TẬP TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN MINH TIẾN hiệu đính và giới thiệu
NGUYỄN MINH TIẾN hiệu đính và giới thiệu
LỜI GIỚI THIỆU
Những năm gần đây, có một dấu hiệu rất đáng mừng là các tác phẩm Phật học đã xuất hiện ngày càng nhiều và hết sức phong phú, từ những trước tác của các vị đại sư cho đến các bản dịch giáo pháp từ Anh ngữ, Hán ngữ; từ những bài giảng dành cho người sơ cơ đến những tác phẩm nghiên cứu Phật học chuyên sâu; từ các sách giảng luận về Tịnh độ, Thiền tông cho đến Mật tông đều có đủ và thường xuyên gia tăng số lượng. Vì thế, người Phật tử đã không còn phải khó khăn trong việc tìm kiếm và chọn lựa món ăn tinh thần thích hợp với mình.
Tuy nhiên, có một thực tế là những tác phẩm văn chương Phật giáo dường như vẫn còn khá ít ỏi. Người ta vẫn phải tìm đọc Thơ văn Lý Trần hay Quy nguyên trực chỉ như những tác phẩm văn học Phật giáo vô cùng hiếm hoi sót lại từ xưa, trong khi những sáng tác văn học Phật giáo gần đây vẫn còn khá hạn chế.
Trong bối cảnh đó, tôi rất vui khi nhận được tập bản thảo này từ tác giả với lời đề nghị nhờ đọc lại. Quả thật, với một bút pháp nhẹ nhàng, trong sáng và mang đậm chất giọng Nam bộ, nữ tác giả xuất thân từ miền quê Đồng Tháp này đã chia sẻ với chúng ta rất nhiều những suy tư, trăn trở qua vốn sống thực tế của chị. Vì thế, tôi hy vọng tuyển tập truyện ngắn này sẽ góp phần đáp ứng được nhu cầu học hỏi và tu tập của người Phật tử thông qua sự thưởng lãm văn chương Phật giáo, một nhu cầu chính đáng và đang ngày càng gia tăng đặc biệt trong lớp trẻ hiện nay.
Hy vọng tác phẩm này sẽ mang đến cho người đọc không chỉ là những phút giây thư giãn đơn thuần, mà còn là những tư tưởng sâu sắc, những cảm xúc yêu người thương đời được tác giả gửi gắm qua ngòi bút, có thể giúp mỗi người chúng ta luôn nỗ lực vươn lên để sống tốt đẹp hơn, hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả.
NGUYỄN MINH TIẾN
BÓNG RÂM
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu, mà lung linh dễ thương như những đốm bùn khô nổi bật trên chiếc áo nâu của chú điệu Quảng Tâm hôm nào.
Chú đang ngồi dưới một gốc me, tay cầm đoạn trúc nhỏ xíu quẹt lên mặt đất mấy chữ nho to tướng. Thầy phạt chú vì cái tội bỏ công phu chiều chạy ra đồng thả diều. Rồi sợ, lội tắt qua mương vườn bà Ba Kính để về chùa. Nhưng mấy lùm cỏ trong mương hại chú, chúng vẽ lên cái áo của chú mấy chục đốm bùn, về tới chùa thì bùn khô lại, cứ nổi rõ trên nền nâu như lời tố cáo chính xác. Thế là chú phải quỳ hương. Quỳ chút xíu thôi, Thầy chỉ muốn cảnh cáo. Nhưng sợ nhất là phải học thuộc hàng đống chữ nho.
Chú cắm cúi viết. Chỏm tóc trước trán có một cái đuôi dài vắt qua mang tai cứ rớt xuống khi chú cúi đầu. Chú điệu một tay lo vắt tóc, một tay quẹt mạnh xuống đất. Đất mùa hè cứng như đá, mà chú lại siêng quét sân nên chẳng có bụi bặm, đất tơi gì cả. Muốn chữ hiện lên thì phải viết thật mạnh. Chú điệu Tâm mím môi, vành môi đầy đặn và rất rõ, với một nhân trung dài và sâu chạy tới sống mũi. Sống mũi thẳng nhô lên giữa hai gò má trắng hồng, bầu bĩnh. Mỗi khi chú hờn dỗi thì má cứ như bầu thêm ra.
Mà chú cũng hay hờn dỗi lắm. Hôm nọ bà Ba Kính đến chùa xay bột để gói bánh cúng rằm, bà bắt chú xay giúp. Đôi cánh tay nhỏ bé của chú điệu đã rã rời mà bà Ba còn ca cẩm liên tục: “Lớn rồi, phải lo làm, lo tu, tối ngày cứ chạy nhong nhong. Đệ tử mà không giống Thầy gì hết...” Khi cái điệp khúc này được nhai lại lần thứ tư thì chú đứng phắt dậy. “Bà giỏi thì bà làm đi, còn tui hổng làm, hổng tu gì hết!” Và chú bỏ luôn cái cối xay. Bà Ba Kính tru tréo lên: “Trời ơi, cái chú này quá sức rồi. Tôi phải méc Thầy để Thầy trị tội.” Tối đến, Thầy gọi chú điệu lên phương trượng: “Con có biết pháp danh Quảng Tâm của con mang ý nghĩa gì không?” “Dạ bạch Thầy, là cái tâm rộng lớn.” “Ừ, rộng lớn là quảng đại, hỉ xả nữa, chớ không nhỏ hẹp, hờn giận, sân si...” “Dạ, mô Phật.” Thầy thuyết pháp cho một hồi, và chú xin sám hối. Nhưng sau đó thì... chú thấy cái tâm của mình dù lớn đến đâu cũng chừa bà Ba Kính ra. Và bây giờ mỗi lần bà đến chùa làm công quả là chú tìm mọi cách né được chừng nào hay chừng ấy.
Chú điệu Quảng Tâm viết một hồi đã thuộc. Chú sợ những chữ nho rối tinh rối mù như những cọng rơm, nhưng không hiểu sao chú học lại rất nhanh, và khi học thì cũng rất thích. Thầy không khen tiếng nào nhưng hay xoa trán chú mỗi khi chú trả bài thuộc.
Chú chẳng hiểu trên trán chú có cái gì. Chú cũng lấy tay sờ trán, chỉ thấy nó tròn như đầu chú thôi. Cái đầu không một sợi tóc ngoại trừ cái chỏm phía trước, còn gọi là cái chóp. Đôi lúc chú bực bội, giận dỗi, bởi vì khi đi học thì lũ bạn thường chế giễu đầu chú không tóc, còn khi về chùa thì lại bị mấy bà Phật tử nắm chóp mỗi lần chú làm sai điều gì đó. Thà là có tóc hẳn, hoặc cạo hẳn như Thầy, còn đằng này... cái sự “có” và “không” ấy luôn hại chú.
Tuy nhiên, điều ấy chỉ thỉnh thoảng xảy ra, còn thường ngày chú vẫn cảm thấy thoải mái, nhất là được Thầy xoa trán thì chú rất thích, cứ muốn bàn tay ấm áp của Thầy để hoài trên đó. Cho nên dù sợ “những cọng rơm” kia nhưng chú vẫn cố gắng học với mong ước được bàn tay Thầy vỗ về. Nhiều lần chú thấy rõ mình ghen với điệu Vũ vì điệu Vũ được Thầy tỏ ra chăm sóc nhiều hơn. Một lần Vũ chạy chơi té trầy chân, Thầy rửa vết thương bằng nước muối, Vũ chảy nước mắt kêu rát, Thầy phải ngồi chúm miệng thổi phù phù cho Vũ hết rát, và hình như mắt Thầy cũng đỏ. Điệu Vũ kêu thèm bánh da lợn, sáng hôm sau Thầy nhờ bà Ba Kính đi chợ mua bánh da lợn về cho Vũ ăn.
Có lần chú mắng Vũ: “Mầy làm như Thầy là cha mầy không bằng nên bày đặt nhõng nhẽo.” Điệu Vũ ngơ ngác: “Cha là gì?” Chú sực nhớ, Vũ mới năm tuổi và nó ở với Thầy từ hồi nhỏ xíu, cũng gọi “Thầy” từ lúc bập bẹ tới giờ, làm sao nó biết cha là gì. Chú Quảng Tâm rất thương Vũ. Cái hồi Thầy ẵm Vũ về đây, Vũ mới biết chạy lon ton, chắc chừng non ba tuổi, còn chú đã lên bảy, thường lui tới chùa chơi. Đúng hơn là lui tới xách đồ của mấy bà Phật tử cúng dường hoặc thức ăn hằng ngày mà Thầy gởi mẹ chú đi chợ mua giùm. Trong cái giỏ đầy rau cải, nước tương, dưa leo đó luôn luôn có một túm bánh nhỏ dành cho bé Vũ. Khi thì bánh bò, lúc bánh chuối, bánh da lợn... những thứ rất phổ biến và rẻ tiền ở các chợ quê như quê chú, mà lại rất ngon, hấp dẫn. Chú vừa thấp thoáng ở cây bồ đề trước cổng chùa là bé Vũ đã chạy ra: “Anh Lựn, anh Lựn!” Hồi đó chú tên Luận nhưng bé Vũ phát âm đả đớt như vậy. Chú đưa túm bánh cho Vũ, chỉ đòi một điều kiện: “Hôn anh đi!” Cái miệng nhỏ xíu chúm lại in một dấu tèm lem lên má chú. Được nửa năm như thế thì anh Luận trở thành “sư huynh” của Vũ, với chóp tóc và bộ quần áo nâu y hệt, và mọi người gọi chú là “điệu Quảng Tâm” tức chú tiểu trong chùa.
Hai năm trôi qua, bây giờ Quảng Tâm vẫn nhớ cái ngày chú rời khỏi căn nhà quen thuộc để bước vào cửa thiền. Chiều hôm đó, Thầy hỏi chú: “Con có muốn ở luôn với Thầy không hở Luận?” Chú ngước đôi mắt to đen nhìn Thầy. Gương mặt xương xương vừa hiền lành vừa cương nghị, đặc biệt là đôi mắt dường như thường xa xăm, ẩn giấu một điều gì. Nhưng “điều gì” đó không làm cho người ta sợ mà còn gần gũi, trìu mến hơn. Giọng Thầy lúc nào cũng nhỏ nhẹ, ân cần, khi giận chỉ nghiêm khắc lại, chứ không hằn học, ác cảm. Ngày nào chú cũng gặp Thầy, thậm chí ăn cơm với Thầy nhiều hơn với mẹ, rồi như một thói quen, một sức hút, chú cứ ở miết trong chùa. Thế là chú gật đầu không do dự.
Và sáng hôm sau, bà ngoại và mẹ dẫn chú sang chùa. Mẹ khóc, khóc nhiều lắm. Chú không hiểu tại sao mẹ khóc. Thì chú ở chùa, chạy về nhà chơi, cũng như ở nhà chạy qua chùa chơi, có khác gì đâu. Thằng Bình em của chú cũng trạc tuổi Vũ, vẫn tha hồ đùa giỡn với anh kia mà. Sao mẹ lại khóc nhỉ? Còn bà ngoại mắt đỏ hoe nhưng miệng lại cười. Bà ngoại cất cốc riêng, ở một mình tụng kinh niệm Phật, cạo đầu, mặc áo nâu, cho nên bà rất ủng hộ việc đưa chú đến chùa. Nhưng sau này chú mới lờ mờ đoán ra lý do mẹ phải khóc, khi trong nhà xuất hiện người cha dượng. Ngoại thủ thỉ cùng chú: “Con phải thương mẹ, một thân một mình nuôi con với em Bình mấy năm nay, giờ sức mẹ yếu đuối phải tìm người nương tựa. Con về với Thầy, thì dượng mới nuôi nổi em Bình, đó cũng là con thương em.” Chú gật đầu. Bao giờ mà chú không thương mẹ, thương em.
Nhưng rồi sau đó, chú nhận ra đã có một cái gì đổi khác trong lòng chú. Trước kia chú vẫn thường bị đòn, bị la nhưng chú khóc xong lại quên ngay. Còn bây giờ, mỗi khi bị mấy bà Phật tử sai phái, rầy mắng, hoặc cốc lên đầu, hoặc nắm chóp là chú giận mẹ.
Tại sao mẹ lại bỏ chú vào chùa để người ta xem chú như con mồ côi, ai muốn hiếp đáp gì cũng được? Mà chú có khác gì con mồ côi? Chú thấy tủi thân. Mẹ gần đó mà đâu còn gặp gỡ, nâng niu thường xuyên nữa. Mẹ lại có con với dượng, suốt ngày tất bật lo toan, dường như vẫn nghèo vẫn khổ. Còn cha chú? Đó là một người đàn ông chỉ còn những nét rất mờ nhạt trong trí nhớ non nớt của chú. Nghe nói, khi mẹ có bầu em Bình thì cha mẹ cãi nhau một trận kịch liệt, rồi cha bỏ đi. Tưởng rằng cha giận, đi vài hôm sẽ về, ai ngờ biền biệt từng ấy năm. Lại nghe đâu chết hay mất tích trong chiến trường miền Trung.
Mẹ giận cha, rồi chờ đợi, rồi tuyệt vọng. Bây giờ mẹ đã yên phận. Nhưng lòng chú thì bắt đầu không yên. Chú chợt tin rằng cha không chết, cha vẫn còn sống, và ngày nào đó chú sẽ được gặp cha. Không, chú phải được gặp cha, vì chú cần cha lắm, chú thèm được cha ôm vào lòng, cha chơi với chú, nói chuyện với chú, và nhất là cha bảo vệ chú không cho mấy bà Phật tử ăn hiếp chú. Ý nghĩ ấy, khao khát ấy lớn lên thật nhanh, và cháy bỏng. Đến nỗi ai nói gì có tiếng “cha”, chú cũng giật mình. Nhưng chú không rời bỏ niềm hy vọng. Chú nuôi dưỡng nó từng ngày, âm thầm không nói cho một ai hay biết. Rồi sẽ có một ngày...
Quảng Tâm quăng đoạn trúc đã mòn vẹt đầu, lấy chân xoa xoa mặt đất để xóa những chữ vừa viết. Nắng vẫn còn rất cao, chắc chỉ khoảng ba giờ. Mấy con chim chợt cất tiếng hót véo von. Sân chùa nhiều cây, lũ chim vẫn làm tổ và hót cả buổi sáng lẫn buổi trưa. Nhất là buổi trưa, hoàn toàn vắng lặng, thì tiếng chim càng rõ, càng ru hồn. Xa xa gần chỗ hồ sen có một cái võng đan bằng cọng chuối, cũ kỹ mà rất dai rất chắc, là nơi Thầy thường ra nằm tránh oi bức của mùa hè dội xuống lớp ngói trong chùa. Sen tháng này nở nhiều, đỏ hồng hồng, và thoang thoảng hương thơm mỗi khi có ngọn gió phất qua. Trong chùa, Thầy trồng nhiều loại bông mà loại nào cũng có mùi thơm. Bông trang, bông huệ, bông sứ... Mỗi thứ một ít cây, nhưng trộn hương vào nhau làm người cứ lâng lâng, thanh thoát. Chú điệu Quảng Tâm liếc nhìn chỗ mắc võng, đã thấy bóng áo nâu của Thầy phất phơ. Chắc Thầy đang đọc sách, những cuốn sách chữ nho dày cộp chất đầy một tủ, chú không biết rõ đó là kinh, hay luật, hay luận, chắc là đủ cả ba, và Thầy đọc mãi chẳng biết bao giờ thì hết. Ban ngày Thầy đọc sách, trồng rau cải, bầu bí, tưới hoa, ban đêm Thầy tụng kinh xong lại ngồi thiền hoặc viết lách gì đó đến thật khuya. Còn chú thì đi học ở trường, về chùa trông coi em Vũ, tiếp Thầy nấu cơm, dọn cơm cúng Phật, rồi tụng kinh, học kinh. Bấy nhiêu việc cứ đều đều xoay quanh, nhàn nhã mà không rảnh rỗi cho cả hai Thầy trò. Cứ như con nước, chảy chứ không được dừng, chảy đều, chảy mãi...
Nhưng hôm nay chú điệu Quảng Tâm thấy Thầy đã ra nằm võng, vội vàng chạy lách qua hông chùa, luồn lên chánh điện. Lớp gạch lâu năm bóng và mát lạnh áp vào lòng bàn chân làm chú tỉnh táo hẳn. Chú đến kệ đựng kinh, lục tìm cuốn kinh Địa Tạng, rồi ngồi xếp bằng trước bàn thờ Phật. Chú mở kinh ra, đúng chỗ đã đánh dấu, bắt đầu đọc tụng. Hôm nay chú quyết phải tụng cho được hai phẩm. Không thể chậm chạp, kéo dài mãi được. Càng kéo dài, càng lâu đến mục đích mà chú đang chờ đợi. Bởi hôm nọ khi tụng đến một đoạn trong kinh, chú giật mình. Ý kinh nói rằng: ai trì tụng thành tâm kinh này thì nếu cha mẹ chết hoặc cha mẹ thất lạc mà không biết mặt, sẽ được gặp gỡ trong giấc chiêm bao. Chú mừng rỡ quá. Trời ơi, vậy mà bao năm ở trong chùa chú không chịu đọc kinh này sớm hơn, nếu thực hành trì tụng thì đã có thể gặp mặt cha rồi. Bây giờ chú sẽ thực hiện, thực hiện ngay. Còn quên, khi trì tụng kinh, phải đặt một chung nước nhỏ lên bàn Phật, tụng xong, uống chung nước ấy, thì hình ảnh cha mẹ mới đến được trong giấc chiêm bao. Chú nghĩ, chung nước nhỏ tí chỉ gặp mặt chút xíu, hay là rót một ly cối lớn để Phật cho chú gặp cha lâu hơn. Thế là chú đã bị một trận căng bụng đến gần nôn ói, nhưng chú cũng ráng ngậm miệng, nín hơi không cho một giọt nước nào văng ra. Vậy mà không hiểu sao tối hôm đó chú cũng không mơ thấy cha.
Chú không dám nghĩ rằng Phật không linh, kinh không linh, mà chỉ dám nghĩ có lẽ do chú chưa được thành tâm lắm, chưa tập trung tư tưởng lắm. Và cũng có thể phải phát nguyện trì tụng rất nhiều lần mới có kết quả. Như Thầy đã từng phát nguyện trì 100 lần bộ kinh Pháp Hoa để chấn hưng ngôi chùa hoang sơ này. Suốt ba năm Thầy giữ đúng lời phát nguyện, giờ thì ngôi chùa mới được khang trang hơn, đạo hữu đoàn kết, tiến bộ hơn. Vậy chú phải làm như Thầy. Nhưng chú không dám phát nguyện trì tụng 100 lần, vì chú nóng ruột lắm, muốn thấy mặt cha lắm. Cho nên hôm nào chú cũng rót một ly nước nhỏ, và uống, với hy vọng sẽ nằm mơ... Chú còn tranh thủ tụng kinh vào buổi trưa khi Thầy ra võng đọc sách, và ban đêm khi Thầy đã vào phòng.
Mấy hôm nay chú ít ngủ hẳn, nhưng chú cố gắng, cố gắng. Bởi ý muốn được gặp cha nung nấu hơn khi tình cờ, ngày hôm kia, chú nghe mấy bà Phật tử nói với nhau nho nhỏ sau bếp: “Hình như điệu Vũ là con của Thầy. Sau khi lỡ lầm với một người, Thầy ăn năn sám hối, nên ẵm con về vùng đất xa xôi này, lánh hết người đời, quyết chí tu hành trở lại.” Bà khác nói: “Không phải đâu, bổn sư giao nhiệm vụ cho Thầy về đây chấn hưng ngôi cổ tự. Còn bé Vũ là do Thầy lượm được. Đúng hơn, Thầy phát hiện một cô gái đang định bỏ rơi con mình dưới mái hiên ngôi nhà sang trọng. Cô gái thấy Thầy, liền khóc lóc năn nỉ Thầy nuôi giùm đứa con của một cuộc tình trẻ dại. Cầm lòng không đậu, và nghĩ rằng đứa bé có duyên với Phật pháp, Thầy đem về chùa nuôi. Đến khi lên đường nhận nhiệm vụ mới, Thầy cũng ẵm Vũ theo.”
Lời của mấy bà Phật tử khiến chú càng bàng hoàng. Tất cả đều chỉ là ức đoán, nghi ngờ, không ai dám kết luận điều gì. Nhưng thực ra họ chỉ nói thoảng qua rồi thôi, chứ ai cũng rất thương Thầy vì đạo hạnh từ bi, và rất mừng khi Thầy trụ lại ở vùng quê này, có tiếng chuông ngân nga cho thôn xóm ấm cúng hơn. Cho nên chẳng ai mấy bận tâm. Duy chỉ có chú điệu Quảng Tâm, từ hôm đó, không hiểu sao chú cứ muốn nghĩ rằng Vũ là con của Thầy. Chú cứ muốn tin như thế. Hèn chi mà Thầy có vẻ thương yêu chăm sóc Vũ hơn chú. Hèn chi mấy bà Phật tử không dám ăn hiếp Vũ. Chú đâm ra “nể” điệu Vũ. Vì điệu Vũ có cha. Còn chú thì không. Cho nên chú càng nung nấu ước mơ tìm gặp được cha. Cha ơi, bây giờ cha ở đâu? Bao lần chú tự kêu lên trong lòng câu ấy.
Và nước mắt hay chảy ra ướt đẫm cả tay áo nâu cũ kỹ mà chú úp mặt vào.
- Điệu Tâm đâu rồi? Dọn cơm cúng đi con!
Tiếng Thầy cắt ngang lời tụng ê a nho nhỏ của chú. Chú lật đật cất cuốn kinh rồi chạy xuống nhà bếp. Chú lăng xăng tiếp Thầy xếp những chén cơm nhỏ xíu vào mâm để bưng lên chánh điện. Công việc này là của chú. Chợt chú sực nhớ ly nước chưa kịp uống. Chú quýnh quáng định chạy đi, thế là tay áo vướng vào mâm, một cái chén rớt xuống bể tan tành. Thầy nhìn chú, hơi cau mày: “Con sao vậy?” “Dạ, con... con...” “Lượm lên đi, vô tủ lấy cái chén khác.” Chú xịu mặt bước đi. Rồi Thầy sẽ phạt chú cho xem, vì chén này có nguyên bộ, khá đắt tiền, do một Phật tử ở Sài Gòn cúng dường. Nay lấy cái khác thay vào, sẽ kém đẹp, kém giá trị đi. Trong một lúc, chú quên mất ly nước của mình.
Tối nay, chú lại ngồi đóng chuông. Dùi chuông bằng gỗ dài, nặng, được treo trên những sợi dây, chú chỉ vịn vào rồi đẩy nhẹ cho đầu dùi chạm vào chiếc đại hồng chung. Mỗi tiếng chuông ngân lên, chú phải niệm một câu kệ.
Nhưng tối nay, chú nhấp nhổm ngồi không yên. Chú chờ Thầy gọi đến để nghe Thầy giảng về oai nghi của người tu hành, phải đi đứng khoan thai, cẩn thận, đàng hoàng, thanh thoát, vân vân và vân vân. Chú biết hết, đã học rồi, nhưng mà... có những lúc đành phải phạm lỗi như thế. Chú nghĩ ngợi, đến Thầy, đến ly nước, đến phẩm kinh đang tụng dở dang, đến giấc chiêm bao, và miệng vẫn ê a những câu kệ thuộc lòng... Nhưng mắt chú bắt đầu díp lại, nặng trịch. Mấy hôm nay chú thức quá nhiều. Chú cố mở mắt ra, cố đọc. Nhưng rồi không cố được nữa, chú gục xuống.
Thầy trong phòng, chợt nghe tiếng chuông vắng bặt. Chờ một hồi lâu, Thầy bước lên chánh điện. Chú điệu Quảng Tâm đang ngả đầu lên dùi chuông, cái trán cao thông minh sáng dìu dịu dưới ánh đèn từ bàn Phật chiếu xuống, chiếc áo nâu có một miếng vá trên vai không làm mất đi nét tròn trĩnh đáng yêu của cái lưng nhỏ bé. Thầy nhẹ nhàng đỡ lấy chú. Chú vẫn ngủ say. Thầy bồng chú lên, rời khỏi chánh điện. Đầu chú áp vào ngực Thầy, còn cánh tay Thầy quàng chặt chiếc lưng mềm của chú. Thầy nhẹ nhàng đặt chú xuống chiếc đơn, bên cạnh điệu Vũ cũng đang ngủ say sưa.
Kéo cái mền đắp cho hai đứa, tấn lại mí mùng, xong Thầy trở về phòng mình.
Chú điệu Quảng Tâm vẫn ngủ, và rõ ràng trong giấc mơ của chú có một người đàn ông hiện ra. Nhưng người đó thoắt ẩn thoắt hiện. Và trong giấc mơ cứ chập chờn, chập chờn... Ngoài hè, trăng đã lên cao, rất sáng, mà con chim đêm nào đó chừng vẫn lạc bầy hay sao mà kêu mãi miết... BÓNG THỜI GIAN
Tết năm nay, vé xe tăng giá, chuyện làm ăn lại eo hẹp nên tôi định không về quê. Nhưng rồi vẫn về. Vì những bông cúc nở sao mà xốn xang. Tiếng còi xe nửa đêm sao mà thúc giục. Và một chút gió se se cuối mùa sao mà cô đơn...
Quê chẳng còn ai là họ hàng ngoài bà chị con của người dì ruột. Nhưng tôi cũng đâu có ở yên trong nhà chị. Thăm hết người láng giềng này tới người bạn học kia, rồi cô giáo, thầy giáo cũ... Hết vèo ba ngày Tết lúc nào chẳng hay. Đi đâu cũng thấy nụ cười và những lời chúc xuân vồn vã, làm ấm lòng kẻ tha phương...
Còn một ngày cuối cùng, tôi chợt nhớ đến chùa Hội An. Tôi bảo anh xe lôi: “Ghé giùm chỗ này, tôi vẫn trả tiền nguyên cuốc xe cho anh.” Nhìn tấm bảng trên chùa, trông lại bộ quần áo “thị thành” của tôi, anh xe lôi hơi ngỡ ngàng: “Chị quen ai trong đó?” “Tôi quen thầy trụ trì.” “Thầy đi khỏi rồi chị ơi. Tôi mới chở ổng nè, chuyến về mới gặp chị đó.” Tôi cụt hứng, rồi tặc lưỡi: “Thôi, vô thắp nhang một chút.” Anh xe lôi bỏ tôi xuống vệ đường, bên cạnh đám cỏ xanh um chen mấy chùm hoa nổ tím ngát, không quên dặn vói theo:
“Đường mới đổ gạch lổm chổm, chị đi coi chừng trật chân.” Tôi mỉm cười cám ơn. Đường đổ gạch, nhưng chỉ một đoạn ngắn, chỗ có mấy căn nhà mới cất liền nhau màu vôi còn trắng tinh, ngói đỏ au và cửa gỗ hăng hăng mùi vec-ni. Đi khỏi quãng đó, cánh đồng hiện ra như cũ, quen thuộc đến nhức mắt. Lúa đông xuân chưa gặt, đang trĩu bông hườm hườm vàng, thả vào trong gió mùi thơm nhẹ mang hơi sữa. Cánh đồng không lớn lắm, lại bị cắt ngang bởi một hàng trâm bầu mát dịu. Hồi nhỏ, tôi và đám bạn đi mót lúa thường ngồi nghỉ chân dưới hàng trâm bầu, tay xốc cái thúng con, đọ xem đứa nào mót được nhiều nhất. Mười lăm năm sau, em trai tôi nằm nghỉ giấc ngàn thu nơi đó. Rặng trâm bầu kéo dài đến tận con mương giáp ranh với mảnh đất chùa dành làm nghĩa địa. Em tôi được sư ông cho nằm ở hàng ngoài cùng, chỉ cần tôi búng chân nhảy qua con mương là tới mộ của nó. Bóng trâm bầu cố vươn qua che một khoảng mát cho em. Má tôi đã về quê từ hôm rằm, dọn cỏ mộ sạch sẽ, rồi trở lên thành phố trông nhà cho tôi. Bây giờ tôi chỉ việc thắp nhang. Khói nhang bay lảng bảng vào bóng chiều, từng cuộn bị xé nhỏ ra, mỏng dần, mỏng dần, rồi mất hút vào ngọn gió đồng. Chỉ có lá lúa cọ vào nhau xào xạc. Nhẹ rơi vài lá trâm bầu vàng úa còn sót lại của mùa thu hiếm hoi phương Nam...
Tôi lại men theo bờ thửa, băng ngang đám ruộng trở vào con đường cũ. Đất được giậm bằng phẳng, xe đạp, xe honda tha hồ chạy. Màu đất nâu hóa trắng vì thời tiết mùa khô. Cái màu nâu trắng ấy uốn lượn vài lần rồi chui thẳng vào một vòm cây xanh thẫm. Trên đầu tôi chỉ thấy lá và lá, còn bên phải, bên trái lại nhấp nhô những hàng rào dâm bụt nở bung những cánh hoa đỏ tòn ten một chuỗi phấn vàng. Này là nhà bà Mười Gió, kế đến nhà ông Tư Hờn, chú Bảy Rết, bà Hai Hên... Tôi nhẩm đếm những cái tên rất quen trước khi đặt chân lên chiếc cầu nhỏ. Đâu đó đã nghe vẳng tiếng chuông chùa.
Vâng, chỉ bước qua cây cầu thôi là thấy một thế giới khác. Bên đó, con đường thu hẹp lại, quanh co, nhấp nhô, khó đi, khó đứng. Bên đó, không còn nhà cửa san sát như bên này, mà chỉ có ngôi chùa nằm khuất sau cánh cổng gỗ nặng trịch. Tôi nhìn xuống chân cầu, nước trong xanh, chảy rất chậm, lác đác vài cánh hoa mai trôi theo, rung rung cái sắc vàng thay nắng chiều đang dần dần lặng xuống. Tôi nâng cánh cổng một cách dễ dàng. Thì ra không có khóa. Con đường chạy từ cổng đến chùa đã được tráng xi măng. Tôi đi xuyên qua một cái sân rất rộng đủ cả kỳ hoa dị thảo của ngày ấu thơ. Một hàng bông trang hoa trắng, hoa đỏ đứng trang nghiêm sát đường. Và chen vào vài cây điệp hoa vàng vàng cam cam với cuống hoa ốm tong đưa thẳng lên trời như một cây tăm.
Vậy chứ bông trang, bông điệp là thứ được dân trong xóm đến xin hoài. Cúng rằm, người ta cắt cành dài để cắm vào bình lớn. Cúng đầy tháng, thôi nôi, người ta cắt ngắn ngay cuống hoa rồi đặt vào 12 chiếc ly uống trà tượng trưng cho 12 bà mụ. Thậm chí, nhà có người vừa chết cũng xin bông trang về để bốn góc giường cho nhà sư tụng kinh. Sư ông chùa Hội An chăm chút đám bông trang, bông điệp này lắm, và hồi đó tôi thường thích thú hét vào tai ông: “Bà ngoại con xin mấy cái bông về cúng.” Sư ông lãng tai, ngơ ngác hồi lâu rồi mỉm cười hiểu ra. Ông lui cui xuống bếp tìm con dao nhỏ xíu đưa cho tôi: “Con ra cắt đi. Khéo, đứt tay tới xương đó, dao bén lắm. Mà thôi, để ông cắt cho.” Sư ông lụ khụ đi ra chỗ cây hoa thì tôi đã đủ thì giờ chạy biến ra hồ sen, lén lén bẻ trộm cái gương sen xanh nõn đầy những hột tròn nhú lên lấm tấm vài giọt nước trong vắt. Có lần tôi bẻ luôn một bông sen màu hồng tuyệt đẹp, giấu ở hàng rào, khi ra cổng thò tay vô lấy. Về nhà, tôi khoe bà ngoại: “Ngoại ơi, con đem về cúng Phật của mình.” Ngoại tôi nổi giận: “Cúng Phật của mình mà ăn cắp của Phật trong chùa. Tội còn hơn!” Tôi hoảng hồn. Bây giờ, sen không có bông, cũng không có gương, vì đang là mùa xuân, chỉ có những chiếc lá tròn xanh vây quanh tượng Quán Thế Âm màu trắng. Tiếng chuông thong thả ngân dài. Từ cánh cửa nhỏ của chánh điện, tôi đã trông thấy những ngọn đèn cầy lập lòe và một bóng áo nâu đứng cạnh chiếc đại hồng chung. Tiếng chuông rơi từ đôi tay nhỏ bé. Thì ra là một chú tiểu. Gương mặt hơi sạm đen ngẩng lên nhìn tôi, miệng không ngừng đọc bài kệ, nhưng đôi mắt long lanh như muốn hỏi: “Thí chủ có định thắp hương?” Tôi nhẹ khoát tay, ý bảo chú cứ đánh chuông, mặc tôi.
Tôi vòng ra sau nhà tổ, nơi hành lang sư ông thường mắc võng nằm cho mát. Chiếc võng đan bằng sợi chuối vừa chắc vừa mềm, sư ông lót thêm chiếc cà sa cũ để khỏi đau lưng. Cạnh đó là bếp lửa luôn luôn có cái ấm nhỏ xíu đen thui sư ông dùng từ hồi mới xuất gia. Ông nấu nước, pha trà một mình, không phiền đến ai. Nửa đêm đã thấy bếp lửa ánh hồng. Ban ngày thì bếp dành cho một chiếc nồi đất nấu cơm, mà mấy bà Phật tử mỗi lần mở vung ra lại kêu trời: “Sư ông ăn vầy sao mà chịu nổi!” Sư ông cười: “Sao lại không nổi!” Trên lớp cơm ngà ngà vì gạo chỉ là loại thường, có một miếng tàu hủ trắng được hấp cả ngày. Và một chai nước tương, một hủ muối tiêu. Vậy là xong bữa của sư ông. Mấy bà Phật tử rối rít về nhà làm món canh, món xào đem vô cúng dường, lại bị sư ông rầy: “Phiền các vị quá, tôi mất phước. Thôi đừng làm nữa.” Cãi lời, sư ông giận. Nhưng rồi đến lúc ông không còn giận được nữa. Đổ cháo, đổ sữa vào miệng, ông cũng không buồn rầy la. Ông ra đi trong tiếng chuông ngân một chiều mưa, hưởng thọ hơn 90 tuổi. Ngoại tôi, nếu còn sống, chắc đã khóc nhiều. Bà lớn hơn sư ông vài tuổi, nhưng quy y với ông mấy chục năm. Đám tang bà, sư ông chống gậy ra ngồi, cố tụng một thời kinh bát nhã. Tiếng kinh như bị nén giữa lồng ngực khô héo, chỉ thấy đôi môi già nua mấp máy theo từng nhịp mõ buồn buồn.
Chú tiểu đánh chuông đã xong, bước xuống chắp tay chào tôi. Tôi hỏi: “Thầy đi chừng nào về vậy chú?” “Dạ chắc tới tối. Cô ngồi chơi, đợi thầy.” “Không, một lát tôi đi. Thầy có về nhờ chú nói giùm.” Chú tiểu hỏi tên tôi rồi lẩm nhẩm nhắc lại hai lần như sợ quên. “Chắc chú mới vào chùa?” “Dạ, cũng gần hai năm.” Tôi giật mình. Năm ngoái mình ăn Tết ở đâu? Tôi chớp mắt nhìn sang phương trượng, nơi ngày xưa sư ông ở, bây giờ là thầy trụ trì. “Thầy có mập lên chút nào không chú?”, tôi hỏi. Chú tiểu toét miệng cười: “Trời, thầy có mà tết Công-gô mới mập cô ơi!” Rồi chú hoảng hốt bụm miệng vì chợt nhớ mình ăn nói không đúng oai nghi. Tôi cũng phì cười: “Chú có đi học không? Lớp mấy rồi?” “Dạ, lớp bốn.” Tôi tưởng tượng cái áo nâu này đang đá banh, đá cầu trong sân trường, đang vật nhau với lũ bạn. Con nít thì cứ là con nít.
Chú tiểu đứng dậy bật công tắc điện. Ánh sáng yếu ớt tỏa ra từ chiếc đèn néon sáu tấc đã ố vàng, soi nhập nhòa bức tranh vẽ Tổ Bồ Đề Đạt Ma vác gậy trên vai có một chiếc giày treo lủng lẳng. Tôi buột miệng: “Chú ở đây buồn không?” Đôi mắt tròn xoe ngẩng lên. “Dạ không.” “Chỉ có thầy với chú thôi à?” “Dạ.” Tôi lẩm bẩm: “Cũng như ngày xưa, chỉ có sư ông và thầy...” Chú tiểu nhìn tôi trân trân, có lẽ không hiểu tôi nói gì...
Con đường từ chùa ra cổng dường như dài hơn. Tôi chầm chậm bước qua hàng bông trang, bông điệp, len lén hít vào lòng hương của những bông sứ trắng và cố níu giữ lấy mùi thơm của những luống vạn thọ đang nở hoa. Chợt ngoái lại phía sau, tôi thấy chú tiểu vẫn đứng nơi ngạch cửa nhìn theo. Chiếc áo nâu nhỏ nhắn nhòa vào bóng đêm đang buông xuống. Rồi chú sẽ lớn, thầy sẽ già như sư ông... Còn tôi, không biết có quay về?...
Những năm gần đây, có một dấu hiệu rất đáng mừng là các tác phẩm Phật học đã xuất hiện ngày càng nhiều và hết sức phong phú, từ những trước tác của các vị đại sư cho đến các bản dịch giáo pháp từ Anh ngữ, Hán ngữ; từ những bài giảng dành cho người sơ cơ đến những tác phẩm nghiên cứu Phật học chuyên sâu; từ các sách giảng luận về Tịnh độ, Thiền tông cho đến Mật tông đều có đủ và thường xuyên gia tăng số lượng. Vì thế, người Phật tử đã không còn phải khó khăn trong việc tìm kiếm và chọn lựa món ăn tinh thần thích hợp với mình.
Tuy nhiên, có một thực tế là những tác phẩm văn chương Phật giáo dường như vẫn còn khá ít ỏi. Người ta vẫn phải tìm đọc Thơ văn Lý Trần hay Quy nguyên trực chỉ như những tác phẩm văn học Phật giáo vô cùng hiếm hoi sót lại từ xưa, trong khi những sáng tác văn học Phật giáo gần đây vẫn còn khá hạn chế.
Trong bối cảnh đó, tôi rất vui khi nhận được tập bản thảo này từ tác giả với lời đề nghị nhờ đọc lại. Quả thật, với một bút pháp nhẹ nhàng, trong sáng và mang đậm chất giọng Nam bộ, nữ tác giả xuất thân từ miền quê Đồng Tháp này đã chia sẻ với chúng ta rất nhiều những suy tư, trăn trở qua vốn sống thực tế của chị. Vì thế, tôi hy vọng tuyển tập truyện ngắn này sẽ góp phần đáp ứng được nhu cầu học hỏi và tu tập của người Phật tử thông qua sự thưởng lãm văn chương Phật giáo, một nhu cầu chính đáng và đang ngày càng gia tăng đặc biệt trong lớp trẻ hiện nay.
Hy vọng tác phẩm này sẽ mang đến cho người đọc không chỉ là những phút giây thư giãn đơn thuần, mà còn là những tư tưởng sâu sắc, những cảm xúc yêu người thương đời được tác giả gửi gắm qua ngòi bút, có thể giúp mỗi người chúng ta luôn nỗ lực vươn lên để sống tốt đẹp hơn, hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả.
NGUYỄN MINH TIẾN
BÓNG RÂM
Sân chùa yên ả không một tiếng lá rơi. Mặt trời áp má lên những vòm cây xum xuê, chỉ để rớt nhiều đốm nắng rất nhỏ xuống đất, không nóng bức, không khó chịu, mà lung linh dễ thương như những đốm bùn khô nổi bật trên chiếc áo nâu của chú điệu Quảng Tâm hôm nào.
Chú đang ngồi dưới một gốc me, tay cầm đoạn trúc nhỏ xíu quẹt lên mặt đất mấy chữ nho to tướng. Thầy phạt chú vì cái tội bỏ công phu chiều chạy ra đồng thả diều. Rồi sợ, lội tắt qua mương vườn bà Ba Kính để về chùa. Nhưng mấy lùm cỏ trong mương hại chú, chúng vẽ lên cái áo của chú mấy chục đốm bùn, về tới chùa thì bùn khô lại, cứ nổi rõ trên nền nâu như lời tố cáo chính xác. Thế là chú phải quỳ hương. Quỳ chút xíu thôi, Thầy chỉ muốn cảnh cáo. Nhưng sợ nhất là phải học thuộc hàng đống chữ nho.
Chú cắm cúi viết. Chỏm tóc trước trán có một cái đuôi dài vắt qua mang tai cứ rớt xuống khi chú cúi đầu. Chú điệu một tay lo vắt tóc, một tay quẹt mạnh xuống đất. Đất mùa hè cứng như đá, mà chú lại siêng quét sân nên chẳng có bụi bặm, đất tơi gì cả. Muốn chữ hiện lên thì phải viết thật mạnh. Chú điệu Tâm mím môi, vành môi đầy đặn và rất rõ, với một nhân trung dài và sâu chạy tới sống mũi. Sống mũi thẳng nhô lên giữa hai gò má trắng hồng, bầu bĩnh. Mỗi khi chú hờn dỗi thì má cứ như bầu thêm ra.
Mà chú cũng hay hờn dỗi lắm. Hôm nọ bà Ba Kính đến chùa xay bột để gói bánh cúng rằm, bà bắt chú xay giúp. Đôi cánh tay nhỏ bé của chú điệu đã rã rời mà bà Ba còn ca cẩm liên tục: “Lớn rồi, phải lo làm, lo tu, tối ngày cứ chạy nhong nhong. Đệ tử mà không giống Thầy gì hết...” Khi cái điệp khúc này được nhai lại lần thứ tư thì chú đứng phắt dậy. “Bà giỏi thì bà làm đi, còn tui hổng làm, hổng tu gì hết!” Và chú bỏ luôn cái cối xay. Bà Ba Kính tru tréo lên: “Trời ơi, cái chú này quá sức rồi. Tôi phải méc Thầy để Thầy trị tội.” Tối đến, Thầy gọi chú điệu lên phương trượng: “Con có biết pháp danh Quảng Tâm của con mang ý nghĩa gì không?” “Dạ bạch Thầy, là cái tâm rộng lớn.” “Ừ, rộng lớn là quảng đại, hỉ xả nữa, chớ không nhỏ hẹp, hờn giận, sân si...” “Dạ, mô Phật.” Thầy thuyết pháp cho một hồi, và chú xin sám hối. Nhưng sau đó thì... chú thấy cái tâm của mình dù lớn đến đâu cũng chừa bà Ba Kính ra. Và bây giờ mỗi lần bà đến chùa làm công quả là chú tìm mọi cách né được chừng nào hay chừng ấy.
Chú điệu Quảng Tâm viết một hồi đã thuộc. Chú sợ những chữ nho rối tinh rối mù như những cọng rơm, nhưng không hiểu sao chú học lại rất nhanh, và khi học thì cũng rất thích. Thầy không khen tiếng nào nhưng hay xoa trán chú mỗi khi chú trả bài thuộc.
Chú chẳng hiểu trên trán chú có cái gì. Chú cũng lấy tay sờ trán, chỉ thấy nó tròn như đầu chú thôi. Cái đầu không một sợi tóc ngoại trừ cái chỏm phía trước, còn gọi là cái chóp. Đôi lúc chú bực bội, giận dỗi, bởi vì khi đi học thì lũ bạn thường chế giễu đầu chú không tóc, còn khi về chùa thì lại bị mấy bà Phật tử nắm chóp mỗi lần chú làm sai điều gì đó. Thà là có tóc hẳn, hoặc cạo hẳn như Thầy, còn đằng này... cái sự “có” và “không” ấy luôn hại chú.
Tuy nhiên, điều ấy chỉ thỉnh thoảng xảy ra, còn thường ngày chú vẫn cảm thấy thoải mái, nhất là được Thầy xoa trán thì chú rất thích, cứ muốn bàn tay ấm áp của Thầy để hoài trên đó. Cho nên dù sợ “những cọng rơm” kia nhưng chú vẫn cố gắng học với mong ước được bàn tay Thầy vỗ về. Nhiều lần chú thấy rõ mình ghen với điệu Vũ vì điệu Vũ được Thầy tỏ ra chăm sóc nhiều hơn. Một lần Vũ chạy chơi té trầy chân, Thầy rửa vết thương bằng nước muối, Vũ chảy nước mắt kêu rát, Thầy phải ngồi chúm miệng thổi phù phù cho Vũ hết rát, và hình như mắt Thầy cũng đỏ. Điệu Vũ kêu thèm bánh da lợn, sáng hôm sau Thầy nhờ bà Ba Kính đi chợ mua bánh da lợn về cho Vũ ăn.
Có lần chú mắng Vũ: “Mầy làm như Thầy là cha mầy không bằng nên bày đặt nhõng nhẽo.” Điệu Vũ ngơ ngác: “Cha là gì?” Chú sực nhớ, Vũ mới năm tuổi và nó ở với Thầy từ hồi nhỏ xíu, cũng gọi “Thầy” từ lúc bập bẹ tới giờ, làm sao nó biết cha là gì. Chú Quảng Tâm rất thương Vũ. Cái hồi Thầy ẵm Vũ về đây, Vũ mới biết chạy lon ton, chắc chừng non ba tuổi, còn chú đã lên bảy, thường lui tới chùa chơi. Đúng hơn là lui tới xách đồ của mấy bà Phật tử cúng dường hoặc thức ăn hằng ngày mà Thầy gởi mẹ chú đi chợ mua giùm. Trong cái giỏ đầy rau cải, nước tương, dưa leo đó luôn luôn có một túm bánh nhỏ dành cho bé Vũ. Khi thì bánh bò, lúc bánh chuối, bánh da lợn... những thứ rất phổ biến và rẻ tiền ở các chợ quê như quê chú, mà lại rất ngon, hấp dẫn. Chú vừa thấp thoáng ở cây bồ đề trước cổng chùa là bé Vũ đã chạy ra: “Anh Lựn, anh Lựn!” Hồi đó chú tên Luận nhưng bé Vũ phát âm đả đớt như vậy. Chú đưa túm bánh cho Vũ, chỉ đòi một điều kiện: “Hôn anh đi!” Cái miệng nhỏ xíu chúm lại in một dấu tèm lem lên má chú. Được nửa năm như thế thì anh Luận trở thành “sư huynh” của Vũ, với chóp tóc và bộ quần áo nâu y hệt, và mọi người gọi chú là “điệu Quảng Tâm” tức chú tiểu trong chùa.
Hai năm trôi qua, bây giờ Quảng Tâm vẫn nhớ cái ngày chú rời khỏi căn nhà quen thuộc để bước vào cửa thiền. Chiều hôm đó, Thầy hỏi chú: “Con có muốn ở luôn với Thầy không hở Luận?” Chú ngước đôi mắt to đen nhìn Thầy. Gương mặt xương xương vừa hiền lành vừa cương nghị, đặc biệt là đôi mắt dường như thường xa xăm, ẩn giấu một điều gì. Nhưng “điều gì” đó không làm cho người ta sợ mà còn gần gũi, trìu mến hơn. Giọng Thầy lúc nào cũng nhỏ nhẹ, ân cần, khi giận chỉ nghiêm khắc lại, chứ không hằn học, ác cảm. Ngày nào chú cũng gặp Thầy, thậm chí ăn cơm với Thầy nhiều hơn với mẹ, rồi như một thói quen, một sức hút, chú cứ ở miết trong chùa. Thế là chú gật đầu không do dự.
Và sáng hôm sau, bà ngoại và mẹ dẫn chú sang chùa. Mẹ khóc, khóc nhiều lắm. Chú không hiểu tại sao mẹ khóc. Thì chú ở chùa, chạy về nhà chơi, cũng như ở nhà chạy qua chùa chơi, có khác gì đâu. Thằng Bình em của chú cũng trạc tuổi Vũ, vẫn tha hồ đùa giỡn với anh kia mà. Sao mẹ lại khóc nhỉ? Còn bà ngoại mắt đỏ hoe nhưng miệng lại cười. Bà ngoại cất cốc riêng, ở một mình tụng kinh niệm Phật, cạo đầu, mặc áo nâu, cho nên bà rất ủng hộ việc đưa chú đến chùa. Nhưng sau này chú mới lờ mờ đoán ra lý do mẹ phải khóc, khi trong nhà xuất hiện người cha dượng. Ngoại thủ thỉ cùng chú: “Con phải thương mẹ, một thân một mình nuôi con với em Bình mấy năm nay, giờ sức mẹ yếu đuối phải tìm người nương tựa. Con về với Thầy, thì dượng mới nuôi nổi em Bình, đó cũng là con thương em.” Chú gật đầu. Bao giờ mà chú không thương mẹ, thương em.
Nhưng rồi sau đó, chú nhận ra đã có một cái gì đổi khác trong lòng chú. Trước kia chú vẫn thường bị đòn, bị la nhưng chú khóc xong lại quên ngay. Còn bây giờ, mỗi khi bị mấy bà Phật tử sai phái, rầy mắng, hoặc cốc lên đầu, hoặc nắm chóp là chú giận mẹ.
Tại sao mẹ lại bỏ chú vào chùa để người ta xem chú như con mồ côi, ai muốn hiếp đáp gì cũng được? Mà chú có khác gì con mồ côi? Chú thấy tủi thân. Mẹ gần đó mà đâu còn gặp gỡ, nâng niu thường xuyên nữa. Mẹ lại có con với dượng, suốt ngày tất bật lo toan, dường như vẫn nghèo vẫn khổ. Còn cha chú? Đó là một người đàn ông chỉ còn những nét rất mờ nhạt trong trí nhớ non nớt của chú. Nghe nói, khi mẹ có bầu em Bình thì cha mẹ cãi nhau một trận kịch liệt, rồi cha bỏ đi. Tưởng rằng cha giận, đi vài hôm sẽ về, ai ngờ biền biệt từng ấy năm. Lại nghe đâu chết hay mất tích trong chiến trường miền Trung.
Mẹ giận cha, rồi chờ đợi, rồi tuyệt vọng. Bây giờ mẹ đã yên phận. Nhưng lòng chú thì bắt đầu không yên. Chú chợt tin rằng cha không chết, cha vẫn còn sống, và ngày nào đó chú sẽ được gặp cha. Không, chú phải được gặp cha, vì chú cần cha lắm, chú thèm được cha ôm vào lòng, cha chơi với chú, nói chuyện với chú, và nhất là cha bảo vệ chú không cho mấy bà Phật tử ăn hiếp chú. Ý nghĩ ấy, khao khát ấy lớn lên thật nhanh, và cháy bỏng. Đến nỗi ai nói gì có tiếng “cha”, chú cũng giật mình. Nhưng chú không rời bỏ niềm hy vọng. Chú nuôi dưỡng nó từng ngày, âm thầm không nói cho một ai hay biết. Rồi sẽ có một ngày...
Quảng Tâm quăng đoạn trúc đã mòn vẹt đầu, lấy chân xoa xoa mặt đất để xóa những chữ vừa viết. Nắng vẫn còn rất cao, chắc chỉ khoảng ba giờ. Mấy con chim chợt cất tiếng hót véo von. Sân chùa nhiều cây, lũ chim vẫn làm tổ và hót cả buổi sáng lẫn buổi trưa. Nhất là buổi trưa, hoàn toàn vắng lặng, thì tiếng chim càng rõ, càng ru hồn. Xa xa gần chỗ hồ sen có một cái võng đan bằng cọng chuối, cũ kỹ mà rất dai rất chắc, là nơi Thầy thường ra nằm tránh oi bức của mùa hè dội xuống lớp ngói trong chùa. Sen tháng này nở nhiều, đỏ hồng hồng, và thoang thoảng hương thơm mỗi khi có ngọn gió phất qua. Trong chùa, Thầy trồng nhiều loại bông mà loại nào cũng có mùi thơm. Bông trang, bông huệ, bông sứ... Mỗi thứ một ít cây, nhưng trộn hương vào nhau làm người cứ lâng lâng, thanh thoát. Chú điệu Quảng Tâm liếc nhìn chỗ mắc võng, đã thấy bóng áo nâu của Thầy phất phơ. Chắc Thầy đang đọc sách, những cuốn sách chữ nho dày cộp chất đầy một tủ, chú không biết rõ đó là kinh, hay luật, hay luận, chắc là đủ cả ba, và Thầy đọc mãi chẳng biết bao giờ thì hết. Ban ngày Thầy đọc sách, trồng rau cải, bầu bí, tưới hoa, ban đêm Thầy tụng kinh xong lại ngồi thiền hoặc viết lách gì đó đến thật khuya. Còn chú thì đi học ở trường, về chùa trông coi em Vũ, tiếp Thầy nấu cơm, dọn cơm cúng Phật, rồi tụng kinh, học kinh. Bấy nhiêu việc cứ đều đều xoay quanh, nhàn nhã mà không rảnh rỗi cho cả hai Thầy trò. Cứ như con nước, chảy chứ không được dừng, chảy đều, chảy mãi...
Nhưng hôm nay chú điệu Quảng Tâm thấy Thầy đã ra nằm võng, vội vàng chạy lách qua hông chùa, luồn lên chánh điện. Lớp gạch lâu năm bóng và mát lạnh áp vào lòng bàn chân làm chú tỉnh táo hẳn. Chú đến kệ đựng kinh, lục tìm cuốn kinh Địa Tạng, rồi ngồi xếp bằng trước bàn thờ Phật. Chú mở kinh ra, đúng chỗ đã đánh dấu, bắt đầu đọc tụng. Hôm nay chú quyết phải tụng cho được hai phẩm. Không thể chậm chạp, kéo dài mãi được. Càng kéo dài, càng lâu đến mục đích mà chú đang chờ đợi. Bởi hôm nọ khi tụng đến một đoạn trong kinh, chú giật mình. Ý kinh nói rằng: ai trì tụng thành tâm kinh này thì nếu cha mẹ chết hoặc cha mẹ thất lạc mà không biết mặt, sẽ được gặp gỡ trong giấc chiêm bao. Chú mừng rỡ quá. Trời ơi, vậy mà bao năm ở trong chùa chú không chịu đọc kinh này sớm hơn, nếu thực hành trì tụng thì đã có thể gặp mặt cha rồi. Bây giờ chú sẽ thực hiện, thực hiện ngay. Còn quên, khi trì tụng kinh, phải đặt một chung nước nhỏ lên bàn Phật, tụng xong, uống chung nước ấy, thì hình ảnh cha mẹ mới đến được trong giấc chiêm bao. Chú nghĩ, chung nước nhỏ tí chỉ gặp mặt chút xíu, hay là rót một ly cối lớn để Phật cho chú gặp cha lâu hơn. Thế là chú đã bị một trận căng bụng đến gần nôn ói, nhưng chú cũng ráng ngậm miệng, nín hơi không cho một giọt nước nào văng ra. Vậy mà không hiểu sao tối hôm đó chú cũng không mơ thấy cha.
Chú không dám nghĩ rằng Phật không linh, kinh không linh, mà chỉ dám nghĩ có lẽ do chú chưa được thành tâm lắm, chưa tập trung tư tưởng lắm. Và cũng có thể phải phát nguyện trì tụng rất nhiều lần mới có kết quả. Như Thầy đã từng phát nguyện trì 100 lần bộ kinh Pháp Hoa để chấn hưng ngôi chùa hoang sơ này. Suốt ba năm Thầy giữ đúng lời phát nguyện, giờ thì ngôi chùa mới được khang trang hơn, đạo hữu đoàn kết, tiến bộ hơn. Vậy chú phải làm như Thầy. Nhưng chú không dám phát nguyện trì tụng 100 lần, vì chú nóng ruột lắm, muốn thấy mặt cha lắm. Cho nên hôm nào chú cũng rót một ly nước nhỏ, và uống, với hy vọng sẽ nằm mơ... Chú còn tranh thủ tụng kinh vào buổi trưa khi Thầy ra võng đọc sách, và ban đêm khi Thầy đã vào phòng.
Mấy hôm nay chú ít ngủ hẳn, nhưng chú cố gắng, cố gắng. Bởi ý muốn được gặp cha nung nấu hơn khi tình cờ, ngày hôm kia, chú nghe mấy bà Phật tử nói với nhau nho nhỏ sau bếp: “Hình như điệu Vũ là con của Thầy. Sau khi lỡ lầm với một người, Thầy ăn năn sám hối, nên ẵm con về vùng đất xa xôi này, lánh hết người đời, quyết chí tu hành trở lại.” Bà khác nói: “Không phải đâu, bổn sư giao nhiệm vụ cho Thầy về đây chấn hưng ngôi cổ tự. Còn bé Vũ là do Thầy lượm được. Đúng hơn, Thầy phát hiện một cô gái đang định bỏ rơi con mình dưới mái hiên ngôi nhà sang trọng. Cô gái thấy Thầy, liền khóc lóc năn nỉ Thầy nuôi giùm đứa con của một cuộc tình trẻ dại. Cầm lòng không đậu, và nghĩ rằng đứa bé có duyên với Phật pháp, Thầy đem về chùa nuôi. Đến khi lên đường nhận nhiệm vụ mới, Thầy cũng ẵm Vũ theo.”
Lời của mấy bà Phật tử khiến chú càng bàng hoàng. Tất cả đều chỉ là ức đoán, nghi ngờ, không ai dám kết luận điều gì. Nhưng thực ra họ chỉ nói thoảng qua rồi thôi, chứ ai cũng rất thương Thầy vì đạo hạnh từ bi, và rất mừng khi Thầy trụ lại ở vùng quê này, có tiếng chuông ngân nga cho thôn xóm ấm cúng hơn. Cho nên chẳng ai mấy bận tâm. Duy chỉ có chú điệu Quảng Tâm, từ hôm đó, không hiểu sao chú cứ muốn nghĩ rằng Vũ là con của Thầy. Chú cứ muốn tin như thế. Hèn chi mà Thầy có vẻ thương yêu chăm sóc Vũ hơn chú. Hèn chi mấy bà Phật tử không dám ăn hiếp Vũ. Chú đâm ra “nể” điệu Vũ. Vì điệu Vũ có cha. Còn chú thì không. Cho nên chú càng nung nấu ước mơ tìm gặp được cha. Cha ơi, bây giờ cha ở đâu? Bao lần chú tự kêu lên trong lòng câu ấy.
Và nước mắt hay chảy ra ướt đẫm cả tay áo nâu cũ kỹ mà chú úp mặt vào.
- Điệu Tâm đâu rồi? Dọn cơm cúng đi con!
Tiếng Thầy cắt ngang lời tụng ê a nho nhỏ của chú. Chú lật đật cất cuốn kinh rồi chạy xuống nhà bếp. Chú lăng xăng tiếp Thầy xếp những chén cơm nhỏ xíu vào mâm để bưng lên chánh điện. Công việc này là của chú. Chợt chú sực nhớ ly nước chưa kịp uống. Chú quýnh quáng định chạy đi, thế là tay áo vướng vào mâm, một cái chén rớt xuống bể tan tành. Thầy nhìn chú, hơi cau mày: “Con sao vậy?” “Dạ, con... con...” “Lượm lên đi, vô tủ lấy cái chén khác.” Chú xịu mặt bước đi. Rồi Thầy sẽ phạt chú cho xem, vì chén này có nguyên bộ, khá đắt tiền, do một Phật tử ở Sài Gòn cúng dường. Nay lấy cái khác thay vào, sẽ kém đẹp, kém giá trị đi. Trong một lúc, chú quên mất ly nước của mình.
Tối nay, chú lại ngồi đóng chuông. Dùi chuông bằng gỗ dài, nặng, được treo trên những sợi dây, chú chỉ vịn vào rồi đẩy nhẹ cho đầu dùi chạm vào chiếc đại hồng chung. Mỗi tiếng chuông ngân lên, chú phải niệm một câu kệ.
Nhưng tối nay, chú nhấp nhổm ngồi không yên. Chú chờ Thầy gọi đến để nghe Thầy giảng về oai nghi của người tu hành, phải đi đứng khoan thai, cẩn thận, đàng hoàng, thanh thoát, vân vân và vân vân. Chú biết hết, đã học rồi, nhưng mà... có những lúc đành phải phạm lỗi như thế. Chú nghĩ ngợi, đến Thầy, đến ly nước, đến phẩm kinh đang tụng dở dang, đến giấc chiêm bao, và miệng vẫn ê a những câu kệ thuộc lòng... Nhưng mắt chú bắt đầu díp lại, nặng trịch. Mấy hôm nay chú thức quá nhiều. Chú cố mở mắt ra, cố đọc. Nhưng rồi không cố được nữa, chú gục xuống.
Thầy trong phòng, chợt nghe tiếng chuông vắng bặt. Chờ một hồi lâu, Thầy bước lên chánh điện. Chú điệu Quảng Tâm đang ngả đầu lên dùi chuông, cái trán cao thông minh sáng dìu dịu dưới ánh đèn từ bàn Phật chiếu xuống, chiếc áo nâu có một miếng vá trên vai không làm mất đi nét tròn trĩnh đáng yêu của cái lưng nhỏ bé. Thầy nhẹ nhàng đỡ lấy chú. Chú vẫn ngủ say. Thầy bồng chú lên, rời khỏi chánh điện. Đầu chú áp vào ngực Thầy, còn cánh tay Thầy quàng chặt chiếc lưng mềm của chú. Thầy nhẹ nhàng đặt chú xuống chiếc đơn, bên cạnh điệu Vũ cũng đang ngủ say sưa.
Kéo cái mền đắp cho hai đứa, tấn lại mí mùng, xong Thầy trở về phòng mình.
Chú điệu Quảng Tâm vẫn ngủ, và rõ ràng trong giấc mơ của chú có một người đàn ông hiện ra. Nhưng người đó thoắt ẩn thoắt hiện. Và trong giấc mơ cứ chập chờn, chập chờn... Ngoài hè, trăng đã lên cao, rất sáng, mà con chim đêm nào đó chừng vẫn lạc bầy hay sao mà kêu mãi miết... BÓNG THỜI GIAN
Tết năm nay, vé xe tăng giá, chuyện làm ăn lại eo hẹp nên tôi định không về quê. Nhưng rồi vẫn về. Vì những bông cúc nở sao mà xốn xang. Tiếng còi xe nửa đêm sao mà thúc giục. Và một chút gió se se cuối mùa sao mà cô đơn...
Quê chẳng còn ai là họ hàng ngoài bà chị con của người dì ruột. Nhưng tôi cũng đâu có ở yên trong nhà chị. Thăm hết người láng giềng này tới người bạn học kia, rồi cô giáo, thầy giáo cũ... Hết vèo ba ngày Tết lúc nào chẳng hay. Đi đâu cũng thấy nụ cười và những lời chúc xuân vồn vã, làm ấm lòng kẻ tha phương...
Còn một ngày cuối cùng, tôi chợt nhớ đến chùa Hội An. Tôi bảo anh xe lôi: “Ghé giùm chỗ này, tôi vẫn trả tiền nguyên cuốc xe cho anh.” Nhìn tấm bảng trên chùa, trông lại bộ quần áo “thị thành” của tôi, anh xe lôi hơi ngỡ ngàng: “Chị quen ai trong đó?” “Tôi quen thầy trụ trì.” “Thầy đi khỏi rồi chị ơi. Tôi mới chở ổng nè, chuyến về mới gặp chị đó.” Tôi cụt hứng, rồi tặc lưỡi: “Thôi, vô thắp nhang một chút.” Anh xe lôi bỏ tôi xuống vệ đường, bên cạnh đám cỏ xanh um chen mấy chùm hoa nổ tím ngát, không quên dặn vói theo:
“Đường mới đổ gạch lổm chổm, chị đi coi chừng trật chân.” Tôi mỉm cười cám ơn. Đường đổ gạch, nhưng chỉ một đoạn ngắn, chỗ có mấy căn nhà mới cất liền nhau màu vôi còn trắng tinh, ngói đỏ au và cửa gỗ hăng hăng mùi vec-ni. Đi khỏi quãng đó, cánh đồng hiện ra như cũ, quen thuộc đến nhức mắt. Lúa đông xuân chưa gặt, đang trĩu bông hườm hườm vàng, thả vào trong gió mùi thơm nhẹ mang hơi sữa. Cánh đồng không lớn lắm, lại bị cắt ngang bởi một hàng trâm bầu mát dịu. Hồi nhỏ, tôi và đám bạn đi mót lúa thường ngồi nghỉ chân dưới hàng trâm bầu, tay xốc cái thúng con, đọ xem đứa nào mót được nhiều nhất. Mười lăm năm sau, em trai tôi nằm nghỉ giấc ngàn thu nơi đó. Rặng trâm bầu kéo dài đến tận con mương giáp ranh với mảnh đất chùa dành làm nghĩa địa. Em tôi được sư ông cho nằm ở hàng ngoài cùng, chỉ cần tôi búng chân nhảy qua con mương là tới mộ của nó. Bóng trâm bầu cố vươn qua che một khoảng mát cho em. Má tôi đã về quê từ hôm rằm, dọn cỏ mộ sạch sẽ, rồi trở lên thành phố trông nhà cho tôi. Bây giờ tôi chỉ việc thắp nhang. Khói nhang bay lảng bảng vào bóng chiều, từng cuộn bị xé nhỏ ra, mỏng dần, mỏng dần, rồi mất hút vào ngọn gió đồng. Chỉ có lá lúa cọ vào nhau xào xạc. Nhẹ rơi vài lá trâm bầu vàng úa còn sót lại của mùa thu hiếm hoi phương Nam...
Tôi lại men theo bờ thửa, băng ngang đám ruộng trở vào con đường cũ. Đất được giậm bằng phẳng, xe đạp, xe honda tha hồ chạy. Màu đất nâu hóa trắng vì thời tiết mùa khô. Cái màu nâu trắng ấy uốn lượn vài lần rồi chui thẳng vào một vòm cây xanh thẫm. Trên đầu tôi chỉ thấy lá và lá, còn bên phải, bên trái lại nhấp nhô những hàng rào dâm bụt nở bung những cánh hoa đỏ tòn ten một chuỗi phấn vàng. Này là nhà bà Mười Gió, kế đến nhà ông Tư Hờn, chú Bảy Rết, bà Hai Hên... Tôi nhẩm đếm những cái tên rất quen trước khi đặt chân lên chiếc cầu nhỏ. Đâu đó đã nghe vẳng tiếng chuông chùa.
Vâng, chỉ bước qua cây cầu thôi là thấy một thế giới khác. Bên đó, con đường thu hẹp lại, quanh co, nhấp nhô, khó đi, khó đứng. Bên đó, không còn nhà cửa san sát như bên này, mà chỉ có ngôi chùa nằm khuất sau cánh cổng gỗ nặng trịch. Tôi nhìn xuống chân cầu, nước trong xanh, chảy rất chậm, lác đác vài cánh hoa mai trôi theo, rung rung cái sắc vàng thay nắng chiều đang dần dần lặng xuống. Tôi nâng cánh cổng một cách dễ dàng. Thì ra không có khóa. Con đường chạy từ cổng đến chùa đã được tráng xi măng. Tôi đi xuyên qua một cái sân rất rộng đủ cả kỳ hoa dị thảo của ngày ấu thơ. Một hàng bông trang hoa trắng, hoa đỏ đứng trang nghiêm sát đường. Và chen vào vài cây điệp hoa vàng vàng cam cam với cuống hoa ốm tong đưa thẳng lên trời như một cây tăm.
Vậy chứ bông trang, bông điệp là thứ được dân trong xóm đến xin hoài. Cúng rằm, người ta cắt cành dài để cắm vào bình lớn. Cúng đầy tháng, thôi nôi, người ta cắt ngắn ngay cuống hoa rồi đặt vào 12 chiếc ly uống trà tượng trưng cho 12 bà mụ. Thậm chí, nhà có người vừa chết cũng xin bông trang về để bốn góc giường cho nhà sư tụng kinh. Sư ông chùa Hội An chăm chút đám bông trang, bông điệp này lắm, và hồi đó tôi thường thích thú hét vào tai ông: “Bà ngoại con xin mấy cái bông về cúng.” Sư ông lãng tai, ngơ ngác hồi lâu rồi mỉm cười hiểu ra. Ông lui cui xuống bếp tìm con dao nhỏ xíu đưa cho tôi: “Con ra cắt đi. Khéo, đứt tay tới xương đó, dao bén lắm. Mà thôi, để ông cắt cho.” Sư ông lụ khụ đi ra chỗ cây hoa thì tôi đã đủ thì giờ chạy biến ra hồ sen, lén lén bẻ trộm cái gương sen xanh nõn đầy những hột tròn nhú lên lấm tấm vài giọt nước trong vắt. Có lần tôi bẻ luôn một bông sen màu hồng tuyệt đẹp, giấu ở hàng rào, khi ra cổng thò tay vô lấy. Về nhà, tôi khoe bà ngoại: “Ngoại ơi, con đem về cúng Phật của mình.” Ngoại tôi nổi giận: “Cúng Phật của mình mà ăn cắp của Phật trong chùa. Tội còn hơn!” Tôi hoảng hồn. Bây giờ, sen không có bông, cũng không có gương, vì đang là mùa xuân, chỉ có những chiếc lá tròn xanh vây quanh tượng Quán Thế Âm màu trắng. Tiếng chuông thong thả ngân dài. Từ cánh cửa nhỏ của chánh điện, tôi đã trông thấy những ngọn đèn cầy lập lòe và một bóng áo nâu đứng cạnh chiếc đại hồng chung. Tiếng chuông rơi từ đôi tay nhỏ bé. Thì ra là một chú tiểu. Gương mặt hơi sạm đen ngẩng lên nhìn tôi, miệng không ngừng đọc bài kệ, nhưng đôi mắt long lanh như muốn hỏi: “Thí chủ có định thắp hương?” Tôi nhẹ khoát tay, ý bảo chú cứ đánh chuông, mặc tôi.
Tôi vòng ra sau nhà tổ, nơi hành lang sư ông thường mắc võng nằm cho mát. Chiếc võng đan bằng sợi chuối vừa chắc vừa mềm, sư ông lót thêm chiếc cà sa cũ để khỏi đau lưng. Cạnh đó là bếp lửa luôn luôn có cái ấm nhỏ xíu đen thui sư ông dùng từ hồi mới xuất gia. Ông nấu nước, pha trà một mình, không phiền đến ai. Nửa đêm đã thấy bếp lửa ánh hồng. Ban ngày thì bếp dành cho một chiếc nồi đất nấu cơm, mà mấy bà Phật tử mỗi lần mở vung ra lại kêu trời: “Sư ông ăn vầy sao mà chịu nổi!” Sư ông cười: “Sao lại không nổi!” Trên lớp cơm ngà ngà vì gạo chỉ là loại thường, có một miếng tàu hủ trắng được hấp cả ngày. Và một chai nước tương, một hủ muối tiêu. Vậy là xong bữa của sư ông. Mấy bà Phật tử rối rít về nhà làm món canh, món xào đem vô cúng dường, lại bị sư ông rầy: “Phiền các vị quá, tôi mất phước. Thôi đừng làm nữa.” Cãi lời, sư ông giận. Nhưng rồi đến lúc ông không còn giận được nữa. Đổ cháo, đổ sữa vào miệng, ông cũng không buồn rầy la. Ông ra đi trong tiếng chuông ngân một chiều mưa, hưởng thọ hơn 90 tuổi. Ngoại tôi, nếu còn sống, chắc đã khóc nhiều. Bà lớn hơn sư ông vài tuổi, nhưng quy y với ông mấy chục năm. Đám tang bà, sư ông chống gậy ra ngồi, cố tụng một thời kinh bát nhã. Tiếng kinh như bị nén giữa lồng ngực khô héo, chỉ thấy đôi môi già nua mấp máy theo từng nhịp mõ buồn buồn.
Chú tiểu đánh chuông đã xong, bước xuống chắp tay chào tôi. Tôi hỏi: “Thầy đi chừng nào về vậy chú?” “Dạ chắc tới tối. Cô ngồi chơi, đợi thầy.” “Không, một lát tôi đi. Thầy có về nhờ chú nói giùm.” Chú tiểu hỏi tên tôi rồi lẩm nhẩm nhắc lại hai lần như sợ quên. “Chắc chú mới vào chùa?” “Dạ, cũng gần hai năm.” Tôi giật mình. Năm ngoái mình ăn Tết ở đâu? Tôi chớp mắt nhìn sang phương trượng, nơi ngày xưa sư ông ở, bây giờ là thầy trụ trì. “Thầy có mập lên chút nào không chú?”, tôi hỏi. Chú tiểu toét miệng cười: “Trời, thầy có mà tết Công-gô mới mập cô ơi!” Rồi chú hoảng hốt bụm miệng vì chợt nhớ mình ăn nói không đúng oai nghi. Tôi cũng phì cười: “Chú có đi học không? Lớp mấy rồi?” “Dạ, lớp bốn.” Tôi tưởng tượng cái áo nâu này đang đá banh, đá cầu trong sân trường, đang vật nhau với lũ bạn. Con nít thì cứ là con nít.
Chú tiểu đứng dậy bật công tắc điện. Ánh sáng yếu ớt tỏa ra từ chiếc đèn néon sáu tấc đã ố vàng, soi nhập nhòa bức tranh vẽ Tổ Bồ Đề Đạt Ma vác gậy trên vai có một chiếc giày treo lủng lẳng. Tôi buột miệng: “Chú ở đây buồn không?” Đôi mắt tròn xoe ngẩng lên. “Dạ không.” “Chỉ có thầy với chú thôi à?” “Dạ.” Tôi lẩm bẩm: “Cũng như ngày xưa, chỉ có sư ông và thầy...” Chú tiểu nhìn tôi trân trân, có lẽ không hiểu tôi nói gì...
Con đường từ chùa ra cổng dường như dài hơn. Tôi chầm chậm bước qua hàng bông trang, bông điệp, len lén hít vào lòng hương của những bông sứ trắng và cố níu giữ lấy mùi thơm của những luống vạn thọ đang nở hoa. Chợt ngoái lại phía sau, tôi thấy chú tiểu vẫn đứng nơi ngạch cửa nhìn theo. Chiếc áo nâu nhỏ nhắn nhòa vào bóng đêm đang buông xuống. Rồi chú sẽ lớn, thầy sẽ già như sư ông... Còn tôi, không biết có quay về?...
CÚNG PHẬT
Mẹ vừa đi dạy về đã buông phịch chiếc cặp xuống, la lên:
- Thôi chết rồi, mẹ quên mua hoa cúng Phật. Hai chị em Huệ, Hạnh ngồi gần đó, ngẩng lên phì cười:
- Ôi, tưởng gì, mẹ làm con hết hồn! Mẹ liếc hai đứa:
- Các con quên sao, mai là ngày rằm.
- Ờ há...
Hôm nay lớp của mẹ được tổ chuyên môn và cô Hiệu trưởng đến dự giờ, chuẩn bị hội thi giáo viên giỏi nên mẹ chú tâm, lo lắng nhiều đến nỗi quên cả mua hoa cúng Phật. Hạnh nghĩ thế. Và bây giờ thì vừa thay áo xong mẹ đã lăng xăng quét dọn bàn thờ. Mẹ lấy khăn nhúng nước lau chiếc khung kính có lồng bức vẽ Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi kiết già dưới gốc cây bồ đề, đầu tỏa sáng những vòng hào quang. Lớp bụi được lau đi càng làm bức vẽ sáng bừng lên, tươi vui. Rồi mẹ cẩn thận nhắc ba cái chung bằng sứ nhỏ xíu đặt trước tượng Phật, để vào chiếc thau đầy nước, chùi rửa sạch lớp cặn trà đóng vàng xung quanh. Mẹ làm tất cả những công việc này với dáng nhuần nhuyễn, quen tay, mà vẫn gượng nhẹ, nghiêm trang, thành kính. Huệ xuống bếp vo gạo bắc lên lò xô, còn Hạnh ngồi chống cằm nhìn mẹ.
- Mẹ ơi, tại sao lại cúng Phật bằng hoa? Cúng xôi chè, cúng xoài chuối Phật mới ăn được chớ mẹ!
Mẹ cười:
- Phật đâu có ăn, con! Cúng là dâng tấm lòng tưởng nhớ, tôn kính của mình lên Phật. Còn cúng hoa vì hoa tượng trưng cho những gì tốt đẹp, trong sáng, tinh khiết.
Hạnh nhìn lên bàn thờ, ở góc bên trái, bình hoa đã héo khô, mấy bông sen rũ xuống trở màu tím xám, vài cánh cong lên khô giòn dưới sức nóng của mái tole. Mẹ bưng bình hoa chuyển xuống cho Hạnh.
- Con đem ra nhà sau. Lát nữa mẹ cắm hoa mới vào. Hạnh buộc miệng:
- Mẹ ơi, hay là con đi chợ mua hoa giùm mẹ nghen!
Mẹ nhìn Hạnh:
- Ừ, cũng được.
Từ đây xuống chợ chỉ cách hai mươi căn nhà, Hạnh vẫn đi mua chanh, ớt giúp mẹ. Chỉ có điều, Hạnh chưa mua hoa lần nào.
- Cô Điệp quen với mẹ, con nói cô lựa cho một bó thật tươi. Cúng Phật phải cúng hoa tươi con à.
Huệ chạy lên nhắc em:
- Nhớ đó, hôm nọ chị mua nhầm bó hoa không đẹp lắm, bị mẹ la một trận.
Hạnh hớn hở cầm tiền chạy đi. Cô bé tưởng tượng lúc ôm bó hoa, hương thơm cứ xông vào mũi, thật là dễ chịu. Hạnh thích tất cả các thứ hoa. Nhưng không biết cô Điệp sẽ chọn cho Hạnh thứ nào đây? Xuống tới chợ, eo ơi, người ta bu đầy xung quanh cô Điệp. Cô vừa mang ra rất nhiều hoa đẹp mới cắt từ vườn. Công nhân viên chức tan ca nên chợ chiều thường rất đông. Một số chủ hoa khác cũng bán thật đắt. Người ta lượn qua, lượn lại, trả giá, chọn lựa... vui làm sao! Hạnh cũng cố len vào dòng người...
Bỗng cô bé nghe từ phía sau mình một giọng nói yếu ớt:
- Mua đi cô, tôi bán rẻ cho.
Hạnh quay lại. Một bà lão đang mời khách mua hoa. Bà ngồi cách cô Điệp hai gian, mấy bó vạn thọ cắm trong cái xô nhựa nhỏ xíu, không như cô Điệp chất đầy hoa lên bục gỗ trước mặt, vừa lèn chặt vào một xô to để sau lưng. Thế mà xem chừng cô vẫn không đủ bán. Còn hàng của bà lão thì không ai ngó ngàng tới. Một thím đi ngang vạch vạch những búp vạn thọ, lắc đầu:
- Nở quá, chưng mau tàn.
Rồi bỏ đi. Bà lão đau đáu nhìn theo. Đôi mắt bà mờ đục gần như bị che sụp bởi mi mắt già nua chảy xuống nhăn nheo. Khóe miệng mấp máy như muốn thốt thêm một lời năn nỉ, nước cốt trầu khô khốc in một vệt đỏ sậm cũng nhăn nheo, hằn gãy. Bà đưa bàn tay run run sửa lại bó vạn thọ vừa ngả nghiêng dưới tay thím kia. Những nụ hoa cố bung ra dâng hết màu vàng rực rỡ trong ánh nắng chiều, nhưng những chiếc lá thì đã không còn xanh thắm.
Hạnh nhìn sững bà lão. Đúng lúc ấy, bà ngẩng lên. Thấy cô bé, bà nở nụ cười như mếu vì cái miệng móm mém chẳng còn răng.
- Mua bông đi cháu, bà bán rẻ cho.
Hạnh bước tới. Bà lão rút bó vạn thọ lên, những giọt nước chảy xuống chiếc xô mang theo màu nâu của đất dính trong chùm rễ cây. - Cháu coi đi, bông còn đẹp lắm, mua giùm bà.
- Bao nhiêu vậy bà?
- Một ngàn đồng một bó. Bà bán vốn cho cháu.
Hạnh tần ngần cầm bó vạn thọ. Trong xô chỉ còn một bó nữa thôi, hình như cũng không đẹp gì hơn bó này, Hạnh không lựa được đâu. Cô bé bỗng buộc miệng:
- Sao bà lại đi bán hoa hở bà?
Bà cụ ngơ ngác nhìn Hạnh. Rồi bà cười, vẫn nụ cười như mếu.
- Bà bán từ hồi còn trẻ cháu à. Bây giờ nghèo quá không có vốn nên bán lẻ tẻ vài bó, chớ bà biết làm nghề gì.
- Lời nhiều không bà?
Bà lắc đầu:
- Mỗi bó lời hai, ba trăm, mà bán không hết, qua bữa sau coi như bỏ, lại lỗ cả ngàn đồng.
- Qua bữa sau hoa vẫn chưa héo mà bà.
- Ờ, nhưng khách không chịu mua.
- Chừng nào bà mới về?
- Thì chừng nào bà bán xong bó này.
Bà nâng niu bó hoa còn lại trong đôi tay khẳng khiu. Một vài chiếc lá bắt đầu mềm oặt đi. Màu vàng như nhức nhối trong ánh nắng tàn gay gắt của ngày. Hạnh cầm hết hai bó hoa.
- Cháu mua luôn bà ạ.
Cô bé đưa tờ giấy hai ngàn đồng. Bà cụ lính quýnh cầm lấy.
Hai bàn tay bà run run quấn sợi dây chuối quanh hai bó vạn thọ, hồi lâu mới buộc được cái gút cho chặt. Và bà đưa bó hoa cho Hạnh bằng cả hai tay như sợ làm đau những cánh hoa.
- Cẩn thận nghen cháu. Người đi chợ đông quá, họ đụng vô.
- Dạ.
Hạnh quày quả đi về, và cô bé cũng cầm bó vạn thọ bằng cả hai bàn tay, cố tránh những người đi chợ như cứ chực tông vào những nụ hoa.
Đến cửa nhà, Hạnh bỗng sực nhớ lời mẹ: “Cúng Phật bằng hoa tươi nghen con.” Hạnh giật mình nhìn xuống bó hoa. Ôi, sao bây giờ trông nó thảm thương quá? Nhiều cánh đã có một đường viền úa mờ mờ. Mấy chiếc lá rũ vào tay Hạnh như không còn sức sống. Hạnh hốt hoảng. Như một phản xạ, cô bé giấu phắt bó hoa ra sau lưng. Mẹ đâu rồi? Hạnh rón rén bước và mắt dớn dác tìm mẹ. Bàn thờ đã lau dọn sạch sẽ, chiếc cặp của mẹ vẫn còn để trên bàn. Không thấy mẹ, Hạnh chạy ù ra sau bếp. Chị Huệ đang lui cui chiên trứng.
- Dì Sáu nhờ mẹ qua cạo gió. Dì bị cảm.
Chị Huệ trả lời. Hạnh thở phào. Cô bé lao đến bên chiếc bình hoa đặt cạnh hồ nước, lật đật súc bình thật sạch và cắm hoa vào.
- Ủa. Chị Huệ tròn mắt suýt quên chảo trứng trên bếp. Bữa nay biết cắm hoa cúng Phật? Giỏi dữ vậy!
Hạnh lẳng lặng bưng bình hoa ra nhà trước. Bàn thờ cao quá. Cô bé kéo cái ghế đến, nín thở nhấc cái bình nặng trịch. Phào, cái bình đã ở đúng vị trí quen thuộc bên trái bàn thờ.
Hạnh bước xuống, dẹp cái ghế, đứng ngắm bình hoa. Chắc chắn là mẹ sẽ không phát hiện ra đâu, vì mẹ về thì có lẽ trời cũng nhá nhem tối, không nhìn rõ nữa. Hạnh thở khì một cái như trút hết bao nỗi lo lắng từ nãy đến giờ.
Nhưng khi mắt Hạnh chạm phải bức hình Phật thì lòng cô bé chợt xịu xuống. Hạnh cảm thấy có lỗi vì đã không chọn được bó hoa thật tươi, thật đẹp, thật tinh khiết dâng lên Phật. Người ta ra chợ đem về những cánh sen mơn mởn hồng, những búp huệ trắng muốt thơm lừng, những cành lay ơn đỏ thắm, quý phái... Vậy mà chỉ có mình Hạnh đem về bó hoa sắp héo úa, giỏi lắm là chiều mai nó sẽ gục xuống. Bàn thờ sẽ xấu xí, Phật không còn được ngắm những sắc màu rạng rỡ, ngửi được hương thơm dịu dàng của hoa... Chắc Phật sẽ giận, sẽ quở phạt Hạnh cho xem. Ôi, xin Phật tha lỗi cho con, lần sau con sẽ mua hoa thật tươi cúng Phật!
Hạnh len lén nhìn bức hình Phật lần nữa. Vòng hào quang vẫn lấp lánh ngũ sắc, cội bồ đề vẫn đứng vững chãi dưới những đám mây huyền diệu... Ơ mà lạ kìa, hình như Phật đang mỉm cười! Hạnh dụi mắt. Phật cười thật, Phật đang cười với Hạnh. Khuôn mặt từ bi không hề có một chút giận hờn trách móc. Và màu áo cà sa của Phật bỗng vàng rực lên, sao mà giống màu hoa vạn thọ...
Giải khuyến khích cuộc thi truyện ngắn báo Giác Ngộ 1997.
THẦY TRỤ TRÌ
Cái tin chùa Long Sơn có thầy trụ trì mới về chẳng làm dân trong xã ngạc nhiên chút nào. Đây là vị trụ trì thứ ba trong vòng ba năm. Dân nói với nhau: “Rồi thầy cũng đi thôi. Đất này, chùa có ‘huông’ rồi, linh lắm, không ai ở được.”
Chỉ có điều lạ là, thầy trụ trì về mà không có lễ “tấn phong” rình rang như trước, không có mặt chư Tăng Ni chứng minh như trước. Một buổi trưa, người ta thấy một bóng áo nâu lấm bụi đường, khuôn mặt ẩn sau vành nón rộng, tay nải oằn nặng trên vai, còn tay kia xách một bịch nylon thấy rõ những cuốn sách nằm xếp lớp bên trong. Con đường làng uốn lượn qua những khóm tre, khóm trúc, bóng xoài, bóng nhãn, nắng chấp chới trên chiếc áo nâu như một lời chào không rõ thân tình hay đùa nghịch.
Thầy về hôm trước, hôm sau đã nghe tiếng mõ công phu đều đều. Bà Tư Bèo nhà giáp đất chùa là người làm công quả đầu tiên. Không phải tốt gì lắm, mà do bà vốn quen qua vườn chùa hái đọt nhãn lồng về sắc cho ông chồng uống trị bệnh tim. Lúc chùa không có ai thì bà qua hái thoải mái, giờ có mặt thầy, không lẽ nín thinh không chào một tiếng, coi sao đặng. Rồi bà đon đả: “Thầy có làm gì tui làm tiếp cho thầy.” Thầy cười nhẹ: “Dạ, cũng chưa có việc gì.
À mà dì Tư có đi chợ tôi gởi mua giùm chai nước tuơng.” “Mèn ơi, vô tình quá. Thầy về hèn lâu mà hổng thấy thầy đi chợ. Rồi thầy ăn gì ha?” “Hồi về tôi có đem theo tương chao, đề phòng chợ xa. Bây giờ ăn hết rồi.” Bà Tư mau mắn: “Được, được, thầy đừng lo.” Bà chạy về nhà đem qua “cúng dường” liền một chén nước tương, thứ nước tương lẻ bán đong lít, đong xị, không ngon bằng tàu vị yểu nhưng lại đậm đà mùi đậu nguyên chất.
Từ đó bà Tư lui tới thuờng xuyên, giúp đỡ thầy phá dọn mảnh vườn đầy cỏ dại để trồng mấy thứ rau quả ăn dần. Thầy cuốc đất, lên liếp rồi gieo hạt đậu đũa, cà chua, xà lách, cải ngọt, bầu bí, mồng tơi... Lại thêm một luống vạn thọ để cắt hoa cúng Phật và nạo vét cái ao nhỏ gây lại giống sen. Bà Tư nhìn thầy làm mà chắt lưỡi: “Tui coi bộ tướng thầy y như thầy giáo. Hổng biết trụ được bao lâu!” Nói rồi bà biết mình lỡ lời nên hoảng hồn bụm miệng. Nhưng thầy chỉ cười: “Trụ được một ngày biết được một ngày.” Bà Tư nhìn gương mặt trẻ trung của thầy, chợt thấy vừa lo lắng vừa bực bội không diễn tả được. Bà phủi đít đứng dậy đi về nhà, bỏ quên luôn con dao làm cỏ. Thấm thoát, cà ra trái đỏ rực vườn chùa, đậu cũng lúc lỉu đầy giàn, và rau cải xanh um, bí bầu mơn mởn... Thầy ăn một mình không hết, cứ gọi xóm giềng đến cho. Riết rồi vườn chùa là của chung, ai muốn ăn gì cứ vô hái, chỉ cần nói: “Thầy ơi, cho con xin...” Hái xong, lấy thùng xuống mương xách nước quơ dùm thầy một vòng. Có hôm, chị Hai Ánh hái luôn cả thúng rau trái đem ra chợ bán, mua về tàu hủ, nước tương, chao, đường, bột ngọt... chất đầy bếp chùa. Chị không quên cái túm cà phê nhỏ để thầy tỉnh táo mà thức công phu. Chị còn kêu thằng con trai 17 tuổi của chị: “Đông, mày mạnh tay qua cuốc giùm thầy cái liếp cải coi.” Đông khà khà: “Làm giùm rồi thầy có đãi tui nhậu không? Từ hôm thầy về tới giờ chưa chịu liên hoan.”
Chị Hai nhớ lại vị trụ trì thứ hai, rất trẻ và cởi mở, cứ thù tiếp với cán bộ và thanh niên trong xã như bạn bè. Nhưng rồi không hiểu sao thầy cũng khăn gói ra đi. Chị quát thằng Đông, không cho nó nói bậy, nhưng trong lòng chị than thầm: “Chẳng biết ra sao...”
Sáu Kình công an ấp tới thăm chùa một buổi chiều, tay xách chai rượu thuốc vàng sậm. Cùng đi, có anh Năm Tân trưởng ban văn hóa thông tin xã. Năm Tân nức nở khen khu vườn chùa gọn gàng, sạch đẹp. Sáu Kình lại phẩy tay: “Tôi chỉ cám ơn thầy ở chỗ thầy làm quang đãng cho tụi ăn trộm không còn chỗ núp. Cả năm nay chùa hoang, vườn hoang, quản lý mệt quá. Thôi vô một ly nghen thầy.” Thầy nhỏ nhẹ: “Anh cảm phiền, tôi không biết uống rượu. Để tôi dọn cơm chay mời mấy anh ăn cho vui. Lâu lâu ăn cực với chùa một bữa nghen.” “Ăn cực cũng đâu có sao. Nhưng thầy phải uống với tôi mới vui. Ông thầy trước hòa đồng lắm.” “Dạ thôi, mấy anh cứ uống tự nhiên, còn tôi uống trà đá được rồi.”
Bữa cơm đâm ra mất hào hứng. Sáu Kình uống vô hai ly nhỏ rồi nhìn thầy chăm chăm: “Tui hỏi thiệt thầy nghen, thầy đẹp trai quá mà đi tu chi uổng vậy?” Thầy cười mỉm mỉm: “Lúc tám, chín tuổi tôi đã nhận ra mình ở trong chùa. Cha mẹ đâu chẳng rõ. Đến lớn, khi bắt đầu nhận thức được, tôi thấy yêu mến con đường Phật giáo nên tu luôn.” “Hà hà, thầy coi chừng mấy con nhỏ trong xóm đó nghen.” “Mô Phật, anh nói nghe kỳ quá!” Sáu Kình cười ngất: “Giỡn mà. Nhưng tôi cũng cầu trời cho thầy ở đây lâu hơn mấy ông kia...” Thầy lẳng lặng nhìn ra vườn chùa, nơi có những hoa cà đang ẩn trong lòng nó một trái nhỏ con con. Ráng chiều vàng rực bao lấy những cánh hoa tim tím dịu dàng.
Sân chùa trở thành nơi tụ tập của tụi con nít. Vị trụ trì đầu tiên có công lót gạch tàu hết khoảng sân rộng. Ông còn bắt tay xây lại nhà tổ rất quy mô. Nhưng hễ ai vào chùa mà không ý tứ giữ sạch sẽ hoặc nói năng không cẩn trọng liền bị ông quở. Nhưng sau đó ông lại ngồi than: “Ở các vùng quê, Phật tử chẳng được học hành giáo lý gì hết, khó mà hoằng pháp.” Ông thường xuyên rút vào phòng nghiên cứu kinh sách. Các Phật tử nhìn những cuốn từ điển dày cộp của ông, những bộ kinh hàng chục cuốn bao bìa mạ vàng cất trong tủ kính mà lắc đầu thán phục.
Tuy nhiên, chẳng bao lâu, ông bỏ đi, để lại ngôi nhà tổ đang cất dở dang. Đến khi vị trụ trì thứ ba về, chính là thầy, nhà tổ vẫn chưa trùng tu xong. Nhưng thầy chỉ tận dụng những tấm tôn cũ còn xài được, đem lên lợp, cốt sao tránh được mưa nắng. Duy cái sân gạch, thầy quét dọn sạch sẽ và cho phép đám trẻ con vào chơi. Thầy chỉ dặn: “Các con đừng ngắt bông, để dành cúng Phật, Phật sẽ thương cho các con học giỏi. Giờ trưa thì về nhà để yên tịnh cho thầy nghỉ ngơi.” Tụi nhỏ dạ rân.
Một hôm, con bé Thảo cháu bà Ba Lý rụt rè hỏi: “Thầy ơi, con hổng có đi học rồi làm sao Phật thương cho con học giỏi.” Nhà con bé nghèo quá, cả đám anh chị em đẻ năm một lít nhít, ăn còn không đủ, lấy tiền đâu đi học. Thầy vuốt tóc nó: “Thôi, mỗi bữa con đến đây thầy dạy cho.” Bữa nào bé Thảo cũng ẵm em tới sân chùa chơi với tụi bạn trong xóm, nhưng từ đó thay vì chơi suốt, nó dành ra một tiếng đồng hồ học chữ với thầy. Thầy cho nó cả tập, viết, thước kẻ... Nó mừng lắm, cưng cuốn tập như cưng vàng.
Lũ trẻ thấy bé Thảo học, cũng ngưng ngang cuộc chơi, đứng ngó. Trong đám ấy, rất nhiều đứa không được đến trường. Vậy là, tụi nó về nhà kể với ba má, xin học với thầy. Sân chùa thành “lớp tình thương” khiến ông chủ tịch ấp cảm ơn rối rít. Thầy dành dụm tiền bán đậu, bán cà mua tập viết cho lũ trẻ. Đổi lại, tụi nhỏ cứ quấn quít bên thầy, quét sân, lau chùa, phơi củi như một bầy con. Lâu dần, bớt nghe tụi nó chửi thề, đánh lộn. Bà Tư Bèo nói: “Ông thầy có phép gì mà khiển được đám lâu la này vậy cà?”
Sân chùa còn vang tiếng hát ca của đám thanh niên trong xóm. Cái hôm gần đến lễ Quốc khánh, xã có chuẩn bị hội diễn văn nghệ, thầy kêu thằng Đông: “Em có đăng ký hát không? Rủ bạn bè sinh hoạt văn nghệ cho vui. Qua sân chùa mà tập cho rộng rãi.” Đông liền kéo đám bạn vô chùa. Lần đó, ấp 3 của Đông được giải nhì, tụi nhỏ rinh nguyên nồi chè vô liên hoan với thầy và gọi đùa đây là “nhà văn hóa.”
Nhưng cơn lũ đã ào tới phá vỡ sự bình yên của cái xã heo hút. Sân chùa vắng ngắt, chỉ có lũ chim trên cành me kêu ríu ran nhớ nắng, nhớ tiếng cười của bầy trẻ nhỏ. Mỗi tối, thầy tụng kinh một mình, chuông mõ như cũng ngóng theo từng con nước lên. Dân trong xã nháo nhác chạy đi tìm đường tránh lũ. Chủ tịch xã quyết định đắp đê bao cứu lúa. Hy vọng vớt vát được phần nào, chứ không mất trắng như cơn lũ năm rồi.
Dân trong xã ủng hộ quyết định này, ùn ùn kéo đi như những ngày đắp đê làm thủy lợi. Tờ mờ sáng đã thấy dòng người đổ ra đồng, xếp dài theo những tuyến kinh, nơi mà con nước sẵn sàng phá vỡ để tràn vào gây họa. Kẻ cầm leng móc đất, kẻ đứng đóng cừ tràm, các dì các chị thì lấy bao khiêng đất. Tiếng đất thảy nghe bình bịch, tiếng nước sôi réo đằng sau bờ đê... Mặt mũi ai nấy lấm lem hiện rõ dần trong ánh ban mai. Trong đó có một tà áo nâu bết bùn và một gương mặt lấm chấm sình non ẩn dưới vành nón lá. Chị Hai Ánh xách ấm nước đi tới, rót ra một ly: “Thầy uống đi thầy, rồi nghỉ mệt chút.” Mấy người đứng gần đó liền phụ họa: “Ừ, thầy nghỉ tay đi. Tội nghiệp, thầy ăn chay ăn lạt, sức đâu làm như tụi tui.”
Thì ra có mặt thầy trụ trì chùa Long Sơn trong đám người đi cứu lúa. Thầy lắc đầu, mặt đỏ hồng dưới ánh nắng: “Dạ cô bác yên tâm, tôi chưa mệt đâu mà...” Bà Tư Bèo chợt vỗ đùi cái đét: “Tui nhớ ra rồi, niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì đỡ mệt hơn, như hồi mình leo núi Sam vậy mà. Nam mô...” Nghe giọng bà Tư niệm Phật, ai nấy không nhịn được, cười ồ lên. Phút chốc mà con đê đã vượt khỏi mực nước rất xa, chỉ thấy những con sóng tức tối vỗ bên kia bờ đất, đục ngầu những con mắt bọt nhìn theo đám người thở phào sau mấy ngày vất vả...
Thầy Long Sơn khẽ cúi xuống nâng một bông lúa bị chân ai đó vô tình giẫm lên. Bông lúa ửng vàng trong đôi mắt thầy rưng rưng...
Lần đầu tiên chùa Long Sơn tổ chức lễ Phật Đản vui như vậy. Trước đó, chú Bảy Kiên Chủ tịch xã vô chơi với thầy, nhắc thầy sao “im re” “Tôi đi họp, thấy mấy chùa kia xin phép tổ chức lễ, gởi thư mời ì xèo lắm, còn thầy có định làm gì không? Hay là tôi cho mấy đứa bên văn hóa thông tin vô tiếp thầy dán băng rôn? Ờ, thầy về đây lâu quá mà hổng thấy thuyết pháp gì hết, thôi kỳ lễ này thầy lên giảng sơ sơ cho dân nghe. Tôi cũng muốn chùa làm lễ xôm xôm một chút, mừng bà con mình thoát lũ.”
Thầy mỉm cười cảm ơn chú Bảy. Chú đi quanh quanh ra sân chùa, thích thú khen đám kiểng non thầy mới gầy dựng. “Tôi cũng ưng các hoạt động văn hóa như vầy, kẻo người ta nói xứ mình khô cằn. Thầy ơi, bữa nào rảnh thầy chỉ tôi uốn kiểng nghen.” “Được mà, chỉ sợ chú không rảnh việc nước đó thôi.” Chú Bảy lắc đầu: “Công việc thì làm hoài hổng hết, hễ muốn chơi thì chơi chớ biết chừng nào mới rảnh hả thầy - Chú sực nhớ - À, còn lớp học tình thương của thầy nữa, tôi đã xin được một mớ tập viết cho tụi nhỏ, tiếp tay với thầy.
Vài bữa tôi cho người đem vô. Thầy có khó khăn gì không, cứ nói tôi liệu tiếp được phần nào thì tiếp.” Thầy cười: “Bây giờ chưa thấy khó gì hết!” Chú Bảy thủ thỉ: “Xã mình nghèo quá, thôi thì thầy chung lo với tụi tôi. Coi bộ thầy ở đây ‘hợp’ à nghen. Vậy mà mấy người trong xã cứ đồn chùa này có huông, tôi không tin.”
Chú Bảy ra về, bắt tay thầy thân mật, không quên cầm theo “quà tặng” của thầy là một rổ cà chua đỏ hồng hoàn toàn không xịt thuốc sâu và phân hóa học.
Tiếng trống Bát nhã vang lên ấm cả một quãng đồng. Tiếng đại hồng chung ngân nga rơi trên những cành lá xanh mướt... Buổi lễ Phật Đản tuy đơn sơ nhưng long trọng và chan hòa tình cảm giữa mái chùa cùng thôn xóm. Sau các nghi thức lễ, mọi người ngồi quây quần trong chánh điện, thầy ngồi giữa, thuyết pháp đúng 30 phút, đề tài Từ Bi. Giọng thầy trầm trầm, lời lẽ giản dị, vậy mà ai nấy cứ xuýt xoa: “Mèn ơi, thầy giảng hay quá mà thầy giấu nghề!” Khói nhang bay quấn lấy những gương mặt dãi dầu mưa nắng nhưng chất phác, chân thành. Trên cao, Đức Phật đang nhìn xuống với một nụ cười hiền hậu. Và trong tay Phật, có một cành sen không lời.
SẺ CHIA
Chị Tám nằm nghiêng vào vách, cố ngăn những giọt nước mắt trào ra. Suốt đêm chị không ngủ được, tai nghe tiếng con thằn lằn tặc lưỡi mà tưởng như tiếng than thở của chính mình. Chị không ngờ mình ăn hiền ở lành như thế, cố gắng chu toàn bổn phận làm vợ, làm mẹ, làm dâu như thế, mà bây giờ “người ta” lại phản bội chị. Trời ơi, hai tiếng “phản bội” làm lòng chị đau như cắt. Rồi chị khóc. Khóc tự lúc nào không hay... Thôi, không kềm nén được nữa, những giọt nước mắt cứ lăn dài, lăn dài xuống chiếc gối mà chị đã nằm suốt bao nhiêu năm hạnh phúc...
“Người ta” đây là anh Tám, người chồng chị rất mực yêu thương. Hồi mới cưới nhau, nhà nghèo, cha mẹ già, chị cùng anh chịu đựng vất vả, làm lụng đầu tắt mặt tối để xây dựng cơ ngơi. Chị hy sinh hết cho chồng con được sung sướng. Chị chỉ có một niềm vui duy nhất là được quỳ dưới chân Đức Phật lễ lạy hằng đêm, xin Ngài gia hộ, và nguyện tu sửa thân tâm xứng đáng với lời dạy của Ngài. Ánh mắt từ bi của Đức Phật hòa cùng khói hương trầm làm chị cảm thấy nhẹ nhõm, an lạc, để tiếp tục chịu đựng thêm một ngày vất vả nữa.
Một ngày, lại một ngày... Bao nhiêu năm đã trôi qua... Giờ đây gia đình đã vượt cơn khó khăn, đã tạm gọi là ổn định. Chị có thể rảnh rang đôi chút để đi chùa, làm công quả, nghe kinh, tạ ơn Trời Phật. Chị vui với cảnh thiền môn thanh tịnh hơn là những thú chơi đùa bên ngoài. Mỗi lần đi chùa về, thấm nhuần giáo pháp của Đức Phật, chị lại thấy yêu thương mái gia đình của mình hơn, càng muốn cư xử hòa ái, muốn làm những điều tốt đẹp, tận tụy cho chồng con được hạnh phúc. Đó là bổn phận của người Phật tử tại gia mà chị được học và muốn thực hành ngay trong đời sống của mình. Với xóm giềng, chị cũng hết mực tử tế, giúp đỡ. Cả xóm đều khen chị và cầu mong cho chị được hưởng phước lành xứng đáng với tấm lòng của chị.
Chị cũng thấy mình “có phước”, tuy nghèo khó buổi ban đầu nhưng bù lại có được người chồng cần cù, lương thiện. Anh Tám không ham mê rượu chè, cờ bạc như phần lớn những người đàn ông ở nông thôn. Người ta đi làm về mệt, quanh quẩn ở quê đâu có gì vui chơi giải trí, thế là chỉ còn cách sà vào bàn rượu uống ít ly đế giải sầu. Rồi buồn buồn cầm lá bài lên chơi, cũng trôi qua ngày tháng. Nhưng anh Tám thì không. Hết đi đồng thăm lúa, lại về nhà tẩn mẩn đóng lại chuồng gà chuồng vịt, sửa bàn sửa ghế cho vợ con, hoặc chăm sóc cha mẹ già. Rảnh lắm thì anh ngồi nựng con, làm trâu cho nó cỡi. Thằng con lớn bộn rồi mà vẫn leo lên lưng ba. Hai cha con “nghé ọ, nghé ọ” vang nhà. Lúc đó, chị Tám nghĩ, mình có chết vì anh mình cũng vui lòng.
Vậy mà, không ngờ cái cảnh đầm ấm đó nay đã vỡ tan như bọt bong bóng trời mưa. Chị Tám ngồi dậy, nhìn qua khung cửa sổ, nơi màn mưa đang giăng kín trời đêm. Mưa không lớn mà tí tách tí tách buồn thúi ruột. Mưa như vầy thường nổi lên rất nhiều bong bóng. Bong bóng phập phồng trôi dưới thềm gạch, rồi vỡ ra không một tiếng vang. Cũng như hạnh phúc của chị vỡ ra không một tiếng vang. Cái tin anh Tám có vợ bé lọt vào tai chị, chị cứ tưởng chuyện đùa. Đến lúc chị hỏi anh, anh thú thiệt mà chị vẫn không tin. Khi chị thực sự tin rồi, chị vẫn nghĩ đó là một giấc chiêm bao. Giấc chiêm bao của đời chị. Chị đã ngủ ngay trên chính hạnh phúc của mình. Giờ tỉnh dậy, hạnh phúc tan biến, chỉ còn lại nỗi luyến tiếc, khổ đau. Nước mắt khô lại thành một dòng căng căng trên má, chị cũng không buồn lau. Chị bước xuống giường, bất giác đi về phía bàn thờ Phật. Từ ngày đó chị đã không còn ngủ chung với anh Tám, nên những đêm chị thức trăn trở cũng không làm phiền ai. Ban ngày chị vẫn giữ mọi nếp sinh hoạt cũ, vẫn tận tụy lo lắng cho anh Tám như không có gì xảy ra. Nhưng ban đêm, chị mới để cho nước mắt của mình tuôn rơi, và thường quỳ dưới chân tượng Phật như tìm một nơi nương tựa, chở che.
Đêm nay cũng vậy, chị thắp ba cây hương, cắm lên, rồi quỳ phục xuống, lòng trống rỗng, mệt mỏi, không niệm được câu nào, không suy nghĩ được điều gì. Rất lâu, chị ngước mắt lên nhìn ảnh Phật. Dưới ngọn đèn mờ mờ, gương mặt Phật vẫn sáng ngời một ánh sáng từ bi, hỷ xả. Vẫn nụ cười như là không cười, nhưng hé mở một niềm an lạc vô biên. Chị Tám nhìn mãi nụ cười ấy, cho đến lúc chị nghe thoang thoảng mùi hương của hoa sen, chị mới giật mình. Trời ơi, bình hoa trên bàn thờ đã héo khô mà chị quên thay. Những ngày này, tâm trí chị cứ đảo điên như thế nào ấy.
Chị vói tay cầm cái bình xuống. Những bông sen héo rũ, xám xịt một màu buồn bã. Nhưng lạ kỳ chưa, hương sen sao mà cứ phảng phất không rời. Ngón tay chị Tám mân mê cái búp sen thon thả xinh xinh như hai bàn tay chắp vào nhau. Tuy giờ đã nhũn ra, nhưng dáng của nó vẫn dễ thương quá. Và khi ngón tay chị Tám chạm vào cái cuống đầy gai, một luồng cảm xúc chợt dâng lên làm chị choàng tỉnh. Gai hoa nham nhám cứa vào da chị khiến chị tỉnh táo lạ kỳ.
Chị nhìn đăm đăm bình hoa trong tay. Mới hôm nào cánh sen hãy còn mơn mởn hồng tươi, và chị đã vui sướng cắm nó vào bình dâng lên cúng Phật. Thế mà bây giờ, cánh nào cũng úa tàn, nhụy nào cũng rã rời bay xuống đất. Chính bàn tay thời gian đã thực thi cái lý “vô thường.” Vạn vật rồi cũng theo luật ấy. Có cái gì thường còn mãi đâu. Có sanh thì có diệt. Có tươi thắm thì có úa tàn. Có hạnh phúc thì có khổ đau. Chị Tám chợt liên tưởng đến phận mình, có khác chi những cánh sen này. Tất cả đều chịu chung quy luật vô thường. Tại sao chị lại cầu mong cái hạnh phúc kia trở nên bền vững? Tại sao chị lại tin chắc rằng nó không thay đổi? Tại sao chị lại bắt cái tâm anh Tám mãi đứng yên? Như vậy há chẳng phải chị muốn mọi vật quanh chị đi ngược lại cái quy luật kia không? Vậy mà chị vẫn tự hào chị là Phật tử thuần thành, rằng chị học thuộc giáo pháp của Đức Phật.
Giờ đây đụng tới cái vật sở hữu của chị thì mới thấy chị chống chọi với “cái hiểu” của mình như thế nào. Than ôi, giữa “hiểu” và “thực hành” giáo lý là cả một khoảng cách.
Chị Tám thở dài, nhận ra mình đã thua trong cuộc thi này. Vâng, có thi mới biết mình đậu hay rớt. Có vấp phải trở ngại trên đời thì mới biết mình hay dở ra sao. Có lẽ Đức Phật bày ra cơ sự này để thử thách chị hay chăng? Bất giác, chị ngước mắt nhìn lên ảnh Phật, thẳng thắn nhìn vào đôi mắt của đấng Từ Phụ. Chị hỏi Phật, phải chăng Ngài đang làm cuộc trắc nghiệm đối với đệ tử của Ngài?
Phật vẫn im lặng ngồi tĩnh tọa trước cội bồ đề. Không có câu trả lời nào cho chị. Không gian im ắng đến mức chị Tám cũng không còn nghe những giọt mưa tí tách ngoài sân. Phật không nói lời nào, không bao giờ nói. Duy nụ cười, ồ nụ cười sao mà rạng rỡ ánh từ bi hỷ xả. Nụ cười đã kéo chị Tám trở lại thực tế. Trong chị bỗng lóe lên một luồng ánh sáng nhiệm mầu, nó chợt xua tan đi tất cả nặng nề từ suốt đêm nay, nó nâng chị lên khỏi niềm u uất, rã rời mà chị đã cố gắng chịu đựng. Chị bỗng thấy mình phải làm một cái gì đó, thực sự là phải làm, phải quyết định dứt khoát. Việc làm ấy sẽ chấm dứt mọi suy nghĩ mơ hồ, ngổn ngang trong lòng chị bấy lâu nay, đưa chị đến một sự ổn định, nhẹ nhõm hơn. Chị tin rằng nếu chị làm được việc ấy thì chị sẽ trở nên bình tâm hơn, dù nó sẽ là một bất ngờ đối với mọi người và ngay cả đối với chị.
Chị Tám nhẹ nhàng đặt bình hoa lên chỗ cũ, tự nhắc mình ngày mai phải mua hoa mới thay vào. Dẫu sao, điều quan trọng với chị là hương hoa còn thơm ngát dù sắc hoa đã thay đổi, úa tàn.
Lâu lắm rồi chị mới bước vào phòng anh Tám. Bước chân chị hơi bối rối, nhưng rồi dần dần tự tin, mạnh mẽ hơn. Anh Tám ngồi bật dậy, không khỏi ngạc nhiên nhìn chị. Lòng anh chợt quặn lên khi thấy vóc dáng nhỏ bé của người vợ nay như nhỏ bé thêm, và khuôn mặt tuy có vẻ thanh thản hơn nhưng cũng còn hốc hác, để lộ đôi gò má xương xương vì mất ngủ. Anh lật đật kéo tay chị ngồi xuống mép gường.
Nhưng chị đã kêu anh ra bộ ghế mây cạnh đó, rót hai ly trà nhỏ để trước mặt hai người. Thái độ nghiêm trang của chị làm anh lo sợ. Và rồi anh điếng hồn khi nghĩ rằng chị sẽ đòi ly dị. Mấy tháng nay chị không nói lời nào, đã như một bản án treo dành cho anh. Thà là chị la lối, hạch hỏi, thậm chí đi đánh ghen, thì anh cũng biết đường mà phản ứng. Đàng này chị chỉ yêu cầu anh kể hết mọi việc cho chị nghe, rồi chị tới nhà cô “vợ bé” của anh một lần, nhìn mặt cô ta. Anh đã chờ đợi những giọt nước mắt, chờ đợi những lời đay nghiến, những tiếng chén bát đổ vỡ... Vậy mà tuyệt không. Chỉ có điều, anh phải nằm ngủ một mình trong căn phòng mà hai vợ chồng đã từng hạnh phúc. Anh tự nguyền rủa mình hư hỏng, tệ bạc. Anh tự mắng mình là một thằng chồng khốn nạn, có người vợ đảm đang, hiền thục, thủy chung như thế mà mình lại đang tâm làm khổ. Anh không muốn chị khổ nữa, anh quyết định cắt đứt với cô gái kia.
Mẹ vừa đi dạy về đã buông phịch chiếc cặp xuống, la lên:
- Thôi chết rồi, mẹ quên mua hoa cúng Phật. Hai chị em Huệ, Hạnh ngồi gần đó, ngẩng lên phì cười:
- Ôi, tưởng gì, mẹ làm con hết hồn! Mẹ liếc hai đứa:
- Các con quên sao, mai là ngày rằm.
- Ờ há...
Hôm nay lớp của mẹ được tổ chuyên môn và cô Hiệu trưởng đến dự giờ, chuẩn bị hội thi giáo viên giỏi nên mẹ chú tâm, lo lắng nhiều đến nỗi quên cả mua hoa cúng Phật. Hạnh nghĩ thế. Và bây giờ thì vừa thay áo xong mẹ đã lăng xăng quét dọn bàn thờ. Mẹ lấy khăn nhúng nước lau chiếc khung kính có lồng bức vẽ Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi kiết già dưới gốc cây bồ đề, đầu tỏa sáng những vòng hào quang. Lớp bụi được lau đi càng làm bức vẽ sáng bừng lên, tươi vui. Rồi mẹ cẩn thận nhắc ba cái chung bằng sứ nhỏ xíu đặt trước tượng Phật, để vào chiếc thau đầy nước, chùi rửa sạch lớp cặn trà đóng vàng xung quanh. Mẹ làm tất cả những công việc này với dáng nhuần nhuyễn, quen tay, mà vẫn gượng nhẹ, nghiêm trang, thành kính. Huệ xuống bếp vo gạo bắc lên lò xô, còn Hạnh ngồi chống cằm nhìn mẹ.
- Mẹ ơi, tại sao lại cúng Phật bằng hoa? Cúng xôi chè, cúng xoài chuối Phật mới ăn được chớ mẹ!
Mẹ cười:
- Phật đâu có ăn, con! Cúng là dâng tấm lòng tưởng nhớ, tôn kính của mình lên Phật. Còn cúng hoa vì hoa tượng trưng cho những gì tốt đẹp, trong sáng, tinh khiết.
Hạnh nhìn lên bàn thờ, ở góc bên trái, bình hoa đã héo khô, mấy bông sen rũ xuống trở màu tím xám, vài cánh cong lên khô giòn dưới sức nóng của mái tole. Mẹ bưng bình hoa chuyển xuống cho Hạnh.
- Con đem ra nhà sau. Lát nữa mẹ cắm hoa mới vào. Hạnh buộc miệng:
- Mẹ ơi, hay là con đi chợ mua hoa giùm mẹ nghen!
Mẹ nhìn Hạnh:
- Ừ, cũng được.
Từ đây xuống chợ chỉ cách hai mươi căn nhà, Hạnh vẫn đi mua chanh, ớt giúp mẹ. Chỉ có điều, Hạnh chưa mua hoa lần nào.
- Cô Điệp quen với mẹ, con nói cô lựa cho một bó thật tươi. Cúng Phật phải cúng hoa tươi con à.
Huệ chạy lên nhắc em:
- Nhớ đó, hôm nọ chị mua nhầm bó hoa không đẹp lắm, bị mẹ la một trận.
Hạnh hớn hở cầm tiền chạy đi. Cô bé tưởng tượng lúc ôm bó hoa, hương thơm cứ xông vào mũi, thật là dễ chịu. Hạnh thích tất cả các thứ hoa. Nhưng không biết cô Điệp sẽ chọn cho Hạnh thứ nào đây? Xuống tới chợ, eo ơi, người ta bu đầy xung quanh cô Điệp. Cô vừa mang ra rất nhiều hoa đẹp mới cắt từ vườn. Công nhân viên chức tan ca nên chợ chiều thường rất đông. Một số chủ hoa khác cũng bán thật đắt. Người ta lượn qua, lượn lại, trả giá, chọn lựa... vui làm sao! Hạnh cũng cố len vào dòng người...
Bỗng cô bé nghe từ phía sau mình một giọng nói yếu ớt:
- Mua đi cô, tôi bán rẻ cho.
Hạnh quay lại. Một bà lão đang mời khách mua hoa. Bà ngồi cách cô Điệp hai gian, mấy bó vạn thọ cắm trong cái xô nhựa nhỏ xíu, không như cô Điệp chất đầy hoa lên bục gỗ trước mặt, vừa lèn chặt vào một xô to để sau lưng. Thế mà xem chừng cô vẫn không đủ bán. Còn hàng của bà lão thì không ai ngó ngàng tới. Một thím đi ngang vạch vạch những búp vạn thọ, lắc đầu:
- Nở quá, chưng mau tàn.
Rồi bỏ đi. Bà lão đau đáu nhìn theo. Đôi mắt bà mờ đục gần như bị che sụp bởi mi mắt già nua chảy xuống nhăn nheo. Khóe miệng mấp máy như muốn thốt thêm một lời năn nỉ, nước cốt trầu khô khốc in một vệt đỏ sậm cũng nhăn nheo, hằn gãy. Bà đưa bàn tay run run sửa lại bó vạn thọ vừa ngả nghiêng dưới tay thím kia. Những nụ hoa cố bung ra dâng hết màu vàng rực rỡ trong ánh nắng chiều, nhưng những chiếc lá thì đã không còn xanh thắm.
Hạnh nhìn sững bà lão. Đúng lúc ấy, bà ngẩng lên. Thấy cô bé, bà nở nụ cười như mếu vì cái miệng móm mém chẳng còn răng.
- Mua bông đi cháu, bà bán rẻ cho.
Hạnh bước tới. Bà lão rút bó vạn thọ lên, những giọt nước chảy xuống chiếc xô mang theo màu nâu của đất dính trong chùm rễ cây. - Cháu coi đi, bông còn đẹp lắm, mua giùm bà.
- Bao nhiêu vậy bà?
- Một ngàn đồng một bó. Bà bán vốn cho cháu.
Hạnh tần ngần cầm bó vạn thọ. Trong xô chỉ còn một bó nữa thôi, hình như cũng không đẹp gì hơn bó này, Hạnh không lựa được đâu. Cô bé bỗng buộc miệng:
- Sao bà lại đi bán hoa hở bà?
Bà cụ ngơ ngác nhìn Hạnh. Rồi bà cười, vẫn nụ cười như mếu.
- Bà bán từ hồi còn trẻ cháu à. Bây giờ nghèo quá không có vốn nên bán lẻ tẻ vài bó, chớ bà biết làm nghề gì.
- Lời nhiều không bà?
Bà lắc đầu:
- Mỗi bó lời hai, ba trăm, mà bán không hết, qua bữa sau coi như bỏ, lại lỗ cả ngàn đồng.
- Qua bữa sau hoa vẫn chưa héo mà bà.
- Ờ, nhưng khách không chịu mua.
- Chừng nào bà mới về?
- Thì chừng nào bà bán xong bó này.
Bà nâng niu bó hoa còn lại trong đôi tay khẳng khiu. Một vài chiếc lá bắt đầu mềm oặt đi. Màu vàng như nhức nhối trong ánh nắng tàn gay gắt của ngày. Hạnh cầm hết hai bó hoa.
- Cháu mua luôn bà ạ.
Cô bé đưa tờ giấy hai ngàn đồng. Bà cụ lính quýnh cầm lấy.
Hai bàn tay bà run run quấn sợi dây chuối quanh hai bó vạn thọ, hồi lâu mới buộc được cái gút cho chặt. Và bà đưa bó hoa cho Hạnh bằng cả hai tay như sợ làm đau những cánh hoa.
- Cẩn thận nghen cháu. Người đi chợ đông quá, họ đụng vô.
- Dạ.
Hạnh quày quả đi về, và cô bé cũng cầm bó vạn thọ bằng cả hai bàn tay, cố tránh những người đi chợ như cứ chực tông vào những nụ hoa.
Đến cửa nhà, Hạnh bỗng sực nhớ lời mẹ: “Cúng Phật bằng hoa tươi nghen con.” Hạnh giật mình nhìn xuống bó hoa. Ôi, sao bây giờ trông nó thảm thương quá? Nhiều cánh đã có một đường viền úa mờ mờ. Mấy chiếc lá rũ vào tay Hạnh như không còn sức sống. Hạnh hốt hoảng. Như một phản xạ, cô bé giấu phắt bó hoa ra sau lưng. Mẹ đâu rồi? Hạnh rón rén bước và mắt dớn dác tìm mẹ. Bàn thờ đã lau dọn sạch sẽ, chiếc cặp của mẹ vẫn còn để trên bàn. Không thấy mẹ, Hạnh chạy ù ra sau bếp. Chị Huệ đang lui cui chiên trứng.
- Dì Sáu nhờ mẹ qua cạo gió. Dì bị cảm.
Chị Huệ trả lời. Hạnh thở phào. Cô bé lao đến bên chiếc bình hoa đặt cạnh hồ nước, lật đật súc bình thật sạch và cắm hoa vào.
- Ủa. Chị Huệ tròn mắt suýt quên chảo trứng trên bếp. Bữa nay biết cắm hoa cúng Phật? Giỏi dữ vậy!
Hạnh lẳng lặng bưng bình hoa ra nhà trước. Bàn thờ cao quá. Cô bé kéo cái ghế đến, nín thở nhấc cái bình nặng trịch. Phào, cái bình đã ở đúng vị trí quen thuộc bên trái bàn thờ.
Hạnh bước xuống, dẹp cái ghế, đứng ngắm bình hoa. Chắc chắn là mẹ sẽ không phát hiện ra đâu, vì mẹ về thì có lẽ trời cũng nhá nhem tối, không nhìn rõ nữa. Hạnh thở khì một cái như trút hết bao nỗi lo lắng từ nãy đến giờ.
Nhưng khi mắt Hạnh chạm phải bức hình Phật thì lòng cô bé chợt xịu xuống. Hạnh cảm thấy có lỗi vì đã không chọn được bó hoa thật tươi, thật đẹp, thật tinh khiết dâng lên Phật. Người ta ra chợ đem về những cánh sen mơn mởn hồng, những búp huệ trắng muốt thơm lừng, những cành lay ơn đỏ thắm, quý phái... Vậy mà chỉ có mình Hạnh đem về bó hoa sắp héo úa, giỏi lắm là chiều mai nó sẽ gục xuống. Bàn thờ sẽ xấu xí, Phật không còn được ngắm những sắc màu rạng rỡ, ngửi được hương thơm dịu dàng của hoa... Chắc Phật sẽ giận, sẽ quở phạt Hạnh cho xem. Ôi, xin Phật tha lỗi cho con, lần sau con sẽ mua hoa thật tươi cúng Phật!
Hạnh len lén nhìn bức hình Phật lần nữa. Vòng hào quang vẫn lấp lánh ngũ sắc, cội bồ đề vẫn đứng vững chãi dưới những đám mây huyền diệu... Ơ mà lạ kìa, hình như Phật đang mỉm cười! Hạnh dụi mắt. Phật cười thật, Phật đang cười với Hạnh. Khuôn mặt từ bi không hề có một chút giận hờn trách móc. Và màu áo cà sa của Phật bỗng vàng rực lên, sao mà giống màu hoa vạn thọ...
Giải khuyến khích cuộc thi truyện ngắn báo Giác Ngộ 1997.
THẦY TRỤ TRÌ
Cái tin chùa Long Sơn có thầy trụ trì mới về chẳng làm dân trong xã ngạc nhiên chút nào. Đây là vị trụ trì thứ ba trong vòng ba năm. Dân nói với nhau: “Rồi thầy cũng đi thôi. Đất này, chùa có ‘huông’ rồi, linh lắm, không ai ở được.”
Chỉ có điều lạ là, thầy trụ trì về mà không có lễ “tấn phong” rình rang như trước, không có mặt chư Tăng Ni chứng minh như trước. Một buổi trưa, người ta thấy một bóng áo nâu lấm bụi đường, khuôn mặt ẩn sau vành nón rộng, tay nải oằn nặng trên vai, còn tay kia xách một bịch nylon thấy rõ những cuốn sách nằm xếp lớp bên trong. Con đường làng uốn lượn qua những khóm tre, khóm trúc, bóng xoài, bóng nhãn, nắng chấp chới trên chiếc áo nâu như một lời chào không rõ thân tình hay đùa nghịch.
Thầy về hôm trước, hôm sau đã nghe tiếng mõ công phu đều đều. Bà Tư Bèo nhà giáp đất chùa là người làm công quả đầu tiên. Không phải tốt gì lắm, mà do bà vốn quen qua vườn chùa hái đọt nhãn lồng về sắc cho ông chồng uống trị bệnh tim. Lúc chùa không có ai thì bà qua hái thoải mái, giờ có mặt thầy, không lẽ nín thinh không chào một tiếng, coi sao đặng. Rồi bà đon đả: “Thầy có làm gì tui làm tiếp cho thầy.” Thầy cười nhẹ: “Dạ, cũng chưa có việc gì.
À mà dì Tư có đi chợ tôi gởi mua giùm chai nước tuơng.” “Mèn ơi, vô tình quá. Thầy về hèn lâu mà hổng thấy thầy đi chợ. Rồi thầy ăn gì ha?” “Hồi về tôi có đem theo tương chao, đề phòng chợ xa. Bây giờ ăn hết rồi.” Bà Tư mau mắn: “Được, được, thầy đừng lo.” Bà chạy về nhà đem qua “cúng dường” liền một chén nước tương, thứ nước tương lẻ bán đong lít, đong xị, không ngon bằng tàu vị yểu nhưng lại đậm đà mùi đậu nguyên chất.
Từ đó bà Tư lui tới thuờng xuyên, giúp đỡ thầy phá dọn mảnh vườn đầy cỏ dại để trồng mấy thứ rau quả ăn dần. Thầy cuốc đất, lên liếp rồi gieo hạt đậu đũa, cà chua, xà lách, cải ngọt, bầu bí, mồng tơi... Lại thêm một luống vạn thọ để cắt hoa cúng Phật và nạo vét cái ao nhỏ gây lại giống sen. Bà Tư nhìn thầy làm mà chắt lưỡi: “Tui coi bộ tướng thầy y như thầy giáo. Hổng biết trụ được bao lâu!” Nói rồi bà biết mình lỡ lời nên hoảng hồn bụm miệng. Nhưng thầy chỉ cười: “Trụ được một ngày biết được một ngày.” Bà Tư nhìn gương mặt trẻ trung của thầy, chợt thấy vừa lo lắng vừa bực bội không diễn tả được. Bà phủi đít đứng dậy đi về nhà, bỏ quên luôn con dao làm cỏ. Thấm thoát, cà ra trái đỏ rực vườn chùa, đậu cũng lúc lỉu đầy giàn, và rau cải xanh um, bí bầu mơn mởn... Thầy ăn một mình không hết, cứ gọi xóm giềng đến cho. Riết rồi vườn chùa là của chung, ai muốn ăn gì cứ vô hái, chỉ cần nói: “Thầy ơi, cho con xin...” Hái xong, lấy thùng xuống mương xách nước quơ dùm thầy một vòng. Có hôm, chị Hai Ánh hái luôn cả thúng rau trái đem ra chợ bán, mua về tàu hủ, nước tương, chao, đường, bột ngọt... chất đầy bếp chùa. Chị không quên cái túm cà phê nhỏ để thầy tỉnh táo mà thức công phu. Chị còn kêu thằng con trai 17 tuổi của chị: “Đông, mày mạnh tay qua cuốc giùm thầy cái liếp cải coi.” Đông khà khà: “Làm giùm rồi thầy có đãi tui nhậu không? Từ hôm thầy về tới giờ chưa chịu liên hoan.”
Chị Hai nhớ lại vị trụ trì thứ hai, rất trẻ và cởi mở, cứ thù tiếp với cán bộ và thanh niên trong xã như bạn bè. Nhưng rồi không hiểu sao thầy cũng khăn gói ra đi. Chị quát thằng Đông, không cho nó nói bậy, nhưng trong lòng chị than thầm: “Chẳng biết ra sao...”
Sáu Kình công an ấp tới thăm chùa một buổi chiều, tay xách chai rượu thuốc vàng sậm. Cùng đi, có anh Năm Tân trưởng ban văn hóa thông tin xã. Năm Tân nức nở khen khu vườn chùa gọn gàng, sạch đẹp. Sáu Kình lại phẩy tay: “Tôi chỉ cám ơn thầy ở chỗ thầy làm quang đãng cho tụi ăn trộm không còn chỗ núp. Cả năm nay chùa hoang, vườn hoang, quản lý mệt quá. Thôi vô một ly nghen thầy.” Thầy nhỏ nhẹ: “Anh cảm phiền, tôi không biết uống rượu. Để tôi dọn cơm chay mời mấy anh ăn cho vui. Lâu lâu ăn cực với chùa một bữa nghen.” “Ăn cực cũng đâu có sao. Nhưng thầy phải uống với tôi mới vui. Ông thầy trước hòa đồng lắm.” “Dạ thôi, mấy anh cứ uống tự nhiên, còn tôi uống trà đá được rồi.”
Bữa cơm đâm ra mất hào hứng. Sáu Kình uống vô hai ly nhỏ rồi nhìn thầy chăm chăm: “Tui hỏi thiệt thầy nghen, thầy đẹp trai quá mà đi tu chi uổng vậy?” Thầy cười mỉm mỉm: “Lúc tám, chín tuổi tôi đã nhận ra mình ở trong chùa. Cha mẹ đâu chẳng rõ. Đến lớn, khi bắt đầu nhận thức được, tôi thấy yêu mến con đường Phật giáo nên tu luôn.” “Hà hà, thầy coi chừng mấy con nhỏ trong xóm đó nghen.” “Mô Phật, anh nói nghe kỳ quá!” Sáu Kình cười ngất: “Giỡn mà. Nhưng tôi cũng cầu trời cho thầy ở đây lâu hơn mấy ông kia...” Thầy lẳng lặng nhìn ra vườn chùa, nơi có những hoa cà đang ẩn trong lòng nó một trái nhỏ con con. Ráng chiều vàng rực bao lấy những cánh hoa tim tím dịu dàng.
Sân chùa trở thành nơi tụ tập của tụi con nít. Vị trụ trì đầu tiên có công lót gạch tàu hết khoảng sân rộng. Ông còn bắt tay xây lại nhà tổ rất quy mô. Nhưng hễ ai vào chùa mà không ý tứ giữ sạch sẽ hoặc nói năng không cẩn trọng liền bị ông quở. Nhưng sau đó ông lại ngồi than: “Ở các vùng quê, Phật tử chẳng được học hành giáo lý gì hết, khó mà hoằng pháp.” Ông thường xuyên rút vào phòng nghiên cứu kinh sách. Các Phật tử nhìn những cuốn từ điển dày cộp của ông, những bộ kinh hàng chục cuốn bao bìa mạ vàng cất trong tủ kính mà lắc đầu thán phục.
Tuy nhiên, chẳng bao lâu, ông bỏ đi, để lại ngôi nhà tổ đang cất dở dang. Đến khi vị trụ trì thứ ba về, chính là thầy, nhà tổ vẫn chưa trùng tu xong. Nhưng thầy chỉ tận dụng những tấm tôn cũ còn xài được, đem lên lợp, cốt sao tránh được mưa nắng. Duy cái sân gạch, thầy quét dọn sạch sẽ và cho phép đám trẻ con vào chơi. Thầy chỉ dặn: “Các con đừng ngắt bông, để dành cúng Phật, Phật sẽ thương cho các con học giỏi. Giờ trưa thì về nhà để yên tịnh cho thầy nghỉ ngơi.” Tụi nhỏ dạ rân.
Một hôm, con bé Thảo cháu bà Ba Lý rụt rè hỏi: “Thầy ơi, con hổng có đi học rồi làm sao Phật thương cho con học giỏi.” Nhà con bé nghèo quá, cả đám anh chị em đẻ năm một lít nhít, ăn còn không đủ, lấy tiền đâu đi học. Thầy vuốt tóc nó: “Thôi, mỗi bữa con đến đây thầy dạy cho.” Bữa nào bé Thảo cũng ẵm em tới sân chùa chơi với tụi bạn trong xóm, nhưng từ đó thay vì chơi suốt, nó dành ra một tiếng đồng hồ học chữ với thầy. Thầy cho nó cả tập, viết, thước kẻ... Nó mừng lắm, cưng cuốn tập như cưng vàng.
Lũ trẻ thấy bé Thảo học, cũng ngưng ngang cuộc chơi, đứng ngó. Trong đám ấy, rất nhiều đứa không được đến trường. Vậy là, tụi nó về nhà kể với ba má, xin học với thầy. Sân chùa thành “lớp tình thương” khiến ông chủ tịch ấp cảm ơn rối rít. Thầy dành dụm tiền bán đậu, bán cà mua tập viết cho lũ trẻ. Đổi lại, tụi nhỏ cứ quấn quít bên thầy, quét sân, lau chùa, phơi củi như một bầy con. Lâu dần, bớt nghe tụi nó chửi thề, đánh lộn. Bà Tư Bèo nói: “Ông thầy có phép gì mà khiển được đám lâu la này vậy cà?”
Sân chùa còn vang tiếng hát ca của đám thanh niên trong xóm. Cái hôm gần đến lễ Quốc khánh, xã có chuẩn bị hội diễn văn nghệ, thầy kêu thằng Đông: “Em có đăng ký hát không? Rủ bạn bè sinh hoạt văn nghệ cho vui. Qua sân chùa mà tập cho rộng rãi.” Đông liền kéo đám bạn vô chùa. Lần đó, ấp 3 của Đông được giải nhì, tụi nhỏ rinh nguyên nồi chè vô liên hoan với thầy và gọi đùa đây là “nhà văn hóa.”
Nhưng cơn lũ đã ào tới phá vỡ sự bình yên của cái xã heo hút. Sân chùa vắng ngắt, chỉ có lũ chim trên cành me kêu ríu ran nhớ nắng, nhớ tiếng cười của bầy trẻ nhỏ. Mỗi tối, thầy tụng kinh một mình, chuông mõ như cũng ngóng theo từng con nước lên. Dân trong xã nháo nhác chạy đi tìm đường tránh lũ. Chủ tịch xã quyết định đắp đê bao cứu lúa. Hy vọng vớt vát được phần nào, chứ không mất trắng như cơn lũ năm rồi.
Dân trong xã ủng hộ quyết định này, ùn ùn kéo đi như những ngày đắp đê làm thủy lợi. Tờ mờ sáng đã thấy dòng người đổ ra đồng, xếp dài theo những tuyến kinh, nơi mà con nước sẵn sàng phá vỡ để tràn vào gây họa. Kẻ cầm leng móc đất, kẻ đứng đóng cừ tràm, các dì các chị thì lấy bao khiêng đất. Tiếng đất thảy nghe bình bịch, tiếng nước sôi réo đằng sau bờ đê... Mặt mũi ai nấy lấm lem hiện rõ dần trong ánh ban mai. Trong đó có một tà áo nâu bết bùn và một gương mặt lấm chấm sình non ẩn dưới vành nón lá. Chị Hai Ánh xách ấm nước đi tới, rót ra một ly: “Thầy uống đi thầy, rồi nghỉ mệt chút.” Mấy người đứng gần đó liền phụ họa: “Ừ, thầy nghỉ tay đi. Tội nghiệp, thầy ăn chay ăn lạt, sức đâu làm như tụi tui.”
Thì ra có mặt thầy trụ trì chùa Long Sơn trong đám người đi cứu lúa. Thầy lắc đầu, mặt đỏ hồng dưới ánh nắng: “Dạ cô bác yên tâm, tôi chưa mệt đâu mà...” Bà Tư Bèo chợt vỗ đùi cái đét: “Tui nhớ ra rồi, niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì đỡ mệt hơn, như hồi mình leo núi Sam vậy mà. Nam mô...” Nghe giọng bà Tư niệm Phật, ai nấy không nhịn được, cười ồ lên. Phút chốc mà con đê đã vượt khỏi mực nước rất xa, chỉ thấy những con sóng tức tối vỗ bên kia bờ đất, đục ngầu những con mắt bọt nhìn theo đám người thở phào sau mấy ngày vất vả...
Thầy Long Sơn khẽ cúi xuống nâng một bông lúa bị chân ai đó vô tình giẫm lên. Bông lúa ửng vàng trong đôi mắt thầy rưng rưng...
Lần đầu tiên chùa Long Sơn tổ chức lễ Phật Đản vui như vậy. Trước đó, chú Bảy Kiên Chủ tịch xã vô chơi với thầy, nhắc thầy sao “im re” “Tôi đi họp, thấy mấy chùa kia xin phép tổ chức lễ, gởi thư mời ì xèo lắm, còn thầy có định làm gì không? Hay là tôi cho mấy đứa bên văn hóa thông tin vô tiếp thầy dán băng rôn? Ờ, thầy về đây lâu quá mà hổng thấy thuyết pháp gì hết, thôi kỳ lễ này thầy lên giảng sơ sơ cho dân nghe. Tôi cũng muốn chùa làm lễ xôm xôm một chút, mừng bà con mình thoát lũ.”
Thầy mỉm cười cảm ơn chú Bảy. Chú đi quanh quanh ra sân chùa, thích thú khen đám kiểng non thầy mới gầy dựng. “Tôi cũng ưng các hoạt động văn hóa như vầy, kẻo người ta nói xứ mình khô cằn. Thầy ơi, bữa nào rảnh thầy chỉ tôi uốn kiểng nghen.” “Được mà, chỉ sợ chú không rảnh việc nước đó thôi.” Chú Bảy lắc đầu: “Công việc thì làm hoài hổng hết, hễ muốn chơi thì chơi chớ biết chừng nào mới rảnh hả thầy - Chú sực nhớ - À, còn lớp học tình thương của thầy nữa, tôi đã xin được một mớ tập viết cho tụi nhỏ, tiếp tay với thầy.
Vài bữa tôi cho người đem vô. Thầy có khó khăn gì không, cứ nói tôi liệu tiếp được phần nào thì tiếp.” Thầy cười: “Bây giờ chưa thấy khó gì hết!” Chú Bảy thủ thỉ: “Xã mình nghèo quá, thôi thì thầy chung lo với tụi tôi. Coi bộ thầy ở đây ‘hợp’ à nghen. Vậy mà mấy người trong xã cứ đồn chùa này có huông, tôi không tin.”
Chú Bảy ra về, bắt tay thầy thân mật, không quên cầm theo “quà tặng” của thầy là một rổ cà chua đỏ hồng hoàn toàn không xịt thuốc sâu và phân hóa học.
Tiếng trống Bát nhã vang lên ấm cả một quãng đồng. Tiếng đại hồng chung ngân nga rơi trên những cành lá xanh mướt... Buổi lễ Phật Đản tuy đơn sơ nhưng long trọng và chan hòa tình cảm giữa mái chùa cùng thôn xóm. Sau các nghi thức lễ, mọi người ngồi quây quần trong chánh điện, thầy ngồi giữa, thuyết pháp đúng 30 phút, đề tài Từ Bi. Giọng thầy trầm trầm, lời lẽ giản dị, vậy mà ai nấy cứ xuýt xoa: “Mèn ơi, thầy giảng hay quá mà thầy giấu nghề!” Khói nhang bay quấn lấy những gương mặt dãi dầu mưa nắng nhưng chất phác, chân thành. Trên cao, Đức Phật đang nhìn xuống với một nụ cười hiền hậu. Và trong tay Phật, có một cành sen không lời.
SẺ CHIA
Chị Tám nằm nghiêng vào vách, cố ngăn những giọt nước mắt trào ra. Suốt đêm chị không ngủ được, tai nghe tiếng con thằn lằn tặc lưỡi mà tưởng như tiếng than thở của chính mình. Chị không ngờ mình ăn hiền ở lành như thế, cố gắng chu toàn bổn phận làm vợ, làm mẹ, làm dâu như thế, mà bây giờ “người ta” lại phản bội chị. Trời ơi, hai tiếng “phản bội” làm lòng chị đau như cắt. Rồi chị khóc. Khóc tự lúc nào không hay... Thôi, không kềm nén được nữa, những giọt nước mắt cứ lăn dài, lăn dài xuống chiếc gối mà chị đã nằm suốt bao nhiêu năm hạnh phúc...
“Người ta” đây là anh Tám, người chồng chị rất mực yêu thương. Hồi mới cưới nhau, nhà nghèo, cha mẹ già, chị cùng anh chịu đựng vất vả, làm lụng đầu tắt mặt tối để xây dựng cơ ngơi. Chị hy sinh hết cho chồng con được sung sướng. Chị chỉ có một niềm vui duy nhất là được quỳ dưới chân Đức Phật lễ lạy hằng đêm, xin Ngài gia hộ, và nguyện tu sửa thân tâm xứng đáng với lời dạy của Ngài. Ánh mắt từ bi của Đức Phật hòa cùng khói hương trầm làm chị cảm thấy nhẹ nhõm, an lạc, để tiếp tục chịu đựng thêm một ngày vất vả nữa.
Một ngày, lại một ngày... Bao nhiêu năm đã trôi qua... Giờ đây gia đình đã vượt cơn khó khăn, đã tạm gọi là ổn định. Chị có thể rảnh rang đôi chút để đi chùa, làm công quả, nghe kinh, tạ ơn Trời Phật. Chị vui với cảnh thiền môn thanh tịnh hơn là những thú chơi đùa bên ngoài. Mỗi lần đi chùa về, thấm nhuần giáo pháp của Đức Phật, chị lại thấy yêu thương mái gia đình của mình hơn, càng muốn cư xử hòa ái, muốn làm những điều tốt đẹp, tận tụy cho chồng con được hạnh phúc. Đó là bổn phận của người Phật tử tại gia mà chị được học và muốn thực hành ngay trong đời sống của mình. Với xóm giềng, chị cũng hết mực tử tế, giúp đỡ. Cả xóm đều khen chị và cầu mong cho chị được hưởng phước lành xứng đáng với tấm lòng của chị.
Chị cũng thấy mình “có phước”, tuy nghèo khó buổi ban đầu nhưng bù lại có được người chồng cần cù, lương thiện. Anh Tám không ham mê rượu chè, cờ bạc như phần lớn những người đàn ông ở nông thôn. Người ta đi làm về mệt, quanh quẩn ở quê đâu có gì vui chơi giải trí, thế là chỉ còn cách sà vào bàn rượu uống ít ly đế giải sầu. Rồi buồn buồn cầm lá bài lên chơi, cũng trôi qua ngày tháng. Nhưng anh Tám thì không. Hết đi đồng thăm lúa, lại về nhà tẩn mẩn đóng lại chuồng gà chuồng vịt, sửa bàn sửa ghế cho vợ con, hoặc chăm sóc cha mẹ già. Rảnh lắm thì anh ngồi nựng con, làm trâu cho nó cỡi. Thằng con lớn bộn rồi mà vẫn leo lên lưng ba. Hai cha con “nghé ọ, nghé ọ” vang nhà. Lúc đó, chị Tám nghĩ, mình có chết vì anh mình cũng vui lòng.
Vậy mà, không ngờ cái cảnh đầm ấm đó nay đã vỡ tan như bọt bong bóng trời mưa. Chị Tám ngồi dậy, nhìn qua khung cửa sổ, nơi màn mưa đang giăng kín trời đêm. Mưa không lớn mà tí tách tí tách buồn thúi ruột. Mưa như vầy thường nổi lên rất nhiều bong bóng. Bong bóng phập phồng trôi dưới thềm gạch, rồi vỡ ra không một tiếng vang. Cũng như hạnh phúc của chị vỡ ra không một tiếng vang. Cái tin anh Tám có vợ bé lọt vào tai chị, chị cứ tưởng chuyện đùa. Đến lúc chị hỏi anh, anh thú thiệt mà chị vẫn không tin. Khi chị thực sự tin rồi, chị vẫn nghĩ đó là một giấc chiêm bao. Giấc chiêm bao của đời chị. Chị đã ngủ ngay trên chính hạnh phúc của mình. Giờ tỉnh dậy, hạnh phúc tan biến, chỉ còn lại nỗi luyến tiếc, khổ đau. Nước mắt khô lại thành một dòng căng căng trên má, chị cũng không buồn lau. Chị bước xuống giường, bất giác đi về phía bàn thờ Phật. Từ ngày đó chị đã không còn ngủ chung với anh Tám, nên những đêm chị thức trăn trở cũng không làm phiền ai. Ban ngày chị vẫn giữ mọi nếp sinh hoạt cũ, vẫn tận tụy lo lắng cho anh Tám như không có gì xảy ra. Nhưng ban đêm, chị mới để cho nước mắt của mình tuôn rơi, và thường quỳ dưới chân tượng Phật như tìm một nơi nương tựa, chở che.
Đêm nay cũng vậy, chị thắp ba cây hương, cắm lên, rồi quỳ phục xuống, lòng trống rỗng, mệt mỏi, không niệm được câu nào, không suy nghĩ được điều gì. Rất lâu, chị ngước mắt lên nhìn ảnh Phật. Dưới ngọn đèn mờ mờ, gương mặt Phật vẫn sáng ngời một ánh sáng từ bi, hỷ xả. Vẫn nụ cười như là không cười, nhưng hé mở một niềm an lạc vô biên. Chị Tám nhìn mãi nụ cười ấy, cho đến lúc chị nghe thoang thoảng mùi hương của hoa sen, chị mới giật mình. Trời ơi, bình hoa trên bàn thờ đã héo khô mà chị quên thay. Những ngày này, tâm trí chị cứ đảo điên như thế nào ấy.
Chị vói tay cầm cái bình xuống. Những bông sen héo rũ, xám xịt một màu buồn bã. Nhưng lạ kỳ chưa, hương sen sao mà cứ phảng phất không rời. Ngón tay chị Tám mân mê cái búp sen thon thả xinh xinh như hai bàn tay chắp vào nhau. Tuy giờ đã nhũn ra, nhưng dáng của nó vẫn dễ thương quá. Và khi ngón tay chị Tám chạm vào cái cuống đầy gai, một luồng cảm xúc chợt dâng lên làm chị choàng tỉnh. Gai hoa nham nhám cứa vào da chị khiến chị tỉnh táo lạ kỳ.
Chị nhìn đăm đăm bình hoa trong tay. Mới hôm nào cánh sen hãy còn mơn mởn hồng tươi, và chị đã vui sướng cắm nó vào bình dâng lên cúng Phật. Thế mà bây giờ, cánh nào cũng úa tàn, nhụy nào cũng rã rời bay xuống đất. Chính bàn tay thời gian đã thực thi cái lý “vô thường.” Vạn vật rồi cũng theo luật ấy. Có cái gì thường còn mãi đâu. Có sanh thì có diệt. Có tươi thắm thì có úa tàn. Có hạnh phúc thì có khổ đau. Chị Tám chợt liên tưởng đến phận mình, có khác chi những cánh sen này. Tất cả đều chịu chung quy luật vô thường. Tại sao chị lại cầu mong cái hạnh phúc kia trở nên bền vững? Tại sao chị lại tin chắc rằng nó không thay đổi? Tại sao chị lại bắt cái tâm anh Tám mãi đứng yên? Như vậy há chẳng phải chị muốn mọi vật quanh chị đi ngược lại cái quy luật kia không? Vậy mà chị vẫn tự hào chị là Phật tử thuần thành, rằng chị học thuộc giáo pháp của Đức Phật.
Giờ đây đụng tới cái vật sở hữu của chị thì mới thấy chị chống chọi với “cái hiểu” của mình như thế nào. Than ôi, giữa “hiểu” và “thực hành” giáo lý là cả một khoảng cách.
Chị Tám thở dài, nhận ra mình đã thua trong cuộc thi này. Vâng, có thi mới biết mình đậu hay rớt. Có vấp phải trở ngại trên đời thì mới biết mình hay dở ra sao. Có lẽ Đức Phật bày ra cơ sự này để thử thách chị hay chăng? Bất giác, chị ngước mắt nhìn lên ảnh Phật, thẳng thắn nhìn vào đôi mắt của đấng Từ Phụ. Chị hỏi Phật, phải chăng Ngài đang làm cuộc trắc nghiệm đối với đệ tử của Ngài?
Phật vẫn im lặng ngồi tĩnh tọa trước cội bồ đề. Không có câu trả lời nào cho chị. Không gian im ắng đến mức chị Tám cũng không còn nghe những giọt mưa tí tách ngoài sân. Phật không nói lời nào, không bao giờ nói. Duy nụ cười, ồ nụ cười sao mà rạng rỡ ánh từ bi hỷ xả. Nụ cười đã kéo chị Tám trở lại thực tế. Trong chị bỗng lóe lên một luồng ánh sáng nhiệm mầu, nó chợt xua tan đi tất cả nặng nề từ suốt đêm nay, nó nâng chị lên khỏi niềm u uất, rã rời mà chị đã cố gắng chịu đựng. Chị bỗng thấy mình phải làm một cái gì đó, thực sự là phải làm, phải quyết định dứt khoát. Việc làm ấy sẽ chấm dứt mọi suy nghĩ mơ hồ, ngổn ngang trong lòng chị bấy lâu nay, đưa chị đến một sự ổn định, nhẹ nhõm hơn. Chị tin rằng nếu chị làm được việc ấy thì chị sẽ trở nên bình tâm hơn, dù nó sẽ là một bất ngờ đối với mọi người và ngay cả đối với chị.
Chị Tám nhẹ nhàng đặt bình hoa lên chỗ cũ, tự nhắc mình ngày mai phải mua hoa mới thay vào. Dẫu sao, điều quan trọng với chị là hương hoa còn thơm ngát dù sắc hoa đã thay đổi, úa tàn.
Lâu lắm rồi chị mới bước vào phòng anh Tám. Bước chân chị hơi bối rối, nhưng rồi dần dần tự tin, mạnh mẽ hơn. Anh Tám ngồi bật dậy, không khỏi ngạc nhiên nhìn chị. Lòng anh chợt quặn lên khi thấy vóc dáng nhỏ bé của người vợ nay như nhỏ bé thêm, và khuôn mặt tuy có vẻ thanh thản hơn nhưng cũng còn hốc hác, để lộ đôi gò má xương xương vì mất ngủ. Anh lật đật kéo tay chị ngồi xuống mép gường.
Nhưng chị đã kêu anh ra bộ ghế mây cạnh đó, rót hai ly trà nhỏ để trước mặt hai người. Thái độ nghiêm trang của chị làm anh lo sợ. Và rồi anh điếng hồn khi nghĩ rằng chị sẽ đòi ly dị. Mấy tháng nay chị không nói lời nào, đã như một bản án treo dành cho anh. Thà là chị la lối, hạch hỏi, thậm chí đi đánh ghen, thì anh cũng biết đường mà phản ứng. Đàng này chị chỉ yêu cầu anh kể hết mọi việc cho chị nghe, rồi chị tới nhà cô “vợ bé” của anh một lần, nhìn mặt cô ta. Anh đã chờ đợi những giọt nước mắt, chờ đợi những lời đay nghiến, những tiếng chén bát đổ vỡ... Vậy mà tuyệt không. Chỉ có điều, anh phải nằm ngủ một mình trong căn phòng mà hai vợ chồng đã từng hạnh phúc. Anh tự nguyền rủa mình hư hỏng, tệ bạc. Anh tự mắng mình là một thằng chồng khốn nạn, có người vợ đảm đang, hiền thục, thủy chung như thế mà mình lại đang tâm làm khổ. Anh không muốn chị khổ nữa, anh quyết định cắt đứt với cô gái kia.
Nhưng khi anh đối diện với cô, thì anh không đủ dũng khí thực hiện quyết định
ấy. Cô yêu anh thực tình, biết mình phạm sai lầm, tội lỗi với vợ anh, nhưng cô không đủ sức xa anh. Thật ra cô đâu có tội tình gì, chỉ tại
anh chủ động gieo tình cảm cho cô. Mà anh cũng không hiểu nổi mình. Bao nhiêu
năm anh yêu thương vợ con như thế, vậy mà chẳng hiểu sao khi gặp cô trong một
buổi cúng đình, anh lại thấy xao xuyến lạ kỳ. Cô giản dị trong chiếc áo bà ba
trắng, thành kính thắp hương, nét mặt cô bừng sáng thánh thiện, trong trẻo, hiến
dâng. Anh cảm tưởng cô là một đóa hoa đồng nội tinh khiết mà vẫn đủ sắc hương
làm say đắm lòng người. Thế là anh theo cô, dai dẳng ngày này qua ngày khác,
cho đến lúc cô hoàn toàn thuộc về anh. Ngoài tình yêu chân thành cô dành cho
anh, lại còn có đứa con trong bụng, vậy thì anh làm sao bỏ cô cho đành. Thế nào
thì anh cũng đã làm khổ hai người đàn bà, anh càng thấy ân hận, ray rứt hơn.
Nhưng anh không biết giải quyết cách nào nữa. Anh im lặng, sẵn sàng chịu đựng mọi
hình phạt mà hai người phụ nữ ấy dành cho anh.
Giờ chị Tám đang ngồi trước mặt anh đây, báo hiệu một “hình
phạt.” Mà trời ơi, chị hành hạ anh như thế nào anh cũng chịu, chỉ xin chị đừng
ly dị, đừng bỏ anh mà đi. Anh không muốn mất chị. Anh đã quen cảm giác ấm áp
khi có chị hiện diện trong nhà, đã quen bàn tay chị pha trà, nấu cơm, quen nghe
giọng nói chị hiền hậu, thậm chí quen cả giọng tụng kinh mà anh thường trêu đùa
thử xem chị có “nổi sân” lên không... Anh quen nhiều thứ lắm, giờ mất
đi chắc anh không sống nổi. Anh nhìn chị đăm đắm như van cầu, như sợ hãi... Chị
Tám đưa ly trà cho anh:
- Anh uống thử coi. Em mới học cách ướp trà của sư cô. Ướp bằng hoa sen đó.
Anh Tám chỉ nghe vị trà đắng ngắt như chính lòng mình đang cay đắng, mà cũng ráng nói:
- Ừ, thơm quá. Em khéo thiệt.
Chị Tám hơi mỉm miệng cười:
- Thơm thiệt không?
Anh Tám gật đầu, cảm thấy “dễ thở” trước nụ cười của vợ.
- Em định bàn với anh một việc quan trọng. Là việc của anh và cô Hương.
Anh Tám lại thấy “nín thở”.
- Em nghĩ, âu là hai người kiếp trước cũng có duyên nợ với nhau nên bây giờ mới gặp nhau như thế. Em học Phật pháp, hiểu rằng không có cái gì tự nhiên sinh ra, mà phải do duyên hợp. Xét cho cùng cô Hương cũng không có lỗi. Phụ nữ thường nhẹ dạ, nếu anh không theo tán tỉnh thì cô ấy đâu có ngã lòng. Thôi thì em bàn như vầy, em và anh phải lo cho cô ấy và đứa con trong bụng.
Anh Tám thở phào một cái như có ai vừa lấy cục đá nặng ngàn cân ra khỏi ngực. Vậy là chị Tám quyết định lấy tình thương và lịch sự đối đãi với cô, đủ cho anh yên tâm và cảm phục lắm rồi. Nhìn gương mặt vợ, anh biết chị không đòi ly dị đâu. Thế là nhẹ nhõm cho anh cả đôi đàng. Ủa, mà chị Tám nói “lo” cho cô Hương với cả đứa con trong bụng là “lo” làm sao? Chắc chị bảo anh chu cấp tiền bạc cho cô sinh sống, sanh nở chứ gì? Nếu vậy, vợ anh quả là tốt bụng. Nhưng cô Hương cũng không cần lắm đâu. Cô rất đảm đang, hứa là sẽ không làm phiền đến gia đình anh, miễn sao nhận được sự cảm thông, tha thứ từ phía chị. Dẫu vậy, nếu cô Hương biết được ý tốt của chị Tám, hẳn cô sẽ xúc động đến khóc. Anh Tám cũng muốn khóc đây.
Giọng chị Tám đều đều:
- Em định làm lễ cưới cho anh với cô ấy.
- Hả?
Anh Tám tưởng mình từ trên trời rơi xuống. Anh có nghe lầm không? Hay là vợ anh định giỡn cho anh... “run” chơi! Cái bà này, chuyện hệ trọng như vậy còn đem ra giỡn...
- Em đâu có nói giỡn. Em nói thiệt đó. Anh phải đi cưới cô Hương.
- Đâu có được. Anh mặt mũi nào làm cái chuyện kỳ cục đó. Ai đời, vợ con sờ sờ ở nhà mà đi sắm vai... chú rể.
- Anh không mặt mũi nào, vậy chứ cô Hương mặt mũi nào mà sống với xóm giềng. Người ta là con gái, bây giờ cái bụng chè è ra đó, anh coi tủi hổ biết bao nhiêu. Rồi con sinh ra đời bị chế giễu là con hoang. Anh làm hại cả cuộc đời người ta, thì bây giờ anh có cố gắng một chút cũng đâu có sao.
- Nhưng... không được mà...
- Anh Tám à, anh thử tưởng tượng coi, nếu như cô Hương không đủ sức chịu đựng, rồi cô tự tử hoặc bỏ rơi đứa con, nó sẽ lớn lên trong viện mồ côi, hoặc phải ở đợ, bụi đời... Chừng đó, dẫu nó không oán hận mình thì lương tâm mình cũng không yên. Từ tội lỗi này mình lại gây thêm tội lỗi khác. Đứa nhỏ hoàn toàn vô tội, mình đừng bắt nó gánh chịu hậu quả của người lớn. Nói thiệt, em không đành lòng thấy nó côi cút, hư hỏng. Con mình sao mình biết thương, mà mình lại hất hủi nó. Dù gì, nó cũng là giọt máu của anh. Anh và em phải lo cho nó.
- Thì mình gởi tiền nuôi nó được rồi.
- Tiền đâu phải là tất cả. Anh nhớ không, hồi đó nhà mình nghèo nhưng vẫn hạnh phúc vì vợ chồng con cái sum họp, con mình nên người vì có cha dạy dỗ, chở che. Tình thương đôi khi hơn cả tiền bạc anh à. Anh phải là người cha đúng nghĩa đối với con cô Hương, thương yêu dạy dỗ nó như đối với con mình. Như vậy anh phải đường hoàng lui tới, đường hoàng sống với nó cho nó đừng tủi thân. Cho nên, chỉ có cách là anh cưới cô Hương.
- Anh làm sao có danh chánh ngôn thuận mà cưới chớ.
- Dĩ nhiên rồi. Nhưng em sẽ đi cưới cho anh.
Anh Tám mở to mắt kinh ngạc. Chị Tám tiếp:
- Em sẽ mua trầu cau sính lễ, rồi đứng ra thưa với ba má cô Hương, chấp nhận cô như vợ của anh. Như vậy nghĩa là em đi cưới vợ cho anh chớ gì.
- Nhưng pháp luật chỉ chấp nhận một vợ một chồng.
- Đúng là cô Hương không làm hôn thú với anh được. Nhưng dẫu sao cái lễ cưới đơn sơ đó cũng làm cô Hương bớt tủi thân, bớt bị dị nghị, và con cô sinh ra đường hoàng gọi anh bằng cha, được tới lui chăm sóc. Còn sau này cô có gặp ai vừa ý mà kết hôn thì cô cũng được quyền tự do. Đằng nào, coi như cô cũng có chồng đàng hoàng.
Anh Tám thở dài trước quyết định của vợ. Anh vừa mừng lại vừa lo. Mà thôi, cứ làm theo ý chị. Anh tin rằng một người có tâm đạo như chị ắt sẽ không làm khổ cho ai. Sự hy sinh này anh không biết lấy gì đền đáp cho nổi.
Đám cưới rất giản dị, nhưng lại là sự kiện nổi đình nổi đám của cái huyện Châu Thành. Trên đời, chưa có bà vợ lớn nào đi cưới vợ bé cho chồng. Thời phong kiến thì có, vì tục năm thê bảy thiếp, nhưng các bà đều buộc lòng mà làm, bất đắc dĩ mà làm với sự hằn học, ghen tuông, chứ có ai lại tự nguyện, vui vẻ như chị Tám. Dân trong huyện bảo nhau: “Ối, mấy lúc rồi rã đám cho coi. Đàn bà mà, ai lại hổng ghen!” Và họ chờ đợi cái cuộc tình tay ba kia tan vỡ...
Nhưng rồi gia đình chị Tám vẫn trong ấm ngoài êm. Anh Tám thêm nể nang, thương yêu chị. Cô Hương thì khỏi nói, một mực tôn kính. Nhà anh Tám ở Cái tàu Hạ, nhà cô Hương ở Cái Gia, nhưng hai bên thường tới lui thăm viếng. Con cô Hương kêu chị Tám bằng “má” ngọt xớt, và lớn lớn một chút thì lên ở luôn với “má” để đi học cho gần. Chị Tám thấy lòng thanh thản, nhẹ nhàng, và thời gian chị dành cho chùa chiền càng nhiều hơn. Anh Tám cũng bắt chước vợ, đi chùa, học kinh. Trong lòng anh, vợ anh cũng là một vị Phật.
Hai mươi năm trôi qua... Bà Tám đứng ra làm chủ hôn cho con cô Hương ngày nào. Cô Hương tóc cũng hoa râm, cung kính mời “chị Tám” đảm nhận vai trò người mẹ trong ngày vui của con. Cô khóc, những giọt nước mắt hạnh phúc lẫn tri ân. Còn bà Tám lại cười.
Rồi bà xuất gia, cất cốc tu tại nhà. Bóng áo lam của bà vẫn dịu dàng chia sẻ với mọi người lòng yêu thương, chung thủy... (1).
(1). Đây là câu chuyện hoàn toàn có thật, tác giả chỉ sửa đổi vài chi tiết và tên nhân vật.
THẦY BÓI
Không hẹn mà cả bốn chị em cùng lén đi coi bói, lại coi đúng một bà thầy “có tiếng” trong quận. Bà thầy cũng không biết đó là bốn chị em ruột, nên phán một lèo y chang nhau, bởi bốn quẻ đều có con ách bích đen thui nằm chúi đầu xuống đầy đe dọa: “Trong nhà có người nữ lớn tuổi coi chừng bệnh nặng, e... hèm... sợ không qua khỏi năm nay...”
Bốn chị em xanh mặt. Thì bà má ở nhà mới đi xét nghiệm, lượng đường trong máu tăng cao, kèm theo gan nhiễm mỡ, thấp khớp, mắt lại bị cườm nặng. Đêm nào má cũng rên vì không ngủ được, nằm trăn qua trở lại đến sáng mới thiêm thiếp đi một chút. Thức ăn bày ra đủ món má thèm, nhưng bị cấm tiệt. Nào chuối, xoài, nhãn, bánh... cứ phải nhai đủ thứ thuốc dân gian ai chỉ đâu làm đó, hết cây nha đam đến khổ qua luộc, rau má, rau lang, rồi rễ bần, trái nhàu, lá sa kê nấu nước uống... Chưa kể bao nhiêu cái toa của bác sĩ và hàng chục lời căn dặn. Thế nhưng cái cơ thể già nua ấy dường như không còn chịu nghe lời ai cả ngoài cái quy luật vô thường sinh lão bệnh tử dành cho kiếp người khổ não.
Biết thì biết vậy, nhưng bốn đứa con vẫn không chịu nổi, và cuối cùng những niềm tin nhỏ nhoi còn sót lại đành chỉ biết đem gởi gắm vào những lá số huyền bí, hy vọng một lời phán truyền nào đó sẽ lấy lại chút sinh khí cho ngôi nhà đang đầy mùi thuốc và tiếng thở dài. Không ngờ, lời phán truyền của bà thầy bói lại càng làm rối tung hơn nữa. Chị Hai ngồi một góc khóc hu hu như trẻ con, khác hẳn cái tật gắt gỏng om sòm của chị. Vợ chồng anh Ba là con và dâu trưởng trong nhà, khẽ khàng nhìn tới nhìn lui. Cô Tư thì không buồn nhấc điện thoại của anh người yêu gọi tới, xù luôn cái hẹn đi ăn tối. Cô Út có chồng sớm, đã ra riêng, bảo anh chồng ở nhà một mình, còn cô về ngủ với má mấy bữa. Má không hiểu chị em nó có chuyện gì mà cứ xì xầm to nhỏ với nhau miết trên gác, mặt đứa nào đứa nấy cứ bơ bơ như mất hồn. Má chép miệng: “Cơm nước dọn ra nguội ngắt hết rồi. Ăn uống vậy làm sao có sức đi làm! Thiệt tình!”
Những tờ lịch cứ rơi dần, rơi dần. Bốn chị em thường nhìn nhau. Chị Hai tự nhiên ăn chay cả tuần, hỏi cầu cái gì chỉ ừ à không nói. Ngạc nhiên hơn nữa là không nghe chị cãi vả với má như hồi trước. Hai mẹ con vốn khắc khẩu, mẹ thì bảo thủ, con thì cấp tiến, nên làm cái gì cũng không chịu nhau, cứ lời qua tiếng lại suốt ngày. Má có tật cằn nhằn, cử nhử, còn chị Hai đi làm mệt, thường đổ quạu. Vậy mà bây giờ, nghe má cằn nhằn, chị Hai nhe hàm răng ra cười trong sáu con mắt kinh ngạc của lũ em: “Ừ, còn sức thì cằn nhằn! Cho má nói thoải mái luôn đó! Ê tụi bây, lấy cái cát-xét ra thu tiếng chừng nữa phát cho mấy bà bạn già của má nghe chơi!” Má “xuất chiêu” mà không có người “đỡ” nên tức cười im ru luôn.
Chị Hai còn đi kiếm mấy cuốn kinh Phật về cho má coi, lâu lâu thấy hai mẹ con nói chuyện rất tâm đắc về nhà sư này giảng hay, nhà sư kia khuyên làm việc thiện. Những câu chuyện đạo tự hồi nào len giữa hai mẹ con thay cho những lời tranh biện hồi trước. Má nói: “Hóa ra cả nhà này chỉ có chị Hai tụi bây giống má, còn tụi bây ham chơi quá chừng!” Chị Hai nheo nheo mắt với lũ em: “Chứ tao không nói chuyện kinh kệ với má, hổng lẽ đem chuyện bảo thủ của ‘bà già’ ra cãi nữa!”
Vợ chồng anh chị Ba dạo này hết giờ làm việc cũng về nhà sớm hơn, không la cà ngoài công viên, siêu thị. Về nhà sớm, còn thời gian ăn cơm với má, khen món này ngon, món kia ngon, khiến má sung sướng cả ngày. Má thuộc lòng ý thích của thằng con trai độc nhứt, nhưng sau này anh Ba đi làm về muộn, cứ ăn cơm tiệm hoài, nên má hết còn hứng thú nấu nướng cho anh. Bây giờ nhìn anh húp canh soàn soạt, má bảo chị bếp: “Mai mua giò heo hầm măng cho nó ăn nghen!” Chị Ba cười, giả bộ tị nạnh: “Mới hôm nay đã lo đến ngày mai! Má cưng ảnh quá, ảnh quen tật, con chiều không nổi đâu nghen!”
Thằng Nghé, đứa cháu nội bụ bẫm, chạy lạch bạch tới chỗ nội khoe bài hát mới học được trong lớp. Nghé vừa hát vừa minh họa làm má cưng hết chỗ nói. Má nắm tay nó hôn một cái, nó vùng vằng vì đang muốn hát. Chị Ba lườm con: “Hỗn nè! Cho nội hôn, nội thương con nhứt nhà đó!” Hai mẹ con không còn rúc vào phòng riêng nữa, mà thường bày trò chơi chỗ nội, cho nội ngắm cháu thỏa thích. Má tẩn mẩn tìm lại tấm ảnh cũ trong album, tấm ảnh của anh Ba đầu trọc lóc, cởi truồng, toét miệng cười trong chiếc ghế mây: “Coi Nghé giống thằng cha nó không! Y như khuôn đúc. Thiệt lẹ, mới đây mà mấy chục năm...” Mắt má long lanh hạnh phúc.
Má khổ nhất là vợ chồng cô Út, dăm bữa giận, chục bữa hờn, khóc lóc, bỏ ăn. Mỗi lần điện thoại nhà này réo lên vào lúc nửa đêm là biết ngay từ nhà cô Út gọi sang, méc chuyện giận nhau, có cả tiếng khóc và tiếng chó sủa inh ỏi. Vợ chồng trẻ con, nuôi chú chó con, ôi thôi như cái chợ. Chẳng biết bao giờ tụi nó trưởng thành, tao chết rồi chắc nó bỏ nhau quá! Tao còn sống đây mà nó còn ì xèo như vậy! Má than thở, buồn rầu, vừa thương con, thương rể, không biết xử làm sao.
Nhưng nửa năm nay, hình như không có cú điện thoại nào vào lúc nửa đêm. Vợ chồng cô Út lại siêng năng ghé thăm má, mua tùm lum món ăn, rồi hai vợ chồng ngồi ăn một hơi sạch bách. Má có ăn được gì đâu, bác sĩ cấm kia mà. Nhưng má vui lắm, lui cui vô mở tủ lấy thêm bánh trái cho “hai đứa con nít”. Má cười: “Tụi nó đừng cãi nhau thì ăn bao nhiêu má cũng chịu!” Vợ chồng cô Út cười hì hì.
Và chuyện vui nhất trong năm là đám cưới cô Tư, đám cưới nhanh ngoài dự kiến của bà con. Cô Tư đã hơn ba mươi tuổi rồi nhưng cứ dùng dằng chuyện hôn nhân, dù anh người yêu đã ngỏ lời suốt bốn năm. Cô nói cô còn muốn ở bên má một thời gian nữa. Thật ra, má hợp với cô Tư nhất, vì cô dịu dàng, chăm sóc má, biết chia sẻ những câu chuyện lẩm cẩm của người già một cách kiên nhẫn, biết im lặng khi má cằn nhằn, biết giảng hòa mỗi khi má và anh chị hờn nhau. Cô là linh hồn của nhà này, mỗi khi cô đi công tác xa, má cứ thấy buồn buồn và cô đơn thế nào. Chính vì vậy mà cô Tư cứ nấn ná không chịu có chồng. Nhưng cũng chính vì vậy mà má lo âu, day dứt. “Vắng con thì má nhớ, nhưng má yên tâm nhắm mắt. Chừng nào con chưa lập gia đình, má còn ăn ngủ không yên.” Cái nghịch lý trong tình cảm của má là vừa muốn có con bên cạnh, vừa muốn con yên bề gia thất.
Nhưng cuối cùng đám cưới lại được sắp xếp rất nhanh chóng khiến anh người yêu của cô Tư mừng quýnh lên. Và cuối năm, con rể phóng xe như bay về nhà mẹ vợ: “Má, má! Vợ con có bầu. Má cố vấn cho con mua cái gì cho cổ ăn, bổ bổ nghen má!” Má lật đật khăn gói qua nhà cô Tư, quên là đêm qua mới rên vì cái chân thấp khớp.
Những tờ lịch cuối cùng trong năm rơi xuống, trơ lại cái khung lịch màu đỏ in một cành mai rực rỡ hy vọng. Bốn chị em nhìn nhau, lè lưỡi: “Thầy bói coi trật lất! Hú hồn. Đừng đi coi nữa nghen!”
Thằng Quý
Mẹ nó đặt cho nó tên là Quý, nhưng người ta không thấy nó quý chút nào. Vừa chào đời, nó đã lọt vào một gian nhà tranh rách nát, nhỏ xíu xiu như cái tổ chim với nhiều lỗ thủng có thể ngắm được cả trăng sao. Lớn một chút, nó thấy ba nó vắng nhà liên tục, và cuối cùng ba nó bỏ đi theo một người đàn bà khác. Còn lại mẹ nó, một người phụ nữ chưa trẻ bao lâu đã vội già vì hờn giận, ghen tuông, đau đớn, chờ đợi, và già thêm vì một mình nuôi con bằng cái nghề làm mướn bấp bênh nay có mai không. Chị để mặc ngày tháng trôi qua, thời gian gặm nhấm nhan sắc, tuổi xuân của mình, và để mặc đứa con trai trong sự cô đơn, lam lũ không thua gì chị.
Mười bốn tuổi, thằng Quý vẫn chưa biết chữ nào, chưa hề được tới trường, suốt ngày lêu lổng ngoài đường, ngoài ruộng. Nó theo đám bạn đi bắt cá, hái rau, đánh lộn, chửi thề, rồi tập tành hút thuốc, đánh bài. Vậy đó, nó như cây cỏ dại lớn lên cằn cỗi trên mảnh đất quê nghèo, chẳng ai muốn đến gần nó.
Mà nó cằn cỗi thật. Mười bốn tuổi nhưng chỉ bằng đứa trẻ lên mười, ngoại trừ khuôn mặt thì lại hằn những dấu ấn cuộc đời. Hôm cô Diệu gặp nó, cô ngỡ ngàng nhìn cái cổ gầy nhom của nó đóng đen thui những ghét bẩn. Cô mủi lòng, chắc mẹ nó không hề nhắc nó tắm rửa thế nào. Chiếc áo nó mặc thâm kim cả mảng lưng, còn cái quần lếch thếch sát đất cứ như mặc quần bính. Đôi vai trơ xương cứ nằng nặc đòi vác ba lô cho cô, và đưa ra tận bến đò, lưu luyến nhìn theo bóng cô mờ khuất. Đôi mắt nó thấm đẫm niềm thương, khiến con đò cô Diệu đi cứ như chòng chành trên sóng nước. Ngày đầu tiên nó gặp cô Diệu là như thế đó...
Thật ra, ban đầu cô Diệu cũng không hề nhận biết thằng Quý. Nó lẫn vào đám đông trẻ nhỏ kéo đến chùa để cô Diệu phát quà. Cô Diệu là Phật tử ở xa, lâu lâu về ghé thăm chùa. Ngôi chùa nhỏ nằm cách nhà thằng Quý vài trăm mét, cũng nghèo như bao nhiêu mái tranh của dân trong làng. Cô Diệu đem quà bánh về cho trẻ con, tụi nhỏ tưng bừng hớn hở ôm lấy những hộp bút màu, những cuốn tập, những chiếc ô tô nhựa, và mấy cái bánh ngọt hấp dẫn. Thằng Quý cũng được một phần quà nặng tay. Cô Diệu đâu có biết rằng nó mù chữ. Và cô Diệu cũng đâu có biết nó được đặc biệt “quan tâm” hơn những đứa trẻ trong xóm. Cô thấy nó lanh lẹ nên cứ nhờ nó xách dùm bịch bánh, khiêng dùm chồng tập, nó sung sướng chạy te tái giúp cô, mồ hôi ướt đẫm cả áo.
Phát hết quà, nó cứ đứng gần cô, không chịu về. Thầy trụ trì nói nhỏ với cô:
- Thằng nhóc này ăn cắp lắm nghen cô. Tôi bị nó lấy mấy món rồi đó, nên bây giờ không cho nó vô trong khuôn viên chùa, chỉ cho đi vòng vòng ngoài cổng tới nhà bếp thôi.
Cô Diệu giựt mình sờ tay vào túi kiểm tra lại cái điện thoại di động. Nhưng cô mỉm cười ngay lập tức:
- Dạ không sao. Con thấy nó cũng dễ thương đó thầy.
- Ờ, cô cẩn thận...
Và không đầy năm phút sau, cô Diệu đã nắm hết “lý lịch” của thằng Quý từ mấy bà Phật tử tự động “méc” cho cô nghe. Rõ ràng, nó đã tự làm mất “uy tín” từ lâu.
Nhưng cô Diệu lại ngoắc thằng Quý đến gần:
- Con ăn bánh chưa?
- Dạ con ăn rồi.
- Con lấy tập ra viết chữ cho cô coi. Thầy nói thầy đã dạy con học được nửa cuốn vần, sao con không học tiếp?
- Dạ... tại con lấy đồ của thầy, thầy giận...
- Cô dạy con học nghen. Và lát nữa con xin lỗi thầy, thầy sẽ tha thứ cho con.
- Dạ. Nhưng con không học đâu. Ngán thấy mồ. Chữ nọ lộn chữ kia. Nhức đầu quá.
Cô Diệu gật đầu:
- Được rồi. Thôi không học chữ, mà cô sẽ dạy con vẽ.
Thằng Quý giãy nảy:
- Con không biết vẽ.
Cô Diệu mỉm cười:
- Con đưa bàn tay cô xem nào.
Thằng Quý đưa tay ra. Bàn tay khẳng khiu, đen đúa, những cái móng dài nhét đầy đất như mười con sâu nằm vắt ngang gớm ghiếc. Cô Diệu mở túi xách lấy chiếc bấm móng tay nhẹ nhàng cắt hết mười con sâu ấy, còn lại mười ngón nhỏ gầy sạch sẽ. Cô bảo Quý ra sàn nước rửa tay, rồi bảo Quý nhìn cho thật kỹ:
- Con xem, con có bàn tay rất khéo léo, cô tin là con sẽ làm được những việc rất tốt. Bây giờ con thử vẽ, cô chắc chắn là con vẽ đẹp. Con đừng có ý nghĩ thua kém bạn bè, mà phải tin rằng mình cũng có những khả năng riêng của mình. Con không học chữ được thì hãy học vẽ. Cố gắng lên, cô biết con sẽ thành công mà.
Thằng Quý nhìn cô Diệu không chớp mắt. Nhưng nó vẫn lắc đầu:
- Con chẳng biết vẽ cái gì bây giờ.
Cô Diệu lấy cây bút màu đỏ đặt vào tay nó:
- À, con thử vẽ con cá xem.
Bàn tay thằng Quý cứng đơ nắm chặt cây bút. Cô Diệu lấy cây bút khác kéo mấy nét gọn hơ là trang giấy hiện lên một con cá. Thằng Quý trố mắt. Cô Diệu nói:
- Rồi, con vẽ đại đi. Con cứ vẽ con cá nào mà con tưởng tượng. Miễn cô nhìn ra con cá thì thôi.
Thằng Quý ngập ngừng đưa nhẹ cây bút. Một con cá tong teo, méo xẹo, nhưng cũng đủ cả vây, cả vảy. Cô Diệu reo lên:
- A, Quý vẽ con cá giống ghê. Quý vẽ thêm một con nữa đi. Dưới sông nhiều loại cá lắm chứ.
- Con vẽ cá rô nghen cô. Cá lóc nữa. Hay cá mè vinh.
Và nó mạnh dạn đưa cây bút lướt trên mặt giấy. Những con cá lần lượt hiện ra, thay đổi hình dáng, thay đổi kỳ vi, râu vảy, đẹp đến bất ngờ. Cô Diệu lật sang trang vở khác, và đưa cho nó cây bút màu vàng, màu xanh.
- Bây giờ con tự vẽ cái bông đi. Bông gì cũng được.
Thằng Quý vẽ ngay một cái bông năm cánh, chung quanh là thân cây và lá màu xanh chằng chịt. Nó ngước lên:
- Cô ơi, con muốn vẽ cái chậu, màu nâu được không cô?
- Đúng rồi. Chậu trồng bông thì màu nâu. Quý giỏi quá.
Chưa đầy 20 phút sau, mấy trang vở đã chất đầy những chậu bông đủ màu hồng, vàng, cam, tím. Thằng Quý buông cây bút xuống, những ngón tay nó mỏi nhừ, mồ hôi lấp lánh trên trán, nhưng đôi mắt thì sáng ngời. Cô Diệu cười thật tươi:
- Con có tin mình sẽ thành công không?
Quý gật đầu. Cô Diệu thủ thỉ:
- Từ nay về sau, con phải sống thật tốt để mọi người yêu quý con. Con tên là Quý mà, phải làm sao cho người ta quý mình chứ. Nghèo không phải đã tuyệt vọng. Nếu con sống tốt thì cuộc đời con sẽ sung sướng.
Thằng Quý nuốt từng lời của cô Diệu. Nó im lặng, nhưng nước mắt sắp trào ra. Còn cô Diệu cũng ngân ngấn mắt khi nhìn thấy bộ quần áo của nó và cái cổ gầy đóng những ghét bẩn. Cô thở dài:
- Chiều tắm, con lấy khăn chà mạnh lên cổ nghen. Rồi cô gởi một bộ đồ về cho con.
- Còn con sẽ vẽ đầy cuốn tập để tặng cô. Mà cô ơi, cô dạy con viết chữ đi. Viết tên cô đó.
Cô Diệu ghi chữ Diệu thật bự lên tờ giấy. Thằng Quý nguệch ngoạc viết thêm chữ mẹ đằng trước chữ Diệu. Nó cười lỏn lẻn:
- Thầy dạy con học tới chữ mẹ rồi. Cô ơi, cô cho con kêu cô là mẹ nghen. Con sẽ viết hoài cho thuộc chữ “mẹ Diệu.”
Cô Diệu bất ngờ:
- Ờ... con thích kêu cô là mẹ hả?
- Dạ, con làm con của cô được không? Cô hiền như cô tiên vậy.
- Được rồi, cô sẽ là mẹ của Quý. Nhưng Quý phải ngoan và chăm học. Cô sẽ nhờ thầy dạy tiếp cho hết cuốn vần. Nếu con không chịu học là mẹ giận.
- Dạ, con sẽ học, để sau này viết thư cho mẹ chớ. Rồi con sẽ học vẽ để sau này đi làm kiếm tiền nuôi mẹ.
- Con rất giỏi, chỉ cần con cố gắng là con sẽ thành công. Mẹ tin chắc như thế.
- Con cũng tin chắc như thế.
Thằng Quý xòe bàn tay ra. Cô Diệu cũng xòe bàn tay ra, vỗ vào tay nó kêu một tiếng thật giòn như một lời hứa. Tiếng thằng Quý cười trong veo cả hiên chùa.
Đã tới giờ xe chạy, cô Diệu phải sang sông đón xe. Quý nhất định đưa mẹ qua đò cho bằng được. Nó lóc cóc vác cái ba lô nặng trĩu, sợ mẹ xách nặng rồi mỏi tay. Nó không quên nhắc mẹ Diệu đội nón, và đem theo trái xoài thầy vừa tặng.
Cô Diệu lên xe rồi, thằng Quý vẫn đứng trông theo, trên tay nó là hộp bút màu và quyển tập ôm chặt vào ngực. Xe lăn bánh, nó vẫy tay với cô Diệu, bàn tay vừa được nâng niu và đặt vào đó một niềm tin...
BỒ TÁT
Tôi đi chùa, không hiểu sao rất thích hai chữ Bồ Tát. Trong chùa, tượng Phật quá chừng nhiều, mà tượng Bồ Tát rất ít, hầu như chỉ có Quán Thế Âm cầm cành dương liễu đứng giữa ao sen. Lâu lâu mới gặp một chùa có tượng Đại Thế Chí, Văn Thù Sư Lợi, Đại Hạnh Phổ Hiền. Tôi không thoả mãn, muốn biết thiệt nhiều Bồ Tát nữa kìa.
Tối đó, tôi nằm mơ, thấy Đức Phật cười thật tươi. “Sáng mai con sẽ được gặp Bồ Tát.” Tôi chắp tay xá lia lịa. “Dạ, dạ, con đội ơn Đức Phật.”
Cả buổi sáng hôm sau, tôi chẳng dám đi đâu cả, cứ ngồi nhà thắp hương đợi Bồ Tát. Chờ hoài không thấy. Đồng hồ chỉ 11g. Trời đã sang trưa. Tôi thở dài, “Chiêm bao không lẽ có thiệt!” Thế là tôi đứng dậy đi ăn cơm bụi, vì bữa nay mắc chờ Bồ Tát nên không đi chợ nấu cơm gì ráo.
Ăn xong, tôi ngẫu hứng chạy luôn tới nhà nhỏ bạn mà khá lâu không thăm viếng. Hôm nay chúa nhật chắc nó được nghỉ làm.
Cảnh nhà hiện ra khiến tôi bàng hoàng. Trời, sao mà xuống cấp dữ vậy? Hình như mới một năm không gặp... Đời sống đô thị vậy đó, có khi quận này cách quận kia không bao xa nhưng người ta vẫn không đi thăm nhau được. Vì công việc bề bộn, làm trong giờ, làm ngoài giờ, học thêm buổi tối, về nhà lo vợ chồng, con cái... Đến chúa nhật cũng chưa chắc rảnh, nào đưa con đi học võ, học bơi, nào đi siêu thị mua thức ăn cho cả tuần, nào dọn dẹp nhà cửa, ủi quần áo cho sáu ngày còn lại, rồi đám giỗ, đám cưới, thôi nôi, đầy tháng bây giờ cũng “đè” chúa nhật ra mà mời... Cho nên, bạn bè rốt cuộc chỉ còn quanh quẩn những người trong cơ quan là chính, chứ bạn cũ, bạn hồi phổ thông như nhỏ Thảo này thì đâu còn dành bao nhiêu cơ hội.
Tôi đến, đúng lúc Thảo đang dỗ dành người cha say xỉn lè nhè chịu nằm xuống ngủ yên. Ông gầy nhom, nhưng bụng trướng to vì bệnh gan, Thảo nói đã trị cả năm nay chưa bớt. Bác sĩ không cho uống rượu, nhưng ông thèm, lâu lâu lén tợp vài ly. Thế là vừa lên cơn đau, vừa kích thích thần kinh, nói năng um sùm. Mẹ Thảo bực dọc, rầy mắng om lên nữa, hoặc ca cẩm suốt ngày bên tai Thảo. Tôi nhìn vào góc nhà, nơi có một căn phòng nhỏ mờ tối, cánh cửa phòng là những song sắt rất to được khoá chặt, trong nhốt cậu em trai của Thảo bị bệnh tâm thần. Cậu ta đã hơn 30 tuổi, chưa vợ, ăn học đàng hoàng, tự nhiên phát bệnh, đập phá, chạy rong ngoài đường. Điều trị ở bệnh viện hơi bớt một chút thì phải lãnh về nhà, vì bệnh viện quá đông bệnh nhân. Cậu ta trông thấy tôi liền cười ré lên và dộng cửa đòi ra. Tiếng khoá va đập loảng xoảng. Thảo chạy đến dỗ em. “Nè, ăn kẹo đi, rồi ngồi xuống chơi, đừng la nữa nghen, chị thương.” Cậu ta dịu lại. Thảo cười, “Nó chỉ nghe lời mình thôi.”
Thảo quay sang thăm chừng siêu thuốc sắc cho ba uống. “Hết tiền uống thuốc tây rồi, mà uống hoài thấy không kết quả lắm. Đổi sang thuốc nam, coi bộ đỡ.” Tôi thở dài, “Một mình bạn với đồng lương y tá mà trang trải hết cho gia đình, làm sao đủ...” “Không đủ cũng phải đủ.” “Rồi Thảo không tính chuyện lập gia đình?” “Hì, ai dám nhào vô lãnh 3, 4 người này? Có người đi hỏi, nhưng mình theo chồng thì ai chăm sóc ba má và thằng út. Anh chị Hai ra riêng cũng đâu khá giả gì. Thôi từ từ tính.” Từ từ là đến bao giờ? Thảo đã xấp xỉ 40, mái tóc chớm nhiều sợi bạc. Tôi biết, Thảo đã chọn con đường cho mình. Nhưng lạ, suốt đến chiều tôi không hề nghe Thảo than van một tiếng, trong khi tôi quá mệt vì tiếng dộng cửa la hét của cậu em trai, tiếng rên rỉ của ông bố và tiếng ca cẩm của bà mẹ. Thảo kể lại chuyện nhà cho tôi nghe bằng một giọng đều đều, bình thản. Lâu lâu lại còn cười dỗ người này người kia nữa chứ. Và cuối cùng Thảo tiễn tôi ra về với câu: “Quen rồi, bạn đừng lo cho mình.” Tôi đưa Thảo số tiền giúp ông bố uống thuốc, Thảo từ chối. “Chừng nào kẹt, mình sẽ nhờ đến bạn.”
Tối đó, tôi mệt nhoài, đi ngủ sớm.
Trong giấc mơ tôi lại thấy Phật hiện ra. Tôi khiếu nại liền: “Sao Phật hổng cho con gặp Bồ Tát? Con chờ hoài, đi chơi, lại gặp cảnh khổ, mệt quá chừng. Con mà như nhỏ Thảo chắc con... chết!” Phật cười: “Vậy sáng mai con sẽ gặp.”
- Anh uống thử coi. Em mới học cách ướp trà của sư cô. Ướp bằng hoa sen đó.
Anh Tám chỉ nghe vị trà đắng ngắt như chính lòng mình đang cay đắng, mà cũng ráng nói:
- Ừ, thơm quá. Em khéo thiệt.
Chị Tám hơi mỉm miệng cười:
- Thơm thiệt không?
Anh Tám gật đầu, cảm thấy “dễ thở” trước nụ cười của vợ.
- Em định bàn với anh một việc quan trọng. Là việc của anh và cô Hương.
Anh Tám lại thấy “nín thở”.
- Em nghĩ, âu là hai người kiếp trước cũng có duyên nợ với nhau nên bây giờ mới gặp nhau như thế. Em học Phật pháp, hiểu rằng không có cái gì tự nhiên sinh ra, mà phải do duyên hợp. Xét cho cùng cô Hương cũng không có lỗi. Phụ nữ thường nhẹ dạ, nếu anh không theo tán tỉnh thì cô ấy đâu có ngã lòng. Thôi thì em bàn như vầy, em và anh phải lo cho cô ấy và đứa con trong bụng.
Anh Tám thở phào một cái như có ai vừa lấy cục đá nặng ngàn cân ra khỏi ngực. Vậy là chị Tám quyết định lấy tình thương và lịch sự đối đãi với cô, đủ cho anh yên tâm và cảm phục lắm rồi. Nhìn gương mặt vợ, anh biết chị không đòi ly dị đâu. Thế là nhẹ nhõm cho anh cả đôi đàng. Ủa, mà chị Tám nói “lo” cho cô Hương với cả đứa con trong bụng là “lo” làm sao? Chắc chị bảo anh chu cấp tiền bạc cho cô sinh sống, sanh nở chứ gì? Nếu vậy, vợ anh quả là tốt bụng. Nhưng cô Hương cũng không cần lắm đâu. Cô rất đảm đang, hứa là sẽ không làm phiền đến gia đình anh, miễn sao nhận được sự cảm thông, tha thứ từ phía chị. Dẫu vậy, nếu cô Hương biết được ý tốt của chị Tám, hẳn cô sẽ xúc động đến khóc. Anh Tám cũng muốn khóc đây.
Giọng chị Tám đều đều:
- Em định làm lễ cưới cho anh với cô ấy.
- Hả?
Anh Tám tưởng mình từ trên trời rơi xuống. Anh có nghe lầm không? Hay là vợ anh định giỡn cho anh... “run” chơi! Cái bà này, chuyện hệ trọng như vậy còn đem ra giỡn...
- Em đâu có nói giỡn. Em nói thiệt đó. Anh phải đi cưới cô Hương.
- Đâu có được. Anh mặt mũi nào làm cái chuyện kỳ cục đó. Ai đời, vợ con sờ sờ ở nhà mà đi sắm vai... chú rể.
- Anh không mặt mũi nào, vậy chứ cô Hương mặt mũi nào mà sống với xóm giềng. Người ta là con gái, bây giờ cái bụng chè è ra đó, anh coi tủi hổ biết bao nhiêu. Rồi con sinh ra đời bị chế giễu là con hoang. Anh làm hại cả cuộc đời người ta, thì bây giờ anh có cố gắng một chút cũng đâu có sao.
- Nhưng... không được mà...
- Anh Tám à, anh thử tưởng tượng coi, nếu như cô Hương không đủ sức chịu đựng, rồi cô tự tử hoặc bỏ rơi đứa con, nó sẽ lớn lên trong viện mồ côi, hoặc phải ở đợ, bụi đời... Chừng đó, dẫu nó không oán hận mình thì lương tâm mình cũng không yên. Từ tội lỗi này mình lại gây thêm tội lỗi khác. Đứa nhỏ hoàn toàn vô tội, mình đừng bắt nó gánh chịu hậu quả của người lớn. Nói thiệt, em không đành lòng thấy nó côi cút, hư hỏng. Con mình sao mình biết thương, mà mình lại hất hủi nó. Dù gì, nó cũng là giọt máu của anh. Anh và em phải lo cho nó.
- Thì mình gởi tiền nuôi nó được rồi.
- Tiền đâu phải là tất cả. Anh nhớ không, hồi đó nhà mình nghèo nhưng vẫn hạnh phúc vì vợ chồng con cái sum họp, con mình nên người vì có cha dạy dỗ, chở che. Tình thương đôi khi hơn cả tiền bạc anh à. Anh phải là người cha đúng nghĩa đối với con cô Hương, thương yêu dạy dỗ nó như đối với con mình. Như vậy anh phải đường hoàng lui tới, đường hoàng sống với nó cho nó đừng tủi thân. Cho nên, chỉ có cách là anh cưới cô Hương.
- Anh làm sao có danh chánh ngôn thuận mà cưới chớ.
- Dĩ nhiên rồi. Nhưng em sẽ đi cưới cho anh.
Anh Tám mở to mắt kinh ngạc. Chị Tám tiếp:
- Em sẽ mua trầu cau sính lễ, rồi đứng ra thưa với ba má cô Hương, chấp nhận cô như vợ của anh. Như vậy nghĩa là em đi cưới vợ cho anh chớ gì.
- Nhưng pháp luật chỉ chấp nhận một vợ một chồng.
- Đúng là cô Hương không làm hôn thú với anh được. Nhưng dẫu sao cái lễ cưới đơn sơ đó cũng làm cô Hương bớt tủi thân, bớt bị dị nghị, và con cô sinh ra đường hoàng gọi anh bằng cha, được tới lui chăm sóc. Còn sau này cô có gặp ai vừa ý mà kết hôn thì cô cũng được quyền tự do. Đằng nào, coi như cô cũng có chồng đàng hoàng.
Anh Tám thở dài trước quyết định của vợ. Anh vừa mừng lại vừa lo. Mà thôi, cứ làm theo ý chị. Anh tin rằng một người có tâm đạo như chị ắt sẽ không làm khổ cho ai. Sự hy sinh này anh không biết lấy gì đền đáp cho nổi.
Đám cưới rất giản dị, nhưng lại là sự kiện nổi đình nổi đám của cái huyện Châu Thành. Trên đời, chưa có bà vợ lớn nào đi cưới vợ bé cho chồng. Thời phong kiến thì có, vì tục năm thê bảy thiếp, nhưng các bà đều buộc lòng mà làm, bất đắc dĩ mà làm với sự hằn học, ghen tuông, chứ có ai lại tự nguyện, vui vẻ như chị Tám. Dân trong huyện bảo nhau: “Ối, mấy lúc rồi rã đám cho coi. Đàn bà mà, ai lại hổng ghen!” Và họ chờ đợi cái cuộc tình tay ba kia tan vỡ...
Nhưng rồi gia đình chị Tám vẫn trong ấm ngoài êm. Anh Tám thêm nể nang, thương yêu chị. Cô Hương thì khỏi nói, một mực tôn kính. Nhà anh Tám ở Cái tàu Hạ, nhà cô Hương ở Cái Gia, nhưng hai bên thường tới lui thăm viếng. Con cô Hương kêu chị Tám bằng “má” ngọt xớt, và lớn lớn một chút thì lên ở luôn với “má” để đi học cho gần. Chị Tám thấy lòng thanh thản, nhẹ nhàng, và thời gian chị dành cho chùa chiền càng nhiều hơn. Anh Tám cũng bắt chước vợ, đi chùa, học kinh. Trong lòng anh, vợ anh cũng là một vị Phật.
Hai mươi năm trôi qua... Bà Tám đứng ra làm chủ hôn cho con cô Hương ngày nào. Cô Hương tóc cũng hoa râm, cung kính mời “chị Tám” đảm nhận vai trò người mẹ trong ngày vui của con. Cô khóc, những giọt nước mắt hạnh phúc lẫn tri ân. Còn bà Tám lại cười.
Rồi bà xuất gia, cất cốc tu tại nhà. Bóng áo lam của bà vẫn dịu dàng chia sẻ với mọi người lòng yêu thương, chung thủy... (1).
(1). Đây là câu chuyện hoàn toàn có thật, tác giả chỉ sửa đổi vài chi tiết và tên nhân vật.
THẦY BÓI
Không hẹn mà cả bốn chị em cùng lén đi coi bói, lại coi đúng một bà thầy “có tiếng” trong quận. Bà thầy cũng không biết đó là bốn chị em ruột, nên phán một lèo y chang nhau, bởi bốn quẻ đều có con ách bích đen thui nằm chúi đầu xuống đầy đe dọa: “Trong nhà có người nữ lớn tuổi coi chừng bệnh nặng, e... hèm... sợ không qua khỏi năm nay...”
Bốn chị em xanh mặt. Thì bà má ở nhà mới đi xét nghiệm, lượng đường trong máu tăng cao, kèm theo gan nhiễm mỡ, thấp khớp, mắt lại bị cườm nặng. Đêm nào má cũng rên vì không ngủ được, nằm trăn qua trở lại đến sáng mới thiêm thiếp đi một chút. Thức ăn bày ra đủ món má thèm, nhưng bị cấm tiệt. Nào chuối, xoài, nhãn, bánh... cứ phải nhai đủ thứ thuốc dân gian ai chỉ đâu làm đó, hết cây nha đam đến khổ qua luộc, rau má, rau lang, rồi rễ bần, trái nhàu, lá sa kê nấu nước uống... Chưa kể bao nhiêu cái toa của bác sĩ và hàng chục lời căn dặn. Thế nhưng cái cơ thể già nua ấy dường như không còn chịu nghe lời ai cả ngoài cái quy luật vô thường sinh lão bệnh tử dành cho kiếp người khổ não.
Biết thì biết vậy, nhưng bốn đứa con vẫn không chịu nổi, và cuối cùng những niềm tin nhỏ nhoi còn sót lại đành chỉ biết đem gởi gắm vào những lá số huyền bí, hy vọng một lời phán truyền nào đó sẽ lấy lại chút sinh khí cho ngôi nhà đang đầy mùi thuốc và tiếng thở dài. Không ngờ, lời phán truyền của bà thầy bói lại càng làm rối tung hơn nữa. Chị Hai ngồi một góc khóc hu hu như trẻ con, khác hẳn cái tật gắt gỏng om sòm của chị. Vợ chồng anh Ba là con và dâu trưởng trong nhà, khẽ khàng nhìn tới nhìn lui. Cô Tư thì không buồn nhấc điện thoại của anh người yêu gọi tới, xù luôn cái hẹn đi ăn tối. Cô Út có chồng sớm, đã ra riêng, bảo anh chồng ở nhà một mình, còn cô về ngủ với má mấy bữa. Má không hiểu chị em nó có chuyện gì mà cứ xì xầm to nhỏ với nhau miết trên gác, mặt đứa nào đứa nấy cứ bơ bơ như mất hồn. Má chép miệng: “Cơm nước dọn ra nguội ngắt hết rồi. Ăn uống vậy làm sao có sức đi làm! Thiệt tình!”
Những tờ lịch cứ rơi dần, rơi dần. Bốn chị em thường nhìn nhau. Chị Hai tự nhiên ăn chay cả tuần, hỏi cầu cái gì chỉ ừ à không nói. Ngạc nhiên hơn nữa là không nghe chị cãi vả với má như hồi trước. Hai mẹ con vốn khắc khẩu, mẹ thì bảo thủ, con thì cấp tiến, nên làm cái gì cũng không chịu nhau, cứ lời qua tiếng lại suốt ngày. Má có tật cằn nhằn, cử nhử, còn chị Hai đi làm mệt, thường đổ quạu. Vậy mà bây giờ, nghe má cằn nhằn, chị Hai nhe hàm răng ra cười trong sáu con mắt kinh ngạc của lũ em: “Ừ, còn sức thì cằn nhằn! Cho má nói thoải mái luôn đó! Ê tụi bây, lấy cái cát-xét ra thu tiếng chừng nữa phát cho mấy bà bạn già của má nghe chơi!” Má “xuất chiêu” mà không có người “đỡ” nên tức cười im ru luôn.
Chị Hai còn đi kiếm mấy cuốn kinh Phật về cho má coi, lâu lâu thấy hai mẹ con nói chuyện rất tâm đắc về nhà sư này giảng hay, nhà sư kia khuyên làm việc thiện. Những câu chuyện đạo tự hồi nào len giữa hai mẹ con thay cho những lời tranh biện hồi trước. Má nói: “Hóa ra cả nhà này chỉ có chị Hai tụi bây giống má, còn tụi bây ham chơi quá chừng!” Chị Hai nheo nheo mắt với lũ em: “Chứ tao không nói chuyện kinh kệ với má, hổng lẽ đem chuyện bảo thủ của ‘bà già’ ra cãi nữa!”
Vợ chồng anh chị Ba dạo này hết giờ làm việc cũng về nhà sớm hơn, không la cà ngoài công viên, siêu thị. Về nhà sớm, còn thời gian ăn cơm với má, khen món này ngon, món kia ngon, khiến má sung sướng cả ngày. Má thuộc lòng ý thích của thằng con trai độc nhứt, nhưng sau này anh Ba đi làm về muộn, cứ ăn cơm tiệm hoài, nên má hết còn hứng thú nấu nướng cho anh. Bây giờ nhìn anh húp canh soàn soạt, má bảo chị bếp: “Mai mua giò heo hầm măng cho nó ăn nghen!” Chị Ba cười, giả bộ tị nạnh: “Mới hôm nay đã lo đến ngày mai! Má cưng ảnh quá, ảnh quen tật, con chiều không nổi đâu nghen!”
Thằng Nghé, đứa cháu nội bụ bẫm, chạy lạch bạch tới chỗ nội khoe bài hát mới học được trong lớp. Nghé vừa hát vừa minh họa làm má cưng hết chỗ nói. Má nắm tay nó hôn một cái, nó vùng vằng vì đang muốn hát. Chị Ba lườm con: “Hỗn nè! Cho nội hôn, nội thương con nhứt nhà đó!” Hai mẹ con không còn rúc vào phòng riêng nữa, mà thường bày trò chơi chỗ nội, cho nội ngắm cháu thỏa thích. Má tẩn mẩn tìm lại tấm ảnh cũ trong album, tấm ảnh của anh Ba đầu trọc lóc, cởi truồng, toét miệng cười trong chiếc ghế mây: “Coi Nghé giống thằng cha nó không! Y như khuôn đúc. Thiệt lẹ, mới đây mà mấy chục năm...” Mắt má long lanh hạnh phúc.
Má khổ nhất là vợ chồng cô Út, dăm bữa giận, chục bữa hờn, khóc lóc, bỏ ăn. Mỗi lần điện thoại nhà này réo lên vào lúc nửa đêm là biết ngay từ nhà cô Út gọi sang, méc chuyện giận nhau, có cả tiếng khóc và tiếng chó sủa inh ỏi. Vợ chồng trẻ con, nuôi chú chó con, ôi thôi như cái chợ. Chẳng biết bao giờ tụi nó trưởng thành, tao chết rồi chắc nó bỏ nhau quá! Tao còn sống đây mà nó còn ì xèo như vậy! Má than thở, buồn rầu, vừa thương con, thương rể, không biết xử làm sao.
Nhưng nửa năm nay, hình như không có cú điện thoại nào vào lúc nửa đêm. Vợ chồng cô Út lại siêng năng ghé thăm má, mua tùm lum món ăn, rồi hai vợ chồng ngồi ăn một hơi sạch bách. Má có ăn được gì đâu, bác sĩ cấm kia mà. Nhưng má vui lắm, lui cui vô mở tủ lấy thêm bánh trái cho “hai đứa con nít”. Má cười: “Tụi nó đừng cãi nhau thì ăn bao nhiêu má cũng chịu!” Vợ chồng cô Út cười hì hì.
Và chuyện vui nhất trong năm là đám cưới cô Tư, đám cưới nhanh ngoài dự kiến của bà con. Cô Tư đã hơn ba mươi tuổi rồi nhưng cứ dùng dằng chuyện hôn nhân, dù anh người yêu đã ngỏ lời suốt bốn năm. Cô nói cô còn muốn ở bên má một thời gian nữa. Thật ra, má hợp với cô Tư nhất, vì cô dịu dàng, chăm sóc má, biết chia sẻ những câu chuyện lẩm cẩm của người già một cách kiên nhẫn, biết im lặng khi má cằn nhằn, biết giảng hòa mỗi khi má và anh chị hờn nhau. Cô là linh hồn của nhà này, mỗi khi cô đi công tác xa, má cứ thấy buồn buồn và cô đơn thế nào. Chính vì vậy mà cô Tư cứ nấn ná không chịu có chồng. Nhưng cũng chính vì vậy mà má lo âu, day dứt. “Vắng con thì má nhớ, nhưng má yên tâm nhắm mắt. Chừng nào con chưa lập gia đình, má còn ăn ngủ không yên.” Cái nghịch lý trong tình cảm của má là vừa muốn có con bên cạnh, vừa muốn con yên bề gia thất.
Nhưng cuối cùng đám cưới lại được sắp xếp rất nhanh chóng khiến anh người yêu của cô Tư mừng quýnh lên. Và cuối năm, con rể phóng xe như bay về nhà mẹ vợ: “Má, má! Vợ con có bầu. Má cố vấn cho con mua cái gì cho cổ ăn, bổ bổ nghen má!” Má lật đật khăn gói qua nhà cô Tư, quên là đêm qua mới rên vì cái chân thấp khớp.
Những tờ lịch cuối cùng trong năm rơi xuống, trơ lại cái khung lịch màu đỏ in một cành mai rực rỡ hy vọng. Bốn chị em nhìn nhau, lè lưỡi: “Thầy bói coi trật lất! Hú hồn. Đừng đi coi nữa nghen!”
Thằng Quý
Mẹ nó đặt cho nó tên là Quý, nhưng người ta không thấy nó quý chút nào. Vừa chào đời, nó đã lọt vào một gian nhà tranh rách nát, nhỏ xíu xiu như cái tổ chim với nhiều lỗ thủng có thể ngắm được cả trăng sao. Lớn một chút, nó thấy ba nó vắng nhà liên tục, và cuối cùng ba nó bỏ đi theo một người đàn bà khác. Còn lại mẹ nó, một người phụ nữ chưa trẻ bao lâu đã vội già vì hờn giận, ghen tuông, đau đớn, chờ đợi, và già thêm vì một mình nuôi con bằng cái nghề làm mướn bấp bênh nay có mai không. Chị để mặc ngày tháng trôi qua, thời gian gặm nhấm nhan sắc, tuổi xuân của mình, và để mặc đứa con trai trong sự cô đơn, lam lũ không thua gì chị.
Mười bốn tuổi, thằng Quý vẫn chưa biết chữ nào, chưa hề được tới trường, suốt ngày lêu lổng ngoài đường, ngoài ruộng. Nó theo đám bạn đi bắt cá, hái rau, đánh lộn, chửi thề, rồi tập tành hút thuốc, đánh bài. Vậy đó, nó như cây cỏ dại lớn lên cằn cỗi trên mảnh đất quê nghèo, chẳng ai muốn đến gần nó.
Mà nó cằn cỗi thật. Mười bốn tuổi nhưng chỉ bằng đứa trẻ lên mười, ngoại trừ khuôn mặt thì lại hằn những dấu ấn cuộc đời. Hôm cô Diệu gặp nó, cô ngỡ ngàng nhìn cái cổ gầy nhom của nó đóng đen thui những ghét bẩn. Cô mủi lòng, chắc mẹ nó không hề nhắc nó tắm rửa thế nào. Chiếc áo nó mặc thâm kim cả mảng lưng, còn cái quần lếch thếch sát đất cứ như mặc quần bính. Đôi vai trơ xương cứ nằng nặc đòi vác ba lô cho cô, và đưa ra tận bến đò, lưu luyến nhìn theo bóng cô mờ khuất. Đôi mắt nó thấm đẫm niềm thương, khiến con đò cô Diệu đi cứ như chòng chành trên sóng nước. Ngày đầu tiên nó gặp cô Diệu là như thế đó...
Thật ra, ban đầu cô Diệu cũng không hề nhận biết thằng Quý. Nó lẫn vào đám đông trẻ nhỏ kéo đến chùa để cô Diệu phát quà. Cô Diệu là Phật tử ở xa, lâu lâu về ghé thăm chùa. Ngôi chùa nhỏ nằm cách nhà thằng Quý vài trăm mét, cũng nghèo như bao nhiêu mái tranh của dân trong làng. Cô Diệu đem quà bánh về cho trẻ con, tụi nhỏ tưng bừng hớn hở ôm lấy những hộp bút màu, những cuốn tập, những chiếc ô tô nhựa, và mấy cái bánh ngọt hấp dẫn. Thằng Quý cũng được một phần quà nặng tay. Cô Diệu đâu có biết rằng nó mù chữ. Và cô Diệu cũng đâu có biết nó được đặc biệt “quan tâm” hơn những đứa trẻ trong xóm. Cô thấy nó lanh lẹ nên cứ nhờ nó xách dùm bịch bánh, khiêng dùm chồng tập, nó sung sướng chạy te tái giúp cô, mồ hôi ướt đẫm cả áo.
Phát hết quà, nó cứ đứng gần cô, không chịu về. Thầy trụ trì nói nhỏ với cô:
- Thằng nhóc này ăn cắp lắm nghen cô. Tôi bị nó lấy mấy món rồi đó, nên bây giờ không cho nó vô trong khuôn viên chùa, chỉ cho đi vòng vòng ngoài cổng tới nhà bếp thôi.
Cô Diệu giựt mình sờ tay vào túi kiểm tra lại cái điện thoại di động. Nhưng cô mỉm cười ngay lập tức:
- Dạ không sao. Con thấy nó cũng dễ thương đó thầy.
- Ờ, cô cẩn thận...
Và không đầy năm phút sau, cô Diệu đã nắm hết “lý lịch” của thằng Quý từ mấy bà Phật tử tự động “méc” cho cô nghe. Rõ ràng, nó đã tự làm mất “uy tín” từ lâu.
Nhưng cô Diệu lại ngoắc thằng Quý đến gần:
- Con ăn bánh chưa?
- Dạ con ăn rồi.
- Con lấy tập ra viết chữ cho cô coi. Thầy nói thầy đã dạy con học được nửa cuốn vần, sao con không học tiếp?
- Dạ... tại con lấy đồ của thầy, thầy giận...
- Cô dạy con học nghen. Và lát nữa con xin lỗi thầy, thầy sẽ tha thứ cho con.
- Dạ. Nhưng con không học đâu. Ngán thấy mồ. Chữ nọ lộn chữ kia. Nhức đầu quá.
Cô Diệu gật đầu:
- Được rồi. Thôi không học chữ, mà cô sẽ dạy con vẽ.
Thằng Quý giãy nảy:
- Con không biết vẽ.
Cô Diệu mỉm cười:
- Con đưa bàn tay cô xem nào.
Thằng Quý đưa tay ra. Bàn tay khẳng khiu, đen đúa, những cái móng dài nhét đầy đất như mười con sâu nằm vắt ngang gớm ghiếc. Cô Diệu mở túi xách lấy chiếc bấm móng tay nhẹ nhàng cắt hết mười con sâu ấy, còn lại mười ngón nhỏ gầy sạch sẽ. Cô bảo Quý ra sàn nước rửa tay, rồi bảo Quý nhìn cho thật kỹ:
- Con xem, con có bàn tay rất khéo léo, cô tin là con sẽ làm được những việc rất tốt. Bây giờ con thử vẽ, cô chắc chắn là con vẽ đẹp. Con đừng có ý nghĩ thua kém bạn bè, mà phải tin rằng mình cũng có những khả năng riêng của mình. Con không học chữ được thì hãy học vẽ. Cố gắng lên, cô biết con sẽ thành công mà.
Thằng Quý nhìn cô Diệu không chớp mắt. Nhưng nó vẫn lắc đầu:
- Con chẳng biết vẽ cái gì bây giờ.
Cô Diệu lấy cây bút màu đỏ đặt vào tay nó:
- À, con thử vẽ con cá xem.
Bàn tay thằng Quý cứng đơ nắm chặt cây bút. Cô Diệu lấy cây bút khác kéo mấy nét gọn hơ là trang giấy hiện lên một con cá. Thằng Quý trố mắt. Cô Diệu nói:
- Rồi, con vẽ đại đi. Con cứ vẽ con cá nào mà con tưởng tượng. Miễn cô nhìn ra con cá thì thôi.
Thằng Quý ngập ngừng đưa nhẹ cây bút. Một con cá tong teo, méo xẹo, nhưng cũng đủ cả vây, cả vảy. Cô Diệu reo lên:
- A, Quý vẽ con cá giống ghê. Quý vẽ thêm một con nữa đi. Dưới sông nhiều loại cá lắm chứ.
- Con vẽ cá rô nghen cô. Cá lóc nữa. Hay cá mè vinh.
Và nó mạnh dạn đưa cây bút lướt trên mặt giấy. Những con cá lần lượt hiện ra, thay đổi hình dáng, thay đổi kỳ vi, râu vảy, đẹp đến bất ngờ. Cô Diệu lật sang trang vở khác, và đưa cho nó cây bút màu vàng, màu xanh.
- Bây giờ con tự vẽ cái bông đi. Bông gì cũng được.
Thằng Quý vẽ ngay một cái bông năm cánh, chung quanh là thân cây và lá màu xanh chằng chịt. Nó ngước lên:
- Cô ơi, con muốn vẽ cái chậu, màu nâu được không cô?
- Đúng rồi. Chậu trồng bông thì màu nâu. Quý giỏi quá.
Chưa đầy 20 phút sau, mấy trang vở đã chất đầy những chậu bông đủ màu hồng, vàng, cam, tím. Thằng Quý buông cây bút xuống, những ngón tay nó mỏi nhừ, mồ hôi lấp lánh trên trán, nhưng đôi mắt thì sáng ngời. Cô Diệu cười thật tươi:
- Con có tin mình sẽ thành công không?
Quý gật đầu. Cô Diệu thủ thỉ:
- Từ nay về sau, con phải sống thật tốt để mọi người yêu quý con. Con tên là Quý mà, phải làm sao cho người ta quý mình chứ. Nghèo không phải đã tuyệt vọng. Nếu con sống tốt thì cuộc đời con sẽ sung sướng.
Thằng Quý nuốt từng lời của cô Diệu. Nó im lặng, nhưng nước mắt sắp trào ra. Còn cô Diệu cũng ngân ngấn mắt khi nhìn thấy bộ quần áo của nó và cái cổ gầy đóng những ghét bẩn. Cô thở dài:
- Chiều tắm, con lấy khăn chà mạnh lên cổ nghen. Rồi cô gởi một bộ đồ về cho con.
- Còn con sẽ vẽ đầy cuốn tập để tặng cô. Mà cô ơi, cô dạy con viết chữ đi. Viết tên cô đó.
Cô Diệu ghi chữ Diệu thật bự lên tờ giấy. Thằng Quý nguệch ngoạc viết thêm chữ mẹ đằng trước chữ Diệu. Nó cười lỏn lẻn:
- Thầy dạy con học tới chữ mẹ rồi. Cô ơi, cô cho con kêu cô là mẹ nghen. Con sẽ viết hoài cho thuộc chữ “mẹ Diệu.”
Cô Diệu bất ngờ:
- Ờ... con thích kêu cô là mẹ hả?
- Dạ, con làm con của cô được không? Cô hiền như cô tiên vậy.
- Được rồi, cô sẽ là mẹ của Quý. Nhưng Quý phải ngoan và chăm học. Cô sẽ nhờ thầy dạy tiếp cho hết cuốn vần. Nếu con không chịu học là mẹ giận.
- Dạ, con sẽ học, để sau này viết thư cho mẹ chớ. Rồi con sẽ học vẽ để sau này đi làm kiếm tiền nuôi mẹ.
- Con rất giỏi, chỉ cần con cố gắng là con sẽ thành công. Mẹ tin chắc như thế.
- Con cũng tin chắc như thế.
Thằng Quý xòe bàn tay ra. Cô Diệu cũng xòe bàn tay ra, vỗ vào tay nó kêu một tiếng thật giòn như một lời hứa. Tiếng thằng Quý cười trong veo cả hiên chùa.
Đã tới giờ xe chạy, cô Diệu phải sang sông đón xe. Quý nhất định đưa mẹ qua đò cho bằng được. Nó lóc cóc vác cái ba lô nặng trĩu, sợ mẹ xách nặng rồi mỏi tay. Nó không quên nhắc mẹ Diệu đội nón, và đem theo trái xoài thầy vừa tặng.
Cô Diệu lên xe rồi, thằng Quý vẫn đứng trông theo, trên tay nó là hộp bút màu và quyển tập ôm chặt vào ngực. Xe lăn bánh, nó vẫy tay với cô Diệu, bàn tay vừa được nâng niu và đặt vào đó một niềm tin...
BỒ TÁT
Tôi đi chùa, không hiểu sao rất thích hai chữ Bồ Tát. Trong chùa, tượng Phật quá chừng nhiều, mà tượng Bồ Tát rất ít, hầu như chỉ có Quán Thế Âm cầm cành dương liễu đứng giữa ao sen. Lâu lâu mới gặp một chùa có tượng Đại Thế Chí, Văn Thù Sư Lợi, Đại Hạnh Phổ Hiền. Tôi không thoả mãn, muốn biết thiệt nhiều Bồ Tát nữa kìa.
Tối đó, tôi nằm mơ, thấy Đức Phật cười thật tươi. “Sáng mai con sẽ được gặp Bồ Tát.” Tôi chắp tay xá lia lịa. “Dạ, dạ, con đội ơn Đức Phật.”
Cả buổi sáng hôm sau, tôi chẳng dám đi đâu cả, cứ ngồi nhà thắp hương đợi Bồ Tát. Chờ hoài không thấy. Đồng hồ chỉ 11g. Trời đã sang trưa. Tôi thở dài, “Chiêm bao không lẽ có thiệt!” Thế là tôi đứng dậy đi ăn cơm bụi, vì bữa nay mắc chờ Bồ Tát nên không đi chợ nấu cơm gì ráo.
Ăn xong, tôi ngẫu hứng chạy luôn tới nhà nhỏ bạn mà khá lâu không thăm viếng. Hôm nay chúa nhật chắc nó được nghỉ làm.
Cảnh nhà hiện ra khiến tôi bàng hoàng. Trời, sao mà xuống cấp dữ vậy? Hình như mới một năm không gặp... Đời sống đô thị vậy đó, có khi quận này cách quận kia không bao xa nhưng người ta vẫn không đi thăm nhau được. Vì công việc bề bộn, làm trong giờ, làm ngoài giờ, học thêm buổi tối, về nhà lo vợ chồng, con cái... Đến chúa nhật cũng chưa chắc rảnh, nào đưa con đi học võ, học bơi, nào đi siêu thị mua thức ăn cho cả tuần, nào dọn dẹp nhà cửa, ủi quần áo cho sáu ngày còn lại, rồi đám giỗ, đám cưới, thôi nôi, đầy tháng bây giờ cũng “đè” chúa nhật ra mà mời... Cho nên, bạn bè rốt cuộc chỉ còn quanh quẩn những người trong cơ quan là chính, chứ bạn cũ, bạn hồi phổ thông như nhỏ Thảo này thì đâu còn dành bao nhiêu cơ hội.
Tôi đến, đúng lúc Thảo đang dỗ dành người cha say xỉn lè nhè chịu nằm xuống ngủ yên. Ông gầy nhom, nhưng bụng trướng to vì bệnh gan, Thảo nói đã trị cả năm nay chưa bớt. Bác sĩ không cho uống rượu, nhưng ông thèm, lâu lâu lén tợp vài ly. Thế là vừa lên cơn đau, vừa kích thích thần kinh, nói năng um sùm. Mẹ Thảo bực dọc, rầy mắng om lên nữa, hoặc ca cẩm suốt ngày bên tai Thảo. Tôi nhìn vào góc nhà, nơi có một căn phòng nhỏ mờ tối, cánh cửa phòng là những song sắt rất to được khoá chặt, trong nhốt cậu em trai của Thảo bị bệnh tâm thần. Cậu ta đã hơn 30 tuổi, chưa vợ, ăn học đàng hoàng, tự nhiên phát bệnh, đập phá, chạy rong ngoài đường. Điều trị ở bệnh viện hơi bớt một chút thì phải lãnh về nhà, vì bệnh viện quá đông bệnh nhân. Cậu ta trông thấy tôi liền cười ré lên và dộng cửa đòi ra. Tiếng khoá va đập loảng xoảng. Thảo chạy đến dỗ em. “Nè, ăn kẹo đi, rồi ngồi xuống chơi, đừng la nữa nghen, chị thương.” Cậu ta dịu lại. Thảo cười, “Nó chỉ nghe lời mình thôi.”
Thảo quay sang thăm chừng siêu thuốc sắc cho ba uống. “Hết tiền uống thuốc tây rồi, mà uống hoài thấy không kết quả lắm. Đổi sang thuốc nam, coi bộ đỡ.” Tôi thở dài, “Một mình bạn với đồng lương y tá mà trang trải hết cho gia đình, làm sao đủ...” “Không đủ cũng phải đủ.” “Rồi Thảo không tính chuyện lập gia đình?” “Hì, ai dám nhào vô lãnh 3, 4 người này? Có người đi hỏi, nhưng mình theo chồng thì ai chăm sóc ba má và thằng út. Anh chị Hai ra riêng cũng đâu khá giả gì. Thôi từ từ tính.” Từ từ là đến bao giờ? Thảo đã xấp xỉ 40, mái tóc chớm nhiều sợi bạc. Tôi biết, Thảo đã chọn con đường cho mình. Nhưng lạ, suốt đến chiều tôi không hề nghe Thảo than van một tiếng, trong khi tôi quá mệt vì tiếng dộng cửa la hét của cậu em trai, tiếng rên rỉ của ông bố và tiếng ca cẩm của bà mẹ. Thảo kể lại chuyện nhà cho tôi nghe bằng một giọng đều đều, bình thản. Lâu lâu lại còn cười dỗ người này người kia nữa chứ. Và cuối cùng Thảo tiễn tôi ra về với câu: “Quen rồi, bạn đừng lo cho mình.” Tôi đưa Thảo số tiền giúp ông bố uống thuốc, Thảo từ chối. “Chừng nào kẹt, mình sẽ nhờ đến bạn.”
Tối đó, tôi mệt nhoài, đi ngủ sớm.
Trong giấc mơ tôi lại thấy Phật hiện ra. Tôi khiếu nại liền: “Sao Phật hổng cho con gặp Bồ Tát? Con chờ hoài, đi chơi, lại gặp cảnh khổ, mệt quá chừng. Con mà như nhỏ Thảo chắc con... chết!” Phật cười: “Vậy sáng mai con sẽ gặp.”
Tôi lại trang hoàng nhà cửa để đợi Bồ Tát. Nhưng chợt thằng
em họ của tôi từ đâu ập vào. Tôi líu lưỡi: “Ơ... mi là...là...Bồ...” Chú em trố
mắt nhìn tôi: “Ủa, chị không nhận ra em hả? Ghé rủ chị đi chơi.” “Không, ta
đang chờ...” “Chờ ai? Đi làm giúp em cái này. Không có chị một mình em xoay sở
không kịp.” Nó cứ khẩn khoản mãi, tôi đành chịu. “Lạy Bồ Tát, cho con khất bữa
nay, chắc Bồ Tát không giận.” Thiệt tình, bởi tôi cũng hơi... nản, vì nắng đã
lên cao rồi mà cũng không thấy Bồ Tát, hổng chừng đón hụt như hôm nọ nữa. Thôi,
đi một chút xem sao.
Chú em họ chở tôi trên honda phóng vèo vèo. Xe ra khỏi ngoại
thành, rồi băng qua một cánh đồng, lọt thỏm vào một xã ấp nào đó có con đường gập
ghềnh đá sỏi, dằn xóc khiến bụng tôi ê ẩm. Chú em cười hề hề khi tôi nhăn nhó.
“Nói trước thì chị dễ gì chịu đi. Lừa bà như vầy mới được!”
Xe dừng trước một
phòng học đơn sơ có tấm bảng ghi Lớp học tình thương. Mấy chục cặp mắt trong lớp
lố nhố nhìn ra. Hai phụ nữ đang đứng trên bục giảng vội chạy ra đón chúng tôi.
“Đây là cô giáo Xương và cô giáo Lãm, đang phụ trách hai lớp sáng chiều. Em
quen hai cô lúc đi công tác về xã này. Còn đây là chị họ của
em, thưa cô.” Hai cô giáo tươi cười: “Cả lớp chờ cậu Minh từ sáng. Cậu hứa về
thăm các em, dạy các em hát và sinh hoạt tập thể.” Chú em lật đật vô lớp, bày
trò liền với tụi nhỏ. Tôi ngồi ngoài hàng hiên trò chuyện cùng hai cô giáo trước
khi chú em nhờ tôi tiếp giúp cái gì cũng chưa biết.
Cô Xương 65, cô Lãm 67 tuổi,
người gầy, mặc áo bà ba, quần đen giản dị. Cô nói cô dạy tiểu học mấy chục năm,
đã về hưu, nhưng thấy trong xã ấp còn nhiều em quá nghèo không đi học được, suốt
ngày đi bán vé số, móc bọc ni-lông, mò cua bắt cá, nên hai cô lại đứng ra mở lớp
học tình thương này. Có lương bổng gì đâu, còn trích lương hưu ra mua tập vở
cho các em nữa. Hai chiếc xe đạp dựng ở bờ tường loang lổ là của hai cô, vượt gần
5 cây số từ nhà đến lớp, mà buổi sáng chỉ dám ăn điểm tâm bằng một củ khoai.
Tôi nhìn con đường dằn xóc mà ngán ngược trong bụng.
Cô Xương cười: “Mệt đâu có
bằng đến từng nhà năn nỉ ba má mấy em chịu cho con tới lớp. Vì đứa nào cũng có
thể làm kiếm tiền phụ giúp gia đình, nên cha mẹ không muốn con đi học, sợ mất
thu nhập. Cô phải năn nỉ gãy lưỡi. Có người còn nói sao cô làm chuyện bao đồng,
già rồi thì nghỉ cho khoẻ, hổng có lương dạy chi mà ham dữ vậy.” Kể xong, cô cười
rung cả mái tóc bạc. Cô Lãm tiếp lời: “Nói vậy chớ sau này họ đã hiểu ra. Gần
10 năm rồi, cũng đủ sức thuyết phục.”
Một nhóm học trò buổi chiều
nghe có khách nên chạy tới lớp sớm để xem. Các em nói chuyện một hồi bèn gây lộn,
chửi thề. Cô Xương kêu các em lại: “Nè, cô dạy đừng có chửi thề, quên rồi phải
hôn?” Em học trò thanh minh: “Dạ, tại nó chọc em đó cô.” Đứa bạn kia sừng sộ:
“Ai biểu mầy kêu tên má tao.” Cô Xương nghiêm mặt: “Em nào cũng lỗi. Kêu tên
người lớn là bậy. Chửi thề cũng bậy. Tính sao với cô đây?” Hai đứa học trò cùng
khoanh tay xin lỗi cô.
Tôi nhìn hai đứa trẻ gầy nhom, đen thui, vẻ mặt sớm nhuộm
nét phong trần. Bộ quần áo chúng mặc rất cũ, và dưới chân là đôi dép đứt quai gần
phân nửa. Tập vở bút mực bỏ vào cái bọc ni-lông được gọi là “cặp.” Tôi nén một
tiếng thở dài.
Cô Xương hiểu ý: “Học trò của cô là như vậy đó. Dạy mệt lắm, uốn
từng chút như uốn cái cây, phải kiên nhẫn. Nhưng lâu ngày các em cũng ngoan dần
dần. Và nhiều em đã học xong lớp 5, cô xin cho ra trường phổ thông học lớp 6,
giỏi không thua gì con nhà tử tế.” “Vậy cô tính dạy tới chừng nào mới nghỉ dưỡng
già?” “Bao giờ hết trẻ em nghèo thì cô nghỉ chớ.” Cô cười thật tươi. Tôi giả bộ
xin đi ra chợ, lén mua mấy hộp sữa bỏ vào giỏ của cô trước khi ra về. Mong cô
có sức khỏe để mỗi sáng đạp xe 5 cây số cô nhé!
Thế là giấc mơ hội ngộ Bồ Tát của
tôi phải dời thêm một lần nữa. Ôi chao, cảnh đời sao quá xá mệt!
Bồ Tát ơi, mau cứu giúp chúng sanh! Tôi thiếp đi trong ý nghĩ ấy.
Phật chẳng còn hiện ra trong giấc chiêm bao của tôi nữa, chỉ
nghe hình như văng vẳng một câu: “Ngày nào con cũng sẽ được gặp Bồ Tát. Khỏi chờ
đợi, khi gặp thì tự nhiên gặp mà thôi.” Tôi choàng tỉnh dậy.
Tôi trở lại với nếp sinh hoạt cũ. Đi làm, đi học, về nhà, đi chùa, đi chơi... Nhưng ở đâu tôi cũng chú tâm tìm kiếm, mong ngóng Bồ Tát. Giữa đám đông, thấy một bóng áo lấp lánh, tôi ba chân bốn cẳng chạy tới. Thì ra chỉ là cái áo thêu kim tuyến của một cô gái. Nhưng dù không tin vào chuyện thần bí tôi vẫn chắc chắn rằng hễ Bồ Tát xuất hiện thì sẽ phải khác người, sẽ lộng lẫy hơn, đặc biệt hơn chứ. Tôi không thể bỏ cuộc.
Tôi về quê công tác. UBND xã phải qua một bến đò, có ông lão gần 70 tuổi chèo thoăn thoắt. Mà lạ, đò cập bến, hành khách bước lên bờ rồi... đi luôn, không thấy ai trả tiền cho ông lão. Tôi rụt rè hỏi: “Ông ơi, bộ ở đây người ta mua vé tháng hả ông?” Ông cười hềnh hệch: “Đâu có. Ông đưa miễn phí không hà. Cháu chắc mới đi lần đầu?” “Dạ.” Ông gác mái chèo, dẫn tôi vào căn nhà lá nhỏ ven bến sông. “Nhà của ông đây. Cháu không gấp thì ngồi nghỉ chân, uống chén nước. Giờ này ít khách, mình nghỉ một lát không sao.” Đã có sẵn bình trà đặt trong bộ vỏ dừa giữ ấm, ông rót cho tôi một chén nhỏ. Tôi hỏi hoài, ông mới kể. Thì ra ông đã đưa đò giúp bà con trong làng gần 30 năm rồi. Con sông khúc này không có cầu qua lại, đi vòng thì rất xa, nên ông tự sắm chiếc đò nhỏ rồi ngày ngày giúp các em học sinh tới trường, giúp mấy bà mấy cô tới chợ, hoặc mấy anh chị công chức qua sông. Ai trả tiền ông cũng không lấy. Ông bà sống bằng mấy công vườn tạp quanh nhà, trồng chuối mít sơ sài đủ mua gạo, mắm muối. Bà con thương, lâu lâu tát mương biếu ông con cá, rổ tép. Còn chiếc ghe lâu ngày mục nát, thì cả xóm xúm nhau lại đóng, người hạ cây, người xẻ gỗ, người trét chai. Bến đò có duyên, UBND xã tặng ông và tặng cả xóm cái bằng khen. Nhưng không có cái bằng khen nào bằng tình nghĩa trong làng đối với nhau, cháu à!
Tôi vác ba lô lên đường, lòng bồi hồi nhớ chén trà ấm áp nơi bến sông nghèo.
Công tác xong, tôi tạt qua huyện bên, thăm lại ngôi chùa Kim Huê hồi nhỏ có về dự lễ Vu Lan cùng bà ngoại. Chùa hướng mặt ra một con rạch nho nhỏ, nước trong xanh soi rõ hàng bạch đàn phơ phất lá. Tôi qua cổng tam quan, gõ chân xuống những viên gạch tàu màu đỏ nay đã nhuốm màu rêu xanh. Sân chùa im ắng, nghe rõ tiếng con chim hót trên cây mận đang rải những chùm hoa trắng muốt. Hình như có bóng người nơi góc sân. Tôi bước đến. Thì ra là sư ông. Mô Phật! Tôi chắp tay xá sư ông mà nước mắt muốn chảy ra.
Sư ông mặc chiếc áo vạt hò nâu cũ kỹ, cái quần vá chằng vá đụp xắn cao lên một chút cho khỏi vướng. Sư ông đang cúi người cưa một khúc củi bằng cây cưa nhỏ. Vóc dáng nhỏ bé, khuôn mặt gầy thanh thoát, nhẹ nhàng đưa lưỡi cưa tạo thành những âm thanh đều đều bình tĩnh. Mạt cưa văng nhẹ hai bên, vàng nhạt dịu dàng. Ai tin được đó là sư ông trụ trì đã hơn “thất thập cổ lai hy”.
Tôi nhăn nhó: “Trời ơi, quý thầy trẻ đâu không cưa củi mà sư ông phải làm?” Sư ông cười: “Quý thầy đi học hết rồi. Bài vở nhiều lắm con à. Quý thầy cũng làm chớ, tại sư ông rảnh nên ra vườn cho mát vậy mà.” Tôi biết sư ông chẳng lúc nào thích ngồi không, nhưng vừa làm lại vừa niệm Phật, chuyên chú tu hành. Sư ông bảo, làm cho khoẻ người, “nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực”. Tôi nghĩ thầm, sư ông ăn ngọ nên có thực bao nhiêu mà tác dữ vậy!
Vừa lúc đó, thầy tri sự về tới. Thầy mừng rỡ dẫn tôi vào phòng khách, và thì thầm sợ sư ông nghe thấy. “Hồi trẻ sư ông một mình làm hết mấy mẫu ruộng để nuôi chúng ăn học. Sư ông nói ai cũng đi học thì ai ở lại lo việc chùa, nuôi huynh đệ, thôi sư ông chọn con đường này. Làm ruộng hồi đó cực dữ lắm, đâu có máy móc như bây giờ, mà đồng lại rất xa, chèo ghe đi mỏi cả tay. Sư ông không than thở một tiếng, chỉ mong huynh đệ thành tài mà lo hóa độ chúng sanh.
Cùng thế hệ với sư ông, quý Hòa Thượng đều trở thành những vị giảng sư nổi tiếng, riêng sư ông cứ cây cày cây cuốc hoài vậy. Bây giờ già rồi, làm trụ trì rồi, không cho sư ông ra đồng, thì sư ông cũng kiếm việc làm quanh quẩn trong chùa như tất cả mọi người trong chúng, ăn uống cũng ăn chung một mâm, một món với chúng. Chẳng bao giờ thấy buồn phiền vì huynh đệ tài giỏi, nổi danh hơn mình, cũng không so đo chùa lớn chùa nhỏ. Giáo lý không học nhiều thì sư ông chuyên trì danh niệm Phật, lo về Tịnh Độ là xong.”
Tôi ngỡ ngàng. Tiếng guốc vông của sư ông đã lộc cộc bước vào.
Tôi nghe như hương hoa lài hoa sen từ sân chùa vương theo áo sư ông tỏa vào gian phòng tĩnh lặng.
Tôi quay về thành phố. Công việc lại ngập đầu trong cái nhịp sôi động quen thuộc. Cho đến khi tạm dứt ra được một chút, tôi quyết định thưởng cho mình một buổi tối giải trí tại Nhà hát kịch, hơn là ngồi thu lu ở nhà ôm cái tivi và đầu đĩa quanh năm. Vé mua rồi, ngồi căn tin uống nước lai rai chờ mở màn, ngắm thiên hạ đầm váy xinh đẹp đi xem hát và các anh chị nghệ sĩ đi vòng ra cửa sau vào phòng hóa trang. Chợt nghĩ, “Có khi nào Bồ Tát xuất hiện ở chốn vui chơi như vầy không?” Nghĩ rồi bật cười một mình. Hóa ra cũng không quên ước mơ được gặp Bồ Tát.
Một người đàn ông trung niên đẩy xe honda vào khu dành cho diễn viên rồi bước vào căn tin mua chai nước suối. Tôi a lên một tiếng. Anh Lê Duy, chồng của chị Hạnh bạn tôi. Anh cũng trông thấy tôi, mỉm cười tiến lại bàn. “Ủa, anh đi đâu đây?” “Hôm nay khai trương vở mới, anh đi xem.” “À, em quên mất anh là cán bộ của Hội Sân khấu.” “Cô cũng còn thời gian đi xem kịch hả? Tưởng việc công ty bận ngập đầu chứ. Anh nói thiệt, làm kinh doanh như cô thì anh chịu thua.” “Vậy làm nghệ thuật như anh, em cũng chịu thua. Sao, lúc này có gì mới không? Nghệ thuật luôn luôn là cái mới...” “Có. Lát nữa cô sẽ xem một loạt diễn viên trẻ măng mà Nhà hát mới ‘trồng’ thay cho lứa cổ thụ cũ đã trưởng thành bay đi khắp nơi. Có thể các em chưa tên tuổi lắm, nhưng đủ sức thu hút bởi chính sự nỗ lực, sự chân thành.” “Thôi, điều đó thì em tin, nhưng cái xe anh đi vẫn cũ sì, sao không chịu đổi mới dùm? Loại cúp 70 này cho vô viện bảo tàng được rồi, chớ nó không phù hợp với cương vị của ông cán bộ lãnh đạo Hội chút nào.”
Lê Duy cười khà: “Lãnh đạo gì cô ơi. Mà phụ nữ mấy cô sao hay để ý chuyện vặt vãnh, mấy đứa diễn viên trẻ cũng tối ngày theo chọc anh về cái xe. Anh thấy nó còn tốt, tự nhiên đem đổi làm chi. Mà nó có một kỷ niệm sâu sắc, nên anh giữ lại vậy mà.” “Chà, em phải méc chị Hạnh... Chuyện bây giờ mới kể à nha!”
Lê Duy tủm tỉm: “Vui miệng nói cô nghe chơi. Anh đã từng đem nó ra tiệm cầm đồ. Hồi 1989, trong nhà chỉ có nó là tài sản đáng giá duy nhất, mà đang lúc cần tiền tổ chức Liên hoan Sân khấu nhỏ, không ai tài trợ hết, anh liều mạng cầm chiếc xe được 3 triệu đồng. Hẹn một tháng tới chuộc, nhưng cũng không biết có chuộc nổi không, thây kệ. May sao, Liên hoan được nửa chừng thì mạnh thường quân tới tấp gởi tiền ủng hộ. Nếu không, anh gút-bai nó luôn rồi. Hì hì...” “Sao anh không xin kinh phí của Nhà nước?” “Chẳng ai tin mình sẽ làm được việc cả. Vì hồi đó anh thấy lớp trẻ vừa tốt nghiệp trường Sân khấu ra không đoàn nào nhận về, các em phải trôi dạt chờ thời tại các nhà văn hóa quận huyện. Anh tổ chức Liên hoan để các em có cơ hội thể hiện mình, để mọi người thấy năng lực lớp trẻ mà sử dụng. Nhờ vậy mà có một thế hệ trẻ trưởng thành. Nhưng lúc đó đâu dám nói là cầm xe, sợ tụi nhỏ nản lòng, phải giả bộ nói các ban ngành ủng hộ dữ lắm. Mà thiệt, khi xem các em diễn một số vở, mọi người mới hoan nghênh và giúp đỡ, anh lấy tiền đem chuộc ngay chiếc xe.”
Tôi xuýt xoa vì cái máu liều của anh. Bởi tôi hiểu, thời điểm ấy có được chiếc cúp đã là khó, nhất là với đồng lương công chức, nghệ sĩ như anh. Dù số tiền cầm xe chỉ đủ chi cho mỗi diễn viên trẻ vài tô phở cầm hơi, nhưng đã là một lực đẩy rất mạnh ở những bước chân đầu tiên vô nghề, mở ra niềm tin và hy vọng. Vậy, không phải anh liều, đó là tâm huyết của một nghệ sĩ, muốn vun trồng cho người khác, cho cái đẹp nghệ thuật.
Tôi trở về nhà với dư âm nhân hậu của vở kịch. Sàn diễn không khác cuộc đời, vẫn đau đáu thông điệp của cái thiện và sự hy sinh. Đêm ấy, Phật lại hiện ra trong giấc mơ tôi. Tôi giận lẫy: “Thôi, con không thèm nghe Phật hứa nữa đâu.” Phật cười: “Con đã gặp Bồ Tát rồi mà.” “Ủa, con gặp hồi nào?” “Vậy con quan niệm Bồ Tát là như thế nào?” “Dạ, con nghĩ Bồ Tát là vị luôn cứu giúp chúng sanh vượt qua những khó khăn, đau khổ. Không nề hà vất vả, hiểm nguy, không phân biệt sang hèn, không kể công kể sức. Lòng thương yêu chúng sanh vô bờ bến nên mới có đủ năng lực chịu đựng như thế.” “Đúng rồi. Vậy những người con đã gặp vừa qua họ có lòng thương yêu người khác, chấp nhận hy sinh để cho người khác hạnh phúc, vượt qua đau khổ hay không?”
“Dạ... có ạ.” Những gương mặt lướt qua trong trí nhớ tôi, và tôi đành công nhận. Nhưng còn thắc mắc: “Nhưng Bồ Tát phải có thần thông chứ ạ? Không lẽ Bồ Tát gì quá bình thường, không khác người, không đặc biệt gì hết trơn? Phải có thần thông, hóa phép gì đó con mới tin...”
Đức Phật lắc đầu: “Mèn ơi, con nhỏ này coi phim riết rồi lậm! Chắc con tưởng Bồ Tát giống trong phim Tây Du Ký, tỏa tỏa hào quang, bay cái vèo, hô biến ì đùng đó hả? Hổng phải đâu con. Bồ Tát mà hiện ra kiểu đó thì thiên hạ xúm lại coi như gánh xiếc, rồi cầu xin tùm lum, Bồ Tát chịu đời gì thấu. Muốn thực hành hạnh nguyện lợi tha một cách trọn vẹn, Bồ Tát phải hòa mình cùng chúng sanh, chịu đựng đau khổ, khó khăn như chúng sanh, để rồi từ đó nâng đỡ chúng sanh một cách âm thầm, kiên nhẫn. Phải giấu mình đi con ạ, thậm chí quên mình là Bồ Tát. Còn thần thông ư? Con tưởng tượng đi, nếu là con, con có gánh nổi cả gia đình nào cha mẹ, em út như cô Thảo, với đồng lương nhỏ bé và thời gian khắc nghiệt đó không?” Tôi trả lời cái rụp: “Dạ, chắc con chết ngắc!” “Ừ. Thế con có gánh nổi lũ học trò nghịch phá bụi đời như cô Xương, cô Lãm không?” “Dạ, con nổi nóng chắc đánh nó quá.” “Ừm ừm, con nhỏ này sân si ghê chưa! Rồi con có sức để chèo qua chèo lại con sông đó mỗi ngày 20 lần không?” “Hu hu, chắc con gãy tay Phật ơi!” “Nè, nè, chưa chi đã khóc, con có dám cầm chiếc xe Dream mới cáu của con để lấy tiền cho lớp sinh viên trẻ không?” “Ái chà, con... con... Thôi, con mệt quá, vô chùa tu cho rồi!” “Vô chùa, con có cáng đáng nổi cả chục mẫu ruộng để nuôi huynh đệ ăn học không?” “Ý trời, Phật hổng thấy con ốm nhom ốm nhách sao? Khiêng bao lúa hổng nổi mà biểu con làm ruộng...” “Đó, sư ông cũng ốm nhom ốm nhách vậy mà sao sư ông làm nổi, chẳng phải thần thông là gì? Ông lão chèo qua sông mấy chục lần cũng gọi là có thần thông đó con. Và cô Thảo có năng lực gì mà dỗ dành được ông bố, bà mẹ, cậu em trai quậy phá? Con hiểu thần thông chưa con?” “Dạ... hiểu. Ý mà Phật ơi, nếu Bồ Tát là như vậy thì trên đời này có nhiều Bồ Tát lắm. Đi đâu con cũng gặp người tốt cả.” “Ừ, và chính con cũng có thể mang hạnh nguyện Bồ Tát đấy.” “Mô Phật, con hổng dám đâu. Con yếu đuối, lười biếng, sân si quá chừng...” “Ấy, sao con lại tự kỷ ám thị một cách tiêu cực vậy. Phải đánh thức cái tốt trong mình chứ. Hạt giống thương yêu có sẵn trong con rồi, chỉ cần con tưới cho nó chút nước là nó nảy mầm thôi. Có tình thương với chúng sanh thì trước sau gì con cũng sẽ tìm cách cứu giúp chúng sanh, vậy là thành Bồ Tát đó. Thí dụ mấy hộp sữa mà con lén biếu hai cô giáo...” “Ủa, chỉ có hai hộp sữa mà con thành Bồ Tát hở Phật? Sung sướng quá!” “Tất nhiên là Bồ Tát nhí, Bồ Tát ốc tiêu thôi nghen con. Muốn làm Đại Bồ Tát thì phải hy sinh nhiều lắm.” “Dạ, từ từ tính Phật ơi. Cho con lên lớp dần dần chứ bắt con thi liền chương trình cao cấp làm sao con thi nổi!” “Biết rồi! Tùy căn cơ chứ ai mà ép con. Thôi ta đi nghen. Chúc con thành Bồ Tát Ma Ha Tát.”
Tôi chưa kịp chào thì Phật đã biến mất. Giấc mơ chỉ còn lại một vầng mây xanh thắm lơ lửng giữa trời, và trong đó có cánh diều của tôi bay lượn vẽ nên những vần thơ hạnh phúc...
Tôi trở lại với nếp sinh hoạt cũ. Đi làm, đi học, về nhà, đi chùa, đi chơi... Nhưng ở đâu tôi cũng chú tâm tìm kiếm, mong ngóng Bồ Tát. Giữa đám đông, thấy một bóng áo lấp lánh, tôi ba chân bốn cẳng chạy tới. Thì ra chỉ là cái áo thêu kim tuyến của một cô gái. Nhưng dù không tin vào chuyện thần bí tôi vẫn chắc chắn rằng hễ Bồ Tát xuất hiện thì sẽ phải khác người, sẽ lộng lẫy hơn, đặc biệt hơn chứ. Tôi không thể bỏ cuộc.
Tôi về quê công tác. UBND xã phải qua một bến đò, có ông lão gần 70 tuổi chèo thoăn thoắt. Mà lạ, đò cập bến, hành khách bước lên bờ rồi... đi luôn, không thấy ai trả tiền cho ông lão. Tôi rụt rè hỏi: “Ông ơi, bộ ở đây người ta mua vé tháng hả ông?” Ông cười hềnh hệch: “Đâu có. Ông đưa miễn phí không hà. Cháu chắc mới đi lần đầu?” “Dạ.” Ông gác mái chèo, dẫn tôi vào căn nhà lá nhỏ ven bến sông. “Nhà của ông đây. Cháu không gấp thì ngồi nghỉ chân, uống chén nước. Giờ này ít khách, mình nghỉ một lát không sao.” Đã có sẵn bình trà đặt trong bộ vỏ dừa giữ ấm, ông rót cho tôi một chén nhỏ. Tôi hỏi hoài, ông mới kể. Thì ra ông đã đưa đò giúp bà con trong làng gần 30 năm rồi. Con sông khúc này không có cầu qua lại, đi vòng thì rất xa, nên ông tự sắm chiếc đò nhỏ rồi ngày ngày giúp các em học sinh tới trường, giúp mấy bà mấy cô tới chợ, hoặc mấy anh chị công chức qua sông. Ai trả tiền ông cũng không lấy. Ông bà sống bằng mấy công vườn tạp quanh nhà, trồng chuối mít sơ sài đủ mua gạo, mắm muối. Bà con thương, lâu lâu tát mương biếu ông con cá, rổ tép. Còn chiếc ghe lâu ngày mục nát, thì cả xóm xúm nhau lại đóng, người hạ cây, người xẻ gỗ, người trét chai. Bến đò có duyên, UBND xã tặng ông và tặng cả xóm cái bằng khen. Nhưng không có cái bằng khen nào bằng tình nghĩa trong làng đối với nhau, cháu à!
Tôi vác ba lô lên đường, lòng bồi hồi nhớ chén trà ấm áp nơi bến sông nghèo.
Công tác xong, tôi tạt qua huyện bên, thăm lại ngôi chùa Kim Huê hồi nhỏ có về dự lễ Vu Lan cùng bà ngoại. Chùa hướng mặt ra một con rạch nho nhỏ, nước trong xanh soi rõ hàng bạch đàn phơ phất lá. Tôi qua cổng tam quan, gõ chân xuống những viên gạch tàu màu đỏ nay đã nhuốm màu rêu xanh. Sân chùa im ắng, nghe rõ tiếng con chim hót trên cây mận đang rải những chùm hoa trắng muốt. Hình như có bóng người nơi góc sân. Tôi bước đến. Thì ra là sư ông. Mô Phật! Tôi chắp tay xá sư ông mà nước mắt muốn chảy ra.
Sư ông mặc chiếc áo vạt hò nâu cũ kỹ, cái quần vá chằng vá đụp xắn cao lên một chút cho khỏi vướng. Sư ông đang cúi người cưa một khúc củi bằng cây cưa nhỏ. Vóc dáng nhỏ bé, khuôn mặt gầy thanh thoát, nhẹ nhàng đưa lưỡi cưa tạo thành những âm thanh đều đều bình tĩnh. Mạt cưa văng nhẹ hai bên, vàng nhạt dịu dàng. Ai tin được đó là sư ông trụ trì đã hơn “thất thập cổ lai hy”.
Tôi nhăn nhó: “Trời ơi, quý thầy trẻ đâu không cưa củi mà sư ông phải làm?” Sư ông cười: “Quý thầy đi học hết rồi. Bài vở nhiều lắm con à. Quý thầy cũng làm chớ, tại sư ông rảnh nên ra vườn cho mát vậy mà.” Tôi biết sư ông chẳng lúc nào thích ngồi không, nhưng vừa làm lại vừa niệm Phật, chuyên chú tu hành. Sư ông bảo, làm cho khoẻ người, “nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực”. Tôi nghĩ thầm, sư ông ăn ngọ nên có thực bao nhiêu mà tác dữ vậy!
Vừa lúc đó, thầy tri sự về tới. Thầy mừng rỡ dẫn tôi vào phòng khách, và thì thầm sợ sư ông nghe thấy. “Hồi trẻ sư ông một mình làm hết mấy mẫu ruộng để nuôi chúng ăn học. Sư ông nói ai cũng đi học thì ai ở lại lo việc chùa, nuôi huynh đệ, thôi sư ông chọn con đường này. Làm ruộng hồi đó cực dữ lắm, đâu có máy móc như bây giờ, mà đồng lại rất xa, chèo ghe đi mỏi cả tay. Sư ông không than thở một tiếng, chỉ mong huynh đệ thành tài mà lo hóa độ chúng sanh.
Cùng thế hệ với sư ông, quý Hòa Thượng đều trở thành những vị giảng sư nổi tiếng, riêng sư ông cứ cây cày cây cuốc hoài vậy. Bây giờ già rồi, làm trụ trì rồi, không cho sư ông ra đồng, thì sư ông cũng kiếm việc làm quanh quẩn trong chùa như tất cả mọi người trong chúng, ăn uống cũng ăn chung một mâm, một món với chúng. Chẳng bao giờ thấy buồn phiền vì huynh đệ tài giỏi, nổi danh hơn mình, cũng không so đo chùa lớn chùa nhỏ. Giáo lý không học nhiều thì sư ông chuyên trì danh niệm Phật, lo về Tịnh Độ là xong.”
Tôi ngỡ ngàng. Tiếng guốc vông của sư ông đã lộc cộc bước vào.
Tôi nghe như hương hoa lài hoa sen từ sân chùa vương theo áo sư ông tỏa vào gian phòng tĩnh lặng.
Tôi quay về thành phố. Công việc lại ngập đầu trong cái nhịp sôi động quen thuộc. Cho đến khi tạm dứt ra được một chút, tôi quyết định thưởng cho mình một buổi tối giải trí tại Nhà hát kịch, hơn là ngồi thu lu ở nhà ôm cái tivi và đầu đĩa quanh năm. Vé mua rồi, ngồi căn tin uống nước lai rai chờ mở màn, ngắm thiên hạ đầm váy xinh đẹp đi xem hát và các anh chị nghệ sĩ đi vòng ra cửa sau vào phòng hóa trang. Chợt nghĩ, “Có khi nào Bồ Tát xuất hiện ở chốn vui chơi như vầy không?” Nghĩ rồi bật cười một mình. Hóa ra cũng không quên ước mơ được gặp Bồ Tát.
Một người đàn ông trung niên đẩy xe honda vào khu dành cho diễn viên rồi bước vào căn tin mua chai nước suối. Tôi a lên một tiếng. Anh Lê Duy, chồng của chị Hạnh bạn tôi. Anh cũng trông thấy tôi, mỉm cười tiến lại bàn. “Ủa, anh đi đâu đây?” “Hôm nay khai trương vở mới, anh đi xem.” “À, em quên mất anh là cán bộ của Hội Sân khấu.” “Cô cũng còn thời gian đi xem kịch hả? Tưởng việc công ty bận ngập đầu chứ. Anh nói thiệt, làm kinh doanh như cô thì anh chịu thua.” “Vậy làm nghệ thuật như anh, em cũng chịu thua. Sao, lúc này có gì mới không? Nghệ thuật luôn luôn là cái mới...” “Có. Lát nữa cô sẽ xem một loạt diễn viên trẻ măng mà Nhà hát mới ‘trồng’ thay cho lứa cổ thụ cũ đã trưởng thành bay đi khắp nơi. Có thể các em chưa tên tuổi lắm, nhưng đủ sức thu hút bởi chính sự nỗ lực, sự chân thành.” “Thôi, điều đó thì em tin, nhưng cái xe anh đi vẫn cũ sì, sao không chịu đổi mới dùm? Loại cúp 70 này cho vô viện bảo tàng được rồi, chớ nó không phù hợp với cương vị của ông cán bộ lãnh đạo Hội chút nào.”
Lê Duy cười khà: “Lãnh đạo gì cô ơi. Mà phụ nữ mấy cô sao hay để ý chuyện vặt vãnh, mấy đứa diễn viên trẻ cũng tối ngày theo chọc anh về cái xe. Anh thấy nó còn tốt, tự nhiên đem đổi làm chi. Mà nó có một kỷ niệm sâu sắc, nên anh giữ lại vậy mà.” “Chà, em phải méc chị Hạnh... Chuyện bây giờ mới kể à nha!”
Lê Duy tủm tỉm: “Vui miệng nói cô nghe chơi. Anh đã từng đem nó ra tiệm cầm đồ. Hồi 1989, trong nhà chỉ có nó là tài sản đáng giá duy nhất, mà đang lúc cần tiền tổ chức Liên hoan Sân khấu nhỏ, không ai tài trợ hết, anh liều mạng cầm chiếc xe được 3 triệu đồng. Hẹn một tháng tới chuộc, nhưng cũng không biết có chuộc nổi không, thây kệ. May sao, Liên hoan được nửa chừng thì mạnh thường quân tới tấp gởi tiền ủng hộ. Nếu không, anh gút-bai nó luôn rồi. Hì hì...” “Sao anh không xin kinh phí của Nhà nước?” “Chẳng ai tin mình sẽ làm được việc cả. Vì hồi đó anh thấy lớp trẻ vừa tốt nghiệp trường Sân khấu ra không đoàn nào nhận về, các em phải trôi dạt chờ thời tại các nhà văn hóa quận huyện. Anh tổ chức Liên hoan để các em có cơ hội thể hiện mình, để mọi người thấy năng lực lớp trẻ mà sử dụng. Nhờ vậy mà có một thế hệ trẻ trưởng thành. Nhưng lúc đó đâu dám nói là cầm xe, sợ tụi nhỏ nản lòng, phải giả bộ nói các ban ngành ủng hộ dữ lắm. Mà thiệt, khi xem các em diễn một số vở, mọi người mới hoan nghênh và giúp đỡ, anh lấy tiền đem chuộc ngay chiếc xe.”
Tôi xuýt xoa vì cái máu liều của anh. Bởi tôi hiểu, thời điểm ấy có được chiếc cúp đã là khó, nhất là với đồng lương công chức, nghệ sĩ như anh. Dù số tiền cầm xe chỉ đủ chi cho mỗi diễn viên trẻ vài tô phở cầm hơi, nhưng đã là một lực đẩy rất mạnh ở những bước chân đầu tiên vô nghề, mở ra niềm tin và hy vọng. Vậy, không phải anh liều, đó là tâm huyết của một nghệ sĩ, muốn vun trồng cho người khác, cho cái đẹp nghệ thuật.
Tôi trở về nhà với dư âm nhân hậu của vở kịch. Sàn diễn không khác cuộc đời, vẫn đau đáu thông điệp của cái thiện và sự hy sinh. Đêm ấy, Phật lại hiện ra trong giấc mơ tôi. Tôi giận lẫy: “Thôi, con không thèm nghe Phật hứa nữa đâu.” Phật cười: “Con đã gặp Bồ Tát rồi mà.” “Ủa, con gặp hồi nào?” “Vậy con quan niệm Bồ Tát là như thế nào?” “Dạ, con nghĩ Bồ Tát là vị luôn cứu giúp chúng sanh vượt qua những khó khăn, đau khổ. Không nề hà vất vả, hiểm nguy, không phân biệt sang hèn, không kể công kể sức. Lòng thương yêu chúng sanh vô bờ bến nên mới có đủ năng lực chịu đựng như thế.” “Đúng rồi. Vậy những người con đã gặp vừa qua họ có lòng thương yêu người khác, chấp nhận hy sinh để cho người khác hạnh phúc, vượt qua đau khổ hay không?”
“Dạ... có ạ.” Những gương mặt lướt qua trong trí nhớ tôi, và tôi đành công nhận. Nhưng còn thắc mắc: “Nhưng Bồ Tát phải có thần thông chứ ạ? Không lẽ Bồ Tát gì quá bình thường, không khác người, không đặc biệt gì hết trơn? Phải có thần thông, hóa phép gì đó con mới tin...”
Đức Phật lắc đầu: “Mèn ơi, con nhỏ này coi phim riết rồi lậm! Chắc con tưởng Bồ Tát giống trong phim Tây Du Ký, tỏa tỏa hào quang, bay cái vèo, hô biến ì đùng đó hả? Hổng phải đâu con. Bồ Tát mà hiện ra kiểu đó thì thiên hạ xúm lại coi như gánh xiếc, rồi cầu xin tùm lum, Bồ Tát chịu đời gì thấu. Muốn thực hành hạnh nguyện lợi tha một cách trọn vẹn, Bồ Tát phải hòa mình cùng chúng sanh, chịu đựng đau khổ, khó khăn như chúng sanh, để rồi từ đó nâng đỡ chúng sanh một cách âm thầm, kiên nhẫn. Phải giấu mình đi con ạ, thậm chí quên mình là Bồ Tát. Còn thần thông ư? Con tưởng tượng đi, nếu là con, con có gánh nổi cả gia đình nào cha mẹ, em út như cô Thảo, với đồng lương nhỏ bé và thời gian khắc nghiệt đó không?” Tôi trả lời cái rụp: “Dạ, chắc con chết ngắc!” “Ừ. Thế con có gánh nổi lũ học trò nghịch phá bụi đời như cô Xương, cô Lãm không?” “Dạ, con nổi nóng chắc đánh nó quá.” “Ừm ừm, con nhỏ này sân si ghê chưa! Rồi con có sức để chèo qua chèo lại con sông đó mỗi ngày 20 lần không?” “Hu hu, chắc con gãy tay Phật ơi!” “Nè, nè, chưa chi đã khóc, con có dám cầm chiếc xe Dream mới cáu của con để lấy tiền cho lớp sinh viên trẻ không?” “Ái chà, con... con... Thôi, con mệt quá, vô chùa tu cho rồi!” “Vô chùa, con có cáng đáng nổi cả chục mẫu ruộng để nuôi huynh đệ ăn học không?” “Ý trời, Phật hổng thấy con ốm nhom ốm nhách sao? Khiêng bao lúa hổng nổi mà biểu con làm ruộng...” “Đó, sư ông cũng ốm nhom ốm nhách vậy mà sao sư ông làm nổi, chẳng phải thần thông là gì? Ông lão chèo qua sông mấy chục lần cũng gọi là có thần thông đó con. Và cô Thảo có năng lực gì mà dỗ dành được ông bố, bà mẹ, cậu em trai quậy phá? Con hiểu thần thông chưa con?” “Dạ... hiểu. Ý mà Phật ơi, nếu Bồ Tát là như vậy thì trên đời này có nhiều Bồ Tát lắm. Đi đâu con cũng gặp người tốt cả.” “Ừ, và chính con cũng có thể mang hạnh nguyện Bồ Tát đấy.” “Mô Phật, con hổng dám đâu. Con yếu đuối, lười biếng, sân si quá chừng...” “Ấy, sao con lại tự kỷ ám thị một cách tiêu cực vậy. Phải đánh thức cái tốt trong mình chứ. Hạt giống thương yêu có sẵn trong con rồi, chỉ cần con tưới cho nó chút nước là nó nảy mầm thôi. Có tình thương với chúng sanh thì trước sau gì con cũng sẽ tìm cách cứu giúp chúng sanh, vậy là thành Bồ Tát đó. Thí dụ mấy hộp sữa mà con lén biếu hai cô giáo...” “Ủa, chỉ có hai hộp sữa mà con thành Bồ Tát hở Phật? Sung sướng quá!” “Tất nhiên là Bồ Tát nhí, Bồ Tát ốc tiêu thôi nghen con. Muốn làm Đại Bồ Tát thì phải hy sinh nhiều lắm.” “Dạ, từ từ tính Phật ơi. Cho con lên lớp dần dần chứ bắt con thi liền chương trình cao cấp làm sao con thi nổi!” “Biết rồi! Tùy căn cơ chứ ai mà ép con. Thôi ta đi nghen. Chúc con thành Bồ Tát Ma Ha Tát.”
Tôi chưa kịp chào thì Phật đã biến mất. Giấc mơ chỉ còn lại một vầng mây xanh thắm lơ lửng giữa trời, và trong đó có cánh diều của tôi bay lượn vẽ nên những vần thơ hạnh phúc...











Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét