thì đâu phải thật, còn cái hằng nghe hằng thấy lúc nào lại không có. Cái thấy cái nghe không bao giờ vắng mặt, còn suy nghĩ thì duyên theo bóng của sự vật bên ngoài mới có. Vì thế Ngài bảo chúng ta không nhận được cái chân thật phóng ra từ sáu cửa, mà chỉ nhận cái bóng trong thân tứ đại tức là tâm vọng tưởng.
Hiện nay tất cả chúng ta sống bằng tinh thần, bằng tâm của mình. Tâm đó là tâm nào? Nếu là tâm duyên theo bóng thì không phải tâm thật. Đã sống với bóng không thật thì nó sẽ dẫn chúng ta đi trong cái không thật, tức đi trong sanh tử luân hồi như mộng như huyễn. Trái lại nếu chúng ta sống được với cái chân thật thì dòng luân hồi mộng huyễn không còn nữa. Đây là gốc của sự tu.
Tổ Huệ Khả đã nhận được pháp tu nơi Tổ Bồ-đề-đạt-ma qua câu chuyện an tâm. Một thời gian sau, Ngài bạch với Tổ: “Con đã dứt hết các duyên.” Tổ bảo: “Chớ rơi vào đoạn diệt.” Ngài thưa: “Không rơi.” Tổ hỏi: “Con làm thế nào?” Ngài thưa: “Rõ ràng thường biết, nói không thể đến.”
Rõ ràng thường biết, trong bài kệ ngài Chân Nguyên dùng chữ “biết thiêng”, chữ Hán gọi là linh tri, tức cái biết rõ ràng, cái biết đó “nói không thể đến”. Tổ bảo: “Đây là chỗ truyền của chư Phật chớ có hoài nghi.” Rõ ràng Phật Tổ đã chỉ cái chân thật ai cũng có, nhưng vì chúng ta không khéo nhận, chỉ chạy theo cái bóng duyên nơi sáu trần, do đó quên mất cái chân thật.
Tổ Huệ Khả nói dứt hết các duyên tức là tâm duyên lự theo cảnh, theo bóng dáng của sáu trần đã sạch. Tổ Bồ-đề-đạt-ma sợ lại rơi vào Không nên bảo “coi chừng rơi vào đoạn diệt”. Nếu đến đó không biết gì nữa thì rơi vào đoạn diệt, nên Huệ Khả thưa: Con không rơi vào đoạn diệt. Hỏi: - Tại sao không rơi vào đoạn diệt? Đáp: - Con rõ ràng thường biết, nói không thể đến. Ngay đó Tổ Đạt-ma liền ấn chứng “đây là chỗ truyền của chư Phật không nên hoài nghi”. Phật tử tập ngồi thiền, phút giây nào tâm lặng, không mê ngủ thì có thấy, có nghe có biết mình đang lặng không? Mắt vẫn thấy, tai vẫn nghe và tâm không có vọng, như vậy không phải rõ ràng thường biết là gì? Đâu phải đợi vọng tâm dấy lên mới biết. Rõ ràng chúng ta có cái thường biết hiển nhiên nơi mình, không đợi có vọng tâm mới biết. Nhưng khổ thay chúng ta cứ đợi vọng tâm dấy lên mới cho là có tâm mình, cho là biết thì đã quên mất cái rõ ràng thường biết thầm lặng bên trong rồi. Nhận ra mình có cái rõ ràng thường biết, là chúng ta tỉnh, chúng ta giác. Tại sao nói tỉnh, nói giác? Vì cái rõ ràng thường biết hằng hữu mà ta quên, lại nhận bóng duyên theo ngoại cảnh làm tâm mình, như vậy không phải mê là gì? Nay biết cái bóng không phải thật và nhận chân được cái thật thì không phải giác là gì? Chỗ mê giác rõ ràng. Chạy theo bóng dáng của sáu trần là mê, nhận biết nó vọng dối để sống với cái rõ ràng thường biết của mình là giác, chớ không có gì xa lạ. Nhận được cái đó, trong nhà thiền gọi là Kiến tánh, tức là thấy được Bản tánh bất sanh bất diệt của mình. Chữ thấy không phải mắt thấy mà là nhận ra rõ ràng. Chúng ta có Tâm chân thật, nay phải tin cho sâu, nhận cho kỹ. Làm sao tin nhận Chân tâm cho sâu cho đúng?
Ngài Thần Tán đã ngộ lý thiền nơi Tổ Bá Trượng xong trở về chùa với thầy. Thầy Ngài tu theo giáo. Một hôm nhân thầy tắm, vì thầy già yếu nên Ngài kỳ lưng cho thầy. Ngài vỗ trên lưng thầy nói: “Điện Phật đẹp mà Phật không Thánh.” Thầy ngó lại, Ngài nói: “Tuy Phật không Thánh vẫn hay phóng quang.” Lại một hôm, Bổn sư ngồi trong cửa sổ xem kinh, có một con ong chui đầu vào khung cửa sổ bằng giấy tìm lối ra. Ngài trông thấy nói:
- Thế giới thênh thang như thế mà chẳng chịu ra, dùi đầu vào giấy cũ biết năm nào ra được?
Ngài liền nói kệ:
Không môn bất khẳng xuất,
Đầu song dã thái si,
Bách niên tán cổ chỉ,
Hà nhật xuất đầu thì?
Dịch:
Cửa không chẳng chịu ra,
Quá ngu chui cửa sổ,
Giấy cũ trăm năm dùi,
Ngày nào thoát ra được?
Thầy Ngài nghe lấy làm lạ hỏi:
- Ngươi đi học đạo mấy năm, nay thấy được cái gì mà nói nghe lạ vậy?
Ngài thưa:
- Con được Tổ Bá Trượng chỉ cho con đường tu hành.
Thầy Ngài biết đệ tử có cái gì lạ, mới bảo:
- Ngày mai hội chúng lại, ngươi lên giảng cho ta xem!
Hôm sau đánh trống, chúng hội lại, thầy Ngài cũng làm thính giả ngồi ở dưới, Thần Tán ngồi trên tòa giảng, câu đầu tiên Ngài dẫn lời Tổ Bá Trượng:
Linh quang độc chiếu,
Quýnh thoát căn trần,
Thể lộ chân thường,
Bất câu văn tự.
Tâm tánh vô nhiễm,
Bản tự viên thành,
Đản ly vọng duyên,
Tức như như Phật.
Dịch:
Linh quang riêng chiếu,
Vượt khỏi căn trần,
Bày hiện chân thường,
Chẳng nệ văn tự.
Tâm tánh không nhiễm,
Vốn tự viên thành,
Chỉ lìa vọng duyên,
Tức như như Phật.
Qua bài kệ đó, thầy Ngài ngộ nói: Ta chưa bao giờ được nghe giáo lý tuyệt vời như thế!
Ở đây, tôi giải thích lại để quí vị thấy rõ. “Linh quang độc chiếu”, là linh quang riêng chiếu. Đây không khác với hòn ngọc báu hay kinh Phật nói một tinh minh.
“Quýnh thoát căn trần”, căn là sáu căn, trần là sáu trần, cái đó vượt hơn sáu căn và sáu trần. Tại sao? Vì sáu căn thuộc về thân, mà thân là tướng sanh diệt; sáu trần thuộc về duyên hợp nên cũng là tướng sanh diệt, còn cái này không sanh diệt nên nói siêu xuất cả căn và trần.
“Thể lộ chân thường” là ngay trong đó hiện bày chân thường.
“Bất câu văn tự” nó không thuộc về chữ nghĩa.
“Tâm tánh vô nhiễm”, tánh của tâm đó không nhiễm, nói tánh của tâm là để chỉ cho Tâm chân thật, còn nói tâm là chỉ tâm phân biệt hư dối. Lục Tổ khi ngộ, Ngài nói kệ: “Bản lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai”, nghĩa là xưa nay không một vật, chỗ nào dính bụi bặm, tức là không nhiễm. Thật rõ ràng.
“Bản tự viên thành” là Tâm chân thật vốn tự tròn đủ, không nhiễm, không thiếu thốn gì cả. Nhưng làm sao sống được với nó đây?
“Đản ly vọng duyên, tức như như Phật.” Hai câu này là chỉ thẳng lối trở về. Muốn sống được với nó thì chỉ lìa vọng duyên, lìa tâm hư dối duyên theo bóng dáng sáu trần, khi ấy gọi là như như Phật hay Phật như như. Tại sao nói Phật như như? Phật là giác, như như là lặng lẽ, cái biết lặng lẽ là Chân tâm tức Phật như như. Ngài Bá Trượng chỉ cho chúng ta thấy mỗi người có một cái Tâm chân thật, sáng suốt siêu xuất cả sáu căn sáu trần, luôn luôn hiện bày, nhưng không mắc kẹt trong văn tự chữ nghĩa. Bản tánh không ô nhiễm, tự tròn đủ, muốn sống với nó chỉ cần lìa các vọng duyên thì tự nó là Phật như như. Như vậy tìm Phật khó hay dễ? Chịu khó lìa vọng duyên là Phật như như, không chịu lìa thì không biết chừng nào mới có Phật như như. Như vậy đường tu không phải xa, cũng chẳng phải khó, xa hay khó là tại chúng ta chưa chịu lìa thôi, nếu lìa được là như như Phật.
Trong Tín Tâm Minh, Tổ Tăng Xán dạy:
Nhãn nhược bất thùy,
Chư mộng tự trừ,
Tâm nhược bất dị,
Vạn pháp nhất như.
Dịch:
Mắt nếu không ngủ,
Các mộng tự trừ,
Tâm nếu không khác,
Muôn pháp nhất như.
Hình ảnh này đẹp làm sao!
“Nhãn nhược bất thùy”, con mắt nếu không ngủ thì “chư mộng tự trừ”, không có mộng nào hiện ra cả. Chúng ta mở mắt trao tráo, rõ ràng sáng suốt thì có mộng nào hiện ra. Nhưng nếu nhắm mắt ngủ một chút thì thấy cảnh này cảnh kia... bao nhiêu cảnh là bao nhiêu mộng. Mộng hiện ra là do mắt ngủ, nếu mắt không ngủ thì không có mộng.
“Tâm nhược bất dị, vạn pháp nhất như.” Tâm chúng ta nếu không khác thì muôn pháp đều nhất như. Tâm không khác tức là không dấy niệm thứ hai, thứ ba. Có một niệm tức là có khác, rõ ràng thường biết mà không có niệm nào khác thì muôn pháp là nhất, là như, chớ không còn gì nữa cả. Như vậy muốn tìm muôn pháp nhất như phải tìm ở đâu? Có nhiều người không biết tu, nghe nói khi tâm cảnh nhất như hay muôn pháp đều như liền nghĩ rằng, mình phải quán tất cả đều không ngơ thì nó như. Không phải vậy! Chỉ khi nào chúng ta không có một niệm dấy lên thì các pháp nhất như.
Trở lại ví dụ trên, con mắt không ngủ là dụ cho không khởi một niệm, nên nói vạn pháp nhất như. Con mắt lúc ngủ thì hết mộng này đến mộng kia liên miên, dụ cho khi dấy niệm lên thì muôn pháp thiên sai vạn biệt. Chúng ta muốn hết mộng chỉ chịu khó mở mắt, cũng như muốn cho tâm cảnh nhất như thì chịu khó tâm không khởi niệm, không có niệm khác thì nó là nhất như. Khi nào chúng ta ngồi nhìn trời nhìn mây mà không có một niệm nào cả thì có phân biệt cái này đẹp, cái kia xấu, cái này tên A, cái kia tên B không? Nếu không khởi niệm, không có phân biệt tức là nhất như, còn khởi niệm nói đây là mây vàng, kia là mây đỏ v.v... là nhiều thứ rồi. Thế nên chủ yếu của người tu là phải làm sao biết rõ Tâm chân thật, đừng chạy theo vọng tưởng. Vọng tưởng lặng rồi thì muôn pháp nhất như, chớ không phải nhồi muôn pháp trở thành một khối để nhất như. Đó là chủ yếu của chư Tổ dạy.
“Tâm nhược bất dị, vạn pháp nhất như” với đoạn trên Tổ Bá Trượng nói: “Đản ly vọng duyên, tức như như Phật” có khác không? Đoạn trên thì lìa vọng duyên, còn đoạn này thì tâm chẳng khác, chẳng khác tức là không loạn. Trên nói “như như Phật”, dưới nói “vạn pháp nhất như” là lối nói cho chúng ta thấy rõ.
Tín Tâm Minh cũng có đoạn:
Viên đồng thái hư,
Vô khiếm vô dư,
Nhân do thủ xả,
Sở dĩ bất như.
Dịch:
Tròn đồng thái hư,
Không thiếu không dư,
Nhân vì thủ xả,
Thế nên chẳng như.
Tổ lặp lại chữ “như” một lần nữa. Chúng ta có Thể tánh tròn đồng thái hư, nghĩa là trùm cả hư không. Vô khiếm tức không thiếu, vô dư tức không thừa, hư không đến đâu thì Tâm thể chúng ta đến đó, không thiếu không thừa. Tại sao? Vì Tâm thể không tướng, hư không cũng không tướng, hư không đến đâu thì Tâm thể đến đó, nên nói tròn đồng thái hư, không thiếu cũng không dư.
“Nhân do thủ xả”, thủ là lấy, xả là bỏ, vì chúng ta có lấy có bỏ do đó không được như. Nếu có lấy, có bỏ thì tâm dị chưa? Lấy khác bỏ khác, tức là tâm đã dị rồi, mà tâm đã dị thì vạn pháp đâu được nhất như. Thế nên Tổ bảo nếu còn thủ xả thì không như, nếu bỏ thủ xả thì sẽ như. Tất cả niệm của chúng ta khởi theo cái gì? Theo hai bên, nghĩa là hoặc thủ hoặc xả, hoặc khen hoặc chê v.v..., tất cả các chấp hai đều nằm trong thủ xả. Vì thế còn chấp hai là tâm không như. Tóm lại niệm nào dấy lên cũng đều trong cái chấp hai. Ví dụ chúng ta nghĩ vật này tốt hoặc xấu, việc kia có hoặc không... Tốt xấu là hai, có không là hai, phải quấy là hai v.v... vừa dấy niệm là nằm trong cái chấp hai. Nhưng nếu lặng niệm xuống thì biết mà không có hai. Chính cái biết không hai đó là như, còn dấy niệm theo hai bên là không như. Đó là chỗ thiết yếu chúng ta phải thấy cho thật rõ để biết đường lối tu.
Cũng trong Tín Tâm Minh, khi kết thúc Tổ nói: “Tín tâm bất nhị, bất nhị tín tâm.” Ngài nói Tín Tâm là không hai, rồi lặp lại không hai là Tín Tâm. Chúng ta tin tâm là không hai, không hai tức là tin tâm. Quí vị tin tâm chưa? Nếu còn thấy hai là chưa tin. Chữ tin này không phải chỉ là biết có cái đó, mà là tin nhận được Tâm chân thật. Muốn nhận được Tâm chân thật là đừng thấy hai, còn có hai là không bao giờ nhận được Tâm chân thật. Vì thế Ngài nói “tín tâm bất nhị” rồi lặp lại “bất nhị tín tâm”, vì Tâm chân thật không có niệm, dấy niệm tức là hai, muốn nhận nó thì phải đừng dấy niệm.
Chư Tổ thuở xưa, khi gặp người dấy niệm hỏi điều gì có tánh cách đối đãi đều cho ăn đòn, để tập họ thấy đó là lỗi, đừng chạy theo hai bên nữa, mới tin được tâm mình. Tâm đó là Phật, nếu tin được tâm đó tức chúng ta tin được ông Phật của mình. Tin được Phật mình, nhận được Phật mình thì sớm muộn gì cũng thành Phật, nên nói kiến tánh thành Phật. Ai tu lại không muốn thành Phật, nhưng muốn thành Phật thì phải tin nhận tâm của mình, tin nhận tâm của mình thì phải không hai. Tóm lại, chủ yếu của người tu muốn được thành Phật thì phải đừng bị vọng tưởng dẫn dắt. Nếu để vọng tưởng dẫn dắt thì không bao giờ tin nhận được ông Phật của mình.
Trong Chứng Đạo Ca, Thiền sư Huyền Giác cũng dạy:
Thể nhược hư không vô nhai ngạn,
Bất ly đương xứ thường trạm nhiên,
Mích tức tri quân bất khả kiến.
“Thể nhược hư không vô nhai ngạn” là Tâm thể giống như hư không, không có bờ mé. Đoạn trên nói “viên đồng thái hư” là tròn đồng thái hư, không thiếu không dư, ở đây Ngài nói thể đó như hư không, không bờ mé. Làm sao sống được, biết được cái thể đó?
“Bất ly đương xứ thường trạm nhiên” nghĩa là không rời ngay chỗ này, mà thường lặng lẽ. Trong cái lặng lẽ đó có ông Phật hiện tiền, đâu phải chạy tìm nơi nào. Vì thế nên nói: “Mích tức tri quân bất khả kiến”, khởi niệm tìm tức là không bao giờ thấy được ông Phật. Ngồi an lặng lẽ thì ông Phật hiện tiền, vừa dấy niệm tìm thì mất ngay. Chính chỗ đó mới thấy Tâm thể của chúng ta trùm khắp, còn vọng tưởng thì giới hạn tạm bợ. Ví dụ chúng ta nghĩ về người thì vọng tưởng chỉ giới hạn trong con người, nghĩ tới cây thì vọng tưởng chỉ duyên theo bóng của cây. Nó có tướng giới hạn và tạm bợ mà chúng ta cho là mình, còn Tâm thể trùm cả hư không, chưa bao giờ sanh diệt lại bỏ quên. Đó là điều thật đáng thương, bỏ cái chân thật chạy theo cái hư dối, hài lòng với cái hư dối để rồi lăn lộn trong dòng luân hồi sanh tử! Vì thế chư Phật, chư Tổ thương xót mới ra đời chỉ cho chúng ta cái chân thật. Phật Tổ thương chỉ cho chúng ta cái chân thật, nhưng chúng ta không chịu làm đúng như lời Phật Tổ dạy. Vậy Phật Tổ phụ mình hay mình phụ Phật Tổ? Nhiều người cứ nghĩ Phật bỏ mình, nhưng Phật bỏ mình hay mình bỏ Phật? Như thế mới thấy chúng ta quí kính Phật nhưng vô tình lại bỏ rơi Phật, phụ công ơn Phật. Điều Phật chỉ dạy chúng ta không màng, không cố gắng thực hiện, lại bỏ qua để rồi sống trong sự cuồng loạn của mình. Như vậy đáng khen hay đáng chê? Thật là những chúng sanh mê muội đáng thương, đáng trách. Mê muội quá lắm!
Chúng ta hiểu đạo là để tu, chớ không phải hiểu để nói. Làm sao ứng dụng được những điều Phật Tổ dạy để trở lại với Tâm chân thật của mình. Thân này là tứ đại hòa hợp, tâm vọng tưởng là duyên theo bóng dáng sáu trần, cái gì họp thì cái đó phải tan, cái duyên theo bóng dáng là hư dối. Cái sẽ tan, cái hư dối mà chấp là thật, là mình; còn cái chưa bao giờ mất, chưa bao giờ diệt, trùm cả hư không, chúng ta lại bỏ quên. Đúng như trong kinh Pháp Hoa nói là cùng tử, lẽ ra nhận mình là con ông trưởng giả thì kho báu đầy nhà mặc tình hưởng, nhưng không chịu nhận lại cam đi hốt phân để sống qua ngày. Qua hình ảnh đó chúng ta mới thấy sự điên cuồng của mình. Có một cái chân thật được quyền hưởng trọn vẹn nhưng không chịu hưởng, đi nhận một cái hết sức tầm thường và hài lòng như vậy. Thật là đáng thương! Như người ăn một mâm cơm đầy đủ cao lương mỹ vị, mới nhìn thấy sang, thấy ngon nhưng ăn quá no những thức ăn khó tiêu dễ sanh đau bụng. Sau đó thấy khổ, tiêu hóa ra cũng hôi thối, vậy mà hài lòng, quí trọng, thật là khờ dại, còn cái chân thật thanh tịnh sẵn có lại bỏ quên!
Chúng ta tu cốt phải trở về cái chân thật đó, sống được với cái chân thật mới là biết đạo, biết tu. Trái lại chạy theo bóng dáng bên ngoài dù hay bao nhiêu cũng chỉ là ảo ảnh thôi, không phải cái chân thật. Như thế chủ yếu người tu Phật phải tin nhận nơi mình có cái chân thật, đó là Chân tâm hay Phật tánh. Để kết luận, tôi dẫn bài kệ của cư sĩ Bàng Uẩn:
Đản tự vô tâm ư vạn vật,
Hà phòng vạn vật thường vi nhiễu.
Thiết ngưu bất phạ sư tử hống,
Kháp tợ mộc nhân khán họa điểu.
Mộc nhân bản thể tự vô tình,
Họa điểu phùng nhân diệc bất kinh.
Tâm cảnh như như chỉ giá thị,
Hà lự Bồ-đề đạo bất thành.
Dịch:
Chỉ tự vô tâm cùng vạn vật,
Ngại gì vạn vật thường quấy nhiễu.
Trâu sắt chẳng sợ sư tử rống,
Giống như người gỗ xem chim vẽ,
Người gỗ bản thể tự vô tình,
Chim vẽ gặp người cũng chẳng kinh.
Tâm cảnh như như chỉ thế ấy,
Nào sợ Bồ-đề đạo chẳng thành.
“Chỉ tự vô tâm cùng vạn vật”, vô tâm là vô tâm nào? Vô cái tâm vọng tưởng điên đảo. Chỉ vô tâm cùng vạn vật nghĩa là không có tâm điên đảo chạy theo muôn vật thì ngại gì vạn vật thường quấy nhiễu, ngại gì mà phải than cái này, cái kia vây quanh, tôi tu không được! Như vậy tại các duyên hay tại mình có tâm với nó? Ví dụ có một vật quí để trước mắt chúng ta, nó là nó, mình là mình. Đâu phải tại nó mà mình tu không được, tại dấy niệm tham nên tu không được, chớ vật quí là vật quí, mình là mình, đừng dấy niệm tham thì có gì tu không được? Đến những tiếng khen, tiếng chê, khi qua mất rồi, chúng ta đừng quan trọng nó, đừng dính thì có gì mà tu không được. Nhưng được người khen thì nhớ hoài, bị chê thì giận mãi, như vậy tu không được là tại chúng ta duyên theo nó. Nếu xem nó như gió thổi, như pháo nổ, qua rồi thôi thì có gì tu không được. Chúng ta tu không được là tại hữu tâm với vạn vật. Thấy cái gì cũng cột, cũng nắm rồi đổ thừa tại vật này, việc kia lăng xăng làm tôi tu không được. Thử hỏi trên thế gian này, nơi nào không có những điều lăng xăng? Chỉ ta đừng chạy theo nó thì hết lăng xăng, nên Bàng Uẩn thốt ra hai câu: Chỉ tự vô tâm cùng vạn vật, ngại gì vạn vật thường quấy nhiễu. Vạn vật không quấy nhiễu chúng ta, nếu chúng ta không có tâm với nó, trái lại nếu có tâm với nó thì nó quấy nhiễu mình.
Ngài lại dùng thí dụ con trâu sắt không sợ sư tử rống. Thường sư tử rống lên thì trâu hay voi gì cũng chạy cả, nhưng nếu gặp trâu sắt thì nó không sợ nên không chạy. Đến thí dụ thứ hai, giống như người gỗ xem chim vẽ. Người gỗ đứng nhìn chim vẽ thì cả hai như thế nào? Ngài nói người gỗ bản thể tự vô tình, chim vẽ gặp người cũng chẳng kinh. Người gỗ đâu có tình, chim vẽ thấy người gỗ cũng không sợ. Ba hình ảnh: con trâu sắt, người gỗ, chim vẽ, cả ba đều không sợ ai hết. Tại sao? Tại nó vô tình, vô tâm.
Chúng ta hiện nay cũng vậy, nếu vô tâm với vạn vật, thì không vật nào quấy nhiễu mình được cả. Thế nên Ngài kết thúc bằng hai câu: “Tâm cảnh như như chỉ thế ấy”, tức là đối cảnh mà tâm như như không chạy theo, thì “nào sợ Bồ-đề đạo chẳng thành”, nếu tâm mình không chạy theo cảnh thì đừng lo không thành đạo Bồ-đề. Sở dĩ chúng ta không thành đạo Bồ-đề là vì tâm chạy theo cảnh. Trái lại nếu tâm không chạy theo cảnh thì tâm cảnh như như, đạo Bồ-đề hiện tiền, chớ tìm ở đâu nữa.
Tóm lại, chư Phật, chư Tổ đều chỉ rõ yếu điểm tu hành cho chúng ta. Yếu điểm đó là tâm đừng chạy theo cảnh, khi tâm không chạy theo cảnh thì tâm cảnh như như, tâm cảnh như như thì đạo Bồ-đề hiện tiền, dù không muốn thành Phật thì Phật cũng hiện trước mắt. Trái lại, nếu chúng ta cứ mong tìm mà tâm cứ động mãi thì không bao giờ thấy Phật. Thế nên, tôi mong tất cả Tăng Ni, Phật tử qua năm mới này đều nỗ lực cố gắng tu hành, đừng để tâm chạy theo cảnh. Tâm và cảnh được như như đó là không cô phụ công ơn Phật Tổ và các vị thiện tri thức chỉ dạy chúng ta. Như vậy mới xứng đáng là con dòng họ Thích, mới không hổ thẹn xưng ta là Thích tử. Trái lại nếu chúng ta cứ để tâm rong ruổi theo vọng cảnh thì dù có thương Phật thế mấy cũng khó gặp Phật được. Vậy mong rằng tất cả chúng ta đều nỗ lực để mỗi ngày mỗi ngày gần được Phật và một ngày nào đó thì viên mãn sống với Phật chớ không còn quên, không còn bỏ sót nữa.
Xuân Bính Dần - 1986
Năm mới, tôi muốn nhắc nhở quí vị tinh tấn tu hành đúng theo tinh thần Thiền tông, nên sẽ nói rõ về việc Tin tâm. Phần nhiều người tu chúng ta tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, nhưng ít tin tâm mình. Hôm nay tôi nói thẳng về đường lối tu để chúng ta nhận hiểu, tin được tâm của mình.
Từ xưa đến nay ai cũng hay nói: “Tôi không cần đi chùa, chỉ tu tâm được rồi.” Nhưng tâm là cái gì để tu? Có người bảo rằng: “tâm tôi nghĩ thế này, tâm tôi tính thế kia”, như vậy tâm là cái nghĩ tính hay cái gì khác nữa? Đó là điều chúng ta phải biết rõ. Chữ Tâm của nhà Phật là chỉ cho cái “biết”. Biết nghĩ, biết tính, biết tốt, biết xấu, biết dở, biết hay... tóm lại tất cả những gì thuộc lãnh vực “biết” đều gọi là tâm. Vì thế, nếu chúng ta không phân biệt rành rẽ sẽ chỉ nhận tâm là cái biết phân biệt, mà quên tâm còn là cái biết thầm lặng sáng suốt không phân biệt. Thế nên trong nhà Phật chia tổng quát tâm làm hai loại: tâm vọng và tâm chân.
Tâm vọng là gì? Là những cái biết thuộc về suy nghĩ, phân biệt. Cái biết đó động, sanh diệt nên gọi là vọng. Vọng là dối, không thật, có rồi mất hoặc chợt sanh chợt diệt, không bền lâu nên gọi là vọng. Trái lại, cái biết thường hằng không đổi, mãi mãi bất sanh bất diệt, không động, không có tướng trạng, cái biết đó gọi là tâm chân. Như vậy tâm chân thật là chỉ cái biết không bao giờ đổi thay, không bao giờ sanh diệt. Nhưng tất cả chúng ta ai cũng chỉ nhận được cái biết thuộc về suy tính, phân biệt, ít ai nhận được cái biết thầm lặng hằng còn và không sanh diệt. Bởi không hiểu điều đó nên ta chỉ nhận cái hư dối cho là tâm thật, còn Tâm chân thật lại quên đi. Thế nên trong kinh Tứ Thập Nhị Chương, đức Phật dạy các thầy Tỳ-kheo: “Tỳ-kheo các ông chớ nên tin tâm của các ông, khi nào chứng A-la-hán thì mới nên tin.” Đức Phật nói “các ông chớ nên tin tâm của các ông”, đó là tâm nào? Là tâm hư dối. Tâm hư dối thì tin không được vì nó đổi thay, sanh diệt. Tin cái đổi thay sanh diệt thì thế nào chúng ta cũng bị biến đổi, bị sanh diệt. Đợi “khi chứng A-la-hán rồi mới tin tâm các ông”, chứng A-la-hán thì tâm đó là tâm gì? Sau khi chứng A-la-hán, cái biết không còn sanh diệt nữa, khi ấy mới đáng tin.
Đức Phật muốn chúng ta đừng lầm lẫn hai cái tâm: tâm phân biệt hư dối và tâm lặng lẽ chân thật. Nếu cho cái hư dối là thật thì tự chúng ta bị lầm mê, đi mãi trong sanh tử. Chủ yếu là phải biết mình có Tâm chân thật. Muốn biết Tâm chân thật thì phải làm sao? Những vị tu khi ngộ đạo tự nhiên thấy, tự nhiên nhận ra. Nếu chưa ngộ đạo thì khó nhận, khó biết. Nay tôi chỉ y theo lời dạy của Phật của Tổ để chỉ ra, khả dĩ chúng ta có thể nhận được phần nào.
Trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật nói: Có một cái gọi là “Nhất tinh minh sanh lục hòa hợp”. Chữ “tinh” là ròng rặc, “minh” là sáng suốt, “tinh minh” là ròng rặc sáng suốt hay sáng suốt một cách thuần túy. Từ một cái sáng suốt thuần túy đó sanh ra sáu cái hòa hợp. Sáu cái hòa hợp là gì? Là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Tại sao gọi là sáu hòa hợp? Vì muốn thấy phải có con mắt, có cảnh bên ngoài và thức theo đó phân biệt. Cái biết của con mắt thuộc về hòa hợp, đủ duyên hòa hợp mới có. Ý suy nghĩ cũng có cảnh bên ngoài, có danh, có tướng mới nương đó suy nghĩ, như thế cũng duyên theo cảnh, nên gọi là lục hòa hợp. Tuy nhiên khi duyên theo cảnh đó lại có cái ngầm không theo mà chúng ta không thấy. Nên chư Phật, chư Tổ luôn luôn bảo chúng ta phải khéo, đừng lầm chạy theo cảnh mà phải thấy cái thật ngầm ở trong. Chư Thiền sư hay nói, phải như con ngỗng chúa khi uống sữa, chỉ uống sữa mà chừa nước lại. Sữa hòa lẫn với nước, chỉ uống sữa, bỏ nước lại, việc đó rất khó. Cũng vậy, nơi sáu căn trong chỗ hòa hợp, chúng ta phải làm sao nhận ra được cái thuần túy tinh anh mà đừng theo cái hư dối phân biệt, đó là sự khôn ngoan khéo léo của mình. Vì vậy người tu phải khéo nhận nơi mình có một tinh minh sáng suốt phát ra sáu căn gọi là sáu hòa hợp. Mắt nhìn cảnh, tai nghe tiếng nhưng đừng lệ thuộc vào cái sanh diệt bên ngoài hay cái sanh diệt của vọng tâm mà nhớ sống được với Chân tâm, đó là điều khôn ngoan nhất, như ngỗng chúa uống sữa bỏ nước lại vậy.
Ý nghĩa trên trong kinh Lăng Nghiêm, các Thiền sư diễn tả lại bằng một hình thức lạ lùng. Mới nghe chúng ta không hiểu nhưng khi thâm nhập, hiểu được thì thấy rất hay. Như Thiền sư Dược Sơn hỏi Vân Nham:
- Ông biết làm sư tử múa phải không?
- Dạ phải!
- Ông múa được mấy xuất?
- Múa được sáu xuất.
- Ta cũng múa được.
- Hòa thượng múa được mấy xuất?
- Ta múa được một xuất.
Vân Nham nói:
- Một tức sáu, sáu tức một.
Hai thầy trò ngài Dược Sơn nói chuyện sư tử chơi cho vui hay nói chuyện trong kinh Lăng Nghiêm? Ông thầy múa một xuất tức là nhất tinh minh, đệ tử múa sáu xuất tức là lục hòa hợp. Nhưng tại sao dùng hình ảnh con sư tử? Vì sư tử là chúa loài thú, mọi loài nghe tiếng của nó đều kinh hoàng, không loài nào dám chống lại. Cái chân thật dụ như sư tử, còn những vọng tưởng phân biệt dụ cho các loài thú khác. Biết làm sư tử múa là chỉ cho biết được cái thể nhất tinh minh. Hiểu như vậy chúng ta mới thấy từ Phật đến Tổ đều thấy rõ nơi mình có cái chân thật, từ cái chân thật đó theo duyên phát ra sáu cửa. Chúng ta có đủ Tâm chân thật mà không nhận, không biết tưởng mình không có.
Tôn giả Ba-la-đề ở Ấn Độ, khi nghe vua Dị Kiến hỏi về Phật tánh, Ngài đáp: “Nơi thai gọi là thân, ở đời gọi là người, nơi mắt gọi là thấy, nơi tai gọi là nghe, nơi mũi phân biệt các mùi, nơi lưỡi đàm luận, nơi tay nắm bắt, nơi chân chạy nhảy, biến hiện thì khắp sa giới, thu lại chỉ trong hạt bụi, người hiểu cho là Phật tánh, người không hiểu gọi là tinh hồn.” Như vậy nơi tai, mũi, lưỡi đều mang tánh chất Phật trong đó, kinh Pháp hoa gọi là Tri kiến Phật. Tuy mang tánh Phật, nhưng người hiểu mới thấy đó là Phật tánh, còn người không hiểu nói là tinh hồn, tức hồn linh của mình. Tại sao? Hiểu thì như ngỗng chúa biết lọc sữa uống chừa nước lại, còn không hiểu thì như sữa hòa với nước, chúng ta uống luôn cả nước đầy bụng mà không thể lọc sữa nổi. Hiểu và không hiểu khác nhau ở chỗ đó. Chư Tổ đã trình bày thật rõ ràng, không giấu giếm chút nào, nhưng vì chúng ta mê muội nhiều đời nên nghe dường như hiểu mà sống thì sống không được. Đó là tại cái mê lầm muôn đời của chúng ta.
Thiền sư Đại An dạy chúng: “Cả thảy các ngươi, mỗi người có hòn ngọc lớn vô giá, từ cửa mắt phóng quang soi sáng núi sông cây cỏ, từ cửa tai phóng quang nhận lãnh phân biệt tất cả âm thanh lành dữ. Sáu cửa ngày đêm thường phóng quang sáng cũng gọi là phóng quang tam-muội. Các ngươi không biết lại nhận bóng trong thân tứ đại v.v...” Nhà thiền nói tất cả chúng ta đều có hòn ngọc quí, trong kinh Lăng Nghiêm gọi là một tinh minh. Cái tinh minh hay hòn ngọc quí chỉ có một, nhưng tùy duyên phóng ra sáu cửa. Khi phóng ra sáu cửa, ở tai nhận lãnh âm thanh, ở mũi nhận lãnh mùi thơm hôi. Như vậy nó hằng phóng quang ra sáu cửa mà chúng ta không biết, do không biết nên nhận cái bóng trong thân tứ đại, là những vọng tưởng suy nghĩ làm tâm mình. Chúng ta suy nghĩ những gì mình đã nghe tên, thấy tướng, vì có thấy tướng, nghe tên mới suy nghĩ được. Có danh, có tướng là có bóng gieo rắc vào tâm thức, chúng ta duyên theo bóng đó mà khởi suy nghĩ. Duyên bóng thì đâu phải thật, còn cái hằng nghe hằng thấy lúc nào lại không có. Cái thấy cái nghe không bao giờ vắng mặt, còn suy nghĩ thì duyên theo bóng của sự vật bên ngoài mới có. Vì thế Ngài bảo chúng ta không nhận được cái chân thật phóng ra từ sáu cửa, mà chỉ nhận cái bóng trong thân tứ đại tức là tâm vọng tưởng.
Hiện nay tất cả chúng ta sống bằng tinh thần, bằng tâm của mình. Tâm đó là tâm nào? Nếu là tâm duyên theo bóng thì không phải tâm thật. Đã sống với bóng không thật thì nó sẽ dẫn chúng ta đi trong cái không thật, tức đi trong sanh tử luân hồi như mộng như huyễn. Trái lại nếu chúng ta sống được với cái chân thật thì dòng luân hồi mộng huyễn không còn nữa. Đây là gốc của sự tu.
Tổ Huệ Khả đã nhận được pháp tu nơi Tổ Bồ-đề-đạt-ma qua câu chuyện an tâm. Một thời gian sau, Ngài bạch với Tổ: “Con đã dứt hết các duyên.” Tổ bảo: “Chớ rơi vào đoạn diệt.” Ngài thưa: “Không rơi.” Tổ hỏi: “Con làm thế nào?” Ngài thưa: “Rõ ràng thường biết, nói không thể đến.”
Rõ ràng thường biết, trong bài kệ ngài Chân Nguyên dùng chữ “biết thiêng”, chữ Hán gọi là linh tri, tức cái biết rõ ràng, cái biết đó “nói không thể đến”. Tổ bảo: “Đây là chỗ truyền của chư Phật chớ có hoài nghi.” Rõ ràng Phật Tổ đã chỉ cái chân thật ai cũng có, nhưng vì chúng ta không khéo nhận, chỉ chạy theo cái bóng duyên nơi sáu trần, do đó quên mất cái chân thật.
Tổ Huệ Khả nói dứt hết các duyên tức là tâm duyên lự theo cảnh, theo bóng dáng của sáu trần đã sạch. Tổ Bồ-đề-đạt-ma sợ lại rơi vào Không nên bảo “coi chừng rơi vào đoạn diệt”. Nếu đến đó không biết gì nữa thì rơi vào đoạn diệt, nên Huệ Khả thưa: Con không rơi vào đoạn diệt. Hỏi: - Tại sao không rơi vào đoạn diệt? Đáp: - Con rõ ràng thường biết, nói không thể đến. Ngay đó Tổ Đạt-ma liền ấn chứng “đây là chỗ truyền của chư Phật không nên hoài nghi”. Phật tử tập ngồi thiền, phút giây nào tâm lặng, không mê ngủ thì có thấy, có nghe có biết mình đang lặng không? Mắt vẫn thấy, tai vẫn nghe và tâm không có vọng, như vậy không phải rõ ràng thường biết là gì? Đâu phải đợi vọng tâm dấy lên mới biết. Rõ ràng chúng ta có cái thường biết hiển nhiên nơi mình, không đợi có vọng tâm mới biết. Nhưng khổ thay chúng ta cứ đợi vọng tâm dấy lên mới cho là có tâm mình, cho là biết thì đã quên mất cái rõ ràng thường biết thầm lặng bên trong rồi. Nhận ra mình có cái rõ ràng thường biết, là chúng ta tỉnh, chúng ta giác. Tại sao nói tỉnh, nói giác? Vì cái rõ ràng thường biết hằng hữu mà ta quên, lại nhận bóng duyên theo ngoại cảnh làm tâm mình, như vậy không phải mê là gì? Nay biết cái bóng không phải thật và nhận chân được cái thật thì không phải giác là gì? Chỗ mê giác rõ ràng. Chạy theo bóng dáng của sáu trần là mê, nhận biết nó vọng dối để sống với cái rõ ràng thường biết của mình là giác, chớ không có gì xa lạ. Nhận được cái đó, trong nhà thiền gọi là Kiến tánh, tức là thấy được Bản tánh bất sanh bất diệt của mình. Chữ thấy không phải mắt thấy mà là nhận ra rõ ràng. Chúng ta có Tâm chân thật, nay phải tin cho sâu, nhận cho kỹ. Làm sao tin nhận Chân tâm cho sâu cho đúng?
Ngài Thần Tán đã ngộ lý thiền nơi Tổ Bá Trượng xong trở về chùa với thầy. Thầy Ngài tu theo giáo. Một hôm nhân thầy tắm, vì thầy già yếu nên Ngài kỳ lưng cho thầy. Ngài vỗ trên lưng thầy nói: “Điện Phật đẹp mà Phật không Thánh.” Thầy ngó lại, Ngài nói: “Tuy Phật không Thánh vẫn hay phóng quang.” Lại một hôm, Bổn sư ngồi trong cửa sổ xem kinh, có một con ong chui đầu vào khung cửa sổ bằng giấy tìm lối ra. Ngài trông thấy nói:
- Thế giới thênh thang như thế mà chẳng chịu ra, dùi đầu vào giấy cũ biết năm nào ra được?
Ngài liền nói kệ:
Không môn bất khẳng xuất,
Đầu song dã thái si,
Bách niên tán cổ chỉ,
Hà nhật xuất đầu thì?
Dịch:
Cửa không chẳng chịu ra,
Quá ngu chui cửa sổ,
Giấy cũ trăm năm dùi,
Ngày nào thoát ra được?
Thầy Ngài nghe lấy làm lạ hỏi:
- Ngươi đi học đạo mấy năm, nay thấy được cái gì mà nói nghe lạ vậy?
Ngài thưa:
- Con được Tổ Bá Trượng chỉ cho con đường tu hành.
Thầy Ngài biết đệ tử có cái gì lạ, mới bảo:
- Ngày mai hội chúng lại, ngươi lên giảng cho ta xem!
Hôm sau đánh trống, chúng hội lại, thầy Ngài cũng làm thính giả ngồi ở dưới, Thần Tán ngồi trên tòa giảng, câu đầu tiên Ngài dẫn lời Tổ Bá Trượng:
Linh quang độc chiếu,
Quýnh thoát căn trần,
Thể lộ chân thường,
Bất câu văn tự.
Tâm tánh vô nhiễm,
Bản tự viên thành,
Đản ly vọng duyên,
Tức như như Phật.
Dịch:
Linh quang riêng chiếu,
Vượt khỏi căn trần,
Bày hiện chân thường,
Chẳng nệ văn tự.
Tâm tánh không nhiễm,
Vốn tự viên thành,
Chỉ lìa vọng duyên,
Tức như như Phật.
Qua bài kệ đó, thầy Ngài ngộ nói: Ta chưa bao giờ được nghe giáo lý tuyệt vời như thế!
Ở đây, tôi giải thích lại để quí vị thấy rõ. “Linh quang độc chiếu”, là linh quang riêng chiếu. Đây không khác với hòn ngọc báu hay kinh Phật nói một tinh minh.
“Quýnh thoát căn trần”, căn là sáu căn, trần là sáu trần, cái đó vượt hơn sáu căn và sáu trần. Tại sao? Vì sáu căn thuộc về thân, mà thân là tướng sanh diệt; sáu trần thuộc về duyên hợp nên cũng là tướng sanh diệt, còn cái này không sanh diệt nên nói siêu xuất cả căn và trần.
“Thể lộ chân thường” là ngay trong đó hiện bày chân thường.
“Bất câu văn tự” nó không thuộc về chữ nghĩa.
“Tâm tánh vô nhiễm”, tánh của tâm đó không nhiễm, nói tánh của tâm là để chỉ cho Tâm chân thật, còn nói tâm là chỉ tâm phân biệt hư dối. Lục Tổ khi ngộ, Ngài nói kệ: “Bản lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai”, nghĩa là xưa nay không một vật, chỗ nào dính bụi bặm, tức là không nhiễm. Thật rõ ràng.
“Bản tự viên thành” là Tâm chân thật vốn tự tròn đủ, không nhiễm, không thiếu thốn gì cả. Nhưng làm sao sống được với nó đây?
“Đản ly vọng duyên, tức như như Phật.” Hai câu này là chỉ thẳng lối trở về. Muốn sống được với nó thì chỉ lìa vọng duyên, lìa tâm hư dối duyên theo bóng dáng sáu trần, khi ấy gọi là như như Phật hay Phật như như. Tại sao nói Phật như như? Phật là giác, như như là lặng lẽ, cái biết lặng lẽ là Chân tâm tức Phật như như. Ngài Bá Trượng chỉ cho chúng ta thấy mỗi người có một cái Tâm chân thật, sáng suốt siêu xuất cả sáu căn sáu trần, luôn luôn hiện bày, nhưng không mắc kẹt trong văn tự chữ nghĩa. Bản tánh không ô nhiễm, tự tròn đủ, muốn sống với nó chỉ cần lìa các vọng duyên thì tự nó là Phật như như. Như vậy tìm Phật khó hay dễ? Chịu khó lìa vọng duyên là Phật như như, không chịu lìa thì không biết chừng nào mới có Phật như như. Như vậy đường tu không phải xa, cũng chẳng phải khó, xa hay khó là tại chúng ta chưa chịu lìa thôi, nếu lìa được là như như Phật.
Trong Tín Tâm Minh, Tổ Tăng Xán dạy:
Nhãn nhược bất thùy,
Chư mộng tự trừ,
Tâm nhược bất dị,
Vạn pháp nhất như.
Dịch:
Mắt nếu không ngủ,
Các mộng tự trừ,
Tâm nếu không khác,
Muôn pháp nhất như.
Hình ảnh này đẹp làm sao!
“Nhãn nhược bất thùy”, con mắt nếu không ngủ thì “chư mộng tự trừ”, không có mộng nào hiện ra cả. Chúng ta mở mắt trao tráo, rõ ràng sáng suốt thì có mộng nào hiện ra. Nhưng nếu nhắm mắt ngủ một chút thì thấy cảnh này cảnh kia... bao nhiêu cảnh là bao nhiêu mộng. Mộng hiện ra là do mắt ngủ, nếu mắt không ngủ thì không có mộng.
“Tâm nhược bất dị, vạn pháp nhất như.” Tâm chúng ta nếu không khác thì muôn pháp đều nhất như. Tâm không khác tức là không dấy niệm thứ hai, thứ ba. Có một niệm tức là có khác, rõ ràng thường biết mà không có niệm nào khác thì muôn pháp là nhất, là như, chớ không còn gì nữa cả. Như vậy muốn tìm muôn pháp nhất như phải tìm ở đâu? Có nhiều người không biết tu, nghe nói khi tâm cảnh nhất như hay muôn pháp đều như liền nghĩ rằng, mình phải quán tất cả đều không ngơ thì nó như. Không phải vậy! Chỉ khi nào chúng ta không có một niệm dấy lên thì các pháp nhất như.
Trở lại ví dụ trên, con mắt không ngủ là dụ cho không khởi một niệm, nên nói vạn pháp nhất như. Con mắt lúc ngủ thì hết mộng này đến mộng kia liên miên, dụ cho khi dấy niệm lên thì muôn pháp thiên sai vạn biệt. Chúng ta muốn hết mộng chỉ chịu khó mở mắt, cũng như muốn cho tâm cảnh nhất như thì chịu khó tâm không khởi niệm, không có niệm khác thì nó là nhất như. Khi nào chúng ta ngồi nhìn trời nhìn mây mà không có một niệm nào cả thì có phân biệt cái này đẹp, cái kia xấu, cái này tên A, cái kia tên B không? Nếu không khởi niệm, không có phân biệt tức là nhất như, còn khởi niệm nói đây là mây vàng, kia là mây đỏ v.v... là nhiều thứ rồi. Thế nên chủ yếu của người tu là phải làm sao biết rõ Tâm chân thật, đừng chạy theo vọng tưởng. Vọng tưởng lặng rồi thì muôn pháp nhất như, chớ không phải nhồi muôn pháp trở thành một khối để nhất như. Đó là chủ yếu của chư Tổ dạy.
“Tâm nhược bất dị, vạn pháp nhất như” với đoạn trên Tổ Bá Trượng nói: “Đản ly vọng duyên, tức như như Phật” có khác không? Đoạn trên thì lìa vọng duyên, còn đoạn này thì tâm chẳng khác, chẳng khác tức là không loạn. Trên nói “như như Phật”, dưới nói “vạn pháp nhất như” là lối nói cho chúng ta thấy rõ.
Tín Tâm Minh cũng có đoạn:
Viên đồng thái hư,
Vô khiếm vô dư,
Nhân do thủ xả,
Sở dĩ bất như.
Dịch:
Tròn đồng thái hư,
Không thiếu không dư,
Nhân vì thủ xả,
Thế nên chẳng như.
Tổ lặp lại chữ “như” một lần nữa. Chúng ta có Thể tánh tròn đồng thái hư, nghĩa là trùm cả hư không. Vô khiếm tức không thiếu, vô dư tức không thừa, hư không đến đâu thì Tâm thể chúng ta đến đó, không thiếu không thừa. Tại sao? Vì Tâm thể không tướng, hư không cũng không tướng, hư không đến đâu thì Tâm thể đến đó, nên nói tròn đồng thái hư, không thiếu cũng không dư.
“Nhân do thủ xả”, thủ là lấy, xả là bỏ, vì chúng ta có lấy có bỏ do đó không được như. Nếu có lấy, có bỏ thì tâm dị chưa? Lấy khác bỏ khác, tức là tâm đã dị rồi, mà tâm đã dị thì vạn pháp đâu được nhất như. Thế nên Tổ bảo nếu còn thủ xả thì không như, nếu bỏ thủ xả thì sẽ như. Tất cả niệm của chúng ta khởi theo cái gì? Theo hai bên, nghĩa là hoặc thủ hoặc xả, hoặc khen hoặc chê v.v..., tất cả các chấp hai đều nằm trong thủ xả. Vì thế còn chấp hai là tâm không như. Tóm lại niệm nào dấy lên cũng đều trong cái chấp hai. Ví dụ chúng ta nghĩ vật này tốt hoặc xấu, việc kia có hoặc không... Tốt xấu là hai, có không là hai, phải quấy là hai v.v... vừa dấy niệm là nằm trong cái chấp hai. Nhưng nếu lặng niệm xuống thì biết mà không có hai. Chính cái biết không hai đó là như, còn dấy niệm theo hai bên là không như. Đó là chỗ thiết yếu chúng ta phải thấy cho thật rõ để biết đường lối tu.
Cũng trong Tín Tâm Minh, khi kết thúc Tổ nói: “Tín tâm bất nhị, bất nhị tín tâm.” Ngài nói Tín Tâm là không hai, rồi lặp lại không hai là Tín Tâm. Chúng ta tin tâm là không hai, không hai tức là tin tâm. Quí vị tin tâm chưa? Nếu còn thấy hai là chưa tin. Chữ tin này không phải chỉ là biết có cái đó, mà là tin nhận được Tâm chân thật. Muốn nhận được Tâm chân thật là đừng thấy hai, còn có hai là không bao giờ nhận được Tâm chân thật. Vì thế Ngài nói “tín tâm bất nhị” rồi lặp lại “bất nhị tín tâm”, vì Tâm chân thật không có niệm, dấy niệm tức là hai, muốn nhận nó thì phải đừng dấy niệm.
Chư Tổ thuở xưa, khi gặp người dấy niệm hỏi điều gì có tánh cách đối đãi đều cho ăn đòn, để tập họ thấy đó là lỗi, đừng chạy theo hai bên nữa, mới tin được tâm mình. Tâm đó là Phật, nếu tin được tâm đó tức chúng ta tin được ông Phật của mình. Tin được Phật mình, nhận được Phật mình thì sớm muộn gì cũng thành Phật, nên nói kiến tánh thành Phật. Ai tu lại không muốn thành Phật, nhưng muốn thành Phật thì phải tin nhận tâm của mình, tin nhận tâm của mình thì phải không hai. Tóm lại, chủ yếu của người tu muốn được thành Phật thì phải đừng bị vọng tưởng dẫn dắt. Nếu để vọng tưởng dẫn dắt thì không bao giờ tin nhận được ông Phật của mình.
Trong Chứng Đạo Ca, Thiền sư Huyền Giác cũng dạy:
Thể nhược hư không vô nhai ngạn,
Bất ly đương xứ thường trạm nhiên,
Mích tức tri quân bất khả kiến.
“Thể nhược hư không vô nhai ngạn” là Tâm thể giống như hư không, không có bờ mé. Đoạn trên nói “viên đồng thái hư” là tròn đồng thái hư, không thiếu không dư, ở đây Ngài nói thể đó như hư không, không bờ mé. Làm sao sống được, biết được cái thể đó?
“Bất ly đương xứ thường trạm nhiên” nghĩa là không rời ngay chỗ này, mà thường lặng lẽ. Trong cái lặng lẽ đó có ông Phật hiện tiền, đâu phải chạy tìm nơi nào. Vì thế nên nói: “Mích tức tri quân bất khả kiến”, khởi niệm tìm tức là không bao giờ thấy được ông Phật. Ngồi an lặng lẽ thì ông Phật hiện tiền, vừa dấy niệm tìm thì mất ngay. Chính chỗ đó mới thấy Tâm thể của chúng ta trùm khắp, còn vọng tưởng thì giới hạn tạm bợ. Ví dụ chúng ta nghĩ về người thì vọng tưởng chỉ giới hạn trong con người, nghĩ tới cây thì vọng tưởng chỉ duyên theo bóng của cây. Nó có tướng giới hạn và tạm bợ mà chúng ta cho là mình, còn Tâm thể trùm cả hư không, chưa bao giờ sanh diệt lại bỏ quên. Đó là điều thật đáng thương, bỏ cái chân thật chạy theo cái hư dối, hài lòng với cái hư dối để rồi lăn lộn trong dòng luân hồi sanh tử! Vì thế chư Phật, chư Tổ thương xót mới ra đời chỉ cho chúng ta cái chân thật. Phật Tổ thương chỉ cho chúng ta cái chân thật, nhưng chúng ta không chịu làm đúng như lời Phật Tổ dạy. Vậy Phật Tổ phụ mình hay mình phụ Phật Tổ? Nhiều người cứ nghĩ Phật bỏ mình, nhưng Phật bỏ mình hay mình bỏ Phật? Như thế mới thấy chúng ta quí kính Phật nhưng vô tình lại bỏ rơi Phật, phụ công ơn Phật. Điều Phật chỉ dạy chúng ta không màng, không cố gắng thực hiện, lại bỏ qua để rồi sống trong sự cuồng loạn của mình. Như vậy đáng khen hay đáng chê? Thật là những chúng sanh mê muội đáng thương, đáng trách. Mê muội quá lắm!
Chúng ta hiểu đạo là để tu, chớ không phải hiểu để nói. Làm sao ứng dụng được những điều Phật Tổ dạy để trở lại với Tâm chân thật của mình. Thân này là tứ đại hòa hợp, tâm vọng tưởng là duyên theo bóng dáng sáu trần, cái gì họp thì cái đó phải tan, cái duyên theo bóng dáng là hư dối. Cái sẽ tan, cái hư dối mà chấp là thật, là mình; còn cái chưa bao giờ mất, chưa bao giờ diệt, trùm cả hư không, chúng ta lại bỏ quên. Đúng như trong kinh Pháp Hoa nói là cùng tử, lẽ ra nhận mình là con ông trưởng giả thì kho báu đầy nhà mặc tình hưởng, nhưng không chịu nhận lại cam đi hốt phân để sống qua ngày. Qua hình ảnh đó chúng ta mới thấy sự điên cuồng của mình. Có một cái chân thật được quyền hưởng trọn vẹn nhưng không chịu hưởng, đi nhận một cái hết sức tầm thường và hài lòng như vậy. Thật là đáng thương! Như người ăn một mâm cơm đầy đủ cao lương mỹ vị, mới nhìn thấy sang, thấy ngon nhưng ăn quá no những thức ăn khó tiêu dễ sanh đau bụng. Sau đó thấy khổ, tiêu hóa ra cũng hôi thối, vậy mà hài lòng, quí trọng, thật là khờ dại, còn cái chân thật thanh tịnh sẵn có lại bỏ quên!
Chúng ta tu cốt phải trở về cái chân thật đó, sống được với cái chân thật mới là biết đạo, biết tu. Trái lại chạy theo bóng dáng bên ngoài dù hay bao nhiêu cũng chỉ là ảo ảnh thôi, không phải cái chân thật. Như thế chủ yếu người tu Phật phải tin nhận nơi mình có cái chân thật, đó là Chân tâm hay Phật tánh. Để kết luận, tôi dẫn bài kệ của cư sĩ Bàng Uẩn:
Đản tự vô tâm ư vạn vật,
Hà phòng vạn vật thường vi nhiễu.
Thiết ngưu bất phạ sư tử hống,
Kháp tợ mộc nhân khán họa điểu.
Mộc nhân bản thể tự vô tình,
Họa điểu phùng nhân diệc bất kinh.
Tâm cảnh như như chỉ giá thị,
Hà lự Bồ-đề đạo bất thành.
Dịch:
Chỉ tự vô tâm cùng vạn vật,
Ngại gì vạn vật thường quấy nhiễu.
Trâu sắt chẳng sợ sư tử rống,
Giống như người gỗ xem chim vẽ,
Người gỗ bản thể tự vô tình,
Chim vẽ gặp người cũng chẳng kinh.
Tâm cảnh như như chỉ thế ấy,
Nào sợ Bồ-đề đạo chẳng thành.
“Chỉ tự vô tâm cùng vạn vật”, vô tâm là vô tâm nào? Vô cái tâm vọng tưởng điên đảo. Chỉ vô tâm cùng vạn vật nghĩa là không có tâm điên đảo chạy theo muôn vật thì ngại gì vạn vật thường quấy nhiễu, ngại gì mà phải than cái này, cái kia vây quanh, tôi tu không được! Như vậy tại các duyên hay tại mình có tâm với nó? Ví dụ có một vật quí để trước mắt chúng ta, nó là nó, mình là mình. Đâu phải tại nó mà mình tu không được, tại dấy niệm tham nên tu không được, chớ vật quí là vật quí, mình là mình, đừng dấy niệm tham thì có gì tu không được? Đến những tiếng khen, tiếng chê, khi qua mất rồi, chúng ta đừng quan trọng nó, đừng dính thì có gì mà tu không được. Nhưng được người khen thì nhớ hoài, bị chê thì giận mãi, như vậy tu không được là tại chúng ta duyên theo nó. Nếu xem nó như gió thổi, như pháo nổ, qua rồi thôi thì có gì tu không được. Chúng ta tu không được là tại hữu tâm với vạn vật. Thấy cái gì cũng cột, cũng nắm rồi đổ thừa tại vật này, việc kia lăng xăng làm tôi tu không được. Thử hỏi trên thế gian này, nơi nào không có những điều lăng xăng? Chỉ ta đừng chạy theo nó thì hết lăng xăng, nên Bàng Uẩn thốt ra hai câu: Chỉ tự vô tâm cùng vạn vật, ngại gì vạn vật thường quấy nhiễu. Vạn vật không quấy nhiễu chúng ta, nếu chúng ta không có tâm với nó, trái lại nếu có tâm với nó thì nó quấy nhiễu mình.
Ngài lại dùng thí dụ con trâu sắt không sợ sư tử rống. Thường sư tử rống lên thì trâu hay voi gì cũng chạy cả, nhưng nếu gặp trâu sắt thì nó không sợ nên không chạy. Đến thí dụ thứ hai, giống như người gỗ xem chim vẽ. Người gỗ đứng nhìn chim vẽ thì cả hai như thế nào? Ngài nói người gỗ bản thể tự vô tình, chim vẽ gặp người cũng chẳng kinh. Người gỗ đâu có tình, chim vẽ thấy người gỗ cũng không sợ. Ba hình ảnh: con trâu sắt, người gỗ, chim vẽ, cả ba đều không sợ ai hết. Tại sao? Tại nó vô tình, vô tâm.
Chúng ta hiện nay cũng vậy, nếu vô tâm với vạn vật, thì không vật nào quấy nhiễu mình được cả. Thế nên Ngài kết thúc bằng hai câu: “Tâm cảnh như như chỉ thế ấy”, tức là đối cảnh mà tâm như như không chạy theo, thì “nào sợ Bồ-đề đạo chẳng thành”, nếu tâm mình không chạy theo cảnh thì đừng lo không thành đạo Bồ-đề. Sở dĩ chúng ta không thành đạo Bồ-đề là vì tâm chạy theo cảnh. Trái lại nếu tâm không chạy theo cảnh thì tâm cảnh như như, đạo Bồ-đề hiện tiền, chớ tìm ở đâu nữa.
Tóm lại, chư Phật, chư Tổ đều chỉ rõ yếu điểm tu hành cho chúng ta. Yếu điểm đó là tâm đừng chạy theo cảnh, khi tâm không chạy theo cảnh thì tâm cảnh như như, tâm cảnh như như thì đạo Bồ-đề hiện tiền, dù không muốn thành Phật thì Phật cũng hiện trước mắt. Trái lại, nếu chúng ta cứ mong tìm mà tâm cứ động mãi thì không bao giờ thấy Phật. Thế nên, tôi mong tất cả Tăng Ni, Phật tử qua năm mới này đều nỗ lực cố gắng tu hành, đừng để tâm chạy theo cảnh. Tâm và cảnh được như như đó là không cô phụ công ơn Phật Tổ và các vị thiện tri thức chỉ dạy chúng ta. Như vậy mới xứng đáng là con dòng họ Thích, mới không hổ thẹn xưng ta là Thích tử. Trái lại nếu chúng ta cứ để tâm rong ruổi theo vọng cảnh thì dù có thương Phật thế mấy cũng khó gặp Phật được. Vậy mong rằng tất cả chúng ta đều nỗ lực để mỗi ngày mỗi ngày gần được Phật và một ngày nào đó thì viên mãn sống với Phật chớ không còn quên, không còn bỏ sót nữa.
PHẬT PHÁP THIẾT THỰC, HIỆN TẠI,
KHÔNG CÓ THỜI GIAN, ĐẾN ĐỂ MÀ THẤY...
Xuân Bính Dần - 1986
Nhân ngày Tết Nguyên Đán, chúng tôi có ít lời với quí Tăng Ni và Phật tử về đề tài hơi dài một chút để ứng dụng trong việc tu hành là: Phật pháp thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy...
Phần đông chúng ta có quan niệm sai lầm về đạo Phật, thường nghĩ rằng đạo Phật nói những điều gì huyền bí cao siêu, khó hiểu, khó thấy, nhưng không ngờ đạo Phật lại rất thực tế, là mời chúng ta “đến để mà thấy”. Đầu đề này không phải tự ý tôi nêu lên, đây là tôi dẫn trong Tăng Chi Bộ Kinh.
Thời Phật tại thế, có một ngoại đạo tên Sivaka đến hỏi: “Phật pháp là thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy..., như vậy làm sao chứng minh được nghĩa đó?” Đức Phật trả lời: “Nếu nội tâm có tham, ông có biết ‘nội tâm ta có tham’; nội tâm không có tham, ông có biết ‘nội tâm ta không có tham’ chăng?” Ông Sivaka thưa: “Thưa có.” Phật bảo: “Này Sivaka, nội tâm có tham, ông có biết ‘nội tâm ta có tham’, nội tâm không có tham, ông có biết ‘nội tâm ta không có tham’. Như vậy này Sivaka ‘pháp là thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy’...” Nghe lời Phật dạy chúng ta nghĩ thế nào? Nếu nội tâm tham, ta biết nội tâm có tham, nội tâm không tham, ta biết nội tâm không tham. Nội tâm có tham là có khổ, nếu dứt lòng tham của nội tâm thì hết khổ. Thế là pháp Phật dạy chúng ta tu như thế nào? Khổ là do nội tâm có tham, muốn hết khổ thì phải dùng phương pháp tiêu diệt lòng tham. Nội tâm hết tham thì thân này sẽ hết khổ. Pháp Phật dạy rất thiết thực. Nó không có thời gian nghĩa là mình có tham biết có tham, khi hết tham biết hết tham, có thì biết có, không thì biết không, biết rõ ràng không đợi thời gian. Người tu Phật đến để mà thấy, do mình thấy có tham, rồi cũng do mình thấy hết tham. Đó là sự thật do mình thấy được, chớ đâu phải do lòng tin. Đến để mà thấy thì đâu có đặt lòng tin lên trên. Chúng ta thấy rõ “Phật pháp là thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy...”
Bởi có tham nên có khổ, bởi có khổ nên bây giờ chúng ta tu để diệt lòng tham. Khi lòng tham hết rồi thì chúng ta cũng hết khổ. Đó là một lẽ thật cụ thể không có nghi ngờ gì nữa. Chính chúng ta nhận biết ngay nơi nội tâm mình, không có người thứ hai chen vào biết thay ta được. Chúng ta có nên đi coi đồng, coi bóng, soi căn, soi cơ, coi tu chừng nào hết khổ hay không? Chính vì mình biết rõ ràng có tham là có khổ, hết tham là hết khổ, không do ai biết thế mình được, nên nói: “Phật pháp là thiết thực, là không có thời gian, là đến để mà thấy.”
Đến phần thứ hai Phật nói thêm: “Nội tâm có sân, ông có biết ‘nội tâm ta có sân’, nội tâm không sân, ông có biết ‘nội tâm ta không sân’. Như vậy này Sivaka pháp là thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy...” Khi nổi sân, ta có thấy “ta nổi sân” không? Khi tu hết sân, ta có thấy “ta hết sân” không? Có sân là có khổ, vì sân thì tạo cảnh khổ. Hết sân thì hết khổ. Như vậy “Phật pháp là thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy” chớ không phải chuyện vu vơ ở đâu.
Phật nói tiếp: “Nội tâm có si, ông có biết ‘nội tâm ta có si’, nội tâm không si ông có biết ‘nội tâm ta không si’ v.v...” Cuối cùng Phật nói: “Nội tâm có tham pháp, có sân pháp, có si pháp, ông có biết: ‘nội tâm ta có tham pháp, có sân pháp, có si pháp’ v.v... Như vậy này Sivaka, ‘pháp là thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy’...”
Qua bài kinh trích dẫn rất ngắn đó, chúng ta thấy rõ ràng Phật pháp là thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, chớ không phải chuyện viển vông gì. Đức Phật chỉ thẳng việc tu của Tăng Ni và toàn thể Phật tử là thiết thực, chúng ta tu được bao nhiêu thì thấy rõ bấy nhiêu. Ngày xưa khi gặp những việc trái tai gai mắt chúng ta nổi sân, cãi nhau, đánh nhau v.v... tạo bao nhiêu điều khổ! Bây giờ biết tu rồi giảm sân, dù gặp những việc trái tai gai mắt nhưng lòng mình không sân, mình biết rõ ràng là mình không sân, không sân thì không khổ. Phật pháp cốt chỉ chúng ta tu để diệt khổ trong hiện tại, tu được bước nào là biết kết quả của bước ấy, đó là chuyện cụ thể rõ ràng. Vì chúng ta thiếu nhận định sáng suốt nên đâm ra mơ màng vu vơ...
Thật đáng thương cho bao nhiêu người học Phật mà không ứng dụng đúng tinh thần đạo Phật. Khi gặp việc khổ cứ lo tụng cầu mãi, thử hỏi bao giờ hết khổ. Khi gặp tai nạn cứ lo tụng cầu an, cầu an như vậy có bảo đảm hết tai nạn hay không? Làm cứ làm mà không biết kết quả ra sao! Đức Phật đã dạy rõ ràng nếu mình bỏ được cái dở nào thì có kết quả ngay cái đó. Chúng ta thấy giá trị Phật pháp đúng là một lẽ thật, không phải là chuyện xa xôi huyền ảo. Quả là “Phật pháp là thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy...”.
Đức Phật còn dạy chúng ta về lý vô thường. Con người và tất cả sự vật đều vô thường, đó là một sự thật không thể chối cãi được. Ở thế gian này có gì tồn tại mãi mãi, không đổi dời đâu? Cái gì rồi cũng bị đổi thay, cũng bị luật vô thường chi phối. Vô thường là một lẽ thật trước mắt, ai ai cũng thấy, cũng chứng nghiệm được. Như vậy có phải Phật pháp thiết thực, đến để mà thấy... chăng?
Đức Phật dạy các pháp do nhân duyên sanh. Tỉ dụ cái nhà tự nó có hay do nhiều nhân tố hợp lại? Cái bàn tự nó có, hay do nhiều nhân tố khác hợp thành? Không có vật nào tự nó thành hình, mà phải nhiều nhân tố hợp lại mới thành. Như vậy lý duyên sanh là một lẽ thật cụ thể. Nói nhân duyên sanh tức là nói nhiều nhân tố hợp lại. Do nhân duyên hợp, cho nên mới phân tích được đây là nhân tố A, đây là nhân tố B, C... Do nhiều nhân tố A, B, C... hợp lại mới thành một vật thể. Những vật thể có hình, có tướng là do sự kết hợp của nhiều nhân tố, đó là thực tế, đó là hợp với khoa học. Vì sao chúng ta nói khoa học là thực tế mà lại cho Phật học là huyền bí viển vông? Chính Phật học có tinh thần khoa học rõ ràng, thật đúng khi nói: “Phật pháp thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy...”
Xa hơn nữa, đi vào giáo lý Đại thừa hay đi thẳng vào Thiền tông, chúng ta sẽ thấy Phật pháp càng thiết thực hơn. Thường người ta hay phê phán “Đại thừa nói chuyện trên trời, trên mây”. Nhưng sự thật giáo lý Đại thừa rất là thiết thực. Trong Thiền tông mỗi khi các vị đi tham cứu du học, các Thiền sư thường bảo rằng: “Hãy nhìn lại gót chân của các ông.” Việc ở dưới gót chân là gần hay xa? Chỉ ở gần một bên thôi mà chúng ta quên. Cho nên khi học Phật nếu không có một cái nhìn thấu đáo thì dễ bị lạc lầm. Những ngôn ngữ, những danh từ của giáo lý Đại thừa hay Thiền tông có vẻ huyền bí khó hiểu, khiến chúng ta nhận lầm. Những câu chuyện trong kinh điển Đại thừa như kinh Pháp Hoa, kinh Lăng Nghiêm rất là thiết thực, chỉ thẳng ngay nơi con người mình cái thiết thực cụ thể mà ngàn đời ta quên, đó là “Phật tại tâm”, đâu có xa xôi gì, đâu phải Phật ở trên trời trên mây! Nhưng vì chỉ một cái không hình, không tướng nên chúng ta khó hiểu khó nhận.
Hằng ngày chúng ta nghĩ tới ăn, nghĩ tới mặc, nghĩ tới ở, ăn mặc ở để làm gì? Để nuôi dưỡng thân này cho sống còn. Nhưng có một cái thiết thực hơn ăn, hơn mặc, hơn ở mà chúng ta có nhớ có lo cho nó bao giờ đâu! Đó là cái gì? Đó là hơi thở. Thiếu ăn mấy ngày mới chết, còn thiếu thở chừng bao lâu thì chết? Chỉ cần thở khì ra mà không hít vào là chết ngay! Vậy mà chúng ta có lo nghĩ đến nó bao giờ! Có khi nào chúng ta nhớ mình đang thở không? Đâu có nhớ. Vì nó sẵn quá nên chúng ta quên, chỉ nghĩ làm sao kiếm những thức ăn cho ngon miệng, những vị có xúc cảm mạnh ở lưỡi, còn cái thực tế cụ thể sẵn sàng không rời một phút giây nào, chúng ta lại quên. Hơi thở đối với mạng sống này là thiết yếu số một, còn việc uống ăn mặc ở là thứ yếu, vậy mà chúng ta nhớ cái thứ yếu, còn cái chánh lại quên đi. Có người nào nói tôi tập thở cho đều, cho dài, cho nhẹ không? Không có đâu! Cả ngày cứ xoay trở trong việc ăn, mặc, ở mà không bao giờ nghĩ đến hơi thở.
Cũng vậy, hiện giờ chúng ta cứ nghĩ việc này phải, việc kia quấy, cái này tốt, cái kia xấu v.v... nghĩ hoài những chuyện bên ngoài, còn cái chân thật ngay nơi mình, không bao giờ chúng ta nhớ tới. Bởi chúng ta không nhớ nên chư Tổ phải nhắc đi nhắc lại mãi đến khô môi đắng lưỡi.
Đến đây chúng tôi dẫn các câu chuyện trong Thiền tông để chúng ta thấy điểm đặc biệt của các Tổ. Các ngài chỉ cho ta thấy cái thực tế cụ thể trước mắt. Thiền sư thường hay nói: “Cái đó ở trước mặt mà mình không thấy.” Thí dụ như lỗ mũi ở trước mặt mà mình có thấy nó đâu, có bao giờ để ý đến nó. Chúng ta cứ lo thấy nhà, thấy cửa, thấy người, thấy vật, mà lỗ mũi nằm sát trước mặt lại không thấy. Cũng như vậy cái chân thật hiện hữu ngay nơi mình mà mình không nhớ, chỉ nhớ chuyện đâu đâu.
Thiền sư Bá Trượng khi còn làm Thị giả cho Mã Tổ, Mã Tổ và Ngài đi dạo vườn, thấy một bầy vịt trời bay ngang, Mã Tổ hỏi: “Cái gì đó?” Ngài thưa: “Dạ bầy vịt trời.” Mã Tổ hỏi: “Bay đi đâu?” Ngài đáp: “Bay qua mất rồi.” Mã Tổ nắm lỗ mũi Ngài vặn mạnh một cái đau điếng, Ngài la thất thanh, Mã Tổ bảo: “Sao không nói bay qua mất đi!” Ngay đó ngài Bá Trượng tỉnh ngộ. Đây là một câu chuyện rất lý thú trong nhà thiền.
Đến câu chuyện con rắn bắt con nhái, con nhái kêu ẹo ẹo, ngài Cảnh Thanh hỏi Thị giả: “Đó là tiếng gì?” Thị giả thưa: “Đó là tiếng rắn bắt nhái, con nhái kêu.” Ngài bảo: “Chúng sanh khổ, lại có khổ chúng sanh.” Ý Ngài muốn nói gì? Ngài muốn nói chúng ta chỉ nghe tiếng bên ngoài mà quên cái hay nghe của mình. Cũng như câu chuyện bầy vịt trời bay qua, chúng ta chỉ thấy cái bay qua bay lại, còn mất bên ngoài mà quên cái hiện hay thấy của mình, cho nên Mã Tổ vặn mũi ngài Bá Trượng một cái đau điếng, Ngài la thất thanh, Tổ chỉ nói nhẹ một câu: “Sao không nói bay qua mất đi.” Ngay đó ngài Bá Trượng thấy không mất. Như vậy chúng ta mới thấy đặc tài của các Thiền sư, các ngài chỉ một cái thật sẵn có nơi mình, lỗ mũi ở trước mắt mà không thấy, cũng như cái đó hiện hữu nơi mình mà không bao giờ nhớ, nên Tổ nắm lỗ mũi ngài Bá Trượng vặn một cái thì Ngài liền tỉnh ngộ, biết được cái hiện hữu của mình, cũng như lỗ mũi ở trước mắt vậy.
Chúng tôi dẫn thêm một câu chuyện để chúng ta biết rõ ý nghĩa cái lỗ mũi trong nhà thiền. Thiền sư Tuyệt Chiêu đi xa về, Ngài đăng tòa nói kệ:
Tương biệt nhất hà cửu,
Tương phùng chỉ cựu thời,
My mao phân bát tự,
Tỹ khổng đại đầu thùy.
Dịch:
Xa nhau chẳng lâu mấy,
Gặp nhau chỉ thuở xưa,
Lông mày hình chữ bát,
Duỗi xuống mũi đầu to.
Theo chữ Hán đôi lông mày hở ở giữa, tượng trưng chữ “bát”, còn lỗ mũi đầu thon nằm trên, đầu lớn duỗi xuống. Như vậy lẽ thật không xa, cũng như chân mày và lỗ mũi ở gần bên nhau vậy.
Xa nhau chẳng lâu mấy, xa nhau là thân này, là tướng mạo này. Gặp nhau chỉ thuở xưa, cái chân thật thì trùm khắp, có xa gì nhau. Lông mày hình chữ bát, duỗi xuống mũi đầu to, giống như cặp chân mày ở trên lỗ mũi. Như vậy chân mày gần kề bên lỗ mũi đâu có xa xôi gì. Lỗ mũi là tượng trưng cho cái chân thật hiện hữu trước mắt mà mình không nhận.
Trong bài tụng Vô Tướng của Lục Tổ:
Phật pháp tại thế gian,
Bất ly thế gian giác,
Ly thế mích Bồ-đề,
Kháp tợ tầm thố giác.
Phật pháp ngay trên thế gian, không thể lìa thế gian mà có sự giác ngộ. Lìa thế gian mà tìm giác ngộ chẳng khác nào như tìm sừng thỏ vậy. Sừng thỏ đâu có thật mà tìm. Giác ngộ của đạo Phật là giác ngộ ngay trên thế gian này, không phải tìm kiếm đâu xa. Ví dụ đứng trước căn nhà sụp đổ, nhớ lại lúc trước nhà này đẹp đẽ xinh xắn biết bao, mà giờ đây hư nát, chúng ta liền giác ngộ được lý vô thường. Lý vô thường hiện hữu ngay nơi căn nhà đổ nát, hiện hữu ngay nơi các pháp trong thế gian này. Tất cả những đạo lý nhà Phật đều là những cái hiện thực ở thế gian, chớ không phải chuyện xa xôi, nhưng cái thật đó người mê thấy khác, người ngộ thấy khác. Người mê thấy theo tình cảm riêng tư, còn người ngộ thấy được lý thật của sự vật. Cho nên tất cả pháp thế gian, pháp nào cũng là để giác ngộ. Từ cái nhà chúng ta giác ngộ được lý vô thường, từ cái nhà chúng ta giác ngộ được lý nhân duyên, từ cái nhà chúng ta thấy rõ các pháp đều là hư dối.
Vì mê lầm nhiều đời, cho nên cùng một sự việc mà chúng ta thấy cảm kích nhè nhẹ, còn những vị tâm trí bén nhạy lại cảm động mạnh, bởi cảm động mạnh nên giác ngộ ngay. Vì vậy những vị tu chứng quả Tu-đà-hoàn hay Tư-đà-hàm nếu kiếp chót các ngài ra đời mà không gặp Phật pháp, thì khi thấy một chiếc lá rụng các ngài cũng có thể ngộ đạo. Còn chúng ta đã thấy biết bao nhiêu lá rụng mà có giác ngộ đâu! Vì sao? Vì tâm các ngài nhẹ nhàng thanh tịnh nên gặp một cái động nhỏ cũng giác ngộ. Còn chúng ta hiện giờ tâm trí đen tối nên cọ xát mạnh cũng không sáng nổi, nói gì là chạm nhẹ! Cho nên trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật nói với ngài A-nan: “Như Lai án túc hải ấn phát quang, nhữ nhược cử tâm trần lao tiên khởi.” Như Lai chỉ ấn ngón chân xuống, cả biển phát ra ánh sáng, ông vừa dấy niệm, bụi bặm đầy trời! Như vậy mới thấy sự khác nhau giữa đôi bên, một bên thanh tịnh rồi nên hành động nào cũng sáng suốt, một bên còn u mê nên hành động nào cũng mờ tối. Chúng ta u mê là vì huân tập nhiều đời, thật ra ở trên thế gian này nếu sớm tỉnh giác thì biết bao nhiêu việc để chúng ta giác ngộ.
Đức Phật ngày xưa chỉ cần đi ra bốn cửa thành, thấy người già, người bệnh, người chết, khi trở về Ngài liền đi tu, còn chúng ta hiện nay thấy bao nhiêu người già, người bệnh, người chết mà chúng ta có muốn tu chưa? Người tâm hồn nhẹ nhàng trong sáng chỉ một việc nhỏ cũng dễ cảm kích, còn chúng ta thấy việc đau khổ nhan nhản trước mắt, rồi cũng quên đi. Tỉ dụ như khi đưa đám tang một thân nhân, chúng ta khóc lóc đau buồn, nhưng năm ba hôm rồi quên, vì bận công kia việc nọ. Cho nên những việc đáng cho mình giác ngộ mà mình không giác được, còn các ngài ngay đó liền giác ngộ. Đâu phải tìm chuyện trên trời trên mây mới giác ngộ, mà ngay trong hiện tại nếu chúng ta khéo nhận thì được thức tỉnh liền. Như vậy giác ngộ là ngay nơi thế gian, chớ không phải ở đâu khác. Những chuyện sanh già bệnh chết là ngay nơi thế gian này. Lẽ vô thường và tướng duyên hợp là hiện tiền ngay nơi thế gian này, chúng ta thấy rõ mà chóng quên đi. Việc sai lầm đó là chính nơi chúng ta vậy.
Ngài Bổn Như ở Phần Chiêu đến tham vấn Tôn giả Pháp Trí. Ngài thường nghe trong kinh nói “kinh này là vua của các kinh”, tỉ dụ kinh Kim Cang, kinh Pháp Hoa chẳng hạn nói là vua các kinh. Ngài đem câu đó hỏi Tôn giả. Hỏi: “Thế nào là vua các kinh?” Tôn giả bảo: “Ông làm Tri khố cho ta ba năm, ta sẽ vì ông mà nói.” Một câu hỏi dễ như vậy mà phải làm Tri khố ba năm. Ngài Bổn Như lãnh chức Tri khố. Mãn ba năm, Ngài đến thưa: “Bạch Hòa thượng con đã làm Tri khố mãn ba năm rồi, nay xin Hòa thượng nói.” Hòa thượng liền gọi: “Bổn Như”, Ngài “dạ”. Ngay đó Ngài liền ngộ, biết vua của các kinh. Chuyện này là gần hay xa? Chỉ cần một tiếng “dạ” là thấy được. Việc hết sức gần mà muôn đời chúng ta quên. Bởi muôn đời quên, nên một lần nhắc lại liền thấy. Mới nhìn qua chúng ta thấy người xưa dường như khó khăn, một câu hỏi mà không chịu trả lời liền, bắt phải làm Tri khố đến ba năm. Nhưng chính ba năm này nó súc tích làm cho ngài Bổn Như thấy câu đó quan trọng. Về sau chỉ cần gọi, rồi “dạ” liền biết được vua các kinh. Khi ngộ rồi, Ngài liền làm bài kệ:
Xứ xứ phùng quy lộ,
Đầu đầu thị cố hương,
Bản lai thành hiện sự,
Hà tất đãi tư lương.
Dịch:
Chốn chốn đường về cũ,
Nơi nơi vốn cố hương,
Xưa nay thành hiện sự,
Nào phải đợi suy lường.
Chốn nào cũng là đường về, nơi nào cũng là cố hương, xưa nay nó là việc hiện tại. Không phải đợi suy lường, vừa suy lường là hết hiện sự rồi. Chúng ta thấy cái ngài Bổn Như “dạ” rồi ngộ đạo, biết được vua các kinh không? Tu hành không phải là chuyện xa xôi, chỉ ngay nơi tai, ngay nơi mắt, nếu khéo nhận, chúng ta thấy được cái căn bản, nếu không khéo sẽ đuổi theo ngoại cảnh suốt đời, bỏ quên đi cái chân thật ngay nơi chính mình. Thế nên người xưa chỉ một câu nói mà ngộ đạo.
Đọc qua bài kệ, chúng ta thấy nó cụ thể làm sao. Chốn chốn đường về cũ, chỗ nào không phải đường về. Nơi nơi vốn cố hương, cố hương ở khắp mọi nơi, không phải ở riêng ngọn núi hay hang động nào mà chỗ nào cũng là cố hương! Như vậy chỗ nào không phải là Phật pháp? Nếu chúng ta khéo thì ngay đó liền thấy. Xưa nay thành hiện sự, quá khứ và hiện tại đều là cái hiện hữu ở đây, không ở đâu xa. Nào phải đợi suy lường, vừa khởi suy lường là không trúng, là không thấy. Đó là điều cụ thể mà chúng ta cần phải nhận thấy.
Đối với Phật pháp, các Thiền sư luôn luôn chỉ lẽ thật, nhưng lẽ thật các ngài chỉ hơi khó hiểu hơn bên giáo lý Nguyên thủy. Nguyên thủy chỉ những cái cụ thể như lý nhân duyên, lý vô thường, vô ngã, còn Thiền tông chỉ cái chân thật tàng ẩn trong cái hư dối, nhưng chúng ta quen nhìn cái hư dối mà quên đi cái chân thật. Nếu nhận được cái chân thật thì cụ thể hơn ngàn lần cái hư dối kia. Cho nên chúng ta tu cốt làm sao tinh tấn để nhận được cái chân thật đó. Chúng tôi dẫn những câu chuyện trên để chúng ta thấy “Phật pháp là thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy...”
Những giáo lý Tiểu thừa cho đến Đại thừa và Thiền tông đều là thực tế, cụ thể, chớ không phải là chuyện xa xôi, nhưng cái cụ thể này rất khó nói, khó chỉ. Ví dụ có người hỏi “núi ở chỗ nào”, “biển ở chỗ nào”, chúng ta dễ chỉ. Nhưng nếu hỏi “không khí ở chỗ nào”, làm sao chỉ được! Mà chỉ không được là không có không khí hay sao? Chỉ những cái có hình tướng thì dễ thấy, còn cái hiện hữu mà không hình tướng thì rất khó thấy. Tuy khó thấy nhưng nó thiết yếu bằng mấy ngàn lần cái có hình tướng. Thiền tông chỉ cái rất khó chỉ, nhưng cái ấy rất thiết yếu trong cuộc sống của con người, nên nói Thiền tông chỉ cho chúng ta ngọc báu vô giá mà lâu nay chúng ta bỏ quên. Đến đây chúng tôi đã chứng minh rõ “Phật pháp là thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy...”
Hôm nay là ngày Tết Nguyên Đán, chúng tôi chúc quí vị được nhiều điều tốt đẹp. Và để thay lời kết chúng tôi dẫn bài thơ của Thiền sư Chơn Tịnh đời Tống. Sáng mồng một Tết Ngài cạo tóc, cảm hứng làm kệ:
Thế phát nhân kinh tuyết mãn đao,
Niên hoa tu tín bất tương nhiêu.
Đào sanh thoát tử cần vi Phật,
Mạc vị minh triêu dữ hậu triêu.
Dịch:
Cạo tóc giựt mình tuyết đầy dao,
Tuổi xuân nên biết chẳng tha nhau.
Vượt sanh thoát tử cần làm Phật,
Thôi chớ dần dà hẹn sáng sau.
Sáng ngày cạo tóc, giựt mình thấy tóc bạc như tuyết dính đầy dao. Các vị lớn tuổi tóc bạc, mỗi khi cạo tóc giựt mình thấy tuyết đầy dao! Tuổi xuân có để cho mình còn mãi như vậy đâu. Thời gian ép ngặt đuổi ta chạy, giành cái tuổi xuân mất rồi. Muốn vượt sanh thoát tử, thôi không nên hẹn sáng, hẹn chiều, hẹn ngày mai, ngày mốt. Lẽ ra chúng ta phải tu ngay bây giờ không nên biếng nhác, không nên chần chờ vì tuổi xuân của mình đã bị cướp mất rồi, mà mục tiêu làm Phật chưa đạt được. Phải tu ngay trong từng phút giây mới đúng với lý tưởng vượt sanh thoát tử, xứng đáng với lý tưởng cần làm Phật của mình.
Nhân mùa Xuân đến, chúng tôi chúc tất cả Tăng Ni cùng toàn thể Phật tử nam nữ trong năm Bính Dần này và mãi mãi về sau “giờ nào, ngày nào, tháng nào, năm nào cũng là giờ ngày tháng năm tu hành, đừng có chần chờ”.
KHÔNG CÓ THỜI GIAN, ĐẾN ĐỂ MÀ THẤY...
Xuân Bính Dần - 1986
Nhân ngày Tết Nguyên Đán, chúng tôi có ít lời với quí Tăng Ni và Phật tử về đề tài hơi dài một chút để ứng dụng trong việc tu hành là: Phật pháp thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy...
Phần đông chúng ta có quan niệm sai lầm về đạo Phật, thường nghĩ rằng đạo Phật nói những điều gì huyền bí cao siêu, khó hiểu, khó thấy, nhưng không ngờ đạo Phật lại rất thực tế, là mời chúng ta “đến để mà thấy”. Đầu đề này không phải tự ý tôi nêu lên, đây là tôi dẫn trong Tăng Chi Bộ Kinh.
Thời Phật tại thế, có một ngoại đạo tên Sivaka đến hỏi: “Phật pháp là thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy..., như vậy làm sao chứng minh được nghĩa đó?” Đức Phật trả lời: “Nếu nội tâm có tham, ông có biết ‘nội tâm ta có tham’; nội tâm không có tham, ông có biết ‘nội tâm ta không có tham’ chăng?” Ông Sivaka thưa: “Thưa có.” Phật bảo: “Này Sivaka, nội tâm có tham, ông có biết ‘nội tâm ta có tham’, nội tâm không có tham, ông có biết ‘nội tâm ta không có tham’. Như vậy này Sivaka ‘pháp là thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy’...” Nghe lời Phật dạy chúng ta nghĩ thế nào? Nếu nội tâm tham, ta biết nội tâm có tham, nội tâm không tham, ta biết nội tâm không tham. Nội tâm có tham là có khổ, nếu dứt lòng tham của nội tâm thì hết khổ. Thế là pháp Phật dạy chúng ta tu như thế nào? Khổ là do nội tâm có tham, muốn hết khổ thì phải dùng phương pháp tiêu diệt lòng tham. Nội tâm hết tham thì thân này sẽ hết khổ. Pháp Phật dạy rất thiết thực. Nó không có thời gian nghĩa là mình có tham biết có tham, khi hết tham biết hết tham, có thì biết có, không thì biết không, biết rõ ràng không đợi thời gian. Người tu Phật đến để mà thấy, do mình thấy có tham, rồi cũng do mình thấy hết tham. Đó là sự thật do mình thấy được, chớ đâu phải do lòng tin. Đến để mà thấy thì đâu có đặt lòng tin lên trên. Chúng ta thấy rõ “Phật pháp là thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy...”
Bởi có tham nên có khổ, bởi có khổ nên bây giờ chúng ta tu để diệt lòng tham. Khi lòng tham hết rồi thì chúng ta cũng hết khổ. Đó là một lẽ thật cụ thể không có nghi ngờ gì nữa. Chính chúng ta nhận biết ngay nơi nội tâm mình, không có người thứ hai chen vào biết thay ta được. Chúng ta có nên đi coi đồng, coi bóng, soi căn, soi cơ, coi tu chừng nào hết khổ hay không? Chính vì mình biết rõ ràng có tham là có khổ, hết tham là hết khổ, không do ai biết thế mình được, nên nói: “Phật pháp là thiết thực, là không có thời gian, là đến để mà thấy.”
Đến phần thứ hai Phật nói thêm: “Nội tâm có sân, ông có biết ‘nội tâm ta có sân’, nội tâm không sân, ông có biết ‘nội tâm ta không sân’. Như vậy này Sivaka pháp là thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy...” Khi nổi sân, ta có thấy “ta nổi sân” không? Khi tu hết sân, ta có thấy “ta hết sân” không? Có sân là có khổ, vì sân thì tạo cảnh khổ. Hết sân thì hết khổ. Như vậy “Phật pháp là thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy” chớ không phải chuyện vu vơ ở đâu.
Phật nói tiếp: “Nội tâm có si, ông có biết ‘nội tâm ta có si’, nội tâm không si ông có biết ‘nội tâm ta không si’ v.v...” Cuối cùng Phật nói: “Nội tâm có tham pháp, có sân pháp, có si pháp, ông có biết: ‘nội tâm ta có tham pháp, có sân pháp, có si pháp’ v.v... Như vậy này Sivaka, ‘pháp là thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy’...”
Qua bài kinh trích dẫn rất ngắn đó, chúng ta thấy rõ ràng Phật pháp là thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, chớ không phải chuyện viển vông gì. Đức Phật chỉ thẳng việc tu của Tăng Ni và toàn thể Phật tử là thiết thực, chúng ta tu được bao nhiêu thì thấy rõ bấy nhiêu. Ngày xưa khi gặp những việc trái tai gai mắt chúng ta nổi sân, cãi nhau, đánh nhau v.v... tạo bao nhiêu điều khổ! Bây giờ biết tu rồi giảm sân, dù gặp những việc trái tai gai mắt nhưng lòng mình không sân, mình biết rõ ràng là mình không sân, không sân thì không khổ. Phật pháp cốt chỉ chúng ta tu để diệt khổ trong hiện tại, tu được bước nào là biết kết quả của bước ấy, đó là chuyện cụ thể rõ ràng. Vì chúng ta thiếu nhận định sáng suốt nên đâm ra mơ màng vu vơ...
Thật đáng thương cho bao nhiêu người học Phật mà không ứng dụng đúng tinh thần đạo Phật. Khi gặp việc khổ cứ lo tụng cầu mãi, thử hỏi bao giờ hết khổ. Khi gặp tai nạn cứ lo tụng cầu an, cầu an như vậy có bảo đảm hết tai nạn hay không? Làm cứ làm mà không biết kết quả ra sao! Đức Phật đã dạy rõ ràng nếu mình bỏ được cái dở nào thì có kết quả ngay cái đó. Chúng ta thấy giá trị Phật pháp đúng là một lẽ thật, không phải là chuyện xa xôi huyền ảo. Quả là “Phật pháp là thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy...”.
Đức Phật còn dạy chúng ta về lý vô thường. Con người và tất cả sự vật đều vô thường, đó là một sự thật không thể chối cãi được. Ở thế gian này có gì tồn tại mãi mãi, không đổi dời đâu? Cái gì rồi cũng bị đổi thay, cũng bị luật vô thường chi phối. Vô thường là một lẽ thật trước mắt, ai ai cũng thấy, cũng chứng nghiệm được. Như vậy có phải Phật pháp thiết thực, đến để mà thấy... chăng?
Đức Phật dạy các pháp do nhân duyên sanh. Tỉ dụ cái nhà tự nó có hay do nhiều nhân tố hợp lại? Cái bàn tự nó có, hay do nhiều nhân tố khác hợp thành? Không có vật nào tự nó thành hình, mà phải nhiều nhân tố hợp lại mới thành. Như vậy lý duyên sanh là một lẽ thật cụ thể. Nói nhân duyên sanh tức là nói nhiều nhân tố hợp lại. Do nhân duyên hợp, cho nên mới phân tích được đây là nhân tố A, đây là nhân tố B, C... Do nhiều nhân tố A, B, C... hợp lại mới thành một vật thể. Những vật thể có hình, có tướng là do sự kết hợp của nhiều nhân tố, đó là thực tế, đó là hợp với khoa học. Vì sao chúng ta nói khoa học là thực tế mà lại cho Phật học là huyền bí viển vông? Chính Phật học có tinh thần khoa học rõ ràng, thật đúng khi nói: “Phật pháp thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy...”
Xa hơn nữa, đi vào giáo lý Đại thừa hay đi thẳng vào Thiền tông, chúng ta sẽ thấy Phật pháp càng thiết thực hơn. Thường người ta hay phê phán “Đại thừa nói chuyện trên trời, trên mây”. Nhưng sự thật giáo lý Đại thừa rất là thiết thực. Trong Thiền tông mỗi khi các vị đi tham cứu du học, các Thiền sư thường bảo rằng: “Hãy nhìn lại gót chân của các ông.” Việc ở dưới gót chân là gần hay xa? Chỉ ở gần một bên thôi mà chúng ta quên. Cho nên khi học Phật nếu không có một cái nhìn thấu đáo thì dễ bị lạc lầm. Những ngôn ngữ, những danh từ của giáo lý Đại thừa hay Thiền tông có vẻ huyền bí khó hiểu, khiến chúng ta nhận lầm. Những câu chuyện trong kinh điển Đại thừa như kinh Pháp Hoa, kinh Lăng Nghiêm rất là thiết thực, chỉ thẳng ngay nơi con người mình cái thiết thực cụ thể mà ngàn đời ta quên, đó là “Phật tại tâm”, đâu có xa xôi gì, đâu phải Phật ở trên trời trên mây! Nhưng vì chỉ một cái không hình, không tướng nên chúng ta khó hiểu khó nhận.
Hằng ngày chúng ta nghĩ tới ăn, nghĩ tới mặc, nghĩ tới ở, ăn mặc ở để làm gì? Để nuôi dưỡng thân này cho sống còn. Nhưng có một cái thiết thực hơn ăn, hơn mặc, hơn ở mà chúng ta có nhớ có lo cho nó bao giờ đâu! Đó là cái gì? Đó là hơi thở. Thiếu ăn mấy ngày mới chết, còn thiếu thở chừng bao lâu thì chết? Chỉ cần thở khì ra mà không hít vào là chết ngay! Vậy mà chúng ta có lo nghĩ đến nó bao giờ! Có khi nào chúng ta nhớ mình đang thở không? Đâu có nhớ. Vì nó sẵn quá nên chúng ta quên, chỉ nghĩ làm sao kiếm những thức ăn cho ngon miệng, những vị có xúc cảm mạnh ở lưỡi, còn cái thực tế cụ thể sẵn sàng không rời một phút giây nào, chúng ta lại quên. Hơi thở đối với mạng sống này là thiết yếu số một, còn việc uống ăn mặc ở là thứ yếu, vậy mà chúng ta nhớ cái thứ yếu, còn cái chánh lại quên đi. Có người nào nói tôi tập thở cho đều, cho dài, cho nhẹ không? Không có đâu! Cả ngày cứ xoay trở trong việc ăn, mặc, ở mà không bao giờ nghĩ đến hơi thở.
Cũng vậy, hiện giờ chúng ta cứ nghĩ việc này phải, việc kia quấy, cái này tốt, cái kia xấu v.v... nghĩ hoài những chuyện bên ngoài, còn cái chân thật ngay nơi mình, không bao giờ chúng ta nhớ tới. Bởi chúng ta không nhớ nên chư Tổ phải nhắc đi nhắc lại mãi đến khô môi đắng lưỡi.
Đến đây chúng tôi dẫn các câu chuyện trong Thiền tông để chúng ta thấy điểm đặc biệt của các Tổ. Các ngài chỉ cho ta thấy cái thực tế cụ thể trước mắt. Thiền sư thường hay nói: “Cái đó ở trước mặt mà mình không thấy.” Thí dụ như lỗ mũi ở trước mặt mà mình có thấy nó đâu, có bao giờ để ý đến nó. Chúng ta cứ lo thấy nhà, thấy cửa, thấy người, thấy vật, mà lỗ mũi nằm sát trước mặt lại không thấy. Cũng như vậy cái chân thật hiện hữu ngay nơi mình mà mình không nhớ, chỉ nhớ chuyện đâu đâu.
Thiền sư Bá Trượng khi còn làm Thị giả cho Mã Tổ, Mã Tổ và Ngài đi dạo vườn, thấy một bầy vịt trời bay ngang, Mã Tổ hỏi: “Cái gì đó?” Ngài thưa: “Dạ bầy vịt trời.” Mã Tổ hỏi: “Bay đi đâu?” Ngài đáp: “Bay qua mất rồi.” Mã Tổ nắm lỗ mũi Ngài vặn mạnh một cái đau điếng, Ngài la thất thanh, Mã Tổ bảo: “Sao không nói bay qua mất đi!” Ngay đó ngài Bá Trượng tỉnh ngộ. Đây là một câu chuyện rất lý thú trong nhà thiền.
Đến câu chuyện con rắn bắt con nhái, con nhái kêu ẹo ẹo, ngài Cảnh Thanh hỏi Thị giả: “Đó là tiếng gì?” Thị giả thưa: “Đó là tiếng rắn bắt nhái, con nhái kêu.” Ngài bảo: “Chúng sanh khổ, lại có khổ chúng sanh.” Ý Ngài muốn nói gì? Ngài muốn nói chúng ta chỉ nghe tiếng bên ngoài mà quên cái hay nghe của mình. Cũng như câu chuyện bầy vịt trời bay qua, chúng ta chỉ thấy cái bay qua bay lại, còn mất bên ngoài mà quên cái hiện hay thấy của mình, cho nên Mã Tổ vặn mũi ngài Bá Trượng một cái đau điếng, Ngài la thất thanh, Tổ chỉ nói nhẹ một câu: “Sao không nói bay qua mất đi.” Ngay đó ngài Bá Trượng thấy không mất. Như vậy chúng ta mới thấy đặc tài của các Thiền sư, các ngài chỉ một cái thật sẵn có nơi mình, lỗ mũi ở trước mắt mà không thấy, cũng như cái đó hiện hữu nơi mình mà không bao giờ nhớ, nên Tổ nắm lỗ mũi ngài Bá Trượng vặn một cái thì Ngài liền tỉnh ngộ, biết được cái hiện hữu của mình, cũng như lỗ mũi ở trước mắt vậy.
Chúng tôi dẫn thêm một câu chuyện để chúng ta biết rõ ý nghĩa cái lỗ mũi trong nhà thiền. Thiền sư Tuyệt Chiêu đi xa về, Ngài đăng tòa nói kệ:
Tương biệt nhất hà cửu,
Tương phùng chỉ cựu thời,
My mao phân bát tự,
Tỹ khổng đại đầu thùy.
Dịch:
Xa nhau chẳng lâu mấy,
Gặp nhau chỉ thuở xưa,
Lông mày hình chữ bát,
Duỗi xuống mũi đầu to.
Theo chữ Hán đôi lông mày hở ở giữa, tượng trưng chữ “bát”, còn lỗ mũi đầu thon nằm trên, đầu lớn duỗi xuống. Như vậy lẽ thật không xa, cũng như chân mày và lỗ mũi ở gần bên nhau vậy.
Xa nhau chẳng lâu mấy, xa nhau là thân này, là tướng mạo này. Gặp nhau chỉ thuở xưa, cái chân thật thì trùm khắp, có xa gì nhau. Lông mày hình chữ bát, duỗi xuống mũi đầu to, giống như cặp chân mày ở trên lỗ mũi. Như vậy chân mày gần kề bên lỗ mũi đâu có xa xôi gì. Lỗ mũi là tượng trưng cho cái chân thật hiện hữu trước mắt mà mình không nhận.
Trong bài tụng Vô Tướng của Lục Tổ:
Phật pháp tại thế gian,
Bất ly thế gian giác,
Ly thế mích Bồ-đề,
Kháp tợ tầm thố giác.
Phật pháp ngay trên thế gian, không thể lìa thế gian mà có sự giác ngộ. Lìa thế gian mà tìm giác ngộ chẳng khác nào như tìm sừng thỏ vậy. Sừng thỏ đâu có thật mà tìm. Giác ngộ của đạo Phật là giác ngộ ngay trên thế gian này, không phải tìm kiếm đâu xa. Ví dụ đứng trước căn nhà sụp đổ, nhớ lại lúc trước nhà này đẹp đẽ xinh xắn biết bao, mà giờ đây hư nát, chúng ta liền giác ngộ được lý vô thường. Lý vô thường hiện hữu ngay nơi căn nhà đổ nát, hiện hữu ngay nơi các pháp trong thế gian này. Tất cả những đạo lý nhà Phật đều là những cái hiện thực ở thế gian, chớ không phải chuyện xa xôi, nhưng cái thật đó người mê thấy khác, người ngộ thấy khác. Người mê thấy theo tình cảm riêng tư, còn người ngộ thấy được lý thật của sự vật. Cho nên tất cả pháp thế gian, pháp nào cũng là để giác ngộ. Từ cái nhà chúng ta giác ngộ được lý vô thường, từ cái nhà chúng ta giác ngộ được lý nhân duyên, từ cái nhà chúng ta thấy rõ các pháp đều là hư dối.
Vì mê lầm nhiều đời, cho nên cùng một sự việc mà chúng ta thấy cảm kích nhè nhẹ, còn những vị tâm trí bén nhạy lại cảm động mạnh, bởi cảm động mạnh nên giác ngộ ngay. Vì vậy những vị tu chứng quả Tu-đà-hoàn hay Tư-đà-hàm nếu kiếp chót các ngài ra đời mà không gặp Phật pháp, thì khi thấy một chiếc lá rụng các ngài cũng có thể ngộ đạo. Còn chúng ta đã thấy biết bao nhiêu lá rụng mà có giác ngộ đâu! Vì sao? Vì tâm các ngài nhẹ nhàng thanh tịnh nên gặp một cái động nhỏ cũng giác ngộ. Còn chúng ta hiện giờ tâm trí đen tối nên cọ xát mạnh cũng không sáng nổi, nói gì là chạm nhẹ! Cho nên trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật nói với ngài A-nan: “Như Lai án túc hải ấn phát quang, nhữ nhược cử tâm trần lao tiên khởi.” Như Lai chỉ ấn ngón chân xuống, cả biển phát ra ánh sáng, ông vừa dấy niệm, bụi bặm đầy trời! Như vậy mới thấy sự khác nhau giữa đôi bên, một bên thanh tịnh rồi nên hành động nào cũng sáng suốt, một bên còn u mê nên hành động nào cũng mờ tối. Chúng ta u mê là vì huân tập nhiều đời, thật ra ở trên thế gian này nếu sớm tỉnh giác thì biết bao nhiêu việc để chúng ta giác ngộ.
Đức Phật ngày xưa chỉ cần đi ra bốn cửa thành, thấy người già, người bệnh, người chết, khi trở về Ngài liền đi tu, còn chúng ta hiện nay thấy bao nhiêu người già, người bệnh, người chết mà chúng ta có muốn tu chưa? Người tâm hồn nhẹ nhàng trong sáng chỉ một việc nhỏ cũng dễ cảm kích, còn chúng ta thấy việc đau khổ nhan nhản trước mắt, rồi cũng quên đi. Tỉ dụ như khi đưa đám tang một thân nhân, chúng ta khóc lóc đau buồn, nhưng năm ba hôm rồi quên, vì bận công kia việc nọ. Cho nên những việc đáng cho mình giác ngộ mà mình không giác được, còn các ngài ngay đó liền giác ngộ. Đâu phải tìm chuyện trên trời trên mây mới giác ngộ, mà ngay trong hiện tại nếu chúng ta khéo nhận thì được thức tỉnh liền. Như vậy giác ngộ là ngay nơi thế gian, chớ không phải ở đâu khác. Những chuyện sanh già bệnh chết là ngay nơi thế gian này. Lẽ vô thường và tướng duyên hợp là hiện tiền ngay nơi thế gian này, chúng ta thấy rõ mà chóng quên đi. Việc sai lầm đó là chính nơi chúng ta vậy.
Ngài Bổn Như ở Phần Chiêu đến tham vấn Tôn giả Pháp Trí. Ngài thường nghe trong kinh nói “kinh này là vua của các kinh”, tỉ dụ kinh Kim Cang, kinh Pháp Hoa chẳng hạn nói là vua các kinh. Ngài đem câu đó hỏi Tôn giả. Hỏi: “Thế nào là vua các kinh?” Tôn giả bảo: “Ông làm Tri khố cho ta ba năm, ta sẽ vì ông mà nói.” Một câu hỏi dễ như vậy mà phải làm Tri khố ba năm. Ngài Bổn Như lãnh chức Tri khố. Mãn ba năm, Ngài đến thưa: “Bạch Hòa thượng con đã làm Tri khố mãn ba năm rồi, nay xin Hòa thượng nói.” Hòa thượng liền gọi: “Bổn Như”, Ngài “dạ”. Ngay đó Ngài liền ngộ, biết vua của các kinh. Chuyện này là gần hay xa? Chỉ cần một tiếng “dạ” là thấy được. Việc hết sức gần mà muôn đời chúng ta quên. Bởi muôn đời quên, nên một lần nhắc lại liền thấy. Mới nhìn qua chúng ta thấy người xưa dường như khó khăn, một câu hỏi mà không chịu trả lời liền, bắt phải làm Tri khố đến ba năm. Nhưng chính ba năm này nó súc tích làm cho ngài Bổn Như thấy câu đó quan trọng. Về sau chỉ cần gọi, rồi “dạ” liền biết được vua các kinh. Khi ngộ rồi, Ngài liền làm bài kệ:
Xứ xứ phùng quy lộ,
Đầu đầu thị cố hương,
Bản lai thành hiện sự,
Hà tất đãi tư lương.
Dịch:
Chốn chốn đường về cũ,
Nơi nơi vốn cố hương,
Xưa nay thành hiện sự,
Nào phải đợi suy lường.
Chốn nào cũng là đường về, nơi nào cũng là cố hương, xưa nay nó là việc hiện tại. Không phải đợi suy lường, vừa suy lường là hết hiện sự rồi. Chúng ta thấy cái ngài Bổn Như “dạ” rồi ngộ đạo, biết được vua các kinh không? Tu hành không phải là chuyện xa xôi, chỉ ngay nơi tai, ngay nơi mắt, nếu khéo nhận, chúng ta thấy được cái căn bản, nếu không khéo sẽ đuổi theo ngoại cảnh suốt đời, bỏ quên đi cái chân thật ngay nơi chính mình. Thế nên người xưa chỉ một câu nói mà ngộ đạo.
Đọc qua bài kệ, chúng ta thấy nó cụ thể làm sao. Chốn chốn đường về cũ, chỗ nào không phải đường về. Nơi nơi vốn cố hương, cố hương ở khắp mọi nơi, không phải ở riêng ngọn núi hay hang động nào mà chỗ nào cũng là cố hương! Như vậy chỗ nào không phải là Phật pháp? Nếu chúng ta khéo thì ngay đó liền thấy. Xưa nay thành hiện sự, quá khứ và hiện tại đều là cái hiện hữu ở đây, không ở đâu xa. Nào phải đợi suy lường, vừa khởi suy lường là không trúng, là không thấy. Đó là điều cụ thể mà chúng ta cần phải nhận thấy.
Đối với Phật pháp, các Thiền sư luôn luôn chỉ lẽ thật, nhưng lẽ thật các ngài chỉ hơi khó hiểu hơn bên giáo lý Nguyên thủy. Nguyên thủy chỉ những cái cụ thể như lý nhân duyên, lý vô thường, vô ngã, còn Thiền tông chỉ cái chân thật tàng ẩn trong cái hư dối, nhưng chúng ta quen nhìn cái hư dối mà quên đi cái chân thật. Nếu nhận được cái chân thật thì cụ thể hơn ngàn lần cái hư dối kia. Cho nên chúng ta tu cốt làm sao tinh tấn để nhận được cái chân thật đó. Chúng tôi dẫn những câu chuyện trên để chúng ta thấy “Phật pháp là thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy...”
Những giáo lý Tiểu thừa cho đến Đại thừa và Thiền tông đều là thực tế, cụ thể, chớ không phải là chuyện xa xôi, nhưng cái cụ thể này rất khó nói, khó chỉ. Ví dụ có người hỏi “núi ở chỗ nào”, “biển ở chỗ nào”, chúng ta dễ chỉ. Nhưng nếu hỏi “không khí ở chỗ nào”, làm sao chỉ được! Mà chỉ không được là không có không khí hay sao? Chỉ những cái có hình tướng thì dễ thấy, còn cái hiện hữu mà không hình tướng thì rất khó thấy. Tuy khó thấy nhưng nó thiết yếu bằng mấy ngàn lần cái có hình tướng. Thiền tông chỉ cái rất khó chỉ, nhưng cái ấy rất thiết yếu trong cuộc sống của con người, nên nói Thiền tông chỉ cho chúng ta ngọc báu vô giá mà lâu nay chúng ta bỏ quên. Đến đây chúng tôi đã chứng minh rõ “Phật pháp là thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy...”
Hôm nay là ngày Tết Nguyên Đán, chúng tôi chúc quí vị được nhiều điều tốt đẹp. Và để thay lời kết chúng tôi dẫn bài thơ của Thiền sư Chơn Tịnh đời Tống. Sáng mồng một Tết Ngài cạo tóc, cảm hứng làm kệ:
Thế phát nhân kinh tuyết mãn đao,
Niên hoa tu tín bất tương nhiêu.
Đào sanh thoát tử cần vi Phật,
Mạc vị minh triêu dữ hậu triêu.
Dịch:
Cạo tóc giựt mình tuyết đầy dao,
Tuổi xuân nên biết chẳng tha nhau.
Vượt sanh thoát tử cần làm Phật,
Thôi chớ dần dà hẹn sáng sau.
Sáng ngày cạo tóc, giựt mình thấy tóc bạc như tuyết dính đầy dao. Các vị lớn tuổi tóc bạc, mỗi khi cạo tóc giựt mình thấy tuyết đầy dao! Tuổi xuân có để cho mình còn mãi như vậy đâu. Thời gian ép ngặt đuổi ta chạy, giành cái tuổi xuân mất rồi. Muốn vượt sanh thoát tử, thôi không nên hẹn sáng, hẹn chiều, hẹn ngày mai, ngày mốt. Lẽ ra chúng ta phải tu ngay bây giờ không nên biếng nhác, không nên chần chờ vì tuổi xuân của mình đã bị cướp mất rồi, mà mục tiêu làm Phật chưa đạt được. Phải tu ngay trong từng phút giây mới đúng với lý tưởng vượt sanh thoát tử, xứng đáng với lý tưởng cần làm Phật của mình.
Nhân mùa Xuân đến, chúng tôi chúc tất cả Tăng Ni cùng toàn thể Phật tử nam nữ trong năm Bính Dần này và mãi mãi về sau “giờ nào, ngày nào, tháng nào, năm nào cũng là giờ ngày tháng năm tu hành, đừng có chần chờ”.
SÁNG VIỆC LỚN
Tất niên Bính Dần - 1987
Hôm nay là ngày Tất niên năm Bính Dần, bắt đầu sang năm Đinh Mão, tất cả chúng ta phải ôn lại việc cũ để chừa bỏ những điều dở và chuẩn bị cho năm tới được tốt đẹp sáng sủa hơn. Đó là bổn phận của tất cả Tăng Ni và Phật tử chúng ta.
Đề tài chúng tôi nói hôm nay nghiêng về người xuất gia, nếu là cư sĩ quí vị cũng lấy đây làm kinh nghiệm, còn Tăng Ni thì phải cố gắng thực hiện cho kỳ được những gì tôi nhắc nhở.
Ngài Trần Tôn Túc, đệ tử lớn của Tổ Hoàng Bá, Sư huynh của Tổ Lâm Tế có nói:
Đại sự vị minh như táng khảo tỷ,
Đại sự dĩ minh như táng khảo tỷ.
Việc lớn chưa sáng như đưa ma mẹ,
Việc lớn đã sáng như đưa ma mẹ.
Đây là câu mà tất cả Tăng Ni và Phật tử phải nghiền ngẫm để ứng dụng cho xứng đáng với tinh thần người tu. Tất cả chúng ta tu đều mong rằng một ngày nào sẽ sáng được việc lớn. Nếu việc lớn đã sáng, việc tu của chúng ta đã đủ, đã xong rồi hay chưa? Qua câu nói của ngài Trần Tôn Túc, chúng ta thấy rất rõ: Việc lớn chưa sáng, chúng ta phải cố gắng nỗ lực tiến tu để sáng. Nếu việc lớn đã sáng rồi không phải ngang đó chúng ta dừng lại mà còn phải tiếp tục nữa.
Cổ đức có nói:
Vị đáo vô tâm tu yếu đáo,
Ký đáo vô tâm vô dã hưu.
Chưa đến vô tâm cần phải đến,
Đã đến vô tâm, vô cũng thôi.
Khi chưa được vô tâm, chưa sáng được việc lớn, chúng ta cần phải tiến tu để được sáng, được vô tâm. Nhưng khi đã được vô tâm rồi, chữ “Vô” cũng thôi, chớ không phải vô tâm rồi ngay đó là đủ. Muốn khai triển đầy đủ ý nghĩa này, chúng tôi xin tuần tự nêu ra những điều dở những điều hay để tất cả Tăng Ni và Phật tử ứng dụng tu hành cho khỏi sai lầm.
Trước tiên chúng tôi nói các bệnh của người tu Phật hiện nay. Bệnh thứ nhất là khinh lờn. Người tu chúng ta khi mới bước chân vào đạo, cư sĩ cũng như xuất gia, lúc đầu phấn khởi hăng hái, coi như việc đạt đạo ở trước mắt, không xa. Nhưng qua năm thứ hai, năm thứ ba, những phấn khởi, những hăng hái buổi ban đầu giảm dần, rồi khinh lờn, rồi coi thường. Vì vậy người xưa thường nhắc: “Nhất niên Phật tại tiền, nhị niên Phật thăng thiên.” Nói theo Sư ông chúng tôi, Sư cụ Khánh Anh: “Tam niên Phật xa lơ xa lắc.” Năm đầu mới vào đạo, chúng ta thấy việc đạt đạo không khó, nhưng qua năm thứ hai năm thứ ba hay nhiều năm nữa, tinh thần phấn khởi hăng hái buổi ban đầu giảm xuống lần lần, rồi đạo càng ngày càng xa, nhất là trong giới tu sĩ. Người tu sĩ khi mới xuất gia có ý nguyện nhất định phải giải thoát ngay trong hiện đời. Nhưng khi xuất gia được vài ba năm hơi quen rồi, thỉnh thoảng cũng có chuyện hơn thua, chuyện phải quấy, tâm ban đầu yếu đi từ từ, có khi quá yếu đến nỗi bị rầy chê. Đó là vì chúng ta không giữ được tâm ban đầu. Phật Tổ thường dạy chúng ta phải nhớ tâm ban đầu. Nếu chúng ta giữ được nó thì đạo không xa, việc giải thoát không khó, còn quên thì đạo càng ngày càng xa, việc giải thoát càng ngày càng khó.
Trong kinh A-hàm, Phật có nói: Người mới xuất gia giống như cô dâu mới về nhà chồng, đối với cha mẹ chồng, chị em chồng, thảy đều quí nể, khép nép cung kính. Nhưng ở đôi ba năm có con cái rồi, đối với cha mẹ chồng coi không ra gì, ăn hiếp luôn chị em chồng, cả đến người chồng cũng không vị nể. Người tu cũng vậy. Khi mới vào đạo cạo tóc xuất gia, đối với Hòa thượng, Thượng tọa thì khép nép cung kính, đối với các Sư huynh thì nể nang dễ dạy. Nhưng ở đến một năm hai năm ba năm sau thấy các Hòa thượng, Thượng tọa có khi quên cúi đầu, cho đến khi sai bảo không vâng làm nữa. Vì bệnh khinh lờn này nên việc tu không tiến được. Vì vậy Phật bảo chúng ta phải nhớ tâm ban đầu.
Các kinh thường dạy: Các thầy Tỳ-kheo, mỗi sáng phải nhớ rờ đầu một lần. Rờ đầu để nhớ mình đã cạo tóc xuất gia, không còn nghĩ đến chuyện gì ở đời nữa, nếu không, lâu ngày rồi quên mình là người xuất gia. Phật dạy chúng ta phải nhớ trên đường tu đừng có niệm khinh lờn. Nếu có niệm khinh lờn thì ban đầu tu thấy tiến, nhưng sau rồi lùi, lùi cho tới không biết bao giờ tiến được nữa. Đó là bệnh thứ nhất của người tu.
Bệnh thứ hai là bệnh tự mãn. Tự mãn là được ít mà cho là đủ. Có những người tu học được ít bộ kinh, tụng được hai thời công phu, bái sám rành rẽ, coi như bao nhiêu đó là đủ cho mình làm Phật sự, rồi hài lòng tự mãn với cái mình đã được, lấy đó làm sở trường mà không cố gắng nỗ lực tiến tu. Như vậy tự khép mình trong phạm vi hẹp hòi để rồi chịu cả một đời tu không tiến nổi.
Thiền sư Thanh ở Dũng Tuyền dạy chúng rằng:
“Tôi ở trong đây bốn mươi chín năm còn có khi tẩu tác, các ông chớ nói to, người kiến giải thì nhiều, người hành giải thì ít, muôn người không có một. Kiến giải ngôn ngữ cần biết suốt, nếu thức tình chưa hết sẽ bảo đi trong luân hồi vậy.”
Ngài là một Thiền sư đã ngộ đạo, Ngài nói Ngài đã ở bốn mươi chín năm trên núi Dũng Tuyền còn có khi tẩu tác tức là tâm chạy bậy như trâu hoang, huống nữa là những người mới vào đạo một năm hai năm ba năm, coi như mình xong việc, ăn to nói lớn tưởng mình như là Thánh, đó là điều không nên. Ngài dạy: “Người kiến giải thì nhiều, người hành giải thì ít”, tức là người thấy hiểu thì nhiều mà hành được thì ít. Trong muôn người hiểu, chưa có được một người hành. Ngài nói như vậy, không phải cấm không cho chúng ta có kiến giải. Ngài dạy kiến giải ngôn ngữ cần phải biết suốt, phải thông nhưng nếu thức tình chưa hết sẽ đi trong luân hồi.
Người xưa biết được bệnh này nên nhắc nhở khiến chúng ta biết rõ trên đường tu không phải đơn giản, không phải một sớm một chiều là xong việc, không phải thấy biết là rồi, mà còn phải hành, phải sống được với nó nữa, đó là điều thật thiết yếu. Hiện nay cũng có một ít Tăng Ni nghe hiểu, hiểu rồi cứ ăn to nói lớn tưởng đó là hay, không ngờ vẫn còn thức tình, đến khi chết vẫn đi trong luân hồi. Cho nên chúng ta phải khéo cố gắng vượt qua các lỗi đó mới được.
Bệnh thứ ba là bệnh thụ hưởng. Có một số người tu được một thời gian năm năm, mười năm, thọ giới làm Trụ trì, coi như mình xứng đáng là người lãnh đạo tín đồ, rồi tự hài lòng. Từ sự tự hài lòng đó sanh ra thụ hưởng tức là nghĩ tới ăn chơi vui đùa, chạy theo dục lạc, mà không nghĩ tới việc tiến tu. Đó là điều rất nguy hiểm cho đạo. Chúng ta tu cốt làm sao dứt sạch các phiền não, mà phiền não phát xuất từ dục lạc. Nếu chúng ta còn thụ hưởng dục lạc thì phiền não làm sao sạch được. Vì vậy nên người nào tu hành mà nặng về hưởng thụ, người đó thế nào rồi cũng bị dục lạc làm chủ. Bị dục lạc làm chủ thì đời này không thể tiến được, mai kia cũng khó mà trả được nợ áo cơm. Cho nên có bài kệ:
Học đạo bất thông lý,
Phục thân hoàn tín thí.
Trưởng giả bát thập nhất,
Kỳ thọ bất sanh nhĩ.
Dịch:
Học đạo chẳng thông lý,
Đem thân đền tín thí.
Trưởng giả tuổi tám mốt,
Cây kia chẳng sanh nhĩ (nấm).
Bài kệ này thuật lại việc một Tỳ-kheo tu hành tương đối tốt. Có một trưởng giả thấy vậy quí kính, mỗi ngày dâng cúng tứ sự rất đầy đủ. Nhưng vị Tăng không thông được lý đạo, chưa sáng được việc lớn, nên khi chết thân trở lại đền nợ bằng cách thành cây mỗi ngày mọc nấm cho trưởng giả ăn. Tới khi trưởng giả tám mươi mốt tuổi cây mới thôi mọc nấm. Như vậy để thấy rằng nếu tu mà không sáng được đạo, không dứt được thức tình, dù chúng ta có cố gắng cũng chưa giải thoát được. Nếu chúng ta thụ hưởng càng nhiều thì họa càng lắm. Vị Tăng này tuy tu tốt, mà vẫn phải trả nợ hoa báo. Đó là trả nợ nhẹ làm cây sanh nấm cho người ăn, hết nợ mới thôi. Nếu nặng nợ hơn, chúng ta phải mang thân xấu xí hơn nhiều, đi trong lục đạo để đền nợ của đàn-na thí chủ. Vì vậy chúng ta phải nhớ rằng trên đường tu không phải chỉ có một hai thời khóa tụng, không phải chỉ thành Trụ trì là xong việc mà tu cốt làm sao thấy được đạo, sống với đạo, mới mong thoát ly sanh tử chớ không phải là việc đơn giản. Đó là điều thiết yếu mà chúng tôi mong tất cả Tăng Ni và Phật tử nhớ để nỗ lực tiến tu, đừng hài lòng, đừng tự mãn, rồi phải chiêu họa đời sau.
Phần thứ hai nói đến: “Việc lớn chưa sáng như đưa ma mẹ.” Tại sao ngài Trần Tôn Túc lại nói như thế? Những người con khi đưa đám cha mẹ mình, lúc đó gương mặt thật âu sầu ảo não, tâm hồn buồn bã khắc khoải vô cùng. Cũng như vậy, đối với người tu chúng ta chưa sáng được việc lớn, ngày nào tháng nào năm nào, chúng ta cũng phải ôm ấp trong lòng băn khoăn khắc khoải, niệm niệm quyết chí tiến tu. Cái gì mình chưa hiểu phải tìm cho hiểu, cái gì mình chưa thông phải ráng học hỏi cho thông. Nếu việc lớn chưa sáng mà cứ vui chơi hết ngày hết tháng, thì không mong gì đạt được sở nguyện của mình. Việc lớn chưa sáng, chúng ta lúc nào cũng phải ôm ấp, lo âu, trăn trở trong lòng, phải nỗ lực cố gắng tu hành để đạt cho kỳ được mới thôi. Như vậy mới khả dĩ tiến được, mới xứng đáng một người xuất gia theo Phật. Nếu chúng ta không làm đúng lời Phật Tổ dạy thì rất uổng một đời tu, lại còn làm cho thiên hạ chê cười khinh bỉ, đạo lý cao siêu của Phật trở thành vô giá trị. Thế nên việc lớn chưa sáng chúng ta phải luôn luôn nỗ lực tiến tu, chúng ta không có quyền nghĩ rằng mình tu cho có chừng để rồi đời sau tu nữa. Chúng ta phải quyết chí sáng được việc lớn ngay trong đời này, nếu chưa xong ít ra cái mê cũng mòn cũng mỏng để sau này tiếp tục một cách dễ dàng.
Xưa có những Thiền sư mỗi khi chiều xuống, xét lại mình chưa tiến được bao nhiêu, các ngài rơi lệ, còn chúng ta mỗi khi chiều xuống thì vui cười hỉ hạ. Chúng ta có tiến không mà vui cười? Tại sao các ngài không tiến thì khóc còn chúng ta không tiến lại cười? Tâm niệm người xưa và tâm niệm chúng ta ngày nay khác nhau ở chỗ nào? Nếu thật tình quyết chí cầu giải thoát, mà mình không đạt được điều mong mỏi, làm sao vui, làm sao thảnh thơi cười đùa! Vì vậy người xưa đã nhiệt tình khi nhớ tới việc tu hành của mình, một ngày mất đi mà không tiến là các ngài đau khổ xót xa đến độ phải rơi nước mắt. Chúng ta ngày nay dù không bằng được người xưa, ít ra mỗi ngày qua chúng ta phải nao nao tự hỏi rằng tại sao mình hèn nhát, mình tu không tiến. Một ngày tu không tiến còn rơi nước mắt, một tháng tu không tiến chắc phải khóc òa lên! Còn một năm tu không tiến quí vị nghĩ nên làm sao? Nếu một năm qua kiểm lại mình tu không tiến được một bước nào, thật là đau lòng hổ thẹn, không thể nào an ổn được. Tu cốt phải tiến, không phải đứng một chỗ, đứng một chỗ có nghĩa là lùi, huống nữa có nhiều người còn bước lùi nữa, việc đó thật là quá tệ. Do đó hôm nay là ngày cuối năm, chúng ta tự kiểm lại thấy qua một năm, tu không tiến được bước nào, chúng ta phải lập nguyện cho mạnh, lập chí cho vững để vươn lên, không để yếu hèn như năm cũ nữa. Như vậy chúng ta mới xứng đáng là người tu có trọng trách làm lợi mình, lợi người, tự giác, giác tha. Đó là điều mà chúng tôi mong mỏi nhất.
Phần thứ ba là “việc lớn đã sáng như đưa ma mẹ”. Tại sao? Vì chúng ta tưởng rằng một khi ngộ được lý đạo, ngang đó là thành Phật, thành Tổ. Thật sự chưa phải. Sau đây là bài kệ chúng tôi thường nhắc:
Đốn ngộ tuy đồng Phật,
Đa sanh tập khí thâm,
Phong đình ba thượng dũng,
Lý hiện niệm du xâm.
“Đốn ngộ tuy đồng Phật” tức là thấy được đạo, Phật với mình không khác. “Đa sanh tập khí thâm” tức là nhiều đời tập khí sâu dày, nóng giận phiền não hồi xưa còn ghi đậm nét trong thói quen của mình. Bây giờ tuy ngộ được lý đạo nhưng khi chạm việc cũng còn giận cũng còn nóng. “Phong đình ba thượng dũng”, như ngoài biển gió dừng rồi mà sóng vẫn còn vỗ ầm ầm. “Lý hiện niệm du xâm”, đối với đạo lý thì thấy được lẽ thật rồi, nhưng niệm vẫn còn dấy lên hoài, làm mờ tối Tánh giác của mình. Khi ngồi lại nó cứ tràn vào, lấn mãi, nó quấy động cả giờ ngồi thiền. Như vậy đừng tưởng rằng ngộ được lý đạo là xong việc, mà còn phải nỗ lực tiến tu, làm sao trong tất cả giờ những niệm đó không quấy nhiễu, không làm mờ Tánh giác của mình, chừng đó mới khả dĩ hợp với đạo. Nếu ngang đây mà hài lòng tự mãn là bệnh lớn.
Kinh Trung A-hàm ghi: Một hôm có ngoại đạo tới hỏi Phật: - Thưa Cù-đàm, những đệ tử của Ngài đã ngộ đạo có đến Niết-bàn hết hay chăng? Phật trả lời: - Có người đến Niết-bàn, có người không đến. Ngoại đạo lấy làm lạ hỏi: - Tại sao đã ngộ đạo rồi, có người được đến Niết-bàn lại có người không đến? Phật ví dụ: Như có người bị mũi tên độc bắn vào tay, thầy thuốc được mời tới mổ lấy tên ra, khử độc băng bó kỹ càng và bảo ráng giữ gìn đừng cho nhiễm trùng. Nhưng người đó nghĩ rằng tên độc đã nhổ ra, dùng thuốc khử độc rồi, còn lo sợ gì nữa. Ngang đó tha hồ xông pha, vết thương bị nhiễm trùng, bệnh trở nặng rồi chết. Người thứ hai cũng bị tên độc và cũng được nhổ tên ra, khử trùng xong băng bó cẩn thận và cũng được dặn dò như trước. Người này biết giữ gìn không dám để nhiễm trùng, vết thương lành lần lần rồi khỏi hẳn. Như vậy hai người cùng bị tên độc, cùng được mổ lấy tên ra, khử độc như nhau, tại sao một người chết, một người lành?
Phật nói: “Cũng như vậy, những người tu ngộ đạo rồi mà ngang đó biết nghe lời Phật tiến tu, gìn giữ đạo hạnh càng ngày càng trong sáng thì sẽ đến Niết-bàn. Những người ngộ đạo rồi, tự mãn làm những việc xông pha trái với đạo lý lần lần bị nhiễm rồi thối đọa.” Như vậy chúng ta đừng tưởng ngộ rồi là xong. Vì đa sanh tập khí thâm, tuy ngộ đạo rồi mà tập khí vẫn còn, nếu lân la với thói quen cũ thì bị nhiễm. Nên nói “việc lớn đã sáng như đưa ma mẹ”, chúng ta phải luôn luôn nỗ lực tu, không phải ngang đó mà dừng.
Có vị Tăng hỏi Thiền sư Truyền Sở ở núi Thanh Phong:
- Việc lớn đã sáng, vì sao như đưa ma mẹ?
Ngài đáp:
Chẳng gặp gió xuân hoa chẳng nở,
Đến khi hoa nở lại thổi rơi.
Hai câu này cũng giống hai câu:
Chưa đến vô tâm cần phải đến,
Đã đến vô tâm, vô cũng thôi.
Đợi có gió xuân hoa mới nở. Đừng tưởng hoa nở là xong, mà còn phải nhờ gió thổi cho hoa rụng luôn mới là xong việc. Người xưa rất cẩn thận dè dặt khi chỉ dạy chúng ta cách tu hành.
Thiền Sư Tử Thuần ở Đơn Hà có làm bài tụng:
Gia sơn qui đáo mạc nhân tuần,
Kiệt lực dần thân phụng nhị thân.
Cơ tận công vong ân nghĩa đoạn,
Tiện thành bất hiếu xiển-đề nhân.
Dịch:
Gia sơn về đến chớ dần dà,
Gắng sức sớm hôm dưỡng mẹ cha.
Cơ hết công quên ân nghĩa dứt,
Bỗng thành bất hiếu người xiển-đề.
Gia sơn về đến chớ dần dà nghĩa là người tu như kẻ trở về quê hương, hi vọng thiết tha nhất là về tới nhà. Về tới nhà còn phải: Gắng sức sớm hôm dưỡng mẹ cha, chẳng phải về đến nhà để chơi suông. Nuôi dưỡng mẹ cha rồi còn nghĩ mình là con có hiếu, là kẻ có công, cũng chưa được, nên nói: Cơ hết công quên ân nghĩa dứt, tới đó điều kiện công ơn nuôi dưỡng cha mẹ không còn thấy nữa. Bỗng thành bất hiếu người xiển-đề. Tại sao câu kết lại lạ lùng như vậy? Xiển-đề là âm tiếng Phạn dịch nghĩa là bất tín, tức là không đủ lòng tin. Ở đây xiển-đề chia ra ba loại:
1. Người phạm tội ngũ nghịch.
2. Người đối với Tam Bảo không có lòng tin.
3. Người như ngu như ngây không còn thấy có Phật để kính, không còn thấy có chúng sanh để xem thường. Người này thấy Phật với chúng sanh bình đẳng cũng gọi là xiển-đề.
Như trên đã nói:
Chẳng gặp gió xuân hoa chẳng nở
Đến khi hoa nở lại thổi rơi.
Nếu còn thấy mình là người đắc đạo, là người ngộ đạo là chưa xong. Nếu ngộ đạo thật sự mà còn thấy mình đắc đạo, ngộ đạo là chưa rồi, huống nữa chưa ngộ đạo mà còn tự xưng ta là người thấy đạo, ngộ đạo, thì nên nghĩ người ấy như thế nào? Vì vậy trong kinh Kim Cang có đoạn: “Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp.” Tới chỗ rốt ráo pháp chân chánh còn phải buông xả, huống là phi pháp. Lời Phật dạy giống như cái bè đưa mình qua sông, tới bờ rồi bè cũng bỏ, như vậy mới rồi việc. Nếu mình tu tới đó rồi hài lòng tự mãn thì không thể nào tránh khỏi việc ôm chặt chiếc bè không lên bờ được. Đó là ý nghĩa bài tụng của ngài Đơn Hà Tử Thuần.
Thiền sư Thanh Long, nhân ý này nói một bài tụng:
Bần tử dụ trung tằng chỉ chú
Linh bình tân khổ uổng ta đà
Khúc thùy phương tiện thân phân phó
Triếp mạc nhân tuần xử tả khoa.
Dịch:
Trong dụ kẻ nghèo từng chỉ rõ
Lang thang cay đắng luống trôi qua
Được bày phương tiện vì giao phó
Thôi chớ lơ là khiến mất xa.
Ngài Thanh Long nhắc chúng ta, người tu chẳng khác nào kẻ cùng tử trong kinh Pháp Hoa. Trong thời gian lang thang nơi xứ lạ quê người, cùng tử chịu muôn ngàn cay đắng. Khi tìm được lối trở về đến nhà, qua được những cay đắng rồi vẫn chưa xong việc. Còn phải: Được bày phương tiện vì giao phó. Trưởng giả dùng phương tiện dẫn cùng tử về nhà trao kho tàng sự nghiệp. Khi được trao sự nghiệp rồi, thôi chớ lơ là khiến mất xa, còn phải giữ gìn bảo quản cho sự nghiệp được lâu dài bền vững. Ví dụ chàng cùng tử trong kinh Pháp Hoa chỉ cho chúng ta khi sáng được việc lớn, mà không chịu nỗ lực cố gắng nữa thì một ngày nào đó, chúng ta cũng bị rơi trở vào chỗ chưa sáng. Vì vậy khi sáng được việc lớn rồi, cần phải nỗ lực cố gắng cho đến bao giờ viên mãn công hạnh mới là xong việc.
Tất cả người tu Phật chúng ta đừng bao giờ nghĩ rằng thấy được đạo là xong việc mà phải hành đạo và hằng sống được với đạo. Mình và đạo không hai mới là thật sự giải thoát, giải thoát ngay trong đời này, chớ không phải đợi tới khi chết mới giải thoát, thì quá mơ hồ xa xôi.
Để kết luận, chúng tôi xin lặp lại hai câu:
Chưa đến vô tâm cần phải đến
Đã đến vô tâm vô cũng thôi.
Nếu chúng ta còn mờ tối chưa thấy được đạo, cần phải nỗ lực cố gắng học hành tham vấn. Khi đến chỗ vô tâm rồi, chính cái vô chúng ta cũng phải buông, mới đến chỗ mình và muôn vật không hai. Nếu còn đeo cái vô, thì vô tình chúng ta lại rơi vào nước chết.
Nếu đã qua một năm mà tu không tiến, chúng ta hối hận muốn kéo năm cũ lại để tu hành thì không thể được. Vì vậy chúng ta đành phải để nó trôi qua. Nhưng năm tới chúng ta phải làm sao cho xứng đáng không phụ tinh thần xuất gia cầu giải thoát của chính mình. Năm cũ qua rồi, chúng ta đã hỉ hạ vui chơi, năm mới sắp đến, chúng ta cũng hỉ hạ vui chơi không lo tu hành, e rằng một đời tu của chúng ta trở thành số không.
Hôm nay chúng tôi nhắc lại lời dạy của ngài Trần Tôn Túc để cho tất cả quí vị người tại gia cũng như xuất gia tự xét lại mình có tu tiến hay không? Nếu đã tiến tu thì năm tới cũng phải cố gắng để khá hơn. Còn nếu người nào cảm thấy qua một năm mà không tiến chút nào thì ngang đây chuẩn bị cho năm tới phải nỗ lực phát nguyện mạnh mẽ để đền bù lại những thiếu sót của một năm qua và xứng công trong năm tới. Như vậy mới không uổng một đời tu của mình. Đó là điều mong mỏi của chúng tôi trong tháng cùng năm hết này.
MÙA XUÂN MIÊN VIỄN
Bài nói chuyện với Tăng Ni - Xuân Đinh Mão 1987
Hôm nay là ngày Tết Nguyên Đán, quí Tăng Ni Phật tử câu hội về đây để chúc mừng năm mới, tôi rất hoan hỉ. Vậy quí vị lễ Tổ chứng minh cho rồi tôi sẽ nói chuyện.
Trước hết tôi chúc tất cả Tăng Ni và Phật tử năm nay được hưởng một mùa Xuân Miên Viễn. Muốn hưởng một mùa xuân miên viễn, chúng ta phải làm gì? Cần những yếu tố nào?
Tất cả người trên thế gian đều thừa nhận một năm có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông. Mùa xuân khí hậu ấm áp, cây cối đâm chồi nảy lộc, mọi người đều vui mừng, nên nói mừng xuân, vui xuân hay chơi xuân. Nói tới mùa xuân là nói tới sự vui tươi, hạnh phúc, coi như nó có sẵn trong mùa xuân. Nhưng mùa xuân theo thời gian dài lắm chỉ tròn ba tháng rồi cũng hết xuân, tới hạ, thu, đông. Cho nên cái vui con người chỉ hưởng một lúc nào rồi mất, nhường chỗ cho mùa hạ nóng bức, mùa thu buồn tẻ, mùa đông ảm đạm thê lương.
Người tu chúng ta không thể chấp nhận vui xuân giới hạn theo thời tiết, cần phải có cái vui mãi mãi không mất, mãi mãi còn nơi chúng ta. Chúng ta phải tu như thế nào để hưởng được một mùa xuân miên viễn?
Mùa xuân miên viễn phát nguồn từ đâu? Chính đức Phật Thích-ca là vị Giáo chủ đã chỉ cho chúng ta một mùa xuân miên viễn. Gần đây hơn, chính Tổ Bồ-đề-đạt-ma là người đem lại mùa xuân miên viễn trong đạo cho tất cả chúng ta. Tổ đã gieo rắc mùa xuân ấy vào tâm hồn người tu thiền chúng ta như thế nào? Sau đây tôi dẫn một số câu chuyện của các Thiền sư, quí vị sẽ nhận thấy mùa xuân miên viễn thể hiện trong tâm hồn những người đã sáng được lẽ đạo và sống với đạo như thế nào.
Trước tiên tôi dẫn câu chuyện: Một vị Tăng hỏi ngài Động Sơn Lương Giới:
- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang?
Ngài Động Sơn đáp:
- Đợi dòng nước Động Sơn chảy ngược, ta sẽ vì ông nói.
Nước ở Động Sơn là nước trong khe động trên núi chảy xuống, có lúc nào chảy ngược trở lên đâu? Nếu nước ở sông ở biển khả dĩ còn có chảy lên chảy xuống, còn nước suối trên động núi không bao giờ chảy ngược. Tại sao ngài Động Sơn bảo đợi dòng nước Động Sơn chảy ngược sẽ vì ông nói? Câu đó đã nói gì về ý Tổ sư từ Ấn Độ sang? Tổ sư đây là Tổ Bồ-đề-đạt-ma. Những vị học và tu thiền thường thắc mắc không biết Tổ Bồ-đề-đạt-ma sang Trung Hoa có ý gì đem truyền dạy cho chúng ta? Ý đó như thế nào? Ngài Động Sơn trả lời như vậy có dễ hiểu không? Biết ý Tổ sư từ Ấn Độ sang chưa?
Sau này Thiền sư Nghĩa Thanh ở Đầu Tử có làm bài kệ tụng về điều đó:
Cổ nguyên vô thủy nguyệt hà sanh,
Mãn ngạn Tây lưu nhất phái phân.
Thông Lãnh bãi tuần Hùng Nhĩ mộng,
Tuyết đình hưu thoại Thiếu Lâm xuân.
Dịch:
Nguồn xưa không nước nguyệt đâu sanh,
Một mạch dòng Tây chảy ngập tràn.
Thông Lãnh hỏi rồi Hùng Nhĩ mộng,
Tuyết sân thôi nói Thiếu Lâm xuân.
Qua bài kệ này ngài Nghĩa Thanh đã nói gì về câu đáp của ngài Động Sơn?
Cổ nguyên vô thủy nguyệt hà sanh.
Dòng suối xưa nếu khô cạn thì làm sao bóng mặt trăng rọi ở dưới. Dòng suối có nước trong, chúng ta mới thấy được bóng mặt trăng ở dưới đáy suối, nếu dòng suối đã khô thì không thấy bóng mặt trăng.
Mãn ngạn Tây lưu nhất phái phân.
Mãn là đầy, ngạn là bờ. Dòng suối xưa kia vẫn tràn cả bờ từ phương Tây trôi mãi chia ra một mạch (phái: mạch). Ở đây dường như có sự mâu thuẫn. Câu trên nói dòng suối khô cạn không có bóng mặt trăng. Câu dưới lại nói dòng suối từ phương Tây chảy lại tràn đầy cả bờ rồi chia ra chảy mãi. Như vậy ý nói gì? Câu đầu nói dòng suối không nước tức là không bóng trăng để chỉ câu đáp của ngài Động Sơn. Đợi dòng suối chảy ngược tôi sẽ vì ông nói.
Câu hai: Dòng suối đó không có bóng mặt trăng tức là khô cạn. Tuy nói cạn mà không cạn vì nó vẫn chảy tràn cả bờ và trôi mãi cho tới ngày nay.
Đến hai câu sau rất là đẹp:
Thông Lãnh bãi tuần Hùng Nhĩ mộng,
Tuyết đình hưu thoại Thiếu Lâm xuân.
Ở núi Thông Lãnh không còn thưa hỏi nữa, trên núi Hùng Nhĩ chỉ là giấc mộng thôi. Là ý nghĩa gì? Tổ Bồ-đề-đạt-ma khi tịch tại Thiếu Lâm, nhục thân Ngài được nhập tháp trên núi Hùng Nhĩ. “Thông Lãnh bãi tuần” tức là ở Thông Lãnh không còn thưa hỏi nữa, Tổ Bồ-đề-đạt-ma đã hết duyên giáo hóa ở Trung Hoa. Nhục thân Ngài nhập tháp trên núi Hùng Nhĩ chẳng qua là một giấc mộng.
Tuyết đình hưu thoại Thiếu Lâm xuân.
Tuyết đình là nơi sân tuyết, khi Tổ Huệ Khả đến hỏi đạo với Tổ Bồ-đề-đạt-ma. Tổ Đạt-ma ngồi xoay mặt vào vách lặng yên, Tổ Huệ Khả đứng ngoài sân, mùa đông tháng chạp ở miền Bắc Trung Hoa tuyết xuống ngập đầu gối mà ngài Huệ Khả vẫn đứng trơ nhìn thẳng vào Tổ, mặt không đổi sắc. Tổ thương tình xoay lại hỏi:
- Cầu việc gì mà chịu khổ hạnh vậy?
- Con xin Ngài dạy cho pháp môn cam lồ.
Từ đó về sau Tổ mới nhận Ngài là đồ đệ. Khi thầy trò còn thưa hỏi qua lại là lúc Tổ còn duyên giáo hóa. Khi Tổ Huệ Khả không còn thưa hỏi nữa tức là Ngài đã đạt đạo, thấy được chân tướng mà Tổ Bồ-đề-đạt-ma truyền dạy, lúc ấy ở Thiếu Lâm hoàn toàn là một mùa xuân. Nên nói: trước sân đầy tuyết không còn thưa hỏi nữa, núi Thiếu Lâm hoàn toàn là một mùa xuân: mùa xuân miên viễn, mùa xuân không còn bị thời gian chi phối, xuân mãi mãi, không bao giờ có vẻ ảm đạm của thu, lạnh lẽo của đông nữa. Muốn được mùa xuân miên viễn phát xuất từ Thiếu Lâm, phải qua một cơn tuyết ngập tới gối, chớ không giản dị như những vị hiện giờ mong ước. Vừa được ấm no sung túc vui cười, vừa mong ước được mùa xuân Thiếu Lâm, chắc chắn là không được.
Trên đường đạo, chúng ta phải chịu đựng những gian nan khổ sở mới hưởng được một nguồn vui không bao giờ cùng tận. Người tu phải đối diện với sự lạnh lẽo cô đơn, từ bỏ mọi sự ấm áp của thế tình, lúc đó chỉ có nguồn chánh pháp sưởi ấm lòng chúng ta thôi. Nếu chúng ta tu mà muốn được tình đời sưởi ấm mãi, chắc rằng chúng ta phải chịu lạnh muôn kiếp. Chúng ta phải cam lạnh với tình đời, phải buông xả, chỉ còn trơ trọi một con người, khi ấy chúng ta mới được sưởi ấm bằng một nguồn vui miên viễn của mùa xuân Thiếu Lâm.
Dòng suối từ Tây chảy sang và chảy mãi đến Việt Nam chúng ta, dòng suối đó đến nay vẫn còn. Chúng ta có hưởng được hay không là do sức chịu đựng và sức nỗ lực của chúng ta, cũng như sau một cơn tuyết lạnh rồi chúng ta mới thấy được một mùa xuân ở Thiếu Lâm. Đó là ý nghĩa bài kệ của ngài Nghĩa Thanh.
Đến câu chuyện một vị Tăng hỏi ngài Cửu Phong (ngài Cửu Phong là vị Thị giả hỏi chết Thủ tọa ở Thạch Sương). Tăng hỏi:
- Tổ tổ truyền nhau là truyền việc gì?
Là truyền y bát chăng? Nếu truyền y bát thì khô khan làm sao! Y bát là vật vô tình, truyền vật vô tình đâu có lợi gì cho chúng ta, đâu có sưởi ấm chúng ta mãi mãi. Nếu nghĩ Tổ Tổ truyền nhau là truyền y bát, điều đó không phải là đạo lý, nên ngài Cửu Phong đáp:
- Thích-ca nghèo, Ca-diếp giàu.
(Nguyên văn chữ Hán: Thích-ca xan, Ca-diếp phú.)
Tăng hỏi:
- Thế nào là Thích-ca nghèo?
Ngài đáp:
- Không một vật cho người.
Tại sao đức Thích-ca nghèo lắm vậy? - Không một vật cho người, không nghèo là gì? Vì vậy nên sau này con cháu Ngài nghèo, mà nghèo nhất là ngài Hương Nghiêm Trí Nhàn, Ngài nghèo cho tới không có đất cắm dùi, và không có dùi để cắm nữa. Ngài trình bày chỗ nghèo của mình:
Năm xưa nghèo còn có đất cắm dùi,
Năm nay nghèo không có dùi để cắm.
Như vậy Phật Tổ truyền thừa cái gì? Đức Thích-ca không có một vật cho người, có cái gì mà truyền! Vị Tăng lại hỏi thêm:
- Thế nào là Ca-diếp giàu?
Ngài Cửu Phong đáp:
- Trong nước Mạnh Thường Quân.
Khi xưa ở Trung Hoa, Mạnh Thường Quân là người nuôi rất nhiều dũng sĩ, những dũng sĩ nào thất thời thất thế ông đều nuôi hết, nên nói Mạnh Thường Quân là người giàu. Như vậy Tổ Ca-diếp giàu là giàu cái gì? Nếu Tổ Ca-diếp nghèo thì chắc không truyền tới bây giờ. Bởi Ngài giàu cho nên Ngài truyền nối mãi cho tới ngày nay không dứt, không giàu là gì? Con cháu đông vầy, đó là cái giàu của ngài Ca-diếp.
Đức Thích-ca nghèo vì không một pháp cho người, Tổ Ca-diếp giàu vì truyền mãi không dứt. Không một pháp cho người mà truyền mãi không dứt có mâu thuẫn không? - Không. Nếu chúng ta thấy được cái không mâu thuẫn đó là chúng ta thấy được mùa xuân miên viễn, còn nếu chúng ta thấy có sự mâu thuẫn là không thấy được mùa xuân miên viễn.
Thiền sư Tử Thuần ở núi Đơn Hà có làm bài kệ nói về câu đối đáp trên:
Tịch quang ảnh lý hiện toàn thân,
Quí dị thiên nhiên quýnh xuất luân.
Gia phú nhi nô thiên đắc lực,
Dạ phân đăng hỏa chiếu tây lân.
Dịch:
Tịch quang trong bóng hiện toàn thân,
Sang khác thiên nhiên vượt hạng thường.
Con khó nhà giàu riêng đắc lực,
Đêm chia đèn lửa rọi xóm gần.
Tịch quang ảnh lý hiện toàn thân. “Tịch” là lặng, “quang” là sáng. Trong cái sáng lặng bóng nó hiện toàn thân.
Quí dị thiên nhiên quýnh xuất luân. “Quí” là sáng, “dị” là khác, “quýnh xuất luân” là vượt khỏi bình thường. Cái giàu sẵn vậy khác hơn là vượt khỏi tất cả cái giàu sang bình thường của người đời.
Gia phú nhi nô thiên đắc lực. “Gia phú” là nhà giàu, “nhi nô” là con tôi tớ. Cha giàu mà con là tôi tớ riêng được chỗ đắc lực. Cha giàu dụ cho ông Trưởng giả trong kinh Pháp Hoa, con tôi tớ dụ cho gã cùng tử chịu làm tôi tớ. Nhưng nếu người con tôi tớ hiểu được việc nhà rồi tức là đã đắc lực thì ông cha:
Dạ phân đăng hỏa chiếu tây lân. Ban đêm chia đèn lửa để chiếu rọi xóm gần. Nếu đứa con nghèo khi có sức mạnh hoặc có khả năng quản lý được gia nghiệp rồi thì người cha liền chia đèn chia lửa để soi sáng cho láng giềng chung quanh.
Trong bài kệ này, hai câu đầu nói lên ý đức Thích-ca Ngài nghèo, bởi vì trong cái sáng lặng lẽ, có cái bóng hiện ra toàn vẹn. Cái bóng đó không thật, không thật thì có gì để chia, có gì để trao! Nhưng trong đó có ngầm cái giàu, không phải cái giàu thông thường của thế nhân, mà cái giàu vượt trên tất cả những cái thường tình. Đó là cái giàu của thiên nhiên sẵn có.
Hai câu sau chỉ cái giàu của ngài Ca-diếp. Ngài Ca-diếp rất giàu. Con cháu của Ngài nghèo nàn, một khi có sức kham nhẫn chịu đựng được, có đủ khả năng gánh vác được thì Ngài trao chia cho đèn lửa để nối tiếp mãi mãi. Danh từ trong đạo thường nói người sau nối tiếp người trước là “tục diệm truyền đăng” nghĩa là nối lửa trao đèn. Tại sao không nói trao ngọc trao vàng mà nói trao lửa trao đèn? Bởi vì chủ yếu của đạo Phật là giác ngộ, mà giác ngộ là trí tuệ, trí tuệ là sáng suốt. Vì chúng sanh bị vô minh mê mờ nên phải trôi mãi trong luân hồi lục đạo. Chỉ có ngọn đèn trí tuệ mới phá được vô minh. Nếu vô minh hết thì chúng sanh ra khỏi dòng luân hồi.
Nói đến sự truyền bá chánh pháp là nói đến sự trao đèn nối lửa để soi sáng cho chúng sanh, cho con người và cho nhân loại. Chúng ta học đạo cốt làm sao thấy được chủ yếu của đạo để trên đường tu khỏi bị lầm lẫn. Nếu học đạo mà không thấy chủ yếu đó, chúng ta cứ nghĩ những phương tiện là đạo, tỉ dụ như bố thí, nhẫn nhục là đạo, đó chưa phải là cứu kính. Mục tiêu của Phật là chúng ta phải có ánh sáng trí tuệ mới cứu khổ được chúng sanh.
Nói đến việc trao đèn, chúng tôi nhớ câu chuyện nhan đề là “Giáo Lý Tối Thượng” của một Thiền sư Nhật Bản: Ngày xưa có một chú mù đi thăm bạn. Vì là bạn cố tri nên gặp lại ngồi nói chuyện mãi quên giờ. Khi ra về trời đã khuya, ngoài trời tối đen, anh bạn thương chú quá, nói:
- Ngoài kia trời tối, để tôi đốt đèn cho anh cầm về.
Anh mù cười nói:
- Tôi thấy ngày như đêm, đêm như ngày, cần gì đèn.
Anh bạn giải thích:
- Tuy anh không cần đèn, nhưng anh nên cầm cây đèn đi, người đi đường thấy được cây đèn họ tránh khỏi đụng vào anh.
Thấy có lý, anh mù nhận cây đèn anh bạn đốt và trao cho. Trên đường về bất thần có người đụng vào anh mù. Người mù than phiền:
- Anh không thấy tôi sao?
Người kia nói:
- Dạ, tôi không thấy.
- Tôi cầm cây đèn mà anh không thấy à?
Người đi đường đáp:
- Thưa bạn cây đèn bạn tắt từ bao giờ!
Qua câu chuyện trên, “giáo lý tối thượng” ở chỗ nào? Để quí vị suy gẫm, chúng tôi sẽ giải thích sau.
Trong nhà thiền, Thiền sư được trao đèn là ngài Đức Sơn. Ngài Đức Sơn sau khi đầu phục, được ngài Long Đàm Sùng Tín nhận làm đệ tử. Một đêm, Ngài đứng hầu thầy trong thất. Mãi tới khuya, ngài Sùng Tín bảo:
- Đêm đã khuya sao ông không xuống?
Ngài Đức Sơn liền bước ra vén rèm lên, bèn trở lại thưa:
- Ngoài kia tối đen.
Nói đến tối đen tức là muốn xin đèn chớ gì? Ngài Sùng Tín liền thắp đèn cầy rồi trao. Ngài Đức Sơn vừa đưa tay cầm cây đèn thì ngài Sùng Tín thổi phụt tắt. Ngay đó ngài Đức Sơn liền ngộ, từ đó về sau không cần đèn nữa. Như vậy trao đèn đó có trao hay không? Tại sao ngài Đức Sơn cầm đèn, vừa đưa tay nhận lấy, ngài Sùng Tín lại thổi phụt tắt đi? Đó lại gọi là trao đèn tiếp lửa. Trao ở chỗ nào? Nếu hiểu câu chuyện này thì hiểu câu chuyện trên.
Trong câu chuyện trước, người bạn thương người bạn mù quá nên đốt đèn cho anh cầm tay để tránh tai nạn. Đã là mù thì dù có đèn cũng là vô ích, nó tắt hay còn cháy, có biết đâu! Bởi vậy nên đèn tắt lúc nào cũng không biết! Khi sáng mắt rồi đưa đèn mới hữu dụng.
Cũng như vậy, nếu ngài Huệ Khả không đứng lạnh ngoài tuyết trước sân Thiếu Lâm thì Tổ Đạt-ma đâu có trao đèn cho Tổ Huệ Khả. Khi đủ khả năng đủ sức nhận rồi mới trao. Nhưng trao mà không trao. Trao đèn cho người lúc họ đi đêm, nếu sáng ngày thì họ đâu có cần nữa. Vì vậy nơi chúng ta nếu không phát sáng được cái Vô sư trí thì dù thầy dù bạn có muốn cho chúng ta sáng, sáng cũng không nổi. Cái học ngôn ngữ lý thuyết nơi thầy nơi bạn không cứu được cái mê của chúng ta. Muốn cứu được cái mê của chúng ta, chính cái Vô sư trí phải phát. Khi nào phát được cái Vô sư trí, lúc đó mới được trao đèn. Trao đèn là trao như vậy, nên mới gọi là giáo lý tối thượng. Còn nếu Vô sư trí chưa phát mà trao cũng vô ích thôi. Hiểu như vậy quí vị mới hiểu nghĩa trao đèn tiếp lửa, trao mà không trao gì hết. Bởi vậy mới có câu chuyện sau này:
Có vị Tăng hỏi Thiền sư Cư Hối:
- Tổ Đạt-ma lại là Tổ chăng?
Ngài Cư Hối đáp:
- Chẳng phải Tổ. (Trả lời coi ngang ngược quá!)
- Đã chẳng phải Tổ lại đến làm gì?
- Vì ông chẳng tiến. (Vì ông chẳng tiến được, nên Ngài sang.)
Vị Tăng liền hỏi:
- Sau khi tiến thì thế nào?
Ngài Cư Hối đáp:
- Mới biết chẳng phải Tổ.
Câu này thật là hay! Sau khi tiến được mới biết chẳng phải Tổ. Ngài Đức Sơn vì tiến không được, thấy ngoài trời tối đen, nên cần đèn. Cần đèn thì thầy đốt cho. Đốt cho rồi liền thổi phụt tắt. Tắt rồi mới tiến được. Tiến được mới thấy thầy có trao đèn cho mình không? Khi chưa tiến được thì mong thầy trao cho mình một cái gì, cho nên còn thấy có Tổ. Khi tiến được rồi thì còn gì nữa mà trao? Mới biết không phải Tổ. Không phải Tổ mà là Tổ. Cái đó mới là lạ lùng.
Qua câu chuyện trên, cũng ngài Tử Thuần có làm bài kệ:
Thiếu Lâm tục diệm sự kham kỳ,
Lạp dạ phương khai tuyết hậu chi
Hoàng Bá tích niên tằng hữu ngữ,
Đại Đường quốc lý một Thiền sư.
Dịch:
Thiếu Lâm tiếp lửa việc lạ kỳ,
Tháng chạp tuyết rơi sau mới chia
Hoàng Bá năm xưa từng đã nói,
Đại Đường cả nước không Thiền sư.
Tại sao cả nước Đại Đường mà không Thiền sư? Bởi vì nói Tổ thì người ta cứ nghĩ như ở ngoài thế gian, ông Tổ thợ mộc thì dạy cách làm mộc, phải đục đẽo như thế nào, cần những đồ nghề gì. Ông Tổ thợ rèn chỉ dạy cách làm thợ rèn. Còn ông Tổ trong nhà Thiền dạy chúng ta cái gì? Truyền cho chúng ta cái gì? Không có một pháp cho người, mà dạy cái gì, truyền cái gì? Đã không có dạy, không có truyền thì gọi là Tổ được không? Tuy không dạy, không truyền mà vẫn là Tổ. Mới nhìn qua coi như không phải Tổ, vì mỗi người chúng ta đã sẵn có cái chân thật đó rồi chớ không phải Ngài cho, nên nói không phải Tổ. Nếu không có sẵn, dù Ngài chỉ Đông, vẽ Tây, thì chắc rằng chúng ta cũng không thấy được cái chân thật đó, cho nên nói không phải Tổ mà là Tổ. Cũng như vậy, ngài Hoàng Bá nói cả nước Đại Đường không có Thiền sư, chỉ tạm gọi là Thiền sư.
Ý nghĩa của bài kệ như sau:
“Thiếu Lâm tục diệm sự kham kỳ.” Sự truyền đăng tục diệm ở Thiếu Lâm rất lạ lùng. Sự đó phát xuất từ lúc nào? “Lạp dạ phương khai tuyết hậu chi”: sau đêm tháng chạp tuyết lạnh mới nở được hoa, nên nói: Tháng chạp tuyết rơi sau mới chia tức là chia đèn tiếp lửa sau đêm tuyết ở Thiếu Lâm. Như vậy chúng ta thấy rằng việc truyền thừa của chư Tổ là mồi đèn tiếp lửa để soi sáng mãi mãi cho chúng sanh ở thế gian.
Vì lẽ vừa nêu trên, chúng tôi đặt tên Thiền viện Thường Chiếu. Nếu nói Thường Chiếu suông thì thấy nó lơ lửng quá! Vậy cái gì Thường Chiếu? - Tuệ Nhật Thường Chiếu hay Tuệ Đăng Thường Chiếu, nghĩa là truyền đèn tiếp lửa. Trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn có câu: “tuệ nhật phá chư ám” tức là mặt trời trí tuệ phá hết mọi tối tăm, mà Thường Chiếu là phá ám chớ gì? Vì thế chúng ta phải hiểu cho tường tận chủ đích của người trước. Thường Chiếu theo tinh thần nhà thiền là ngọn đèn, ngọn đuốc hay là mặt trời trí tuệ mãi mãi soi sáng không bao giờ gián đoạn. Chúng tôi có tham vọng muốn chia đèn tiếp lửa từ thuở Phật Tổ, nối mãi mãi đến bây giờ và về sau, để soi sáng chúng sanh không để bị gián đoạn, tắt dứt. Tuy hiện giờ có soi chút chút, nhưng nếu mai kia khi tôi mất rồi, quí vị phải tiếp tục soi sáng mãi mãi đừng để nó gián đoạn, nếu gián đoạn thì mất ý nghĩa Thường Chiếu rồi. Chủ đích của người tu Phật là dùng ánh sáng trí tuệ để soi sáng chúng sanh phá tan màn vô minh đen tối, giúp chúng sanh thoát khỏi dòng trầm luân sanh tử. Vì vậy mà tôi thích tên Chiếu. Có người cười bảo là chiếu lác chiếu rơm gì đó, vì không rõ mục tiêu tôi nhắm với tham vọng hơi nhiều. Chúng tôi mong rằng quí vị có mặt hôm nay, trong ngày đầu năm, ý thức được bổn phận và mục đích của mình. Biết được mục đích rồi lúc nào chúng ta cũng nhắm thẳng mục đích đó. Hòa thượng Viện trưởng đã dạy chúng ta: Làm việc gì một thời gian rồi, phải tự hỏi lại mình xem có đi đúng mục đích của mình hay không? Vì danh lợi hay vì cái gì? Phải luôn luôn hỏi lại mình để nhắc mình đi đúng mục tiêu mà mình đã nhắm.
Ở đây, chúng tôi nhắm mục tiêu “Phật Tổ tương truyền”. Chúng ta đã thừa hưởng ánh sáng mặt trời đó, chúng ta nên đem ánh sáng ấy soi lại cho những người chung quanh và những người sau để cùng sáng với chúng ta. Có những khi cần giảng chữ Thường Chiếu, tôi giảng có tính cách nhè nhẹ để người ta không thấy tham vọng của mình, tôi nói Thường Chiếu là tên của một Thiền sư Việt Nam. Bây giờ cần nói sâu nguyện vọng của mình, tôi nói là Tuệ Nhật Thường Chiếu hay Tuệ Đăng Thường Chiếu, chớ không phải là chuyện thường. Hôm nay tôi nêu ra cho tất cả quí vị thấy bản hoài của người tu phải đạt cho kỳ được cái gì mà Phật Tổ mong muốn nơi chúng ta.
Phần kết luận bài nói chuyện hôm nay là lời chúc xuân đầu năm của tôi với Tăng Ni và Phật tử, tôi xin nhắc lại lời của người xưa:
Bất đạp kim thời lộ,
Thường du kiếp ngoại xuân.
Tức là không giẫm trên con đường hiện thời, thường dạo một mùa xuân kiếp ngoại. Kiếp ngoại xuân là gì? Kiếp là chỉ cho thời gian, như nói một đời, một kiếp. Hoặc trong kinh nói tiểu kiếp, trung kiếp, đại kiếp chỉ cho thời gian dài thăm thẳm. Kiếp ngoại xuân là xuân vượt ngoài thời gian, năm, tháng. Nói tới xuân là nói tới thời gian. Nhưng nếu chúng ta không giẫm trên con đường hiện thời là chúng ta hưởng được mùa xuân ngoài thời gian, còn gọi là mùa xuân miên viễn. Vì sao không đạp trên con đường hiện thời? Con đường hiện thời chỉ cho con đường mà chúng sanh đang tranh đua chen lấn nhau đi, đó là con đường danh, lợi, tài, sắc v.v… Nếu chúng ta không đạp trên những con đường đó thì chúng ta sẽ hưởng được một mùa xuân kiếp ngoại, mùa xuân miên viễn không còn bị lệ thuộc thời gian. Hai câu này chúng tôi tạm dịch theo thể văn lục bát:
Chẳng đi theo bước đương thời,
Mùa xuân kiếp ngoại thảnh thơi dạo hoài.
Hôm nay, ngày đầu năm Đinh Mão, chúng tôi mong rằng tất cả Tăng Ni cùng Phật tử sẽ hưởng một mùa xuân miên viễn. Làm sao một đời này chúng ta luôn luôn được an vui, không còn cảm thấy khổ đau vì ngoại cảnh, vì cái đuổi xua của quỉ vô thường, mà chúng ta hằng vui trong một mùa xuân kiếp ngoại hay nói cách khác là một mùa xuân miên viễn.
Tất niên Bính Dần - 1987
Hôm nay là ngày Tất niên năm Bính Dần, bắt đầu sang năm Đinh Mão, tất cả chúng ta phải ôn lại việc cũ để chừa bỏ những điều dở và chuẩn bị cho năm tới được tốt đẹp sáng sủa hơn. Đó là bổn phận của tất cả Tăng Ni và Phật tử chúng ta.
Đề tài chúng tôi nói hôm nay nghiêng về người xuất gia, nếu là cư sĩ quí vị cũng lấy đây làm kinh nghiệm, còn Tăng Ni thì phải cố gắng thực hiện cho kỳ được những gì tôi nhắc nhở.
Ngài Trần Tôn Túc, đệ tử lớn của Tổ Hoàng Bá, Sư huynh của Tổ Lâm Tế có nói:
Đại sự vị minh như táng khảo tỷ,
Đại sự dĩ minh như táng khảo tỷ.
Việc lớn chưa sáng như đưa ma mẹ,
Việc lớn đã sáng như đưa ma mẹ.
Đây là câu mà tất cả Tăng Ni và Phật tử phải nghiền ngẫm để ứng dụng cho xứng đáng với tinh thần người tu. Tất cả chúng ta tu đều mong rằng một ngày nào sẽ sáng được việc lớn. Nếu việc lớn đã sáng, việc tu của chúng ta đã đủ, đã xong rồi hay chưa? Qua câu nói của ngài Trần Tôn Túc, chúng ta thấy rất rõ: Việc lớn chưa sáng, chúng ta phải cố gắng nỗ lực tiến tu để sáng. Nếu việc lớn đã sáng rồi không phải ngang đó chúng ta dừng lại mà còn phải tiếp tục nữa.
Cổ đức có nói:
Vị đáo vô tâm tu yếu đáo,
Ký đáo vô tâm vô dã hưu.
Chưa đến vô tâm cần phải đến,
Đã đến vô tâm, vô cũng thôi.
Khi chưa được vô tâm, chưa sáng được việc lớn, chúng ta cần phải tiến tu để được sáng, được vô tâm. Nhưng khi đã được vô tâm rồi, chữ “Vô” cũng thôi, chớ không phải vô tâm rồi ngay đó là đủ. Muốn khai triển đầy đủ ý nghĩa này, chúng tôi xin tuần tự nêu ra những điều dở những điều hay để tất cả Tăng Ni và Phật tử ứng dụng tu hành cho khỏi sai lầm.
Trước tiên chúng tôi nói các bệnh của người tu Phật hiện nay. Bệnh thứ nhất là khinh lờn. Người tu chúng ta khi mới bước chân vào đạo, cư sĩ cũng như xuất gia, lúc đầu phấn khởi hăng hái, coi như việc đạt đạo ở trước mắt, không xa. Nhưng qua năm thứ hai, năm thứ ba, những phấn khởi, những hăng hái buổi ban đầu giảm dần, rồi khinh lờn, rồi coi thường. Vì vậy người xưa thường nhắc: “Nhất niên Phật tại tiền, nhị niên Phật thăng thiên.” Nói theo Sư ông chúng tôi, Sư cụ Khánh Anh: “Tam niên Phật xa lơ xa lắc.” Năm đầu mới vào đạo, chúng ta thấy việc đạt đạo không khó, nhưng qua năm thứ hai năm thứ ba hay nhiều năm nữa, tinh thần phấn khởi hăng hái buổi ban đầu giảm xuống lần lần, rồi đạo càng ngày càng xa, nhất là trong giới tu sĩ. Người tu sĩ khi mới xuất gia có ý nguyện nhất định phải giải thoát ngay trong hiện đời. Nhưng khi xuất gia được vài ba năm hơi quen rồi, thỉnh thoảng cũng có chuyện hơn thua, chuyện phải quấy, tâm ban đầu yếu đi từ từ, có khi quá yếu đến nỗi bị rầy chê. Đó là vì chúng ta không giữ được tâm ban đầu. Phật Tổ thường dạy chúng ta phải nhớ tâm ban đầu. Nếu chúng ta giữ được nó thì đạo không xa, việc giải thoát không khó, còn quên thì đạo càng ngày càng xa, việc giải thoát càng ngày càng khó.
Trong kinh A-hàm, Phật có nói: Người mới xuất gia giống như cô dâu mới về nhà chồng, đối với cha mẹ chồng, chị em chồng, thảy đều quí nể, khép nép cung kính. Nhưng ở đôi ba năm có con cái rồi, đối với cha mẹ chồng coi không ra gì, ăn hiếp luôn chị em chồng, cả đến người chồng cũng không vị nể. Người tu cũng vậy. Khi mới vào đạo cạo tóc xuất gia, đối với Hòa thượng, Thượng tọa thì khép nép cung kính, đối với các Sư huynh thì nể nang dễ dạy. Nhưng ở đến một năm hai năm ba năm sau thấy các Hòa thượng, Thượng tọa có khi quên cúi đầu, cho đến khi sai bảo không vâng làm nữa. Vì bệnh khinh lờn này nên việc tu không tiến được. Vì vậy Phật bảo chúng ta phải nhớ tâm ban đầu.
Các kinh thường dạy: Các thầy Tỳ-kheo, mỗi sáng phải nhớ rờ đầu một lần. Rờ đầu để nhớ mình đã cạo tóc xuất gia, không còn nghĩ đến chuyện gì ở đời nữa, nếu không, lâu ngày rồi quên mình là người xuất gia. Phật dạy chúng ta phải nhớ trên đường tu đừng có niệm khinh lờn. Nếu có niệm khinh lờn thì ban đầu tu thấy tiến, nhưng sau rồi lùi, lùi cho tới không biết bao giờ tiến được nữa. Đó là bệnh thứ nhất của người tu.
Bệnh thứ hai là bệnh tự mãn. Tự mãn là được ít mà cho là đủ. Có những người tu học được ít bộ kinh, tụng được hai thời công phu, bái sám rành rẽ, coi như bao nhiêu đó là đủ cho mình làm Phật sự, rồi hài lòng tự mãn với cái mình đã được, lấy đó làm sở trường mà không cố gắng nỗ lực tiến tu. Như vậy tự khép mình trong phạm vi hẹp hòi để rồi chịu cả một đời tu không tiến nổi.
Thiền sư Thanh ở Dũng Tuyền dạy chúng rằng:
“Tôi ở trong đây bốn mươi chín năm còn có khi tẩu tác, các ông chớ nói to, người kiến giải thì nhiều, người hành giải thì ít, muôn người không có một. Kiến giải ngôn ngữ cần biết suốt, nếu thức tình chưa hết sẽ bảo đi trong luân hồi vậy.”
Ngài là một Thiền sư đã ngộ đạo, Ngài nói Ngài đã ở bốn mươi chín năm trên núi Dũng Tuyền còn có khi tẩu tác tức là tâm chạy bậy như trâu hoang, huống nữa là những người mới vào đạo một năm hai năm ba năm, coi như mình xong việc, ăn to nói lớn tưởng mình như là Thánh, đó là điều không nên. Ngài dạy: “Người kiến giải thì nhiều, người hành giải thì ít”, tức là người thấy hiểu thì nhiều mà hành được thì ít. Trong muôn người hiểu, chưa có được một người hành. Ngài nói như vậy, không phải cấm không cho chúng ta có kiến giải. Ngài dạy kiến giải ngôn ngữ cần phải biết suốt, phải thông nhưng nếu thức tình chưa hết sẽ đi trong luân hồi.
Người xưa biết được bệnh này nên nhắc nhở khiến chúng ta biết rõ trên đường tu không phải đơn giản, không phải một sớm một chiều là xong việc, không phải thấy biết là rồi, mà còn phải hành, phải sống được với nó nữa, đó là điều thật thiết yếu. Hiện nay cũng có một ít Tăng Ni nghe hiểu, hiểu rồi cứ ăn to nói lớn tưởng đó là hay, không ngờ vẫn còn thức tình, đến khi chết vẫn đi trong luân hồi. Cho nên chúng ta phải khéo cố gắng vượt qua các lỗi đó mới được.
Bệnh thứ ba là bệnh thụ hưởng. Có một số người tu được một thời gian năm năm, mười năm, thọ giới làm Trụ trì, coi như mình xứng đáng là người lãnh đạo tín đồ, rồi tự hài lòng. Từ sự tự hài lòng đó sanh ra thụ hưởng tức là nghĩ tới ăn chơi vui đùa, chạy theo dục lạc, mà không nghĩ tới việc tiến tu. Đó là điều rất nguy hiểm cho đạo. Chúng ta tu cốt làm sao dứt sạch các phiền não, mà phiền não phát xuất từ dục lạc. Nếu chúng ta còn thụ hưởng dục lạc thì phiền não làm sao sạch được. Vì vậy nên người nào tu hành mà nặng về hưởng thụ, người đó thế nào rồi cũng bị dục lạc làm chủ. Bị dục lạc làm chủ thì đời này không thể tiến được, mai kia cũng khó mà trả được nợ áo cơm. Cho nên có bài kệ:
Học đạo bất thông lý,
Phục thân hoàn tín thí.
Trưởng giả bát thập nhất,
Kỳ thọ bất sanh nhĩ.
Dịch:
Học đạo chẳng thông lý,
Đem thân đền tín thí.
Trưởng giả tuổi tám mốt,
Cây kia chẳng sanh nhĩ (nấm).
Bài kệ này thuật lại việc một Tỳ-kheo tu hành tương đối tốt. Có một trưởng giả thấy vậy quí kính, mỗi ngày dâng cúng tứ sự rất đầy đủ. Nhưng vị Tăng không thông được lý đạo, chưa sáng được việc lớn, nên khi chết thân trở lại đền nợ bằng cách thành cây mỗi ngày mọc nấm cho trưởng giả ăn. Tới khi trưởng giả tám mươi mốt tuổi cây mới thôi mọc nấm. Như vậy để thấy rằng nếu tu mà không sáng được đạo, không dứt được thức tình, dù chúng ta có cố gắng cũng chưa giải thoát được. Nếu chúng ta thụ hưởng càng nhiều thì họa càng lắm. Vị Tăng này tuy tu tốt, mà vẫn phải trả nợ hoa báo. Đó là trả nợ nhẹ làm cây sanh nấm cho người ăn, hết nợ mới thôi. Nếu nặng nợ hơn, chúng ta phải mang thân xấu xí hơn nhiều, đi trong lục đạo để đền nợ của đàn-na thí chủ. Vì vậy chúng ta phải nhớ rằng trên đường tu không phải chỉ có một hai thời khóa tụng, không phải chỉ thành Trụ trì là xong việc mà tu cốt làm sao thấy được đạo, sống với đạo, mới mong thoát ly sanh tử chớ không phải là việc đơn giản. Đó là điều thiết yếu mà chúng tôi mong tất cả Tăng Ni và Phật tử nhớ để nỗ lực tiến tu, đừng hài lòng, đừng tự mãn, rồi phải chiêu họa đời sau.
Phần thứ hai nói đến: “Việc lớn chưa sáng như đưa ma mẹ.” Tại sao ngài Trần Tôn Túc lại nói như thế? Những người con khi đưa đám cha mẹ mình, lúc đó gương mặt thật âu sầu ảo não, tâm hồn buồn bã khắc khoải vô cùng. Cũng như vậy, đối với người tu chúng ta chưa sáng được việc lớn, ngày nào tháng nào năm nào, chúng ta cũng phải ôm ấp trong lòng băn khoăn khắc khoải, niệm niệm quyết chí tiến tu. Cái gì mình chưa hiểu phải tìm cho hiểu, cái gì mình chưa thông phải ráng học hỏi cho thông. Nếu việc lớn chưa sáng mà cứ vui chơi hết ngày hết tháng, thì không mong gì đạt được sở nguyện của mình. Việc lớn chưa sáng, chúng ta lúc nào cũng phải ôm ấp, lo âu, trăn trở trong lòng, phải nỗ lực cố gắng tu hành để đạt cho kỳ được mới thôi. Như vậy mới khả dĩ tiến được, mới xứng đáng một người xuất gia theo Phật. Nếu chúng ta không làm đúng lời Phật Tổ dạy thì rất uổng một đời tu, lại còn làm cho thiên hạ chê cười khinh bỉ, đạo lý cao siêu của Phật trở thành vô giá trị. Thế nên việc lớn chưa sáng chúng ta phải luôn luôn nỗ lực tiến tu, chúng ta không có quyền nghĩ rằng mình tu cho có chừng để rồi đời sau tu nữa. Chúng ta phải quyết chí sáng được việc lớn ngay trong đời này, nếu chưa xong ít ra cái mê cũng mòn cũng mỏng để sau này tiếp tục một cách dễ dàng.
Xưa có những Thiền sư mỗi khi chiều xuống, xét lại mình chưa tiến được bao nhiêu, các ngài rơi lệ, còn chúng ta mỗi khi chiều xuống thì vui cười hỉ hạ. Chúng ta có tiến không mà vui cười? Tại sao các ngài không tiến thì khóc còn chúng ta không tiến lại cười? Tâm niệm người xưa và tâm niệm chúng ta ngày nay khác nhau ở chỗ nào? Nếu thật tình quyết chí cầu giải thoát, mà mình không đạt được điều mong mỏi, làm sao vui, làm sao thảnh thơi cười đùa! Vì vậy người xưa đã nhiệt tình khi nhớ tới việc tu hành của mình, một ngày mất đi mà không tiến là các ngài đau khổ xót xa đến độ phải rơi nước mắt. Chúng ta ngày nay dù không bằng được người xưa, ít ra mỗi ngày qua chúng ta phải nao nao tự hỏi rằng tại sao mình hèn nhát, mình tu không tiến. Một ngày tu không tiến còn rơi nước mắt, một tháng tu không tiến chắc phải khóc òa lên! Còn một năm tu không tiến quí vị nghĩ nên làm sao? Nếu một năm qua kiểm lại mình tu không tiến được một bước nào, thật là đau lòng hổ thẹn, không thể nào an ổn được. Tu cốt phải tiến, không phải đứng một chỗ, đứng một chỗ có nghĩa là lùi, huống nữa có nhiều người còn bước lùi nữa, việc đó thật là quá tệ. Do đó hôm nay là ngày cuối năm, chúng ta tự kiểm lại thấy qua một năm, tu không tiến được bước nào, chúng ta phải lập nguyện cho mạnh, lập chí cho vững để vươn lên, không để yếu hèn như năm cũ nữa. Như vậy chúng ta mới xứng đáng là người tu có trọng trách làm lợi mình, lợi người, tự giác, giác tha. Đó là điều mà chúng tôi mong mỏi nhất.
Phần thứ ba là “việc lớn đã sáng như đưa ma mẹ”. Tại sao? Vì chúng ta tưởng rằng một khi ngộ được lý đạo, ngang đó là thành Phật, thành Tổ. Thật sự chưa phải. Sau đây là bài kệ chúng tôi thường nhắc:
Đốn ngộ tuy đồng Phật,
Đa sanh tập khí thâm,
Phong đình ba thượng dũng,
Lý hiện niệm du xâm.
“Đốn ngộ tuy đồng Phật” tức là thấy được đạo, Phật với mình không khác. “Đa sanh tập khí thâm” tức là nhiều đời tập khí sâu dày, nóng giận phiền não hồi xưa còn ghi đậm nét trong thói quen của mình. Bây giờ tuy ngộ được lý đạo nhưng khi chạm việc cũng còn giận cũng còn nóng. “Phong đình ba thượng dũng”, như ngoài biển gió dừng rồi mà sóng vẫn còn vỗ ầm ầm. “Lý hiện niệm du xâm”, đối với đạo lý thì thấy được lẽ thật rồi, nhưng niệm vẫn còn dấy lên hoài, làm mờ tối Tánh giác của mình. Khi ngồi lại nó cứ tràn vào, lấn mãi, nó quấy động cả giờ ngồi thiền. Như vậy đừng tưởng rằng ngộ được lý đạo là xong việc, mà còn phải nỗ lực tiến tu, làm sao trong tất cả giờ những niệm đó không quấy nhiễu, không làm mờ Tánh giác của mình, chừng đó mới khả dĩ hợp với đạo. Nếu ngang đây mà hài lòng tự mãn là bệnh lớn.
Kinh Trung A-hàm ghi: Một hôm có ngoại đạo tới hỏi Phật: - Thưa Cù-đàm, những đệ tử của Ngài đã ngộ đạo có đến Niết-bàn hết hay chăng? Phật trả lời: - Có người đến Niết-bàn, có người không đến. Ngoại đạo lấy làm lạ hỏi: - Tại sao đã ngộ đạo rồi, có người được đến Niết-bàn lại có người không đến? Phật ví dụ: Như có người bị mũi tên độc bắn vào tay, thầy thuốc được mời tới mổ lấy tên ra, khử độc băng bó kỹ càng và bảo ráng giữ gìn đừng cho nhiễm trùng. Nhưng người đó nghĩ rằng tên độc đã nhổ ra, dùng thuốc khử độc rồi, còn lo sợ gì nữa. Ngang đó tha hồ xông pha, vết thương bị nhiễm trùng, bệnh trở nặng rồi chết. Người thứ hai cũng bị tên độc và cũng được nhổ tên ra, khử trùng xong băng bó cẩn thận và cũng được dặn dò như trước. Người này biết giữ gìn không dám để nhiễm trùng, vết thương lành lần lần rồi khỏi hẳn. Như vậy hai người cùng bị tên độc, cùng được mổ lấy tên ra, khử độc như nhau, tại sao một người chết, một người lành?
Phật nói: “Cũng như vậy, những người tu ngộ đạo rồi mà ngang đó biết nghe lời Phật tiến tu, gìn giữ đạo hạnh càng ngày càng trong sáng thì sẽ đến Niết-bàn. Những người ngộ đạo rồi, tự mãn làm những việc xông pha trái với đạo lý lần lần bị nhiễm rồi thối đọa.” Như vậy chúng ta đừng tưởng ngộ rồi là xong. Vì đa sanh tập khí thâm, tuy ngộ đạo rồi mà tập khí vẫn còn, nếu lân la với thói quen cũ thì bị nhiễm. Nên nói “việc lớn đã sáng như đưa ma mẹ”, chúng ta phải luôn luôn nỗ lực tu, không phải ngang đó mà dừng.
Có vị Tăng hỏi Thiền sư Truyền Sở ở núi Thanh Phong:
- Việc lớn đã sáng, vì sao như đưa ma mẹ?
Ngài đáp:
Chẳng gặp gió xuân hoa chẳng nở,
Đến khi hoa nở lại thổi rơi.
Hai câu này cũng giống hai câu:
Chưa đến vô tâm cần phải đến,
Đã đến vô tâm, vô cũng thôi.
Đợi có gió xuân hoa mới nở. Đừng tưởng hoa nở là xong, mà còn phải nhờ gió thổi cho hoa rụng luôn mới là xong việc. Người xưa rất cẩn thận dè dặt khi chỉ dạy chúng ta cách tu hành.
Thiền Sư Tử Thuần ở Đơn Hà có làm bài tụng:
Gia sơn qui đáo mạc nhân tuần,
Kiệt lực dần thân phụng nhị thân.
Cơ tận công vong ân nghĩa đoạn,
Tiện thành bất hiếu xiển-đề nhân.
Dịch:
Gia sơn về đến chớ dần dà,
Gắng sức sớm hôm dưỡng mẹ cha.
Cơ hết công quên ân nghĩa dứt,
Bỗng thành bất hiếu người xiển-đề.
Gia sơn về đến chớ dần dà nghĩa là người tu như kẻ trở về quê hương, hi vọng thiết tha nhất là về tới nhà. Về tới nhà còn phải: Gắng sức sớm hôm dưỡng mẹ cha, chẳng phải về đến nhà để chơi suông. Nuôi dưỡng mẹ cha rồi còn nghĩ mình là con có hiếu, là kẻ có công, cũng chưa được, nên nói: Cơ hết công quên ân nghĩa dứt, tới đó điều kiện công ơn nuôi dưỡng cha mẹ không còn thấy nữa. Bỗng thành bất hiếu người xiển-đề. Tại sao câu kết lại lạ lùng như vậy? Xiển-đề là âm tiếng Phạn dịch nghĩa là bất tín, tức là không đủ lòng tin. Ở đây xiển-đề chia ra ba loại:
1. Người phạm tội ngũ nghịch.
2. Người đối với Tam Bảo không có lòng tin.
3. Người như ngu như ngây không còn thấy có Phật để kính, không còn thấy có chúng sanh để xem thường. Người này thấy Phật với chúng sanh bình đẳng cũng gọi là xiển-đề.
Như trên đã nói:
Chẳng gặp gió xuân hoa chẳng nở
Đến khi hoa nở lại thổi rơi.
Nếu còn thấy mình là người đắc đạo, là người ngộ đạo là chưa xong. Nếu ngộ đạo thật sự mà còn thấy mình đắc đạo, ngộ đạo là chưa rồi, huống nữa chưa ngộ đạo mà còn tự xưng ta là người thấy đạo, ngộ đạo, thì nên nghĩ người ấy như thế nào? Vì vậy trong kinh Kim Cang có đoạn: “Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp.” Tới chỗ rốt ráo pháp chân chánh còn phải buông xả, huống là phi pháp. Lời Phật dạy giống như cái bè đưa mình qua sông, tới bờ rồi bè cũng bỏ, như vậy mới rồi việc. Nếu mình tu tới đó rồi hài lòng tự mãn thì không thể nào tránh khỏi việc ôm chặt chiếc bè không lên bờ được. Đó là ý nghĩa bài tụng của ngài Đơn Hà Tử Thuần.
Thiền sư Thanh Long, nhân ý này nói một bài tụng:
Bần tử dụ trung tằng chỉ chú
Linh bình tân khổ uổng ta đà
Khúc thùy phương tiện thân phân phó
Triếp mạc nhân tuần xử tả khoa.
Dịch:
Trong dụ kẻ nghèo từng chỉ rõ
Lang thang cay đắng luống trôi qua
Được bày phương tiện vì giao phó
Thôi chớ lơ là khiến mất xa.
Ngài Thanh Long nhắc chúng ta, người tu chẳng khác nào kẻ cùng tử trong kinh Pháp Hoa. Trong thời gian lang thang nơi xứ lạ quê người, cùng tử chịu muôn ngàn cay đắng. Khi tìm được lối trở về đến nhà, qua được những cay đắng rồi vẫn chưa xong việc. Còn phải: Được bày phương tiện vì giao phó. Trưởng giả dùng phương tiện dẫn cùng tử về nhà trao kho tàng sự nghiệp. Khi được trao sự nghiệp rồi, thôi chớ lơ là khiến mất xa, còn phải giữ gìn bảo quản cho sự nghiệp được lâu dài bền vững. Ví dụ chàng cùng tử trong kinh Pháp Hoa chỉ cho chúng ta khi sáng được việc lớn, mà không chịu nỗ lực cố gắng nữa thì một ngày nào đó, chúng ta cũng bị rơi trở vào chỗ chưa sáng. Vì vậy khi sáng được việc lớn rồi, cần phải nỗ lực cố gắng cho đến bao giờ viên mãn công hạnh mới là xong việc.
Tất cả người tu Phật chúng ta đừng bao giờ nghĩ rằng thấy được đạo là xong việc mà phải hành đạo và hằng sống được với đạo. Mình và đạo không hai mới là thật sự giải thoát, giải thoát ngay trong đời này, chớ không phải đợi tới khi chết mới giải thoát, thì quá mơ hồ xa xôi.
Để kết luận, chúng tôi xin lặp lại hai câu:
Chưa đến vô tâm cần phải đến
Đã đến vô tâm vô cũng thôi.
Nếu chúng ta còn mờ tối chưa thấy được đạo, cần phải nỗ lực cố gắng học hành tham vấn. Khi đến chỗ vô tâm rồi, chính cái vô chúng ta cũng phải buông, mới đến chỗ mình và muôn vật không hai. Nếu còn đeo cái vô, thì vô tình chúng ta lại rơi vào nước chết.
Nếu đã qua một năm mà tu không tiến, chúng ta hối hận muốn kéo năm cũ lại để tu hành thì không thể được. Vì vậy chúng ta đành phải để nó trôi qua. Nhưng năm tới chúng ta phải làm sao cho xứng đáng không phụ tinh thần xuất gia cầu giải thoát của chính mình. Năm cũ qua rồi, chúng ta đã hỉ hạ vui chơi, năm mới sắp đến, chúng ta cũng hỉ hạ vui chơi không lo tu hành, e rằng một đời tu của chúng ta trở thành số không.
Hôm nay chúng tôi nhắc lại lời dạy của ngài Trần Tôn Túc để cho tất cả quí vị người tại gia cũng như xuất gia tự xét lại mình có tu tiến hay không? Nếu đã tiến tu thì năm tới cũng phải cố gắng để khá hơn. Còn nếu người nào cảm thấy qua một năm mà không tiến chút nào thì ngang đây chuẩn bị cho năm tới phải nỗ lực phát nguyện mạnh mẽ để đền bù lại những thiếu sót của một năm qua và xứng công trong năm tới. Như vậy mới không uổng một đời tu của mình. Đó là điều mong mỏi của chúng tôi trong tháng cùng năm hết này.
MÙA XUÂN MIÊN VIỄN
Bài nói chuyện với Tăng Ni - Xuân Đinh Mão 1987
Hôm nay là ngày Tết Nguyên Đán, quí Tăng Ni Phật tử câu hội về đây để chúc mừng năm mới, tôi rất hoan hỉ. Vậy quí vị lễ Tổ chứng minh cho rồi tôi sẽ nói chuyện.
Trước hết tôi chúc tất cả Tăng Ni và Phật tử năm nay được hưởng một mùa Xuân Miên Viễn. Muốn hưởng một mùa xuân miên viễn, chúng ta phải làm gì? Cần những yếu tố nào?
Tất cả người trên thế gian đều thừa nhận một năm có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông. Mùa xuân khí hậu ấm áp, cây cối đâm chồi nảy lộc, mọi người đều vui mừng, nên nói mừng xuân, vui xuân hay chơi xuân. Nói tới mùa xuân là nói tới sự vui tươi, hạnh phúc, coi như nó có sẵn trong mùa xuân. Nhưng mùa xuân theo thời gian dài lắm chỉ tròn ba tháng rồi cũng hết xuân, tới hạ, thu, đông. Cho nên cái vui con người chỉ hưởng một lúc nào rồi mất, nhường chỗ cho mùa hạ nóng bức, mùa thu buồn tẻ, mùa đông ảm đạm thê lương.
Người tu chúng ta không thể chấp nhận vui xuân giới hạn theo thời tiết, cần phải có cái vui mãi mãi không mất, mãi mãi còn nơi chúng ta. Chúng ta phải tu như thế nào để hưởng được một mùa xuân miên viễn?
Mùa xuân miên viễn phát nguồn từ đâu? Chính đức Phật Thích-ca là vị Giáo chủ đã chỉ cho chúng ta một mùa xuân miên viễn. Gần đây hơn, chính Tổ Bồ-đề-đạt-ma là người đem lại mùa xuân miên viễn trong đạo cho tất cả chúng ta. Tổ đã gieo rắc mùa xuân ấy vào tâm hồn người tu thiền chúng ta như thế nào? Sau đây tôi dẫn một số câu chuyện của các Thiền sư, quí vị sẽ nhận thấy mùa xuân miên viễn thể hiện trong tâm hồn những người đã sáng được lẽ đạo và sống với đạo như thế nào.
Trước tiên tôi dẫn câu chuyện: Một vị Tăng hỏi ngài Động Sơn Lương Giới:
- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang?
Ngài Động Sơn đáp:
- Đợi dòng nước Động Sơn chảy ngược, ta sẽ vì ông nói.
Nước ở Động Sơn là nước trong khe động trên núi chảy xuống, có lúc nào chảy ngược trở lên đâu? Nếu nước ở sông ở biển khả dĩ còn có chảy lên chảy xuống, còn nước suối trên động núi không bao giờ chảy ngược. Tại sao ngài Động Sơn bảo đợi dòng nước Động Sơn chảy ngược sẽ vì ông nói? Câu đó đã nói gì về ý Tổ sư từ Ấn Độ sang? Tổ sư đây là Tổ Bồ-đề-đạt-ma. Những vị học và tu thiền thường thắc mắc không biết Tổ Bồ-đề-đạt-ma sang Trung Hoa có ý gì đem truyền dạy cho chúng ta? Ý đó như thế nào? Ngài Động Sơn trả lời như vậy có dễ hiểu không? Biết ý Tổ sư từ Ấn Độ sang chưa?
Sau này Thiền sư Nghĩa Thanh ở Đầu Tử có làm bài kệ tụng về điều đó:
Cổ nguyên vô thủy nguyệt hà sanh,
Mãn ngạn Tây lưu nhất phái phân.
Thông Lãnh bãi tuần Hùng Nhĩ mộng,
Tuyết đình hưu thoại Thiếu Lâm xuân.
Dịch:
Nguồn xưa không nước nguyệt đâu sanh,
Một mạch dòng Tây chảy ngập tràn.
Thông Lãnh hỏi rồi Hùng Nhĩ mộng,
Tuyết sân thôi nói Thiếu Lâm xuân.
Qua bài kệ này ngài Nghĩa Thanh đã nói gì về câu đáp của ngài Động Sơn?
Cổ nguyên vô thủy nguyệt hà sanh.
Dòng suối xưa nếu khô cạn thì làm sao bóng mặt trăng rọi ở dưới. Dòng suối có nước trong, chúng ta mới thấy được bóng mặt trăng ở dưới đáy suối, nếu dòng suối đã khô thì không thấy bóng mặt trăng.
Mãn ngạn Tây lưu nhất phái phân.
Mãn là đầy, ngạn là bờ. Dòng suối xưa kia vẫn tràn cả bờ từ phương Tây trôi mãi chia ra một mạch (phái: mạch). Ở đây dường như có sự mâu thuẫn. Câu trên nói dòng suối khô cạn không có bóng mặt trăng. Câu dưới lại nói dòng suối từ phương Tây chảy lại tràn đầy cả bờ rồi chia ra chảy mãi. Như vậy ý nói gì? Câu đầu nói dòng suối không nước tức là không bóng trăng để chỉ câu đáp của ngài Động Sơn. Đợi dòng suối chảy ngược tôi sẽ vì ông nói.
Câu hai: Dòng suối đó không có bóng mặt trăng tức là khô cạn. Tuy nói cạn mà không cạn vì nó vẫn chảy tràn cả bờ và trôi mãi cho tới ngày nay.
Đến hai câu sau rất là đẹp:
Thông Lãnh bãi tuần Hùng Nhĩ mộng,
Tuyết đình hưu thoại Thiếu Lâm xuân.
Ở núi Thông Lãnh không còn thưa hỏi nữa, trên núi Hùng Nhĩ chỉ là giấc mộng thôi. Là ý nghĩa gì? Tổ Bồ-đề-đạt-ma khi tịch tại Thiếu Lâm, nhục thân Ngài được nhập tháp trên núi Hùng Nhĩ. “Thông Lãnh bãi tuần” tức là ở Thông Lãnh không còn thưa hỏi nữa, Tổ Bồ-đề-đạt-ma đã hết duyên giáo hóa ở Trung Hoa. Nhục thân Ngài nhập tháp trên núi Hùng Nhĩ chẳng qua là một giấc mộng.
Tuyết đình hưu thoại Thiếu Lâm xuân.
Tuyết đình là nơi sân tuyết, khi Tổ Huệ Khả đến hỏi đạo với Tổ Bồ-đề-đạt-ma. Tổ Đạt-ma ngồi xoay mặt vào vách lặng yên, Tổ Huệ Khả đứng ngoài sân, mùa đông tháng chạp ở miền Bắc Trung Hoa tuyết xuống ngập đầu gối mà ngài Huệ Khả vẫn đứng trơ nhìn thẳng vào Tổ, mặt không đổi sắc. Tổ thương tình xoay lại hỏi:
- Cầu việc gì mà chịu khổ hạnh vậy?
- Con xin Ngài dạy cho pháp môn cam lồ.
Từ đó về sau Tổ mới nhận Ngài là đồ đệ. Khi thầy trò còn thưa hỏi qua lại là lúc Tổ còn duyên giáo hóa. Khi Tổ Huệ Khả không còn thưa hỏi nữa tức là Ngài đã đạt đạo, thấy được chân tướng mà Tổ Bồ-đề-đạt-ma truyền dạy, lúc ấy ở Thiếu Lâm hoàn toàn là một mùa xuân. Nên nói: trước sân đầy tuyết không còn thưa hỏi nữa, núi Thiếu Lâm hoàn toàn là một mùa xuân: mùa xuân miên viễn, mùa xuân không còn bị thời gian chi phối, xuân mãi mãi, không bao giờ có vẻ ảm đạm của thu, lạnh lẽo của đông nữa. Muốn được mùa xuân miên viễn phát xuất từ Thiếu Lâm, phải qua một cơn tuyết ngập tới gối, chớ không giản dị như những vị hiện giờ mong ước. Vừa được ấm no sung túc vui cười, vừa mong ước được mùa xuân Thiếu Lâm, chắc chắn là không được.
Trên đường đạo, chúng ta phải chịu đựng những gian nan khổ sở mới hưởng được một nguồn vui không bao giờ cùng tận. Người tu phải đối diện với sự lạnh lẽo cô đơn, từ bỏ mọi sự ấm áp của thế tình, lúc đó chỉ có nguồn chánh pháp sưởi ấm lòng chúng ta thôi. Nếu chúng ta tu mà muốn được tình đời sưởi ấm mãi, chắc rằng chúng ta phải chịu lạnh muôn kiếp. Chúng ta phải cam lạnh với tình đời, phải buông xả, chỉ còn trơ trọi một con người, khi ấy chúng ta mới được sưởi ấm bằng một nguồn vui miên viễn của mùa xuân Thiếu Lâm.
Dòng suối từ Tây chảy sang và chảy mãi đến Việt Nam chúng ta, dòng suối đó đến nay vẫn còn. Chúng ta có hưởng được hay không là do sức chịu đựng và sức nỗ lực của chúng ta, cũng như sau một cơn tuyết lạnh rồi chúng ta mới thấy được một mùa xuân ở Thiếu Lâm. Đó là ý nghĩa bài kệ của ngài Nghĩa Thanh.
Đến câu chuyện một vị Tăng hỏi ngài Cửu Phong (ngài Cửu Phong là vị Thị giả hỏi chết Thủ tọa ở Thạch Sương). Tăng hỏi:
- Tổ tổ truyền nhau là truyền việc gì?
Là truyền y bát chăng? Nếu truyền y bát thì khô khan làm sao! Y bát là vật vô tình, truyền vật vô tình đâu có lợi gì cho chúng ta, đâu có sưởi ấm chúng ta mãi mãi. Nếu nghĩ Tổ Tổ truyền nhau là truyền y bát, điều đó không phải là đạo lý, nên ngài Cửu Phong đáp:
- Thích-ca nghèo, Ca-diếp giàu.
(Nguyên văn chữ Hán: Thích-ca xan, Ca-diếp phú.)
Tăng hỏi:
- Thế nào là Thích-ca nghèo?
Ngài đáp:
- Không một vật cho người.
Tại sao đức Thích-ca nghèo lắm vậy? - Không một vật cho người, không nghèo là gì? Vì vậy nên sau này con cháu Ngài nghèo, mà nghèo nhất là ngài Hương Nghiêm Trí Nhàn, Ngài nghèo cho tới không có đất cắm dùi, và không có dùi để cắm nữa. Ngài trình bày chỗ nghèo của mình:
Năm xưa nghèo còn có đất cắm dùi,
Năm nay nghèo không có dùi để cắm.
Như vậy Phật Tổ truyền thừa cái gì? Đức Thích-ca không có một vật cho người, có cái gì mà truyền! Vị Tăng lại hỏi thêm:
- Thế nào là Ca-diếp giàu?
Ngài Cửu Phong đáp:
- Trong nước Mạnh Thường Quân.
Khi xưa ở Trung Hoa, Mạnh Thường Quân là người nuôi rất nhiều dũng sĩ, những dũng sĩ nào thất thời thất thế ông đều nuôi hết, nên nói Mạnh Thường Quân là người giàu. Như vậy Tổ Ca-diếp giàu là giàu cái gì? Nếu Tổ Ca-diếp nghèo thì chắc không truyền tới bây giờ. Bởi Ngài giàu cho nên Ngài truyền nối mãi cho tới ngày nay không dứt, không giàu là gì? Con cháu đông vầy, đó là cái giàu của ngài Ca-diếp.
Đức Thích-ca nghèo vì không một pháp cho người, Tổ Ca-diếp giàu vì truyền mãi không dứt. Không một pháp cho người mà truyền mãi không dứt có mâu thuẫn không? - Không. Nếu chúng ta thấy được cái không mâu thuẫn đó là chúng ta thấy được mùa xuân miên viễn, còn nếu chúng ta thấy có sự mâu thuẫn là không thấy được mùa xuân miên viễn.
Thiền sư Tử Thuần ở núi Đơn Hà có làm bài kệ nói về câu đối đáp trên:
Tịch quang ảnh lý hiện toàn thân,
Quí dị thiên nhiên quýnh xuất luân.
Gia phú nhi nô thiên đắc lực,
Dạ phân đăng hỏa chiếu tây lân.
Dịch:
Tịch quang trong bóng hiện toàn thân,
Sang khác thiên nhiên vượt hạng thường.
Con khó nhà giàu riêng đắc lực,
Đêm chia đèn lửa rọi xóm gần.
Tịch quang ảnh lý hiện toàn thân. “Tịch” là lặng, “quang” là sáng. Trong cái sáng lặng bóng nó hiện toàn thân.
Quí dị thiên nhiên quýnh xuất luân. “Quí” là sáng, “dị” là khác, “quýnh xuất luân” là vượt khỏi bình thường. Cái giàu sẵn vậy khác hơn là vượt khỏi tất cả cái giàu sang bình thường của người đời.
Gia phú nhi nô thiên đắc lực. “Gia phú” là nhà giàu, “nhi nô” là con tôi tớ. Cha giàu mà con là tôi tớ riêng được chỗ đắc lực. Cha giàu dụ cho ông Trưởng giả trong kinh Pháp Hoa, con tôi tớ dụ cho gã cùng tử chịu làm tôi tớ. Nhưng nếu người con tôi tớ hiểu được việc nhà rồi tức là đã đắc lực thì ông cha:
Dạ phân đăng hỏa chiếu tây lân. Ban đêm chia đèn lửa để chiếu rọi xóm gần. Nếu đứa con nghèo khi có sức mạnh hoặc có khả năng quản lý được gia nghiệp rồi thì người cha liền chia đèn chia lửa để soi sáng cho láng giềng chung quanh.
Trong bài kệ này, hai câu đầu nói lên ý đức Thích-ca Ngài nghèo, bởi vì trong cái sáng lặng lẽ, có cái bóng hiện ra toàn vẹn. Cái bóng đó không thật, không thật thì có gì để chia, có gì để trao! Nhưng trong đó có ngầm cái giàu, không phải cái giàu thông thường của thế nhân, mà cái giàu vượt trên tất cả những cái thường tình. Đó là cái giàu của thiên nhiên sẵn có.
Hai câu sau chỉ cái giàu của ngài Ca-diếp. Ngài Ca-diếp rất giàu. Con cháu của Ngài nghèo nàn, một khi có sức kham nhẫn chịu đựng được, có đủ khả năng gánh vác được thì Ngài trao chia cho đèn lửa để nối tiếp mãi mãi. Danh từ trong đạo thường nói người sau nối tiếp người trước là “tục diệm truyền đăng” nghĩa là nối lửa trao đèn. Tại sao không nói trao ngọc trao vàng mà nói trao lửa trao đèn? Bởi vì chủ yếu của đạo Phật là giác ngộ, mà giác ngộ là trí tuệ, trí tuệ là sáng suốt. Vì chúng sanh bị vô minh mê mờ nên phải trôi mãi trong luân hồi lục đạo. Chỉ có ngọn đèn trí tuệ mới phá được vô minh. Nếu vô minh hết thì chúng sanh ra khỏi dòng luân hồi.
Nói đến sự truyền bá chánh pháp là nói đến sự trao đèn nối lửa để soi sáng cho chúng sanh, cho con người và cho nhân loại. Chúng ta học đạo cốt làm sao thấy được chủ yếu của đạo để trên đường tu khỏi bị lầm lẫn. Nếu học đạo mà không thấy chủ yếu đó, chúng ta cứ nghĩ những phương tiện là đạo, tỉ dụ như bố thí, nhẫn nhục là đạo, đó chưa phải là cứu kính. Mục tiêu của Phật là chúng ta phải có ánh sáng trí tuệ mới cứu khổ được chúng sanh.
Nói đến việc trao đèn, chúng tôi nhớ câu chuyện nhan đề là “Giáo Lý Tối Thượng” của một Thiền sư Nhật Bản: Ngày xưa có một chú mù đi thăm bạn. Vì là bạn cố tri nên gặp lại ngồi nói chuyện mãi quên giờ. Khi ra về trời đã khuya, ngoài trời tối đen, anh bạn thương chú quá, nói:
- Ngoài kia trời tối, để tôi đốt đèn cho anh cầm về.
Anh mù cười nói:
- Tôi thấy ngày như đêm, đêm như ngày, cần gì đèn.
Anh bạn giải thích:
- Tuy anh không cần đèn, nhưng anh nên cầm cây đèn đi, người đi đường thấy được cây đèn họ tránh khỏi đụng vào anh.
Thấy có lý, anh mù nhận cây đèn anh bạn đốt và trao cho. Trên đường về bất thần có người đụng vào anh mù. Người mù than phiền:
- Anh không thấy tôi sao?
Người kia nói:
- Dạ, tôi không thấy.
- Tôi cầm cây đèn mà anh không thấy à?
Người đi đường đáp:
- Thưa bạn cây đèn bạn tắt từ bao giờ!
Qua câu chuyện trên, “giáo lý tối thượng” ở chỗ nào? Để quí vị suy gẫm, chúng tôi sẽ giải thích sau.
Trong nhà thiền, Thiền sư được trao đèn là ngài Đức Sơn. Ngài Đức Sơn sau khi đầu phục, được ngài Long Đàm Sùng Tín nhận làm đệ tử. Một đêm, Ngài đứng hầu thầy trong thất. Mãi tới khuya, ngài Sùng Tín bảo:
- Đêm đã khuya sao ông không xuống?
Ngài Đức Sơn liền bước ra vén rèm lên, bèn trở lại thưa:
- Ngoài kia tối đen.
Nói đến tối đen tức là muốn xin đèn chớ gì? Ngài Sùng Tín liền thắp đèn cầy rồi trao. Ngài Đức Sơn vừa đưa tay cầm cây đèn thì ngài Sùng Tín thổi phụt tắt. Ngay đó ngài Đức Sơn liền ngộ, từ đó về sau không cần đèn nữa. Như vậy trao đèn đó có trao hay không? Tại sao ngài Đức Sơn cầm đèn, vừa đưa tay nhận lấy, ngài Sùng Tín lại thổi phụt tắt đi? Đó lại gọi là trao đèn tiếp lửa. Trao ở chỗ nào? Nếu hiểu câu chuyện này thì hiểu câu chuyện trên.
Trong câu chuyện trước, người bạn thương người bạn mù quá nên đốt đèn cho anh cầm tay để tránh tai nạn. Đã là mù thì dù có đèn cũng là vô ích, nó tắt hay còn cháy, có biết đâu! Bởi vậy nên đèn tắt lúc nào cũng không biết! Khi sáng mắt rồi đưa đèn mới hữu dụng.
Cũng như vậy, nếu ngài Huệ Khả không đứng lạnh ngoài tuyết trước sân Thiếu Lâm thì Tổ Đạt-ma đâu có trao đèn cho Tổ Huệ Khả. Khi đủ khả năng đủ sức nhận rồi mới trao. Nhưng trao mà không trao. Trao đèn cho người lúc họ đi đêm, nếu sáng ngày thì họ đâu có cần nữa. Vì vậy nơi chúng ta nếu không phát sáng được cái Vô sư trí thì dù thầy dù bạn có muốn cho chúng ta sáng, sáng cũng không nổi. Cái học ngôn ngữ lý thuyết nơi thầy nơi bạn không cứu được cái mê của chúng ta. Muốn cứu được cái mê của chúng ta, chính cái Vô sư trí phải phát. Khi nào phát được cái Vô sư trí, lúc đó mới được trao đèn. Trao đèn là trao như vậy, nên mới gọi là giáo lý tối thượng. Còn nếu Vô sư trí chưa phát mà trao cũng vô ích thôi. Hiểu như vậy quí vị mới hiểu nghĩa trao đèn tiếp lửa, trao mà không trao gì hết. Bởi vậy mới có câu chuyện sau này:
Có vị Tăng hỏi Thiền sư Cư Hối:
- Tổ Đạt-ma lại là Tổ chăng?
Ngài Cư Hối đáp:
- Chẳng phải Tổ. (Trả lời coi ngang ngược quá!)
- Đã chẳng phải Tổ lại đến làm gì?
- Vì ông chẳng tiến. (Vì ông chẳng tiến được, nên Ngài sang.)
Vị Tăng liền hỏi:
- Sau khi tiến thì thế nào?
Ngài Cư Hối đáp:
- Mới biết chẳng phải Tổ.
Câu này thật là hay! Sau khi tiến được mới biết chẳng phải Tổ. Ngài Đức Sơn vì tiến không được, thấy ngoài trời tối đen, nên cần đèn. Cần đèn thì thầy đốt cho. Đốt cho rồi liền thổi phụt tắt. Tắt rồi mới tiến được. Tiến được mới thấy thầy có trao đèn cho mình không? Khi chưa tiến được thì mong thầy trao cho mình một cái gì, cho nên còn thấy có Tổ. Khi tiến được rồi thì còn gì nữa mà trao? Mới biết không phải Tổ. Không phải Tổ mà là Tổ. Cái đó mới là lạ lùng.
Qua câu chuyện trên, cũng ngài Tử Thuần có làm bài kệ:
Thiếu Lâm tục diệm sự kham kỳ,
Lạp dạ phương khai tuyết hậu chi
Hoàng Bá tích niên tằng hữu ngữ,
Đại Đường quốc lý một Thiền sư.
Dịch:
Thiếu Lâm tiếp lửa việc lạ kỳ,
Tháng chạp tuyết rơi sau mới chia
Hoàng Bá năm xưa từng đã nói,
Đại Đường cả nước không Thiền sư.
Tại sao cả nước Đại Đường mà không Thiền sư? Bởi vì nói Tổ thì người ta cứ nghĩ như ở ngoài thế gian, ông Tổ thợ mộc thì dạy cách làm mộc, phải đục đẽo như thế nào, cần những đồ nghề gì. Ông Tổ thợ rèn chỉ dạy cách làm thợ rèn. Còn ông Tổ trong nhà Thiền dạy chúng ta cái gì? Truyền cho chúng ta cái gì? Không có một pháp cho người, mà dạy cái gì, truyền cái gì? Đã không có dạy, không có truyền thì gọi là Tổ được không? Tuy không dạy, không truyền mà vẫn là Tổ. Mới nhìn qua coi như không phải Tổ, vì mỗi người chúng ta đã sẵn có cái chân thật đó rồi chớ không phải Ngài cho, nên nói không phải Tổ. Nếu không có sẵn, dù Ngài chỉ Đông, vẽ Tây, thì chắc rằng chúng ta cũng không thấy được cái chân thật đó, cho nên nói không phải Tổ mà là Tổ. Cũng như vậy, ngài Hoàng Bá nói cả nước Đại Đường không có Thiền sư, chỉ tạm gọi là Thiền sư.
Ý nghĩa của bài kệ như sau:
“Thiếu Lâm tục diệm sự kham kỳ.” Sự truyền đăng tục diệm ở Thiếu Lâm rất lạ lùng. Sự đó phát xuất từ lúc nào? “Lạp dạ phương khai tuyết hậu chi”: sau đêm tháng chạp tuyết lạnh mới nở được hoa, nên nói: Tháng chạp tuyết rơi sau mới chia tức là chia đèn tiếp lửa sau đêm tuyết ở Thiếu Lâm. Như vậy chúng ta thấy rằng việc truyền thừa của chư Tổ là mồi đèn tiếp lửa để soi sáng mãi mãi cho chúng sanh ở thế gian.
Vì lẽ vừa nêu trên, chúng tôi đặt tên Thiền viện Thường Chiếu. Nếu nói Thường Chiếu suông thì thấy nó lơ lửng quá! Vậy cái gì Thường Chiếu? - Tuệ Nhật Thường Chiếu hay Tuệ Đăng Thường Chiếu, nghĩa là truyền đèn tiếp lửa. Trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn có câu: “tuệ nhật phá chư ám” tức là mặt trời trí tuệ phá hết mọi tối tăm, mà Thường Chiếu là phá ám chớ gì? Vì thế chúng ta phải hiểu cho tường tận chủ đích của người trước. Thường Chiếu theo tinh thần nhà thiền là ngọn đèn, ngọn đuốc hay là mặt trời trí tuệ mãi mãi soi sáng không bao giờ gián đoạn. Chúng tôi có tham vọng muốn chia đèn tiếp lửa từ thuở Phật Tổ, nối mãi mãi đến bây giờ và về sau, để soi sáng chúng sanh không để bị gián đoạn, tắt dứt. Tuy hiện giờ có soi chút chút, nhưng nếu mai kia khi tôi mất rồi, quí vị phải tiếp tục soi sáng mãi mãi đừng để nó gián đoạn, nếu gián đoạn thì mất ý nghĩa Thường Chiếu rồi. Chủ đích của người tu Phật là dùng ánh sáng trí tuệ để soi sáng chúng sanh phá tan màn vô minh đen tối, giúp chúng sanh thoát khỏi dòng trầm luân sanh tử. Vì vậy mà tôi thích tên Chiếu. Có người cười bảo là chiếu lác chiếu rơm gì đó, vì không rõ mục tiêu tôi nhắm với tham vọng hơi nhiều. Chúng tôi mong rằng quí vị có mặt hôm nay, trong ngày đầu năm, ý thức được bổn phận và mục đích của mình. Biết được mục đích rồi lúc nào chúng ta cũng nhắm thẳng mục đích đó. Hòa thượng Viện trưởng đã dạy chúng ta: Làm việc gì một thời gian rồi, phải tự hỏi lại mình xem có đi đúng mục đích của mình hay không? Vì danh lợi hay vì cái gì? Phải luôn luôn hỏi lại mình để nhắc mình đi đúng mục tiêu mà mình đã nhắm.
Ở đây, chúng tôi nhắm mục tiêu “Phật Tổ tương truyền”. Chúng ta đã thừa hưởng ánh sáng mặt trời đó, chúng ta nên đem ánh sáng ấy soi lại cho những người chung quanh và những người sau để cùng sáng với chúng ta. Có những khi cần giảng chữ Thường Chiếu, tôi giảng có tính cách nhè nhẹ để người ta không thấy tham vọng của mình, tôi nói Thường Chiếu là tên của một Thiền sư Việt Nam. Bây giờ cần nói sâu nguyện vọng của mình, tôi nói là Tuệ Nhật Thường Chiếu hay Tuệ Đăng Thường Chiếu, chớ không phải là chuyện thường. Hôm nay tôi nêu ra cho tất cả quí vị thấy bản hoài của người tu phải đạt cho kỳ được cái gì mà Phật Tổ mong muốn nơi chúng ta.
Phần kết luận bài nói chuyện hôm nay là lời chúc xuân đầu năm của tôi với Tăng Ni và Phật tử, tôi xin nhắc lại lời của người xưa:
Bất đạp kim thời lộ,
Thường du kiếp ngoại xuân.
Tức là không giẫm trên con đường hiện thời, thường dạo một mùa xuân kiếp ngoại. Kiếp ngoại xuân là gì? Kiếp là chỉ cho thời gian, như nói một đời, một kiếp. Hoặc trong kinh nói tiểu kiếp, trung kiếp, đại kiếp chỉ cho thời gian dài thăm thẳm. Kiếp ngoại xuân là xuân vượt ngoài thời gian, năm, tháng. Nói tới xuân là nói tới thời gian. Nhưng nếu chúng ta không giẫm trên con đường hiện thời là chúng ta hưởng được mùa xuân ngoài thời gian, còn gọi là mùa xuân miên viễn. Vì sao không đạp trên con đường hiện thời? Con đường hiện thời chỉ cho con đường mà chúng sanh đang tranh đua chen lấn nhau đi, đó là con đường danh, lợi, tài, sắc v.v… Nếu chúng ta không đạp trên những con đường đó thì chúng ta sẽ hưởng được một mùa xuân kiếp ngoại, mùa xuân miên viễn không còn bị lệ thuộc thời gian. Hai câu này chúng tôi tạm dịch theo thể văn lục bát:
Chẳng đi theo bước đương thời,
Mùa xuân kiếp ngoại thảnh thơi dạo hoài.
Hôm nay, ngày đầu năm Đinh Mão, chúng tôi mong rằng tất cả Tăng Ni cùng Phật tử sẽ hưởng một mùa xuân miên viễn. Làm sao một đời này chúng ta luôn luôn được an vui, không còn cảm thấy khổ đau vì ngoại cảnh, vì cái đuổi xua của quỉ vô thường, mà chúng ta hằng vui trong một mùa xuân kiếp ngoại hay nói cách khác là một mùa xuân miên viễn.
AN LẠC SAU KHI BỨNG GỐC KHỔ ĐAU
Bài nói chuyện với Phật tử - Xuân Đinh Mão 1987
Hôm nay là ngày Tết Nguyên Đán năm Đinh Mão 1987, quí Phật tử đến chùa lễ Phật và chúc mừng năm mới quí thầy. Để đáp lại lòng kính trọng Tam Bảo của quí Phật tử, chúng tôi sẽ có lời chúc đầu năm hơi dài dòng một chút, không chỉ một câu ngắn gọn rồi thôi, lời chúc này gồm nhiều chi tiết. Hôm nay đầu đề chúng tôi chúc là: Cầu Tam Bảo gia hộ cho tất cả Phật tử một năm mới hoàn toàn an lạc.
Khi nói đến an lạc, trước phải nói đến đau khổ. Nếu nói an lạc suông, quí vị lại tưởng là mình thảnh thơi lắm, rồi không cố gắng tu hành. Vì vậy khi chúc quí Phật tử một năm mới hoàn toàn an lạc, chúng tôi sẽ nói rõ nguồn gốc đau khổ của con người hiện tại và vị lai. Nếu biết được nguồn gốc đau khổ, mình nhổ phăng bứt gốc bứt rễ nó lên thì an lạc sẽ đến, an lạc thật sự.
Tất cả Phật tử chúng ta là con Phật phải nhìn thấy đúng như cái nhìn cái thấy của đức Phật. Sau khi giác ngộ rồi, đức Phật thấy rõ được bản chất của con người như thế nào, Ngài đem ra chỉ dạy để chúng ta thức tỉnh biết rõ được con người mình. Khi biết rõ được con người mình thì chúng ta mới biết làm sao để hết khổ và làm sao để đến an lạc thật sự, đó là gốc của sự tu. Nếu chúng ta không biết bản chất của mình là vui hay khổ cứ sống lây lất qua ngày, đua đòi theo những hình thức vật chất, chúng ta phải tạo nghiệp thọ khổ, chẳng những đời này mà còn kéo dài không biết bao nhiêu kiếp nữa. Vì lòng từ bi, đức Phật muốn cho mọi người hết khổ, nên trước tiên Ngài chỉ rõ nguồn gốc đau khổ. Thấy được nó, chúng ta mới có thể đào bới nó lên được. Nếu không thấy nó, chúng ta muốn cầu vui mà cái vui không bao giờ đến, vì chúng ta có biết cái khổ đâu mà bới lên. Thành ra muốn vui mà con người cứ khổ, cái khổ cứ tràn tới mãi mãi. Chính con người ở thế gian đang là như vậy, lúc nào cũng chúc mừng nhau năm mới được an vui hạnh phúc, nhưng đến cuối năm quí vị thấy có an vui hạnh phúc không? Luôn luôn chúc nhau an vui hạnh phúc mà kết quả lại không có an vui hạnh phúc chi hết, mà trái lại nhiều khổ đau, nhiều bực bội. Chúc như vậy chỉ là chúc suông thôi.
Ở đây chúng tôi muốn quí Phật tử thật sự sang năm này là một năm quí Phật tử tạo nên một cội nguồn của sự an lạc. Muốn tạo nên cội nguồn an lạc đó trước tiên quí Phật tử phải biết nguồn gốc đau khổ là cái gì? Biết được nó rồi chúng ta mới có thể bứng gốc bứng rễ nó để thành an lạc.
Nguồn gốc đau khổ là cái gì?
Trong đạo Phật, lúc nào đức Phật cũng muốn chỉ cho mọi người thấy được lẽ thật của kiếp sống con người. Chúng ta cứ tìm những điều quanh quẩn bên ngoài mà những điều đó dù chúng ta thấy được lẽ thật của chúng, cũng là lẽ thật bên ngoài thôi; còn bản thân chúng ta chưa biết chưa thấy đó là một khuyết điểm lớn lao. Vì vậy đức Phật nói rõ bản chất của con người là khổ hay vui? - Khổ! Vừa nghe thoáng qua chúng ta cảm thấy bi quan, nhưng đó là sự thật.
Vì sao bản chất con người là đau khổ?
Đức Phật dạy đau khổ chia ra hai phần:
1. Đau khổ do sự cảm thọ.
2. Đau khổ do lòng tham ái.
Như vậy chúng ta cần xác định lại kiếp sống con người là đau khổ, chớ không phải là an vui. Đức Phật dạy những đau khổ của con người là do:
- Sanh, già, bệnh, chết.
- Ái biệt ly khổ.
- Oán tắng hội khổ.
- Cầu bất đắc khổ.
- Ngũ ấm xí thạnh khổ.
Chúng ta ở trên thế gian này thật là khổ. Trong cuộc sống quí vị muốn một trăm điều, kết quả được bao nhiêu? Nhiều lắm là hai chục điều thôi tức là có hai chục phần trăm được như ý. Đó là tôi nói ưu đó, có khi còn chưa được như vậy nữa! Còn tám chục phần trăm là bất như ý, tức là không toại nguyện, mà không toại nguyện là đau khổ. Nhìn tổng quát, đức Phật nói cuộc đời con người là đau khổ, sanh là khổ. Đó là cái khổ thứ nhất.
Già có khổ không? Có ai nói già mà vui đâu! Già thì thân thể yếu gầy bệnh hoạn, rồi răng rụng da nhăn, chân mỏi gối dùn, đi đứng lụm cụm, đủ chuyện phiền hà, nên nói già là khổ.
Bệnh có vui không? Bệnh là khổ rồi, không ai chối được.
Còn chết thì sao? Là đại khổ!
Như vậy thử kiểm lại ở trần gian này, có người nào thoát khỏi sanh lão bệnh tử hay không? Ai cũng sanh ra rồi già đi, ai cũng phải bệnh hoạn rồi cuối cùng là chết. Không một ai thoát khỏi bốn điều này, cho nên nói kiếp người đau khổ là như vậy.
Đến ái biệt ly: thương mà xa lìa. Những người mình thương rất là thương mà xa lìa, có gì khổ cho bằng! Có người nào khỏi xa lìa thân nhân mình đâu, thân nhất là cha mẹ, vợ chồng, anh em, bạn bè, có lúc cũng phải xa lìa. Như vậy gọi là ái biệt ly khổ. Oán tắng hội khổ: ghét mà gặp mặt nhau cũng khổ. Những người mình không thích, không muốn thấy mặt mà cứ ở ngay trước mắt mình hoài thì làm sao vui được! Cầu bất đắc khổ: mong cầu mà không được như ý cho nên khổ. Cái khổ thứ tám là ngũ ấm xí thạnh khổ. Năm ấm sắc, thọ, tưởng, hành, thức cấu hợp thành thân này, luôn luôn chống đối, bất an cho nên đau khổ.
Tám điều khổ vừa kể trên, chúng ta đều phải đa mang suốt cuộc đời, không thiếu sót một điều nào. Có ai khỏi sanh già bệnh chết? Có ai không xa lìa người thương, không gặp gỡ người mình ghét? Có ai cầu điều gì được điều nấy đâu? Tám điều khổ của con người là sự thật, không chối cãi được. Đau khổ là một lẽ thật không làm sao tránh được, nó luôn luôn theo dõi ép ngặt khiến chúng ta bất an. Nếu có gượng cười gượng vui, chỉ trong giây lát rồi cũng khổ. Ví dụ như khi gặp bạn bè vui tươi chốc lát, đến lúc về nhà đau chân, mỏi lưng… cảm thấy khổ thân. Như gặp người thân thì mừng rỡ, nhắc lại người xa cách thì than khóc. Gặp người mình thích thì tươi cười, gặp người mình ghét thì bực bội. Cả ngày vui buồn thay đổi luôn luôn, điều vui thì ít, đau khổ thì nhiều. Bản chất con người là đau khổ. Đức Phật gọi đó là Khổ đế: Khổ là một lẽ thật không chối cãi được.
Tám điều khổ do đâu mà ra? Gốc từ cảm thọ mà ra. Cảm thọ chia ra làm hai phần:
1. Cảm thọ sai biệt của sáu căn rồi chấp nê sanh đau khổ.
2. Cảm thọ do đuổi theo thú vui rồi giành giật sanh đau khổ.
Vì sao cảm thọ sai biệt của sáu căn gây nên đau khổ? Chúng ta ai cũng có sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Sáu căn này có những cảm thọ ngoại cảnh không giống nhau. Thí dụ như mắt chúng ta nhìn thấy sự vật, nếu vị nào có con mắt nghệ thuật, khi nhìn bình hoa đặt trên bàn thì trầm trồ khen hoa trưng đẹp mắt. Nhưng một người khác không có mắt nghệ thuật nhìn mấy nhánh hoa lưa thưa ngả nghiêng không có gì đẹp cả. Người bảo đẹp, người cho là xấu, hai người không đồng ý nhau rồi sanh bực tức tranh cãi. Con mắt xúc chạm với sắc trần, người thấy đẹp, người thấy xấu là do cảm thọ sai biệt mà ra. Như vậy ai đúng? Nếu không ai đúng thì sao lại tranh cãi? Thật là vô lý. Mỗi người có cái thấy không giống nhau. Do cái thấy khác nhau, rồi không đồng ý với nhau nên sanh cãi rầy. Nguyên do là vì chúng ta không có nhận xét đúng đắn.
Đến cảm thọ sai biệt của lỗ tai. Thí dụ hai ba người bạn ngồi chơi, một người kể chuyện phải quấy trong xóm, rồi nói: Những người nghèo thật đáng thương. Người bạn khá giả nghe nói như vậy thì vẫn bình tĩnh, trong khi người bạn nghèo cho rằng mình bị khinh khi. Cùng nghe một câu chuyện, mà một người thì không bị xúc phạm, còn một người thì bị tự ái, bị mặc cảm. Lời nói có giá trị bằng nhau, nhưng khi nghe rồi sự cảm thọ khác nhau, nên sanh vui buồn khác nhau. Một người cho rằng không có chỉ trích người nghèo, một người cho rằng mình nghèo nên bị khinh khi, hai người không đồng ý nhau nên sanh cãi vã. Đó là do sự cảm thọ sai biệt của lỗ tai.
Sự cảm thọ của mũi có giống nhau không? Như người miền Nam nghe mùi sầu riêng nói: thơm quá! Nhưng người miền Trung bảo: hôi quá! Cùng một mùi sầu riêng người nói thơm, người nói hôi. Như vậy ai đúng? Người nói mùi sầu riêng là thơm sẽ cãi với người kia. Người nói mùi sầu riêng là hôi sẽ cãi lại. Hai người sẽ đi đến ẩu đả nhau. Ai đúng? Ai sai? Người bàng quan ngoại cuộc nếu ở miền Nam thì cho rằng người ngửi thơm là đúng, nếu ở miền Trung thì cho người ngửi hôi là đúng. Do sự huân tập khác nhau nên sự cảm thọ có sai biệt. Sự tranh cãi đúng sai thật là vô ích, không khôn chút nào hết, lại làm buồn lòng nhau, chẳng phải nguồn gốc của đau khổ sao? Buồn giận nhau, không ngó mặt nhau, gọi là oán tắng hội, đau khổ từ đó mà sanh.
Sự cảm thọ của lưỡi cũng khác nhau! Thí dụ cô đầu bếp làm thức ăn. Cô nấu canh nêm nếm đàng hoàng rất là vừa ý. Nhưng vì cô quen ăn mặn nên những người quen ăn lạt chê là nêm canh quá mặn. Cô đầu bếp tức giận nghĩ mình nấu nướng kỹ lưỡng, nêm nếm vừa ăn lắm mà còn bị chê trách! Chung qui chỉ vì thói quen của cái lưỡi người quen ăn mặn, người quen ăn lạt mà thôi. Người quen ăn mặn cảm thấy vừa miệng thì người quen ăn lạt cho là mặn và ngược lại, người quen ăn lạt cảm thấy vừa ăn thì người quen ăn mặn cho là lạt. Như vậy lấy đâu làm tiêu chuẩn? Vì sao lại cãi nhau cho sự cảm thọ của mình là đúng? Mỗi người có khẩu vị khác nhau. Cùng một thức ăn, người khen ngon, người chê dở. Người thích món ăn này, người thích món ăn kia, vì mỗi người có cảm thọ riêng biệt theo thói quen của mình. Chẳng những chúng ta có thói quen đời này mà còn cả thói quen của đời trước nữa. Thí dụ có người khi cha mẹ sanh ra chỉ ăn chay lạt, không ăn thịt cá được. Vì lý do gì? Có phải là cảm thọ quá khứ còn lại, nên không thích mùi thịt cá. Lại có người cha mẹ bảo ăn chay, thì thích dùng thức ăn mặn. Như vậy là do thói quen của mọi người, hoặc ở hiện tại, hoặc đã huân tập trong quá khứ. Chúng ta không nên chủ quan bắt buộc người khác phải giống mình. Nhưng ở trên thế gian này phần đông chúng ta đều chủ quan muốn ai cũng giống mình, nhất là con cái trong nhà. Nếu con trong nhà làm khác ý cha mẹ, cha mẹ sẽ bực tức giận trách rầy la, tạo bao điều đau khổ trong gia đình. Tất cả cũng do sự cảm thọ sai biệt mà ra.
Cảm thọ của thân như thế nào? Cũng riêng biệt tùy theo mỗi người. Thí dụ: Hai người ở chung một căn phòng, một người mập béo, một người gầy ốm. Căn phòng có một cửa sổ, khi trời vừa mát người gầy ốm cảm thấy lạnh vội đi đóng cửa sổ… Người mập béo nghĩ thế nào? Cảm thấy bực bội, khí trời nóng bức vừa dịu mát lại đóng cửa sổ, không giận sao được! Rồi hai người cãi vã nhau, có khi đi đến ẩu đả. Như vậy lẽ thật ở đâu? Đó là do cảm thọ sai biệt của thân nên người ta bất đồng ý với nhau rồi sanh bất hòa, đó là nguồn gốc đau khổ.
Thứ sáu là cảm thọ của ý. Điều này là quan trọng hơn hết. Cảm thọ của ý là gồm nghiệp của quá khứ và thói quen của hiện tại. Mỗi người chúng ta sống trong hoàn cảnh gia đình và xã hội khác nhau nên được sự giáo dục và hiểu biết khác nhau. Người thấy thế này là phải, người thấy thế kia là phải. Thí dụ: Một người sanh trong gia đình theo đạo Phật từ thuở bé, một người sanh trong gia đình theo đạo Chúa từ thuở bé. Hai người ngồi nói chuyện với nhau, do sự huân tập khác nhau nên có những cảm nghĩ khác nhau. Người tin Chúa cho đạo Chúa là đúng, không chấp nhận đạo Phật. Người tin Phật cho đạo Phật là hay, không chấp nhận đạo Chúa. Hai người tranh luận với nhau, có những quan điểm bất đồng, bực bội cãi vã lẫn nhau. Đó là nguồn gốc của đau khổ. Đến đời sống của vợ chồng trong gia đình cũng vậy. Người chồng có sự huân tập của người nam, lo việc rộng lớn ngoài xã hội, người vợ có sự huân tập của người nữ, lo việc tỉ mỉ trong nhà. Hai vợ chồng có hai huân tập khác nhau, nên thường không đồng ý kiến với nhau. Ai cũng thấy mình là đúng, người kia là sai, nên không ai chịu thua ai, cuối cùng đi đến ly dị, hậu quả là con phải chịu đau khổ! Nguyên do từ đâu? Chỉ do sự cảm thọ sai biệt, rồi chấp chặt cho quan niệm của mình là đúng, bắt người khác phải nghe phải thấy như mình, phải có những cảm nghĩ những hiểu biết như mình. Nếu không đồng ý nhau thì lắc đầu than thở: Sao không có ai là bạn tri kỷ với mình! Thử hỏi trên thế gian này có mấy người tri kỷ giống mình như một? Chắc là không rồi, vậy mà buộc lòng phải sống chung nhau thật là quá đau khổ!
Thế thì phải làm sao cho hết đau khổ! Chỉ đừng chấp nê là hết đau khổ! Cùng một mùi trái cây tôi ngửi cho là thơm cũng đúng, chị cho là hôi cũng đúng theo thói quen của mỗi người, như vậy hòa nhau, tránh được sự tranh cãi. Cùng một thức ăn chị nếm nghe mặn, tôi nghe lạt, cả hai đều đúng theo thói quen của cả hai, tất nhiên hòa nhau không có tranh cãi v.v… Nếu còn chủ trương sai biệt cho mình là đúng, người là sai, là còn tranh cãi, còn đau khổ. Nhận chịu sự đau khổ là khôn hay không khôn? Quả thật không khôn. Nhưng nếu ai bảo là mình ngu thì mình lại nổi giận lên, có phải là mâu thuẫn không? Nếu còn chấp nê là còn đau khổ. Hiểu như vậy rồi, chúng ta phải thông cảm với nhau, bỏ qua tất cả những sự sai biệt để sống hòa thuận với nhau từ trong gia đình đến ngoài xã hội. Nếu biết chấp nê là sai quấy thì phải mạnh dạn dẹp tự ái đến xin lỗi người, làm hòa với nhau thì cuộc đời sẽ bớt được nhiều đau khổ.
Những người đến tôi để thưa kiện, đều than không ai thông cảm với mình hết. Vì chấp sự cảm thọ của mình là đúng thì làm sao có người thông cảm với mình được! Nếu buông tất cả chấp nê thì mọi người đều thông cảm với mình. Chúng ta tu phải biết rõ lẽ thật đó, bỏ tất cả sự chấp nê do cảm thọ sai biệt, thì đau khổ tự dứt. Không phải cầu Phật ban cho điều gì, không phải cầu xin nơi miếu này lăng kia, mà phải biết rõ nguồn gốc của đau khổ là do sự cảm thọ sai biệt của sáu căn, rồi chấp chặt vào đó, rồi tranh đấu, giành giật, hơn thua với nhau, cuối cùng là đau khổ. Biết như vậy chúng ta buông xả tất cả sự chấp nê là chúng ta hết đau khổ.
Nguyên nhân thứ hai của đau khổ là đuổi theo thọ lạc. Hiện giờ chúng ta đang sống, ai cũng muốn cuộc đời được hạnh phúc. Thử hỏi quí vị cái gì là hạnh phúc? Chúng ta chỉ nói đến hạnh phúc mà không biết cái gì là hạnh phúc? Được ăn ngon, mặc đẹp là hạnh phúc chăng? Được nhiều tiền của, ở nhà to rộng là hạnh phúc chăng? Được những gì mình mong muốn là hạnh phúc chăng? Quí vị thử kiểm lại những điều đó có phải là hạnh phúc thật hay không? Con người ai cũng mơ ước hạnh phúc, mơ ước mãi mà không bao giờ toại nguyện. Vì sao? Thí dụ: Khi đang đói chúng ta nghĩ có một bữa cơm ngon, hạnh phúc biết mấy! Nhưng khi được bữa cơm ngon, ăn đầy đủ rồi, hạnh phúc còn không? Hạnh phúc qua mất rồi! Như vậy hạnh phúc chỉ có trong chốc lát thôi, rồi qua mất không còn. Đang đi bộ, chúng ta nghĩ được một chiếc xe đạp đi, chắc là hạnh phúc lắm. Nhưng khi được chiếc xe đạp đi lọc cọc ba bốn hôm rồi nó hư, lúc đó có hạnh phúc không? Như vậy hạnh phúc không bền, không thật, mà thế gian cứ đuổi theo cho nó là bền là thật! Hạnh phúc qua rồi mất, đuổi theo cái qua rồi mất thì hạnh phúc ấy quả là không thật. Biết hạnh phúc không thật mà chúng ta mơ ước nó hoài, thì mơ ước đó trở thành hão huyền.
Khi chúng ta mơ ước một điều gì, nghĩ rằng khi được nó hạnh phúc biết bao! Nhưng khi được rồi, còn hạnh phúc nữa không? Có gì hạnh phúc hơn, khi làm mệt nhọc được nằm nghỉ một chốc lát, hạnh phúc biết mấy? Nhưng nếu bị bắt buộc nằm một ngày, còn hạnh phúc hay không? Nếu nằm một ngày không được đi đâu, lúc ấy cũng bực bội. Thành thử hạnh phúc không có thật, nó chỉ có trong một giai đoạn nào thôi. Thí dụ chúng ta đang gánh gồng hết sức là nặng, nếu có ai đỡ gánh giùm mình, lúc ấy chúng ta cảm thấy nhẹ bổng lên, hạnh phúc biết mấy! Nhưng nếu hết gánh rồi đi một lúc, chúng ta không còn thấy hạnh phúc nữa. Như vậy hạnh phúc chỉ có trong chốc lát. Trong lúc khổ đau, qua được cơn khổ đau tạm gọi là hạnh phúc. Hạnh phúc là do qua cơn khổ đau, chớ nó không có thật. Cái không thật mà chúng ta tưởng chừng cả đời hưởng hoài thì làm sao có được.
Chúng ta hiện giờ mong mỏi ước mơ là mong mỏi ước mơ cái gì? Ước mơ hạnh phúc. Ước mơ hạnh phúc là ước mơ được: một là ăn ngon, hai là mặc đẹp, ba là được những nhu cầu sung túc, bốn là được tiền bạc dồi dào, năm là được gia đình sung sướng vui vẻ v.v… Những điều ước mơ đó được rồi mất, không còn nguyên vẹn mãi. Như vậy hạnh phúc có hay không? Chúng ta mong muốn những điều đó phải lâu bền mãi mãi, nhưng trên thế gian này đâu có điều gì lâu bền mãi mãi. Như vậy suốt cuộc đời mình bị chúng chỉ huy sai sử. Như mỗi sáng thức dậy, chúng ta chuẩn bị lo cho bữa ăn sáng, rồi đến bữa trưa và bữa chiều. Chúng ta chạy loanh quanh tìm kiếm những thức ăn cho vừa miệng, tức là suốt ngày chạy theo cái thọ lạc của lưỡi. Những thức ăn vừa miệng khi để vào lưỡi có cảm giác ngon, nhưng khi nuốt qua rồi cảm giác ấy không còn nữa. Như vậy mà chúng ta cứ chạy theo cái thọ lạc, chạy mãi không có ngày cùng, cho đến ngày nhắm mắt cũng chưa vừa ý.
Đến cảm thọ của lỗ mũi, lỗ tai, con mắt cũng vậy. Cái nhà nhìn thấy phải đẹp, chậu hoa, chậu kiểng phải vừa mắt v.v… Như vậy con người chạy tìm cái thọ lạc suốt cuộc đời không có ngày cùng. Thọ lạc là tạm bợ giả dối không thật. Đuổi theo thọ lạc tức là gởi gắm, hiến dâng đời mình cho cái giả dối. Vậy mà chúng ta thấy hài lòng chạy theo nó từ năm này sang năm khác, rồi cả một cuộc đời bị thọ lạc của sáu căn sai sử. Cả một cuộc đời chạy theo thọ lạc, nếu có ai ngăn chận thì nổi giận ngay. Thí dụ: Đi chợ thấy bó rau ngon, chúng ta vừa ngồi xuống lựa, chợt có người đến mua trước, thì cãi vã nhau liền. Có chậu kiểng đẹp chưa kịp hỏi giá, chợt có người khuân đi, chúng ta bực bội ngay. Chỉ vì thọ lạc của sáu căn mà chúng ta giành giật, hơn thua, tranh đấu với nhau cả đời không dứt. Có phải thọ lạc đã chỉ huy lôi cuốn cả cuộc đời mình không? Cũng vì thọ lạc mà chúng ta phải hận thù oán ghét lẫn nhau. Cảm thọ lạc nguyên là vô thường. Vì cái vô thường đó chúng ta lại gây chuyện hơn thua, phải quấy, tranh giành với nhau, có phải là việc làm đúng chân lý hay không? Vậy mà chúng ta bị nó chi phối hoàn toàn không còn giây phút nào rảnh rỗi. Quí vị thường nói: cả ngày tôi không rảnh, là tại sao? Chỉ vì đuổi theo thọ lạc: muốn ăn mặc vừa ý, muốn thấy nghe vừa ý v.v… rồi chúng ta xoay quanh hết ngày này đến tháng kia không rảnh phút nào. Cảm thọ đã chỉ huy cả một cuộc đời chúng ta, lại gây ra bao nhiêu hận thù đau khổ!
Ái cũng là nguồn gốc của khổ đau. Trong nhà Phật, ái chia làm ba thứ:
1. Ái ngã.
2. Ái thân thuộc.
3. Ái sự nghiệp tiền của.
Ái ngã là khổ. Có ai không tự thương mình đâu, dù mình có xấu đi nữa, con mắt lệch một bên hay lỗ mũi xẹp một chút, mình cũng thương mình. Nếu biết mình đẹp, thì mình càng thương mình hơn nữa, ái ngã chặt hơn nữa. Vì thương mình nên những gì mình muốn mà không được thì khổ. Như mình muốn trẻ nghe nói già là rầu, mình muốn khỏe mạnh mà bị bệnh hoạn là khổ, mình muốn sống lâu nghe nói sắp chết lại càng đau đớn. Vì quá thương mình cho nên bị bốn cái sanh già bệnh chết làm khổ. Ái ngã là gốc của bốn khổ vậy.
Ái thân thuộc có hai cái khổ. Một là ái biệt ly khổ. Vì quá thương người thân thuộc mà phải chia lìa nên chúng ta đau khổ. Có ái thì có tắng, tức là có yêu thì có ghét theo sau. Nên người nào yêu nhiều thì ghét cũng nhiều. Vì yêu nhiều nên người mình yêu mình thương tha thiết, người mình ghét mình cũng ghét đắng cay không muốn nhìn mặt. Vì vậy mình khổ với người mình thương bao nhiêu, mình cũng khổ với người mình ghét bấy nhiêu. Cho nên ái biệt ly khổ đi đôi với oán tắng hội khổ. Đó là hai cái khổ do ái thân thuộc.
Ái tài sản sự nghiệp cũng là nguồn gốc của đau khổ. Có ai muốn gia sản của mình càng ngày càng kiệt quệ đâu! Ai cũng muốn gia sản của mình càng ngày càng to lớn. Muốn mà không được như ý thì đau khổ, tức là cầu bất đắc khổ.
Như vậy quí vị thử kiểm điểm lại có phải tám cái khổ của chúng ta đều nằm trong ái mà ra: ái ngã, ái thân thuộc và ái sự nghiệp tiền của. Ái của mình cạn thì tám cái khổ theo đó mà chết.
Thấy rõ gốc của đau khổ, chúng ta phải làm cách nào nhổ cái gốc đó lên. Trong nhà Phật dạy muốn nhổ gốc của đau khổ, nghĩa là muốn dứt khổ, chúng ta phải thấy rõ bản chất của thọ và ái cho tường tận. Thử hỏi quí vị cảm thọ khổ và cảm thọ vui có thật hay không? Cảm thọ của sáu căn qua rồi mất, đâu có thật! Thí dụ một bài hát thật là hay, khi nghe qua lỗ tai rất là thích thú, nhưng nghe hát qua rồi mất, đâu còn mãi bên tai. Một thức ăn ngon ăn rất vừa miệng, nhưng khi qua lưỡi rồi cũng mất, có còn mãi đâu v.v… Bản chất của tất cả cảm thọ là vô thường, tức là tạm bợ giả dối. Biết rõ cảm thọ là vô thường giả dối, chúng ta ưng làm tớ đuổi theo nó, hay muốn làm chủ không lệ thuộc vào cảm thọ? Nếu giành được quyền làm chủ cảm thọ thì vui, nếu bị cảm thọ làm chủ thì khổ. Quí vị nên can đảm chọn quyền làm chủ cảm thọ thì trọn một năm nay nhất định quí vị hết khổ, hoàn toàn an lạc.
Bản chất của ái có thật hay không? Ái là thương, thương yêu là nghĩ tới thân này nó lâu dài bền bỉ, nhưng bản chất của thân là vô thường. Thương yêu nó chỉ là thương yêu cái tạm bợ mà thôi. Thương yêu sự nghiệp cũng vậy, sự nghiệp là vô thường, thương yêu thân thuộc, thân thuộc cũng là vô thường. Những điều mình thương yêu đó đều vô thường, không có bền lâu. Chúng ta lại thương yêu những cái vô thường hay sao? Hay là chúng ta thương yêu cái gì lâu dài vĩnh cửu? Thí dụ khi đi chợ mua những vật cần dùng quí vị chọn những thứ bền tốt hay những thứ tạm tạm xài vài ba hôm rồi lại hư? Dĩ nhiên chúng ta lựa những vật dùng bền tốt, những gì tạm tạm chúng ta không mua. Cũng như vậy, biết thân là vô thường, sự nghiệp là vô thường, những người thân thuộc là vô thường, chúng ta ôm ấp thương yêu chúng nó để làm gì? Khi những giọt mưa từ mái nhà rơi xuống nổi lên những bong bóng lóng lánh, quí vị thương chúng nó hay không? Nếu thương, chúng nó bể thì sao? Bong bóng nước cũng lóng lánh, hạt kim cương cũng lóng lánh, cả hai đều lóng lánh, quí vị thương cái nào hơn? - Thương hạt kim cương hơn, tại sao? Vì nó lâu bền. Chúng ta thương cái gì lâu bền. Như vậy thân này vô thường, sự nghiệp vô thường, những người thân thuộc của mình cũng vô thường thì mình phải thương hay không? Mình thương cái nào không vô thường, cái giải thoát không sanh tử, đó mới là cái mình thương. Những cái vô thường chúng ta thương hoài cũng không được gì, vì chúng nó sẽ hoại và sẽ mất. Chúng ta đeo đuổi cưu mang cái vô thường, hay đeo đuổi cưu mang cái thoát khỏi vô thường? Có một cái thoát khỏi vô thường chúng ta không thương, lại thương cái vô thường làm gì?
Chúng ta học đạo phải dùng trí nhận xét thấy cái gì bản chất là vô thường là tạm bợ thì cái đó không có giá trị, qua rồi mất mà có giá trị gì! Đã không giá trị, chúng ta đeo đuổi, cưu mang nó làm gì? Cái làm cho mình được mãi mãi an vui tự tại giải thoát, cái đó mới là chân thật. Biết cái vô thường rồi, chúng ta phải xoay lại cái chân thật vĩnh cửu. Khi trước, chúng tôi hay kể câu chuyện “Cô Công chúa nũng nịu”. Thuở xưa có cô Công chúa rất được vua cha yêu quí. Một hôm nhân buổi trời mưa, Công chúa ngồi nhìn những giọt nước từ mái nhà rơi xuống, làm nổi lên những bong bóng rất đẹp, Công chúa thích quá nhưng không nói, vì bản chất hay làm nũng Công chúa vào phòng nằm, mặt mày ủ dột. Nhà vua có Công chúa là con duy nhất, thương con vô cùng. Đến giờ cơm, thấy con không ra dùng bữa, nhà vua nóng ruột vào phòng thăm hỏi: Con ốm hay sao, không ra dùng cơm? Công chúa không trả lời. Đến lượt Hoàng hậu vào năn nỉ, Công chúa cũng không đáp lại. Hỏi han nài nỉ mãi, sau cùng Công chúa nũng nịu thưa: “Con muốn có xâu chuỗi bong bóng nước đeo vào cổ, con mới hết bệnh.” Vua cha chiều con rất mực. Nghĩ mình là vua muốn gì lại chẳng được, nhà vua bèn ra lệnh cho tất cả quần thần: “Ai kết được xâu chuỗi bằng bong bóng nước cho Công chúa đeo thì sẽ được phong quan tước, chia đất đai cho.” Đăng bảng lâu ngày mà không ai dám lãnh. Sau cùng có một ông lão đến gỡ bảng, nhận xâu một chuỗi bong bóng nước cho Công chúa đeo. Ông lão được giới thiệu với Công chúa. Nàng rất đỗi vui mừng nói: “Nếu lão xâu cho tôi chuỗi bong bóng nước để đeo, tôi sẽ hết bệnh ngay.” Ông lão nói: “Thưa thật với Công chúa, tôi già, con mắt lờ, nên lựa không được những hạt bong bóng đẹp. Vậy ngày mai, khi trời mưa, tôi mời Công chúa ra mái hiên chọn những hạt bong bóng nào đẹp nhất, Công chúa lượm đưa tôi xâu cho.” Sáng hôm sau, trời mưa, ông lão và nàng Công chúa ra mái nhà, những giọt mưa từ trên rơi xuống nổi bong bóng, Công chúa đưa tay vớt lấy…, vớt mãi đến trưa mà không được hạt nào! Ông lão đứng chờ, chờ mãi không có hạt bong bóng nào để xâu! Cuối cùng, quá mệt mỏi Công chúa nói: “Thôi, tôi không thích bong bóng này nữa.” Nhà vua mừng quá bảo: “Để ta cho con xâu chuỗi bằng kim cương con đeo.”
Ý nghĩa câu chuyện vừa kể như thế nào?
Tất cả chúng ta có phải là Công chúa đó không? Chúng ta cứ nắm bắt những ảo ảnh vô thường, nắm bắt mãi cả đời mệt nhoài mà chẳng được gì. Rồi chúng ta vào chùa cầu xin Phật cứu con. Đức Phật sẵn lòng từ bi cứu độ, cho chuỗi kim cương thứ thật. Chúng ta chỉ chịu nhận thứ thật khi nào chúng ta đã mệt nhoài với những thứ tạm bợ hư dối. Đức Phật tuy lấy ví dụ một câu chuyện rất trẻ nhỏ nhưng đúng với bệnh của chúng sanh. Chúng ta giống y nàng Công chúa đó. Khi chúng ta thức tỉnh biết trở về với Phật, Phật sẽ chỉ cho chúng ta cái chân thật. Nếu chúng ta sống được với nó, cái chân thật ấy còn mãi, không bao giờ mất.
Người Phật tử muốn hết khổ phải thấy rõ bản chất của đau khổ không có thật. Bản chất của đau khổ là ái và thọ, cả hai đều không thật. Càng đuổi theo chúng càng đau khổ thôi. Nếu biết dừng lại, đau khổ sẽ bớt từ từ cho đến một ngày nào chúng ta lìa hẳn nó, không còn đau khổ nữa.
Nhân nghe câu nào trong kinh Kim Cang mà Lục Tổ ngộ đạo? Trong kinh Kim Cang, Phật dạy phương pháp an trụ tâm: “Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.” Ngay đây Lục Tổ ngộ, rồi từ đó về sau Ngài hết khổ luôn. Muốn sanh tâm cầu Vô thượng Bồ-đề thì đừng dính với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Sáu trần không dính là an trụ tâm. Đó là hạnh phúc tuyệt vời. Nếu còn dính với sáu trần là còn bất an, còn đau khổ. Nếu chúng ta không kẹt không chấp vào cảm thọ của sáu căn, tức là chúng ta được giải thoát.
Cũng chính trong kinh Kim Cang đức Phật có dạy: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Những gì có tướng đều là vô thường, vô thường là tạm bợ, hư dối. Nếu thấy các tướng không phải tướng là thấy Phật. Tại sao? Tỉ dụ hiện giờ thấy một món vật đẹp, chúng ta biết rõ nó là duyên hợp hư dối; một vật gì quí, nó là duyên hợp hư dối, một thức ăn ngon, nó là duyên hợp hư dối. Biết rõ được như vậy, đó là có trí tuệ giác ngộ. Trí tuệ giác ngộ tức là Phật. Thấy tất cả tướng không phải tướng tức là thấy tất cả vật đều không thật, tất cả đều là duyên hợp hư dối. Thấy rõ như thế là thấy Phật, không phải tìm Phật ở đâu xa. Nếu thấy Phật thì hết khổ.
Để kết luận chúng tôi xin nhắc tất cả quí vị, nếu muốn hết khổ chúng ta phải biết rõ bản chất của thọ và ái là vô thường, hư dối. Chúng ta phải diệt hết, nhổ sạch gốc của thọ và ái, thì ngang đó chúng ta được an lạc. Niềm vui không phải từ bên ngoài đem đến, không phải do sự giàu sang sung sướng lắm tiền nhiều của, mà vui vì biết phá bỏ những mê chấp sai lầm. Buông bỏ những sai lầm, đó là trí tuệ tỉnh giác, đó tức là Phật. Tu theo Phật cốt để giác ngộ. Giác ngộ cho nên không lầm không mê, tức nhiên không khổ. Hết ngu mê là sáng suốt, sáng suốt tức là hết khổ.
Nhân ngày đầu xuân năm Đinh Mão, tất cả quí vị đến đây lễ Phật và chúc mừng quí Thầy, quí Thầy cũng chúc tất cả quí Phật tử sang năm mới này hãy can đảm bỏ đi những chấp thọ và buông đi những ái trước. Chấp thọ và ái trước buông bỏ thì nguồn đau khổ cạn, gốc đau khổ được bứng tung lên, ngang đó quí vị sẽ hết khổ. Vì vậy chúng tôi chúc quí vị một năm mới hoàn toàn an lạc sau khi bứng tận cội gốc khổ đau.
HÒA QUANG ĐỒNG TRẦN
Tất niên Đinh Mão - 1988
Hôm nay là ngày hai mươi chín tháng chạp, ngày tất niên của Thiền viện chúng ta. Trong buổi tất niên này, chúng tôi có bổn phận phải nhắc nhở những ưu khuyết điểm trên đường tu của chúng ta. Đặc biệt những khuyết điểm thường được nhắc nhiều hơn để chúng ta tu sửa, làm sao mỗi một năm qua ta dứt sạch những bệnh hoạn, chuẩn bị cho năm tới có sức mạnh tiến tu, không còn bệnh hoạn nữa.
Đề tài chúng tôi giảng hôm nay là Hoà quang đồng trần. “Hoà quang” là hoà ánh sáng, “đồng trần” là đồng với bụi bặm, tức là trộn lẫn ánh sáng vào với bụi bặm. Tại sao chúng tôi giảng đề tài này? Gần đây một số Tăng Ni cũng như Phật tử có bệnh: Thấy mình trong sạch, thấy mình tu nhiều, thấy mình tốt hơn mọi người. Vì thấy như vậy nên trở thành bệnh hoạn. Trong cách thấy đó chia ra hai thứ bệnh:
Bệnh thứ nhất, chính mình không trong sạch mà tưởng mình trong sạch, rồi cho mọi người là bẩn thỉu nhơ nhớp, chỉ có ta trong sạch thôi. Nếu không trong sạch mà tưởng mình trong sạch, đó là bệnh quá lớn. Tại sao vậy? Bởi vì mình không biết điểm khuyết điểm dở của mình, mà chấp điểm khuyết điểm dở của bạn bè huynh đệ. Như vậy tự mình không sửa được, lại còn oán trách những người chung quanh. Người mang bệnh này, bản thân đã không tu tiến được, còn làm cho huynh đệ phiền não. Đó là bệnh rất nặng, rất đáng chê trách. Kinh Phật và chư Tổ thường dạy chúng ta, người tu tại gia hay xuất gia, phải thấy được lỗi của mình và quên lỗi của người khác. Nếu chúng ta không trong sạch mà tự thấy mình trong sạch, đó là không thấy lỗi mình. Đừng thấy lỗi người, mà chúng ta cứ thấy người này xấu người kia dở, đó là chúng ta trái hẳn với lời Phật Tổ dạy. Ai mang bệnh này là một bệnh trầm trọng nhất, khó tiến trên đường tu. Người mang bệnh này có bằng lòng ai đâu! Vì thấy mình trong sạch, mọi người đều xấu dở, cho nên không bằng lòng ai hết.
Bệnh thứ hai, mình thật sự trong sạch rồi chê mọi người nhơ nhớp xấu xa. Lẽ ra mình trong sạch biết mình trong sạch, người khác nhơ nhớp xấu xa thấy họ nhơ nhớp, xấu xa, đó là thấy đúng lẽ thật, vì sao lại nói là bệnh? Vì khi chúng ta trong sạch, thấy mình trong sạch rồi cho mọi người nhơ nhớp xấu xa thì chúng ta muốn gần họ hay không? Mình sạch quá mà gần người dơ xấu thì bị nhiễm làm sao! Vì vậy không muốn gần ai. Nếu không muốn gần ai thì làm sao sống được với người chung quanh. Đó là bệnh. Trên đường tu, chúng ta cố gắng trong sạch bản thân rồi, thấy mọi người đều nhơ xấu nên muốn tránh. Muốn tránh mọi người thì đi đâu đây? Vô núi chăng? Vô núi không ở được thì đi đâu nữa? Vô rừng. Vô rừng không ở được thì đi đâu nữa? Chẳng lẽ lên mây xanh? Chính vì nhìn thấy người xấu xa nhơ nhớp mà chúng ta không thể hòa được, rồi tự khu biệt mình. Sống giữa rừng người mà giống như ở trong sa mạc. Trong nhà Phật gọi đó là bệnh thanh tịnh. Vào đầu thế kỷ thứ ba ở Trung Hoa có ông Khuất Nguyên là quan Tam lư, Đại phu nước Sở, học rộng có tài nhưng vì thấy mình trong sạch quá nên không hoà được với mọi người, khinh rẻ mọi người. Vì vậy ông làm mất lòng vua Sở, bị vua Sở đày xuống Giang Nam. Ở Giang Nam, ông có quen với một ngư phủ là một ẩn sĩ có tài. Khi hai người nói chuyện với nhau, ngư phủ phục Khuất Nguyên về văn học, Khuất Nguyên nể ngư phủ là người thấu đáo việc đời. Một hôm thấy Khuất Nguyên tỏ vẻ buồn bực khổ não, ngư phủ mới hỏi: “Ngài vì sao đến nông nỗi như vậy?” Khuất Nguyên trả lời: “Người đời đục cả chỉ mình ta trong, người đời say cả, chỉ mình ta tỉnh, vì thế mà ta bị đày tới đây.” Khuất Nguyên thấy người đời đục cả chỉ mình ông trong, người đời say cả chỉ mình ông tỉnh. Bởi ông trong, ông tỉnh nên ông bị đày! Khi đó ngư phủ mới nói: “Người đời đục thì Ngài cũng không nên giữ mình trong sạch, người đời say thì Ngài cũng nên uống vài chén cho say luôn thể.” Nghe nói thế Khuất Nguyên bực bội: “Ông nói sao vậy? Không thể nói trắng thành đen hay đen thành trắng được, đá không thể nói là ngọc, ngọc không thể là đá được. Cho đến người trượng phu không thể là kẻ tiểu nhân, kẻ tiểu nhân không thể là trượng phu. Ông nói như vậy thật là lộn lạo!” Ngư phủ mới nói: “Ngài đã một lòng cứu nước, cứu dân, lẽ ra phải trà trộn vào đám tiểu nhân, dần dần cảm hóa họ. Ngài định thay đổi cuộc đời, phải dấn thân vào chỗ tối tăm làm cho sáng. Cớ sao lại cho cuộc đời là bẩn thỉu, người đời là nhơ nhớp?” Khuất Nguyên đáp lại: “Kẻ đã tắm gội thay quần áo, không thể lại nhảy xuống bùn.” Ông cho rằng mình như người tắm gội sạch rồi, mà bắt nhảy xuống bùn, ông không thể làm được. Khi ấy ngư phủ thấy không thể khuyên được nên than bằng những câu hát:
Nước sông Thương Lang trong thay!
Nước sông Thương Lang đục thay!
Nước trong thì ta giặt giải mũ,
Nước đục thì ta rửa chân.
Hát xong, ông chèo thuyền đi. Khuất Nguyên vì quá trong sạch, không chịu đựng nổi, phải ôm viên đá gieo mình xuống sông Mịch La tự tử, nhằm ngày mùng năm tháng năm. Người dân Trung Hoa ăn Tết ngày mùng năm tháng năm để tưởng nhớ ngày Khuất Nguyên trầm mình chết.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy Khuất Nguyên bị bệnh gì? Bệnh thanh tịnh. Vì ông trong sạch nên không muốn hoà với những người nhơ nhớp xấu xa. Nếu không hoà thì mình sống được không? Cuối cùng phải đi tự tử! Như vậy Khuất Nguyên và ngư phủ, ai là người biết sống hơn? Ông ngư phủ là người biết sống. Nếu nước trong thì mình giặt giải mũ, nếu nước đục thì mình rửa chân. Đòi hỏi nước trong, khi nước đục, mình sẽ không dùng được việc gì.
Trở lại việc đạo, đức Phật đã dạy, nếu chúng ta tu hành được thanh tịnh sáng suốt, thì phải thương và nghĩ tới những chúng sanh đang mê lầm, chìm đắm trong biển khổ, lao mình vào đó để cứu độ chúng sanh. Được như vậy mới là người thật tình vì Phật pháp. Nếu cứ nghĩ mình trong sạch, còn thiên hạ xấu xa nhơ bẩn, rồi không muốn gần họ. Không gần với họ thì chính mình tự cô lập mình, không làm lợi gì cho ai được. Trong chúng ta nếu ai đã lỡ bị “bệnh trong sạch”, phải sửa bỏ để vui vẻ hoà nhịp với mọi người.
Chúng tôi vừa chỉ thuốc trị bệnh, nhưng không khéo thuốc cũng thành bệnh. Tại sao? Hoà mình với người là khi mình trong sạch, đem trong sạch ra hoà với những người nhơ nhớp để giáo hóa, chuyển hướng họ trở thành trong sạch như mình. Đó là dùng thuốc trị bệnh. Nếu mình chưa trong sạch mà muốn hoà với người thì kết quả sẽ ra sao? Hoà quang đồng trần, “quang” là ánh sáng, là trong sạch, “trần” là bụi bặm, là nhơ nhớp. Mình sáng, mới đem ánh sáng lại chỗ nhơ nhớp để chuyển nó thành sáng. Nếu mình đang là bụi, đang là nhơ nhớp mà hoà với nhơ nhớp nữa thì kết quả sẽ như thế nào? Thuốc trở thành bệnh. Vì vậy khi dùng thuốc trị bệnh chúng ta phải dè dặt. Nếu mình thật thanh tịnh, phải thương người chưa thanh tịnh, hoà với họ để giáo hóa họ. Chớ thở than rằng mọi người xấu quá làm sao giáo hóa được, mọi người mê quá làm sao cho họ tỉnh được. Mình đã tỉnh, phải tìm mọi cách làm cho người mê được tỉnh; mình đã sạch, phải tìm mọi cách làm cho người nhơ được sạch. Như vậy mới đúng tinh thần của người học đạo, mà cũng chính là nghĩa tự giác giác tha trong nhà Phật.
Nếu thấy người quá xấu xa, chúng ta thở dài chán nản, không bằng lòng ai hết, đó là bệnh. Để trị bệnh này, chúng ta không học gương ông ngư phủ mà phải học gương ngài Bồ-tát Thường Bất Khinh. Bồ-tát gặp ai cũng bái và nói: “Tôi không dám khinh các ngài vì các ngài đều sẽ thành Phật.” Dưới mắt của Bồ-tát Thường Bất Khinh, ai cũng có thể thành Phật. Như vậy có người nào đáng để mình khinh chê đâu. Đáng chê chăng là tự chê mình không có tài, không có phương tiện chuyển hóa người từ mê thành giác. Bồ-tát Thường Bất Khinh lúc nào cũng lạc quan, vì Ngài thấy mọi người đều sẽ thành Phật. Noi gương Ngài, chúng ta gặp ai cũng phải kính nể vì tin rằng ai rồi cũng sẽ thành Phật. Với niềm tin đó, chúng ta cố gắng chuyển hóa mọi người để cùng thành Phật với mình. Dù người không bằng lòng, có đánh mắng, chúng ta vẫn cam chịu và giữ vững niềm tin. Chúng ta cố gắng làm lợi mình, lợi người trong mọi hoàn cảnh. Đó mới đúng tinh thần của người học đạo.
Tranh Thiền tông “Thập mục ngưu đồ” hay “Mười bức tranh chăn trâu”, bức thứ tám là không còn người không còn trâu, bức thứ chín là lá rụng về cội, chim bay về tổ, nước chảy về nguồn, danh từ nhà thiền gọi là nhập Phật giới. Từ chỗ không ngã không pháp (bức tranh thứ tám) bước qua một chặng nữa mới thể nhập được Pháp thân thanh tịnh tràn đầy của chúng ta, gọi là nhập Phật giới (bức tranh thứ chín). Khi chúng ta thể nhập được Pháp thân thanh tịnh rồi, nếu hài lòng ẩn trú trong cảnh tịnh đó là chưa đủ công đức giáo hóa lợi tha. Vì vậy sau khi nhập Phật giới rồi liền phải bước vào ma giới (bức tranh thứ mười). Trong mười bức tranh chăn trâu, bức thứ mười vẽ một Thiền sư đóng cửa am trên núi, tay cầm gậy, tay xách xâu cá chép với bầu rượu đi xuống chợ, gọi là “Nhập triền thùy thủ” tức là buông thõng tay vào chợ. Chính chỗ đó trong nhà thiền gọi là vào ma giới. Khi được thanh tịnh rồi, chúng ta phải lăn mình vào trong chợ đời để cảm hóa chúng sanh, hoà mình với mọi người còn đang mê muội, còn đang xấu xa mà không bị lầm lẫn, không bị hoen ố. Trong nhà thiền còn dùng danh từ là “đầu tro mặt đất”, tức là chúng ta bị bụi bặm nhem nhuốc vì làm lợi ích chúng sanh, chớ không phải chính mình bị bụi bặm làm nhơ nhớp. Giai đoạn này gọi là “hoà quang đồng trần”, tức trộn lẫn ánh sáng trong bụi bặm. Ánh sáng và bụi bặm tuy hoà lẫn, nhưng là một hay là hai? Ánh sáng không là bụi bặm được, ánh sáng bao giờ cũng là ánh sáng. Như vậy chúng ta phải thể nhập được Phật giới rồi mới đi vào ma giới. Nếu chưa vào Phật giới mà đi vào ma giới sớm quá, kết quả sẽ ra sao? Vì vậy sau khi ngộ đạo rồi, ngài Huệ Khả mới đi vào chợ đời, đến quán rượu, nhà hát v.v… Các Phật tử thấy vậy hỏi Ngài: “Hoà thượng tu hành, sao lại đến nơi này?” Ngài đáp: “Ta thử tâm ta, có liên hệ gì đến ông!” Đây là lúc Ngài vào ma giới.
Chúng ta phải thấy rõ là khi nào nên vào ma giới, khi nào không nên. Như chúng ta hiện nay chưa thấy đạo mà vào ma giới là bệnh. Khi chúng ta nhập được Phật giới rồi mới nói đến việc vào ma giới. Nhiều người chưa biết Phật giới, muốn vào ma giới sớm quá, bắt chước các bậc đạt đạo vào chợ đời, ngồi quán rượu và nói “tôi đây vào ma giới, buông thõng tay vào chợ”. Đó là những người dùng ngôn ngữ nhà thiền, ngôn ngữ Phật Tổ để che đậy lòng tham dục của chính mình, chớ không phải người tu chân thật.
Rõ được bệnh, chúng ta phải biết dùng những loại thuốc nào đúng lúc đúng lượng mới mong hết bệnh. Nếu không biết cách dùng thuốc, bệnh không hết mà lại tăng thêm. Trên đường tu hành chúng ta phải biết nên làm gì ở mỗi giai đoạn. Đang lúc nỗ lực tiến tu, buông bỏ các phiền não xấu xa, dù có ai rủ vào ma giới, chúng ta cũng không dám vào, vì việc tu chưa xong. Khi nào chúng ta thật tình thanh tịnh, hoàn toàn không còn nhiễm ô nữa, lúc ấy nếu có ai rủ vào ma giới, chính là lúc mình vào. Phải biết mình cho thật rõ, việc làm mới có lợi ích.
Chúng tôi vừa chỉ cho quí vị biết đâu là thuốc, đâu là bệnh, dùng thuốc đúng thời thì có lợi, nếu sai thời có hại. Vì vậy người tu phải rất thận trọng. Có nhiều người ban đầu tu hành rất hay, sau trở thành dở, vì sử dụng thuốc không đúng thời.
Nói vào ma giới, chúng tôi xin dẫn bài kệ “Nhập Trần” của Tuệ Trung Thượng Sĩ như sau:
Thiều thiều khoát bộ nhập trần lai,
Hoàng sắc mi đầu đỉnh đỉnh khai.
Bắc lí ưu du đầu mã phúc,
Đông gia tán đản nhập lư thai.
Kim tiên đả sấn nê ngưu tẩu,
Thiết sách khiên trừu thạch hổ hồi.
Tự đắc nhất triêu phong giải đống,
Bách hoa nhưng cựu lệ xuân đài.
Dịch:
Vào vòng cát bụi
Vào vòng cát bụi nhịp chân đưa,
Vàng óng đầu mi rực rỡ đùa.
Xóm bắc rong chơi gieo bụng ngựa,
Nhà đông vui bước nhập thai lừa.
Roi vàng đánh đuổi trâu bùn chạy,
Dây sắt lôi về cọp đá thua.
Bỗng được một hôm băng giá hết,
Trăm hoa như cũ rộn xuân xưa.
Trúc Thiên dịch.
Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ là một cư sĩ tại gia, mà đã nói được những câu siêu thoát như vậy! Sau đây là ý nghĩa của bài kệ:
Vào vòng cát bụi là vào ma giới.
Vào vòng cát bụi nhịp chân đưa: là chỉ hình ảnh vị Hoà thượng tay xách xâu cá chép đi vào chợ (Tranh Thiền tông thứ 10).
Vàng óng đầu mi rực rỡ đùa: tuy đi vào cát bụi nhưng đầu mi đầu mày của ngài vẫn rực rỡ, óng ánh chớ không nhem nhuốc đen tối. Câu này nói lên nghĩa “hoà quang đồng trần”, đem ánh sáng đến chỗ tối tăm (chớ không phải đem cái tối vào bóng tối).
Xóm bắc rong chơi gieo bụng ngựa: đến xóm bắc để nhập vào trong bụng ngựa thọ thai.
Nhà đông vui bước nhập thai lừa: nhập vào thai lừa ở bên nhà đông.
Hai câu này ý nói: Khi vào trong vòng cát bụi, không chọn nơi tốt, không tránh nơi xấu, nơi đâu cần làm lợi ích chúng sanh, các ngài cũng đến được. Không chọn lựa, không chê nơi xấu dở, các ngài vào những chỗ ấy để làm gì?
Roi vàng đánh đuổi trâu bùn chạy, dây sắt lôi về cọp đá thua: cầm roi vàng đánh con trâu đất, nó cũng chạy mịt. Nắm dây sắt kéo con cọp đá, cọp đá cũng phải đầu hàng. Trâu đất có biết chạy không? Cọp đá có phục ai không? Tại sao ở đây lại nói đánh trâu đất chạy, lôi cọp đá thua? Ý nói khi đến được thể thanh tịnh sáng suốt tròn đầy, chúng ta lăn mình vào cuộc đời để giáo hóa chúng sanh. Lúc ấy chúng ta diệu dụng, không phải là tầm thường, cho nên trong nhà thiền thường nói nắm đất hóa thành vàng, khuấy nước biển thành đề-hồ, tô-lạc. Khi con người đạt đến mức đó rồi, dù ở trong cảnh xấu xa bẩn thỉu cũng không bị vướng mắc, hay bị che lấp mờ lối đi. Hình ảnh đánh trâu đất chạy, lôi cọp đá thua là để chỉ diệu dụng không thể lường được của người đạt đạo. Đến hai câu kết:
Bỗng được một hôm băng giá hết: công dụng giáo hóa được viên mãn (tức là băng giá đã hết).
Trăm hoa như cũ rộn xuân xưa: lúc đó là một mùa Xuân đầy đủ trăm hoa như thuở nào.
Đại ý bài kệ nói khi chúng ta lao mình trong cát bụi tuy làm những việc rất tầm thường, rất xấu xa mà đầy đủ diệu dụng, chớ không bị nhiễm, không bị ô uế. Làm tròn những việc ấy rồi, chúng ta cũng trở về với thể thanh tịnh sáng suốt như thuở nào, tức là trở về chỗ mùa Xuân ngàn đời, đầy đủ trăm hoa không thiếu loại nào.
Trên đường tu nếu ai cũng thể hiện được tinh thần đạt đạo thì cuộc đời đẹp biết dường nào! Đâu còn phải than vắn thở dài, thiên hạ xấu quá tôi không thể giúp gì cho họ được, trái lại ta thấy mỗi chúng sanh đều có thể giáo hóa được. Chúng ta nỗ lực tiến tu để đến chỗ viên mãn thanh tịnh. Được thanh tịnh rồi, chính trong chỗ ô uế, xấu xa chúng ta dùng những diệu dụng không lường cảm hóa họ. Được như vậy, chúng ta an nhiên tự tại an trú Niết-bàn, thể nhập Pháp thân, trở về mùa Xuân tràn đầy hoa thơm cỏ lạ.
Để kết luận, tất cả quí vị nên nhớ: Chúng ta có hai bệnh. Một là bệnh chưa thanh tịnh mà tưởng mình thanh tịnh, rồi chê hết mọi người, đó là bệnh nan y. Ai bị bệnh này, phải sám hối một ngày bốn lần, chớ một hay hai lần cũng chưa hết bệnh được. Hai là nếu thật tình tu hành chín chắn, giữ giới trong sạch, ngôn ngữ hành động đều thanh tịnh, tâm niệm rất sáng suốt, rồi nhìn thấy mọi người còn dở, còn xấu quá nên muốn tách rời họ, muốn tránh xa họ để sự thanh tịnh của mình được trọn vẹn, đó cũng là bệnh. Vì sao? Vì trên cuộc đời này, chúng ta đều có sự liên hệ với nhau. Nếu chúng ta chỉ thấy riêng có một mình, không chịu kết chung với mọi người để chuyển hóa họ, đó là chúng ta tách rời mình ra khỏi nhân loại, ra khỏi chúng sanh. Tách riêng ra như vậy, e rồi chúng ta rơi xuống biển sâu, không đứng trên thế gian, không đứng trên mặt đất được. Vì vậy chúng ta ráng đừng bị bệnh thanh tịnh này. Còn một bệnh nữa là bệnh chưa thanh tịnh mà xưng là thanh tịnh rồi xông pha mọi nơi. Càng xông pha càng nhiễm ô, rốt cuộc một ngày nào đó mình làm kẻ tệ hơn tất cả thiên hạ, không phương cứu chữa.
Chúng tôi mong rằng tất cả Tăng Ni và Phật tử biết tu phải ráng tỉnh sáng, biết đúng thời, đúng lúc dùng thuốc trị tâm bệnh của mình. Sạch được những bệnh trong tâm rồi, một ngày kia chúng ta mới có thể làm tròn bổn phận của người xuất gia, của người tu theo đạo giác ngộ giải thoát. Đó là điều mong mỏi cuối năm của chúng tôi. Mong tất cả quí vị nỗ lực cố gắng.
Bài nói chuyện với Phật tử - Xuân Đinh Mão 1987
Hôm nay là ngày Tết Nguyên Đán năm Đinh Mão 1987, quí Phật tử đến chùa lễ Phật và chúc mừng năm mới quí thầy. Để đáp lại lòng kính trọng Tam Bảo của quí Phật tử, chúng tôi sẽ có lời chúc đầu năm hơi dài dòng một chút, không chỉ một câu ngắn gọn rồi thôi, lời chúc này gồm nhiều chi tiết. Hôm nay đầu đề chúng tôi chúc là: Cầu Tam Bảo gia hộ cho tất cả Phật tử một năm mới hoàn toàn an lạc.
Khi nói đến an lạc, trước phải nói đến đau khổ. Nếu nói an lạc suông, quí vị lại tưởng là mình thảnh thơi lắm, rồi không cố gắng tu hành. Vì vậy khi chúc quí Phật tử một năm mới hoàn toàn an lạc, chúng tôi sẽ nói rõ nguồn gốc đau khổ của con người hiện tại và vị lai. Nếu biết được nguồn gốc đau khổ, mình nhổ phăng bứt gốc bứt rễ nó lên thì an lạc sẽ đến, an lạc thật sự.
Tất cả Phật tử chúng ta là con Phật phải nhìn thấy đúng như cái nhìn cái thấy của đức Phật. Sau khi giác ngộ rồi, đức Phật thấy rõ được bản chất của con người như thế nào, Ngài đem ra chỉ dạy để chúng ta thức tỉnh biết rõ được con người mình. Khi biết rõ được con người mình thì chúng ta mới biết làm sao để hết khổ và làm sao để đến an lạc thật sự, đó là gốc của sự tu. Nếu chúng ta không biết bản chất của mình là vui hay khổ cứ sống lây lất qua ngày, đua đòi theo những hình thức vật chất, chúng ta phải tạo nghiệp thọ khổ, chẳng những đời này mà còn kéo dài không biết bao nhiêu kiếp nữa. Vì lòng từ bi, đức Phật muốn cho mọi người hết khổ, nên trước tiên Ngài chỉ rõ nguồn gốc đau khổ. Thấy được nó, chúng ta mới có thể đào bới nó lên được. Nếu không thấy nó, chúng ta muốn cầu vui mà cái vui không bao giờ đến, vì chúng ta có biết cái khổ đâu mà bới lên. Thành ra muốn vui mà con người cứ khổ, cái khổ cứ tràn tới mãi mãi. Chính con người ở thế gian đang là như vậy, lúc nào cũng chúc mừng nhau năm mới được an vui hạnh phúc, nhưng đến cuối năm quí vị thấy có an vui hạnh phúc không? Luôn luôn chúc nhau an vui hạnh phúc mà kết quả lại không có an vui hạnh phúc chi hết, mà trái lại nhiều khổ đau, nhiều bực bội. Chúc như vậy chỉ là chúc suông thôi.
Ở đây chúng tôi muốn quí Phật tử thật sự sang năm này là một năm quí Phật tử tạo nên một cội nguồn của sự an lạc. Muốn tạo nên cội nguồn an lạc đó trước tiên quí Phật tử phải biết nguồn gốc đau khổ là cái gì? Biết được nó rồi chúng ta mới có thể bứng gốc bứng rễ nó để thành an lạc.
Nguồn gốc đau khổ là cái gì?
Trong đạo Phật, lúc nào đức Phật cũng muốn chỉ cho mọi người thấy được lẽ thật của kiếp sống con người. Chúng ta cứ tìm những điều quanh quẩn bên ngoài mà những điều đó dù chúng ta thấy được lẽ thật của chúng, cũng là lẽ thật bên ngoài thôi; còn bản thân chúng ta chưa biết chưa thấy đó là một khuyết điểm lớn lao. Vì vậy đức Phật nói rõ bản chất của con người là khổ hay vui? - Khổ! Vừa nghe thoáng qua chúng ta cảm thấy bi quan, nhưng đó là sự thật.
Vì sao bản chất con người là đau khổ?
Đức Phật dạy đau khổ chia ra hai phần:
1. Đau khổ do sự cảm thọ.
2. Đau khổ do lòng tham ái.
Như vậy chúng ta cần xác định lại kiếp sống con người là đau khổ, chớ không phải là an vui. Đức Phật dạy những đau khổ của con người là do:
- Sanh, già, bệnh, chết.
- Ái biệt ly khổ.
- Oán tắng hội khổ.
- Cầu bất đắc khổ.
- Ngũ ấm xí thạnh khổ.
Chúng ta ở trên thế gian này thật là khổ. Trong cuộc sống quí vị muốn một trăm điều, kết quả được bao nhiêu? Nhiều lắm là hai chục điều thôi tức là có hai chục phần trăm được như ý. Đó là tôi nói ưu đó, có khi còn chưa được như vậy nữa! Còn tám chục phần trăm là bất như ý, tức là không toại nguyện, mà không toại nguyện là đau khổ. Nhìn tổng quát, đức Phật nói cuộc đời con người là đau khổ, sanh là khổ. Đó là cái khổ thứ nhất.
Già có khổ không? Có ai nói già mà vui đâu! Già thì thân thể yếu gầy bệnh hoạn, rồi răng rụng da nhăn, chân mỏi gối dùn, đi đứng lụm cụm, đủ chuyện phiền hà, nên nói già là khổ.
Bệnh có vui không? Bệnh là khổ rồi, không ai chối được.
Còn chết thì sao? Là đại khổ!
Như vậy thử kiểm lại ở trần gian này, có người nào thoát khỏi sanh lão bệnh tử hay không? Ai cũng sanh ra rồi già đi, ai cũng phải bệnh hoạn rồi cuối cùng là chết. Không một ai thoát khỏi bốn điều này, cho nên nói kiếp người đau khổ là như vậy.
Đến ái biệt ly: thương mà xa lìa. Những người mình thương rất là thương mà xa lìa, có gì khổ cho bằng! Có người nào khỏi xa lìa thân nhân mình đâu, thân nhất là cha mẹ, vợ chồng, anh em, bạn bè, có lúc cũng phải xa lìa. Như vậy gọi là ái biệt ly khổ. Oán tắng hội khổ: ghét mà gặp mặt nhau cũng khổ. Những người mình không thích, không muốn thấy mặt mà cứ ở ngay trước mắt mình hoài thì làm sao vui được! Cầu bất đắc khổ: mong cầu mà không được như ý cho nên khổ. Cái khổ thứ tám là ngũ ấm xí thạnh khổ. Năm ấm sắc, thọ, tưởng, hành, thức cấu hợp thành thân này, luôn luôn chống đối, bất an cho nên đau khổ.
Tám điều khổ vừa kể trên, chúng ta đều phải đa mang suốt cuộc đời, không thiếu sót một điều nào. Có ai khỏi sanh già bệnh chết? Có ai không xa lìa người thương, không gặp gỡ người mình ghét? Có ai cầu điều gì được điều nấy đâu? Tám điều khổ của con người là sự thật, không chối cãi được. Đau khổ là một lẽ thật không làm sao tránh được, nó luôn luôn theo dõi ép ngặt khiến chúng ta bất an. Nếu có gượng cười gượng vui, chỉ trong giây lát rồi cũng khổ. Ví dụ như khi gặp bạn bè vui tươi chốc lát, đến lúc về nhà đau chân, mỏi lưng… cảm thấy khổ thân. Như gặp người thân thì mừng rỡ, nhắc lại người xa cách thì than khóc. Gặp người mình thích thì tươi cười, gặp người mình ghét thì bực bội. Cả ngày vui buồn thay đổi luôn luôn, điều vui thì ít, đau khổ thì nhiều. Bản chất con người là đau khổ. Đức Phật gọi đó là Khổ đế: Khổ là một lẽ thật không chối cãi được.
Tám điều khổ do đâu mà ra? Gốc từ cảm thọ mà ra. Cảm thọ chia ra làm hai phần:
1. Cảm thọ sai biệt của sáu căn rồi chấp nê sanh đau khổ.
2. Cảm thọ do đuổi theo thú vui rồi giành giật sanh đau khổ.
Vì sao cảm thọ sai biệt của sáu căn gây nên đau khổ? Chúng ta ai cũng có sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Sáu căn này có những cảm thọ ngoại cảnh không giống nhau. Thí dụ như mắt chúng ta nhìn thấy sự vật, nếu vị nào có con mắt nghệ thuật, khi nhìn bình hoa đặt trên bàn thì trầm trồ khen hoa trưng đẹp mắt. Nhưng một người khác không có mắt nghệ thuật nhìn mấy nhánh hoa lưa thưa ngả nghiêng không có gì đẹp cả. Người bảo đẹp, người cho là xấu, hai người không đồng ý nhau rồi sanh bực tức tranh cãi. Con mắt xúc chạm với sắc trần, người thấy đẹp, người thấy xấu là do cảm thọ sai biệt mà ra. Như vậy ai đúng? Nếu không ai đúng thì sao lại tranh cãi? Thật là vô lý. Mỗi người có cái thấy không giống nhau. Do cái thấy khác nhau, rồi không đồng ý với nhau nên sanh cãi rầy. Nguyên do là vì chúng ta không có nhận xét đúng đắn.
Đến cảm thọ sai biệt của lỗ tai. Thí dụ hai ba người bạn ngồi chơi, một người kể chuyện phải quấy trong xóm, rồi nói: Những người nghèo thật đáng thương. Người bạn khá giả nghe nói như vậy thì vẫn bình tĩnh, trong khi người bạn nghèo cho rằng mình bị khinh khi. Cùng nghe một câu chuyện, mà một người thì không bị xúc phạm, còn một người thì bị tự ái, bị mặc cảm. Lời nói có giá trị bằng nhau, nhưng khi nghe rồi sự cảm thọ khác nhau, nên sanh vui buồn khác nhau. Một người cho rằng không có chỉ trích người nghèo, một người cho rằng mình nghèo nên bị khinh khi, hai người không đồng ý nhau nên sanh cãi vã. Đó là do sự cảm thọ sai biệt của lỗ tai.
Sự cảm thọ của mũi có giống nhau không? Như người miền Nam nghe mùi sầu riêng nói: thơm quá! Nhưng người miền Trung bảo: hôi quá! Cùng một mùi sầu riêng người nói thơm, người nói hôi. Như vậy ai đúng? Người nói mùi sầu riêng là thơm sẽ cãi với người kia. Người nói mùi sầu riêng là hôi sẽ cãi lại. Hai người sẽ đi đến ẩu đả nhau. Ai đúng? Ai sai? Người bàng quan ngoại cuộc nếu ở miền Nam thì cho rằng người ngửi thơm là đúng, nếu ở miền Trung thì cho người ngửi hôi là đúng. Do sự huân tập khác nhau nên sự cảm thọ có sai biệt. Sự tranh cãi đúng sai thật là vô ích, không khôn chút nào hết, lại làm buồn lòng nhau, chẳng phải nguồn gốc của đau khổ sao? Buồn giận nhau, không ngó mặt nhau, gọi là oán tắng hội, đau khổ từ đó mà sanh.
Sự cảm thọ của lưỡi cũng khác nhau! Thí dụ cô đầu bếp làm thức ăn. Cô nấu canh nêm nếm đàng hoàng rất là vừa ý. Nhưng vì cô quen ăn mặn nên những người quen ăn lạt chê là nêm canh quá mặn. Cô đầu bếp tức giận nghĩ mình nấu nướng kỹ lưỡng, nêm nếm vừa ăn lắm mà còn bị chê trách! Chung qui chỉ vì thói quen của cái lưỡi người quen ăn mặn, người quen ăn lạt mà thôi. Người quen ăn mặn cảm thấy vừa miệng thì người quen ăn lạt cho là mặn và ngược lại, người quen ăn lạt cảm thấy vừa ăn thì người quen ăn mặn cho là lạt. Như vậy lấy đâu làm tiêu chuẩn? Vì sao lại cãi nhau cho sự cảm thọ của mình là đúng? Mỗi người có khẩu vị khác nhau. Cùng một thức ăn, người khen ngon, người chê dở. Người thích món ăn này, người thích món ăn kia, vì mỗi người có cảm thọ riêng biệt theo thói quen của mình. Chẳng những chúng ta có thói quen đời này mà còn cả thói quen của đời trước nữa. Thí dụ có người khi cha mẹ sanh ra chỉ ăn chay lạt, không ăn thịt cá được. Vì lý do gì? Có phải là cảm thọ quá khứ còn lại, nên không thích mùi thịt cá. Lại có người cha mẹ bảo ăn chay, thì thích dùng thức ăn mặn. Như vậy là do thói quen của mọi người, hoặc ở hiện tại, hoặc đã huân tập trong quá khứ. Chúng ta không nên chủ quan bắt buộc người khác phải giống mình. Nhưng ở trên thế gian này phần đông chúng ta đều chủ quan muốn ai cũng giống mình, nhất là con cái trong nhà. Nếu con trong nhà làm khác ý cha mẹ, cha mẹ sẽ bực tức giận trách rầy la, tạo bao điều đau khổ trong gia đình. Tất cả cũng do sự cảm thọ sai biệt mà ra.
Cảm thọ của thân như thế nào? Cũng riêng biệt tùy theo mỗi người. Thí dụ: Hai người ở chung một căn phòng, một người mập béo, một người gầy ốm. Căn phòng có một cửa sổ, khi trời vừa mát người gầy ốm cảm thấy lạnh vội đi đóng cửa sổ… Người mập béo nghĩ thế nào? Cảm thấy bực bội, khí trời nóng bức vừa dịu mát lại đóng cửa sổ, không giận sao được! Rồi hai người cãi vã nhau, có khi đi đến ẩu đả. Như vậy lẽ thật ở đâu? Đó là do cảm thọ sai biệt của thân nên người ta bất đồng ý với nhau rồi sanh bất hòa, đó là nguồn gốc đau khổ.
Thứ sáu là cảm thọ của ý. Điều này là quan trọng hơn hết. Cảm thọ của ý là gồm nghiệp của quá khứ và thói quen của hiện tại. Mỗi người chúng ta sống trong hoàn cảnh gia đình và xã hội khác nhau nên được sự giáo dục và hiểu biết khác nhau. Người thấy thế này là phải, người thấy thế kia là phải. Thí dụ: Một người sanh trong gia đình theo đạo Phật từ thuở bé, một người sanh trong gia đình theo đạo Chúa từ thuở bé. Hai người ngồi nói chuyện với nhau, do sự huân tập khác nhau nên có những cảm nghĩ khác nhau. Người tin Chúa cho đạo Chúa là đúng, không chấp nhận đạo Phật. Người tin Phật cho đạo Phật là hay, không chấp nhận đạo Chúa. Hai người tranh luận với nhau, có những quan điểm bất đồng, bực bội cãi vã lẫn nhau. Đó là nguồn gốc của đau khổ. Đến đời sống của vợ chồng trong gia đình cũng vậy. Người chồng có sự huân tập của người nam, lo việc rộng lớn ngoài xã hội, người vợ có sự huân tập của người nữ, lo việc tỉ mỉ trong nhà. Hai vợ chồng có hai huân tập khác nhau, nên thường không đồng ý kiến với nhau. Ai cũng thấy mình là đúng, người kia là sai, nên không ai chịu thua ai, cuối cùng đi đến ly dị, hậu quả là con phải chịu đau khổ! Nguyên do từ đâu? Chỉ do sự cảm thọ sai biệt, rồi chấp chặt cho quan niệm của mình là đúng, bắt người khác phải nghe phải thấy như mình, phải có những cảm nghĩ những hiểu biết như mình. Nếu không đồng ý nhau thì lắc đầu than thở: Sao không có ai là bạn tri kỷ với mình! Thử hỏi trên thế gian này có mấy người tri kỷ giống mình như một? Chắc là không rồi, vậy mà buộc lòng phải sống chung nhau thật là quá đau khổ!
Thế thì phải làm sao cho hết đau khổ! Chỉ đừng chấp nê là hết đau khổ! Cùng một mùi trái cây tôi ngửi cho là thơm cũng đúng, chị cho là hôi cũng đúng theo thói quen của mỗi người, như vậy hòa nhau, tránh được sự tranh cãi. Cùng một thức ăn chị nếm nghe mặn, tôi nghe lạt, cả hai đều đúng theo thói quen của cả hai, tất nhiên hòa nhau không có tranh cãi v.v… Nếu còn chủ trương sai biệt cho mình là đúng, người là sai, là còn tranh cãi, còn đau khổ. Nhận chịu sự đau khổ là khôn hay không khôn? Quả thật không khôn. Nhưng nếu ai bảo là mình ngu thì mình lại nổi giận lên, có phải là mâu thuẫn không? Nếu còn chấp nê là còn đau khổ. Hiểu như vậy rồi, chúng ta phải thông cảm với nhau, bỏ qua tất cả những sự sai biệt để sống hòa thuận với nhau từ trong gia đình đến ngoài xã hội. Nếu biết chấp nê là sai quấy thì phải mạnh dạn dẹp tự ái đến xin lỗi người, làm hòa với nhau thì cuộc đời sẽ bớt được nhiều đau khổ.
Những người đến tôi để thưa kiện, đều than không ai thông cảm với mình hết. Vì chấp sự cảm thọ của mình là đúng thì làm sao có người thông cảm với mình được! Nếu buông tất cả chấp nê thì mọi người đều thông cảm với mình. Chúng ta tu phải biết rõ lẽ thật đó, bỏ tất cả sự chấp nê do cảm thọ sai biệt, thì đau khổ tự dứt. Không phải cầu Phật ban cho điều gì, không phải cầu xin nơi miếu này lăng kia, mà phải biết rõ nguồn gốc của đau khổ là do sự cảm thọ sai biệt của sáu căn, rồi chấp chặt vào đó, rồi tranh đấu, giành giật, hơn thua với nhau, cuối cùng là đau khổ. Biết như vậy chúng ta buông xả tất cả sự chấp nê là chúng ta hết đau khổ.
Nguyên nhân thứ hai của đau khổ là đuổi theo thọ lạc. Hiện giờ chúng ta đang sống, ai cũng muốn cuộc đời được hạnh phúc. Thử hỏi quí vị cái gì là hạnh phúc? Chúng ta chỉ nói đến hạnh phúc mà không biết cái gì là hạnh phúc? Được ăn ngon, mặc đẹp là hạnh phúc chăng? Được nhiều tiền của, ở nhà to rộng là hạnh phúc chăng? Được những gì mình mong muốn là hạnh phúc chăng? Quí vị thử kiểm lại những điều đó có phải là hạnh phúc thật hay không? Con người ai cũng mơ ước hạnh phúc, mơ ước mãi mà không bao giờ toại nguyện. Vì sao? Thí dụ: Khi đang đói chúng ta nghĩ có một bữa cơm ngon, hạnh phúc biết mấy! Nhưng khi được bữa cơm ngon, ăn đầy đủ rồi, hạnh phúc còn không? Hạnh phúc qua mất rồi! Như vậy hạnh phúc chỉ có trong chốc lát thôi, rồi qua mất không còn. Đang đi bộ, chúng ta nghĩ được một chiếc xe đạp đi, chắc là hạnh phúc lắm. Nhưng khi được chiếc xe đạp đi lọc cọc ba bốn hôm rồi nó hư, lúc đó có hạnh phúc không? Như vậy hạnh phúc không bền, không thật, mà thế gian cứ đuổi theo cho nó là bền là thật! Hạnh phúc qua rồi mất, đuổi theo cái qua rồi mất thì hạnh phúc ấy quả là không thật. Biết hạnh phúc không thật mà chúng ta mơ ước nó hoài, thì mơ ước đó trở thành hão huyền.
Khi chúng ta mơ ước một điều gì, nghĩ rằng khi được nó hạnh phúc biết bao! Nhưng khi được rồi, còn hạnh phúc nữa không? Có gì hạnh phúc hơn, khi làm mệt nhọc được nằm nghỉ một chốc lát, hạnh phúc biết mấy? Nhưng nếu bị bắt buộc nằm một ngày, còn hạnh phúc hay không? Nếu nằm một ngày không được đi đâu, lúc ấy cũng bực bội. Thành thử hạnh phúc không có thật, nó chỉ có trong một giai đoạn nào thôi. Thí dụ chúng ta đang gánh gồng hết sức là nặng, nếu có ai đỡ gánh giùm mình, lúc ấy chúng ta cảm thấy nhẹ bổng lên, hạnh phúc biết mấy! Nhưng nếu hết gánh rồi đi một lúc, chúng ta không còn thấy hạnh phúc nữa. Như vậy hạnh phúc chỉ có trong chốc lát. Trong lúc khổ đau, qua được cơn khổ đau tạm gọi là hạnh phúc. Hạnh phúc là do qua cơn khổ đau, chớ nó không có thật. Cái không thật mà chúng ta tưởng chừng cả đời hưởng hoài thì làm sao có được.
Chúng ta hiện giờ mong mỏi ước mơ là mong mỏi ước mơ cái gì? Ước mơ hạnh phúc. Ước mơ hạnh phúc là ước mơ được: một là ăn ngon, hai là mặc đẹp, ba là được những nhu cầu sung túc, bốn là được tiền bạc dồi dào, năm là được gia đình sung sướng vui vẻ v.v… Những điều ước mơ đó được rồi mất, không còn nguyên vẹn mãi. Như vậy hạnh phúc có hay không? Chúng ta mong muốn những điều đó phải lâu bền mãi mãi, nhưng trên thế gian này đâu có điều gì lâu bền mãi mãi. Như vậy suốt cuộc đời mình bị chúng chỉ huy sai sử. Như mỗi sáng thức dậy, chúng ta chuẩn bị lo cho bữa ăn sáng, rồi đến bữa trưa và bữa chiều. Chúng ta chạy loanh quanh tìm kiếm những thức ăn cho vừa miệng, tức là suốt ngày chạy theo cái thọ lạc của lưỡi. Những thức ăn vừa miệng khi để vào lưỡi có cảm giác ngon, nhưng khi nuốt qua rồi cảm giác ấy không còn nữa. Như vậy mà chúng ta cứ chạy theo cái thọ lạc, chạy mãi không có ngày cùng, cho đến ngày nhắm mắt cũng chưa vừa ý.
Đến cảm thọ của lỗ mũi, lỗ tai, con mắt cũng vậy. Cái nhà nhìn thấy phải đẹp, chậu hoa, chậu kiểng phải vừa mắt v.v… Như vậy con người chạy tìm cái thọ lạc suốt cuộc đời không có ngày cùng. Thọ lạc là tạm bợ giả dối không thật. Đuổi theo thọ lạc tức là gởi gắm, hiến dâng đời mình cho cái giả dối. Vậy mà chúng ta thấy hài lòng chạy theo nó từ năm này sang năm khác, rồi cả một cuộc đời bị thọ lạc của sáu căn sai sử. Cả một cuộc đời chạy theo thọ lạc, nếu có ai ngăn chận thì nổi giận ngay. Thí dụ: Đi chợ thấy bó rau ngon, chúng ta vừa ngồi xuống lựa, chợt có người đến mua trước, thì cãi vã nhau liền. Có chậu kiểng đẹp chưa kịp hỏi giá, chợt có người khuân đi, chúng ta bực bội ngay. Chỉ vì thọ lạc của sáu căn mà chúng ta giành giật, hơn thua, tranh đấu với nhau cả đời không dứt. Có phải thọ lạc đã chỉ huy lôi cuốn cả cuộc đời mình không? Cũng vì thọ lạc mà chúng ta phải hận thù oán ghét lẫn nhau. Cảm thọ lạc nguyên là vô thường. Vì cái vô thường đó chúng ta lại gây chuyện hơn thua, phải quấy, tranh giành với nhau, có phải là việc làm đúng chân lý hay không? Vậy mà chúng ta bị nó chi phối hoàn toàn không còn giây phút nào rảnh rỗi. Quí vị thường nói: cả ngày tôi không rảnh, là tại sao? Chỉ vì đuổi theo thọ lạc: muốn ăn mặc vừa ý, muốn thấy nghe vừa ý v.v… rồi chúng ta xoay quanh hết ngày này đến tháng kia không rảnh phút nào. Cảm thọ đã chỉ huy cả một cuộc đời chúng ta, lại gây ra bao nhiêu hận thù đau khổ!
Ái cũng là nguồn gốc của khổ đau. Trong nhà Phật, ái chia làm ba thứ:
1. Ái ngã.
2. Ái thân thuộc.
3. Ái sự nghiệp tiền của.
Ái ngã là khổ. Có ai không tự thương mình đâu, dù mình có xấu đi nữa, con mắt lệch một bên hay lỗ mũi xẹp một chút, mình cũng thương mình. Nếu biết mình đẹp, thì mình càng thương mình hơn nữa, ái ngã chặt hơn nữa. Vì thương mình nên những gì mình muốn mà không được thì khổ. Như mình muốn trẻ nghe nói già là rầu, mình muốn khỏe mạnh mà bị bệnh hoạn là khổ, mình muốn sống lâu nghe nói sắp chết lại càng đau đớn. Vì quá thương mình cho nên bị bốn cái sanh già bệnh chết làm khổ. Ái ngã là gốc của bốn khổ vậy.
Ái thân thuộc có hai cái khổ. Một là ái biệt ly khổ. Vì quá thương người thân thuộc mà phải chia lìa nên chúng ta đau khổ. Có ái thì có tắng, tức là có yêu thì có ghét theo sau. Nên người nào yêu nhiều thì ghét cũng nhiều. Vì yêu nhiều nên người mình yêu mình thương tha thiết, người mình ghét mình cũng ghét đắng cay không muốn nhìn mặt. Vì vậy mình khổ với người mình thương bao nhiêu, mình cũng khổ với người mình ghét bấy nhiêu. Cho nên ái biệt ly khổ đi đôi với oán tắng hội khổ. Đó là hai cái khổ do ái thân thuộc.
Ái tài sản sự nghiệp cũng là nguồn gốc của đau khổ. Có ai muốn gia sản của mình càng ngày càng kiệt quệ đâu! Ai cũng muốn gia sản của mình càng ngày càng to lớn. Muốn mà không được như ý thì đau khổ, tức là cầu bất đắc khổ.
Như vậy quí vị thử kiểm điểm lại có phải tám cái khổ của chúng ta đều nằm trong ái mà ra: ái ngã, ái thân thuộc và ái sự nghiệp tiền của. Ái của mình cạn thì tám cái khổ theo đó mà chết.
Thấy rõ gốc của đau khổ, chúng ta phải làm cách nào nhổ cái gốc đó lên. Trong nhà Phật dạy muốn nhổ gốc của đau khổ, nghĩa là muốn dứt khổ, chúng ta phải thấy rõ bản chất của thọ và ái cho tường tận. Thử hỏi quí vị cảm thọ khổ và cảm thọ vui có thật hay không? Cảm thọ của sáu căn qua rồi mất, đâu có thật! Thí dụ một bài hát thật là hay, khi nghe qua lỗ tai rất là thích thú, nhưng nghe hát qua rồi mất, đâu còn mãi bên tai. Một thức ăn ngon ăn rất vừa miệng, nhưng khi qua lưỡi rồi cũng mất, có còn mãi đâu v.v… Bản chất của tất cả cảm thọ là vô thường, tức là tạm bợ giả dối. Biết rõ cảm thọ là vô thường giả dối, chúng ta ưng làm tớ đuổi theo nó, hay muốn làm chủ không lệ thuộc vào cảm thọ? Nếu giành được quyền làm chủ cảm thọ thì vui, nếu bị cảm thọ làm chủ thì khổ. Quí vị nên can đảm chọn quyền làm chủ cảm thọ thì trọn một năm nay nhất định quí vị hết khổ, hoàn toàn an lạc.
Bản chất của ái có thật hay không? Ái là thương, thương yêu là nghĩ tới thân này nó lâu dài bền bỉ, nhưng bản chất của thân là vô thường. Thương yêu nó chỉ là thương yêu cái tạm bợ mà thôi. Thương yêu sự nghiệp cũng vậy, sự nghiệp là vô thường, thương yêu thân thuộc, thân thuộc cũng là vô thường. Những điều mình thương yêu đó đều vô thường, không có bền lâu. Chúng ta lại thương yêu những cái vô thường hay sao? Hay là chúng ta thương yêu cái gì lâu dài vĩnh cửu? Thí dụ khi đi chợ mua những vật cần dùng quí vị chọn những thứ bền tốt hay những thứ tạm tạm xài vài ba hôm rồi lại hư? Dĩ nhiên chúng ta lựa những vật dùng bền tốt, những gì tạm tạm chúng ta không mua. Cũng như vậy, biết thân là vô thường, sự nghiệp là vô thường, những người thân thuộc là vô thường, chúng ta ôm ấp thương yêu chúng nó để làm gì? Khi những giọt mưa từ mái nhà rơi xuống nổi lên những bong bóng lóng lánh, quí vị thương chúng nó hay không? Nếu thương, chúng nó bể thì sao? Bong bóng nước cũng lóng lánh, hạt kim cương cũng lóng lánh, cả hai đều lóng lánh, quí vị thương cái nào hơn? - Thương hạt kim cương hơn, tại sao? Vì nó lâu bền. Chúng ta thương cái gì lâu bền. Như vậy thân này vô thường, sự nghiệp vô thường, những người thân thuộc của mình cũng vô thường thì mình phải thương hay không? Mình thương cái nào không vô thường, cái giải thoát không sanh tử, đó mới là cái mình thương. Những cái vô thường chúng ta thương hoài cũng không được gì, vì chúng nó sẽ hoại và sẽ mất. Chúng ta đeo đuổi cưu mang cái vô thường, hay đeo đuổi cưu mang cái thoát khỏi vô thường? Có một cái thoát khỏi vô thường chúng ta không thương, lại thương cái vô thường làm gì?
Chúng ta học đạo phải dùng trí nhận xét thấy cái gì bản chất là vô thường là tạm bợ thì cái đó không có giá trị, qua rồi mất mà có giá trị gì! Đã không giá trị, chúng ta đeo đuổi, cưu mang nó làm gì? Cái làm cho mình được mãi mãi an vui tự tại giải thoát, cái đó mới là chân thật. Biết cái vô thường rồi, chúng ta phải xoay lại cái chân thật vĩnh cửu. Khi trước, chúng tôi hay kể câu chuyện “Cô Công chúa nũng nịu”. Thuở xưa có cô Công chúa rất được vua cha yêu quí. Một hôm nhân buổi trời mưa, Công chúa ngồi nhìn những giọt nước từ mái nhà rơi xuống, làm nổi lên những bong bóng rất đẹp, Công chúa thích quá nhưng không nói, vì bản chất hay làm nũng Công chúa vào phòng nằm, mặt mày ủ dột. Nhà vua có Công chúa là con duy nhất, thương con vô cùng. Đến giờ cơm, thấy con không ra dùng bữa, nhà vua nóng ruột vào phòng thăm hỏi: Con ốm hay sao, không ra dùng cơm? Công chúa không trả lời. Đến lượt Hoàng hậu vào năn nỉ, Công chúa cũng không đáp lại. Hỏi han nài nỉ mãi, sau cùng Công chúa nũng nịu thưa: “Con muốn có xâu chuỗi bong bóng nước đeo vào cổ, con mới hết bệnh.” Vua cha chiều con rất mực. Nghĩ mình là vua muốn gì lại chẳng được, nhà vua bèn ra lệnh cho tất cả quần thần: “Ai kết được xâu chuỗi bằng bong bóng nước cho Công chúa đeo thì sẽ được phong quan tước, chia đất đai cho.” Đăng bảng lâu ngày mà không ai dám lãnh. Sau cùng có một ông lão đến gỡ bảng, nhận xâu một chuỗi bong bóng nước cho Công chúa đeo. Ông lão được giới thiệu với Công chúa. Nàng rất đỗi vui mừng nói: “Nếu lão xâu cho tôi chuỗi bong bóng nước để đeo, tôi sẽ hết bệnh ngay.” Ông lão nói: “Thưa thật với Công chúa, tôi già, con mắt lờ, nên lựa không được những hạt bong bóng đẹp. Vậy ngày mai, khi trời mưa, tôi mời Công chúa ra mái hiên chọn những hạt bong bóng nào đẹp nhất, Công chúa lượm đưa tôi xâu cho.” Sáng hôm sau, trời mưa, ông lão và nàng Công chúa ra mái nhà, những giọt mưa từ trên rơi xuống nổi bong bóng, Công chúa đưa tay vớt lấy…, vớt mãi đến trưa mà không được hạt nào! Ông lão đứng chờ, chờ mãi không có hạt bong bóng nào để xâu! Cuối cùng, quá mệt mỏi Công chúa nói: “Thôi, tôi không thích bong bóng này nữa.” Nhà vua mừng quá bảo: “Để ta cho con xâu chuỗi bằng kim cương con đeo.”
Ý nghĩa câu chuyện vừa kể như thế nào?
Tất cả chúng ta có phải là Công chúa đó không? Chúng ta cứ nắm bắt những ảo ảnh vô thường, nắm bắt mãi cả đời mệt nhoài mà chẳng được gì. Rồi chúng ta vào chùa cầu xin Phật cứu con. Đức Phật sẵn lòng từ bi cứu độ, cho chuỗi kim cương thứ thật. Chúng ta chỉ chịu nhận thứ thật khi nào chúng ta đã mệt nhoài với những thứ tạm bợ hư dối. Đức Phật tuy lấy ví dụ một câu chuyện rất trẻ nhỏ nhưng đúng với bệnh của chúng sanh. Chúng ta giống y nàng Công chúa đó. Khi chúng ta thức tỉnh biết trở về với Phật, Phật sẽ chỉ cho chúng ta cái chân thật. Nếu chúng ta sống được với nó, cái chân thật ấy còn mãi, không bao giờ mất.
Người Phật tử muốn hết khổ phải thấy rõ bản chất của đau khổ không có thật. Bản chất của đau khổ là ái và thọ, cả hai đều không thật. Càng đuổi theo chúng càng đau khổ thôi. Nếu biết dừng lại, đau khổ sẽ bớt từ từ cho đến một ngày nào chúng ta lìa hẳn nó, không còn đau khổ nữa.
Nhân nghe câu nào trong kinh Kim Cang mà Lục Tổ ngộ đạo? Trong kinh Kim Cang, Phật dạy phương pháp an trụ tâm: “Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.” Ngay đây Lục Tổ ngộ, rồi từ đó về sau Ngài hết khổ luôn. Muốn sanh tâm cầu Vô thượng Bồ-đề thì đừng dính với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Sáu trần không dính là an trụ tâm. Đó là hạnh phúc tuyệt vời. Nếu còn dính với sáu trần là còn bất an, còn đau khổ. Nếu chúng ta không kẹt không chấp vào cảm thọ của sáu căn, tức là chúng ta được giải thoát.
Cũng chính trong kinh Kim Cang đức Phật có dạy: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Những gì có tướng đều là vô thường, vô thường là tạm bợ, hư dối. Nếu thấy các tướng không phải tướng là thấy Phật. Tại sao? Tỉ dụ hiện giờ thấy một món vật đẹp, chúng ta biết rõ nó là duyên hợp hư dối; một vật gì quí, nó là duyên hợp hư dối, một thức ăn ngon, nó là duyên hợp hư dối. Biết rõ được như vậy, đó là có trí tuệ giác ngộ. Trí tuệ giác ngộ tức là Phật. Thấy tất cả tướng không phải tướng tức là thấy tất cả vật đều không thật, tất cả đều là duyên hợp hư dối. Thấy rõ như thế là thấy Phật, không phải tìm Phật ở đâu xa. Nếu thấy Phật thì hết khổ.
Để kết luận chúng tôi xin nhắc tất cả quí vị, nếu muốn hết khổ chúng ta phải biết rõ bản chất của thọ và ái là vô thường, hư dối. Chúng ta phải diệt hết, nhổ sạch gốc của thọ và ái, thì ngang đó chúng ta được an lạc. Niềm vui không phải từ bên ngoài đem đến, không phải do sự giàu sang sung sướng lắm tiền nhiều của, mà vui vì biết phá bỏ những mê chấp sai lầm. Buông bỏ những sai lầm, đó là trí tuệ tỉnh giác, đó tức là Phật. Tu theo Phật cốt để giác ngộ. Giác ngộ cho nên không lầm không mê, tức nhiên không khổ. Hết ngu mê là sáng suốt, sáng suốt tức là hết khổ.
Nhân ngày đầu xuân năm Đinh Mão, tất cả quí vị đến đây lễ Phật và chúc mừng quí Thầy, quí Thầy cũng chúc tất cả quí Phật tử sang năm mới này hãy can đảm bỏ đi những chấp thọ và buông đi những ái trước. Chấp thọ và ái trước buông bỏ thì nguồn đau khổ cạn, gốc đau khổ được bứng tung lên, ngang đó quí vị sẽ hết khổ. Vì vậy chúng tôi chúc quí vị một năm mới hoàn toàn an lạc sau khi bứng tận cội gốc khổ đau.
HÒA QUANG ĐỒNG TRẦN
Tất niên Đinh Mão - 1988
Hôm nay là ngày hai mươi chín tháng chạp, ngày tất niên của Thiền viện chúng ta. Trong buổi tất niên này, chúng tôi có bổn phận phải nhắc nhở những ưu khuyết điểm trên đường tu của chúng ta. Đặc biệt những khuyết điểm thường được nhắc nhiều hơn để chúng ta tu sửa, làm sao mỗi một năm qua ta dứt sạch những bệnh hoạn, chuẩn bị cho năm tới có sức mạnh tiến tu, không còn bệnh hoạn nữa.
Đề tài chúng tôi giảng hôm nay là Hoà quang đồng trần. “Hoà quang” là hoà ánh sáng, “đồng trần” là đồng với bụi bặm, tức là trộn lẫn ánh sáng vào với bụi bặm. Tại sao chúng tôi giảng đề tài này? Gần đây một số Tăng Ni cũng như Phật tử có bệnh: Thấy mình trong sạch, thấy mình tu nhiều, thấy mình tốt hơn mọi người. Vì thấy như vậy nên trở thành bệnh hoạn. Trong cách thấy đó chia ra hai thứ bệnh:
Bệnh thứ nhất, chính mình không trong sạch mà tưởng mình trong sạch, rồi cho mọi người là bẩn thỉu nhơ nhớp, chỉ có ta trong sạch thôi. Nếu không trong sạch mà tưởng mình trong sạch, đó là bệnh quá lớn. Tại sao vậy? Bởi vì mình không biết điểm khuyết điểm dở của mình, mà chấp điểm khuyết điểm dở của bạn bè huynh đệ. Như vậy tự mình không sửa được, lại còn oán trách những người chung quanh. Người mang bệnh này, bản thân đã không tu tiến được, còn làm cho huynh đệ phiền não. Đó là bệnh rất nặng, rất đáng chê trách. Kinh Phật và chư Tổ thường dạy chúng ta, người tu tại gia hay xuất gia, phải thấy được lỗi của mình và quên lỗi của người khác. Nếu chúng ta không trong sạch mà tự thấy mình trong sạch, đó là không thấy lỗi mình. Đừng thấy lỗi người, mà chúng ta cứ thấy người này xấu người kia dở, đó là chúng ta trái hẳn với lời Phật Tổ dạy. Ai mang bệnh này là một bệnh trầm trọng nhất, khó tiến trên đường tu. Người mang bệnh này có bằng lòng ai đâu! Vì thấy mình trong sạch, mọi người đều xấu dở, cho nên không bằng lòng ai hết.
Bệnh thứ hai, mình thật sự trong sạch rồi chê mọi người nhơ nhớp xấu xa. Lẽ ra mình trong sạch biết mình trong sạch, người khác nhơ nhớp xấu xa thấy họ nhơ nhớp, xấu xa, đó là thấy đúng lẽ thật, vì sao lại nói là bệnh? Vì khi chúng ta trong sạch, thấy mình trong sạch rồi cho mọi người nhơ nhớp xấu xa thì chúng ta muốn gần họ hay không? Mình sạch quá mà gần người dơ xấu thì bị nhiễm làm sao! Vì vậy không muốn gần ai. Nếu không muốn gần ai thì làm sao sống được với người chung quanh. Đó là bệnh. Trên đường tu, chúng ta cố gắng trong sạch bản thân rồi, thấy mọi người đều nhơ xấu nên muốn tránh. Muốn tránh mọi người thì đi đâu đây? Vô núi chăng? Vô núi không ở được thì đi đâu nữa? Vô rừng. Vô rừng không ở được thì đi đâu nữa? Chẳng lẽ lên mây xanh? Chính vì nhìn thấy người xấu xa nhơ nhớp mà chúng ta không thể hòa được, rồi tự khu biệt mình. Sống giữa rừng người mà giống như ở trong sa mạc. Trong nhà Phật gọi đó là bệnh thanh tịnh. Vào đầu thế kỷ thứ ba ở Trung Hoa có ông Khuất Nguyên là quan Tam lư, Đại phu nước Sở, học rộng có tài nhưng vì thấy mình trong sạch quá nên không hoà được với mọi người, khinh rẻ mọi người. Vì vậy ông làm mất lòng vua Sở, bị vua Sở đày xuống Giang Nam. Ở Giang Nam, ông có quen với một ngư phủ là một ẩn sĩ có tài. Khi hai người nói chuyện với nhau, ngư phủ phục Khuất Nguyên về văn học, Khuất Nguyên nể ngư phủ là người thấu đáo việc đời. Một hôm thấy Khuất Nguyên tỏ vẻ buồn bực khổ não, ngư phủ mới hỏi: “Ngài vì sao đến nông nỗi như vậy?” Khuất Nguyên trả lời: “Người đời đục cả chỉ mình ta trong, người đời say cả, chỉ mình ta tỉnh, vì thế mà ta bị đày tới đây.” Khuất Nguyên thấy người đời đục cả chỉ mình ông trong, người đời say cả chỉ mình ông tỉnh. Bởi ông trong, ông tỉnh nên ông bị đày! Khi đó ngư phủ mới nói: “Người đời đục thì Ngài cũng không nên giữ mình trong sạch, người đời say thì Ngài cũng nên uống vài chén cho say luôn thể.” Nghe nói thế Khuất Nguyên bực bội: “Ông nói sao vậy? Không thể nói trắng thành đen hay đen thành trắng được, đá không thể nói là ngọc, ngọc không thể là đá được. Cho đến người trượng phu không thể là kẻ tiểu nhân, kẻ tiểu nhân không thể là trượng phu. Ông nói như vậy thật là lộn lạo!” Ngư phủ mới nói: “Ngài đã một lòng cứu nước, cứu dân, lẽ ra phải trà trộn vào đám tiểu nhân, dần dần cảm hóa họ. Ngài định thay đổi cuộc đời, phải dấn thân vào chỗ tối tăm làm cho sáng. Cớ sao lại cho cuộc đời là bẩn thỉu, người đời là nhơ nhớp?” Khuất Nguyên đáp lại: “Kẻ đã tắm gội thay quần áo, không thể lại nhảy xuống bùn.” Ông cho rằng mình như người tắm gội sạch rồi, mà bắt nhảy xuống bùn, ông không thể làm được. Khi ấy ngư phủ thấy không thể khuyên được nên than bằng những câu hát:
Nước sông Thương Lang trong thay!
Nước sông Thương Lang đục thay!
Nước trong thì ta giặt giải mũ,
Nước đục thì ta rửa chân.
Hát xong, ông chèo thuyền đi. Khuất Nguyên vì quá trong sạch, không chịu đựng nổi, phải ôm viên đá gieo mình xuống sông Mịch La tự tử, nhằm ngày mùng năm tháng năm. Người dân Trung Hoa ăn Tết ngày mùng năm tháng năm để tưởng nhớ ngày Khuất Nguyên trầm mình chết.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy Khuất Nguyên bị bệnh gì? Bệnh thanh tịnh. Vì ông trong sạch nên không muốn hoà với những người nhơ nhớp xấu xa. Nếu không hoà thì mình sống được không? Cuối cùng phải đi tự tử! Như vậy Khuất Nguyên và ngư phủ, ai là người biết sống hơn? Ông ngư phủ là người biết sống. Nếu nước trong thì mình giặt giải mũ, nếu nước đục thì mình rửa chân. Đòi hỏi nước trong, khi nước đục, mình sẽ không dùng được việc gì.
Trở lại việc đạo, đức Phật đã dạy, nếu chúng ta tu hành được thanh tịnh sáng suốt, thì phải thương và nghĩ tới những chúng sanh đang mê lầm, chìm đắm trong biển khổ, lao mình vào đó để cứu độ chúng sanh. Được như vậy mới là người thật tình vì Phật pháp. Nếu cứ nghĩ mình trong sạch, còn thiên hạ xấu xa nhơ bẩn, rồi không muốn gần họ. Không gần với họ thì chính mình tự cô lập mình, không làm lợi gì cho ai được. Trong chúng ta nếu ai đã lỡ bị “bệnh trong sạch”, phải sửa bỏ để vui vẻ hoà nhịp với mọi người.
Chúng tôi vừa chỉ thuốc trị bệnh, nhưng không khéo thuốc cũng thành bệnh. Tại sao? Hoà mình với người là khi mình trong sạch, đem trong sạch ra hoà với những người nhơ nhớp để giáo hóa, chuyển hướng họ trở thành trong sạch như mình. Đó là dùng thuốc trị bệnh. Nếu mình chưa trong sạch mà muốn hoà với người thì kết quả sẽ ra sao? Hoà quang đồng trần, “quang” là ánh sáng, là trong sạch, “trần” là bụi bặm, là nhơ nhớp. Mình sáng, mới đem ánh sáng lại chỗ nhơ nhớp để chuyển nó thành sáng. Nếu mình đang là bụi, đang là nhơ nhớp mà hoà với nhơ nhớp nữa thì kết quả sẽ như thế nào? Thuốc trở thành bệnh. Vì vậy khi dùng thuốc trị bệnh chúng ta phải dè dặt. Nếu mình thật thanh tịnh, phải thương người chưa thanh tịnh, hoà với họ để giáo hóa họ. Chớ thở than rằng mọi người xấu quá làm sao giáo hóa được, mọi người mê quá làm sao cho họ tỉnh được. Mình đã tỉnh, phải tìm mọi cách làm cho người mê được tỉnh; mình đã sạch, phải tìm mọi cách làm cho người nhơ được sạch. Như vậy mới đúng tinh thần của người học đạo, mà cũng chính là nghĩa tự giác giác tha trong nhà Phật.
Nếu thấy người quá xấu xa, chúng ta thở dài chán nản, không bằng lòng ai hết, đó là bệnh. Để trị bệnh này, chúng ta không học gương ông ngư phủ mà phải học gương ngài Bồ-tát Thường Bất Khinh. Bồ-tát gặp ai cũng bái và nói: “Tôi không dám khinh các ngài vì các ngài đều sẽ thành Phật.” Dưới mắt của Bồ-tát Thường Bất Khinh, ai cũng có thể thành Phật. Như vậy có người nào đáng để mình khinh chê đâu. Đáng chê chăng là tự chê mình không có tài, không có phương tiện chuyển hóa người từ mê thành giác. Bồ-tát Thường Bất Khinh lúc nào cũng lạc quan, vì Ngài thấy mọi người đều sẽ thành Phật. Noi gương Ngài, chúng ta gặp ai cũng phải kính nể vì tin rằng ai rồi cũng sẽ thành Phật. Với niềm tin đó, chúng ta cố gắng chuyển hóa mọi người để cùng thành Phật với mình. Dù người không bằng lòng, có đánh mắng, chúng ta vẫn cam chịu và giữ vững niềm tin. Chúng ta cố gắng làm lợi mình, lợi người trong mọi hoàn cảnh. Đó mới đúng tinh thần của người học đạo.
Tranh Thiền tông “Thập mục ngưu đồ” hay “Mười bức tranh chăn trâu”, bức thứ tám là không còn người không còn trâu, bức thứ chín là lá rụng về cội, chim bay về tổ, nước chảy về nguồn, danh từ nhà thiền gọi là nhập Phật giới. Từ chỗ không ngã không pháp (bức tranh thứ tám) bước qua một chặng nữa mới thể nhập được Pháp thân thanh tịnh tràn đầy của chúng ta, gọi là nhập Phật giới (bức tranh thứ chín). Khi chúng ta thể nhập được Pháp thân thanh tịnh rồi, nếu hài lòng ẩn trú trong cảnh tịnh đó là chưa đủ công đức giáo hóa lợi tha. Vì vậy sau khi nhập Phật giới rồi liền phải bước vào ma giới (bức tranh thứ mười). Trong mười bức tranh chăn trâu, bức thứ mười vẽ một Thiền sư đóng cửa am trên núi, tay cầm gậy, tay xách xâu cá chép với bầu rượu đi xuống chợ, gọi là “Nhập triền thùy thủ” tức là buông thõng tay vào chợ. Chính chỗ đó trong nhà thiền gọi là vào ma giới. Khi được thanh tịnh rồi, chúng ta phải lăn mình vào trong chợ đời để cảm hóa chúng sanh, hoà mình với mọi người còn đang mê muội, còn đang xấu xa mà không bị lầm lẫn, không bị hoen ố. Trong nhà thiền còn dùng danh từ là “đầu tro mặt đất”, tức là chúng ta bị bụi bặm nhem nhuốc vì làm lợi ích chúng sanh, chớ không phải chính mình bị bụi bặm làm nhơ nhớp. Giai đoạn này gọi là “hoà quang đồng trần”, tức trộn lẫn ánh sáng trong bụi bặm. Ánh sáng và bụi bặm tuy hoà lẫn, nhưng là một hay là hai? Ánh sáng không là bụi bặm được, ánh sáng bao giờ cũng là ánh sáng. Như vậy chúng ta phải thể nhập được Phật giới rồi mới đi vào ma giới. Nếu chưa vào Phật giới mà đi vào ma giới sớm quá, kết quả sẽ ra sao? Vì vậy sau khi ngộ đạo rồi, ngài Huệ Khả mới đi vào chợ đời, đến quán rượu, nhà hát v.v… Các Phật tử thấy vậy hỏi Ngài: “Hoà thượng tu hành, sao lại đến nơi này?” Ngài đáp: “Ta thử tâm ta, có liên hệ gì đến ông!” Đây là lúc Ngài vào ma giới.
Chúng ta phải thấy rõ là khi nào nên vào ma giới, khi nào không nên. Như chúng ta hiện nay chưa thấy đạo mà vào ma giới là bệnh. Khi chúng ta nhập được Phật giới rồi mới nói đến việc vào ma giới. Nhiều người chưa biết Phật giới, muốn vào ma giới sớm quá, bắt chước các bậc đạt đạo vào chợ đời, ngồi quán rượu và nói “tôi đây vào ma giới, buông thõng tay vào chợ”. Đó là những người dùng ngôn ngữ nhà thiền, ngôn ngữ Phật Tổ để che đậy lòng tham dục của chính mình, chớ không phải người tu chân thật.
Rõ được bệnh, chúng ta phải biết dùng những loại thuốc nào đúng lúc đúng lượng mới mong hết bệnh. Nếu không biết cách dùng thuốc, bệnh không hết mà lại tăng thêm. Trên đường tu hành chúng ta phải biết nên làm gì ở mỗi giai đoạn. Đang lúc nỗ lực tiến tu, buông bỏ các phiền não xấu xa, dù có ai rủ vào ma giới, chúng ta cũng không dám vào, vì việc tu chưa xong. Khi nào chúng ta thật tình thanh tịnh, hoàn toàn không còn nhiễm ô nữa, lúc ấy nếu có ai rủ vào ma giới, chính là lúc mình vào. Phải biết mình cho thật rõ, việc làm mới có lợi ích.
Chúng tôi vừa chỉ cho quí vị biết đâu là thuốc, đâu là bệnh, dùng thuốc đúng thời thì có lợi, nếu sai thời có hại. Vì vậy người tu phải rất thận trọng. Có nhiều người ban đầu tu hành rất hay, sau trở thành dở, vì sử dụng thuốc không đúng thời.
Nói vào ma giới, chúng tôi xin dẫn bài kệ “Nhập Trần” của Tuệ Trung Thượng Sĩ như sau:
Thiều thiều khoát bộ nhập trần lai,
Hoàng sắc mi đầu đỉnh đỉnh khai.
Bắc lí ưu du đầu mã phúc,
Đông gia tán đản nhập lư thai.
Kim tiên đả sấn nê ngưu tẩu,
Thiết sách khiên trừu thạch hổ hồi.
Tự đắc nhất triêu phong giải đống,
Bách hoa nhưng cựu lệ xuân đài.
Dịch:
Vào vòng cát bụi
Vào vòng cát bụi nhịp chân đưa,
Vàng óng đầu mi rực rỡ đùa.
Xóm bắc rong chơi gieo bụng ngựa,
Nhà đông vui bước nhập thai lừa.
Roi vàng đánh đuổi trâu bùn chạy,
Dây sắt lôi về cọp đá thua.
Bỗng được một hôm băng giá hết,
Trăm hoa như cũ rộn xuân xưa.
Trúc Thiên dịch.
Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ là một cư sĩ tại gia, mà đã nói được những câu siêu thoát như vậy! Sau đây là ý nghĩa của bài kệ:
Vào vòng cát bụi là vào ma giới.
Vào vòng cát bụi nhịp chân đưa: là chỉ hình ảnh vị Hoà thượng tay xách xâu cá chép đi vào chợ (Tranh Thiền tông thứ 10).
Vàng óng đầu mi rực rỡ đùa: tuy đi vào cát bụi nhưng đầu mi đầu mày của ngài vẫn rực rỡ, óng ánh chớ không nhem nhuốc đen tối. Câu này nói lên nghĩa “hoà quang đồng trần”, đem ánh sáng đến chỗ tối tăm (chớ không phải đem cái tối vào bóng tối).
Xóm bắc rong chơi gieo bụng ngựa: đến xóm bắc để nhập vào trong bụng ngựa thọ thai.
Nhà đông vui bước nhập thai lừa: nhập vào thai lừa ở bên nhà đông.
Hai câu này ý nói: Khi vào trong vòng cát bụi, không chọn nơi tốt, không tránh nơi xấu, nơi đâu cần làm lợi ích chúng sanh, các ngài cũng đến được. Không chọn lựa, không chê nơi xấu dở, các ngài vào những chỗ ấy để làm gì?
Roi vàng đánh đuổi trâu bùn chạy, dây sắt lôi về cọp đá thua: cầm roi vàng đánh con trâu đất, nó cũng chạy mịt. Nắm dây sắt kéo con cọp đá, cọp đá cũng phải đầu hàng. Trâu đất có biết chạy không? Cọp đá có phục ai không? Tại sao ở đây lại nói đánh trâu đất chạy, lôi cọp đá thua? Ý nói khi đến được thể thanh tịnh sáng suốt tròn đầy, chúng ta lăn mình vào cuộc đời để giáo hóa chúng sanh. Lúc ấy chúng ta diệu dụng, không phải là tầm thường, cho nên trong nhà thiền thường nói nắm đất hóa thành vàng, khuấy nước biển thành đề-hồ, tô-lạc. Khi con người đạt đến mức đó rồi, dù ở trong cảnh xấu xa bẩn thỉu cũng không bị vướng mắc, hay bị che lấp mờ lối đi. Hình ảnh đánh trâu đất chạy, lôi cọp đá thua là để chỉ diệu dụng không thể lường được của người đạt đạo. Đến hai câu kết:
Bỗng được một hôm băng giá hết: công dụng giáo hóa được viên mãn (tức là băng giá đã hết).
Trăm hoa như cũ rộn xuân xưa: lúc đó là một mùa Xuân đầy đủ trăm hoa như thuở nào.
Đại ý bài kệ nói khi chúng ta lao mình trong cát bụi tuy làm những việc rất tầm thường, rất xấu xa mà đầy đủ diệu dụng, chớ không bị nhiễm, không bị ô uế. Làm tròn những việc ấy rồi, chúng ta cũng trở về với thể thanh tịnh sáng suốt như thuở nào, tức là trở về chỗ mùa Xuân ngàn đời, đầy đủ trăm hoa không thiếu loại nào.
Trên đường tu nếu ai cũng thể hiện được tinh thần đạt đạo thì cuộc đời đẹp biết dường nào! Đâu còn phải than vắn thở dài, thiên hạ xấu quá tôi không thể giúp gì cho họ được, trái lại ta thấy mỗi chúng sanh đều có thể giáo hóa được. Chúng ta nỗ lực tiến tu để đến chỗ viên mãn thanh tịnh. Được thanh tịnh rồi, chính trong chỗ ô uế, xấu xa chúng ta dùng những diệu dụng không lường cảm hóa họ. Được như vậy, chúng ta an nhiên tự tại an trú Niết-bàn, thể nhập Pháp thân, trở về mùa Xuân tràn đầy hoa thơm cỏ lạ.
Để kết luận, tất cả quí vị nên nhớ: Chúng ta có hai bệnh. Một là bệnh chưa thanh tịnh mà tưởng mình thanh tịnh, rồi chê hết mọi người, đó là bệnh nan y. Ai bị bệnh này, phải sám hối một ngày bốn lần, chớ một hay hai lần cũng chưa hết bệnh được. Hai là nếu thật tình tu hành chín chắn, giữ giới trong sạch, ngôn ngữ hành động đều thanh tịnh, tâm niệm rất sáng suốt, rồi nhìn thấy mọi người còn dở, còn xấu quá nên muốn tách rời họ, muốn tránh xa họ để sự thanh tịnh của mình được trọn vẹn, đó cũng là bệnh. Vì sao? Vì trên cuộc đời này, chúng ta đều có sự liên hệ với nhau. Nếu chúng ta chỉ thấy riêng có một mình, không chịu kết chung với mọi người để chuyển hóa họ, đó là chúng ta tách rời mình ra khỏi nhân loại, ra khỏi chúng sanh. Tách riêng ra như vậy, e rồi chúng ta rơi xuống biển sâu, không đứng trên thế gian, không đứng trên mặt đất được. Vì vậy chúng ta ráng đừng bị bệnh thanh tịnh này. Còn một bệnh nữa là bệnh chưa thanh tịnh mà xưng là thanh tịnh rồi xông pha mọi nơi. Càng xông pha càng nhiễm ô, rốt cuộc một ngày nào đó mình làm kẻ tệ hơn tất cả thiên hạ, không phương cứu chữa.
Chúng tôi mong rằng tất cả Tăng Ni và Phật tử biết tu phải ráng tỉnh sáng, biết đúng thời, đúng lúc dùng thuốc trị tâm bệnh của mình. Sạch được những bệnh trong tâm rồi, một ngày kia chúng ta mới có thể làm tròn bổn phận của người xuất gia, của người tu theo đạo giác ngộ giải thoát. Đó là điều mong mỏi cuối năm của chúng tôi. Mong tất cả quí vị nỗ lực cố gắng.
TINH THẦN GIẢI THOÁT
TRONG GIÁO LÝ PHẬT-ĐÀ
Xuân Mậu Thìn - 1988
Hôm nay là ngày Tết Nguyên Đán năm Mậu Thìn, tất cả Tăng Ni và Phật tử về đây mừng tuổi chúng tôi. Chúng tôi nghĩ mồng một Tết không gì hơn là nhắc lại mục đích tối thượng của người tu Phật. “Ôn cố tri tân” là nhắc lại việc cũ để cùng nhớ, biết những điều mới để chúng ta thực hiện cho kỳ được. Đề tài chúng tôi nói hôm nay là Giải thoát.
Trong kinh đức Phật đã dạy: “Tất cả nước biển chỉ có một vị là vị mặn, tất cả giáo pháp của ta chỉ có một vị là vị giải thoát.” Như vậy mục tiêu tối thượng của người tu Phật là lấy sự giải thoát làm cứu kính. Nếu không nắm vững ý nghĩa giải thoát thì trên đường tu chúng ta khó đạt được mục đích của mình. Giải thoát là giải thoát những gì?
Nói đến giải thoát, chúng ta phải thấy nghĩa trái của nó. Trái với giải thoát là gì? Là triền phược tức trói buộc. Vì thấy bị trói buộc nên chúng ta cầu giải thoát. Trong vòng vây của phiền não, không làm sao tự thoát ra được nên chúng ta phải nương giáo pháp đức Thế Tôn chỉ dạy để thoát khỏi trần lao phiền não. Giải thoát có nghĩa là cởi mở, là mở trói, là tự do. Khi ở trong hoàn cảnh bị trói buộc, chúng ta khao khát được cởi mở. Ở trong hoàn cảnh bị gò bó hết sức chật hẹp, chúng ta muốn được tự do, được thoát ra ngoài. Vì vậy nói đến giải thoát là khi đang bị bủa vây ép ngặt, chớ không phải đang tự do tự tại. Bủa vây ép ngặt tức nhiên là khổ đau. Nói rõ hơn ý nghĩa giải thoát là giải thoát nỗi khổ đau của kiếp người.
Đi sâu vào vấn đề giải thoát, tại sao chúng ta cầu giải thoát? Và giải thoát như thế nào? Chúng ta phải nhìn thật kỹ, thấy thật rõ những điều đang trói buộc, đang làm mình đau khổ để từ đó cầu giải thoát. Mỗi khi lễ Phật nguyện hương, chúng ta đều nguyện đức Thế Tôn gia bị cho chúng con giải thoát hết khổ đau, dẹp sạch hết phiền não. Như vậy dẹp phiền não, dứt khổ đau là nhờ sự gia bị của đức Phật. Nhưng sự thật đức Phật có làm cho chúng ta giải thoát được không? Đó là một vấn đề. Hơn nữa, có nhiều người nghĩ rằng nói tới giải thoát là nói một việc gì xa xôi cao cả lắm, mình không bao giờ với tới được. Nói tới giải thoát là nói chuyện của những bậc Thánh chớ không phải của kẻ phàm. Cho nên khi nói tu với mục đích giải thoát, chúng ta xem như chuyện không bao giờ có, không bao giờ đến được, rồi tự khi mình và lui sụt, đó là bệnh.
Thuở xưa ở Trung Hoa có Thượng tọa Minh và Thượng tọa Thâm cùng đi qua sông Hoài. Khi ngồi đò sang sông, hai vị thấy nhiều người đánh cá đang kéo lưới. Lúc lưới kéo gần đến bờ, có một con cá từ trong lưới nhảy vọt ra ngoài. Thượng tọa Minh vỗ tay khen: “Hay thay! Giống như người xuất gia.” Thượng tọa Thâm bèn nói: “Đâu có hay gì, phải ở ngoài lưới mới hay chứ!” Thượng tọa Minh bảo: “Thế là huynh Thâm chưa hiểu.” Đi được một đoạn đường xa, Thượng tọa Thâm mới bừng hiểu mình đã sai.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy thế nào? Thượng tọa Thâm nói cũng có lý, đợi ở trong lưới mới nhảy ra chi bằng ở ngoài lưới chẳng thích hơn sao. Nhưng tại sao Thượng tọa Minh lại nói huynh Thâm chưa hiểu? Như chúng tôi đã định nghĩa, đang bị trói buộc ép ngặt, thoát được sự trói buộc ép ngặt gọi đó là giải thoát. Nếu không bị trói buộc, không bị ép ngặt còn nói giải thoát làm gì? Như con cá đang bị lưới bủa vây, không có lối thoát nó mới nhảy vọt lên để ra khỏi vòng lưới, đó là nó giải thoát được mành lưới. Nếu ở ngoài lưới rồi, nó đâu cần nhảy chi nữa. Cũng vậy, nếu chúng ta là Thánh rồi, không có phiền não, không có khổ đau, nói tu để giải thoát có đúng không? Hẳn là không vậy. Sở dĩ nói tu, nói cầu giải thoát là vì chúng ta bị phiền não, bị trói buộc nhiều bởi những tâm niệm xấu xa đen tối mà chính mình chưa chinh phục được. Vì thế chúng ta phải cố gắng nỗ lực bứt cho đứt hết mọi sợi dây phiền não, để nhảy tung ra một chân trời mới, đó gọi là giải thoát. Tóm lại, đang bị bao vây, đang bị đau khổ, chúng ta mới nói đến giải thoát. Đó là ý nghĩa câu chuyện của hai vị Thượng tọa khi xưa.
Sau này, Thiền sư Khuê ở Cổ Sơn bình câu chuyện đó bằng bốn câu tụng:
Võng trung đào xuất tiện nghi đằng,
Hà cá thiên nhiên tuấn nạp tăng.
Hà tợ đương sơ vị nhập võng,
Ngộ lai phương thủy thị tri âm.
Dịch:
Nhảy ra khỏi lưới lại bay xa,
Nào phải thiên nhiên bậc tác gia.
Đâu giống buổi đầu chưa vào lưới,
Tỉnh ra mới biết thật người nhà.
Nhảy ra khỏi lưới lại bay xa: Diễn tả hình ảnh con cá khi vượt ra khỏi lưới, nó bơi lội tung tăng, không dám lẩn quẩn ở đó nữa.
Nào phải thiên nhiên bậc tác gia: Bậc tác gia là người tu đạt đạo. Người đạt đạo không tự có sẵn, mà do công phu huân tu khó nhọc để chinh phục nội tâm của mình. Có vị Phật, vị Bồ-tát, vị A-la-hán nào bỗng dưng thành Phật, thành Bồ-tát, thành A-la-hán chăng? Chắc hẳn là không! Thành A-la-hán, thành Bồ-tát hay thành Phật gốc từ công phu tu hành, vượt khỏi phiền não, chinh phục được nội tâm của mình. Sau đó mới gọi là bậc tác gia, mới thành A-la-hán, mới chứng quả Bồ-đề, không phải bỗng dưng mà được. Nếu chúng ta quan niệm không cần tu, tự nhiên được kết quả, điều đó không bao giờ có.
Ý của Thượng tọa Thâm nói phải ở ngoài lưới, không đợi vô lưới mới nhảy ra cho phí công, nên câu sau nói: Đâu giống buổi đầu chưa vào lưới: Buổi đầu không vào lưới mới sung sướng, mới an ổn. Quan niệm như vậy là không đúng.
Tỉnh ra mới biết thật người nhà: Khi thức tỉnh rồi mới biết Sư huynh của mình nói hợp lý. Chúng ta đang ở trong vòng vây của phiền não, cám dỗ của sáu trần, khi thoát ra được mới gọi là giải thoát. Đó chính là sức mạnh của người tu. Nếu không như vậy thì không nói xuất gia làm gì.
Việc giải thoát có những trình tự cao thấp sai khác, không phải thuần như nhau. Các kinh theo tinh thần Nguyên thủy và các kinh theo tinh thần Phát triển nói về giải thoát khác nhau. Theo tinh thần Nguyên thủy, kinh A-hàm có câu chuyện ngài Phú-lâu-na đến hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn dạy cho pháp yếu để con đến chỗ vắng vẻ tu hành.” Đức Phật liền dạy: “Nếu mắt thấy sắc không đuổi theo, không chấp chặt, đó là gần với Niết-bàn. Ngược lại nếu mắt thấy sắc mà đuổi theo, chấp chặt đó là xa với Niết-bàn. Lỗ tai nghe tiếng, lỗ mũi ngửi mùi, thân xúc chạm, ý duyên với pháp trần nếu không đuổi theo, không chấp chặt là gần với Niết-bàn, còn đuổi theo, chấp chặt đó là xa Niết-bàn.” Khi nhận được pháp yếu rồi, ngài Phú-lâu-na đi đến chỗ vắng vẻ tu hành. Chỉ trong vòng ba tháng, Ngài đắc quả A-la-hán. Như vậy pháp yếu đức Phật dạy tu để giải thoát đâu có khác với chúng ta, sáu căn tiếp xúc với sáu trần mà không đuổi theo, không dính mắc hay chấp chặt đó là giải thoát. Nếu đuổi theo, nếu chấp chặt đó là trầm luân. Trầm luân hay giải thoát rất đơn giản, không đợi tới kiếp nào khác, mà ngay nơi hiện tại mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý duyên với pháp trần, chúng ta không đuổi theo, không dính mắc, ngay đó chúng ta đã giải thoát rồi. Giải thoát không phải là chuyện xa vời, không với tới được, mà chính là thực tế, cụ thể. Ngay nơi chúng ta ai cũng có khả năng giải thoát. Có người nào nghĩ rằng việc đó mình không thể làm nổi không? Ai cũng có thể làm được. Vì vậy nói đến tu giải thoát mới nghe tưởng như xa vời, cao siêu tuyệt đỉnh, nhưng sự thật hết sức gần gũi, hết sức thực tế. Ngược lại sự trầm luân cũng không xa lạ. Nếu mắt đuổi theo sắc rồi bám chặt vào sắc, tai đuổi theo tiếng rồi bám chặt vào tiếng v.v… đó chúng ta là trầm luân.
Trong kinh A-hàm, đức Phật kể một câu chuyện cho chư Tỳ-kheo nghe: Có một bầy khỉ, khỉ chúa dạy những khỉ nhỏ: Các ngươi đi ăn phải theo lệnh của ta chỉ dẫn, đừng tẽ đoàn đi lang thang sẽ bị nguy hiểm. Khỉ chúa khôn ngoan biết chỗ nào có bẫy rập, có thợ săn, nó tránh né không cho đoàn khỉ tới những chỗ ấy. Nhưng trong đoàn có một con khỉ hơi ngạo mạn lại tham ăn, nó nghĩ nếu đi theo đoàn mình ăn uống không được đầy đủ, chi bằng tách riêng kiếm thức ăn một mình, tha hồ ăn uống no nê. Nó tách đoàn đi đến một chỗ kia, chẳng may gặp người thợ săn dùng cây nhựa để bẫy khỉ. Cây nhựa rất dẻo và chắc, bên cạnh cây nhựa có để miếng mồi nhử khỉ. Khỉ con dại khờ thấy mồi mừng quá, nhảy tới chụp. Vừa đưa tay mặt chụp mồi liền bị nhựa dính, tay trái chụp vào để gỡ bị dính luôn. Thế là hai tay đều bị dính nhựa. Nó đưa chân mặt vô để quào dính chân mặt, đưa chân trái quào dính chân trái. Như vậy là hai tay hai chân đều bị dính. Nó cúi đầu xuống cạp gỡ cũng bị dính luôn. Chỉ còn cái đuôi ngoắt ngoắt, nó cố gắng vùng vẫy để quật cái bẫy ra cũng bị dính luôn. Như vậy hai tay, hai chân, đầu và đuôi đều bị dính nhựa không thoát thân được. Lúc ấy người thợ săn đến lượm khỉ bỏ vô giỏ đem về.
Qua câu chuyện trên, đức Phật muốn dạy chúng ta điều gì? Vì quyền lợi vì thích thụ hưởng, con khỉ tách đoàn ra đi, nên bị thợ săn đánh bẫy. Khi sáu bộ phận bị dính bẫy rồi, người ta bắt đem về dễ dàng không còn ai cứu được. Cũng vậy, người xuất gia ở trong đoàn thể Tăng hay Ni, có vị thầy chỉ dạy hướng dẫn, nhưng họ thích thụ hưởng riêng, thích làm theo ý mình, dù thiếu kinh nghiệm mà vẫn đi ra ngoài. Khi ra ngoài, mắt thấy sắc liền nhiễm sắc, tai nghe tiếng liền nhiễm tiếng, cho đến sáu căn bị cột dính với sáu trần. Lúc đó Ma vương dẫn đi một cách dễ dàng, như chú thợ săn lượm con khỉ bỏ vào giỏ một cách dễ dàng, không khó khăn chút nào.
Khi sáu căn dính với sáu trần, chúng ta lọt vào bàn tay của ai? Của Ma vương. Lọt vào bàn tay của Ma vương rồi, khó hi vọng được giải thoát. Vì vậy người tu muốn được giải thoát phải gan dạ như lời đức Phật dạy: Sáu căn tiếp xúc với sáu trần đừng đuổi theo, đuổi theo là tham cầu; đừng dính mắc, dính mắc là nhiễm trước. Không tham cầu, không nhiễm trước, tức nhiên chúng ta được giải thoát, sự giải thoát đến với chúng ta hết sức dễ dàng. Nếu chúng ta đuổi theo sáu trần là tham cầu, dính mắc nó là nhiễm trước, khi ấy có vùng vẫy mấy cũng khó thoát khỏi bàn tay của Ma vương.
Người tu muốn được giải thoát không phải là chuyện xa xôi, mà chính là chuyện thực tế trong cuộc sống hằng ngày. Nếu một người sáu căn tiếp xúc với sáu trần không dính không mắc, không đuổi theo, người ấy có hào quang chưa? Đâu có, chỉ là không dính mắc sáu trần thôi. Người ấy có biết chuyện quá khứ, vị lai chưa? Đâu biết quá khứ, vị lai gì. Nhưng người ấy có giải thoát thật chưa? - Có. Như vậy không phải có hào quang, không phải biết quá khứ vị lai mới giải thoát, mà chính sáu căn không bị sáu trần lôi cuốn, cột trói, đó là giải thoát. Sáu trần cột trói mình hay mình cột vào nó? Sự thật là mình cột vào sáu trần, nghĩa là thấy nó ta đuổi theo rồi bám chặt vào nó, đó là dính mắc vào sáu trần, rồi than van cầu xin Phật Trời cứu giúp. Ai trói buộc mà mình kêu cứu, thắp hương cầu giải thoát? Phật bảo buông mà chúng ta nắm chặt quá, kẹt tay trong đó, rồi than Phật Trời không cứu! Muốn cứu chúng ta, đức Phật dạy: “Ngươi chịu khó buông đi.”
Chúng ta thật giống như đứa bé thò tay vào hũ kẹo. Khi tay không nó thò vào hũ được, nhưng vì thích kẹo quá nên nắm đầy cứng, rút tay ra không được rồi kêu khóc. Mẹ thương con, bảo: “Con buông đi, tay không rút ra dễ dàng, chớ có khó gì.” Như vậy thuật giải thoát là gì? Chỉ một cái buông, nếu tay cứ nắm đầy kẹo, làm sao mẹ cứu con được!
Đức Phật bảo chúng ta đừng dính với sáu trần, các Thiền sư cũng dạy buông đi, hiện nay chúng tôi cũng nhắc quí vị đừng chạy theo sáu trần. Câu nói hết sức đơn giản mà tràn đầy tinh thần giải thoát. Nếu khéo một chút, gan dạ một chút, đừng tiếc, như đứa bé không tiếc kẹo, thì lấy tay ra dễ dàng, không phải than khóc.
Trên đường tu, chính vì cầu giải thoát, chúng ta đừng tham luyến, đừng đắm trước sáu trần. Không tham luyến, không đắm trước sáu trần là nhân của giải thoát, chớ không tìm điều gì khác lạ. Không phải có thần thông, không phải biết quá khứ vị lai, không phải có hào quang sáng chói mà giải thoát được. Các quỉ thần cũng có hào quang, biết quá khứ vị lai, nhưng vẫn không giải thoát. Lý giải thoát của đạo Phật vừa cụ thể vừa thực tế mà cũng rất dễ dàng. Chỉ cần đừng làm đứa bé tham kẹo thôi, nếu tham kẹo thì khó, không tham kẹo thì dễ. Tất cả quí vị xuất gia và tại gia có ai nghĩ mình ngu khờ như đứa bé ham kẹo đó không? Tất nhiên không ai ngu khờ như vậy, chỉ cần buông thì lấy tay ra dễ dàng. Đức Phật đã dạy: “Các ngươi buông đi, đừng dính với sáu trần, đó là giải thoát.” Nếu chúng ta không chịu buông, mà cầu xin Phật giúp con được giải thoát, thì giống như đứa bé tham ăn kẹo vậy. Buông đi thì hết đau khổ. Đây là giải thoát theo tinh thần Nguyên thủy.
Kế đến, chúng tôi nói sự giải thoát trong nhà thiền. Ngày xưa, có một Thiền khách đến hỏi Thiền sư Huệ Hải: “Thế nào là giải thoát?” Ngài Huệ Hải trả lời: “Căn trần không dính nhau là giải thoát.” Câu trả lời hết sức đơn giản! Sáu căn không dính mắc sáu trần, đó là giải thoát. Câu trả lời vừa đơn giản vừa thực tế, nhưng mới nghe qua chúng ta thấy khó hiểu. Vì sao? Vì chúng ta tưởng tượng giải thoát rất xa vời, phải có thần thông biến hóa, đi đến các cõi trời v.v…, không ngờ sáu căn không dính với sáu trần là giải thoát. Sự thật quá đơn giản này làm người đọc sách thiền cho là khó hiểu.
Câu chuyện thứ hai trong nhà thiền là: Tổ Đạo Tín khi còn Sa-di đến hỏi đạo với Tổ Tăng Xán: “Bạch Hòa thượng, làm sao được giải thoát?” Tổ Tăng Xán liền hỏi: “Ai trói buộc ngươi?” Ngài Đạo Tín đáp: “Không ai trói buộc cả.” Tổ Tăng Xán bảo: “Cầu giải thoát làm gì?” Ngài Đạo Tín liền nhận được lý giải thoát. Ngài quan niệm như chúng ta hiện giờ, nghĩ mình đang bị trói buộc, đang bị bủa vây rất khổ sở, nên mới cầu giải thoát. Nhưng chúng ta phải nhìn thẳng xem cái gì trói buộc, cái gì bủa vây mình? Nếu nhìn thẳng không thấy cái gì trói buộc, cái gì bủa vây cả, ngay đó chúng ta được giải thoát rồi. Câu chuyện đối đáp giữa Tổ Tăng Xán và Tổ Đạo Tín nói lên ý nghĩa đó: “Không ai trói buộc thì cầu giải thoát làm gì?” Chúng ta nghĩ rằng những phiền não, những tâm niệm đen tối xấu xa đang trói buộc chúng ta nên cầu giải thoát. Nhưng Tổ bảo chúng ta nhìn thẳng xem những phiền não, những tâm niệm ấy có thật sự trói buộc mình hay không? Khi nhìn thẳng lại chúng nó liền biến mất, còn gì nữa mà cầu giải thoát!
Cũng chính với tinh thần này Tổ Bồ-đề-đạt-ma đã dạy Tổ Huệ Khả pháp an tâm. Tổ Huệ Khả than: “Tâm con bất an, xin Hòa thượng dạy con pháp an tâm.” Tổ Bồ-đề-đạt-ma bảo: “Đem tâm ra ta an cho.” Tâm bất an của Tổ Huệ Khả là tâm gì? Tâm phiền não, tâm trói buộc, tâm xấu xa. Các tâm đó đang làm cho Ngài bất an nên Ngài cầu được an tâm, cũng như Tổ Đạo Tín cầu được giải thoát. Khi ấy Tổ Bồ-đề-đạt-ma chỉ cần bảo “đem tâm ra ta an cho”, ngài Huệ Khả nhìn sững lại xem tâm ra làm sao mà đem. Nhìn sững lại thì nó mất tiêu, nó tan hoang không còn, Ngài liền trả lời: “Con tìm tâm không được.” Tổ Bồ-đề-đạt-ma bảo: “Ta đã an tâm cho ngươi rồi.” Như vậy pháp an tâm của Tổ Đạt-ma và “cầu giải thoát làm gì” của Tổ Tăng Xán có khác nhau không? Thật là không hai, hình thức có khác, nhưng tinh thần không khác. Tổ Tăng Xán chỉ cho Tổ Đạo Tín con đường giải thoát bằng cách nhìn lại xem cái gì trói buộc mình. Nhìn lại không thấy có gì trói buộc, ngay đó đã giải thoát rồi.
Chúng tôi hiện nay sống cách xa Tổ hơn ngàn năm, chúng tôi dạy quí vị tu phải làm gì? Quí vị nghĩ rằng các phiền não làm cho mình khổ đau, buồn phiền, bực bội. Chúng tôi bảo quí vị hãy buông các thứ phiền não ấy đi. Nhìn lại nó, thấy biết mặt thật của nó rồi, buông đi đừng theo thì hết phiền não, hết khổ đau, đó là tu vậy. Việc này đâu có khác với lời dạy người xưa bao nhiêu. Tinh thần giải thoát nằm ngay chỗ nhìn thẳng, thấy mặt thật của những phiền não. Thấy được mặt thật của chúng rồi, tự chúng tan hoang. Nói biết vọng, nói buông đi là một lối nói thôi. Sự thật nhìn lại thấy nó thì nó đã mất hết rồi, còn gì nữa mà phải biết, còn gì nữa mà phải buông. Đây là trọng tâm chỉ dạy của Thiền tông. Trọng tâm này, chính Tổ Bồ-đề-đạt-ma đã dạy Tổ Huệ Khả, Tổ Tăng Xán đã dạy Tổ Đạo Tín. Đó là chủ đích chúng tôi muốn chỉ cho quí vị.
Các Tổ dạy chúng ta tu giải thoát đúng với tinh thần đức Phật đã nói: “Tất cả nước biển chỉ có một vị, vị mặn; tất cả giáo pháp của ta chỉ có một vị, vị giải thoát.” Như đoạn trên đã nói sáu căn tiếp xúc với sáu trần, không dính không mắc là giải thoát. Đoạn này Tổ dạy nhìn các tâm niệm đang chạy theo sáu trần, biết chúng không thật, đó là giải thoát. Đoạn trước nói về các căn bên ngoài không cho dính với trần cảnh, đoạn này nói về các tâm niệm bên trong. Ngay từ cội gốc, các tâm niệm vừa dấy khởi chạy theo cảnh, chúng ta biết sự thật về chúng nó thì chúng tan hoang ngay từ trứng nước. Chúng ta dẹp các tâm niệm ngay lúc còn trong bào thai, không đợi nó dính với cảnh mới tháo gỡ. Như vậy sự giải thoát này là ngay bên trong, sâu hơn và tế nhị hơn. Giải thoát theo tinh thần Nguyên thủy là sáu căn không dính mắc với sáu trần. Giải thoát theo tinh thần nhà thiền là dẹp các tâm niệm ngay khi còn trong trứng nước. Các niệm vừa dấy khởi đã bị tiêu diệt ngay, không có niệm đuổi theo trần cảnh. Mắt thấy sắc không dính với sắc, tai nghe tiếng không dính với tiếng, mũi ngửi mùi không dính với mùi… Các niệm đã diệt rồi, lo gì chúng ra nơi mắt, nơi tai, nơi mũi mà dính với sáu trần được. Đó là chủ yếu của Tổ sư Thiền.
Để hiểu rõ hơn tinh thần giải thoát trong nhà thiền, chúng tôi xin dẫn bài kệ “Sơn Phòng Mạn Hứng” của một Thiền sư đời Trần ở Việt Nam, ngài Điều Ngự Giác Hoàng, tức vua Trần Nhân Tông:
Thùy phược cánh tương cầu giải thoát,
Bất phàm hà tất mịch thần tiên.
Viên nhàn, mã quyện nhân ưng lão,
Y cựu vân trang nhất tháp thiền.
Dịch:
Ai trói lại mong cầu giải thoát,
Chẳng phàm nào phải kiếm thần tiên.
Vượn nhàn, ngựa nhọc, người cũng lão,
Như cũ am mây một giường thiền.
Ngài Trần Nhân Tông nói rất rõ: Chúng ta cầu giải thoát vì thấy bị trói buộc, nhưng ai trói buộc ta? Chẳng qua là những tâm niệm tham mê đắm trước trói buộc chúng ta. Những tâm niệm ấy vừa dấy lên, chúng ta thấy nó rồi, tức thì nó tan hoang, còn ai trói buộc mình mà cầu giải thoát? Biết các tâm niệm là tạm bợ, hư dối, chúng ta không chạy theo nó, đó là giải thoát.
Hơn nữa, nói trói buộc là trói buộc thân năm uẩn này, còn một cái không bao giờ bị trói buộc, đó là cái gì? Đó là cái không tên. Cái đó không phải phàm, không phải Thánh. Không phải phàm, cầu thành tiên làm gì? Không phải phàm, cần cầu Thánh hay không? Sở dĩ chúng ta muốn được thành Thánh vì thấy mình là phàm. Cái đó không phải phàm, tức nhiên không cầu thành Thánh, cũng không cầu thành thần tiên chi nữa.
Vượn nhàn, ngựa nhọc, người cũng lão: Vượn chỉ cho các niệm dấy khởi của chúng ta lăng xăng như khỉ vượn. Ngựa chỉ cho ý rong ruổi bên ngoài. Tâm viên ý mã đã yên rồi, không còn lăng xăng nữa, khi ấy chúng ta cũng già rồi không còn ham muốn, không còn đuổi theo cái gì nữa. Lúc ấy ra sao?
Như cũ am mây một giường thiền: Lúc ấy chỉ còn một giường thiền ở trong am mây mà thôi. Giường thiền đó giống như giường của ông Duy-ma-cật nằm bệnh. Trên đường tu lúc nào tâm viên ý mã chịu dừng chịu lặng, lúc đó chúng ta sẽ hiện tiền giải thoát viên mãn. Sự giải thoát viên mãn đó được tượng trưng bằng chiếc giường thiền, giường của ông Duy-ma-cật nằm bệnh v.v… Đối với sự tu hành, cốt làm sao tâm viên ý mã nằm yên ngủ, lúc đó cái chân thật hiện tiền, không phải tìm kiếm ở đâu xa xôi.
Ngũ Tổ giảng kinh Kim Cang đến đoạn ngài Tu-bồ-đề hỏi Phật: Người cầu Vô thượng Bồ-đề làm sao an trụ được tâm của mình. Phật trả lời: “Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.” Nghĩa là người phát tâm cầu Vô thượng Bồ-đề không nên trụ nơi sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Không có chỗ trụ, đó là trụ. Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, tức là không nên có chỗ trụ mà sanh tâm Vô thượng Bồ-đề. Nghe tới câu đó, Lục Tổ đại ngộ thốt lên:
Đâu ngờ tánh mình xưa nay vốn thanh tịnh,
Đâu ngờ tánh mình xưa nay vốn tự đầy đủ,
Đâu ngờ tánh mình hay sanh muôn pháp v.v…
Các chữ đâu ngờ, nói lên chỗ ngộ của Lục Tổ, Ngài ngộ cái gì? Ngài ngộ sáu căn không dính với sáu trần là giải thoát, phải không? Chưa phải. Nếu ngộ sáu căn không dính với sáu trần, Ngài là Nhị thừa, không phải là Tổ trong Thiền tông. Câu hỏi: “Người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, muốn an trụ tâm ấy, phải làm sao?” Đáp: “Không dính với sáu trần là an trụ tâm Vô thượng Bồ-đề.” Ngay câu đáp này Lục Tổ thấy rõ tâm không chạy theo sáu trần là Vô thượng Bồ-đề hiện tiền. Vô thượng Bồ-đề đó đã sẵn thanh tịnh, đã sẵn đầy đủ và diệu dụng vô cùng.
Ở đoạn trên nói sáu căn không dính với sáu trần đó là giải thoát, chúng ta không biết cái gì giải thoát. Ở đây, khi nghe câu đáp, Lục Tổ thấy được mặt thật của sự giải thoát. Vì thấy được mặt thật đó nên Ngài mới thốt lên những câu “đâu ngờ”. Khi nghe như thế, Ngũ Tổ biết đệ tử đã ngộ, nên ngay đó truyền y bát.
Chúng ta thấy đối với Thiền tông không phải chỉ gỡ hết những dính mắc bên ngoài, gọi là giải thoát mà phải thấy được mặt thật của sự giải thoát, điều này các bộ kinh Nhị thừa chưa đề cập tới. Giải thoát là cởi mở, cởi mở là động từ chớ không phải chủ từ. Cởi mở cái gì? Ở đoạn trước, theo tinh thần Nguyên thủy, chúng ta nghĩ được giải thoát mà không biết cái gì được giải thoát. Với tinh thần nhà Thiền, Lục Tổ không thấy như vậy, Ngài thấy cái giải thoát đó là tánh Bồ-đề sẵn có của chính chúng ta. Tánh Bồ-đề đó thanh tịnh từ thuở nào, tánh Bồ-đề đó đầy đủ muôn pháp, tánh Bồ-đề đó đầy đủ diệu dụng. Sống được với tánh Bồ-đề đó gọi là giải thoát. Giải thoát là tánh Bồ-đề không bị nhiễm với sáu trần, nó là cái chủ thật của mình. Vì vậy trong nhà thiền gọi nó là Bản lai diện mục, là Chủ nhân ông v.v… Hiểu như vậy quí vị mới thấy trình tự tu tiến của người tu, nếu không chúng ta có thể hiểu lầm. Lục Tổ ngộ được lý giải thoát, không phải chỉ là động từ giải thoát mà Ngài thấy được Ông chủ là người không bị trói buộc, Ông chủ mới là chủ từ. Ông chủ đó mới thật là mình, sống được với Ông chủ đó mới thật viên mãn giải thoát.
Ngài Ngưỡng Sơn đến hỏi đạo với ngài Trung Ấp: “Bạch Hòa thượng, thế nào là nghĩa Phật tánh?” Ngài Trung Ấp đáp: “Ta nói thí dụ thì ông hiểu. Như có con khỉ ở trong cái nhà sáu cửa. Bên ngoài có một con khỉ đến mỗi cửa kêu chéo chéo, con khỉ bên trong cũng đáp lại chéo chéo.” Nghe tới đó ngài Ngưỡng Sơn hỏi: “Bạch Hòa thượng, nếu con khỉ trong nhà ngủ thì sao?” Hòa thượng Trung Ấp liền từ giường thiền bước xuống, nắm tay ngài Ngưỡng Sơn nói: “Chéo chéo! Ta và ông đã thấy nhau rồi.”
Qua câu chuyện trên, chúng ta hiểu thế nào? Cái nhà sáu cửa là dụ cho sáu căn của chúng ta, con khỉ ở ngoài kêu chéo chéo là dụ cho sáu trần. Khi sáu căn duyên với sáu trần, con khỉ ở trong ứng lên đối đáp, nên gọi là dính mắc. Nếu con khỉ ở trong ngủ, con khỉ ở ngoài kêu chéo chéo cách mấy, nó cũng không ứng đáp. Tuy mỗi cửa đều có kêu, có động, nhưng vì nó ngủ nên không đáp lại, chớ vẫn có mặt trong nhà. Hình ảnh con khỉ ngủ giống như chỗ Lục Tổ thấy. Ngài thấy cái đó nó sẵn có, thanh tịnh từ thuở nào.
Tinh thần Thiền tông chỉ cho chúng ta thấy cái không dính với sáu trần gọi là giải thoát, không phải động từ giải thoát suông, mà có Ông chủ nằm yên không chạy ra. Sống được với Ông chủ đó mới thật sự giải thoát. Chúng ta tu thiền cốt làm sao sống được với Ông chủ đó.
Có một Phật tử nói rằng nước biển nổi sóng ầm ầm mà nó không biết có chứa muối bên trong. Đến khi nước tràn vào bờ, bị ngăn chận lại rồi khô đi, bấy giờ chất muối mới hiện ra. Như vậy muối khi ở biển hòa tan với nước, nó đã có sẵn trong nước. Nước bốc hơi muối cô đọng lại thì nước và muối là hai. Tôi chấm câu chuyện đó dưới điểm trung bình.
Ở đây Lục Tổ nói “không phải hai”, Ông chủ đó đâu ai khác hơn ngoài mình. Nhưng vì mê, ta sống với điên đảo vọng tưởng, bị nó dẫn chạy, nên luân hồi, trói buộc. Nếu tỉnh chúng ta không chạy theo vọng tưởng điên đảo, sống thật với Ông chủ, thì Ông chủ lúc nào chẳng hiện tiền. Bên ngoài có kêu gọi, dù không đáp lại, ông vẫn mở mắt nhìn mà không dính mắc. Trường hợp con khỉ trong nhà cũng vậy, đừng tưởng đợi đối đáp, nó mới có mặt. Chính khi không đối đáp, nó cũng vẫn hiện hữu.
Chúng ta giải thoát bằng cách là phải sống thật với Ông chủ, hay là với Bản lai diện mục của mình, cái đó đã có sẵn trong chúng ta muôn đời mà mình quên đi. Ngày nay được Phật Tổ nhắc chỉ, chúng ta phải ráng nỗ lực sống trở lại. Quên Ông chủ, gọi là mê, sống trở về với Ông chủ gọi là tỉnh là giác. Kẻ mê làm chúng sanh trầm luân trong sáu đường, đau khổ, bị phiền trược. Nếu tỉnh trở về với Ông chủ, không còn bị sáu trần lôi kéo nữa, khi đó hoàn toàn giải thoát. Giải thoát không có nghĩa là chúng ta phải nhờ ai phụ giúp, mà tự biết tỉnh giác, biết trở về với chính mình. Bổn phận chúng ta là phải trở về, chớ không ai làm thế, cũng không ai bắt buộc. Rất đáng thương cho chúng sanh tự có của báu mà không biết, lại thở than, đau khổ muôn đời. Chúng ta được vinh hạnh, được phước đức nhờ Phật Tổ chỉ, tuy chưa thấy tận mặt tận mày, nhưng cũng mang máng biết, mang máng tin, đó cũng là phước đức lớn.
Mỗi một năm qua là một lần đưa chúng ta đến gần chỗ chết, chúng ta có duyên phúc lớn, phước lành nhiều, mong tất cả cố gắng làm tròn bổn phận của mình để khỏi uổng một đời làm người mà không tỉnh giác, không để bị gạt, chạy theo cái giả dối, điên cuồng, quên mất cái chân thật của chính mình. Được như vậy mới xứng đáng là con dòng họ Thích, xứng đáng là kẻ quyết chí đi theo con đường Phật Tổ đã đi.
Hôm nay là ngày đầu năm, chúng tôi mong sang năm mới này, tất cả quí vị có được sức tỉnh giác mạnh hơn, càng ngày càng nhận thấy tường tận cái chân thật của chính mình, sống trở về, đừng bị ngoại cảnh lôi cuốn mà phải phiêu bạt, trầm luân đau khổ.
TRONG GIÁO LÝ PHẬT-ĐÀ
Xuân Mậu Thìn - 1988
Hôm nay là ngày Tết Nguyên Đán năm Mậu Thìn, tất cả Tăng Ni và Phật tử về đây mừng tuổi chúng tôi. Chúng tôi nghĩ mồng một Tết không gì hơn là nhắc lại mục đích tối thượng của người tu Phật. “Ôn cố tri tân” là nhắc lại việc cũ để cùng nhớ, biết những điều mới để chúng ta thực hiện cho kỳ được. Đề tài chúng tôi nói hôm nay là Giải thoát.
Trong kinh đức Phật đã dạy: “Tất cả nước biển chỉ có một vị là vị mặn, tất cả giáo pháp của ta chỉ có một vị là vị giải thoát.” Như vậy mục tiêu tối thượng của người tu Phật là lấy sự giải thoát làm cứu kính. Nếu không nắm vững ý nghĩa giải thoát thì trên đường tu chúng ta khó đạt được mục đích của mình. Giải thoát là giải thoát những gì?
Nói đến giải thoát, chúng ta phải thấy nghĩa trái của nó. Trái với giải thoát là gì? Là triền phược tức trói buộc. Vì thấy bị trói buộc nên chúng ta cầu giải thoát. Trong vòng vây của phiền não, không làm sao tự thoát ra được nên chúng ta phải nương giáo pháp đức Thế Tôn chỉ dạy để thoát khỏi trần lao phiền não. Giải thoát có nghĩa là cởi mở, là mở trói, là tự do. Khi ở trong hoàn cảnh bị trói buộc, chúng ta khao khát được cởi mở. Ở trong hoàn cảnh bị gò bó hết sức chật hẹp, chúng ta muốn được tự do, được thoát ra ngoài. Vì vậy nói đến giải thoát là khi đang bị bủa vây ép ngặt, chớ không phải đang tự do tự tại. Bủa vây ép ngặt tức nhiên là khổ đau. Nói rõ hơn ý nghĩa giải thoát là giải thoát nỗi khổ đau của kiếp người.
Đi sâu vào vấn đề giải thoát, tại sao chúng ta cầu giải thoát? Và giải thoát như thế nào? Chúng ta phải nhìn thật kỹ, thấy thật rõ những điều đang trói buộc, đang làm mình đau khổ để từ đó cầu giải thoát. Mỗi khi lễ Phật nguyện hương, chúng ta đều nguyện đức Thế Tôn gia bị cho chúng con giải thoát hết khổ đau, dẹp sạch hết phiền não. Như vậy dẹp phiền não, dứt khổ đau là nhờ sự gia bị của đức Phật. Nhưng sự thật đức Phật có làm cho chúng ta giải thoát được không? Đó là một vấn đề. Hơn nữa, có nhiều người nghĩ rằng nói tới giải thoát là nói một việc gì xa xôi cao cả lắm, mình không bao giờ với tới được. Nói tới giải thoát là nói chuyện của những bậc Thánh chớ không phải của kẻ phàm. Cho nên khi nói tu với mục đích giải thoát, chúng ta xem như chuyện không bao giờ có, không bao giờ đến được, rồi tự khi mình và lui sụt, đó là bệnh.
Thuở xưa ở Trung Hoa có Thượng tọa Minh và Thượng tọa Thâm cùng đi qua sông Hoài. Khi ngồi đò sang sông, hai vị thấy nhiều người đánh cá đang kéo lưới. Lúc lưới kéo gần đến bờ, có một con cá từ trong lưới nhảy vọt ra ngoài. Thượng tọa Minh vỗ tay khen: “Hay thay! Giống như người xuất gia.” Thượng tọa Thâm bèn nói: “Đâu có hay gì, phải ở ngoài lưới mới hay chứ!” Thượng tọa Minh bảo: “Thế là huynh Thâm chưa hiểu.” Đi được một đoạn đường xa, Thượng tọa Thâm mới bừng hiểu mình đã sai.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy thế nào? Thượng tọa Thâm nói cũng có lý, đợi ở trong lưới mới nhảy ra chi bằng ở ngoài lưới chẳng thích hơn sao. Nhưng tại sao Thượng tọa Minh lại nói huynh Thâm chưa hiểu? Như chúng tôi đã định nghĩa, đang bị trói buộc ép ngặt, thoát được sự trói buộc ép ngặt gọi đó là giải thoát. Nếu không bị trói buộc, không bị ép ngặt còn nói giải thoát làm gì? Như con cá đang bị lưới bủa vây, không có lối thoát nó mới nhảy vọt lên để ra khỏi vòng lưới, đó là nó giải thoát được mành lưới. Nếu ở ngoài lưới rồi, nó đâu cần nhảy chi nữa. Cũng vậy, nếu chúng ta là Thánh rồi, không có phiền não, không có khổ đau, nói tu để giải thoát có đúng không? Hẳn là không vậy. Sở dĩ nói tu, nói cầu giải thoát là vì chúng ta bị phiền não, bị trói buộc nhiều bởi những tâm niệm xấu xa đen tối mà chính mình chưa chinh phục được. Vì thế chúng ta phải cố gắng nỗ lực bứt cho đứt hết mọi sợi dây phiền não, để nhảy tung ra một chân trời mới, đó gọi là giải thoát. Tóm lại, đang bị bao vây, đang bị đau khổ, chúng ta mới nói đến giải thoát. Đó là ý nghĩa câu chuyện của hai vị Thượng tọa khi xưa.
Sau này, Thiền sư Khuê ở Cổ Sơn bình câu chuyện đó bằng bốn câu tụng:
Võng trung đào xuất tiện nghi đằng,
Hà cá thiên nhiên tuấn nạp tăng.
Hà tợ đương sơ vị nhập võng,
Ngộ lai phương thủy thị tri âm.
Dịch:
Nhảy ra khỏi lưới lại bay xa,
Nào phải thiên nhiên bậc tác gia.
Đâu giống buổi đầu chưa vào lưới,
Tỉnh ra mới biết thật người nhà.
Nhảy ra khỏi lưới lại bay xa: Diễn tả hình ảnh con cá khi vượt ra khỏi lưới, nó bơi lội tung tăng, không dám lẩn quẩn ở đó nữa.
Nào phải thiên nhiên bậc tác gia: Bậc tác gia là người tu đạt đạo. Người đạt đạo không tự có sẵn, mà do công phu huân tu khó nhọc để chinh phục nội tâm của mình. Có vị Phật, vị Bồ-tát, vị A-la-hán nào bỗng dưng thành Phật, thành Bồ-tát, thành A-la-hán chăng? Chắc hẳn là không! Thành A-la-hán, thành Bồ-tát hay thành Phật gốc từ công phu tu hành, vượt khỏi phiền não, chinh phục được nội tâm của mình. Sau đó mới gọi là bậc tác gia, mới thành A-la-hán, mới chứng quả Bồ-đề, không phải bỗng dưng mà được. Nếu chúng ta quan niệm không cần tu, tự nhiên được kết quả, điều đó không bao giờ có.
Ý của Thượng tọa Thâm nói phải ở ngoài lưới, không đợi vô lưới mới nhảy ra cho phí công, nên câu sau nói: Đâu giống buổi đầu chưa vào lưới: Buổi đầu không vào lưới mới sung sướng, mới an ổn. Quan niệm như vậy là không đúng.
Tỉnh ra mới biết thật người nhà: Khi thức tỉnh rồi mới biết Sư huynh của mình nói hợp lý. Chúng ta đang ở trong vòng vây của phiền não, cám dỗ của sáu trần, khi thoát ra được mới gọi là giải thoát. Đó chính là sức mạnh của người tu. Nếu không như vậy thì không nói xuất gia làm gì.
Việc giải thoát có những trình tự cao thấp sai khác, không phải thuần như nhau. Các kinh theo tinh thần Nguyên thủy và các kinh theo tinh thần Phát triển nói về giải thoát khác nhau. Theo tinh thần Nguyên thủy, kinh A-hàm có câu chuyện ngài Phú-lâu-na đến hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn dạy cho pháp yếu để con đến chỗ vắng vẻ tu hành.” Đức Phật liền dạy: “Nếu mắt thấy sắc không đuổi theo, không chấp chặt, đó là gần với Niết-bàn. Ngược lại nếu mắt thấy sắc mà đuổi theo, chấp chặt đó là xa với Niết-bàn. Lỗ tai nghe tiếng, lỗ mũi ngửi mùi, thân xúc chạm, ý duyên với pháp trần nếu không đuổi theo, không chấp chặt là gần với Niết-bàn, còn đuổi theo, chấp chặt đó là xa Niết-bàn.” Khi nhận được pháp yếu rồi, ngài Phú-lâu-na đi đến chỗ vắng vẻ tu hành. Chỉ trong vòng ba tháng, Ngài đắc quả A-la-hán. Như vậy pháp yếu đức Phật dạy tu để giải thoát đâu có khác với chúng ta, sáu căn tiếp xúc với sáu trần mà không đuổi theo, không dính mắc hay chấp chặt đó là giải thoát. Nếu đuổi theo, nếu chấp chặt đó là trầm luân. Trầm luân hay giải thoát rất đơn giản, không đợi tới kiếp nào khác, mà ngay nơi hiện tại mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý duyên với pháp trần, chúng ta không đuổi theo, không dính mắc, ngay đó chúng ta đã giải thoát rồi. Giải thoát không phải là chuyện xa vời, không với tới được, mà chính là thực tế, cụ thể. Ngay nơi chúng ta ai cũng có khả năng giải thoát. Có người nào nghĩ rằng việc đó mình không thể làm nổi không? Ai cũng có thể làm được. Vì vậy nói đến tu giải thoát mới nghe tưởng như xa vời, cao siêu tuyệt đỉnh, nhưng sự thật hết sức gần gũi, hết sức thực tế. Ngược lại sự trầm luân cũng không xa lạ. Nếu mắt đuổi theo sắc rồi bám chặt vào sắc, tai đuổi theo tiếng rồi bám chặt vào tiếng v.v… đó chúng ta là trầm luân.
Trong kinh A-hàm, đức Phật kể một câu chuyện cho chư Tỳ-kheo nghe: Có một bầy khỉ, khỉ chúa dạy những khỉ nhỏ: Các ngươi đi ăn phải theo lệnh của ta chỉ dẫn, đừng tẽ đoàn đi lang thang sẽ bị nguy hiểm. Khỉ chúa khôn ngoan biết chỗ nào có bẫy rập, có thợ săn, nó tránh né không cho đoàn khỉ tới những chỗ ấy. Nhưng trong đoàn có một con khỉ hơi ngạo mạn lại tham ăn, nó nghĩ nếu đi theo đoàn mình ăn uống không được đầy đủ, chi bằng tách riêng kiếm thức ăn một mình, tha hồ ăn uống no nê. Nó tách đoàn đi đến một chỗ kia, chẳng may gặp người thợ săn dùng cây nhựa để bẫy khỉ. Cây nhựa rất dẻo và chắc, bên cạnh cây nhựa có để miếng mồi nhử khỉ. Khỉ con dại khờ thấy mồi mừng quá, nhảy tới chụp. Vừa đưa tay mặt chụp mồi liền bị nhựa dính, tay trái chụp vào để gỡ bị dính luôn. Thế là hai tay đều bị dính nhựa. Nó đưa chân mặt vô để quào dính chân mặt, đưa chân trái quào dính chân trái. Như vậy là hai tay hai chân đều bị dính. Nó cúi đầu xuống cạp gỡ cũng bị dính luôn. Chỉ còn cái đuôi ngoắt ngoắt, nó cố gắng vùng vẫy để quật cái bẫy ra cũng bị dính luôn. Như vậy hai tay, hai chân, đầu và đuôi đều bị dính nhựa không thoát thân được. Lúc ấy người thợ săn đến lượm khỉ bỏ vô giỏ đem về.
Qua câu chuyện trên, đức Phật muốn dạy chúng ta điều gì? Vì quyền lợi vì thích thụ hưởng, con khỉ tách đoàn ra đi, nên bị thợ săn đánh bẫy. Khi sáu bộ phận bị dính bẫy rồi, người ta bắt đem về dễ dàng không còn ai cứu được. Cũng vậy, người xuất gia ở trong đoàn thể Tăng hay Ni, có vị thầy chỉ dạy hướng dẫn, nhưng họ thích thụ hưởng riêng, thích làm theo ý mình, dù thiếu kinh nghiệm mà vẫn đi ra ngoài. Khi ra ngoài, mắt thấy sắc liền nhiễm sắc, tai nghe tiếng liền nhiễm tiếng, cho đến sáu căn bị cột dính với sáu trần. Lúc đó Ma vương dẫn đi một cách dễ dàng, như chú thợ săn lượm con khỉ bỏ vào giỏ một cách dễ dàng, không khó khăn chút nào.
Khi sáu căn dính với sáu trần, chúng ta lọt vào bàn tay của ai? Của Ma vương. Lọt vào bàn tay của Ma vương rồi, khó hi vọng được giải thoát. Vì vậy người tu muốn được giải thoát phải gan dạ như lời đức Phật dạy: Sáu căn tiếp xúc với sáu trần đừng đuổi theo, đuổi theo là tham cầu; đừng dính mắc, dính mắc là nhiễm trước. Không tham cầu, không nhiễm trước, tức nhiên chúng ta được giải thoát, sự giải thoát đến với chúng ta hết sức dễ dàng. Nếu chúng ta đuổi theo sáu trần là tham cầu, dính mắc nó là nhiễm trước, khi ấy có vùng vẫy mấy cũng khó thoát khỏi bàn tay của Ma vương.
Người tu muốn được giải thoát không phải là chuyện xa xôi, mà chính là chuyện thực tế trong cuộc sống hằng ngày. Nếu một người sáu căn tiếp xúc với sáu trần không dính không mắc, không đuổi theo, người ấy có hào quang chưa? Đâu có, chỉ là không dính mắc sáu trần thôi. Người ấy có biết chuyện quá khứ, vị lai chưa? Đâu biết quá khứ, vị lai gì. Nhưng người ấy có giải thoát thật chưa? - Có. Như vậy không phải có hào quang, không phải biết quá khứ vị lai mới giải thoát, mà chính sáu căn không bị sáu trần lôi cuốn, cột trói, đó là giải thoát. Sáu trần cột trói mình hay mình cột vào nó? Sự thật là mình cột vào sáu trần, nghĩa là thấy nó ta đuổi theo rồi bám chặt vào nó, đó là dính mắc vào sáu trần, rồi than van cầu xin Phật Trời cứu giúp. Ai trói buộc mà mình kêu cứu, thắp hương cầu giải thoát? Phật bảo buông mà chúng ta nắm chặt quá, kẹt tay trong đó, rồi than Phật Trời không cứu! Muốn cứu chúng ta, đức Phật dạy: “Ngươi chịu khó buông đi.”
Chúng ta thật giống như đứa bé thò tay vào hũ kẹo. Khi tay không nó thò vào hũ được, nhưng vì thích kẹo quá nên nắm đầy cứng, rút tay ra không được rồi kêu khóc. Mẹ thương con, bảo: “Con buông đi, tay không rút ra dễ dàng, chớ có khó gì.” Như vậy thuật giải thoát là gì? Chỉ một cái buông, nếu tay cứ nắm đầy kẹo, làm sao mẹ cứu con được!
Đức Phật bảo chúng ta đừng dính với sáu trần, các Thiền sư cũng dạy buông đi, hiện nay chúng tôi cũng nhắc quí vị đừng chạy theo sáu trần. Câu nói hết sức đơn giản mà tràn đầy tinh thần giải thoát. Nếu khéo một chút, gan dạ một chút, đừng tiếc, như đứa bé không tiếc kẹo, thì lấy tay ra dễ dàng, không phải than khóc.
Trên đường tu, chính vì cầu giải thoát, chúng ta đừng tham luyến, đừng đắm trước sáu trần. Không tham luyến, không đắm trước sáu trần là nhân của giải thoát, chớ không tìm điều gì khác lạ. Không phải có thần thông, không phải biết quá khứ vị lai, không phải có hào quang sáng chói mà giải thoát được. Các quỉ thần cũng có hào quang, biết quá khứ vị lai, nhưng vẫn không giải thoát. Lý giải thoát của đạo Phật vừa cụ thể vừa thực tế mà cũng rất dễ dàng. Chỉ cần đừng làm đứa bé tham kẹo thôi, nếu tham kẹo thì khó, không tham kẹo thì dễ. Tất cả quí vị xuất gia và tại gia có ai nghĩ mình ngu khờ như đứa bé ham kẹo đó không? Tất nhiên không ai ngu khờ như vậy, chỉ cần buông thì lấy tay ra dễ dàng. Đức Phật đã dạy: “Các ngươi buông đi, đừng dính với sáu trần, đó là giải thoát.” Nếu chúng ta không chịu buông, mà cầu xin Phật giúp con được giải thoát, thì giống như đứa bé tham ăn kẹo vậy. Buông đi thì hết đau khổ. Đây là giải thoát theo tinh thần Nguyên thủy.
Kế đến, chúng tôi nói sự giải thoát trong nhà thiền. Ngày xưa, có một Thiền khách đến hỏi Thiền sư Huệ Hải: “Thế nào là giải thoát?” Ngài Huệ Hải trả lời: “Căn trần không dính nhau là giải thoát.” Câu trả lời hết sức đơn giản! Sáu căn không dính mắc sáu trần, đó là giải thoát. Câu trả lời vừa đơn giản vừa thực tế, nhưng mới nghe qua chúng ta thấy khó hiểu. Vì sao? Vì chúng ta tưởng tượng giải thoát rất xa vời, phải có thần thông biến hóa, đi đến các cõi trời v.v…, không ngờ sáu căn không dính với sáu trần là giải thoát. Sự thật quá đơn giản này làm người đọc sách thiền cho là khó hiểu.
Câu chuyện thứ hai trong nhà thiền là: Tổ Đạo Tín khi còn Sa-di đến hỏi đạo với Tổ Tăng Xán: “Bạch Hòa thượng, làm sao được giải thoát?” Tổ Tăng Xán liền hỏi: “Ai trói buộc ngươi?” Ngài Đạo Tín đáp: “Không ai trói buộc cả.” Tổ Tăng Xán bảo: “Cầu giải thoát làm gì?” Ngài Đạo Tín liền nhận được lý giải thoát. Ngài quan niệm như chúng ta hiện giờ, nghĩ mình đang bị trói buộc, đang bị bủa vây rất khổ sở, nên mới cầu giải thoát. Nhưng chúng ta phải nhìn thẳng xem cái gì trói buộc, cái gì bủa vây mình? Nếu nhìn thẳng không thấy cái gì trói buộc, cái gì bủa vây cả, ngay đó chúng ta được giải thoát rồi. Câu chuyện đối đáp giữa Tổ Tăng Xán và Tổ Đạo Tín nói lên ý nghĩa đó: “Không ai trói buộc thì cầu giải thoát làm gì?” Chúng ta nghĩ rằng những phiền não, những tâm niệm đen tối xấu xa đang trói buộc chúng ta nên cầu giải thoát. Nhưng Tổ bảo chúng ta nhìn thẳng xem những phiền não, những tâm niệm ấy có thật sự trói buộc mình hay không? Khi nhìn thẳng lại chúng nó liền biến mất, còn gì nữa mà cầu giải thoát!
Cũng chính với tinh thần này Tổ Bồ-đề-đạt-ma đã dạy Tổ Huệ Khả pháp an tâm. Tổ Huệ Khả than: “Tâm con bất an, xin Hòa thượng dạy con pháp an tâm.” Tổ Bồ-đề-đạt-ma bảo: “Đem tâm ra ta an cho.” Tâm bất an của Tổ Huệ Khả là tâm gì? Tâm phiền não, tâm trói buộc, tâm xấu xa. Các tâm đó đang làm cho Ngài bất an nên Ngài cầu được an tâm, cũng như Tổ Đạo Tín cầu được giải thoát. Khi ấy Tổ Bồ-đề-đạt-ma chỉ cần bảo “đem tâm ra ta an cho”, ngài Huệ Khả nhìn sững lại xem tâm ra làm sao mà đem. Nhìn sững lại thì nó mất tiêu, nó tan hoang không còn, Ngài liền trả lời: “Con tìm tâm không được.” Tổ Bồ-đề-đạt-ma bảo: “Ta đã an tâm cho ngươi rồi.” Như vậy pháp an tâm của Tổ Đạt-ma và “cầu giải thoát làm gì” của Tổ Tăng Xán có khác nhau không? Thật là không hai, hình thức có khác, nhưng tinh thần không khác. Tổ Tăng Xán chỉ cho Tổ Đạo Tín con đường giải thoát bằng cách nhìn lại xem cái gì trói buộc mình. Nhìn lại không thấy có gì trói buộc, ngay đó đã giải thoát rồi.
Chúng tôi hiện nay sống cách xa Tổ hơn ngàn năm, chúng tôi dạy quí vị tu phải làm gì? Quí vị nghĩ rằng các phiền não làm cho mình khổ đau, buồn phiền, bực bội. Chúng tôi bảo quí vị hãy buông các thứ phiền não ấy đi. Nhìn lại nó, thấy biết mặt thật của nó rồi, buông đi đừng theo thì hết phiền não, hết khổ đau, đó là tu vậy. Việc này đâu có khác với lời dạy người xưa bao nhiêu. Tinh thần giải thoát nằm ngay chỗ nhìn thẳng, thấy mặt thật của những phiền não. Thấy được mặt thật của chúng rồi, tự chúng tan hoang. Nói biết vọng, nói buông đi là một lối nói thôi. Sự thật nhìn lại thấy nó thì nó đã mất hết rồi, còn gì nữa mà phải biết, còn gì nữa mà phải buông. Đây là trọng tâm chỉ dạy của Thiền tông. Trọng tâm này, chính Tổ Bồ-đề-đạt-ma đã dạy Tổ Huệ Khả, Tổ Tăng Xán đã dạy Tổ Đạo Tín. Đó là chủ đích chúng tôi muốn chỉ cho quí vị.
Các Tổ dạy chúng ta tu giải thoát đúng với tinh thần đức Phật đã nói: “Tất cả nước biển chỉ có một vị, vị mặn; tất cả giáo pháp của ta chỉ có một vị, vị giải thoát.” Như đoạn trên đã nói sáu căn tiếp xúc với sáu trần, không dính không mắc là giải thoát. Đoạn này Tổ dạy nhìn các tâm niệm đang chạy theo sáu trần, biết chúng không thật, đó là giải thoát. Đoạn trước nói về các căn bên ngoài không cho dính với trần cảnh, đoạn này nói về các tâm niệm bên trong. Ngay từ cội gốc, các tâm niệm vừa dấy khởi chạy theo cảnh, chúng ta biết sự thật về chúng nó thì chúng tan hoang ngay từ trứng nước. Chúng ta dẹp các tâm niệm ngay lúc còn trong bào thai, không đợi nó dính với cảnh mới tháo gỡ. Như vậy sự giải thoát này là ngay bên trong, sâu hơn và tế nhị hơn. Giải thoát theo tinh thần Nguyên thủy là sáu căn không dính mắc với sáu trần. Giải thoát theo tinh thần nhà thiền là dẹp các tâm niệm ngay khi còn trong trứng nước. Các niệm vừa dấy khởi đã bị tiêu diệt ngay, không có niệm đuổi theo trần cảnh. Mắt thấy sắc không dính với sắc, tai nghe tiếng không dính với tiếng, mũi ngửi mùi không dính với mùi… Các niệm đã diệt rồi, lo gì chúng ra nơi mắt, nơi tai, nơi mũi mà dính với sáu trần được. Đó là chủ yếu của Tổ sư Thiền.
Để hiểu rõ hơn tinh thần giải thoát trong nhà thiền, chúng tôi xin dẫn bài kệ “Sơn Phòng Mạn Hứng” của một Thiền sư đời Trần ở Việt Nam, ngài Điều Ngự Giác Hoàng, tức vua Trần Nhân Tông:
Thùy phược cánh tương cầu giải thoát,
Bất phàm hà tất mịch thần tiên.
Viên nhàn, mã quyện nhân ưng lão,
Y cựu vân trang nhất tháp thiền.
Dịch:
Ai trói lại mong cầu giải thoát,
Chẳng phàm nào phải kiếm thần tiên.
Vượn nhàn, ngựa nhọc, người cũng lão,
Như cũ am mây một giường thiền.
Ngài Trần Nhân Tông nói rất rõ: Chúng ta cầu giải thoát vì thấy bị trói buộc, nhưng ai trói buộc ta? Chẳng qua là những tâm niệm tham mê đắm trước trói buộc chúng ta. Những tâm niệm ấy vừa dấy lên, chúng ta thấy nó rồi, tức thì nó tan hoang, còn ai trói buộc mình mà cầu giải thoát? Biết các tâm niệm là tạm bợ, hư dối, chúng ta không chạy theo nó, đó là giải thoát.
Hơn nữa, nói trói buộc là trói buộc thân năm uẩn này, còn một cái không bao giờ bị trói buộc, đó là cái gì? Đó là cái không tên. Cái đó không phải phàm, không phải Thánh. Không phải phàm, cầu thành tiên làm gì? Không phải phàm, cần cầu Thánh hay không? Sở dĩ chúng ta muốn được thành Thánh vì thấy mình là phàm. Cái đó không phải phàm, tức nhiên không cầu thành Thánh, cũng không cầu thành thần tiên chi nữa.
Vượn nhàn, ngựa nhọc, người cũng lão: Vượn chỉ cho các niệm dấy khởi của chúng ta lăng xăng như khỉ vượn. Ngựa chỉ cho ý rong ruổi bên ngoài. Tâm viên ý mã đã yên rồi, không còn lăng xăng nữa, khi ấy chúng ta cũng già rồi không còn ham muốn, không còn đuổi theo cái gì nữa. Lúc ấy ra sao?
Như cũ am mây một giường thiền: Lúc ấy chỉ còn một giường thiền ở trong am mây mà thôi. Giường thiền đó giống như giường của ông Duy-ma-cật nằm bệnh. Trên đường tu lúc nào tâm viên ý mã chịu dừng chịu lặng, lúc đó chúng ta sẽ hiện tiền giải thoát viên mãn. Sự giải thoát viên mãn đó được tượng trưng bằng chiếc giường thiền, giường của ông Duy-ma-cật nằm bệnh v.v… Đối với sự tu hành, cốt làm sao tâm viên ý mã nằm yên ngủ, lúc đó cái chân thật hiện tiền, không phải tìm kiếm ở đâu xa xôi.
Ngũ Tổ giảng kinh Kim Cang đến đoạn ngài Tu-bồ-đề hỏi Phật: Người cầu Vô thượng Bồ-đề làm sao an trụ được tâm của mình. Phật trả lời: “Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.” Nghĩa là người phát tâm cầu Vô thượng Bồ-đề không nên trụ nơi sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Không có chỗ trụ, đó là trụ. Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, tức là không nên có chỗ trụ mà sanh tâm Vô thượng Bồ-đề. Nghe tới câu đó, Lục Tổ đại ngộ thốt lên:
Đâu ngờ tánh mình xưa nay vốn thanh tịnh,
Đâu ngờ tánh mình xưa nay vốn tự đầy đủ,
Đâu ngờ tánh mình hay sanh muôn pháp v.v…
Các chữ đâu ngờ, nói lên chỗ ngộ của Lục Tổ, Ngài ngộ cái gì? Ngài ngộ sáu căn không dính với sáu trần là giải thoát, phải không? Chưa phải. Nếu ngộ sáu căn không dính với sáu trần, Ngài là Nhị thừa, không phải là Tổ trong Thiền tông. Câu hỏi: “Người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, muốn an trụ tâm ấy, phải làm sao?” Đáp: “Không dính với sáu trần là an trụ tâm Vô thượng Bồ-đề.” Ngay câu đáp này Lục Tổ thấy rõ tâm không chạy theo sáu trần là Vô thượng Bồ-đề hiện tiền. Vô thượng Bồ-đề đó đã sẵn thanh tịnh, đã sẵn đầy đủ và diệu dụng vô cùng.
Ở đoạn trên nói sáu căn không dính với sáu trần đó là giải thoát, chúng ta không biết cái gì giải thoát. Ở đây, khi nghe câu đáp, Lục Tổ thấy được mặt thật của sự giải thoát. Vì thấy được mặt thật đó nên Ngài mới thốt lên những câu “đâu ngờ”. Khi nghe như thế, Ngũ Tổ biết đệ tử đã ngộ, nên ngay đó truyền y bát.
Chúng ta thấy đối với Thiền tông không phải chỉ gỡ hết những dính mắc bên ngoài, gọi là giải thoát mà phải thấy được mặt thật của sự giải thoát, điều này các bộ kinh Nhị thừa chưa đề cập tới. Giải thoát là cởi mở, cởi mở là động từ chớ không phải chủ từ. Cởi mở cái gì? Ở đoạn trước, theo tinh thần Nguyên thủy, chúng ta nghĩ được giải thoát mà không biết cái gì được giải thoát. Với tinh thần nhà Thiền, Lục Tổ không thấy như vậy, Ngài thấy cái giải thoát đó là tánh Bồ-đề sẵn có của chính chúng ta. Tánh Bồ-đề đó thanh tịnh từ thuở nào, tánh Bồ-đề đó đầy đủ muôn pháp, tánh Bồ-đề đó đầy đủ diệu dụng. Sống được với tánh Bồ-đề đó gọi là giải thoát. Giải thoát là tánh Bồ-đề không bị nhiễm với sáu trần, nó là cái chủ thật của mình. Vì vậy trong nhà thiền gọi nó là Bản lai diện mục, là Chủ nhân ông v.v… Hiểu như vậy quí vị mới thấy trình tự tu tiến của người tu, nếu không chúng ta có thể hiểu lầm. Lục Tổ ngộ được lý giải thoát, không phải chỉ là động từ giải thoát mà Ngài thấy được Ông chủ là người không bị trói buộc, Ông chủ mới là chủ từ. Ông chủ đó mới thật là mình, sống được với Ông chủ đó mới thật viên mãn giải thoát.
Ngài Ngưỡng Sơn đến hỏi đạo với ngài Trung Ấp: “Bạch Hòa thượng, thế nào là nghĩa Phật tánh?” Ngài Trung Ấp đáp: “Ta nói thí dụ thì ông hiểu. Như có con khỉ ở trong cái nhà sáu cửa. Bên ngoài có một con khỉ đến mỗi cửa kêu chéo chéo, con khỉ bên trong cũng đáp lại chéo chéo.” Nghe tới đó ngài Ngưỡng Sơn hỏi: “Bạch Hòa thượng, nếu con khỉ trong nhà ngủ thì sao?” Hòa thượng Trung Ấp liền từ giường thiền bước xuống, nắm tay ngài Ngưỡng Sơn nói: “Chéo chéo! Ta và ông đã thấy nhau rồi.”
Qua câu chuyện trên, chúng ta hiểu thế nào? Cái nhà sáu cửa là dụ cho sáu căn của chúng ta, con khỉ ở ngoài kêu chéo chéo là dụ cho sáu trần. Khi sáu căn duyên với sáu trần, con khỉ ở trong ứng lên đối đáp, nên gọi là dính mắc. Nếu con khỉ ở trong ngủ, con khỉ ở ngoài kêu chéo chéo cách mấy, nó cũng không ứng đáp. Tuy mỗi cửa đều có kêu, có động, nhưng vì nó ngủ nên không đáp lại, chớ vẫn có mặt trong nhà. Hình ảnh con khỉ ngủ giống như chỗ Lục Tổ thấy. Ngài thấy cái đó nó sẵn có, thanh tịnh từ thuở nào.
Tinh thần Thiền tông chỉ cho chúng ta thấy cái không dính với sáu trần gọi là giải thoát, không phải động từ giải thoát suông, mà có Ông chủ nằm yên không chạy ra. Sống được với Ông chủ đó mới thật sự giải thoát. Chúng ta tu thiền cốt làm sao sống được với Ông chủ đó.
Có một Phật tử nói rằng nước biển nổi sóng ầm ầm mà nó không biết có chứa muối bên trong. Đến khi nước tràn vào bờ, bị ngăn chận lại rồi khô đi, bấy giờ chất muối mới hiện ra. Như vậy muối khi ở biển hòa tan với nước, nó đã có sẵn trong nước. Nước bốc hơi muối cô đọng lại thì nước và muối là hai. Tôi chấm câu chuyện đó dưới điểm trung bình.
Ở đây Lục Tổ nói “không phải hai”, Ông chủ đó đâu ai khác hơn ngoài mình. Nhưng vì mê, ta sống với điên đảo vọng tưởng, bị nó dẫn chạy, nên luân hồi, trói buộc. Nếu tỉnh chúng ta không chạy theo vọng tưởng điên đảo, sống thật với Ông chủ, thì Ông chủ lúc nào chẳng hiện tiền. Bên ngoài có kêu gọi, dù không đáp lại, ông vẫn mở mắt nhìn mà không dính mắc. Trường hợp con khỉ trong nhà cũng vậy, đừng tưởng đợi đối đáp, nó mới có mặt. Chính khi không đối đáp, nó cũng vẫn hiện hữu.
Chúng ta giải thoát bằng cách là phải sống thật với Ông chủ, hay là với Bản lai diện mục của mình, cái đó đã có sẵn trong chúng ta muôn đời mà mình quên đi. Ngày nay được Phật Tổ nhắc chỉ, chúng ta phải ráng nỗ lực sống trở lại. Quên Ông chủ, gọi là mê, sống trở về với Ông chủ gọi là tỉnh là giác. Kẻ mê làm chúng sanh trầm luân trong sáu đường, đau khổ, bị phiền trược. Nếu tỉnh trở về với Ông chủ, không còn bị sáu trần lôi kéo nữa, khi đó hoàn toàn giải thoát. Giải thoát không có nghĩa là chúng ta phải nhờ ai phụ giúp, mà tự biết tỉnh giác, biết trở về với chính mình. Bổn phận chúng ta là phải trở về, chớ không ai làm thế, cũng không ai bắt buộc. Rất đáng thương cho chúng sanh tự có của báu mà không biết, lại thở than, đau khổ muôn đời. Chúng ta được vinh hạnh, được phước đức nhờ Phật Tổ chỉ, tuy chưa thấy tận mặt tận mày, nhưng cũng mang máng biết, mang máng tin, đó cũng là phước đức lớn.
Mỗi một năm qua là một lần đưa chúng ta đến gần chỗ chết, chúng ta có duyên phúc lớn, phước lành nhiều, mong tất cả cố gắng làm tròn bổn phận của mình để khỏi uổng một đời làm người mà không tỉnh giác, không để bị gạt, chạy theo cái giả dối, điên cuồng, quên mất cái chân thật của chính mình. Được như vậy mới xứng đáng là con dòng họ Thích, xứng đáng là kẻ quyết chí đi theo con đường Phật Tổ đã đi.
Hôm nay là ngày đầu năm, chúng tôi mong sang năm mới này, tất cả quí vị có được sức tỉnh giác mạnh hơn, càng ngày càng nhận thấy tường tận cái chân thật của chính mình, sống trở về, đừng bị ngoại cảnh lôi cuốn mà phải phiêu bạt, trầm luân đau khổ.
NHỮNG NIỀM VUI CHÂN THẬT
Xuân Mậu Thìn - 1988
Mỗi năm đến ngày Tết Nguyên Đán, tất cả Phật tử gần xa đều tựu hội về đây trước là lễ Phật nhân ngày vía đức Di-lặc, sau là mừng tuổi chúc thọ chư Tăng.
Theo tinh thần đạo Phật, không phải mỗi khi Tết đến, chúng ta chúc mừng nhau sống lâu trăm tuổi. Chúc như vậy không có kết quả gì, chỉ là lời rỗng suông thôi. Vì vậy chúng tôi sẽ nhắc nhở quí Phật tử đường lối tu hành, đồng thời cũng là chúc mừng nhau trên đường tu mỗi ngày một thăng tiến, không để dừng lại một chỗ mãi. Vì lẽ đó hôm nay chúng tôi sẽ nói về cái vui của đời và cái vui của đạo trong mùa Xuân.
Đầu xuân ai ai cũng thấy vui tươi, ấm áp, hi vọng, nên tất cả cùng chúc mừng, cùng vui vẻ với nhau. Vì vậy chúc xuân hay vui xuân đã có từ xưa đến giờ. Hôm nay chúng ta phải tìm cho tường tận thế nào là vui xuân, cái vui thật sự của cuộc đời và cái vui thật sự trong đạo. Hai cái vui đó gần nhau không? Nó có lợi ích thiết thực như thế nào?
Trước hết chúng tôi nói cái vui của đời. Ngoài đời lúc nào người ta vui mừng? Đó là lúc được cái gì hơn thiên hạ, được cái gì thắng hơn người. Thí dụ quí vị đi vào các cuộc chơi như đá banh hay đánh cờ v.v… khi mình cười là lúc thua hay lúc thắng? Lúc thắng thì vỗ tay hoan nghênh cùng vui, cùng cười. Người thắng thì cười, còn người thua cuộc tự nhiên buồn khổ. Như vậy cái vui của cuộc đời là vui khi mình thắng, mà người thua phải buồn. Cái vui ấy là vui trọn vẹn của những người trong cuộc, hay có người vui có người buồn? Vui của đời là vui trong thắng cuộc, mình thắng thì người khác phải thua. Kẻ thắng thì vui, người thua phải khổ. Rõ ràng chúng ta vui trong cái đau khổ của người khác, chớ không phải cái vui trọn vẹn. Người thế gian nghĩ làm sao cho mình được vui, nghĩa là chơi thế nào cho hơn người, một lần thua là một lần buồn. Những người khác đến chơi với chúng ta, cũng muốn hơn để được vui. Đó là vui trong giành giật hơn thua, ai được hơn thì vui, ai bị thua thì khổ. Như vậy mới thấy rõ cái vui của thế tục là vui trong đau khổ.
Ngược lại, cái vui của người tu khác hơn cái vui của người thế tục. Người thế tục vui khi thắng được người, người tu vui khi thắng được mình. Thí dụ người Phật tử khi bị ai nói những lời kích bác làm tự ái nổi lên, vừa khi cơn sân bừng bừng nổi dậy, lúc đó liền tỉnh biết sân là xấu, không xứng đáng với người Phật tử, vừa biết như vậy liền bỏ nó đi. Do buông bỏ, qua được cơn nóng giận, mình cảm thấy bình tĩnh trở lại, lúc đó có vui không? Vui vì mình đã thắng được mình, đã chiến thắng chớ không phải đầu hàng. Một lần thắng được mình là một lần vui. Cái vui đó có làm ai khổ không? Rõ ràng mình vui mà người kích bác, họ thấy mình không trả lời, không phản đối, họ cũng không buồn. Vui thắng mình mới là vui trọn vẹn, vui thắng người là vui của đau khổ, chớ không phải cái vui thật. Người đời cứ đuổi theo cái vui đó để người khác phải khổ. Người biết tu chỉ vui khi thắng mình. Một lòng tham dấy lên thắng được nó là vui, một cơn giận nổi lên thắng được nó là vui, những cám dỗ thắng được nó là vui. Vui đó có lợi cho nội tâm mình, mà không hại ai. Như vậy vui của đạo mới là vui thật sự, vui mà không gây khổ cho ai. Đó là bước thứ nhất.
Đến bước thứ hai, người đời vui khi nào họ được cái mình ưa thích. Thí dụ đi đường thấy ai làm rớt một món đồ quí giá, họ lượm được, dĩ nhiên lúc đó rất vui. Người được may mắn vui, nhưng người mất vật quí có vui không? Cái được mà mình vui đó đổi lại bao nhiêu nước mắt của kẻ bị mất. Hơn nữa, trong cuộc sống hằng ngày, gặp thời gặp thế, chúng ta mua đâu được đó, bán đâu đắt đó, cái gì cũng hơn người, lúc ấy mình vui quá, nhưng người khác thì sao? Thí dụ ngày hôm qua mình mua món đồ giá một ngàn đồng, hôm nay bỗng dưng lên giá một ngàn rưỡi, mình vui vì được lời, nhưng người bán cho mình hôm qua, có buồn không? Tất nhiên là buồn, vì họ lỗ, họ thiệt thòi. Như vậy cái vui của mình là cái buồn của kẻ khác.
Phật tử nếu biết vui thì phải vui làm sao? Không phải vui trong cái được, mà vui trong cái lìa. Nghe thế thì buồn quá, lìa mà vui cái gì? Nhưng không ngờ lìa mới là vui. Người đời được là vui, trái lại người tu lìa là vui. Tại sao? Thí dụ khi trước bị bệnh ghiền thuốc hành mình cay đắng, tốn tiền tốn bạc, bây giờ bỏ được bệnh ghiền thuốc, mình có vui không? Lìa được bệnh ghiền đó là vui. Vui đó có ai khổ không? Niềm vui đó làm cả nhà vui lây, phải không? Đó mới là cái vui thật. Hồi xưa mình say rượu mê man, nay quán này mai quán nọ, bao nhiêu tiền cũng không đủ. Bây giờ bỏ rượu tức lìa được rượu, gia đình vui không? Mình thắng được rượu, lìa được ghiền rượu, bản thân mình vui mà gia đình cũng vui. Do lìa mà vui đó là người tu, do được mà vui đó là người đời. Khi biết tu, lìa những bệnh ghiền rượu, ghiền thuốc, ghiền á phiện… đó là vui.
Xa hơn nữa, lìa được ngũ dục ở thế gian là nguồn vui chân chánh của người học đạo. Người tu thiền khi được định Sơ thiền gọi là Ly sanh hỉ lạc. Ly tức là lìa, lìa cái gì? Lìa mê đắm ngũ dục: sắc, thanh, hương, vị, xúc. Năm điều này lìa được, không dính không nhiễm gọi là ly. Lìa được ngũ dục rồi thì lòng khoan khoái nhẹ nhàng gọi là được định Sơ thiền Ly sanh hỉ lạc. Thí dụ khi trước mình có tật thích đi xem hát, gánh hát nào lại gióng trống lên là mình nôn nao phải đi xem hát cho kỳ được. Bây giờ biết tu, khi nghe gánh hát gióng trống, mình nhất định không đi xem hát. Cho đến khi gánh hát dọn đi mình cũng không bén mảng tới rạp hát, lìa được cái mê xem hát, là mình thắng mình, nên cảm thấy vui. Cái vui đó không tốn tiền tốn bạc mà mình được sự an ổn. Vui đó do xa lìa ngũ dục, không bị nhiễm trước, gọi đó là Ly sanh hỉ lạc, được định Sơ thiền.
Kế nữa người đời thích vui trong cảnh nhộn nhịp, chỗ đông đảo ồn ào, như rạp hát, sân đá bóng, phòng trà v.v… nhưng cái vui ồn náo nhộn nhịp đó có lâu bền hay không? Như nơi rạp hát, khi người hề khéo giễu làm cho mình cười ồ lên, cười đến nôn ruột đi nữa, nhưng một lát ra về cũng hết cười. Ta chỉ cười khi trước mắt mình thấy, lỗ tai mình nghe những chuyện họ khéo gợi, lúc ấy vui. Ra khỏi nơi đó rồi, không được vui nữa, nhất là đi xem hát tới mười một mười hai giờ đêm mới về, vừa đi dọc đường vừa buồn ngủ, có vui không? Hết vui rồi. Nếu người tiền bạc eo hẹp, khi xem hát về, túi tiền trống rỗng, nhớ lại ngày mai không đủ tiền mua gạo, lúc đó còn vui không? Cho nên cái vui ở chỗ ồn náo, chỉ là vui nhất thời, tạm bợ, không có lâu bền.
Ngược lại, người học đạo, người biết tu không thích cái vui ồn ào mà lại thích vui trong yên lặng, ngồi những nơi yên tĩnh, một mình nhìn trời, nhìn mây, ngắm hoa ngắm kiểng, lòng phơi phới nhẹ nhàng. Đó là niềm vui của người trong đạo. Người tu thiền lấy thiền định làm niềm vui của mình, cho nên gọi Nhị thiền là Định sanh hỉ lạc. Do tâm được yên định sanh ra vui mừng, cái vui mừng đó có tốn hao gì không? Do tâm định, vui mừng phát ra, không có tốn hao gì cả. Vui trong yên định là vui sáng suốt, tỉnh táo, khỏe khoắn, an nhàn, không phải cái vui ồn ào, nhọc nhằn mỏi mệt. Vui ở chỗ nhộn nhịp làm cho mình mất sức khỏe, tiêu hao nghị lực, vừa tốn của vừa tốn công, vừa làm cho mình phải suy mòn sức lực. Vui của người tu nơi yên lặng, trong lúc thiền định, cái vui đó nhẹ nhàng thanh thoát, tâm hồn sáng tỉnh đó mới là cái vui chân thật.
Kế nữa, người đời vui trong mê lầm, không phải vui trong tỉnh giác. Mê lầm là sao? Thí dụ họ cho đánh bạc là vui. Cái vui đó có phải là vui thật không? Khi đánh ăn thì vui, nếu thua thì khổ. Đến sòng bạc họ nói là đi mua vui, cái vui đó là vui trong mê lầm. Rồi đến uống rượu họ cho là vui. Thí dụ năm bảy người rủ nhau tới quán rượu, chén thù chén tạc, người nào người nấy say túy lúy, như thế vui không? Người đời cho ăn nhậu là vui nhưng khi say túy lúy rồi nôn mửa, có vui không? Ngồi quán uống rượu làm cho sức khỏe tiêu mòn, tiền bạc tốn hao, tăng trưởng si mê. Như vậy có phải là vui trong mê lầm không?
Đối với người học đạo, vui của mình là vui giác ngộ. Thí dụ đang ngồi thiền có vấn đề khi trước mình không hiểu, nay bỗng dưng hiểu ra, đó thật là vui, có khi vui quá mình cười to lên… đó là do giác ngộ mà vui. Hoặc khi đang đi, một vấn đề khi trước chưa thông, bỗng dưng tâm sáng ra mình hiểu được, lúc ấy vui không? Rất vui, do giác ngộ mà vui. Cái vui đó có nhọc nhằn tốn hao gì đâu, càng vui trí tuệ càng sáng. Cái vui đó đưa chúng ta đến chỗ an lạc hoàn toàn vì đó là cái vui của giác ngộ giải thoát. Ngày xưa các vị Thiền sư ngồi tu, đến khi bừng ngộ, các ngài rất hoan hỉ, do giác ngộ mà hoan hỉ. Như vậy cái vui của người tu khác với cái vui của người đời. Người đời lấy mê lầm cho là vui, người tu do giác ngộ mà vui.
Thêm nữa, người đời vui trong ràng buộc. Ràng buộc là sao? Là thương yêu, quyến luyến. Thí dụ như bà nội có một đứa cháu nội, nó chạy theo nắm tay bà nũng nịu, bà có vui không? Hoặc đứa cháu ngoại chạy theo nói ríu rít đủ điều, bà có thương không? Càng vui, càng thương, càng phải lo nhiều. Vì thương cháu quá, nên lo cho nó ăn ngon, mặc đẹp… lo hết con tới cháu, lo hoài đến ngày nhắm mắt cũng chưa xong. Vui như vậy là vui trong ràng buộc.
Lại nữa, người nào được nhiều người thương, người đó vui không? Thấy mình được thiên hạ quí trọng, kính nể, lúc đó là vui. Nhưng một người thương là một sợi dây trói buộc, hai người thương là hai sợi dây, mười người thương là mười sợi dây… thương nhiều thì gỡ khó. Vậy mà người ta vui khi được thiên hạ thương, được thiên hạ chú ý, quí mình như ngọc như ngà v.v… Do đó, người đời càng vui thì càng đắm mình trong sự trói buộc, trói buộc trong tình thương gia đình, tình thương những người chung quanh v.v… càng thương nhiều thì càng bị buộc nhiều!
Ngược lại người tu, nhất là người tu Phật, vui là khi giải thoát. Những gì ràng buộc, làm cho mình bị rối rắm, phải cắt bỏ nó đi. Cắt bỏ được một mối là vui mừng một mối. Cắt bỏ đây không có nghĩa là bỏ chồng bỏ con… mà cắt bỏ là bỏ những tình thương không lợi ích, gây thêm tai hại cho mình. Thí dụ người đó với mình không phải thân thuộc, mà họ nói những lời ngọt ngào, những lời thương yêu rồi mình tưởng họ thương thật, tự nhiên mình tự trói mình rồi khổ. Ở thế gian có những lời nói không đúng với tâm niệm, họ nghĩ một đàng mà nói một nẻo để cầu lợi, để nắm giữ những gì họ thích. Mình phải biết rõ những lời nói đó không thật, đừng để bị cột trói. Tình thương chân thật nhất là tình thương cha mẹ với con cái, mà có khi còn phai nhạt, còn gặp những đứa con bất hiếu thay! Huống nữa là những người ngoài chắc gì họ thương mình thật. Nghe họ nói thương, mình vui mừng thích thú, e rằng có ngày sẽ phải khổ. Vì vậy những tình cảm thương yêu quyến luyến vô tình trói cột làm cho mình phải khổ. Người tu lấy sự giải thoát làm vui, không thể bị trói buộc bởi những tình cảm riêng tư và những ngũ dục bên ngoài.
Người đời nghĩ rằng cuộc đời mình phải được an vui hạnh phúc, nhưng từ thuở nhỏ cho đến hiện nay năm mươi, bảy mươi tuổi, quí vị thấy đời mình vui nhiều hay khổ nhiều? Khổ nhiều! Vì sao mình muốn vui mà lại khổ? Vì mình muốn vui mà vui trên cái khổ của người khác, cho nên người khác cũng muốn vui mà vui trên cái khổ của mình. Vì sát phạt lẫn nhau để được vui, nên cái vui đó khó vẹn toàn. Những người từ sòng bạc đi ra đâu phải ai ai cũng đều hớn hở. Trong mười người, độ hai người vui mừng, còn tám người thì âu sầu đau khổ. Như vậy tại sao người ta cứ đến sòng bạc mãi? Tám lần khổ chỉ có hai lần vui. Có khi đủ cả mười lần khổ là khác!
Ở đời nếu chúng ta tìm vui trong sự thắng người, trong cảnh nhộn nhịp v.v… thì cái vui đó chỉ là tạm bợ mong manh, không lâu bền được. Chúng ta phải tìm những niềm vui chân thật ở đạo, vui khi thắng mình, lìa được những tật xấu, vui khi được ở chỗ yên tĩnh, tâm hồn an ổn, vui khi được tỉnh giác, thoát ly những buộc ràng. Nếu sáng suốt chúng ta tìm cái vui chân thật, thì cái vui ấy sẽ lâu dài bền bỉ, còn mê lầm chúng ta đuổi theo những cái vui giả dối thì vui ít mà khổ nhiều. Mong rằng quí vị luôn luôn sáng suốt để được an vui hạnh phúc mãi mãi.
Để kết thúc buổi nói chuyện hôm nay chúng tôi đọc bốn câu kệ sau đây dùng làm kim chỉ nam cho quí vị trong năm mới:
Nguồn vui mãi vô tận,
Khi nhìn ánh nguyệt chân.
Nơi nơi đều cực lạc,
Phút phút hiện chân thân.
Nguồn vui mãi vô tận, là nguồn vui nào?
Khi nhìn ánh nguyệt chân: Khi nhìn thấy mặt trăng thật, là mặt trăng nào? Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật nói mặt trăng thật và mặt trăng thứ hai, chúng tôi nói thêm nữa là bóng mặt trăng. Mặt trăng chân thật chỉ Tâm thể bất sanh bất diệt của mình, mặt trăng thứ hai chỉ cái chân thể đó hiện nơi sáu căn, còn bóng mặt trăng là chỉ ý thức duyên với pháp trần. Muốn được nguồn vui vô tận là khi nào chúng ta thấy được mặt trăng chân thật. Khi ấy thì thế nào?
Nơi nơi đều cực lạc: Nơi nào cũng cực lạc, không phải chỉ riêng cõi Tây phương.
Phút phút hiện chân thân: Phút nào cũng hiện thân chân thật.
Chúng tôi xin chúc tất cả quí Phật tử sang năm Mậu Thìn được một nguồn vui vô tận, khi nhìn thấy mặt trăng thật, nơi nào cũng là cực lạc, giờ nào cũng là Niết-bàn. Đó là lời chúc lành của chúng tôi gởi đến quí vị.
TÌM LẠI MÌNH, BIẾT ĐƯỢC
MÌNH LÀ TRÊN HẾT
Tất niên Mậu Thìn - 1989
Đề tài chúng tôi nói chuyện hôm nay là Tìm lại mình, biết được mình là trên hết. Đề tài này, mới nghe qua thấy quá đơn giản, nhưng thật là thiết yếu trong cuộc sống của chúng ta.
Chúng ta có thói quen chạy ra tìm kiếm bên ngoài. Vì thế tuy hiểu biết rất nhiều việc, nhưng khi trở lại tìm hiểu bản thân mình thì rất là thiếu sót. Nói như vậy không có nghĩa chúng tôi phủ nhận ngành y khoa nghiên cứu về con người. Ở đây tôi muốn nhấn mạnh chúng ta còn có một giá trị khác ngoài cái thân hiện đang đi đứng nằm ngồi này. Đó là điều mà chúng ta cần tìm hiểu. Xoay lại tìm cho ra cái chân thật của chính mình là điều tối quan trọng. Nếu không thì đời sống chúng ta trở thành lạt lẽo vô vị. Chẳng lẽ chúng ta sống chỉ để ăn mặc ngủ nghỉ... rồi chờ đến ngày chết sao? Nếu chúng ta cứ phóng ra bên ngoài thì sẽ mất mình mà không biết. Vì vậy chúng tôi nhắc tìm lại mình, biết được mình là trên hết.
Chúng ta thường hiểu lầm đạo Phật là huyền bí, cao siêu, nhưng thật ra đạo Phật rất thực tế, vì luôn luôn chủ trương xoay lại tìm con người chân thật của chính mình. Biết được mình chẳng phải là điều rất thực tế hay sao? Các giác quan của chúng ta như mắt, tai, mũi, lưỡi... quen phóng ra bên ngoài để tìm hiểu, phân tích, mà quên nhìn lại nơi mình. Vì lẽ đó trong nhà thiền dạy: phản quan tự kỷ bổn phận sự, nghĩa là xoay lại chính mình mới là bổn phận chánh. Nếu chúng ta biết được tất cả bên ngoài cho đến những vì sao xa xôi trên bầu trời, mà không biết tí gì về chúng ta, đó là một thiệt thòi lớn lao. Người thế gian khi làm điều gì đều muốn được thành công, nhưng sự thành công đó kéo dài lắm cũng chỉ năm ba mươi năm rồi cũng phải buông, không giữ được mãi mãi. Chỉ có cái chân thật của chính mình mới lâu dài vĩnh cửu. Nghĩ mới hôm nào chúng ta đôi ba mươi tuổi mà ngày nay đã già rồi, đời sống con người ngắn ngủi làm sao! Nếu chúng ta nghĩ tất cả của cải thế gian là nguồn hạnh phúc, nguồn an vui tuyệt đối, điều này không hợp với lẽ thật. Chỉ có biết rõ được mình mới là điều quan trọng và thực tế. Ví dụ như người đời rành rẽ việc làng xóm, đất nước, thế giới, nhưng việc trong nhà lại không biết tí nào, người đó có thiếu thực tế không? Việc trong nhà là nơi gốc họ sống mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm mà không biết, chỉ biết chuyện bên ngoài, quả là thiếu thực tế lắm vậy.
Mọi người thường nói về mình, xưng là tôi, là ta. Nhưng thử hỏi, cái gì là mình, là ta, thì khó trả lời cho thông được. Nếu nói thân này là mình, khi chưa có thân thì chưa có mình sao? Nếu có thân rồi mai kia thân hoại thì mình ở đâu? Nếu nói thân này là mình, thân này do đất nước gió lửa hợp thành, đúng ra là vô tri, chẳng lẽ mình lại vô tri hay sao? Nếu nói thân này có cả phần tinh thần lẫn vật chất, thì phần nào là mình? Tinh thần hay vật chất? Những điều đó rất thiết yếu mà ít người quan tâm đến! Chúng ta cứ mải lo tìm sanh kế, sống ngày này qua ngày khác, cuối cùng từ giã cuộc đời. Rồi ngang đó chúng ta không biết ra sao nữa, đó là điều thật đáng buồn. Vì vậy người tu là biết quay lại tìm cho ra mình là cái gì? Là thân tứ đại này chăng? Là những tình cảm vui buồn thương ghét chăng? Hay là cái gì cao siêu hơn nữa? Chúng ta tu cốt phải làm sao thấy được con người mình, con người chân thật.
Một Thiền sư cư sĩ đời Trần, ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ có bài kệ soi lại mình, nhan đề “Chiếu Thân”.
Tiêu đầu lan ngạch bị kim bào,
Ngũ thất niên gian thị xưởng tào.
Túng giả siêu quần kiêm bạt tụy,
Nhất hồi phóng hạ nhất hồi cao.
Dịch:
Soi Thân
Sém đầu dập trán bởi đua chen,
Năm bảy mươi năm kiếp ngựa hèn.
Ví thực bạt siêu ngoài thói tục,
Một lần buông xuống một lần lên.
Trúc Thiên
Sém đầu dập trán bởi đua chen: Trải qua bao nhiêu thời gian chạy theo thế tục làm cho đầu phải sém, trán phải dập, cũng bởi đua chen với đời, rốt cuộc rồi không tới đâu, vất vả nhiều mà kết quả chẳng bao nhiêu, cho nên nói:
Năm bảy mươi năm kiếp ngựa hèn: Như con ngựa yếu, chúng ta trải qua năm bảy mươi năm mệt mỏi cũng không được gì!
Ví thực bạt siêu ngoài thói tục: Nếu thật vượt ra được ngoài thói tục, tức là thói đua chen giành giựt, thì sẽ ra sao?
Một lần buông xuống một lần lên: Vì sao buông xuống lại được lên? Vì buông đi một gánh nặng là chúng ta nhẹ bớt một phần. Nếu buông nhiều chừng nào chúng ta càng nhẹ chừng nấy, cho nên càng buông thì càng lên. Nếu chúng ta giành giựt tranh đua nhau mãi, chỉ là làm khổ cho nhau, chớ có lợi ích gì! Biết nhường nhịn nhau, biết trở lại tìm mình, và vượt ra ngoài thói tục, chúng ta sẽ buông xả những tranh đua giành giựt. Lúc ấy chúng ta sẽ cảm thấy nhẹ nhàng siêu thoát. Là người biết tu, biết học đạo, chúng ta phải xoay trở lại mình, thấy rõ mình, đó là điều hết sức thiết yếu.
Biết được mình có giá trị gì? Ví dụ có người muốn bất cứ điều gì trong cuộc đời đều được toại nguyện, người đó được hạnh phúc chưa? Mới nhìn qua tưởng chừng như được đại hạnh phúc vậy. Nhưng đến khi cái chết gần kề, họ muốn sống cũng không được, thì lúc đó đau khổ ngần nào! Được tất cả sự vật bên ngoài, mà ngay bản thân mình không tự cứu được, cũng không ai cứu được. Như vậy tất cả sự vật bên ngoài đối với người đó còn có giá trị hay không? Lại có người tuy tiền của không bao nhiêu, đời sống rất đạm bạc nhưng họ đã thấy rõ được mình, biết cái gì là thật, cái gì là hư. Đời của họ có một chỗ tựa, một chỗ đứng vững vàng không còn hồi hộp, lo sợ gì nữa. Họ sống an nhàn tự tại, không còn sợ ngày mai khi chết rồi sẽ ra sao? Họ tự thấy mình một cách rõ ràng tỉnh táo, biết mình sẽ không còn phải đau khổ nữa, không còn phải sa vào ba đường ác: địa ngục, ngạ quỉ và súc sanh. Chính mình biết được mình, đó mới là giá trị cao nhất của cuộc đời.
Trong kinh Pháp Hoa có ví dụ: Một ông vua sai binh tướng đi đánh giặc. Khi binh tướng thắng trận trở về, nhà vua thưởng cho vị tướng tài giỏi nhất hòn ngọc ngài cất trong búi tóc, còn các tướng khác chỉ được tặng những vật phẩm thường thôi. Trong câu chuyện này Vua dụ cho đức Phật, vị tướng tài giỏi nhất dụ cho những Bồ-tát đã ngộ được Tri kiến Phật, nên được tặng cho hạt minh châu. Ngộ được Tri kiến Phật tức là thấy được chính mình, đó là giá trị cao nhất. Con người mà mình tìm biết được là con người nào? Chúng tôi gọi đó là con người chân thật. Con người nặng bốn mươi năm mươi ký là con người tạm bợ, chỉ sống mấy mươi năm rồi tan rã. Chỉ có con người chân thật mới không bị hủy hoại, không bị tiêu mất.
Con người chân thật đã từng được nói đến trong kinh Phật, từ kinh Nguyên thủy cho đến kinh Đại thừa và Thiền tông. Trong kinh A-hàm hay các bộ Nykàya, đức Phật thường dạy: Nếu diệt hết tham sân si, dẹp hết các phiền não thì mầm sanh tử dứt, gọi là được giải thoát hay là nhập Niết-bàn. Trong kinh Phật chủ trương vô thường, khổ, không, vô ngã. Nếu vô ngã, khi nói giải thoát, nhập Niết-bàn thì cái gì giải thoát, cái gì nhập Niết-bàn? Đó là một vấn đề mà đa số người học Phật đều thắc mắc. Thật ra thời đức Phật, đức Phật phải đương đầu với giáo lý Bà-la-môn. Giáo lý này chủ trương có thần ngã, người tu chín chắn sau khi chết, thần ngã sẽ nhập vào Đại ngã hay còn gọi là trời Đại Tự Tại hay Phạm thiên. Thần ngã trong đạo Bà-la-môn là cái hiểu biết, cái suy tính của con người cũng giống như linh hồn mà người bình dân thường tin tưởng. Để phá chấp về thần ngã hay linh hồn, đức Phật thuyết lý vô ngã. Nói vô ngã là để phá chấp hữu ngã của đạo Bà-la-môn, vì chấp như thế không đến được cái chân thật. Những suy nghĩ, phân biệt, hiểu biết là hiện tượng của thần ngã, tức là tướng sanh diệt, mà cho rằng không sanh diệt, đó là điều sai lầm. Vì vậy Phật nói cái đó không phải là ngã. Nếu nói giải thoát, nói nhập Niết-bàn là cái ngã giải thoát, cái ngã nhập Niết-bàn, thì người ta sẽ hiểu lầm đó là cái ngã của đạo Bà-la-môn. Vì vậy đức Phật chỉ nói giải thoát, chỉ nói nhập Niết-bàn, mà không nói cái gì giải thoát cái gì nhập Niết-bàn. Đức Phật dạy chúng ta đừng chấp, để chúng ta tu hành giải thoát, giải thoát rồi sẽ biết.
Chúng ta không khỏi thắc mắc nói giải thoát, nói nhập Niết-bàn, là phải có chủ từ. Ví dụ như nói được mở trói, được mời vào nhà sang trọng, thì phải có ai được mở trói, ai được mời vào nhà sang trọng. Ở đây, đức Phật không nêu lên con người chân thật nghĩa là do đạt được con người chân thật mà chúng ta giải thoát, do đạt được con người chân thật mà chúng ta nhập Niết-bàn là để tránh cái lỗi chấp thần ngã như bên đạo Bà-la-môn. Nếu lầm chấp cái được giải thoát, được Niết-bàn là thần ngã thì không giải thoát. Vì vậy các kinh Nguyên thủy không nói ai được giải thoát, ai được Niết-bàn.
Tuy nhiên, đức Phật không phải không nói về vấn đề ấy. Kinh Phật Sở Thuyết, trang 382 Tiểu Bộ Kinh, tạng Pali, Phật dạy: “Này các Tỳ-kheo, có sự không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi. Này các Tỳ-kheo, nếu không có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, thời ở đây không thể trình bày sự xuất ly khỏi sanh, hiện hữu, bị làm, hữu vi. Vì rằng, này các Tỳ-kheo, có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi nên có sự trình bày sự xuất ly khỏi sanh, hiện hữu, bị làm, hữu vi.” Trong đoạn kinh này đức Phật xác nhận có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi. Vì có cái đó cho nên mới có xuất ly, tức là có giải thoát. Đức Phật xác nhận rõ ràng có cái không nói tên, nhưng chúng ta ngầm hiểu đó là con người chân thật của chúng ta.
Qua đến kinh điển Đại thừa, con người chân thật được nêu lên rất rõ ràng. Trong kinh Kim Cang, Phật nói kệ:
Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu ngã
Thị nhân hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai.
Dịch:
Nếu do sắc thấy ta
Do âm thanh cầu ta
Người ấy hành đạo tà
Không thể thấy Như Lai.
Chữ “ta” (ngã) trong bài kệ chỉ cái gì? Nếu “ta” chỉ hình tướng đức Phật khi còn tại thế ở Ấn Độ, thì hình tướng đó ngày nay không còn nữa. Nếu “ta” chỉ cái khi đức Phật nhập Niết-bàn thì cũng không hợp lý. Chữ “ta” chỉ cái ta mà mọi người sẵn có, cái ta đó còn gọi là Pháp thân hay Phật tánh.
Kinh điển Đại thừa nói cái thân hiện có của chúng ta là cái thân tạm bợ giả dối. Ngay trong cái thân tạm bợ giả dối này có cái chân thật bất sanh bất diệt, gọi là Pháp thân hay Phật tánh. Chữ “ngã” là chỉ cho Pháp thân. Pháp thân không phải là sắc tướng, cho nên không do sắc mà thấy. Pháp thân không phải là âm thanh, cho nên không do âm thanh mà cầu. Sắc tướng âm thanh là tướng sanh diệt tạm bợ, nếu dùng sắc tướng âm thanh mà cầu gọi là hành đạo tà, không thể thấy được Pháp thân, cho nên nói không thể thấy Như Lai, Như Lai là chỉ cho Pháp thân. Kinh điển Đại thừa đã nêu lên cho chúng ta thấy mỗi người đều sẵn có Pháp thân.
Ngày xưa khi còn ở Phật học đường, chúng tôi thắc mắc không hiểu vì sao các nhà tạc tượng ở Việt Nam, khi tạc hình đức Phật lại giống người Việt Nam. Chẳng lẽ các vị ấy không biết đức Phật là người Ấn Độ hay sao? Ở Trung Hoa cũng vậy, hình đức Phật giống người Trung Hoa, ở Nhật Bản thì giống người Nhật Bản...Vì sao các nhà điêu khắc lại tạc tượng như vậy? Ngày nay khi học kỹ kinh điển Đại thừa rồi, chúng tôi mới biết tinh thần Đại thừa không chỉ thừa nhận đức Phật với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp như ở Ấn Độ, mà luôn luôn đề cao Phật pháp thân. Phật pháp thân là Tánh giác mỗi người sẵn có. Dù ở Trung Hoa, Nhật Bản hay Việt Nam, ai cũng có Tánh giác như đức Phật ở Ấn Độ. Nếu khéo tu, khéo chuyển thì tất cả đều giác ngộ thành Phật như Ngài. Các nhà điêu khắc hiểu được lý này, nên tạc hình đức Phật giống như người của nước mình. Đó là để nói lên tinh thần Đại thừa, chỉ thấy Phật là Phật pháp thân. Phật pháp thân thì ở nơi nào cũng có, chớ không riêng ở quốc độ nào. Chỉ có người nhận được cái chân thật nơi mình ngoài âm thanh, ngoài sắc tướng, mới có thể thấy Như Lai, tức là Phật pháp thân.
Trong nhà thiền, con người chân thật còn được gọi là Bản lai diện mục hay Ông chủ. Lục tổ Huệ Năng khi nhận được y bát của Ngũ Tổ rồi, rời Huỳnh Mai ra đi. Có một đoàn người dẫn đầu là Thượng tọa Huệ Minh đuổi theo để đoạt lại y bát… Khi gặp Lục Tổ, Thượng tọa Minh thưa: Tôi đến đây vì cầu pháp, chớ không phải giành y bát. Lục Tổ bảo: Nếu muốn cầu pháp, ông hãy bình tĩnh lắng tâm nghe tôi hỏi. Thượng tọa Minh yên lặng giây lâu, Lục Tổ hỏi: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính khi ấy cái gì là Bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?” Ngay đó ngài Huệ Minh ngộ, nhận được Bản lai diện mục, tức là bộ mặt sẵn có của mình từ xưa đến giờ.
Trung Hoa có Thiền sư Sư Ngạn thường ngồi tu trên tảng đá, ngồi một lát, thấy hơi lơ là, tự gọi: “Ông chủ!” Rồi ứng thanh: “Dạ!” Bèn bảo tiếp: “Tỉnh tỉnh, đừng bị người lừa nghe!” Lâu lâu Ngài tự gọi rồi tự đáp. Tu như vậy, về sau Ngài trở nên một Thiền sư nổi danh thời bấy giờ.
Danh từ Ông chủ hay Bản lai diện mục, trong nhà thiền thường hay nhắc đến là để chỉ cái chân thật sẵn có nơi mọi người. Rất tiếc vì chúng ta không nhận thấy, hay vì quên nên không sống được với cái chân thật đó. Bởi thế đức Phật bảo chúng ta mê, mê là quên mình có con người chân thật, rồi đuổi theo, lo lắng cho con người tạm bợ giả dối, đến khi con người tạm bợ sắp tan rã lại hoảng sợ cuống cuồng lên, không biết rồi mình sẽ ra sao? Ngộ là nhận được và hằng sống với cái chân thật ấy, đó là nguồn hạnh phúc vô cùng, nên gọi là Niết-bàn, an lạc, giải thoát.
Muốn biết được Ông chủ hay con người chân thật quả là thiên nan vạn nan. Thiền sư Ngộ Ấn đời Lý ở Việt Nam, khi sắp tịch có bài kệ:
Diệu tánh hư vô bất khả phan,
Hư vô tâm ngộ đắc hà nan.
Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận,
Liên phát lô trung thấp vị càn.
Dịch:
Diệu tánh rỗng không chẳng thể vin,
Rỗng không tâm ngộ việc dễ tin.
Tươi nhuần sắc ngọc trong núi cháy,
Lò lửa hoa sen nở thật xinh.
Trong lò lửa cháy hực, một đóa sen đang nở tươi thắm, điều đó có tin được hay không? Thật là khó tin. Tuy khó tin mà có thật, mới là lạ chứ! Thân chúng ta từ hình thức vật chất đến tinh thần, nghĩ suy tính toán đều luôn luôn sanh diệt đổi thay. Nhưng trong cái sanh diệt đổi thay đó, có cái chưa bao giờ sanh diệt đổi thay. Đức Phật ví cái đổi thay vô thường như là lửa, lửa đốt cháy làm sự vật phải tiêu mòn. Vì vô thường nên con người luôn luôn thay đổi không bao giờ dừng, từ trẻ đến già, từ già đến chết. Thân tâm đều vô thường. Trong cái vô thường đó, muốn tìm cái không vô thường rất khó, chẳng khác nào trong lò lửa mà có một đóa sen nở tươi thắm, không bao giờ bị khô héo. Điều này tuy khó tin mà có thật. Thấy được điều này thật là hãn hữu. Thấy được rồi, chúng ta không còn lo sợ vì trong cuộc sống vô thường còn có cái miên viễn không bao giờ mất. Thân này, cảnh này dù có mất đi, nhưng cái chân thật nơi chúng ta luôn luôn hiện hữu. Đối với sanh tử, các vị đạt đạo xem như trò chơi, chúng ta vì chưa thấy đạo nên khi thân này sắp tan hoại, lại lo sợ kinh hoàng. Lúc ấy nếu cho được sống thêm năm mười năm nữa, chúng ta vui mừng vô hạn. Còn trong vô thường, mất trong vô thường mà mừng sợ làm gì? Có cái chưa bao giờ vô thường, chưa bao giờ mất, chúng ta lại không thấy. Vì thế cái không vô thường, không tan hoại được ví như viên ngọc quí trên ngọn núi đang cháy, lửa hừng hực mà ngọc vẫn tươi nhuần, cũng như hoa sen trong lò lửa mà vẫn tươi thắm. Hình ảnh trái ngược này, người thế gian không bao giờ tưởng tượng được, nhưng người tu Phật khi công phu viên mãn thì thấy rõ điều đó không nghi ngờ. Vì thế người tu còn gọi là người xuất thế gian, tức là người vượt qua sự tưởng tượng, sự nghĩ bàn của thế gian.
Trong hai câu đầu của bài kệ, ngài Ngộ Ấn dạy chúng ta: Diệu tánh rỗng không chẳng thể vin,
Rỗng không tâm ngộ việc dễ tin.
Tánh nhiệm mầu rỗng không, không thể vin theo hay nắm bắt được. Muốn ngộ được diệu tánh ấy, tâm mình phải rỗng rang, không còn những ý niệm lăng xăng dao động. Nhưng hiện nay tâm mình lúc nào cũng đầy tràn. Muốn tâm được rỗng rang, chúng ta phải buông hết đi, ném sạch hết đi, thì mới thấy cái chân thật rỗng rang đó.
Tươi nhuần sắc ngọc trong núi cháy,
Lò lửa hoa sen nở thật xinh.
Khi tâm mình được rỗng rang thanh tịnh rồi, chúng ta mới thấy ngay nơi thân vô thường này có cái chân thật không vô thường, giống như trong ngọn núi đang cháy có hòn ngọc tươi nhuần, trong lò lửa hừng hực có một đóa sen xinh tươi đang nở. Điều này rất khó tin nhưng có thật. Nếu chúng ta khéo tu, khéo ứng dụng thì sẽ thấy được, chắc chắn không nghi ngờ. Chính đức Phật đã sống với diệu tánh chân thật ấy nên Ngài ung dung tự tại trước mọi hoàn cảnh. Chư Tổ khi xưa cũng thấy được và sống được với cái chân thật đó, nên xem sanh tử như trò chơi, không có nghĩa lý gì.
Ở Trung Hoa, Thiền sư Tỉnh Niệm khi sắp tịch nói kệ:
Bạch ngân thế giới kim sắc thân,
Tình dữ phi tình cộng nhất chân.
Minh ám tận thời câu bất chiếu,
Nhật luân ngọ hậu kiến toàn thân.
Dịch:
Thế giới bạch ngân thân sắc vàng,
Tình với phi tình một tánh chân.
Tối sáng hết rồi đều chẳng chiếu,
Vầng ô vừa xế thấy toàn thân.
Khi Ngài thấy được con người chân thật rồi thì cái thân vô thường bại hoại này có mất đi, chẳng qua như bọt nước dưới biển, tan ra rồi trở về biển chớ có mất mát gì đâu. Cho nên nói vầng ô vừa xế thấy toàn thân là khi tịch, Ngài thấy được toàn thân chớ không có mất.
Ở Việt Nam, Thiền sư Liễu Quán có nói bài kệ:
Thất thập dư niên thế giới trung,
Không không sắc sắc diệc dung thông.
Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý,
Hà tất bôn man vấn tổ tông.
Dịch:
Hơn bảy mươi năm ở cõi trần,
Không không sắc sắc thảy dung thông.
Hôm nay nguyện mãn về quê cũ,
Nào phải bôn ba hỏi tổ tông.
Đối với Ngài khi thân này tan hoại, đó là lúc trở về quê cũ, không có gì mất mát, không có gì phải âu lo buồn khổ. Thấy đạo tức thấy mình có con người chân thật rồi thì sự sống chết chỉ là trò chơi không quan trọng, vì thế Ngài ra đi thảnh thơi tự tại, không sợ sệt.
Trở lại thực tế, như tôi là một Phàm tăng, sanh trong thời mạt pháp, lại thêm phước mỏng nghiệp dày. Nhưng trên đường tu với tâm cố gắng mãnh liệt, tôi vẫn tin rằng mình có con người chân thật, lòng tin của tôi kiên cố không chút nghi ngờ. Chúng tôi không nói vấn đề tu chứng chi cả, chỉ nói lòng tin vững chắc: Nơi tôi có con người chân thật.
Ngày trước tôi có mặc cảm là mình không đủ phước duyên như quí Hoà thượng đi tu từ thuở nhỏ, năm bảy tuổi, hay mười một mười hai tuổi. Đến năm ngoài hai mươi tuổi tôi mới xuất gia, kể ra là quá muộn rồi, thật là phước mỏng nghiệp dày! Khi vào chùa tôi được biết là mình tu nhằm thời mạt pháp, chắc không sao tiến nổi. Tu là để gieo duyên lành cho đời sau tiếp tục, chớ không có chút hi vọng gì tìm ra đạo lý cao siêu! Các bậc Thầy Tổ của chúng tôi thường nhắc: “Mình sanh nhằm thời mạt pháp, thôi thì dùng lục tự Di-đà, niệm Phật rồi sau Phật rước về nước của Ngài. Qua được bên ấy, dù là hàng hạ sanh, hạ phẩm cũng còn vui hơn ở cõi Ta-bà đau khổ này.” Yên lòng như vậy, tôi không nghĩ gì hơn là cố gắng gieo chút duyên lành với Phật pháp.
Tuy nhiên tôi có thói quen là làm việc gì cũng không dám tự mãn. Dù Thầy Tổ có dạy như vậy, nhưng khi học kinh điển, thấy đức Phật do ngồi thiền mà thành đạo, vì thế tôi mò mẫm cố làm sao thấy được điều Phật đã dạy. Rõ ràng đức Phật do ngồi thiền dưới cội bồ-đề mà được giác ngộ, vì vậy noi gương Ngài, tôi tập ngồi thiền. Nhưng khổ nỗi, ai dạy mình ngồi, đọc sách nào đây? Tôi mới lục trong Tạng kinh, đọc thêm các sách Thiền tông. Sao mà khó hiểu quá! Nhưng tôi có niềm tin vững chắc đối với con đường mà Phật và chư Tổ đã đi. Thế nên tôi quyết chí tu thiền, mặc cho sự việc ra sao. Lấy bản thân mình làm thí nghiệm, sống được cũng tốt, mà chết đi cũng tốt. Sau đó khi bắt đầu thực hành, chúng tôi phải dọ dẫm lần hồi vì không có thầy bạn hướng dẫn. Nhờ hồng ân của Phật Tổ, chúng tôi thấy được một chút đạo lý để giữ vững niềm tin mình có một con người chân thật. Và chúng tôi khẳng định điều đó không còn nghi ngờ gì nữa. Giả sử bây giờ có bao nhiêu lý luận hay thế mấy mà nói rằng không có con người chân thật, tôi vẫn lắc đầu không chấp nhận.
Tôi tự ví mình như Thiền sư Đại Mai Pháp Thường. Ngài Pháp Thường sau khi tham vấn Mã Tổ, về núi Đại Mai ẩn tu. Mã Tổ nghe tin Ngài ở núi mà không biết Ngài ngộ cái gì, nên sai một vị Tăng đến thăm dò. Vị Tăng đến hỏi:
- Ngài gặp Mã Tổ được cái gì mà về ở núi này?
Ngài đáp:
- Tôi chỉ nghe Mã Tổ nói “tức tâm tức Phật”, nên về ở núi này.
Vị Tăng nói:
- Gần đây Mã Tổ lại nói “phi tâm phi Phật”.
Ngài nói:
- Ông già mê hoặc người, mặc ông nói “phi tâm phi Phật”, tôi chỉ biết “tức tâm tức Phật” thôi.
Vị Tăng trở về bạch lại Mã Tổ. Mã Tổ nói với đại chúng: Trái Mai đã chín. Như vậy “chín” là sao? Tức là được lòng tin không thối chuyển. Chính Mã Tổ là thầy của Ngài, đã nói “tức tâm tức Phật” mà bây giờ đổi lại “phi tâm phi Phật” nhưng Ngài vẫn cả quyết mặc ông già mê hoặc người, ta chỉ biết “tức tâm tức Phật”. Chính lòng tin đó khiến Ngài tu hành không thối chuyển.
Tuy chúng tôi tu không bằng ngài Đại Mai, nhưng cũng tin chắc rằng nơi mình có cái không sanh không diệt. Dù có ai nói gì đi nữa tôi vẫn khẳng định niềm tin này. Vì có con người chân thật đó chúng ta mới giải thoát, mới nhập Niết-bàn. Nếu không thì ai giải thoát? Ai nhập Niết-bàn? Cái chân thật nơi mình không phải là điều xa xôi huyền bí mà rất thực tế. Nếu chúng ta chịu khó dụng tâm nghiền ngẫm thì sẽ thấy được điều đó không nghi ngờ. Khi thấy được cái chân thật rồi, dù chúng ta chưa làm chủ thân này, chưa được tự tại trong sanh tử, song chúng ta không phải khổ đau khi mất nó. Riêng tôi, tuy chưa làm chủ được thân, nhưng tin chắc rằng mất thân này tôi không lo sợ. Và những ai có chí tu hành cũng đừng mặc cảm như tôi ngày trước, cho rằng mình sanh thời mạt pháp, phước mỏng nghiệp dày... mà phải thấy rằng chúng ta còn có duyên với đạo, cho nên ngày nay mới phát tâm tu hành, mới được sự nhắc nhở của thầy bạn và đọc được bao nhiêu kinh sách của Phật, chưa phải chúng ta vô phần.
Ngày trước chúng tôi rất bi quan khi nghĩ rằng thời mạt pháp người tu không bao giờ có chứng đắc. Nhưng sau này học sử Phật giáo rồi, chúng tôi mới thấy không hẳn luôn luôn như vậy. Thời chánh pháp, khi đức Phật tại thế, vẫn có nhiều Tỳ-kheo thối Bồ-đề tâm vì không quyết chí tu hành. Còn tuy là thời mạt pháp mà nếu chúng ta quyết tử trên đường tu, thì cũng có thể tiến được. Vì thế chánh pháp hay mạt pháp là cốt ở tâm mình, nếu quyết chí tu hành thì thời mạt pháp coi như là thời chánh pháp, nếu không quyết chí tu hành thì ngay trong thời chánh pháp coi như là mạt pháp. Vậy chúng ta không nên có mặc cảm là mình đang sanh thời mạt pháp rồi thả trôi cuộc đời tu hành. Chúng ta phải nỗ lực tiến tu để có thể chuyển mạt pháp thành chánh pháp. Tinh thần của người tu là, dù sống trong thời buổi nào cũng phải cố gắng vươn lên, tu hành tinh tấn cho đến ngày công hạnh viên mãn. Như vậy, chúng tôi đã dẫn từ các kinh điển Nguyên thủy cho đến Đại thừa và Thiền tông, để quí vị thấy nơi chúng ta đều có sẵn con người chân thật, nếu quyết chí tu hành thì sẽ thấy được điều đó không nghi ngờ.
Kết thúc bài giảng hôm nay chúng tôi dẫn bài kệ “Khuyến Thế Tiến Đạo” của Tuệ Trung Thượng Sĩ, để nhắc nhở tất cả quí vị thức tỉnh và cố gắng lên:
Tứ tự tuần hoàn xuân phục thu,
Xâm xâm dĩ lão thiếu niên đầu,
Vinh hoa khẳng cố nhất trường mộng,
Tuế nguyệt không hoài vạn hộc sầu.
Khổ thú luân hồi như chuyển cốc,
Ái hà xuất một đẳng phù âu,
Phùng trường diệc bất mô lai tỹ,
Vô hạn lương duyên chỉ mạ hưu.
Dịch:
Khuyên đời vào đạo
Thời tiết xoay vần xuân đến thu,
Cái già sồng sộc đã lên đầu,
Giàu sang ngó lại trơ tràng mộng,
Năm tháng mang theo chất hộc sầu.
Nẻo khổ, vành xe lăn lóc khắp,
Sông yêu, bọt nước mất còn đâu,
Trường đời nếu chẳng rờ lên mũi,
Ngàn thuở lương duyên chỉ bóng màu.
Trúc Thiên
Thời tiết xoay vần xuân đến thu,
Cái già sồng sộc đã lên đầu.
Hết xuân, hạ đến thu, đông, rồi lại sang xuân... thời tiết cứ như thế mà tiếp tục, tiếp tục mãi. Khi thời gian xoay vần biến chuyển thì cái già đã đáp lên đầu chúng ta rồi. Thời gian biến chuyển, bản thân chúng ta cũng biến đổi theo. Mỗi một ngày qua là già thêm một chút, sức sống giảm đi một phần. Rồi một tháng qua, một năm qua chúng ta lại càng già hơn, mạng sống lại càng mong manh hơn! Nếu chúng ta mong cho mau hết ngày, hết tháng, hết năm, tức là mong cho mau già, mau chết chớ gì? Như vậy nếu cái già cái chết đến, lẽ ra chúng ta phải vui mừng, mà tại sao khi ấy lại lo sợ hoảng hốt? Thật là mâu thuẫn. Vì sống mâu thuẫn, không thấy được lẽ thật, nên chúng ta đau khổ. Ngày nay không ra gì, chúng ta mong cái gì mới lạ ở ngày mai, không ngờ cái lạ chắc chắn là mái tóc mình sẽ bạc: trẻ rồi già, già rồi chết. Đó là cái lạ mà chúng ta không chịu chấp nhận. Thời gian và bản thân mình nhịp nhàng theo nhau, nếu không mong cái chết đến với chúng ta, thì thôi đừng mong thời gian qua mau làm gì!
Giàu sang ngó lại trơ tràng mộng,
Năm tháng mang theo chất hộc sầu. Hai câu này mới thấm thía làm sao! Tất cả giàu sang phú quí trên đời này, khi chúng ta sắp tắt thở nằm liệt trên giường, nhớ lại giống như giấc mộng thôi. Cái gì đã qua rồi, không tìm lại được. Như ban đêm mình mộng thấy giàu sang tột đỉnh, sáng ra tỉnh dậy mới biết chỉ là giấc mộng thôi. Cảnh trong mộng làm sao tìm ra được. Thế nên dù giàu sang sung sướng bao nhiêu, khi tuổi già đến, nhớ lại quãng đời trước chẳng khác nào giấc mộng, đâu có gì tồn tại lâu bền! Đã là mộng vì sao lại khổ đau? Mỗi một ngày qua, có khi nào chúng ta thản nhiên vô sự đâu, hết buồn giận người này đến phiền trách người kia, rồi chứa chất trong lòng không biết bao nhiêu là sầu khổ! Như vậy suốt cuộc đời từ trẻ đến già, khổ đau tràn ngập. Thân thì tiêu mòn mà buồn phiền đau khổ tăng lên gấp bội, đó là cái mâu thuẫn đáng thương của chúng ta. Đến khi thân này tan hoại, thì những khổ đau đầy ắp đó sẽ dẫn mình đến chỗ nào đây?
Nẻo khổ, vành xe lăn lóc khắp,
Sông yêu, bọt nước mất còn đâu.
Phiền não quá nhiều sẽ lôi chúng ta đi vào những con đường đau khổ xấu xa, chẳng khác nào vành xe lăn hết nơi này đến chốn kia, mà toàn là đến chỗ khổ đau. Nếu trong lòng đang ngập tràn phiền não, giả sử có người dẫn chúng ta đi ngắm cảnh đẹp cho vui, thử hỏi làm sao vui được! Thế nên lúc đang đau khổ mà mất thân này, chắc chắn chúng ta sẽ bị đưa đến những chỗ khổ đau. Muốn ngày mai được an vui, thì ngang đây phải buông đi tất cả phiền não trong lòng.
Sông yêu, chữ yêu đây tức là ái, nếu còn tâm ái trước thân này và trìu mến cảnh vật chung quanh thì khi mất thân này chúng ta lại tạo thân khác, sanh tử nối tiếp không dừng, giống như bọt nước ngoài biển, cơn sóng đùa qua bọt nước nổi lên rồi bể nát, nổi lên rồi bể nát không biết bao nhiêu lần. Nếu trong lòng chứa nhóm thù hận chúng ta sẽ đi vào con đường đau khổ, nếu còn chứa nhóm lòng yêu mến thân và cảnh, chúng ta sẽ bị dẫn đi trong sanh tử liên tục không dừng.
Trường đời nếu chẳng rờ lên mũi,
Ngàn thuở lương duyên chỉ bóng màu.
Nếu gặp cơ hội mà chúng ta không rờ lên mũi thì duyên lành muôn thuở đó cũng chỉ là chuyện bóng màu, phớt qua rồi mất, uổng đi một đời. Rờ lên mũi là ý nghĩa gì? Trong nhà thiền, khi nói tới lỗ mũi là để chỉ cái sẵn có ở trước mặt mà mình không thấy. Lỗ mũi lại là nơi thở ra hít vào tức là nguồn sống của chúng ta. Như vậy lỗ mũi dụ cho con người chân thật hiện hữu nơi chúng ta, mà chúng ta lại không thấy. Rờ lên mũi nghĩa là nhận được con người chân thật nơi mình. Nhận được, cuộc đời chúng ta mới có giá trị. Bằng không thì duyên lành muôn thuở của chúng ta chẳng qua là ảo ảnh mà thôi.
Trong hai câu kết ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ đã nhắc chúng ta, nhất là người đã thế phát xuất gia, có duyên lành với Phật pháp nếu không nhận được con người chân thật nơi mình, thì uổng phí cả một đời tu. Thế nên chúng ta phải nỗ lực cố gắng làm sao để duyên tốt đó được hữu ích và thực tế hơn.
Hôm nay là ngày cuối năm. Đêm ba mươi tháng chạp là đêm chuyển mình từ năm cũ sang năm mới. Trong nhà Phật thường ví đêm này như thời gian sắp tắt thở của chúng ta, chuyển mình từ thân cũ sang thân mới, hay từ thân tiền ấm chuyển sang thân hậu ấm. Từ cũ chuyển sang mới thì cái mới phải tốt đẹp hơn. Nhưng đó là còn trong vòng sanh tử. Nếu thân cũ này bại hoại đi, chúng ta được thảnh thơi giải thoát, đó mới đúng là người chân thật xuất gia, đúng là người cầu đạo giải thoát.
Mong rằng tất cả Tăng Ni và Phật tử được phước duyên lành sống trong nhà đạo, chúng ta phải nhớ đừng hủy hoại duyên lành của mình mà phải luôn luôn cố gắng. Trong năm cũ nếu chúng ta tạo được những gì hay đẹp thì hãy lấy đó làm nền tảng để sang năm mới càng hay đẹp hơn. Nếu trong năm cũ chúng ta đã lỡ gây ra những gì hư dở, thì sang năm mới chúng ta dứt khoát không tiếp tục làm những điều ấy nữa, mà phải chuyển sang làm những việc hay đẹp.
Nhân ngày cuối năm cũng là lúc chuẩn bị đón giao thừa, chúng ta nhắc nhở nhau tiến trên con đường đạo, gọi là tùy theo thế tục để trở về chân. Chúng tôi mong rằng tất cả quí Tăng Ni và Phật tử có mặt nơi đây và ở những nơi khác, không ủ dột âu sầu như năm cũ mà đều cố gắng chuyển mình từ năm cũ sang năm mới với gương mặt rạng rỡ hân hoan, để giữ vững những gì cao quí và hay đẹp của con người chúng ta.
RA KHỎI HẦM LỬA
Tết Kỷ Tỵ - 1989
Hôm nay Tăng Ni, Phật tử về đây để mừng năm mới và tha thiết chúc tụng chúng tôi. Thật ra chúng ta mừng thêm một tuổi hay buồn bớt đi một năm sống? Lần lượt hết năm này sang năm khác, cứ thế mà chúng ta trải qua mấy mươi năm từ thuở bé cho đến ngày nay. Riêng tôi thì tóc bạc da nhăn rồi, còn quí vị có người tóc đã bắt đầu bạc, cũng có người còn trẻ hơn. Trên con đường sanh tử, có người đi hơn nửa đường, có người đi nửa đường, có người mới đi một phần ba, một phần tư đường, đã đi thì nhất định là phải đến, không ai không đến. Thế nên trong nhà Phật lẽ sanh tử là một việc lớn. Vì sợ vô thường nửa chừng, qua được một năm là thấy mình sống thêm một tuổi, sang năm tới chưa biết có tròn được một năm không, nên năm mới mừng tuổi có nghĩa là mừng sống thêm một tuổi. Mừng thêm một tuổi là buồn bớt đi một năm sống, nhưng vì thêm một tuổi là qua được cái yểu và thêm cái thọ, nên tạm gọi đó là mừng.
Riêng chúng tôi, thấy Tăng Ni là những người mình cưu mang từ bao năm nay, chúng tôi muốn những người đó mỗi ngày một hay, mỗi ngày một cao thượng, mỗi ngày thêm sáng suốt, giác ngộ và giải thoát. Thế mà nhiều khi chúng tôi thấy có những người không tiến bao nhiêu, hi vọng được giải thoát nhưng lại trói buộc nhiều, muốn được giác ngộ nhưng ngọn đèn trí tuệ lu từ từ. Đó là những điều làm cho chúng tôi phải lo lắng. Vì vậy mỗi năm, chúng tôi đều nhắc nhở Tăng Ni và Phật tử, phải có cái nhìn xuyên suốt từ buổi ban sơ cho đến hiện nay, để thấy rõ bước tiến của mình mỗi năm mỗi khác, chớ không nên giậm chân một chỗ hoặc thối lui, vì như thế là điều đáng buồn. Đề tài tôi nhắc nhở quí vị hôm nay là Ra khỏi hầm lửa.
Nếu không có chủng duyên lành từ nhiều đời trước, chắc chúng ta khó có thể xuất gia, cạo tóc, ở chùa tu hạnh giải thoát. Từ khi lọt lòng mẹ đến khi khôn lớn, chúng ta có bổn phận đối với cha mẹ quyến thuộc và có trọng trách đối với gia đình, xã hội. Vậy mà chúng ta dứt bỏ được tất cả manh mối trói buộc để một mình an ổn thảnh thơi nơi đạo tràng tu hành thanh tịnh, đó là do đầy đủ phước duyên chớ không phải ai muốn cũng được. Đã có phước duyên lớn như vậy, chúng ta không nên chần chờ, thờ ơ để cho duyên tốt đó bị mai một, như thế là hủy hoại nhân lành đã gieo từ bao đời, đến nay mới được thành tựu. Là người từ trong trăm mối buộc ràng của gia đình, xã hội mà cắt đứt tất cả, ở yên tu hành chúng ta phải nhớ làm tròn bổn phận để khỏi hổ là mở việc này lại cột việc khác. Tránh sự bận rộn phiền toái của gia đình, vào chùa lại cũng phiền toái bận rộn, đó là điều sai lầm, không đúng tinh thần người học đạo.
Kinh Nguyên thủy có kể thầy Sa-di Sanu, đi tu từ thuở năm bảy tuổi cha mẹ gởi vào tinh xá ở với chư Tăng. Một thời gian sau, học hành khá thuyết pháp hay, nhưng không biết vì lý do gì thầy lui sụt tâm Bồ-đề, về xin mẹ hoàn tục. Bà mẹ là người tha thiết với đạo, thấy thầy chán nản việc tu hành nên bà buồn khóc. Thầy Sa-di lấy làm lạ hỏi:
Thưa mẹ người ta khóc,
Khóc vì người đã chết,
Hay có khóc người sống,
Khi sống không được thấy.
Thưa mẹ con đang sống,
Và mẹ đang thấy con,
Vậy vì sao thưa mẹ,
Mẹ lại khóc cho con?
Ý thầy muốn hỏi: Ở thế gian người ta khóc vì đau khổ khi con chết, hoặc vì còn sống mà phải chia tay mỗi người một nơi. Thầy còn sống và còn về gặp mẹ, vậy tại sao mẹ khóc. Bà mẹ đáp:
Người ta khóc cho con,
Là khóc khi con chết,
Hay khóc cho con sống,
Nhưng không được thấy mặt.
Ai đã bỏ dục vọng,
Lại trở lui đời này,
Này con, người ta khóc,
Là khóc cho người ấy,
Vì người ấy được xem,
Còn sống cũng như chết.
Này con, được kéo ra,
Khỏi than hầm lửa rực,
Con còn muốn rơi vào,
Đống than hồng ấy chăng?
Bà mẹ nói lý do quá rõ ràng: Không phải bà khóc vì con chết hay vì sống mà không thấy mặt nhau, mà khóc cho đứa con đã bỏ dục lạc thế gian, nay muốn trở lui lại, giống như kẻ đang sống mà thành chết. Khóc cái chết là khóc cho người bỏ tâm hồn trong trắng, sáng suốt, trở lại thành con người tối tăm u mê, chính đó là niềm đau khổ của bà mẹ. Thứ nữa bà thấy con mình xuất gia, chẳng khác nào người được kéo ra khỏi hầm lửa. Đã ra khỏi hầm lửa, nay lại nài nỉ xin trở vào, biết cái khổ đó, bà thương xót nên khóc. Đó là hai lý do khiến bà buồn khổ. Như thế đối với bậc cha mẹ biết đạo lý, khi thấy con đi tu, đã thâm nhập đạo lý và sống được trong đạo một thời gian thì niềm vinh hạnh của cha mẹ rất lớn, mừng con mình có hạnh xuất trần thoát tục, mừng con được rảnh rang nhàn hạ trong đạo đức, rồi mai kia sẽ làm lợi ích cho nhiều người. Khi con được cha mẹ đặt hi vọng, đặt niềm tin, nay trái lại muốn bỏ đạo lý để trở thành người thế tục, điều đó khiến cha mẹ đau khổ hơn lúc cho con đi tu. Một là nhục nhã vì con mình không tròn chí nguyện cao cả, hai là thương con đã có chí giải thoát xuất trần, đã được thảnh thơi nhàn hạ, nay lại trở thành người tầm thường, lăn trong trần tục, bị muôn mối buộc ràng. Vậy đã là người xuất gia chúng ta phải làm thế nào? Chần chờ để qua ngày tháng hay có niệm thối lui trở về tìm hưởng dục lạc? Hai quan niệm đó đều tội lỗi, đều gây khổ đau cho cha mẹ.
Thiền sư Đạo Ưng nói: “Các ông xuất gia như kẻ tội ra khỏi khám đường, nên ít muốn biết đủ, chớ tham danh lợi ở đời... được ở trong Phật pháp phải mười phần sống chín phần chết...” Lời nói của Ngài đơn giản, nhưng thấm thía biết bao! Người xuất gia không phải chỉ bỏ nhà cha mẹ vào trong chùa là đủ. Xuất gia có ba nghĩa, vượt ra khỏi nhà thế tục, vượt ra khỏi nhà phiền não và vượt ra khỏi nhà luân hồi trong Tam giới. Ngày xuất gia chúng ta thệ nguyện ra khỏi nhà phiền não, nhà trầm luân trong Tam giới, có khác nào ra khỏi khám đường. Đã ra khỏi khám đường mà còn nài nỉ xin trở vào thì có hợp lý không? Dĩ nhiên là không. Một lần ra khỏi vĩnh viễn không trở lại, đó mới là người khôn ngoan sáng suốt. Nếu ra rồi còn muốn trở lại thì thật là rất dại khờ, làm cho những người chung quanh nhìn chúng ta với đôi mắt thương xót. Đã ra khỏi khám đường rồi chúng ta phải làm gì nữa? Ngài nhắc nên ít muốn biết đủ, tức là bớt lòng tham lam, đừng muốn nhiều, đừng gây tạo nhiều, để có thì giờ tu hành. Dừng tâm tham muốn không chạy theo danh lợi, vì nó là sợi dây, là miếng mồi nhử chúng ta trở lại vòng đau khổ của khám đường. Muốn thực hiện bản nguyện ra khỏi vòng trầm luân Tam giới, Ngài dạy chúng ta ở trong Phật pháp, mười phần sống phải chết hết chín phần. Ngày nay chúng ta phải chết chín phần thế tục, chỉ còn một phần nhỏ là phải ăn phải mặc, phải tới lui qua lại, cái còn đó rất đơn giản, rất ít oi, chớ đừng sống trọn vẹn như người thế tục. Chính sự tinh tấn tu hành là gốc để chúng ta thoát ly Tam giới. Muốn được như thế chúng ta phải hạn chế những nhu cầu, những mong muốn. Chúng ta phải bớt đi, càng bớt nhiều thì tinh thần tu hành càng tăng trưởng. Trái lại chúng ta cứ đòi hỏi, cứ chạy theo chúng thì tinh thần tu hành ngày càng giảm sút. Thế nên Ngài dạy mười phần sống phải chết chín phần.
Trong kinh Tứ Thập Nhị Chương, đức Phật cũng đã từng dạy: “Người xuất gia ra khỏi dục lạc của thế gian, chẳng khác nào người khạc đàm dãi nhổ xuống đất.” Khi khạc đàm dãi nhổ xuống đất rồi, chúng ta có muốn ngó lại nó không? Chắc gớm lắm, không muốn ngó lại. Ngó lại còn không muốn, huống nữa lấy tay sờ, lấy lưỡi liếm. Cũng thế, người đã xuất gia, thấy rõ những cái dở, cái xấu, cái hại của thế gian, thì phải dứt khoát vượt ra khỏi trần lao để làm lợi ích cho mọi người, nói cách khác là để dìu dắt mọi người cùng ra khỏi trần lao. Thế nên chúng ta không thể xem thường, phải thấy dục lạc thế gian là mối họa lớn cần phải tránh, cần phải không nhìn đến thì mới có thể vươn lên được. Nếu còn ưa thích, còn mơ ước nó, chúng ta sẽ chìm đắm, đau khổ.
Sư ni Subha nói lại việc tu hành của bà trong một bài kệ dài, tôi dẫn một đoạn:
Dục làm cho điên cuồng,
Loạn ngôn tâm thác loạn,
Làm uế nhiễm chúng sanh,
Sắp rơi bẫy ác ma.
Dục nguy hiểm không cùng,
Nhiều khổ, thuốc độc lớn,
Ngọt ít, tạo đấu tranh,
Héo tàn ngày tươi sáng.
Ta quyết định như vầy:
Không trở lui dục nhân,
Tác thành điều bất hạnh,
Luôn vui hưởng Niết-bàn...
Bà biết rõ dục lạc làm cho chúng sanh điên cuồng, nói những lời không đúng lẽ thật, nên gọi là loạn ngôn. Dục lạc làm cho tâm chúng sanh thác loạn ô uế, nhiễm nhơ rồi dẫn dắt, lôi chúng sanh vào bẫy của ác ma, bị trói buộc trong vòng ma. Dục lạc nguy hiểm không thể nào kể hết, nó tạo nhiều khổ, là thuốc độc, là nhân của đấu tranh. Chúng ta cãi nhau giành giật nhau vì dục lạc. Chính vì tìm kiếm, theo đuổi dục lạc mà thân chúng ta héo tàn, kiếp sống trở nên khô khan, không tươi sáng. Biết như thế chúng ta quyết định không trở lại với dục lạc, vì đó là nhân gây bất hạnh, đau khổ. Mục tiêu chánh yếu của người tu là dứt hết nhân khổ đau, tiến tới an lạc Niết-bàn thanh tịnh. Không phải chỉ riêng bản thân chúng ta hết khổ, được vui, chúng ta sẽ chỉ cho bằng hữu, cho huynh đệ, cho mọi người chung quanh cũng hết khổ, được an vui. Nếu chúng ta càng tu càng phiền não, càng héo hắt khổ đau, làm sao có thể đưa mọi người đến chỗ an vui? Thế nên chủ yếu là chúng ta phải tự mình bỏ hết những mầm khổ đau để được an lạc tự tại, rồi hướng dẫn mọi người cùng an vui. Đó mới thật là người tu chân chánh, mới thật đạt được sở nguyện của người xuất gia.
Sơ tổ Trúc Lâm có bài phú “Cư Trần Lạc Đạo” bằng chữ nôm, đây là một đoạn trong hội thứ mười:
“... Núi hoang rừng quạnh, ấy là nơi dật sĩ tiêu dao.
Chiền vắng am thanh, chính thật cảnh đạo nhân du hí.
Ngựa cao tán cả, Diêm vương nào kể đứa nghênh ngang;
Gác ngọc lầu vàng, ngục tốt thiếu chi người yêu quí.
Chuộng công danh, lồng nhân ngã, thật ấy phàm phu;
Say đạo đức, dời thân tâm, định nên thánh trí.
Mày ngang mũi dọc, tướng lạ xem ắt bẵng nhau;
Mặt Thánh lòng phàm, thực cách nhẫn vàn vàn thiên lý...”
Người tu phải ở chỗ nào? “Núi hoang rừng quạnh, ấy là nơi dật sĩ tiêu dao”, những kẻ ẩn sĩ lúc nào cũng thảnh thơi nơi núi hoang rừng rậm. “Chiền vắng am thanh” tức là chùa ở chỗ vắng vẻ, am ở chỗ yên tĩnh; “chính thật cảnh đạo nhân du hí”, du hí là dạo chơi, bậc đạo nhân dạo chơi chỗ chùa vắng am thanh. “Ngựa cao tán cả, Diêm vương nào kể đứa nghêng ngang”, dù được ngồi ngựa cao, che tán lớn việc đó trên thế gian thấy như nghênh ngang đắc thế lắm, nhưng vua Diêm vương có sợ không? Tới ngày cũng lôi mình xuống dưới, chớ không ai tránh được. “Gác ngọc lầu vàng, ngục tốt thiếu chi người yêu quí”, người ở gác ngọc, lầu vàng là bạn yêu quí của ngục tốt, của ngưu đầu mã diện. Tại sao? Vì chính đó là gốc của ái nhiễm, người ái nhiễm là bạn để cho ngục tốt hay ngưu đầu mã diện lôi xuống dưới chơi với nó. Như vậy hai trường hợp: trường hợp được ngựa cao tán cả cũng không thoát khỏi tay Diêm vương, trường hợp được gác ngọc lầu vàng thì làm bạn với ngưu đầu mã diện. “Chuộng công danh, lồng nhân ngã, thật ấy phàm phu”, nếu tu mà còn quí mến công danh, còn ưa thích nhân ngã, quả thật chúng ta là kẻ phàm phu. Trái lại “say đạo đức, dời thân tâm, định nên thánh trí”, ở trong đạo, người nào tu hành say mê thích thú, thân tâm luôn đổi thay, ngày xưa một trăm phần phiền não, tu một năm còn chín chục phần, tu hai năm còn tám chục phần, tu mười năm thì hoàn toàn trong sạch, người đó mới thật là người tốt. Chính việc dời đổi thân tâm là điều quyết định để trở nên con người thánh trí. Như vậy phàm phu là vì chuộng công danh, lồng nhân ngã, thánh trí là vì biết mến đạo đức, biết sửa đổi thân tâm. Chúng ta muốn làm phàm hay Thánh đều tùy theo tâm niệm của mình. “Mày ngang mũi dọc, tướng lạ xem ắt bẵng nhau”, bất cứ ai dù đẹp dù xấu dù trắng dù đen... chân mày cũng ngang mũi cũng dọc xuống. Thấy dường như lạ nhưng đều bẵng nhau nghĩa là giống nhau hết. “Mặt Thánh lòng phàm thật cách nhẫn vàn vàn thiên lý”. Bài này dùng chữ mặt, chỗ khác viết lòng phàm, lòng Thánh. Tuy về thân, dáng vẻ đồng nhau nhưng về tâm, tâm phàm, tâm Thánh cách nhau muôn trùng. Câu nói gọn hơn là “như nhau dọc mũi ngang mày, lòng phàm lòng Thánh cách nhau ngàn trùng”. Như vậy ai cũng mày ngang mũi dọc giống hệt nhau, nhưng tâm hồn của người nhiễm ô trần tục và tâm hồn người được thanh thoát, tiêu dao trong cảnh thanh tịnh thì cách biệt nhau muôn trùng. Vậy tất cả chúng ta, ai là người có chí tu hành, phải cố gắng đạt cho kỳ được sự cao cả, sự thanh thản đó, đừng để trở thành kẻ phàm phu tục tử đáng chê, đáng trách.
Tôi nhắc lại một lần nữa, tất cả chúng ta đã có phước duyên lành nhiều đời nên ngày nay mới được vào đạo, xuất gia, tu hạnh giải thoát. Đó là phước đức lớn, vinh dự lớn của mình, đã được thì nên giữ và cố gắng làm tăng trưởng thêm. Có nhiều người cũng muốn xuất gia, được thong thả tu hành như chúng ta, nhưng duyên của họ chưa đến. Vậy chúng ta phải cố gắng mỗi ngày mỗi tiến, đừng đứng nguyên một chỗ, cũng đừng lui sụt.
Tôi dẫn thêm bài kệ “Sơn Phòng Mạn Hứng” của Sơ tổ Trúc Lâm, quí vị nghe rồi ứng dụng đúng như tinh thần này:
Thị phi niệm trục triêu hoa lạc,
Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn.
Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch,
Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn.
Dịch:
Phải trái rụng theo hoa buổi sớm.
Lợi danh lạnh với trận mưa đêm,
Hoa tàn, mưa tạnh, non im lắng,
Xuân cỗi còn dư một tiếng chim.
Đỗ Văn Hỷ
Phải trái rụng theo hoa buổi sớm, buổi sáng nhìn xuống gốc mai, chúng ta thấy mai rã cánh rất nhiều. Chúng ta tu thế nào mà bao nhiêu điều thị phi rụng như những cánh hoa lả tả rơi buổi sớm, chớ không dính chặt, dính cứng trong tâm mình.
Lợi danh lạnh với trận mưa đêm, mùa thu có những trận mưa đêm tầm tã, gió lạnh. Tâm danh lợi của mình cũng phải lạnh như vậy, lạnh không còn một chút hơi ấm nào.
Hoa tàn, mưa tạnh, non im lắng, hoa tàn, mưa tạnh thì còn cái gì? Còn một ngọn núi im lắng xanh rì. Cũng thế, tâm thị phi đã rụng hết, tâm danh lợi đã lạnh hết, lúc đó vẫn còn Tâm thể thanh tịnh bất sanh bất diệt. Và còn điều gì nữa?
Xuân cỗi còn dư một tiếng chim, tuy mùa xuân tàn rồi mà còn một tiếng chim hót. Thật đẹp làm sao! Tu hành phải như vậy, phải làm sao mà thị phi rụng hết như hoa buổi sớm, danh lợi lạnh ngắt như mưa đêm. Được như vậy sớm muộn gì cũng giải thoát. Mong rằng tất cả Tăng Ni cũng như Phật tử có được tâm niệm như ngài Điều Ngự Giác Hoàng đã nhắc trong bài kệ “Sơn Phòng Mạn Hứng”.
Hôm nay là ngày đầu năm Kỷ Tỵ, tôi có đôi lời nhắc nhở chung cho Tăng Ni và Phật tử. Mong rằng tất cả hãy ghi nhớ ý của chư Tổ, các bậc tu hành trước, lấy đó làm kinh nghiệm mà cố gắng học rồi làm theo gương người xưa, để xứng đáng là người xuất gia làm tròn sở nguyện của mình, hầu trên đền đáp bốn ân, dưới cứu giúp ba cõi. Đó cũng là sở nguyện của chúng tôi.
Xuân Mậu Thìn - 1988
Mỗi năm đến ngày Tết Nguyên Đán, tất cả Phật tử gần xa đều tựu hội về đây trước là lễ Phật nhân ngày vía đức Di-lặc, sau là mừng tuổi chúc thọ chư Tăng.
Theo tinh thần đạo Phật, không phải mỗi khi Tết đến, chúng ta chúc mừng nhau sống lâu trăm tuổi. Chúc như vậy không có kết quả gì, chỉ là lời rỗng suông thôi. Vì vậy chúng tôi sẽ nhắc nhở quí Phật tử đường lối tu hành, đồng thời cũng là chúc mừng nhau trên đường tu mỗi ngày một thăng tiến, không để dừng lại một chỗ mãi. Vì lẽ đó hôm nay chúng tôi sẽ nói về cái vui của đời và cái vui của đạo trong mùa Xuân.
Đầu xuân ai ai cũng thấy vui tươi, ấm áp, hi vọng, nên tất cả cùng chúc mừng, cùng vui vẻ với nhau. Vì vậy chúc xuân hay vui xuân đã có từ xưa đến giờ. Hôm nay chúng ta phải tìm cho tường tận thế nào là vui xuân, cái vui thật sự của cuộc đời và cái vui thật sự trong đạo. Hai cái vui đó gần nhau không? Nó có lợi ích thiết thực như thế nào?
Trước hết chúng tôi nói cái vui của đời. Ngoài đời lúc nào người ta vui mừng? Đó là lúc được cái gì hơn thiên hạ, được cái gì thắng hơn người. Thí dụ quí vị đi vào các cuộc chơi như đá banh hay đánh cờ v.v… khi mình cười là lúc thua hay lúc thắng? Lúc thắng thì vỗ tay hoan nghênh cùng vui, cùng cười. Người thắng thì cười, còn người thua cuộc tự nhiên buồn khổ. Như vậy cái vui của cuộc đời là vui khi mình thắng, mà người thua phải buồn. Cái vui ấy là vui trọn vẹn của những người trong cuộc, hay có người vui có người buồn? Vui của đời là vui trong thắng cuộc, mình thắng thì người khác phải thua. Kẻ thắng thì vui, người thua phải khổ. Rõ ràng chúng ta vui trong cái đau khổ của người khác, chớ không phải cái vui trọn vẹn. Người thế gian nghĩ làm sao cho mình được vui, nghĩa là chơi thế nào cho hơn người, một lần thua là một lần buồn. Những người khác đến chơi với chúng ta, cũng muốn hơn để được vui. Đó là vui trong giành giật hơn thua, ai được hơn thì vui, ai bị thua thì khổ. Như vậy mới thấy rõ cái vui của thế tục là vui trong đau khổ.
Ngược lại, cái vui của người tu khác hơn cái vui của người thế tục. Người thế tục vui khi thắng được người, người tu vui khi thắng được mình. Thí dụ người Phật tử khi bị ai nói những lời kích bác làm tự ái nổi lên, vừa khi cơn sân bừng bừng nổi dậy, lúc đó liền tỉnh biết sân là xấu, không xứng đáng với người Phật tử, vừa biết như vậy liền bỏ nó đi. Do buông bỏ, qua được cơn nóng giận, mình cảm thấy bình tĩnh trở lại, lúc đó có vui không? Vui vì mình đã thắng được mình, đã chiến thắng chớ không phải đầu hàng. Một lần thắng được mình là một lần vui. Cái vui đó có làm ai khổ không? Rõ ràng mình vui mà người kích bác, họ thấy mình không trả lời, không phản đối, họ cũng không buồn. Vui thắng mình mới là vui trọn vẹn, vui thắng người là vui của đau khổ, chớ không phải cái vui thật. Người đời cứ đuổi theo cái vui đó để người khác phải khổ. Người biết tu chỉ vui khi thắng mình. Một lòng tham dấy lên thắng được nó là vui, một cơn giận nổi lên thắng được nó là vui, những cám dỗ thắng được nó là vui. Vui đó có lợi cho nội tâm mình, mà không hại ai. Như vậy vui của đạo mới là vui thật sự, vui mà không gây khổ cho ai. Đó là bước thứ nhất.
Đến bước thứ hai, người đời vui khi nào họ được cái mình ưa thích. Thí dụ đi đường thấy ai làm rớt một món đồ quí giá, họ lượm được, dĩ nhiên lúc đó rất vui. Người được may mắn vui, nhưng người mất vật quí có vui không? Cái được mà mình vui đó đổi lại bao nhiêu nước mắt của kẻ bị mất. Hơn nữa, trong cuộc sống hằng ngày, gặp thời gặp thế, chúng ta mua đâu được đó, bán đâu đắt đó, cái gì cũng hơn người, lúc ấy mình vui quá, nhưng người khác thì sao? Thí dụ ngày hôm qua mình mua món đồ giá một ngàn đồng, hôm nay bỗng dưng lên giá một ngàn rưỡi, mình vui vì được lời, nhưng người bán cho mình hôm qua, có buồn không? Tất nhiên là buồn, vì họ lỗ, họ thiệt thòi. Như vậy cái vui của mình là cái buồn của kẻ khác.
Phật tử nếu biết vui thì phải vui làm sao? Không phải vui trong cái được, mà vui trong cái lìa. Nghe thế thì buồn quá, lìa mà vui cái gì? Nhưng không ngờ lìa mới là vui. Người đời được là vui, trái lại người tu lìa là vui. Tại sao? Thí dụ khi trước bị bệnh ghiền thuốc hành mình cay đắng, tốn tiền tốn bạc, bây giờ bỏ được bệnh ghiền thuốc, mình có vui không? Lìa được bệnh ghiền đó là vui. Vui đó có ai khổ không? Niềm vui đó làm cả nhà vui lây, phải không? Đó mới là cái vui thật. Hồi xưa mình say rượu mê man, nay quán này mai quán nọ, bao nhiêu tiền cũng không đủ. Bây giờ bỏ rượu tức lìa được rượu, gia đình vui không? Mình thắng được rượu, lìa được ghiền rượu, bản thân mình vui mà gia đình cũng vui. Do lìa mà vui đó là người tu, do được mà vui đó là người đời. Khi biết tu, lìa những bệnh ghiền rượu, ghiền thuốc, ghiền á phiện… đó là vui.
Xa hơn nữa, lìa được ngũ dục ở thế gian là nguồn vui chân chánh của người học đạo. Người tu thiền khi được định Sơ thiền gọi là Ly sanh hỉ lạc. Ly tức là lìa, lìa cái gì? Lìa mê đắm ngũ dục: sắc, thanh, hương, vị, xúc. Năm điều này lìa được, không dính không nhiễm gọi là ly. Lìa được ngũ dục rồi thì lòng khoan khoái nhẹ nhàng gọi là được định Sơ thiền Ly sanh hỉ lạc. Thí dụ khi trước mình có tật thích đi xem hát, gánh hát nào lại gióng trống lên là mình nôn nao phải đi xem hát cho kỳ được. Bây giờ biết tu, khi nghe gánh hát gióng trống, mình nhất định không đi xem hát. Cho đến khi gánh hát dọn đi mình cũng không bén mảng tới rạp hát, lìa được cái mê xem hát, là mình thắng mình, nên cảm thấy vui. Cái vui đó không tốn tiền tốn bạc mà mình được sự an ổn. Vui đó do xa lìa ngũ dục, không bị nhiễm trước, gọi đó là Ly sanh hỉ lạc, được định Sơ thiền.
Kế nữa người đời thích vui trong cảnh nhộn nhịp, chỗ đông đảo ồn ào, như rạp hát, sân đá bóng, phòng trà v.v… nhưng cái vui ồn náo nhộn nhịp đó có lâu bền hay không? Như nơi rạp hát, khi người hề khéo giễu làm cho mình cười ồ lên, cười đến nôn ruột đi nữa, nhưng một lát ra về cũng hết cười. Ta chỉ cười khi trước mắt mình thấy, lỗ tai mình nghe những chuyện họ khéo gợi, lúc ấy vui. Ra khỏi nơi đó rồi, không được vui nữa, nhất là đi xem hát tới mười một mười hai giờ đêm mới về, vừa đi dọc đường vừa buồn ngủ, có vui không? Hết vui rồi. Nếu người tiền bạc eo hẹp, khi xem hát về, túi tiền trống rỗng, nhớ lại ngày mai không đủ tiền mua gạo, lúc đó còn vui không? Cho nên cái vui ở chỗ ồn náo, chỉ là vui nhất thời, tạm bợ, không có lâu bền.
Ngược lại, người học đạo, người biết tu không thích cái vui ồn ào mà lại thích vui trong yên lặng, ngồi những nơi yên tĩnh, một mình nhìn trời, nhìn mây, ngắm hoa ngắm kiểng, lòng phơi phới nhẹ nhàng. Đó là niềm vui của người trong đạo. Người tu thiền lấy thiền định làm niềm vui của mình, cho nên gọi Nhị thiền là Định sanh hỉ lạc. Do tâm được yên định sanh ra vui mừng, cái vui mừng đó có tốn hao gì không? Do tâm định, vui mừng phát ra, không có tốn hao gì cả. Vui trong yên định là vui sáng suốt, tỉnh táo, khỏe khoắn, an nhàn, không phải cái vui ồn ào, nhọc nhằn mỏi mệt. Vui ở chỗ nhộn nhịp làm cho mình mất sức khỏe, tiêu hao nghị lực, vừa tốn của vừa tốn công, vừa làm cho mình phải suy mòn sức lực. Vui của người tu nơi yên lặng, trong lúc thiền định, cái vui đó nhẹ nhàng thanh thoát, tâm hồn sáng tỉnh đó mới là cái vui chân thật.
Kế nữa, người đời vui trong mê lầm, không phải vui trong tỉnh giác. Mê lầm là sao? Thí dụ họ cho đánh bạc là vui. Cái vui đó có phải là vui thật không? Khi đánh ăn thì vui, nếu thua thì khổ. Đến sòng bạc họ nói là đi mua vui, cái vui đó là vui trong mê lầm. Rồi đến uống rượu họ cho là vui. Thí dụ năm bảy người rủ nhau tới quán rượu, chén thù chén tạc, người nào người nấy say túy lúy, như thế vui không? Người đời cho ăn nhậu là vui nhưng khi say túy lúy rồi nôn mửa, có vui không? Ngồi quán uống rượu làm cho sức khỏe tiêu mòn, tiền bạc tốn hao, tăng trưởng si mê. Như vậy có phải là vui trong mê lầm không?
Đối với người học đạo, vui của mình là vui giác ngộ. Thí dụ đang ngồi thiền có vấn đề khi trước mình không hiểu, nay bỗng dưng hiểu ra, đó thật là vui, có khi vui quá mình cười to lên… đó là do giác ngộ mà vui. Hoặc khi đang đi, một vấn đề khi trước chưa thông, bỗng dưng tâm sáng ra mình hiểu được, lúc ấy vui không? Rất vui, do giác ngộ mà vui. Cái vui đó có nhọc nhằn tốn hao gì đâu, càng vui trí tuệ càng sáng. Cái vui đó đưa chúng ta đến chỗ an lạc hoàn toàn vì đó là cái vui của giác ngộ giải thoát. Ngày xưa các vị Thiền sư ngồi tu, đến khi bừng ngộ, các ngài rất hoan hỉ, do giác ngộ mà hoan hỉ. Như vậy cái vui của người tu khác với cái vui của người đời. Người đời lấy mê lầm cho là vui, người tu do giác ngộ mà vui.
Thêm nữa, người đời vui trong ràng buộc. Ràng buộc là sao? Là thương yêu, quyến luyến. Thí dụ như bà nội có một đứa cháu nội, nó chạy theo nắm tay bà nũng nịu, bà có vui không? Hoặc đứa cháu ngoại chạy theo nói ríu rít đủ điều, bà có thương không? Càng vui, càng thương, càng phải lo nhiều. Vì thương cháu quá, nên lo cho nó ăn ngon, mặc đẹp… lo hết con tới cháu, lo hoài đến ngày nhắm mắt cũng chưa xong. Vui như vậy là vui trong ràng buộc.
Lại nữa, người nào được nhiều người thương, người đó vui không? Thấy mình được thiên hạ quí trọng, kính nể, lúc đó là vui. Nhưng một người thương là một sợi dây trói buộc, hai người thương là hai sợi dây, mười người thương là mười sợi dây… thương nhiều thì gỡ khó. Vậy mà người ta vui khi được thiên hạ thương, được thiên hạ chú ý, quí mình như ngọc như ngà v.v… Do đó, người đời càng vui thì càng đắm mình trong sự trói buộc, trói buộc trong tình thương gia đình, tình thương những người chung quanh v.v… càng thương nhiều thì càng bị buộc nhiều!
Ngược lại người tu, nhất là người tu Phật, vui là khi giải thoát. Những gì ràng buộc, làm cho mình bị rối rắm, phải cắt bỏ nó đi. Cắt bỏ được một mối là vui mừng một mối. Cắt bỏ đây không có nghĩa là bỏ chồng bỏ con… mà cắt bỏ là bỏ những tình thương không lợi ích, gây thêm tai hại cho mình. Thí dụ người đó với mình không phải thân thuộc, mà họ nói những lời ngọt ngào, những lời thương yêu rồi mình tưởng họ thương thật, tự nhiên mình tự trói mình rồi khổ. Ở thế gian có những lời nói không đúng với tâm niệm, họ nghĩ một đàng mà nói một nẻo để cầu lợi, để nắm giữ những gì họ thích. Mình phải biết rõ những lời nói đó không thật, đừng để bị cột trói. Tình thương chân thật nhất là tình thương cha mẹ với con cái, mà có khi còn phai nhạt, còn gặp những đứa con bất hiếu thay! Huống nữa là những người ngoài chắc gì họ thương mình thật. Nghe họ nói thương, mình vui mừng thích thú, e rằng có ngày sẽ phải khổ. Vì vậy những tình cảm thương yêu quyến luyến vô tình trói cột làm cho mình phải khổ. Người tu lấy sự giải thoát làm vui, không thể bị trói buộc bởi những tình cảm riêng tư và những ngũ dục bên ngoài.
Người đời nghĩ rằng cuộc đời mình phải được an vui hạnh phúc, nhưng từ thuở nhỏ cho đến hiện nay năm mươi, bảy mươi tuổi, quí vị thấy đời mình vui nhiều hay khổ nhiều? Khổ nhiều! Vì sao mình muốn vui mà lại khổ? Vì mình muốn vui mà vui trên cái khổ của người khác, cho nên người khác cũng muốn vui mà vui trên cái khổ của mình. Vì sát phạt lẫn nhau để được vui, nên cái vui đó khó vẹn toàn. Những người từ sòng bạc đi ra đâu phải ai ai cũng đều hớn hở. Trong mười người, độ hai người vui mừng, còn tám người thì âu sầu đau khổ. Như vậy tại sao người ta cứ đến sòng bạc mãi? Tám lần khổ chỉ có hai lần vui. Có khi đủ cả mười lần khổ là khác!
Ở đời nếu chúng ta tìm vui trong sự thắng người, trong cảnh nhộn nhịp v.v… thì cái vui đó chỉ là tạm bợ mong manh, không lâu bền được. Chúng ta phải tìm những niềm vui chân thật ở đạo, vui khi thắng mình, lìa được những tật xấu, vui khi được ở chỗ yên tĩnh, tâm hồn an ổn, vui khi được tỉnh giác, thoát ly những buộc ràng. Nếu sáng suốt chúng ta tìm cái vui chân thật, thì cái vui ấy sẽ lâu dài bền bỉ, còn mê lầm chúng ta đuổi theo những cái vui giả dối thì vui ít mà khổ nhiều. Mong rằng quí vị luôn luôn sáng suốt để được an vui hạnh phúc mãi mãi.
Để kết thúc buổi nói chuyện hôm nay chúng tôi đọc bốn câu kệ sau đây dùng làm kim chỉ nam cho quí vị trong năm mới:
Nguồn vui mãi vô tận,
Khi nhìn ánh nguyệt chân.
Nơi nơi đều cực lạc,
Phút phút hiện chân thân.
Nguồn vui mãi vô tận, là nguồn vui nào?
Khi nhìn ánh nguyệt chân: Khi nhìn thấy mặt trăng thật, là mặt trăng nào? Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật nói mặt trăng thật và mặt trăng thứ hai, chúng tôi nói thêm nữa là bóng mặt trăng. Mặt trăng chân thật chỉ Tâm thể bất sanh bất diệt của mình, mặt trăng thứ hai chỉ cái chân thể đó hiện nơi sáu căn, còn bóng mặt trăng là chỉ ý thức duyên với pháp trần. Muốn được nguồn vui vô tận là khi nào chúng ta thấy được mặt trăng chân thật. Khi ấy thì thế nào?
Nơi nơi đều cực lạc: Nơi nào cũng cực lạc, không phải chỉ riêng cõi Tây phương.
Phút phút hiện chân thân: Phút nào cũng hiện thân chân thật.
Chúng tôi xin chúc tất cả quí Phật tử sang năm Mậu Thìn được một nguồn vui vô tận, khi nhìn thấy mặt trăng thật, nơi nào cũng là cực lạc, giờ nào cũng là Niết-bàn. Đó là lời chúc lành của chúng tôi gởi đến quí vị.
TÌM LẠI MÌNH, BIẾT ĐƯỢC
MÌNH LÀ TRÊN HẾT
Tất niên Mậu Thìn - 1989
Đề tài chúng tôi nói chuyện hôm nay là Tìm lại mình, biết được mình là trên hết. Đề tài này, mới nghe qua thấy quá đơn giản, nhưng thật là thiết yếu trong cuộc sống của chúng ta.
Chúng ta có thói quen chạy ra tìm kiếm bên ngoài. Vì thế tuy hiểu biết rất nhiều việc, nhưng khi trở lại tìm hiểu bản thân mình thì rất là thiếu sót. Nói như vậy không có nghĩa chúng tôi phủ nhận ngành y khoa nghiên cứu về con người. Ở đây tôi muốn nhấn mạnh chúng ta còn có một giá trị khác ngoài cái thân hiện đang đi đứng nằm ngồi này. Đó là điều mà chúng ta cần tìm hiểu. Xoay lại tìm cho ra cái chân thật của chính mình là điều tối quan trọng. Nếu không thì đời sống chúng ta trở thành lạt lẽo vô vị. Chẳng lẽ chúng ta sống chỉ để ăn mặc ngủ nghỉ... rồi chờ đến ngày chết sao? Nếu chúng ta cứ phóng ra bên ngoài thì sẽ mất mình mà không biết. Vì vậy chúng tôi nhắc tìm lại mình, biết được mình là trên hết.
Chúng ta thường hiểu lầm đạo Phật là huyền bí, cao siêu, nhưng thật ra đạo Phật rất thực tế, vì luôn luôn chủ trương xoay lại tìm con người chân thật của chính mình. Biết được mình chẳng phải là điều rất thực tế hay sao? Các giác quan của chúng ta như mắt, tai, mũi, lưỡi... quen phóng ra bên ngoài để tìm hiểu, phân tích, mà quên nhìn lại nơi mình. Vì lẽ đó trong nhà thiền dạy: phản quan tự kỷ bổn phận sự, nghĩa là xoay lại chính mình mới là bổn phận chánh. Nếu chúng ta biết được tất cả bên ngoài cho đến những vì sao xa xôi trên bầu trời, mà không biết tí gì về chúng ta, đó là một thiệt thòi lớn lao. Người thế gian khi làm điều gì đều muốn được thành công, nhưng sự thành công đó kéo dài lắm cũng chỉ năm ba mươi năm rồi cũng phải buông, không giữ được mãi mãi. Chỉ có cái chân thật của chính mình mới lâu dài vĩnh cửu. Nghĩ mới hôm nào chúng ta đôi ba mươi tuổi mà ngày nay đã già rồi, đời sống con người ngắn ngủi làm sao! Nếu chúng ta nghĩ tất cả của cải thế gian là nguồn hạnh phúc, nguồn an vui tuyệt đối, điều này không hợp với lẽ thật. Chỉ có biết rõ được mình mới là điều quan trọng và thực tế. Ví dụ như người đời rành rẽ việc làng xóm, đất nước, thế giới, nhưng việc trong nhà lại không biết tí nào, người đó có thiếu thực tế không? Việc trong nhà là nơi gốc họ sống mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm mà không biết, chỉ biết chuyện bên ngoài, quả là thiếu thực tế lắm vậy.
Mọi người thường nói về mình, xưng là tôi, là ta. Nhưng thử hỏi, cái gì là mình, là ta, thì khó trả lời cho thông được. Nếu nói thân này là mình, khi chưa có thân thì chưa có mình sao? Nếu có thân rồi mai kia thân hoại thì mình ở đâu? Nếu nói thân này là mình, thân này do đất nước gió lửa hợp thành, đúng ra là vô tri, chẳng lẽ mình lại vô tri hay sao? Nếu nói thân này có cả phần tinh thần lẫn vật chất, thì phần nào là mình? Tinh thần hay vật chất? Những điều đó rất thiết yếu mà ít người quan tâm đến! Chúng ta cứ mải lo tìm sanh kế, sống ngày này qua ngày khác, cuối cùng từ giã cuộc đời. Rồi ngang đó chúng ta không biết ra sao nữa, đó là điều thật đáng buồn. Vì vậy người tu là biết quay lại tìm cho ra mình là cái gì? Là thân tứ đại này chăng? Là những tình cảm vui buồn thương ghét chăng? Hay là cái gì cao siêu hơn nữa? Chúng ta tu cốt phải làm sao thấy được con người mình, con người chân thật.
Một Thiền sư cư sĩ đời Trần, ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ có bài kệ soi lại mình, nhan đề “Chiếu Thân”.
Tiêu đầu lan ngạch bị kim bào,
Ngũ thất niên gian thị xưởng tào.
Túng giả siêu quần kiêm bạt tụy,
Nhất hồi phóng hạ nhất hồi cao.
Dịch:
Soi Thân
Sém đầu dập trán bởi đua chen,
Năm bảy mươi năm kiếp ngựa hèn.
Ví thực bạt siêu ngoài thói tục,
Một lần buông xuống một lần lên.
Trúc Thiên
Sém đầu dập trán bởi đua chen: Trải qua bao nhiêu thời gian chạy theo thế tục làm cho đầu phải sém, trán phải dập, cũng bởi đua chen với đời, rốt cuộc rồi không tới đâu, vất vả nhiều mà kết quả chẳng bao nhiêu, cho nên nói:
Năm bảy mươi năm kiếp ngựa hèn: Như con ngựa yếu, chúng ta trải qua năm bảy mươi năm mệt mỏi cũng không được gì!
Ví thực bạt siêu ngoài thói tục: Nếu thật vượt ra được ngoài thói tục, tức là thói đua chen giành giựt, thì sẽ ra sao?
Một lần buông xuống một lần lên: Vì sao buông xuống lại được lên? Vì buông đi một gánh nặng là chúng ta nhẹ bớt một phần. Nếu buông nhiều chừng nào chúng ta càng nhẹ chừng nấy, cho nên càng buông thì càng lên. Nếu chúng ta giành giựt tranh đua nhau mãi, chỉ là làm khổ cho nhau, chớ có lợi ích gì! Biết nhường nhịn nhau, biết trở lại tìm mình, và vượt ra ngoài thói tục, chúng ta sẽ buông xả những tranh đua giành giựt. Lúc ấy chúng ta sẽ cảm thấy nhẹ nhàng siêu thoát. Là người biết tu, biết học đạo, chúng ta phải xoay trở lại mình, thấy rõ mình, đó là điều hết sức thiết yếu.
Biết được mình có giá trị gì? Ví dụ có người muốn bất cứ điều gì trong cuộc đời đều được toại nguyện, người đó được hạnh phúc chưa? Mới nhìn qua tưởng chừng như được đại hạnh phúc vậy. Nhưng đến khi cái chết gần kề, họ muốn sống cũng không được, thì lúc đó đau khổ ngần nào! Được tất cả sự vật bên ngoài, mà ngay bản thân mình không tự cứu được, cũng không ai cứu được. Như vậy tất cả sự vật bên ngoài đối với người đó còn có giá trị hay không? Lại có người tuy tiền của không bao nhiêu, đời sống rất đạm bạc nhưng họ đã thấy rõ được mình, biết cái gì là thật, cái gì là hư. Đời của họ có một chỗ tựa, một chỗ đứng vững vàng không còn hồi hộp, lo sợ gì nữa. Họ sống an nhàn tự tại, không còn sợ ngày mai khi chết rồi sẽ ra sao? Họ tự thấy mình một cách rõ ràng tỉnh táo, biết mình sẽ không còn phải đau khổ nữa, không còn phải sa vào ba đường ác: địa ngục, ngạ quỉ và súc sanh. Chính mình biết được mình, đó mới là giá trị cao nhất của cuộc đời.
Trong kinh Pháp Hoa có ví dụ: Một ông vua sai binh tướng đi đánh giặc. Khi binh tướng thắng trận trở về, nhà vua thưởng cho vị tướng tài giỏi nhất hòn ngọc ngài cất trong búi tóc, còn các tướng khác chỉ được tặng những vật phẩm thường thôi. Trong câu chuyện này Vua dụ cho đức Phật, vị tướng tài giỏi nhất dụ cho những Bồ-tát đã ngộ được Tri kiến Phật, nên được tặng cho hạt minh châu. Ngộ được Tri kiến Phật tức là thấy được chính mình, đó là giá trị cao nhất. Con người mà mình tìm biết được là con người nào? Chúng tôi gọi đó là con người chân thật. Con người nặng bốn mươi năm mươi ký là con người tạm bợ, chỉ sống mấy mươi năm rồi tan rã. Chỉ có con người chân thật mới không bị hủy hoại, không bị tiêu mất.
Con người chân thật đã từng được nói đến trong kinh Phật, từ kinh Nguyên thủy cho đến kinh Đại thừa và Thiền tông. Trong kinh A-hàm hay các bộ Nykàya, đức Phật thường dạy: Nếu diệt hết tham sân si, dẹp hết các phiền não thì mầm sanh tử dứt, gọi là được giải thoát hay là nhập Niết-bàn. Trong kinh Phật chủ trương vô thường, khổ, không, vô ngã. Nếu vô ngã, khi nói giải thoát, nhập Niết-bàn thì cái gì giải thoát, cái gì nhập Niết-bàn? Đó là một vấn đề mà đa số người học Phật đều thắc mắc. Thật ra thời đức Phật, đức Phật phải đương đầu với giáo lý Bà-la-môn. Giáo lý này chủ trương có thần ngã, người tu chín chắn sau khi chết, thần ngã sẽ nhập vào Đại ngã hay còn gọi là trời Đại Tự Tại hay Phạm thiên. Thần ngã trong đạo Bà-la-môn là cái hiểu biết, cái suy tính của con người cũng giống như linh hồn mà người bình dân thường tin tưởng. Để phá chấp về thần ngã hay linh hồn, đức Phật thuyết lý vô ngã. Nói vô ngã là để phá chấp hữu ngã của đạo Bà-la-môn, vì chấp như thế không đến được cái chân thật. Những suy nghĩ, phân biệt, hiểu biết là hiện tượng của thần ngã, tức là tướng sanh diệt, mà cho rằng không sanh diệt, đó là điều sai lầm. Vì vậy Phật nói cái đó không phải là ngã. Nếu nói giải thoát, nói nhập Niết-bàn là cái ngã giải thoát, cái ngã nhập Niết-bàn, thì người ta sẽ hiểu lầm đó là cái ngã của đạo Bà-la-môn. Vì vậy đức Phật chỉ nói giải thoát, chỉ nói nhập Niết-bàn, mà không nói cái gì giải thoát cái gì nhập Niết-bàn. Đức Phật dạy chúng ta đừng chấp, để chúng ta tu hành giải thoát, giải thoát rồi sẽ biết.
Chúng ta không khỏi thắc mắc nói giải thoát, nói nhập Niết-bàn, là phải có chủ từ. Ví dụ như nói được mở trói, được mời vào nhà sang trọng, thì phải có ai được mở trói, ai được mời vào nhà sang trọng. Ở đây, đức Phật không nêu lên con người chân thật nghĩa là do đạt được con người chân thật mà chúng ta giải thoát, do đạt được con người chân thật mà chúng ta nhập Niết-bàn là để tránh cái lỗi chấp thần ngã như bên đạo Bà-la-môn. Nếu lầm chấp cái được giải thoát, được Niết-bàn là thần ngã thì không giải thoát. Vì vậy các kinh Nguyên thủy không nói ai được giải thoát, ai được Niết-bàn.
Tuy nhiên, đức Phật không phải không nói về vấn đề ấy. Kinh Phật Sở Thuyết, trang 382 Tiểu Bộ Kinh, tạng Pali, Phật dạy: “Này các Tỳ-kheo, có sự không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi. Này các Tỳ-kheo, nếu không có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, thời ở đây không thể trình bày sự xuất ly khỏi sanh, hiện hữu, bị làm, hữu vi. Vì rằng, này các Tỳ-kheo, có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi nên có sự trình bày sự xuất ly khỏi sanh, hiện hữu, bị làm, hữu vi.” Trong đoạn kinh này đức Phật xác nhận có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi. Vì có cái đó cho nên mới có xuất ly, tức là có giải thoát. Đức Phật xác nhận rõ ràng có cái không nói tên, nhưng chúng ta ngầm hiểu đó là con người chân thật của chúng ta.
Qua đến kinh điển Đại thừa, con người chân thật được nêu lên rất rõ ràng. Trong kinh Kim Cang, Phật nói kệ:
Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu ngã
Thị nhân hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai.
Dịch:
Nếu do sắc thấy ta
Do âm thanh cầu ta
Người ấy hành đạo tà
Không thể thấy Như Lai.
Chữ “ta” (ngã) trong bài kệ chỉ cái gì? Nếu “ta” chỉ hình tướng đức Phật khi còn tại thế ở Ấn Độ, thì hình tướng đó ngày nay không còn nữa. Nếu “ta” chỉ cái khi đức Phật nhập Niết-bàn thì cũng không hợp lý. Chữ “ta” chỉ cái ta mà mọi người sẵn có, cái ta đó còn gọi là Pháp thân hay Phật tánh.
Kinh điển Đại thừa nói cái thân hiện có của chúng ta là cái thân tạm bợ giả dối. Ngay trong cái thân tạm bợ giả dối này có cái chân thật bất sanh bất diệt, gọi là Pháp thân hay Phật tánh. Chữ “ngã” là chỉ cho Pháp thân. Pháp thân không phải là sắc tướng, cho nên không do sắc mà thấy. Pháp thân không phải là âm thanh, cho nên không do âm thanh mà cầu. Sắc tướng âm thanh là tướng sanh diệt tạm bợ, nếu dùng sắc tướng âm thanh mà cầu gọi là hành đạo tà, không thể thấy được Pháp thân, cho nên nói không thể thấy Như Lai, Như Lai là chỉ cho Pháp thân. Kinh điển Đại thừa đã nêu lên cho chúng ta thấy mỗi người đều sẵn có Pháp thân.
Ngày xưa khi còn ở Phật học đường, chúng tôi thắc mắc không hiểu vì sao các nhà tạc tượng ở Việt Nam, khi tạc hình đức Phật lại giống người Việt Nam. Chẳng lẽ các vị ấy không biết đức Phật là người Ấn Độ hay sao? Ở Trung Hoa cũng vậy, hình đức Phật giống người Trung Hoa, ở Nhật Bản thì giống người Nhật Bản...Vì sao các nhà điêu khắc lại tạc tượng như vậy? Ngày nay khi học kỹ kinh điển Đại thừa rồi, chúng tôi mới biết tinh thần Đại thừa không chỉ thừa nhận đức Phật với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp như ở Ấn Độ, mà luôn luôn đề cao Phật pháp thân. Phật pháp thân là Tánh giác mỗi người sẵn có. Dù ở Trung Hoa, Nhật Bản hay Việt Nam, ai cũng có Tánh giác như đức Phật ở Ấn Độ. Nếu khéo tu, khéo chuyển thì tất cả đều giác ngộ thành Phật như Ngài. Các nhà điêu khắc hiểu được lý này, nên tạc hình đức Phật giống như người của nước mình. Đó là để nói lên tinh thần Đại thừa, chỉ thấy Phật là Phật pháp thân. Phật pháp thân thì ở nơi nào cũng có, chớ không riêng ở quốc độ nào. Chỉ có người nhận được cái chân thật nơi mình ngoài âm thanh, ngoài sắc tướng, mới có thể thấy Như Lai, tức là Phật pháp thân.
Trong nhà thiền, con người chân thật còn được gọi là Bản lai diện mục hay Ông chủ. Lục tổ Huệ Năng khi nhận được y bát của Ngũ Tổ rồi, rời Huỳnh Mai ra đi. Có một đoàn người dẫn đầu là Thượng tọa Huệ Minh đuổi theo để đoạt lại y bát… Khi gặp Lục Tổ, Thượng tọa Minh thưa: Tôi đến đây vì cầu pháp, chớ không phải giành y bát. Lục Tổ bảo: Nếu muốn cầu pháp, ông hãy bình tĩnh lắng tâm nghe tôi hỏi. Thượng tọa Minh yên lặng giây lâu, Lục Tổ hỏi: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính khi ấy cái gì là Bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?” Ngay đó ngài Huệ Minh ngộ, nhận được Bản lai diện mục, tức là bộ mặt sẵn có của mình từ xưa đến giờ.
Trung Hoa có Thiền sư Sư Ngạn thường ngồi tu trên tảng đá, ngồi một lát, thấy hơi lơ là, tự gọi: “Ông chủ!” Rồi ứng thanh: “Dạ!” Bèn bảo tiếp: “Tỉnh tỉnh, đừng bị người lừa nghe!” Lâu lâu Ngài tự gọi rồi tự đáp. Tu như vậy, về sau Ngài trở nên một Thiền sư nổi danh thời bấy giờ.
Danh từ Ông chủ hay Bản lai diện mục, trong nhà thiền thường hay nhắc đến là để chỉ cái chân thật sẵn có nơi mọi người. Rất tiếc vì chúng ta không nhận thấy, hay vì quên nên không sống được với cái chân thật đó. Bởi thế đức Phật bảo chúng ta mê, mê là quên mình có con người chân thật, rồi đuổi theo, lo lắng cho con người tạm bợ giả dối, đến khi con người tạm bợ sắp tan rã lại hoảng sợ cuống cuồng lên, không biết rồi mình sẽ ra sao? Ngộ là nhận được và hằng sống với cái chân thật ấy, đó là nguồn hạnh phúc vô cùng, nên gọi là Niết-bàn, an lạc, giải thoát.
Muốn biết được Ông chủ hay con người chân thật quả là thiên nan vạn nan. Thiền sư Ngộ Ấn đời Lý ở Việt Nam, khi sắp tịch có bài kệ:
Diệu tánh hư vô bất khả phan,
Hư vô tâm ngộ đắc hà nan.
Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận,
Liên phát lô trung thấp vị càn.
Dịch:
Diệu tánh rỗng không chẳng thể vin,
Rỗng không tâm ngộ việc dễ tin.
Tươi nhuần sắc ngọc trong núi cháy,
Lò lửa hoa sen nở thật xinh.
Trong lò lửa cháy hực, một đóa sen đang nở tươi thắm, điều đó có tin được hay không? Thật là khó tin. Tuy khó tin mà có thật, mới là lạ chứ! Thân chúng ta từ hình thức vật chất đến tinh thần, nghĩ suy tính toán đều luôn luôn sanh diệt đổi thay. Nhưng trong cái sanh diệt đổi thay đó, có cái chưa bao giờ sanh diệt đổi thay. Đức Phật ví cái đổi thay vô thường như là lửa, lửa đốt cháy làm sự vật phải tiêu mòn. Vì vô thường nên con người luôn luôn thay đổi không bao giờ dừng, từ trẻ đến già, từ già đến chết. Thân tâm đều vô thường. Trong cái vô thường đó, muốn tìm cái không vô thường rất khó, chẳng khác nào trong lò lửa mà có một đóa sen nở tươi thắm, không bao giờ bị khô héo. Điều này tuy khó tin mà có thật. Thấy được điều này thật là hãn hữu. Thấy được rồi, chúng ta không còn lo sợ vì trong cuộc sống vô thường còn có cái miên viễn không bao giờ mất. Thân này, cảnh này dù có mất đi, nhưng cái chân thật nơi chúng ta luôn luôn hiện hữu. Đối với sanh tử, các vị đạt đạo xem như trò chơi, chúng ta vì chưa thấy đạo nên khi thân này sắp tan hoại, lại lo sợ kinh hoàng. Lúc ấy nếu cho được sống thêm năm mười năm nữa, chúng ta vui mừng vô hạn. Còn trong vô thường, mất trong vô thường mà mừng sợ làm gì? Có cái chưa bao giờ vô thường, chưa bao giờ mất, chúng ta lại không thấy. Vì thế cái không vô thường, không tan hoại được ví như viên ngọc quí trên ngọn núi đang cháy, lửa hừng hực mà ngọc vẫn tươi nhuần, cũng như hoa sen trong lò lửa mà vẫn tươi thắm. Hình ảnh trái ngược này, người thế gian không bao giờ tưởng tượng được, nhưng người tu Phật khi công phu viên mãn thì thấy rõ điều đó không nghi ngờ. Vì thế người tu còn gọi là người xuất thế gian, tức là người vượt qua sự tưởng tượng, sự nghĩ bàn của thế gian.
Trong hai câu đầu của bài kệ, ngài Ngộ Ấn dạy chúng ta: Diệu tánh rỗng không chẳng thể vin,
Rỗng không tâm ngộ việc dễ tin.
Tánh nhiệm mầu rỗng không, không thể vin theo hay nắm bắt được. Muốn ngộ được diệu tánh ấy, tâm mình phải rỗng rang, không còn những ý niệm lăng xăng dao động. Nhưng hiện nay tâm mình lúc nào cũng đầy tràn. Muốn tâm được rỗng rang, chúng ta phải buông hết đi, ném sạch hết đi, thì mới thấy cái chân thật rỗng rang đó.
Tươi nhuần sắc ngọc trong núi cháy,
Lò lửa hoa sen nở thật xinh.
Khi tâm mình được rỗng rang thanh tịnh rồi, chúng ta mới thấy ngay nơi thân vô thường này có cái chân thật không vô thường, giống như trong ngọn núi đang cháy có hòn ngọc tươi nhuần, trong lò lửa hừng hực có một đóa sen xinh tươi đang nở. Điều này rất khó tin nhưng có thật. Nếu chúng ta khéo tu, khéo ứng dụng thì sẽ thấy được, chắc chắn không nghi ngờ. Chính đức Phật đã sống với diệu tánh chân thật ấy nên Ngài ung dung tự tại trước mọi hoàn cảnh. Chư Tổ khi xưa cũng thấy được và sống được với cái chân thật đó, nên xem sanh tử như trò chơi, không có nghĩa lý gì.
Ở Trung Hoa, Thiền sư Tỉnh Niệm khi sắp tịch nói kệ:
Bạch ngân thế giới kim sắc thân,
Tình dữ phi tình cộng nhất chân.
Minh ám tận thời câu bất chiếu,
Nhật luân ngọ hậu kiến toàn thân.
Dịch:
Thế giới bạch ngân thân sắc vàng,
Tình với phi tình một tánh chân.
Tối sáng hết rồi đều chẳng chiếu,
Vầng ô vừa xế thấy toàn thân.
Khi Ngài thấy được con người chân thật rồi thì cái thân vô thường bại hoại này có mất đi, chẳng qua như bọt nước dưới biển, tan ra rồi trở về biển chớ có mất mát gì đâu. Cho nên nói vầng ô vừa xế thấy toàn thân là khi tịch, Ngài thấy được toàn thân chớ không có mất.
Ở Việt Nam, Thiền sư Liễu Quán có nói bài kệ:
Thất thập dư niên thế giới trung,
Không không sắc sắc diệc dung thông.
Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý,
Hà tất bôn man vấn tổ tông.
Dịch:
Hơn bảy mươi năm ở cõi trần,
Không không sắc sắc thảy dung thông.
Hôm nay nguyện mãn về quê cũ,
Nào phải bôn ba hỏi tổ tông.
Đối với Ngài khi thân này tan hoại, đó là lúc trở về quê cũ, không có gì mất mát, không có gì phải âu lo buồn khổ. Thấy đạo tức thấy mình có con người chân thật rồi thì sự sống chết chỉ là trò chơi không quan trọng, vì thế Ngài ra đi thảnh thơi tự tại, không sợ sệt.
Trở lại thực tế, như tôi là một Phàm tăng, sanh trong thời mạt pháp, lại thêm phước mỏng nghiệp dày. Nhưng trên đường tu với tâm cố gắng mãnh liệt, tôi vẫn tin rằng mình có con người chân thật, lòng tin của tôi kiên cố không chút nghi ngờ. Chúng tôi không nói vấn đề tu chứng chi cả, chỉ nói lòng tin vững chắc: Nơi tôi có con người chân thật.
Ngày trước tôi có mặc cảm là mình không đủ phước duyên như quí Hoà thượng đi tu từ thuở nhỏ, năm bảy tuổi, hay mười một mười hai tuổi. Đến năm ngoài hai mươi tuổi tôi mới xuất gia, kể ra là quá muộn rồi, thật là phước mỏng nghiệp dày! Khi vào chùa tôi được biết là mình tu nhằm thời mạt pháp, chắc không sao tiến nổi. Tu là để gieo duyên lành cho đời sau tiếp tục, chớ không có chút hi vọng gì tìm ra đạo lý cao siêu! Các bậc Thầy Tổ của chúng tôi thường nhắc: “Mình sanh nhằm thời mạt pháp, thôi thì dùng lục tự Di-đà, niệm Phật rồi sau Phật rước về nước của Ngài. Qua được bên ấy, dù là hàng hạ sanh, hạ phẩm cũng còn vui hơn ở cõi Ta-bà đau khổ này.” Yên lòng như vậy, tôi không nghĩ gì hơn là cố gắng gieo chút duyên lành với Phật pháp.
Tuy nhiên tôi có thói quen là làm việc gì cũng không dám tự mãn. Dù Thầy Tổ có dạy như vậy, nhưng khi học kinh điển, thấy đức Phật do ngồi thiền mà thành đạo, vì thế tôi mò mẫm cố làm sao thấy được điều Phật đã dạy. Rõ ràng đức Phật do ngồi thiền dưới cội bồ-đề mà được giác ngộ, vì vậy noi gương Ngài, tôi tập ngồi thiền. Nhưng khổ nỗi, ai dạy mình ngồi, đọc sách nào đây? Tôi mới lục trong Tạng kinh, đọc thêm các sách Thiền tông. Sao mà khó hiểu quá! Nhưng tôi có niềm tin vững chắc đối với con đường mà Phật và chư Tổ đã đi. Thế nên tôi quyết chí tu thiền, mặc cho sự việc ra sao. Lấy bản thân mình làm thí nghiệm, sống được cũng tốt, mà chết đi cũng tốt. Sau đó khi bắt đầu thực hành, chúng tôi phải dọ dẫm lần hồi vì không có thầy bạn hướng dẫn. Nhờ hồng ân của Phật Tổ, chúng tôi thấy được một chút đạo lý để giữ vững niềm tin mình có một con người chân thật. Và chúng tôi khẳng định điều đó không còn nghi ngờ gì nữa. Giả sử bây giờ có bao nhiêu lý luận hay thế mấy mà nói rằng không có con người chân thật, tôi vẫn lắc đầu không chấp nhận.
Tôi tự ví mình như Thiền sư Đại Mai Pháp Thường. Ngài Pháp Thường sau khi tham vấn Mã Tổ, về núi Đại Mai ẩn tu. Mã Tổ nghe tin Ngài ở núi mà không biết Ngài ngộ cái gì, nên sai một vị Tăng đến thăm dò. Vị Tăng đến hỏi:
- Ngài gặp Mã Tổ được cái gì mà về ở núi này?
Ngài đáp:
- Tôi chỉ nghe Mã Tổ nói “tức tâm tức Phật”, nên về ở núi này.
Vị Tăng nói:
- Gần đây Mã Tổ lại nói “phi tâm phi Phật”.
Ngài nói:
- Ông già mê hoặc người, mặc ông nói “phi tâm phi Phật”, tôi chỉ biết “tức tâm tức Phật” thôi.
Vị Tăng trở về bạch lại Mã Tổ. Mã Tổ nói với đại chúng: Trái Mai đã chín. Như vậy “chín” là sao? Tức là được lòng tin không thối chuyển. Chính Mã Tổ là thầy của Ngài, đã nói “tức tâm tức Phật” mà bây giờ đổi lại “phi tâm phi Phật” nhưng Ngài vẫn cả quyết mặc ông già mê hoặc người, ta chỉ biết “tức tâm tức Phật”. Chính lòng tin đó khiến Ngài tu hành không thối chuyển.
Tuy chúng tôi tu không bằng ngài Đại Mai, nhưng cũng tin chắc rằng nơi mình có cái không sanh không diệt. Dù có ai nói gì đi nữa tôi vẫn khẳng định niềm tin này. Vì có con người chân thật đó chúng ta mới giải thoát, mới nhập Niết-bàn. Nếu không thì ai giải thoát? Ai nhập Niết-bàn? Cái chân thật nơi mình không phải là điều xa xôi huyền bí mà rất thực tế. Nếu chúng ta chịu khó dụng tâm nghiền ngẫm thì sẽ thấy được điều đó không nghi ngờ. Khi thấy được cái chân thật rồi, dù chúng ta chưa làm chủ thân này, chưa được tự tại trong sanh tử, song chúng ta không phải khổ đau khi mất nó. Riêng tôi, tuy chưa làm chủ được thân, nhưng tin chắc rằng mất thân này tôi không lo sợ. Và những ai có chí tu hành cũng đừng mặc cảm như tôi ngày trước, cho rằng mình sanh thời mạt pháp, phước mỏng nghiệp dày... mà phải thấy rằng chúng ta còn có duyên với đạo, cho nên ngày nay mới phát tâm tu hành, mới được sự nhắc nhở của thầy bạn và đọc được bao nhiêu kinh sách của Phật, chưa phải chúng ta vô phần.
Ngày trước chúng tôi rất bi quan khi nghĩ rằng thời mạt pháp người tu không bao giờ có chứng đắc. Nhưng sau này học sử Phật giáo rồi, chúng tôi mới thấy không hẳn luôn luôn như vậy. Thời chánh pháp, khi đức Phật tại thế, vẫn có nhiều Tỳ-kheo thối Bồ-đề tâm vì không quyết chí tu hành. Còn tuy là thời mạt pháp mà nếu chúng ta quyết tử trên đường tu, thì cũng có thể tiến được. Vì thế chánh pháp hay mạt pháp là cốt ở tâm mình, nếu quyết chí tu hành thì thời mạt pháp coi như là thời chánh pháp, nếu không quyết chí tu hành thì ngay trong thời chánh pháp coi như là mạt pháp. Vậy chúng ta không nên có mặc cảm là mình đang sanh thời mạt pháp rồi thả trôi cuộc đời tu hành. Chúng ta phải nỗ lực tiến tu để có thể chuyển mạt pháp thành chánh pháp. Tinh thần của người tu là, dù sống trong thời buổi nào cũng phải cố gắng vươn lên, tu hành tinh tấn cho đến ngày công hạnh viên mãn. Như vậy, chúng tôi đã dẫn từ các kinh điển Nguyên thủy cho đến Đại thừa và Thiền tông, để quí vị thấy nơi chúng ta đều có sẵn con người chân thật, nếu quyết chí tu hành thì sẽ thấy được điều đó không nghi ngờ.
Kết thúc bài giảng hôm nay chúng tôi dẫn bài kệ “Khuyến Thế Tiến Đạo” của Tuệ Trung Thượng Sĩ, để nhắc nhở tất cả quí vị thức tỉnh và cố gắng lên:
Tứ tự tuần hoàn xuân phục thu,
Xâm xâm dĩ lão thiếu niên đầu,
Vinh hoa khẳng cố nhất trường mộng,
Tuế nguyệt không hoài vạn hộc sầu.
Khổ thú luân hồi như chuyển cốc,
Ái hà xuất một đẳng phù âu,
Phùng trường diệc bất mô lai tỹ,
Vô hạn lương duyên chỉ mạ hưu.
Dịch:
Khuyên đời vào đạo
Thời tiết xoay vần xuân đến thu,
Cái già sồng sộc đã lên đầu,
Giàu sang ngó lại trơ tràng mộng,
Năm tháng mang theo chất hộc sầu.
Nẻo khổ, vành xe lăn lóc khắp,
Sông yêu, bọt nước mất còn đâu,
Trường đời nếu chẳng rờ lên mũi,
Ngàn thuở lương duyên chỉ bóng màu.
Trúc Thiên
Thời tiết xoay vần xuân đến thu,
Cái già sồng sộc đã lên đầu.
Hết xuân, hạ đến thu, đông, rồi lại sang xuân... thời tiết cứ như thế mà tiếp tục, tiếp tục mãi. Khi thời gian xoay vần biến chuyển thì cái già đã đáp lên đầu chúng ta rồi. Thời gian biến chuyển, bản thân chúng ta cũng biến đổi theo. Mỗi một ngày qua là già thêm một chút, sức sống giảm đi một phần. Rồi một tháng qua, một năm qua chúng ta lại càng già hơn, mạng sống lại càng mong manh hơn! Nếu chúng ta mong cho mau hết ngày, hết tháng, hết năm, tức là mong cho mau già, mau chết chớ gì? Như vậy nếu cái già cái chết đến, lẽ ra chúng ta phải vui mừng, mà tại sao khi ấy lại lo sợ hoảng hốt? Thật là mâu thuẫn. Vì sống mâu thuẫn, không thấy được lẽ thật, nên chúng ta đau khổ. Ngày nay không ra gì, chúng ta mong cái gì mới lạ ở ngày mai, không ngờ cái lạ chắc chắn là mái tóc mình sẽ bạc: trẻ rồi già, già rồi chết. Đó là cái lạ mà chúng ta không chịu chấp nhận. Thời gian và bản thân mình nhịp nhàng theo nhau, nếu không mong cái chết đến với chúng ta, thì thôi đừng mong thời gian qua mau làm gì!
Giàu sang ngó lại trơ tràng mộng,
Năm tháng mang theo chất hộc sầu. Hai câu này mới thấm thía làm sao! Tất cả giàu sang phú quí trên đời này, khi chúng ta sắp tắt thở nằm liệt trên giường, nhớ lại giống như giấc mộng thôi. Cái gì đã qua rồi, không tìm lại được. Như ban đêm mình mộng thấy giàu sang tột đỉnh, sáng ra tỉnh dậy mới biết chỉ là giấc mộng thôi. Cảnh trong mộng làm sao tìm ra được. Thế nên dù giàu sang sung sướng bao nhiêu, khi tuổi già đến, nhớ lại quãng đời trước chẳng khác nào giấc mộng, đâu có gì tồn tại lâu bền! Đã là mộng vì sao lại khổ đau? Mỗi một ngày qua, có khi nào chúng ta thản nhiên vô sự đâu, hết buồn giận người này đến phiền trách người kia, rồi chứa chất trong lòng không biết bao nhiêu là sầu khổ! Như vậy suốt cuộc đời từ trẻ đến già, khổ đau tràn ngập. Thân thì tiêu mòn mà buồn phiền đau khổ tăng lên gấp bội, đó là cái mâu thuẫn đáng thương của chúng ta. Đến khi thân này tan hoại, thì những khổ đau đầy ắp đó sẽ dẫn mình đến chỗ nào đây?
Nẻo khổ, vành xe lăn lóc khắp,
Sông yêu, bọt nước mất còn đâu.
Phiền não quá nhiều sẽ lôi chúng ta đi vào những con đường đau khổ xấu xa, chẳng khác nào vành xe lăn hết nơi này đến chốn kia, mà toàn là đến chỗ khổ đau. Nếu trong lòng đang ngập tràn phiền não, giả sử có người dẫn chúng ta đi ngắm cảnh đẹp cho vui, thử hỏi làm sao vui được! Thế nên lúc đang đau khổ mà mất thân này, chắc chắn chúng ta sẽ bị đưa đến những chỗ khổ đau. Muốn ngày mai được an vui, thì ngang đây phải buông đi tất cả phiền não trong lòng.
Sông yêu, chữ yêu đây tức là ái, nếu còn tâm ái trước thân này và trìu mến cảnh vật chung quanh thì khi mất thân này chúng ta lại tạo thân khác, sanh tử nối tiếp không dừng, giống như bọt nước ngoài biển, cơn sóng đùa qua bọt nước nổi lên rồi bể nát, nổi lên rồi bể nát không biết bao nhiêu lần. Nếu trong lòng chứa nhóm thù hận chúng ta sẽ đi vào con đường đau khổ, nếu còn chứa nhóm lòng yêu mến thân và cảnh, chúng ta sẽ bị dẫn đi trong sanh tử liên tục không dừng.
Trường đời nếu chẳng rờ lên mũi,
Ngàn thuở lương duyên chỉ bóng màu.
Nếu gặp cơ hội mà chúng ta không rờ lên mũi thì duyên lành muôn thuở đó cũng chỉ là chuyện bóng màu, phớt qua rồi mất, uổng đi một đời. Rờ lên mũi là ý nghĩa gì? Trong nhà thiền, khi nói tới lỗ mũi là để chỉ cái sẵn có ở trước mặt mà mình không thấy. Lỗ mũi lại là nơi thở ra hít vào tức là nguồn sống của chúng ta. Như vậy lỗ mũi dụ cho con người chân thật hiện hữu nơi chúng ta, mà chúng ta lại không thấy. Rờ lên mũi nghĩa là nhận được con người chân thật nơi mình. Nhận được, cuộc đời chúng ta mới có giá trị. Bằng không thì duyên lành muôn thuở của chúng ta chẳng qua là ảo ảnh mà thôi.
Trong hai câu kết ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ đã nhắc chúng ta, nhất là người đã thế phát xuất gia, có duyên lành với Phật pháp nếu không nhận được con người chân thật nơi mình, thì uổng phí cả một đời tu. Thế nên chúng ta phải nỗ lực cố gắng làm sao để duyên tốt đó được hữu ích và thực tế hơn.
Hôm nay là ngày cuối năm. Đêm ba mươi tháng chạp là đêm chuyển mình từ năm cũ sang năm mới. Trong nhà Phật thường ví đêm này như thời gian sắp tắt thở của chúng ta, chuyển mình từ thân cũ sang thân mới, hay từ thân tiền ấm chuyển sang thân hậu ấm. Từ cũ chuyển sang mới thì cái mới phải tốt đẹp hơn. Nhưng đó là còn trong vòng sanh tử. Nếu thân cũ này bại hoại đi, chúng ta được thảnh thơi giải thoát, đó mới đúng là người chân thật xuất gia, đúng là người cầu đạo giải thoát.
Mong rằng tất cả Tăng Ni và Phật tử được phước duyên lành sống trong nhà đạo, chúng ta phải nhớ đừng hủy hoại duyên lành của mình mà phải luôn luôn cố gắng. Trong năm cũ nếu chúng ta tạo được những gì hay đẹp thì hãy lấy đó làm nền tảng để sang năm mới càng hay đẹp hơn. Nếu trong năm cũ chúng ta đã lỡ gây ra những gì hư dở, thì sang năm mới chúng ta dứt khoát không tiếp tục làm những điều ấy nữa, mà phải chuyển sang làm những việc hay đẹp.
Nhân ngày cuối năm cũng là lúc chuẩn bị đón giao thừa, chúng ta nhắc nhở nhau tiến trên con đường đạo, gọi là tùy theo thế tục để trở về chân. Chúng tôi mong rằng tất cả quí Tăng Ni và Phật tử có mặt nơi đây và ở những nơi khác, không ủ dột âu sầu như năm cũ mà đều cố gắng chuyển mình từ năm cũ sang năm mới với gương mặt rạng rỡ hân hoan, để giữ vững những gì cao quí và hay đẹp của con người chúng ta.
RA KHỎI HẦM LỬA
Tết Kỷ Tỵ - 1989
Hôm nay Tăng Ni, Phật tử về đây để mừng năm mới và tha thiết chúc tụng chúng tôi. Thật ra chúng ta mừng thêm một tuổi hay buồn bớt đi một năm sống? Lần lượt hết năm này sang năm khác, cứ thế mà chúng ta trải qua mấy mươi năm từ thuở bé cho đến ngày nay. Riêng tôi thì tóc bạc da nhăn rồi, còn quí vị có người tóc đã bắt đầu bạc, cũng có người còn trẻ hơn. Trên con đường sanh tử, có người đi hơn nửa đường, có người đi nửa đường, có người mới đi một phần ba, một phần tư đường, đã đi thì nhất định là phải đến, không ai không đến. Thế nên trong nhà Phật lẽ sanh tử là một việc lớn. Vì sợ vô thường nửa chừng, qua được một năm là thấy mình sống thêm một tuổi, sang năm tới chưa biết có tròn được một năm không, nên năm mới mừng tuổi có nghĩa là mừng sống thêm một tuổi. Mừng thêm một tuổi là buồn bớt đi một năm sống, nhưng vì thêm một tuổi là qua được cái yểu và thêm cái thọ, nên tạm gọi đó là mừng.
Riêng chúng tôi, thấy Tăng Ni là những người mình cưu mang từ bao năm nay, chúng tôi muốn những người đó mỗi ngày một hay, mỗi ngày một cao thượng, mỗi ngày thêm sáng suốt, giác ngộ và giải thoát. Thế mà nhiều khi chúng tôi thấy có những người không tiến bao nhiêu, hi vọng được giải thoát nhưng lại trói buộc nhiều, muốn được giác ngộ nhưng ngọn đèn trí tuệ lu từ từ. Đó là những điều làm cho chúng tôi phải lo lắng. Vì vậy mỗi năm, chúng tôi đều nhắc nhở Tăng Ni và Phật tử, phải có cái nhìn xuyên suốt từ buổi ban sơ cho đến hiện nay, để thấy rõ bước tiến của mình mỗi năm mỗi khác, chớ không nên giậm chân một chỗ hoặc thối lui, vì như thế là điều đáng buồn. Đề tài tôi nhắc nhở quí vị hôm nay là Ra khỏi hầm lửa.
Nếu không có chủng duyên lành từ nhiều đời trước, chắc chúng ta khó có thể xuất gia, cạo tóc, ở chùa tu hạnh giải thoát. Từ khi lọt lòng mẹ đến khi khôn lớn, chúng ta có bổn phận đối với cha mẹ quyến thuộc và có trọng trách đối với gia đình, xã hội. Vậy mà chúng ta dứt bỏ được tất cả manh mối trói buộc để một mình an ổn thảnh thơi nơi đạo tràng tu hành thanh tịnh, đó là do đầy đủ phước duyên chớ không phải ai muốn cũng được. Đã có phước duyên lớn như vậy, chúng ta không nên chần chờ, thờ ơ để cho duyên tốt đó bị mai một, như thế là hủy hoại nhân lành đã gieo từ bao đời, đến nay mới được thành tựu. Là người từ trong trăm mối buộc ràng của gia đình, xã hội mà cắt đứt tất cả, ở yên tu hành chúng ta phải nhớ làm tròn bổn phận để khỏi hổ là mở việc này lại cột việc khác. Tránh sự bận rộn phiền toái của gia đình, vào chùa lại cũng phiền toái bận rộn, đó là điều sai lầm, không đúng tinh thần người học đạo.
Kinh Nguyên thủy có kể thầy Sa-di Sanu, đi tu từ thuở năm bảy tuổi cha mẹ gởi vào tinh xá ở với chư Tăng. Một thời gian sau, học hành khá thuyết pháp hay, nhưng không biết vì lý do gì thầy lui sụt tâm Bồ-đề, về xin mẹ hoàn tục. Bà mẹ là người tha thiết với đạo, thấy thầy chán nản việc tu hành nên bà buồn khóc. Thầy Sa-di lấy làm lạ hỏi:
Thưa mẹ người ta khóc,
Khóc vì người đã chết,
Hay có khóc người sống,
Khi sống không được thấy.
Thưa mẹ con đang sống,
Và mẹ đang thấy con,
Vậy vì sao thưa mẹ,
Mẹ lại khóc cho con?
Ý thầy muốn hỏi: Ở thế gian người ta khóc vì đau khổ khi con chết, hoặc vì còn sống mà phải chia tay mỗi người một nơi. Thầy còn sống và còn về gặp mẹ, vậy tại sao mẹ khóc. Bà mẹ đáp:
Người ta khóc cho con,
Là khóc khi con chết,
Hay khóc cho con sống,
Nhưng không được thấy mặt.
Ai đã bỏ dục vọng,
Lại trở lui đời này,
Này con, người ta khóc,
Là khóc cho người ấy,
Vì người ấy được xem,
Còn sống cũng như chết.
Này con, được kéo ra,
Khỏi than hầm lửa rực,
Con còn muốn rơi vào,
Đống than hồng ấy chăng?
Bà mẹ nói lý do quá rõ ràng: Không phải bà khóc vì con chết hay vì sống mà không thấy mặt nhau, mà khóc cho đứa con đã bỏ dục lạc thế gian, nay muốn trở lui lại, giống như kẻ đang sống mà thành chết. Khóc cái chết là khóc cho người bỏ tâm hồn trong trắng, sáng suốt, trở lại thành con người tối tăm u mê, chính đó là niềm đau khổ của bà mẹ. Thứ nữa bà thấy con mình xuất gia, chẳng khác nào người được kéo ra khỏi hầm lửa. Đã ra khỏi hầm lửa, nay lại nài nỉ xin trở vào, biết cái khổ đó, bà thương xót nên khóc. Đó là hai lý do khiến bà buồn khổ. Như thế đối với bậc cha mẹ biết đạo lý, khi thấy con đi tu, đã thâm nhập đạo lý và sống được trong đạo một thời gian thì niềm vinh hạnh của cha mẹ rất lớn, mừng con mình có hạnh xuất trần thoát tục, mừng con được rảnh rang nhàn hạ trong đạo đức, rồi mai kia sẽ làm lợi ích cho nhiều người. Khi con được cha mẹ đặt hi vọng, đặt niềm tin, nay trái lại muốn bỏ đạo lý để trở thành người thế tục, điều đó khiến cha mẹ đau khổ hơn lúc cho con đi tu. Một là nhục nhã vì con mình không tròn chí nguyện cao cả, hai là thương con đã có chí giải thoát xuất trần, đã được thảnh thơi nhàn hạ, nay lại trở thành người tầm thường, lăn trong trần tục, bị muôn mối buộc ràng. Vậy đã là người xuất gia chúng ta phải làm thế nào? Chần chờ để qua ngày tháng hay có niệm thối lui trở về tìm hưởng dục lạc? Hai quan niệm đó đều tội lỗi, đều gây khổ đau cho cha mẹ.
Thiền sư Đạo Ưng nói: “Các ông xuất gia như kẻ tội ra khỏi khám đường, nên ít muốn biết đủ, chớ tham danh lợi ở đời... được ở trong Phật pháp phải mười phần sống chín phần chết...” Lời nói của Ngài đơn giản, nhưng thấm thía biết bao! Người xuất gia không phải chỉ bỏ nhà cha mẹ vào trong chùa là đủ. Xuất gia có ba nghĩa, vượt ra khỏi nhà thế tục, vượt ra khỏi nhà phiền não và vượt ra khỏi nhà luân hồi trong Tam giới. Ngày xuất gia chúng ta thệ nguyện ra khỏi nhà phiền não, nhà trầm luân trong Tam giới, có khác nào ra khỏi khám đường. Đã ra khỏi khám đường mà còn nài nỉ xin trở vào thì có hợp lý không? Dĩ nhiên là không. Một lần ra khỏi vĩnh viễn không trở lại, đó mới là người khôn ngoan sáng suốt. Nếu ra rồi còn muốn trở lại thì thật là rất dại khờ, làm cho những người chung quanh nhìn chúng ta với đôi mắt thương xót. Đã ra khỏi khám đường rồi chúng ta phải làm gì nữa? Ngài nhắc nên ít muốn biết đủ, tức là bớt lòng tham lam, đừng muốn nhiều, đừng gây tạo nhiều, để có thì giờ tu hành. Dừng tâm tham muốn không chạy theo danh lợi, vì nó là sợi dây, là miếng mồi nhử chúng ta trở lại vòng đau khổ của khám đường. Muốn thực hiện bản nguyện ra khỏi vòng trầm luân Tam giới, Ngài dạy chúng ta ở trong Phật pháp, mười phần sống phải chết hết chín phần. Ngày nay chúng ta phải chết chín phần thế tục, chỉ còn một phần nhỏ là phải ăn phải mặc, phải tới lui qua lại, cái còn đó rất đơn giản, rất ít oi, chớ đừng sống trọn vẹn như người thế tục. Chính sự tinh tấn tu hành là gốc để chúng ta thoát ly Tam giới. Muốn được như thế chúng ta phải hạn chế những nhu cầu, những mong muốn. Chúng ta phải bớt đi, càng bớt nhiều thì tinh thần tu hành càng tăng trưởng. Trái lại chúng ta cứ đòi hỏi, cứ chạy theo chúng thì tinh thần tu hành ngày càng giảm sút. Thế nên Ngài dạy mười phần sống phải chết chín phần.
Trong kinh Tứ Thập Nhị Chương, đức Phật cũng đã từng dạy: “Người xuất gia ra khỏi dục lạc của thế gian, chẳng khác nào người khạc đàm dãi nhổ xuống đất.” Khi khạc đàm dãi nhổ xuống đất rồi, chúng ta có muốn ngó lại nó không? Chắc gớm lắm, không muốn ngó lại. Ngó lại còn không muốn, huống nữa lấy tay sờ, lấy lưỡi liếm. Cũng thế, người đã xuất gia, thấy rõ những cái dở, cái xấu, cái hại của thế gian, thì phải dứt khoát vượt ra khỏi trần lao để làm lợi ích cho mọi người, nói cách khác là để dìu dắt mọi người cùng ra khỏi trần lao. Thế nên chúng ta không thể xem thường, phải thấy dục lạc thế gian là mối họa lớn cần phải tránh, cần phải không nhìn đến thì mới có thể vươn lên được. Nếu còn ưa thích, còn mơ ước nó, chúng ta sẽ chìm đắm, đau khổ.
Sư ni Subha nói lại việc tu hành của bà trong một bài kệ dài, tôi dẫn một đoạn:
Dục làm cho điên cuồng,
Loạn ngôn tâm thác loạn,
Làm uế nhiễm chúng sanh,
Sắp rơi bẫy ác ma.
Dục nguy hiểm không cùng,
Nhiều khổ, thuốc độc lớn,
Ngọt ít, tạo đấu tranh,
Héo tàn ngày tươi sáng.
Ta quyết định như vầy:
Không trở lui dục nhân,
Tác thành điều bất hạnh,
Luôn vui hưởng Niết-bàn...
Bà biết rõ dục lạc làm cho chúng sanh điên cuồng, nói những lời không đúng lẽ thật, nên gọi là loạn ngôn. Dục lạc làm cho tâm chúng sanh thác loạn ô uế, nhiễm nhơ rồi dẫn dắt, lôi chúng sanh vào bẫy của ác ma, bị trói buộc trong vòng ma. Dục lạc nguy hiểm không thể nào kể hết, nó tạo nhiều khổ, là thuốc độc, là nhân của đấu tranh. Chúng ta cãi nhau giành giật nhau vì dục lạc. Chính vì tìm kiếm, theo đuổi dục lạc mà thân chúng ta héo tàn, kiếp sống trở nên khô khan, không tươi sáng. Biết như thế chúng ta quyết định không trở lại với dục lạc, vì đó là nhân gây bất hạnh, đau khổ. Mục tiêu chánh yếu của người tu là dứt hết nhân khổ đau, tiến tới an lạc Niết-bàn thanh tịnh. Không phải chỉ riêng bản thân chúng ta hết khổ, được vui, chúng ta sẽ chỉ cho bằng hữu, cho huynh đệ, cho mọi người chung quanh cũng hết khổ, được an vui. Nếu chúng ta càng tu càng phiền não, càng héo hắt khổ đau, làm sao có thể đưa mọi người đến chỗ an vui? Thế nên chủ yếu là chúng ta phải tự mình bỏ hết những mầm khổ đau để được an lạc tự tại, rồi hướng dẫn mọi người cùng an vui. Đó mới thật là người tu chân chánh, mới thật đạt được sở nguyện của người xuất gia.
Sơ tổ Trúc Lâm có bài phú “Cư Trần Lạc Đạo” bằng chữ nôm, đây là một đoạn trong hội thứ mười:
“... Núi hoang rừng quạnh, ấy là nơi dật sĩ tiêu dao.
Chiền vắng am thanh, chính thật cảnh đạo nhân du hí.
Ngựa cao tán cả, Diêm vương nào kể đứa nghênh ngang;
Gác ngọc lầu vàng, ngục tốt thiếu chi người yêu quí.
Chuộng công danh, lồng nhân ngã, thật ấy phàm phu;
Say đạo đức, dời thân tâm, định nên thánh trí.
Mày ngang mũi dọc, tướng lạ xem ắt bẵng nhau;
Mặt Thánh lòng phàm, thực cách nhẫn vàn vàn thiên lý...”
Người tu phải ở chỗ nào? “Núi hoang rừng quạnh, ấy là nơi dật sĩ tiêu dao”, những kẻ ẩn sĩ lúc nào cũng thảnh thơi nơi núi hoang rừng rậm. “Chiền vắng am thanh” tức là chùa ở chỗ vắng vẻ, am ở chỗ yên tĩnh; “chính thật cảnh đạo nhân du hí”, du hí là dạo chơi, bậc đạo nhân dạo chơi chỗ chùa vắng am thanh. “Ngựa cao tán cả, Diêm vương nào kể đứa nghêng ngang”, dù được ngồi ngựa cao, che tán lớn việc đó trên thế gian thấy như nghênh ngang đắc thế lắm, nhưng vua Diêm vương có sợ không? Tới ngày cũng lôi mình xuống dưới, chớ không ai tránh được. “Gác ngọc lầu vàng, ngục tốt thiếu chi người yêu quí”, người ở gác ngọc, lầu vàng là bạn yêu quí của ngục tốt, của ngưu đầu mã diện. Tại sao? Vì chính đó là gốc của ái nhiễm, người ái nhiễm là bạn để cho ngục tốt hay ngưu đầu mã diện lôi xuống dưới chơi với nó. Như vậy hai trường hợp: trường hợp được ngựa cao tán cả cũng không thoát khỏi tay Diêm vương, trường hợp được gác ngọc lầu vàng thì làm bạn với ngưu đầu mã diện. “Chuộng công danh, lồng nhân ngã, thật ấy phàm phu”, nếu tu mà còn quí mến công danh, còn ưa thích nhân ngã, quả thật chúng ta là kẻ phàm phu. Trái lại “say đạo đức, dời thân tâm, định nên thánh trí”, ở trong đạo, người nào tu hành say mê thích thú, thân tâm luôn đổi thay, ngày xưa một trăm phần phiền não, tu một năm còn chín chục phần, tu hai năm còn tám chục phần, tu mười năm thì hoàn toàn trong sạch, người đó mới thật là người tốt. Chính việc dời đổi thân tâm là điều quyết định để trở nên con người thánh trí. Như vậy phàm phu là vì chuộng công danh, lồng nhân ngã, thánh trí là vì biết mến đạo đức, biết sửa đổi thân tâm. Chúng ta muốn làm phàm hay Thánh đều tùy theo tâm niệm của mình. “Mày ngang mũi dọc, tướng lạ xem ắt bẵng nhau”, bất cứ ai dù đẹp dù xấu dù trắng dù đen... chân mày cũng ngang mũi cũng dọc xuống. Thấy dường như lạ nhưng đều bẵng nhau nghĩa là giống nhau hết. “Mặt Thánh lòng phàm thật cách nhẫn vàn vàn thiên lý”. Bài này dùng chữ mặt, chỗ khác viết lòng phàm, lòng Thánh. Tuy về thân, dáng vẻ đồng nhau nhưng về tâm, tâm phàm, tâm Thánh cách nhau muôn trùng. Câu nói gọn hơn là “như nhau dọc mũi ngang mày, lòng phàm lòng Thánh cách nhau ngàn trùng”. Như vậy ai cũng mày ngang mũi dọc giống hệt nhau, nhưng tâm hồn của người nhiễm ô trần tục và tâm hồn người được thanh thoát, tiêu dao trong cảnh thanh tịnh thì cách biệt nhau muôn trùng. Vậy tất cả chúng ta, ai là người có chí tu hành, phải cố gắng đạt cho kỳ được sự cao cả, sự thanh thản đó, đừng để trở thành kẻ phàm phu tục tử đáng chê, đáng trách.
Tôi nhắc lại một lần nữa, tất cả chúng ta đã có phước duyên lành nhiều đời nên ngày nay mới được vào đạo, xuất gia, tu hạnh giải thoát. Đó là phước đức lớn, vinh dự lớn của mình, đã được thì nên giữ và cố gắng làm tăng trưởng thêm. Có nhiều người cũng muốn xuất gia, được thong thả tu hành như chúng ta, nhưng duyên của họ chưa đến. Vậy chúng ta phải cố gắng mỗi ngày mỗi tiến, đừng đứng nguyên một chỗ, cũng đừng lui sụt.
Tôi dẫn thêm bài kệ “Sơn Phòng Mạn Hứng” của Sơ tổ Trúc Lâm, quí vị nghe rồi ứng dụng đúng như tinh thần này:
Thị phi niệm trục triêu hoa lạc,
Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn.
Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch,
Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn.
Dịch:
Phải trái rụng theo hoa buổi sớm.
Lợi danh lạnh với trận mưa đêm,
Hoa tàn, mưa tạnh, non im lắng,
Xuân cỗi còn dư một tiếng chim.
Đỗ Văn Hỷ
Phải trái rụng theo hoa buổi sớm, buổi sáng nhìn xuống gốc mai, chúng ta thấy mai rã cánh rất nhiều. Chúng ta tu thế nào mà bao nhiêu điều thị phi rụng như những cánh hoa lả tả rơi buổi sớm, chớ không dính chặt, dính cứng trong tâm mình.
Lợi danh lạnh với trận mưa đêm, mùa thu có những trận mưa đêm tầm tã, gió lạnh. Tâm danh lợi của mình cũng phải lạnh như vậy, lạnh không còn một chút hơi ấm nào.
Hoa tàn, mưa tạnh, non im lắng, hoa tàn, mưa tạnh thì còn cái gì? Còn một ngọn núi im lắng xanh rì. Cũng thế, tâm thị phi đã rụng hết, tâm danh lợi đã lạnh hết, lúc đó vẫn còn Tâm thể thanh tịnh bất sanh bất diệt. Và còn điều gì nữa?
Xuân cỗi còn dư một tiếng chim, tuy mùa xuân tàn rồi mà còn một tiếng chim hót. Thật đẹp làm sao! Tu hành phải như vậy, phải làm sao mà thị phi rụng hết như hoa buổi sớm, danh lợi lạnh ngắt như mưa đêm. Được như vậy sớm muộn gì cũng giải thoát. Mong rằng tất cả Tăng Ni cũng như Phật tử có được tâm niệm như ngài Điều Ngự Giác Hoàng đã nhắc trong bài kệ “Sơn Phòng Mạn Hứng”.
Hôm nay là ngày đầu năm Kỷ Tỵ, tôi có đôi lời nhắc nhở chung cho Tăng Ni và Phật tử. Mong rằng tất cả hãy ghi nhớ ý của chư Tổ, các bậc tu hành trước, lấy đó làm kinh nghiệm mà cố gắng học rồi làm theo gương người xưa, để xứng đáng là người xuất gia làm tròn sở nguyện của mình, hầu trên đền đáp bốn ân, dưới cứu giúp ba cõi. Đó cũng là sở nguyện của chúng tôi.
NĂM KỶ TỴ NÓI CHUYỆN RẮN
Tết Kỷ Tỵ - 1989
Hôm nay, Tết Nguyên Đán năm Kỷ Tỵ, tất cả quí Phật tử gần xa đều về chùa lễ Phật và chúc mừng năm mới. Nhân đây chúng tôi cũng nói chuyện và chúc Tết quí vị luôn. Năm Tỵ là năm con rắn, tôi cũng tùy tục mà nói chuyện đạo lý về con rắn.
Con rắn trong nhà Phật đã có đề cập tới. Như trong kinh Niết-bàn đức Phật nói có một người nuôi bốn con rắn độc trong một cái lồng, chúng luôn luôn thù địch cắn xé lẫn nhau. Người chủ nuôi bốn con rắn này có bổn phận phải điều hòa, ngăn không cho chúng cắn nhau. Nếu con mạnh hiếp con yếu thì người chủ phải can thiệp làm sao cho chúng thuận hòa. Khổ thay bốn con rắn không bao giờ thuận hòa, con này chực hại con kia, con kia chực hại con khác. Vì thế người chủ lúc nào cũng phải đem hết tâm lực trông chừng chúng từng phút từng giây. Nhưng dù cho người chủ có thật giỏi, thật thông minh, đến một lúc nào đó, chúng cũng cắn nhau kịch liệt rồi mỗi con chạy một nơi... khi ấy người chủ hết bổn phận.
Bốn con rắn đức Phật dụ cho bốn thứ: đất, nước, gió, lửa. Rắn hổ lửa không ưa rắn nước, rắn hổ đất không ưa rắn gió, tức là rắn hổ mây, thường phóng ngược trên đầu cây. Chúng đều là rắn độc, không ưa nhau lại bị bắt ở chung một chỗ, nên lúc nào cũng cắn lộn nhau. Việc người chủ điều hòa cho bốn con rắn ở yên trong lồng cay đắng trăm phần! Cũng như thế, thân chúng ta gồm bốn đại: chất cứng trong người là đất, chất ướt là nước, động là gió, ấm là lửa. Nước kỵ với lửa, gió kỵ với đất… khi nước thắng lửa, nghe người lạnh phát run, còn khi lửa thắng nước, nghe nóng bức, nhức đầu, khó chịu. Lúc nóng phải tìm thứ gì mát uống vào để giảm nhiệt độ, hạ lửa xuống cho quân bình với nước. Lúc nước nhiều, lửa thiếu lại phải tìm thứ gì nóng uống vào để nâng lửa lên, hạ nước xuống cho quân bình. Khi gió mạnh quá, đất chịu không nổi, vì gió thổi đất rung rinh nên ê mình, lúc đó phải cạo gió. Cạo gió một lát mình bầm hết, gió bớt, đất quân bình trở lại nên hết đau.
Bốn chất đất, nước, gió, lửa cứ công kích nhau luôn, chúng ta lại là người chủ điều hòa chúng. Cả ngày làm việc này, việc kia nhưng thường chú ý đến bốn đại, xem hôm nay mình lạnh hay nóng, có bị gió hay không, nghĩa là vừa thấy trong người hơi lạ là chuẩn bị mời thầy thuốc hoặc gọi người này, người kia đánh gió liền. Như vậy từ khi bắt đầu hiểu biết cho đến ngày chết, việc làm của chúng ta chỉ là điều hòa bốn đại thôi!
Ông chủ điều hòa bốn con rắn kia nhọc nhằn từ ngày này qua tháng nọ nhưng rốt cuộc có điều nổi không? Vì chúng chống trái nhau nên đến một lúc nào điều hòa không nổi, chúng cắn nhau kịch liệt rồi chạy tứ tán và khi đó ông chủ hết việc. Cũng thế, đất, nước, gió, lửa công kích nhau đến hôm nào một thứ mạnh quá, chúng ta điều không nổi thì lúc đó tan rã ra, mỗi thứ một nơi. Khi ấy chúng ta ra sao? Chết! Như vậy xét thật kỹ, từ khi chúng ta bắt đầu khôn ngoan một chút cho đến tuổi già, suốt quãng đời đó chúng ta thấy quả là đáng buồn, nghĩa là suốt đời chúng ta cố gắng lo cho có thứ này thứ kia, làm việc này việc khác cũng đều nhằm bồi dưỡng cho tứ đại. Thở là bồi dưỡng cho gió, uống là bồi dưỡng cho nước, ăn là bồi dưỡng cho đất, khi uống lựa chất nóng uống vào, khi ăn lựa chất ấm ăn vào là bồi dưỡng cho lửa. Thế thì cả ngày chúng ta chỉ làm bao nhiêu việc đó. Nếu khi nào cổ như có gì ngăn, hơi thở không thông thì phải kiếm thầy làm cho nó thông. Khi nào ăn uống thiếu chất nóng thì sanh bệnh lạnh, thiếu chất mát thì sanh bệnh nóng, cứ phải lo bồi dưỡng điều hòa cho chúng quân bình. Nhưng chúng ta bồi dưỡng có xong không? Đến một thời gian nào đó chúng cũng phải rã, phải tan nát. Chúng ta làm việc này giống như người điều hòa bốn con rắn vậy. Thế nên ngày xưa, Thiền sư Đại Xả ở Việt Nam có bài kệ về bốn con rắn như thế này:
Tứ xà đồng khiếp bản lai không,
Ngũ uẩn sơn cao diệc bất tông,
Chân tánh linh minh vô quái ngại,
Niết-bàn, sanh tử nhậm già lung.
Dịch:
Bốn rắn chung rương trước giờ không,
Núi cao năm uẩn đâu chủ ông?
Chân tánh sáng ngời không chướng ngại,
Niết-bàn sanh tử mặc che lồng.
Qua bài kệ này chúng ta thấy ngài Đại Xả căn cứ trong kinh Niết-bàn nói về bốn con rắn. Bốn con rắn đó ở chung trong một cái rương hay một cái chậu. Trước khi bỏ vào chậu, chúng có ở tại chậu chưa? Chưa, vì mới đem bỏ vào nhưng khi ở trong chậu rồi chúng nó lại công kích, phá phách lẫn nhau. Đây là nói khi tứ đại chung hợp trong sự chống nghịch nhau.
Đến câu thứ hai Ngài nói: “Núi cao năm uẩn đâu chủ ông?” Thân năm uẩn là cộng cả sắc và thọ, tưởng, hành, thức, tức là vật chất và tinh thần. Khó có người biết trong năm uẩn cái gì là Ông chủ, nhưng thật ra trong năm uẩn này vẫn có Ông chủ. Ông chủ đó là gì? “Chân tánh sáng ngời không chướng ngại”, nghĩa là ngay nơi mỗi người chúng ta đều có cái Chân tánh, Chân tánh đó gọi là Ông chủ, Chân tánh đó lúc nào cũng trong sáng, không có gì chướng ngại nó. “Niết-bàn sanh tử mặc che lồng”, dù cho có Niết-bàn dù cho có sanh tử, nhưng đối với Chân tánh đó không dính dáng, không trở ngại gì cả.
Qua bài kệ này, chúng ta thấy rõ ngài Đại Xả nêu lên hai việc: thứ nhất là nói bốn con rắn ở chung, thứ hai là nói thân năm uẩn vô chủ. Tuy nhiên trong cái vô chủ đó, nếu chúng ta sáng suốt thì sẽ tìm ra được cái chân thật. Cái chân thật đó là Chân tánh không bị trở ngại đối với sanh tử và Niết-bàn. Như vậy từ cuộc sống vô nghĩa, nếu khéo, chúng ta biến nó thành hết sức có nghĩa. Trên nhân gian này, giỏi như các thầy thuốc, họ biết được những gì thay đổi trong người nên gìn giữ, bồi dưỡng cho thân khoẻ mạnh, nhưng rốt cuộc các ông thầy thuốc cũng chết. Cả các thầy thuốc cũng phải chết thì người nào giữ được không chết? Nếu cả đời chỉ lo cho thân tứ đại, săn sóc nó nhưng cuối cùng không giữ được nó thì mới thấy công của mình thật là công dã tràng. Thế nên người thông minh sáng suốt phải thấy được điều đó, khi lo cho thân này, mình vẫn tìm được cái gì chân thật, cao siêu, như vậy mới khỏi luống uổng công mình. Đây là điều chủ yếu trong cuộc sống. Vua Trần Thái Tông có bài kệ “Tứ Sơn Khả Hại”:
Tứ sơn thiên bích vạn thanh tùng,
Liễu đắc đô lô nhất thiết không,
Hỉ đắc lư nhi tam cước tại,
Mạch kỵ đã sấn thượng cao phong.
Dịch:
Bốn núi ngàn tường muôn bụi rậm,
Tỉnh ra mới biết thảy đều không,
Mừng nay có được lừa ba cẳng,
Sấn ngược đường lên đỉnh tuyệt cùng.
Bốn núi là chỉ cho tứ đại: đất, nước, gió, lửa. Khi chúng tụ hội thì mịt mù như rừng rậm, kín mít như tường vách. Nhưng “tỉnh ra mới biết thảy đều không”, tỉnh rồi mới thấy tứ đại không thật. Biết tứ đại không thật rồi mới được điều đặc biệt. Ở đây Ngài diễn tả: “mừng nay có được lừa ba cẳng”, con lừa có mấy chân? Lừa bốn chân, nhưng Ngài được con lừa ba cẳng. Con lừa ba cẳng đó “sấn ngược đường lên đỉnh tuyệt cùng” tức là Ngài cỡi nó chạy tuốt lên trên đỉnh tột cùng của ngọn núi. Đây là lối nói nghịch lý của nhà thiền. Thân này do tứ đại hòa hợp, vì thấy nó rõ ràng cụ thể, sờ mó được nên chúng ta tưởng nó là thật, giống như tường vách, bụi rậm. Nhưng khi dùng trí tuệ quán xét đến cùng thì thấy nó không thật, chỉ là giả tướng duyên hợp thôi. Tuy nhiên trong giả tướng không thật đó lại còn có cái chân thật vượt ngoài bình thường, chính là lừa ba cẳng mà Ngài nói ở đây. Và chính cái phi thường đó, khi chúng ta nắm được rồi mới vượt lên, mới thoát khỏi cái khổ của tứ đại, mới vượt khỏi sự tiêu mòn biến hoại của tứ đại, vì thế Ngài nói là lên được đỉnh tuyệt cùng.
Tóm lại trên đường tu, nếu biết rõ thân tứ đại không thật, chúng ta mới có thể vượt lên, mới có thể thoát khỏi nó. Trái lại, nếu nghĩ tứ đại này là thật, cả ngày cặm cụi lo bồi dưỡng cho nó được đầy đủ, rốt cuộc công lo lắng của mình chỉ là công dã tràng. Đây là điều mà trong đạo luôn luôn nhắc nhở để chúng ta tránh những việc làm tốn công vô ích, không đem lại kết quả. Nói thế không có nghĩa chúng ta bỏ nó hay hủy hoại nó, mà phải nuôi nó trong lẽ bình thường, đừng quá trọng cũng đừng quá khinh, để mượn nó tìm ra Ông chủ chân thật.
Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ có bài:
Đốn tỉnh
Đoạn tri không hữu bất tương soa,
Sanh tử nguyên tùng nhất phái ba.
Tạc dạ nguyệt minh kim dạ nguyệt,
Tân niên hoa phát cố niên hoa.
Tam sanh thúc hốt chân phong chúc,
Cửu giới tuần hoàn thị nghị ma.
Hoặc vấn như hà vi cứu kính,
Ma-ha Bát-nhã tát-bà-ha.
Dịch:
Chợt tỉnh
Chớ rằng không có khác nhau xa,
Sống chết cùng chung mạch nước mà.
Năm cũ hoa cười, hoa năm mới,
Đêm này nguyệt sáng, nguyệt đêm qua.
Ba sanh chớp nhoáng lằn phong chúc,
Chín cõi xoay vần bóng nghị ma.
Ví hỏi rằng sao là cứu cánh,
Ma-ha Bát-nhã tát-bà-ha.
Trúc Thiên
Chớ rằng không có khác nhau xa, sống chết cùng chung mạch nước mà. Đừng nghĩ rằng sanh tử cũng như có không khác nhau. Chính sanh tử, có không cùng chung một loại, cũng như là cùng chung một mạch nước. Tại sao? Nếu hiểu được lý luân hồi chúng ta sẽ thấy khi tử đó là nhân của sanh, khi sanh đó là nhân của tử, do có sanh nên phải có tử, do có tử nên phải có sanh. Sanh và tử thấy như hai việc khác nhau nhưng cả hai cùng một mạch, cái này làm nhân cho cái kia, vậy thì hai cái không khác mà là cùng nguồn.
Đây hình ảnh Ngài dụ rất đẹp: “Năm cũ hoa cười, hoa năm mới, đêm này nguyệt sáng nguyệt đêm qua”, nghĩa là hoa cười hay hoa nở của năm ngoái tức là đóa hoa nở của ngày hôm qua. Sáng hôm qua chúng ta thấy những nụ mai chớm nở, sáng ngày nay là năm khác thì chúng ta thấy các nụ hoa nở tròn, như vậy đóa hoa nở tròn hôm nay là từ nụ hoa chớm nở của hôm qua. Hôm qua và ngày nay tuy nói năm cũ và năm mới nhưng hôm nay đâu có rời hôm qua. Cũng như thế, đêm rằm trăng sáng, đến đêm mười sáu trăng cũng sáng. Trăng đêm rằm và trăng đêm mười sáu như là hai trăng nhưng phải hai không? Trên ngôn ngữ chúng ta thấy như hai cái khác biệt nhưng trên thực tế hai cái liên hệ nhau, chớ không tách rời nhau.
“Ba sanh chớp nhoáng lằn phong chúc.” “Phong” là gió, “chúc” là cây đuốc. Thường chúng ta hay nói đèn treo trước gió hay cây đèn cầy cầm ra ngoài gió, đèn trước gió thì dễ tắt lắm! “Ba sanh” là chỉ cho kiếp sống của con người, nhanh như cây đèn cầy để trước gió, làn gió thổi mạnh qua nó tắt liền, không ai giữ được. Trong khi đang sống, cuộc sống của chúng ta tưởng như là vững lắm, thật lắm, nhưng một cái sơ sảy, một luồng gió độc có thể làm hoại nó ngay, không ai lường trước được, nên Ngài diễn tả nó giống như là ngọn đèn treo trước gió hay là cây đèn cầy ở trước làn gió mạnh, không có gì bảo đảm.
“Chín cõi xoay vần bóng nghị ma”, “nghị” là con kiến, “ma” là cối xay. Con kiến bò trên miệng cối, nếu nó cứ bò vòng theo chiều đó thì chừng nào ra khỏi? Cứ bò vòng vòng, rốt cuộc rồi cũng trở lại điểm đầu. Nếu nó muốn ra khỏi thì phải bò xuống chớ cứ bò theo chiều vòng đó mãi thì dù cho bò một ngày, hai ngày cũng chỉ chừng ấy thôi. Cũng thế nếu chúng ta cứ mê chấp thân này là thật, cảnh này thật, chúng ta phải bị xoay vần trong lục đạo luân hồi, hay là trong cửu đạo luân hồi giống như con kiến bò trên miệng chén, cứ đảo qua đảo lại không biết ngày nào ra khỏi. Nay muốn thoát ra phải làm sao? “Ví hỏi rằng sao là cứu cánh” làm sao được chỗ cứu kính thoát ra khỏi vòng lẩn quẩn đó? Ngài nói “Ma-ha Bát-nhã tát-bà-ha”, nghĩa là phải trở về cái trí tuệ lớn lao chưa bao giờ bị kẹt trong vòng phân biệt sanh diệt. “Ma-ha” là lớn, “Bát-nhã” là trí tuệ, “tát-bà-ha” là chỉ cho tiếng lặp lại ma-ha-tát-đỏa tức là chỉ cho trí tuệ của Bồ-tát. Trí tuệ rộng lớn của Bồ-tát là trí tuệ đưa chúng ta đến chỗ cứu kính, thoát ra khỏi vòng lẩn quẩn trong chín cõi, chỗ bền bỉ, không dễ bị thổi tắt như ngọn đèn trước gió.
Tóm lại, ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ muốn nhắc nhở: Ở thế gian, người ta mừng khi sống và sợ khi chết, ngày sanh thì ăn mừng, ngày chết là ngày giỗ, đó là ngày buồn, ngày húy kỵ. Nhưng thật ra, nếu còn trong dòng luân hồi thì sống chết chỉ là nhân và quả, cả hai hỗ tương nhau, không tách rời được, không riêng có sống mà không chết, không riêng có chết mà không sống, cả hai cùng chung một mạch. Lại nữa thân này quá tầm thường, tạm bợ, ngắn ngủi nên đừng nghĩ rằng mình sẽ sống lâu, phải nhớ rằng thân này mỏng manh lắm, ngày nào còn sống, chúng ta phải làm những gì hay, tốt để lợi mình, lợi người, chớ đừng quá nuông chiều giữ gìn nó, rốt cuộc không giữ được chỉ là uổng công. Nếu không khéo tu chúng ta phải luân hồi trong chín cõi như con kiến bò trên miệng cối, nhọc nhằn vô ích! Thế nên mỗi người phải sớm thức tỉnh, làm sao mở mang được trí tuệ cao cả của Phật, Bồ-tát, để thoát khỏi vòng lẩn quẩn trong chín cõi.
Thật thế nếu trọn cuộc đời chúng ta chỉ lo ăn ngon, mặc đẹp, sống vui, cuối cùng rồi chết thì có gì cao thượng đâu? Trái lại nếu chúng ta tìm được, thấy được cái gì chân thật hơn ngay trong tứ đại chống đối thù nghịch này, khi ấy chúng ta mới có một hướng vươn lên, như tôi vừa nói: Được con lừa ba cẳng mới vươn lên đến tận đỉnh núi tuyệt cùng. Vì lẽ đó, tất cả mọi người, nhất là Phật tử chúng ta, là những người quyết chí tiến lên, không để dục lạc thế gian lôi cuốn, nhận chìm trong dòng sanh tử. Trong khi điều hòa tứ đại, chúng ta phải khéo tìm ra cái gì cao thượng hơn, siêu thoát hơn để không phải khổ đau khi mất thân này. Chiếc thân tạm bợ mong manh như đèn trước gió, dù cố gắng gìn giữ cũng chỉ là công dã tràng! Chúng ta là những người đã biết tu tỉnh, biết kính trọng Tam Bảo, biết hướng về con đường giác ngộ giải thoát thì phải ngay nơi bốn con rắn của mình, tìm thấy được cái chân thật, vì đó là cửa để tiến đến giác ngộ giải thoát.
Hôm nay là ngày đầu năm Kỷ Tỵ, quí Phật tử đến chùa lễ Phật, thăm quí thầy. Đó là điều rất tốt nhưng chưa đủ, quí vị còn phải thức tỉnh, để biết ngay trong thân tứ đại còn có cái bất sanh bất diệt. Được như thế thì sự có mặt của chúng ta ở thế gian này mới không phí uổng. Mong rằng trong năm mới này, Tam Bảo sẽ gia hộ cho tất cả quí Phật tử, được nhiều điều an vui, gia đình được hòa thuận, tin yêu, đối với xã hội, mọi việc đều vẹn đủ, và đối với việc tu hành thì năm nay quí Phật tử sẽ tinh tấn nhiều hơn năm trước. Đó là lời chúc lành và niềm mong mỏi của chúng tôi.
Tết Kỷ Tỵ - 1989
Hôm nay, Tết Nguyên Đán năm Kỷ Tỵ, tất cả quí Phật tử gần xa đều về chùa lễ Phật và chúc mừng năm mới. Nhân đây chúng tôi cũng nói chuyện và chúc Tết quí vị luôn. Năm Tỵ là năm con rắn, tôi cũng tùy tục mà nói chuyện đạo lý về con rắn.
Con rắn trong nhà Phật đã có đề cập tới. Như trong kinh Niết-bàn đức Phật nói có một người nuôi bốn con rắn độc trong một cái lồng, chúng luôn luôn thù địch cắn xé lẫn nhau. Người chủ nuôi bốn con rắn này có bổn phận phải điều hòa, ngăn không cho chúng cắn nhau. Nếu con mạnh hiếp con yếu thì người chủ phải can thiệp làm sao cho chúng thuận hòa. Khổ thay bốn con rắn không bao giờ thuận hòa, con này chực hại con kia, con kia chực hại con khác. Vì thế người chủ lúc nào cũng phải đem hết tâm lực trông chừng chúng từng phút từng giây. Nhưng dù cho người chủ có thật giỏi, thật thông minh, đến một lúc nào đó, chúng cũng cắn nhau kịch liệt rồi mỗi con chạy một nơi... khi ấy người chủ hết bổn phận.
Bốn con rắn đức Phật dụ cho bốn thứ: đất, nước, gió, lửa. Rắn hổ lửa không ưa rắn nước, rắn hổ đất không ưa rắn gió, tức là rắn hổ mây, thường phóng ngược trên đầu cây. Chúng đều là rắn độc, không ưa nhau lại bị bắt ở chung một chỗ, nên lúc nào cũng cắn lộn nhau. Việc người chủ điều hòa cho bốn con rắn ở yên trong lồng cay đắng trăm phần! Cũng như thế, thân chúng ta gồm bốn đại: chất cứng trong người là đất, chất ướt là nước, động là gió, ấm là lửa. Nước kỵ với lửa, gió kỵ với đất… khi nước thắng lửa, nghe người lạnh phát run, còn khi lửa thắng nước, nghe nóng bức, nhức đầu, khó chịu. Lúc nóng phải tìm thứ gì mát uống vào để giảm nhiệt độ, hạ lửa xuống cho quân bình với nước. Lúc nước nhiều, lửa thiếu lại phải tìm thứ gì nóng uống vào để nâng lửa lên, hạ nước xuống cho quân bình. Khi gió mạnh quá, đất chịu không nổi, vì gió thổi đất rung rinh nên ê mình, lúc đó phải cạo gió. Cạo gió một lát mình bầm hết, gió bớt, đất quân bình trở lại nên hết đau.
Bốn chất đất, nước, gió, lửa cứ công kích nhau luôn, chúng ta lại là người chủ điều hòa chúng. Cả ngày làm việc này, việc kia nhưng thường chú ý đến bốn đại, xem hôm nay mình lạnh hay nóng, có bị gió hay không, nghĩa là vừa thấy trong người hơi lạ là chuẩn bị mời thầy thuốc hoặc gọi người này, người kia đánh gió liền. Như vậy từ khi bắt đầu hiểu biết cho đến ngày chết, việc làm của chúng ta chỉ là điều hòa bốn đại thôi!
Ông chủ điều hòa bốn con rắn kia nhọc nhằn từ ngày này qua tháng nọ nhưng rốt cuộc có điều nổi không? Vì chúng chống trái nhau nên đến một lúc nào điều hòa không nổi, chúng cắn nhau kịch liệt rồi chạy tứ tán và khi đó ông chủ hết việc. Cũng thế, đất, nước, gió, lửa công kích nhau đến hôm nào một thứ mạnh quá, chúng ta điều không nổi thì lúc đó tan rã ra, mỗi thứ một nơi. Khi ấy chúng ta ra sao? Chết! Như vậy xét thật kỹ, từ khi chúng ta bắt đầu khôn ngoan một chút cho đến tuổi già, suốt quãng đời đó chúng ta thấy quả là đáng buồn, nghĩa là suốt đời chúng ta cố gắng lo cho có thứ này thứ kia, làm việc này việc khác cũng đều nhằm bồi dưỡng cho tứ đại. Thở là bồi dưỡng cho gió, uống là bồi dưỡng cho nước, ăn là bồi dưỡng cho đất, khi uống lựa chất nóng uống vào, khi ăn lựa chất ấm ăn vào là bồi dưỡng cho lửa. Thế thì cả ngày chúng ta chỉ làm bao nhiêu việc đó. Nếu khi nào cổ như có gì ngăn, hơi thở không thông thì phải kiếm thầy làm cho nó thông. Khi nào ăn uống thiếu chất nóng thì sanh bệnh lạnh, thiếu chất mát thì sanh bệnh nóng, cứ phải lo bồi dưỡng điều hòa cho chúng quân bình. Nhưng chúng ta bồi dưỡng có xong không? Đến một thời gian nào đó chúng cũng phải rã, phải tan nát. Chúng ta làm việc này giống như người điều hòa bốn con rắn vậy. Thế nên ngày xưa, Thiền sư Đại Xả ở Việt Nam có bài kệ về bốn con rắn như thế này:
Tứ xà đồng khiếp bản lai không,
Ngũ uẩn sơn cao diệc bất tông,
Chân tánh linh minh vô quái ngại,
Niết-bàn, sanh tử nhậm già lung.
Dịch:
Bốn rắn chung rương trước giờ không,
Núi cao năm uẩn đâu chủ ông?
Chân tánh sáng ngời không chướng ngại,
Niết-bàn sanh tử mặc che lồng.
Qua bài kệ này chúng ta thấy ngài Đại Xả căn cứ trong kinh Niết-bàn nói về bốn con rắn. Bốn con rắn đó ở chung trong một cái rương hay một cái chậu. Trước khi bỏ vào chậu, chúng có ở tại chậu chưa? Chưa, vì mới đem bỏ vào nhưng khi ở trong chậu rồi chúng nó lại công kích, phá phách lẫn nhau. Đây là nói khi tứ đại chung hợp trong sự chống nghịch nhau.
Đến câu thứ hai Ngài nói: “Núi cao năm uẩn đâu chủ ông?” Thân năm uẩn là cộng cả sắc và thọ, tưởng, hành, thức, tức là vật chất và tinh thần. Khó có người biết trong năm uẩn cái gì là Ông chủ, nhưng thật ra trong năm uẩn này vẫn có Ông chủ. Ông chủ đó là gì? “Chân tánh sáng ngời không chướng ngại”, nghĩa là ngay nơi mỗi người chúng ta đều có cái Chân tánh, Chân tánh đó gọi là Ông chủ, Chân tánh đó lúc nào cũng trong sáng, không có gì chướng ngại nó. “Niết-bàn sanh tử mặc che lồng”, dù cho có Niết-bàn dù cho có sanh tử, nhưng đối với Chân tánh đó không dính dáng, không trở ngại gì cả.
Qua bài kệ này, chúng ta thấy rõ ngài Đại Xả nêu lên hai việc: thứ nhất là nói bốn con rắn ở chung, thứ hai là nói thân năm uẩn vô chủ. Tuy nhiên trong cái vô chủ đó, nếu chúng ta sáng suốt thì sẽ tìm ra được cái chân thật. Cái chân thật đó là Chân tánh không bị trở ngại đối với sanh tử và Niết-bàn. Như vậy từ cuộc sống vô nghĩa, nếu khéo, chúng ta biến nó thành hết sức có nghĩa. Trên nhân gian này, giỏi như các thầy thuốc, họ biết được những gì thay đổi trong người nên gìn giữ, bồi dưỡng cho thân khoẻ mạnh, nhưng rốt cuộc các ông thầy thuốc cũng chết. Cả các thầy thuốc cũng phải chết thì người nào giữ được không chết? Nếu cả đời chỉ lo cho thân tứ đại, săn sóc nó nhưng cuối cùng không giữ được nó thì mới thấy công của mình thật là công dã tràng. Thế nên người thông minh sáng suốt phải thấy được điều đó, khi lo cho thân này, mình vẫn tìm được cái gì chân thật, cao siêu, như vậy mới khỏi luống uổng công mình. Đây là điều chủ yếu trong cuộc sống. Vua Trần Thái Tông có bài kệ “Tứ Sơn Khả Hại”:
Tứ sơn thiên bích vạn thanh tùng,
Liễu đắc đô lô nhất thiết không,
Hỉ đắc lư nhi tam cước tại,
Mạch kỵ đã sấn thượng cao phong.
Dịch:
Bốn núi ngàn tường muôn bụi rậm,
Tỉnh ra mới biết thảy đều không,
Mừng nay có được lừa ba cẳng,
Sấn ngược đường lên đỉnh tuyệt cùng.
Bốn núi là chỉ cho tứ đại: đất, nước, gió, lửa. Khi chúng tụ hội thì mịt mù như rừng rậm, kín mít như tường vách. Nhưng “tỉnh ra mới biết thảy đều không”, tỉnh rồi mới thấy tứ đại không thật. Biết tứ đại không thật rồi mới được điều đặc biệt. Ở đây Ngài diễn tả: “mừng nay có được lừa ba cẳng”, con lừa có mấy chân? Lừa bốn chân, nhưng Ngài được con lừa ba cẳng. Con lừa ba cẳng đó “sấn ngược đường lên đỉnh tuyệt cùng” tức là Ngài cỡi nó chạy tuốt lên trên đỉnh tột cùng của ngọn núi. Đây là lối nói nghịch lý của nhà thiền. Thân này do tứ đại hòa hợp, vì thấy nó rõ ràng cụ thể, sờ mó được nên chúng ta tưởng nó là thật, giống như tường vách, bụi rậm. Nhưng khi dùng trí tuệ quán xét đến cùng thì thấy nó không thật, chỉ là giả tướng duyên hợp thôi. Tuy nhiên trong giả tướng không thật đó lại còn có cái chân thật vượt ngoài bình thường, chính là lừa ba cẳng mà Ngài nói ở đây. Và chính cái phi thường đó, khi chúng ta nắm được rồi mới vượt lên, mới thoát khỏi cái khổ của tứ đại, mới vượt khỏi sự tiêu mòn biến hoại của tứ đại, vì thế Ngài nói là lên được đỉnh tuyệt cùng.
Tóm lại trên đường tu, nếu biết rõ thân tứ đại không thật, chúng ta mới có thể vượt lên, mới có thể thoát khỏi nó. Trái lại, nếu nghĩ tứ đại này là thật, cả ngày cặm cụi lo bồi dưỡng cho nó được đầy đủ, rốt cuộc công lo lắng của mình chỉ là công dã tràng. Đây là điều mà trong đạo luôn luôn nhắc nhở để chúng ta tránh những việc làm tốn công vô ích, không đem lại kết quả. Nói thế không có nghĩa chúng ta bỏ nó hay hủy hoại nó, mà phải nuôi nó trong lẽ bình thường, đừng quá trọng cũng đừng quá khinh, để mượn nó tìm ra Ông chủ chân thật.
Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ có bài:
Đốn tỉnh
Đoạn tri không hữu bất tương soa,
Sanh tử nguyên tùng nhất phái ba.
Tạc dạ nguyệt minh kim dạ nguyệt,
Tân niên hoa phát cố niên hoa.
Tam sanh thúc hốt chân phong chúc,
Cửu giới tuần hoàn thị nghị ma.
Hoặc vấn như hà vi cứu kính,
Ma-ha Bát-nhã tát-bà-ha.
Dịch:
Chợt tỉnh
Chớ rằng không có khác nhau xa,
Sống chết cùng chung mạch nước mà.
Năm cũ hoa cười, hoa năm mới,
Đêm này nguyệt sáng, nguyệt đêm qua.
Ba sanh chớp nhoáng lằn phong chúc,
Chín cõi xoay vần bóng nghị ma.
Ví hỏi rằng sao là cứu cánh,
Ma-ha Bát-nhã tát-bà-ha.
Trúc Thiên
Chớ rằng không có khác nhau xa, sống chết cùng chung mạch nước mà. Đừng nghĩ rằng sanh tử cũng như có không khác nhau. Chính sanh tử, có không cùng chung một loại, cũng như là cùng chung một mạch nước. Tại sao? Nếu hiểu được lý luân hồi chúng ta sẽ thấy khi tử đó là nhân của sanh, khi sanh đó là nhân của tử, do có sanh nên phải có tử, do có tử nên phải có sanh. Sanh và tử thấy như hai việc khác nhau nhưng cả hai cùng một mạch, cái này làm nhân cho cái kia, vậy thì hai cái không khác mà là cùng nguồn.
Đây hình ảnh Ngài dụ rất đẹp: “Năm cũ hoa cười, hoa năm mới, đêm này nguyệt sáng nguyệt đêm qua”, nghĩa là hoa cười hay hoa nở của năm ngoái tức là đóa hoa nở của ngày hôm qua. Sáng hôm qua chúng ta thấy những nụ mai chớm nở, sáng ngày nay là năm khác thì chúng ta thấy các nụ hoa nở tròn, như vậy đóa hoa nở tròn hôm nay là từ nụ hoa chớm nở của hôm qua. Hôm qua và ngày nay tuy nói năm cũ và năm mới nhưng hôm nay đâu có rời hôm qua. Cũng như thế, đêm rằm trăng sáng, đến đêm mười sáu trăng cũng sáng. Trăng đêm rằm và trăng đêm mười sáu như là hai trăng nhưng phải hai không? Trên ngôn ngữ chúng ta thấy như hai cái khác biệt nhưng trên thực tế hai cái liên hệ nhau, chớ không tách rời nhau.
“Ba sanh chớp nhoáng lằn phong chúc.” “Phong” là gió, “chúc” là cây đuốc. Thường chúng ta hay nói đèn treo trước gió hay cây đèn cầy cầm ra ngoài gió, đèn trước gió thì dễ tắt lắm! “Ba sanh” là chỉ cho kiếp sống của con người, nhanh như cây đèn cầy để trước gió, làn gió thổi mạnh qua nó tắt liền, không ai giữ được. Trong khi đang sống, cuộc sống của chúng ta tưởng như là vững lắm, thật lắm, nhưng một cái sơ sảy, một luồng gió độc có thể làm hoại nó ngay, không ai lường trước được, nên Ngài diễn tả nó giống như là ngọn đèn treo trước gió hay là cây đèn cầy ở trước làn gió mạnh, không có gì bảo đảm.
“Chín cõi xoay vần bóng nghị ma”, “nghị” là con kiến, “ma” là cối xay. Con kiến bò trên miệng cối, nếu nó cứ bò vòng theo chiều đó thì chừng nào ra khỏi? Cứ bò vòng vòng, rốt cuộc rồi cũng trở lại điểm đầu. Nếu nó muốn ra khỏi thì phải bò xuống chớ cứ bò theo chiều vòng đó mãi thì dù cho bò một ngày, hai ngày cũng chỉ chừng ấy thôi. Cũng thế nếu chúng ta cứ mê chấp thân này là thật, cảnh này thật, chúng ta phải bị xoay vần trong lục đạo luân hồi, hay là trong cửu đạo luân hồi giống như con kiến bò trên miệng chén, cứ đảo qua đảo lại không biết ngày nào ra khỏi. Nay muốn thoát ra phải làm sao? “Ví hỏi rằng sao là cứu cánh” làm sao được chỗ cứu kính thoát ra khỏi vòng lẩn quẩn đó? Ngài nói “Ma-ha Bát-nhã tát-bà-ha”, nghĩa là phải trở về cái trí tuệ lớn lao chưa bao giờ bị kẹt trong vòng phân biệt sanh diệt. “Ma-ha” là lớn, “Bát-nhã” là trí tuệ, “tát-bà-ha” là chỉ cho tiếng lặp lại ma-ha-tát-đỏa tức là chỉ cho trí tuệ của Bồ-tát. Trí tuệ rộng lớn của Bồ-tát là trí tuệ đưa chúng ta đến chỗ cứu kính, thoát ra khỏi vòng lẩn quẩn trong chín cõi, chỗ bền bỉ, không dễ bị thổi tắt như ngọn đèn trước gió.
Tóm lại, ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ muốn nhắc nhở: Ở thế gian, người ta mừng khi sống và sợ khi chết, ngày sanh thì ăn mừng, ngày chết là ngày giỗ, đó là ngày buồn, ngày húy kỵ. Nhưng thật ra, nếu còn trong dòng luân hồi thì sống chết chỉ là nhân và quả, cả hai hỗ tương nhau, không tách rời được, không riêng có sống mà không chết, không riêng có chết mà không sống, cả hai cùng chung một mạch. Lại nữa thân này quá tầm thường, tạm bợ, ngắn ngủi nên đừng nghĩ rằng mình sẽ sống lâu, phải nhớ rằng thân này mỏng manh lắm, ngày nào còn sống, chúng ta phải làm những gì hay, tốt để lợi mình, lợi người, chớ đừng quá nuông chiều giữ gìn nó, rốt cuộc không giữ được chỉ là uổng công. Nếu không khéo tu chúng ta phải luân hồi trong chín cõi như con kiến bò trên miệng cối, nhọc nhằn vô ích! Thế nên mỗi người phải sớm thức tỉnh, làm sao mở mang được trí tuệ cao cả của Phật, Bồ-tát, để thoát khỏi vòng lẩn quẩn trong chín cõi.
Thật thế nếu trọn cuộc đời chúng ta chỉ lo ăn ngon, mặc đẹp, sống vui, cuối cùng rồi chết thì có gì cao thượng đâu? Trái lại nếu chúng ta tìm được, thấy được cái gì chân thật hơn ngay trong tứ đại chống đối thù nghịch này, khi ấy chúng ta mới có một hướng vươn lên, như tôi vừa nói: Được con lừa ba cẳng mới vươn lên đến tận đỉnh núi tuyệt cùng. Vì lẽ đó, tất cả mọi người, nhất là Phật tử chúng ta, là những người quyết chí tiến lên, không để dục lạc thế gian lôi cuốn, nhận chìm trong dòng sanh tử. Trong khi điều hòa tứ đại, chúng ta phải khéo tìm ra cái gì cao thượng hơn, siêu thoát hơn để không phải khổ đau khi mất thân này. Chiếc thân tạm bợ mong manh như đèn trước gió, dù cố gắng gìn giữ cũng chỉ là công dã tràng! Chúng ta là những người đã biết tu tỉnh, biết kính trọng Tam Bảo, biết hướng về con đường giác ngộ giải thoát thì phải ngay nơi bốn con rắn của mình, tìm thấy được cái chân thật, vì đó là cửa để tiến đến giác ngộ giải thoát.
Hôm nay là ngày đầu năm Kỷ Tỵ, quí Phật tử đến chùa lễ Phật, thăm quí thầy. Đó là điều rất tốt nhưng chưa đủ, quí vị còn phải thức tỉnh, để biết ngay trong thân tứ đại còn có cái bất sanh bất diệt. Được như thế thì sự có mặt của chúng ta ở thế gian này mới không phí uổng. Mong rằng trong năm mới này, Tam Bảo sẽ gia hộ cho tất cả quí Phật tử, được nhiều điều an vui, gia đình được hòa thuận, tin yêu, đối với xã hội, mọi việc đều vẹn đủ, và đối với việc tu hành thì năm nay quí Phật tử sẽ tinh tấn nhiều hơn năm trước. Đó là lời chúc lành và niềm mong mỏi của chúng tôi.
Thanh Từ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét