CÂY CÔ ĐƠN
Cây Cô đơn là cây gì?
Nhà văn trả lời: “Trong cõi nhân gian vừa rộng vừa hẹp này, dường như, mỗi chúng ta đều là một Cây cô đơn”.
Tên truyện Đường đến cây cô đơn, cùng với 7 trong 13 truyện của cuốn sách tập trung khám phá chủ đề này, giúp người đọc nhận ra sức nặng trái tim nhà văn dành cho vấn đề cô đơn của con người. Vấn đề mang tính tư tưởng.
Nhân vật mang nỗi cô đơn trong Đường đến Cây cô đơn hầu hết là nữ. Vì là kiểu nhân vật tư tưởng, họ không được miêu tả nhân thân xã hội. Có người chỉ được gọi bằng một đại từ nhân xưng “Chị” (truyện Cánh rừng vĩnh cửu). Họ xuất hiện trong những chuyến đi với vẻ thanh lịch và lãng mạn. Họ không có những lo lắng đời sống vật chất hay tinh thần. Thùy và chồng đi du lịch nghỉ dưỡng (Kẹt trong sương mù), Yên và chồng trong khu du lịch sinh thái (Khoảnh khắc “Trăm cô đơn”), Bích đi với một đoàn ở Đà Lạt, cô ở lại khách sạn và chờ chồng lên đón. Bà Tuyết xưa kia là cô nhạc sĩ trẻ. Cho đến nay, bà vẫn thường hàng giờ lắng nghe và ký âm tiếng hót của chim “thương lắm mà” lên trang giấy (Chuỗi ngọc từ cao xanh). Nhân vật Chị đi du lịch dã ngoại khám phá hồ đêm, ngắm trăng và đón bình minh trên mặt hồ (Cánh rừng vĩnh cửu), và nhân vật Vy, cô diễn viên đi theo đoàn thăm Côn Đảo để có trải nghiệm cho một vai diễn (Thời gian vẫn đang trôi). Cô có người yêu là Quân. Họ yêu nhau 5 năm nhưng không cưới hỏi, sau đó chia tay. Đi trong đoàn, “người phụ nữ cô đơn” thường tách mình ra khỏi đoàn và đi theo một hướng riêng, bước chân khuê các được dẫn dắt bởi cảm xúc lãng mạn. Con đường họ đi qua là con đường của sắc màu và hương thơm quyến rũ. Tâm hồn họ hân hoan trong không gian hoàn toàn tự do ấy. “Thùy bước ra khỏi khách sạn… Cô hấp tấp theo màn sương đang di chuyển về phía vầng trăng đang lơ lửng trôi như kẻ bị thôi miên. Rồi hình như đôi chân Thùy không bước từng bước nữa. Cô như cuốn theo chiều gió, cuốn theo ánh trăng, cuốn theo khói sương vây kín lối đi” (Kẹt trong sương mù, tr.86). Trong Khoảnh khắc “Trăm cô đơn”, sau khi uống cà phê một mình, Yên ra khỏi khu rừng nơi cô đã ngủ với chồng đêm qua trong căn nhà trên cây. Cô bước đi. “Hai bên đường lác đác những bụi cây nở những bông hoa tim tím mà lần đầu Yên mới gặp. Những cánh bướm giật mình bay lên từ những chùm hoa phảng phất mùi hương. Nhiều cánh bướm từ những chùm hoa khác, bụi hoa khác cũng bay lên” (tr.94). Nhân vật Chị trong Cánh rừng vĩnh cửu cũng tách khỏi đoàn. Chị đi ra con đường nối với tỉnh lộ, tới chợ nhỏ mua ít đồ, rồi vào quán ăn bún riêu và uống cafe. Sau đó Chị đi một quãng đến nơi có bảng cắm chữ “Vĩnh Cửu”. Chị đứng ở đó tự chụp hình. Bỗng người đàn ông mặc đồ lính xuất hiện, chụp cho Chị những bức hình đẹp, rồi Chị đi theo theo ông ta để chụp thêm hình. “người đàn ông biết chia sẻ đang bước bên cạnh, đàn bướm nhiều sắc màu bay rập rờn từng đàn, tiếng chim líu ríu trên cành nghe thật gần, hoa rừng hồn nhiên khoe sắc, rồi tiếng rơi lặng lẽ của những chiếc lá lời cành…và hình như tiếng bước chân chị và người đàn ông, cũng rất khẽ.” (tr.205)
Trong không gian thoáng đãng và riêng tư ấy, người phụ nữ nhận ra nỗi cô đơn của mình. Thùy (kẹt trong sương mù) và Yên (Khoảnh khắc ‘Trăm năm cô đơn’) có cảm giác mình bị chồng bỏ rơi. “Nhiều lúc Yên rơi vào trạng thái bấp bênh dù đã neo đậu được vào bến bình yên” (tr.98). Khi chồng đến đón Bích ở khách sạn, giữa họ “không vòng ôm, không va chạm, cũng không chào hỏi”(Đường đến Cây cô đơn, tr.111). Và dù Bích đã chuẩn bị cho một cuộc ái ân với chồng, nhưng ngay sau khi hai vợ chồng tắm xong, họ lại gây với nhau vì một chuyện không đâu (tr.114)!
Nhân vật bà Tuyết trong Chuỗi ngọc từ cao xanh than thở: “Cô đơn, có lẽ là người bạn đồng hành thủy chung duy nhất đối với những người dày vỏ bởi những điều mà người khác thường thờ ơ”(tr.132). Bà thổ lộ với bạn: “Giá như những người đàn ông chị yêu không bị ràng buộc…và giá như người đàn ông đó là cha của các con chị.”(tr.131). Nghĩa là bà Tuyết yêu những người đã có gia đình, và chồng bà không phải là người bà yêu! Nỗi cô đơn này “thủy chung” đến suốt đời là vậy! Nhân vật Chị nói về cái “khoảng trống” cô đơn của mình: “…khoảng trống lúc nào cũng chực chờ, ngay cả khi được ghì siết trong cơn ái ân của chồng”(tr.202). Và vì thế Chị đi trong vô thức, theo người đàn ông xa lạ mặc đồ lính vào nơi khuất vắng trong rừng. Rồi khi người đàn ông kéo chị sát vào tấm thân cường tráng của ông ta, “Chị như không thở nổi trước mùi xạ hương ngây ngất của thịt da, của hơi thở, của khát thẻm, của bóng tối, của u mê. Thịt da Chị ấm sực và căng tràn cơn nuông chiều hối hả của nhục thể. Chị hấp tấp lần tìm đôi môi khao khát. Người đàn ông quắn quíu gắn chặt cặp môi vào đôi môi nóng bỏng của Chị” (Cánh rừng vĩnh cửu, tr. 205).
Tác giả để cho nhân vật Chị tự phân tâm hành động đi theo và ngã vào vòng tay người đàn ông lạ. Đó không phải là sự dày vò lương tâm vì đã ngoại tình, cũng không phải sự sám hối vì đã vượt quá những quy chuẩn xã hội cho phép, cũng không biện hộ cho sự đổ vỡ với chồng, bởi vì quan hệ vợ chồng của Chị vẫn còn đó. “Chị lờ mờ lý giải. Có thể đó là tâm trạng háo hức khó lường trước khát khao kiếm tìm và khám phá…khao khát khám phá chính mình trong sự tồn sinh của cánh rừng này, mảnh đất này, cuộc đời này. Tồn sinh bằng sự tiếp nối giữa sự sống và cái chết. Tồn sinh từ cái thế giới vừa nhỏ bé vừa sâu thẳm nơi mỗi con người”(tr.210).
Nhà văn phân tâm sâu hơn hành vi của Chị sau khi đi theo người đàn ông: “Chị bấu vào da thịt mình một lần nữa. Sau cái đau thôn thốn, da thịt chị toát mồ hôi. Chị rùng mình. Chẳng lẽ Chị vửa bồng bềnh trôi vào vùng ảo giác? Hay khao khát ứ tràn đã xô đẩy Chị dạt đến một bến mơ với cuộc gặp gỡ liêu trai…” (tr. 211). Bích Ngân đã viết một đoạn phân tâm rất tuyệt! Nhân vật Chị vừa tỉnh táo, lý trí, lại vừa lãng mạn mê đắm. Những gì đã diễn ra đều rất thực và cũng rất thơ. Mọi cảm xúc nhục thể, bóng tối đều thăng hoa trong ánh sáng tư tưởng nhân văn. Đó là một sáng tạo nghệ thuật đầy chất thẩm mỹ. Cái đẹp kết hoa đăng trên mọi đường nét, cung bậc của hiện thực.
Nhà văn dùng chữ “tồn sinh” mà không dùng chữ “hiện sinh”, bởi “khao khát khám phá chính mình” chính là “tồn sinh”(đang sống, đang tồn tại). Mối quan hệ lạnh ngắt với chồng, cái khoảng cách tồn tại giữa vợ chồng cả trong lúc ái ân, và những người chồng bỏ rơi vợ trong những cuộc say, trong những thú vui riêng (đánh bạc, đi câu) đã làm cho những người vợ trở thành những Cây cô đơn, họ không “tồn sinh”.
Nói như thế không có nghĩa tác giả cổ vũ cho một lối sống hoang dã phá bỏ những quy chuẩn xã hội, đạp đổ hôn nhân, bứt phá những quan hệ nhân sinh. Tác giả đã dắt tay nhân vật Chị ra khỏi bóng tối: “Chính lúc đó, lúc mà chị sắp bùng nổ trong cái cảm giác được nâng lên khỏi mặt đất thì chị nghe tiếng chuông điện thoại” của chồng. “Chị bước ra khỏi gốc cây âm u, tìm thấy chút ánh sáng xuyên qua cành lá…”(tr. 208). Cũng vậy, chuyến đi tìm Cây cô đơn của Bích đã không thực hiện được. “Và cả chút ngậm ngùi, rằng đã đến lúc, ta phải quay về một nơi, còn Cây cô đơn, vẫn ở một nơi mà ta chưa đặt chân tới.” (tr.102). Cô diễn viên Vy (Thời gian vẫn đang trôi) vẫn mong người yêu trở lại. Và, khi bà Tuyết được hỏi: “Chị đang mơ mối tình cuối đời bên bờ biển, mơ cùng chàng lò dò đếm hang dã tràng phải không?”. Bà Tuyết trả lời: “Tình tứ gì ở cái tuổi này hả em?...” (tr.132)
Cây cô đơn mà cả nhân vật và tác giả chưa đặt chân đến được là Cây cô đơn hiện sinh, tức là ý thức về thân phận cô đơn của con người trong cõi nhân gian này, con người sinh ra là để chết (Being-toward-death- Martin Heidegger), con người một mình đi về “hố thẳm” (Henry Miller).
PHÂN TÂM "TỒN SINH"
Các truyện khác trong tập Đường đến Cây cô đơn đều được kể qua tâm trạng của nhân vật chính. Sự việc được phản ánh chỉ là cái cớ để nhân vật suy tư. Nhân vật tự phân tâm, tự nhận thức và bày tỏ thái độ. Đôi khi đó là một thái độ quyết liệt. Ngòi bút phân tâm kết hợp với cấu trúc tương phản giúp nhà văn phơi ra cái xấu, cái ác, cái vô tâm, cái hèn nhát khiếp nhược của thực tại, và cả sự bất lực của người lương thiện khi đối mặt với bọn bất lương (Một cuộc chiến khác, Rượu 40 năm).
Đêm biên giới là tâm trạng của Đại tá-nhà văn Trần Huy, trưởng đoàn văn nghệ sĩ đi thực tế sáng tác về đề tài người lính ở một đồn biên giới (tr.135). Ông trăn trở suốt đêm không ngủ về những vấn đề “nóng” của đất nước. Sau bữa ăn gặp gỡ, họ uống trà và xem thời sự cuối ngày. Họ nói về những mất mát hy sinh trong cuộc chiến chống xâm lược năm 1979. Khi màn hình tivi hiện lên“Hình ảnh gian khoan Hải dương 981 cùng những chiếc tàu hung hăng rẽ sóng tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam” (tr.138), những người lính đã không kềm được cơn giận dữ. Họa sĩ Lê Hữu nói “Sự thật là ta bị chúng bịp và chính chúng ta tự bịp” (tr.139). Sự căm giận của Hữu có nguồn cơn từ việc anh bị mảnh bom thù xoắn mất một trái thận, mất khả năng làm chồng. Ba năm sau vợ bỏ. Nguyễn Hà được gọi là “nhà sử học” bởi anh viết kịch lịch sử. Anh nói: ”…Việt Nam kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế là ta giành phần thắng”. Lê Hữu đốp ngay: “Kiện cái con mẹ gì. Đánh!” (tr.141). Trần Huy buột miệng: “Đau nhất là tự mình lừa mình” (tr.141). Lê Hữu gào lên: “Nhưng mất mát lớn nhất là mất nước! Nỗi nhục lớn nhất cũng là nỗi nhục mất nước. Rồi như kiệt sức, họa sĩ gục xuống bàn”(tr. 142).
Nhà văn đã viết một trang bi tráng về lịch sử đương đại, ghi lại những nỗi căm uất của cả một dân tộc trước tình cảnh đất nước bị xâm lược mà phải bó tay! Trần Huy không ngủ được. Ký ức người lính không phai mờ. Anh bị thương 2 lần may còn sống sót. Huy muốn viết một cuốn sách ghi lại trung thực những năm tháng cùng đồng đội vào sinh ra tử trong cuộc chiến tranh vệ quốc mà anh là thằng lính sống sót, nhưng với Huy đó là cuốn khó viết nhất mà đến giờ vẫn còn là phác thảo (tr.146).
Truyện Bên dòng sông Ray, những cựu binh tình cờ gặp lại nhau, họ nhắc lại chiến tranh chống diệt chủng Pol Pot ở biên giới Tây nam, nhắc đến các chiến sĩ của con tàu không số, và chia sẻ về cuộc sống hiện tại. Tất cả còn nguyên dấu tích đớn đau của một thời và qua đó, như một tương phản, tác giả đặt vấn đề về hiện tình hôm nay.
Rượu 40 năm tác giả miêu tả là sự tương phản thế hệ, giữa cha anh “suốt cả cuộc đời cun cút, tận tụy việc nước, việc dân”(tr.52) với lũ con cháu thực dụng hưởng thụ và làm giàu khuất tất. Ông Út (thương binh 2/4) bị choáng khi thằng Tư (con anh Hai gọi ông bằng chú) đãi chúng bạn chai rượu trị giá 200 triệu. Ông lắp bắp: “Trời ơi! Mấy mùa bắp, mấy mùa dưa tao với thím mày làm thấy mụ nội, mà bán chưa tới chục triệu” (tr.58).
Truyện Một đám rước có cách viết rất lạ. Tác giả nhập thân rất sâu vào nhân vật Tôi, viết như trải lòng, và để cho Tôi tự phân tâm. Tôi (anh Hai) là người đảm nhiệm vị trí lãnh đạo cao nhất ngành được coi là then chốt trong bộ máy công quyền một tỉnh lỵ. Tôi đón xác em là Trung Minh từ nhà xác bệnh viện Thống Nhất về nhà cách 300 cây số. Ngồi trên xe, trên đường về, Tôi nhìn xác em, Tôi nghĩ về em, nghĩ về thái độ vô tâm của tôi đối với em. Lúc xuống xe, Tôi nghĩ về đoàn người đón đưa em, từ xe xuống đò, đi cano về nhà. Đám tang được Ủy ban xã tổ chức như đám rước. Tôi đứng giữa tang lễ và nghe người ta kể bao nhiêu chuyện về Minh mà Tôi chưa biết. Khi họ đọc điếu văn về công trạng giúp dân của Minh. “Tôi không còn đủ bình tĩnh để nghe”. “Tôi có cảm giác chính tôi là người chết, tuy không nằm trong quan tài. Còn nó, thằng em trai tôi, cái thằng ngu không biết lo cho bản thân mình, mới là người không bao giờ chết, dù thân xác nó đang trương phình lên trong chiếc quan tài kín mít kia”(tr.75).
Tôi gọi truyện này có cách viết lạ, bởi viết về cái tiêu cực, nhà văn thường đứng ở phía người dân mà phê phán trực diện các quan chức “có vấn đề”. Bích Ngân sử dụng ngòi bút phân tâm như một con dao mổ sắc bén và tinh tế. Bàn tay phẫu thuật thật điêu luyện, mổ những vết rất sâu vào não trạng nhân vật. Điều này đòi hỏi nhà văn phải có sự hiểu biết sâu sắc về tâm lý đối tượng, phải có kỹ năng viết thăng hoa, và có một trái tim nhân ái mới biến trang văn thành những giá trị có thể tồn tại lâu dài. Nhân vật Tôi (quan chức) tự quan sát, tự nhận thức, tự tra vấn mà bật ra vấn đề. Thành ra sự phê phán của tác phẩm trở thành thái độ tự sám hối của nhân vật. Cách viết này giữ cho người cán bộ kia chút lương thiện cần phải có để sự hiện diện của ông ta trong đời này còn có ý nghĩa. Bởi sự tồn tại trong lòng nhân dân, được nhân dân yêu mến mới là bất tử. Thành công của truyện là cách viết tự phân tâm sâu sắc, tự sám hối (có vẻ) chân thành của nhân vật. Tư tưởng về “tồn sinh” làm cho truyện vượt qua giới hạn của một truyện hiện thực.
VĂN CHƯƠNG BÍCH NGÂN
Tập truyện Đường đến Cây cô đơn không dành cho người đọc sống vội. Cũng không dành cho người đọc chỉ mải mê chạy theo cốt truyện với những tình huống gay cấn, giật gân. Nhà văn Bích Ngân quan niệm rằng văn chương là chuyện lâu dài, rằng cần chắt chiu từng giây phút sống của đời. Phải chăng vì thế mà tốc độ của truyện trôi chảy chậm. Tác giả miêu tả rất tỉ mỉ những sinh hoạt đời thường. Sự việc được dựng lại theo tuyến thời gian và tuyến các biến cố của nhân vật. Những miêu tả tỉ mỉ đời thường ấy dễ làm nản lòng người đọc vội. Và trong cái nhịp sống đời thường bình yên, bỗng xuất hiện một tình huống bất ngờ, đẩy câu truyện phát triển nhanh về phía trước, cuốn người đọc theo. Truyện kết thúc bằng những tình tiết làm người đọc nặng lòng suy nghĩ. Lúc ấy diễn ngôn trầm lắng của nhà văn dội lên trong tâm thức người dọc những âm vang có sức lan tỏa. Truyện Một đám rước, Cánh rừng vĩnh cửu có cách viết độc đáo như thế.
Một độc đáo khác của ngòi bút Bích Ngân là cốt truyện rất đơn giản. Có rất ít tình huống kịch tính, có rất ít hành động truyện, có rất ít những mối quan hệ phức tạp. Truyện phát triển theo tuyến tâm trạng nhân vật chính, thành ra truyện ngắn Bích Ngân có ngôn ngữ, giọng điệu trữ tình. Giọng điệu này mời gọi những người đồng điệu, những người biết quý trọng những giá trị đời sống trong những chuyện đời thường, cả những chuyện vụn vặt. Nhân vật thức dậy, xuống bếp bật bếp lửa nấu nước pha trà, rồi ngồi uống trà nghĩ ngợi…(Bên dòng sông Ray). Nhân vật đi du lịch hay đi dã ngoại tham quan, thường chuẩn bị đồ đạc, khởi hành, đến nơi, nhận phòng, đi tắm, đi uống cafê…(Người đàn bà góa trên chuyến tàu Trường Sa, Đường đến cây cô đơn, Khoảnh khắc “Trăm cô đơn”, Gió lạnh). Truyện Đêm biên giới chỉ có một cuộc gặp gỡ đón tiếp của trưởng đồn biên phòng với đoàn văn nghệ sĩ đi viết về đề tài người chiến sĩ. Sau bữa ăn, họ ngồi uống trà, xem ti vi. Phần còn lại của truyện là tâm trạng của trưởng đoàn Đại tá-nhà văn Trần Huy. Ông trăn trở, không ngủ. Ông đi đến các phòng, ở đó đèn vẫn sáng. Kết truyện là cuộc gọi của người vợ báo tin con trai ông sáng mai sẽ theo đoàn nhà báo ra chỗ Trung Quốc đang đặt giàn khoan.
Với một cốt truyện đơn giản như thế, yếu tố nào làm nên sự hấp dẫn của trang văn Bích Ngân?
Nhờ phân tâm nhân vật rất sâu kết hợp với những đoãn nhân vật liên tưởng, hồi tưởng, dung lượng hiện thực được mở rộng, sắc màu cuộc sống làm phong phú trang văn.
Bích Ngân dẫn người đọc đi đến nhiều vùng đất nước, ở đó cảnh sắc, con người quê hương có sức hấp dẫn. Từ đồn biên giới phía bắc mà cửa sổ các phòng của chiến sĩ không bao giờ đóng, nhà văn dẫn người đọc đi tàu lênh đênh trên biển đến đảo chìm Trường Sa. Ở đây một chiến sĩ trẻ măng có miếng băng tang đen trên ngực kết chiếc đèn bằng vỏ ốc trắng ngà hình một đóa sen đang nở để tặng mẹ, nhưng mẹ mới mất, anh tặng lại du khách. Từ một chung cư mà mỗi con người trong đó như tù nhân của bọn cho vay nợ, vòi bạch tuộc của nó chẳng khác gì bọn Mafia, đến “chuồng cọp” Côn Đảo với những hình nhân người tù bị xiềng xích, đôi mắt nhìn đầy ám ảnh. Từ trên lan can tầng 15 của một chung cư “Trăng sáng trên đầu, biển rì rầm, gió lồng lộng, hương hoa lài thoang thoảng bạn bè cùng ngắm trăng” đến dưới một gốc cây âm u trong rừng, nơi những khát khao kiếm tìm gấp gáp trong hơi thở của hai con người đang quấn lấy nhau. Từ nơi bàn nhậu của các quý tử với chai rượu 200 triệu đến nghĩa trang cất giữ xương cốt những người một đời hy sinh. Từ nơi Yên ngồi uống cà phê, xác một con ve rơi xuống cạnh ly cà phê. Đàn kiến đến khiêng nó đi. Cô nghĩ đến hình ảnh Aureliano, đứa trẻ duy nhất được sinh ra bởi tình yêu trong suốt trăm năm của dòng họ Buendia, bị bỏ quên và bị kiến cắn cho đến chết, đến đài tưởng niệm hình cánh buồm, ghi nhớ công ơn các chiến sĩ của con tàu không số. Nơi ấy có người thương binh âm thầm trồng hoa chăm sóc hàng ngày…Những cảnh sắc tương phản ấy đứng cạnh nhau có sức mạnh làm lay động trái tim người đọc.
Sự hấp dẫn của trang văn Bích Ngân còn là sự lấp lánh sắc màu thẩm mỹ trong việc phối hợp nhiều thủ pháp kiến tạo tác phẩm. Bích Ngân dựng truyện như cách viết tiểu thuyết, cho nên truyện sống động, khác với lối “thuật truyện” của nhiều tác giả viết truyện ngắn. Nhiều nhân vật có đường nét góc cạnh gây sốc ngay từ khi người đọc tiếp cận lần đầu. Cách nói năng của ông Út trong truyện Rượu 40 năm khiến bà Út có cảm giác như “bị chồng tạt trà nóng vào mặt” (tr.46). Cách nói chuyện của ông Tơ với vợ trong truyện Bên dòng sông Ray khiến người đọc cũng muốn can ngăn ông nên từ tốn với bà. Ngôn ngữ đối thoại của Bích và chồng trong Đường đến Cây cô đơn cũng là kiểu nói năng rất lạ: “Hỏi nhát gừng, trả lời nhát gừng, không đại từ, thiếu chủ ngữ, vắng cung bậc cảm xúc”. Bích Ngân có cảm quan đặc biệt về mùi hương trong những dòng miêu tả ít người ngờ tới. “Khi cửa xe mở ra, luồng gió mang chướng khí núi rừng của dãy Tà lơn nổi tiếng huyền thuật như xộc thẳng vào giác quan Thùy. Mùi ẩm mốc của cây lá, mùi rêu phong của đất đá, mùi phế tích của đền đài, mùi vôi vữa từ những công trình đang xây, mùi hăng hăng của hoa dại, mùi thơm thoang thoảng từ những khóm hoa được trồng dài theo lối đi dẫn vào khách sạn. Hoàng hôn Pokor khoác trên mình chiếc áo sắc màu ma mị cùng mùi hương của một cao nguyên đang thức giấc sau một giấc ngủ dài” (Kẹt trong sương mù, tr.76), và cả “mùi của ánh trăng” (tr.117).
Đôi khi, một vài chi tiết rất tình cờ, được dùng có nghệ thuật lại có sức chuyển tải một thông điệp ẩn mật mà người đọc phải lần gỡ những mối truyện, giải mã những ẩn ngữ trong suốt câu truyện mới ngộ ra được. Mở đầu truyện Cánh rừng vĩnh cửu, Chị bỏ vào vali chai thuốc muỗi và cái đèn pin để theo tour đi thuyền khám phá hồ về đêm. Chị đã không đi tour ấy mà theo người đàn ông lạ mặc đồ lính vào rừng. Kết truyện, sau khi nghe điện thoại của chồng (anh đang ở quán nhậu, giọng lè nhè), “Rồi không rõ vì sao, Chị lại nghĩ đến chiếc đèn pin và chai thuốc chống muỗi hiệu Soffell mà mình đã vứt vào vali như những vật dụng vô dụng dẫu chưa một lần sử dụng”(tr. 213). Tại sao chị lại nhớ đến hai vật dụng này sau khi nghe phone của chồng, và tác giả kết truyện với hai chi tiết này là có dụng ý gì? Những câu hỏi thú vị.
Điều thú vị khác là, nhiều câu văn của Bích Ngân có thể đứng một mình, chuyển tải những thông điệp hàm nghĩa triết lý. Những câu văn sâu sắc như vậy không nhiều ở những cây bút nữ. Kết truyện Đường đến cây cô đơn, nhân vật Tứ nói: “Cây nào đứng thẳng cũng đều là Cây cô đơn”. Một nhắc nhở khác: “…thói quen luôn là một kẻ điêu ngoa, giỏi dẫn dắt và thừa ma lực chế ngự”(tr.8). Một nhận định: “Hành tinh mà con người đang sống, có lẽ cũng không quá bí ẩn và dường như cũng không rộng lớn đến vô cùng”(tr.155). Một trải nghiệm: “Khi cùng một điểm đến và chung một nỗi lo, dường như ai cũng biết thu mình hẹp lại và nhích sát vào nhau” (tr.171). Và một cảnh giác: “…Không một loài hoa nào thoát khỏi lũ bướm háu sắc, lũ ong khát mật” (tr184)…
Và… dư âm
Gấp tập truyện lại, tôi thấy dáng dấp lịch lãm, đằm thắm và sâu sắc của nhà văn trong bóng dáng các nhân vật, trong những chuyến đi, trong những ngẫm suy về những vấn đề “nóng” của cuộc sống hôm nay; và hơn thế, tôi thấy một cốt cách truyện ngắn Bích Ngân với những sắc màu và dư vị rất riêng, dịu dàng nhưng mãnh liệt, rất đời thực nhưng cũng rất lãng mạn. Cốt cách ấy ấp ủ một hồn cốt dân tộc đầy bản lĩnh.
Tháng 10/2019
Bùi Công Thuấn
Theo http://buicongthuan.blogtiengviet.net/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét