Đời lên tiếng và thơ lên đường
(Đọc tập thơ Tổ quốc nhìn từ biển của
Nguyễn Việt
Chiến, NXB Phụ Nữ, 2015)
Vẫn xác tín rằng mỗi thi sĩ bao giờ cũng thuộc về
một điệu thức thơ nhất định tương hợp với bản thể trong mình, cho nên tôi không
khỏi ngạc nhiên khi nhận thấy dường như có “hai” Nguyễn Việt Chiến trong tập Tổ
quốc nhìn từ biển. Một người thơ bi tráng đến độ, và một người thơ trữ tình thẳm
sâu. Tác giả đang tự vấn, đồng thời, đặt ra cho người đọc những câu hỏi.
Khúc bi tráng - Sự truy vấn của phẩm tính trung nghĩa
Mỗi người thơ có tiếng nói tự thân của mình, tùy theo vấn đề đang ngự trị trong
tâm trí và tâm cảm. Khi số phận cá nhân bị thử thách, cái tôi cá thể sẽ lên tiếng,
thơ sẽ tìm về để đối diện và nâng đỡ người viết. Và cũng như thế, khi vận mệnh
cộng đồng - dân tộc bị thử thách, phẩm tính trung nghĩa sẽ lên tiếng, thơ sẽ
đòi hỏi truy vấn người viết như một sự thôi thúc tự thân. Vậy nên, khi bạn lựa
chọn cho thơ mình lối nhỏ dẫn vào vườn nhà, không có nghĩa người khác không được/nên
lựa chọn cho thơ họ con đường ra phía cánh đồng quê hương. Lựa chọn thế nào
không chỉ là do bẩm năng vốn có trong mỗi tác giả, mà hơn nữa còn do thái độ và
tâm thế của tác giả trước những cảnh huống của đời sống vốn bất định bất toàn đến
khôn cùng.
Nguyễn Việt Chiến trong suốt chiều dài nghiệp viết của mình
luôn kiên tâm trên hành trình mình đã lựa chọn khi nung nấu quan niệm: nỗi
đau lớn sinh ra bài thơ lớn. Từ ý hướng ấy, ông dành phần nhiều tâm sức cho những
đề tài lớn của đất nước và thời đại, và được biết đến như là nhà thơ của những
bài thơ vạm vỡ, khí khái về Tổ quốc. Việc Hội Nhà văn Việt Nam trao giải thưởng
năm 2016 cho tập thơ Tổ quốc nhìn từ biển không chỉ là sự tôn vinh và
khẳng định một giá trị thơ ca, mà còn như là sự ghi dấu trang trọng cho thành tựu
của một dòng thơ mà không có nhiều nhà thơ đương thời có thể theo đuổi và thành
công.
Tập thơ, đúng như dự báo từ nhan đề, bao trùm trong hình tượng
Tổ quốc. Đất Tổ quốc chập chờn bóng giặc. Biển Tổ quốc chưa
bao giờ yên ả. Đất nước là những người nằm trong đất, là hồn những
văn nhân tiến sĩ hóa thân trong văn bia đêm đêm về nói chuyện văn hiến thăng trầm. Tổ
quốc là tiếng mẹ, là cây lúa, là sóng mặn. Cha là Đất nước, mẹ
là Quê hương v.v… Tất cả chuỗi hình tượng đó ngầm gắn kết với nhau
trong một cảm thức về sự nghèo khó, vất vả và những giằng co chao đảo của lịch
sử tồn vong dân tộc. Tổ quốc trong tâm thức Nguyễn Việt Chiến là mẹ với
tất cả mẫu tính khi nó mang chứa đức hi sinh, sự bao dung, nỗi đau, hạnh phúc,
và tác giả trong tư cách một công dân luôn thấy mình là con với sự
sám hối, đức hiếu nghĩa, lòng biết ơn, niềm tự hào, ý thức sinh tử.
Có thể, khởi nguồn đơn giản là những yêu thương:
Tổ quốc là tiếng trẻ
Đánh vần trên non cao
Qua mưa ngàn, lũ quét
Mắt đỏ hoe đồng dao
(Tổ quốc là tiếng mẹ)
Nhưng sâu thẳm, đó là những đau thương:
Anh đã hóa cánh chim muôn dặm sóng
Hướng về nơi đất mẹ vẫn mong chờ
Nếu mẹ gặp cánh chim về từ biển
Con đấy mà, mẹ đã nhận ra chưa
(Thêm một lần Tổ quốc được sinh ra)
Đánh vần trên non cao
Qua mưa ngàn, lũ quét
Mắt đỏ hoe đồng dao
(Tổ quốc là tiếng mẹ)
Nhưng sâu thẳm, đó là những đau thương:
Anh đã hóa cánh chim muôn dặm sóng
Hướng về nơi đất mẹ vẫn mong chờ
Nếu mẹ gặp cánh chim về từ biển
Con đấy mà, mẹ đã nhận ra chưa
(Thêm một lần Tổ quốc được sinh ra)
Yêu thương và đau thương thường được nhà thơ quyện hòa khi kết
nối quá khứ với hiện tại:
Người mở đất đã đi về phía biển
Nắng Hoàng Sa còn đau đáu cát vàng
Người giữ đất đến từ ngàn năm trước
Gió Trường Sa thổi từ thuở hồng hoang
(Tổ quốc bên bờ biển cả)
Nhưng rồi, bất luận những nỗ lực lý giải và thức nhận, nhà thơ hiểu rằng không ai có thể hiểu và nói về đất nước như lịch sử của chính nó:
Nắng Hoàng Sa còn đau đáu cát vàng
Người giữ đất đến từ ngàn năm trước
Gió Trường Sa thổi từ thuở hồng hoang
(Tổ quốc bên bờ biển cả)
Nhưng rồi, bất luận những nỗ lực lý giải và thức nhận, nhà thơ hiểu rằng không ai có thể hiểu và nói về đất nước như lịch sử của chính nó:
Những ngọn sóng đất đai lưu giữ mọi thăng trầm
người chép sử ngàn năm là bùn đất
kiên trì và nhẫn nại
máu của người là mực viết thời gian
(Đất nước)
người chép sử ngàn năm là bùn đất
kiên trì và nhẫn nại
máu của người là mực viết thời gian
(Đất nước)
Sở dĩ đây được coi như một trong những bài thơ hay nhất trong
dòng thơ về đề tài đất nước của Nguyễn Việt Chiến có lẽ bởi sự nung nấu nhiệt
thành để vươn đến tính hình tượng thẩm mĩ của nó. Nhà thơ không nói về Tổ quốc,
mà nghĩ về Tổ quốc.
Đúng theo tinh thần của những người viết dấn thân và nhập cuộc
khi thơ họ không bao giờ vắng mặt hay từ nan, Nguyễn Việt Chiến nhiệt thành cất
lên tiếng nói từ sự thôi thúc của lương tâm, từ mệnh lệnh của tinh thần trách
nhiệm, từ sự truy vấn của phẩm tính trung nghĩa. Nó như ba thanh điệu để hợp âm
thành khúc bi tráng. Đó không phải thứ bi tráng mang tính võ biền, phô trương,
mà bi tráng từ trong tâm thức, xuất phát từ nhận thức sâu sắc về xung đột giữa
cái hiện diễn và lẽ phải. Như nhà thơ Jaroslav Seifert đã phân tích, một nền
văn hóa chỉ hoàn chỉnh và trưởng thành khi trong đó có vị trí cho sự bi tráng,
ta hiểu và cảm được cái bi tráng, và nhất là, ta có khả năng bi tráng (trong diễn
từ Nobel Văn học năm 1984). Hiểu theo nghĩa đó, bi tráng buộc/ giúp con người phải
hoàn thiện mình và lớn lên. Đứng trước những cảnh huống lịch sử của đất nước và
dân tộc, thơ Nguyễn Việt Chiến đã vượt qua sự do dự nửa vời để dứt khoát lựa chọn
thái độ, vượt qua sự thờ ơ hay sợ hãi để lên tiếng, và đặc biệt, vượt qua sự vị
kỷ để nhận về trách nhiệm của kẻ dự phần. Đặt sang một bên những đòi hỏi về thẩm
mỹ, trước hết, đó là một lựa chọn đáng trọng.
Khúc trữ tình - tiếng vọng trả lời của lòng yêu thương
Ở một thái cực đối ứng chứ không đối lập, ẩn dưới sự bi tráng nhiệt thành, Nguyễn Việt Chiến lại lặn vào thẳm sâu trữ tình. Nhà thơ vẫn hồi âm những tiếng vọng đời sống, nhưng không phải bằng cách nói trực diện mạnh mẽ mà bằng sự da diết xoáy sâu vào tâm can. Ta gặp ở đây một cõi lòng với tất cả thành thật rung cảm nhân sinh từ trong bản vị. Đáng nói là, những rung cảm ấy thường trực trạng thái vượt lên mọi cô lẻ nhỏ bé của cá thể, tỏa lan níu giằng lấy cộng đồng của mình.
Ở một thái cực đối ứng chứ không đối lập, ẩn dưới sự bi tráng nhiệt thành, Nguyễn Việt Chiến lại lặn vào thẳm sâu trữ tình. Nhà thơ vẫn hồi âm những tiếng vọng đời sống, nhưng không phải bằng cách nói trực diện mạnh mẽ mà bằng sự da diết xoáy sâu vào tâm can. Ta gặp ở đây một cõi lòng với tất cả thành thật rung cảm nhân sinh từ trong bản vị. Đáng nói là, những rung cảm ấy thường trực trạng thái vượt lên mọi cô lẻ nhỏ bé của cá thể, tỏa lan níu giằng lấy cộng đồng của mình.
Dù trong danh vị nào đi nữa, nhà báo hay nhà thơ, Nguyễn Việt
Chiến luôn ý thức về tư cách và chức phận của một con - người - công - dân. Lúc
nào, ở đâu, trước những khuyết thiếu và góc tối của đời sống, Nguyễn Việt Chiến
cũng đặt mình vào trách nhiệm tự nhiên tự nguyện của lòng yêu thương. Gặp được
những điều đẹp đẽ ấm sáng, Nguyễn Việt Chiến luôn luôn hạnh phúc đón nhận như một
bản năng.
Ấy là cái nao lòng khi bức tranh xuân vụt hiện hồn tre trúc:
Ấy là cái nao lòng khi bức tranh xuân vụt hiện hồn tre trúc:
Hội xuân hồn nhiên đến
Như những đứa trẻ làng
Cưỡi trâu trong giấy điệp
Từ miền tre trúc sang
(Về Cổ Loa)
Như những đứa trẻ làng
Cưỡi trâu trong giấy điệp
Từ miền tre trúc sang
(Về Cổ Loa)
Ấy là thoáng mỉm lòng cảm nhận sự an hòa trong bảo tàng chiến
tranh:
Ở bảo tàng này
xe tăng và đại bác là tù binh của trẻ em
máy bay và tên lửa
là tù binh của mùa xuân
những tù binh tự nguyện
(Bên bảo tàng chiến tranh)
xe tăng và đại bác là tù binh của trẻ em
máy bay và tên lửa
là tù binh của mùa xuân
những tù binh tự nguyện
(Bên bảo tàng chiến tranh)
Ấy là sự nhức nhối lặng người trước tử sinh của những thân phận
mà bản thân nhà thơ chưa quen biết. Đây những em bé ở Sen Đai - Nhật Bản sau thảm
họa sóng thần. Kia những hành khách xấu số trên chuyến bay nghiệt ngã và định mệnh
của chiếc MH17 bị bắn rơi. Ai cũng xót xa máu thịt, ai cũng mong manh hơi thở,
bởi đều là thân kiếp hạn độ của con người mà thôi.
Tiếng vĩ cầm cất lên trên mùa hoa anh đào
khi ba mươi đứa trẻ ở một ngôi trường nhỏ
sáu ngày sau thảm họa sóng thần
vẫn chờ mẹ cha đến đón
có tiếng vĩ cầm nào
đến được với các con không?
(Tiếng vĩ cầm ở Sen Đai)
khi ba mươi đứa trẻ ở một ngôi trường nhỏ
sáu ngày sau thảm họa sóng thần
vẫn chờ mẹ cha đến đón
có tiếng vĩ cầm nào
đến được với các con không?
(Tiếng vĩ cầm ở Sen Đai)
Họ bị bắn trên cao mười ngàn mét
Những đám mây
nhuộm đỏ máu con người
Cứ bay mãi trong vòm trời phẫn nộ
Giữa hồn người
đang sống chẳng yên nguôi
(Họ bị bắn trên cao mười ngàn mét)
Những đám mây
nhuộm đỏ máu con người
Cứ bay mãi trong vòm trời phẫn nộ
Giữa hồn người
đang sống chẳng yên nguôi
(Họ bị bắn trên cao mười ngàn mét)
Chất trữ tình, ngược lại với cái sục sôi và quyết liệt của sự
bi tráng, nó lặng lẽ ẩn tàng những giá trị đã được cất nén, đem đến cho thơ
Nguyễn Việt Chiến sự cân bằng và sâu lắng. Trầm sâu bên trong cái dáng vẻ đầy sức
mạnh và khí chất đầy thôi thúc của sự bi tráng, chất trữ tình trong thơ Nguyễn
Việt Chiến mang sắc điệu tĩnh lặng của suy tư. Dù sao đi chăng nữa, tôi vẫn cho
rằng, đây mới đích thực là bẩm tính thi sĩ vốn có trong con người thơ này. Có
điều, tất nhiên, thi sĩ thì ai cũng trữ tình. Nhưng cái khác làm nên chất trữ
tình Nguyễn Việt Chiến là ở chỗ, ông luôn đặt cái bản thể của mình trong cái
chung của thời cuộc, của đời sống, một cách tự nhiên tự nguyện và tha thiết nhất.
Nếu như bi tráng là tầm cao của ý chí thì trữ tình là tầm sâu
của yêu thương. Một thái cực như là sự truy vấn thì thái cực kia như là câu trả
lời. Bằng cách nhập thân để phân thân như thế, sự hòa kết trong cảm thức của
tác giả đem lại cho Tổ quốc nhìn từ biển tính song trùng độc đáo mà chúng ta ít
thấy trong thơ Việt Nam đương đại. Dĩ nhiên, tôi hiểu, Nguyễn Việt Chiến ý thức
rất rõ rằng lối đi của mình cũng chỉ là một trong rất nhiều lựa chọn của đường
thơ. Nhưng điều quan trọng hơn cả là ông đã xác quyết lựa chọn:
Thưa mẹ
hôm nay bàn chuyện thơ đi về đâu
trong con vẫn còn một chuyến tàu
ba mươi năm trước chưa trở về
hôm nay bàn chuyện thơ đi về đâu
trong con vẫn còn một chuyến tàu
ba mươi năm trước chưa trở về
phải chăng vì thế
những câu thơ bây giờ
vẫn phải lên đường làm một cuộc ra đi
(Ga Hàng Cỏ dọc đường Nam Bộ)
những câu thơ bây giờ
vẫn phải lên đường làm một cuộc ra đi
(Ga Hàng Cỏ dọc đường Nam Bộ)
Hẳn nhà thơ đồng ý rằng, lựa chọn ấy với ông giống như câu trả
lời, nhưng nó lại chính là câu hỏi với người đọc. Thơ đã cất tiếng hỏi. Ta có
lên đường?
Tuy vậy, dù đồng lòng và cảm phục sâu sắc về cuộc lên đường của
Nguyễn Việt Chiến, tôi vẫn thấy có điều muốn nói cùng nhà thơ. Làm thế nào để
thực sự quyện hòa tư tưởng và tình cảm để bài thơ trở thành sinh thể nghệ thuật
hoàn chỉnh tự trong nội tại? Đó dường như là đòi hỏi vẫn còn tiếp tục thách thức Nguyễn Việt Chiến.
Có thể thấy, một số bài thơ ở đây vẫn còn hơi gồng mình trong giọng điệu, có những câu chữ còn dễ dãi
khiến cho tính diễn giải lấn át tính hình tượng. Có lẽ tác giả hiểu rõ điều đó,
nhưng ông cũng rất hiểu rằng trong sáng tạo, chỉn chu cầu toàn trong giới hạn
nào đó không hẳn đã là có lợi…
2/5/2017
Phạm Văn Vũ




Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét