Thứ Ba, 14 tháng 9, 2021

Việt Nam phong tục 2

Việt Nam phong tục 2

XXX. HỘI CHƯ BÀ
Làng đã có chùa, tất có hội chư bà. Chư bà là những đàn bà từ năm mươi tuổi trở lên hoặc người, đã có tuổi mà góa chồng, mượn cửa chùa làm nơi vui thú.
Bà nào muốn quy Phật, trước hết phải biện cái lễ trầu cau vàng hương lên lễ Phật, nói với nhà sư xin thọ giới, vào hội quy y gọi là chư bà hay là bà vãi. Chư bà mới vào hội mỗi tối phải lên chùa học kinh kệ hoặc là nhà sư dạy hoặc là các vãi dạy lẫn nhau. Mỗi tháng về ngày sóc ngày vọng lên chùa lễ Phật; về mùa hè thì mỗi tối lễ Phật năm trăm lạy để cầu phúc. Ai không lên được chùa, ở nhà cũng mỗi tối tụng kinh niệm Phật đến nửa đêm mới thôi.
Tháng tháng phải đóng tiền góp gạo cúng cấp về nhà chùa, cũng như lệ hương ẩm của đàn ông. Khi ai có của ngon vật lạ gì tất đem dâng biếu nhà sư, gọi là hiến cúng. Nhà chùa có việc gì các vãi tất phải hết sức giúp đỡ, hết lòng lo giùm, không dám sai lời. Trong các vãi thế nào cũng phải cắt cử một người nhanh trai nhật dạ ở luôn trong chùa phục dịch gọi là vãi thủ hộ.
Nhà sư ban phát cho chư bà thức gì, thì gọi là bố thí. Dẫu miêng trầu chén nước, cũng lấy làm quý trọng. Các vãi có khi kính nhà sư hơn cha mẹ sinh ra.
Vào hội chư bà phần nhiều là đàn bà nhà tầm thường chớ nhà có học thức và các nhà sang trọng thì không mấy người chịu vào. Nhưng đôi khi bà già mến cảnh chùa chiền thì người con cũng phải nể lòng để mẹ đi chùa cho vui. Hạng người ấy thì nhà sư phải chiểu đãi tử tế, chớ không dám khi thị như người khác.
Hội chư bà cũng cắt lần lượt nhau mỗi năm một người chứa đăng cai, gọi là bà trưởng. Các khi dân làng kỳ thần bái xã, và những khi lễ kỳ an, lễ miếu này miếu khác thì người đăng cai phải biện lễ trầu cau, vàng hương hoặc oản quả đê các bà đi lễ. Mỗi năm cùng có sửa lễ, lễ thánh sư một kỳ, hội tụ ăn uống với nhau.
Khi nào trong làng có người mất thì người đăng cai phải thông báo cho hội biết để đi hộ phúc. Dân làng cũng phải khoản đãi hội chư bà như hàng bô lão.
Chư bà làng nọ giao thiệp với chư bà làng khác, gọi là hội thập phương, có nơi gái góa chừng bốn mươi tuổi đã vào hội chư bà, cho nên lại có lệ: hễ đã vào hội chư bà mà ai chửa thì phải vạ, mà tước ra không cho vào hội nữa.
Hội chư bà, một là người đàn bà già cả ở nhà thì buồn bã không vui, muốn mượn cửa thiền để khuây khỏa lúc cảnh già, hai là những người mê tín đạo Phật, nghĩ mình thuở bình sinh nhiều điều ác nghiệt, e mai sau mất đi thì phải vào ngục Diêm Vương cho nên nương thân cửa Bụt ngày đêm tụng kinh cầu Phật Trời phù hộ mạnh khỏe sống lâu, mà ngày sau mất đi được về Tây phương cực lạc thế giới. Vậy nên động nói là nam mô, động đi đâu là lạy chín phương trời, mười phương chư Phật. Có người già cả yếu đuối cũng cố bò đến cửa chùa khấn la khấn liệt, lạy lấy lạy để, ấy thực là một điều mê tín của đàn bà ta, mà không ích gì cho đến mình cả.
Và, mỗi tháng đóng góp vào nhà chùa; người có của hay là có con cái giúp đỡ cho đã vậy; người không có con và người không có của mà cũng chịu khó nai lưng cố sức làm ăn, để gánh vác một vai lính nhà Phật, sao mà thiên hạ xuẩn làm vậy?
Song điều đó chẳng nên trách gì các bà già, chỉ vì nữ giới nước ta không có học thức mà thôi, mà đàn bà không có học thức, cũng bởi cách giáo dục chưa rộng vậy.
XXXI. HỘI TƯ CẤP
Trong làng hoặc mươi mười hai người, hoặc vài chục người rủ nhau lập một hội tự giúp lẫn nhau, gọi là hội tư cấp.
Hội tư cấp chìa ra làm nhiều cách.
1. Họ mua bán.
Một người cầm cái họ, hoặc trong hội cắt lần lượt mỗi người cầm cái một năm. Cứ đầu năm về trung tuần tháng giêng hoặc sang đầu tháng hai thì người cầm cái mời người chơi họ đến hội tại nhà mình, đính ước với nhau, chia làm hai ba hạng đóng tiền, hoặc mỗi tháng mỗi người đóng ba đồng, hai đồng, một đồng, năm hào gọi là họ nhỏ; hoặc mỗi tháng mỗi người đóng mười đồng, sáu đồng, gọi là họ lớn. Tùy ai muốn chơi hạng nào hay là chơi mấy tên cũng được.
Ai chơi đề tên vào sổ, gọi là sổ họ. Cứ tháng đến ngày gọi thì bao nhiêu người chơi họ họp lại ở nhà chủ mà mua bán với nhau. Cách mua bán hoặc dùng cách gắp thăm, hoặc dùng cách bỏ tiền úp bát.
Gắp thăm thì phải định hạn trước, ví dụ như mười người chơi họ, mỗi người góp mười đồng một tháng, thành ra mỗi tháng có một trăm đồng. Hôm mua bán, hạn cho chỉ được mua tám mươi đồng, còn hai mươi đồng để ra chia lãi cho các người chưa mua và để ra dăm ba đồng chi vào tiền phí tổn trầu cau và tiền chi công khó nhọc cho nhà chủ. Thăm thì đề tên mỗi người chơi họ vào một mảnh giấy rồi viên tròn lại, bỏ vào một cái ống, hễ gắp được tên ai ra trước thì người ấy được lấy họ.
Úp bát thì không có hạn định nào, ví dụ như mười người đóng thành một trăm đồng, mỗi người bỏ mấy đồng kẽm hoặc xu ở dưới, úp cái bát lên trên, mỗi đồng kẽm là một đồng bạc, bỏ lên trên bát thì mỗi đồng kẽm là một hào chỉ. úp xong cả một lượt thì nhà chủ theo lần lượt mà mở. Hễ người nào bỏ tiền nhiều hơn thì được, như Giáp bỏ mười đồng năm cắc, Ât bỏ mười hai đồng năm cắc, Bính bỏ mười ba đồng thì Bính được lấy họ v.v... Mua bao nhiêu thì được lấy bấy nhiêu, còn thừa cho các người chưa mua và cũng để tiền trầu cau cho nhà chủ.
Mua rồi thì ký vào sổ, từ tháng sau người chưa mua lại họp mà mua bán, người mua rồi thì thôi, hoặc được ăn lãi theo thì phải đóng cả số tiền của mình chơi cho đến khi hết họ.
Họ ấy gọi là họ mùa, đến tháng năm lại bắt đầu mở họ khác, gọi là họ chiêm. Họ đóng nhiều năm ít năm, tùy lúc đính ước, nhưng phần nhiều thì chỉ chơi một năm.
Người cầm cái được phép lấy dưng một tháng họ, nghĩa là lấy cả toàn số tiền không phải chia lời cho ai đồng nào.
Họ của một người có tư bản cầm cái thì là kế sinh lợi được bao nhiêu lời một mình người ấy hưởng; họ cầm chung của một hội thì tiền lời đế làm công nhu cho trong hàng hội
Cách họ mua bán này, ai có cần đến tiền buôn bán hoặc tiêu việc gì mới mua, ai không cần thì đê đánh lấy lời rồi cuối năm hoặc khi hết họ mới lấy, gọi là lấy dốc ống.
Người cầm cái phải khó nhọc đi mời, đi thu tiền, hễ người mua rồi mà không đóng được thì người ta chỉ trách cứ người cầm cái mà lấy tiền. Cho nên người cầm cái kể tiếng được ăn nhiều lời, mà cũng lắm khi phải bồi thường cho người khác, có khi đến vỡ nợ.
2. Họ hiếu.
Hội này cũng cắt lần nhau mỗi người làm chủ một năm
Hễ trong họ, ai có tứ thăn phụ mẫu mất thì người chủ tang đưa giấy hoặc trầu cau nói với người trưởng họ, trưởng họ phải báo cáo cho hết người trong hội, mỗi người phải đóng một vài đồng bạc hoặc góp bằng thóc gạo, để giúp cho nhà tang chủ, có nơi chơi họ bánh chưng, bánh dầy thì hàng hội phải làm bánh sẵn mà đem đến nhà tang chủ. Họ hiếu lại thường có tế, hàng hội phải đủ đồ tang phục mà trợ tế cho hiếu chủ. Hôm cất ma, họ hiếu đều phải mặc áo trắng đi đưa đám.
Họ hiếu nhà chủ hoặc phải cơm rượu khoản đãi hoặc không phải tùy lệ định với nhau.
3. Họ hỷ.
Hội này hoặc làm nhà, hoặc cưới vợ cho con, hoặc có việc gì vui mừng, đều được phép lấy họ. Trong họ mỗi người cấp bao nhiêu, tùy lệ định trước. Người có việc hỷ đưa trầu đến trưởng họ, rồi họ đính ước ngày nào đến mừng thì đem tiền đến đóng.
Nhiều khi hiếu, hỷ họp làm một họ, hiếu thì bất kỳ lúc nào, nhà ai có người mất cũng được lấy ngay; việc hỷ thi thường mỗi năm chỉ cấp bốn kỳ, hễ ai có việc trước trình trước thì được lấy trước.
4. Họ ăn tết.
Về chốn quê thôn, thường có họ bánh chưng, họ thịt bò, thịt lợn, họ gạo v.v... Người cầm cái mỗi tháng đi thu mỗi người chơi họ độ một vài hào. Tiền ấy đem ra sinh lợi, rồi cuối năm thì bỏ hết tiền ấy ra để hàng hội tậu bò, mua lợn,' đong gạo làm bánh, phân phát cho mỗi người một phần để ăn tết. Cách này là mỗi người bỏ dần ra ít tiền từ trưốc để đến tết đỡ khỏi phải lo.
Cách tư cấp lẫn nhau của ta, mỗi người bỏ ra một ít tiền, đắp đổi lần hồi, tốn kém không bao nhiêu mà giúp cho một ngưòi nên được công việc, cũng là một cách lý tài khéo.
Song hiềm cách lý tài nhỏ nhặt quá, cả hội nhiều cho lắm chẳng qua vài chục người, đóng góp thì mỗi người nhiều mới đến một vài đồng, dăm sáu đồng, ít thì dăm ba hào, hạn kỳ lại ngắn ngủi, ngưòi có việc chẳng qua lấy được mươi mười hai đồng cho chí bảy tám chục. Nói đến cách lý tài bao nhiêu thì lại buồn cho cuộc sinh lý của ta bấy nhiêu.
Thế mà đã chắc gì đâu, ở chốn hương thôn mỗi khi đóng một vài đồng bạc hoặc dăm bảy hào mà cũng nhiều khi có người không đóng được, ở thành phố thì mỗi kỳ đóng độ dăm sáu đồng cho đến một vài chục, mà thường thấy các bà cầm cái phải vất của nhà ra đóng đậy cho người khác, mà vỡ họ cũng nhan nhản chẳng thiếu gì.
Vậy thì kết cuộc đã nhỏ nhặt mà lại không có quy trình chắc chắn, đường sinh lý tài nào mỗi ngày mở mang ra được?
Tiếc rằng có cách hay mà không mấy người chịu mở cho to làm cho chắc chắn. Giá thử cứ ý ấy mà suy rộng ra thì một là sinh lợi cho mình, hai là giúp được cho người khác nên việc to, có khi nhờ cách ấy mà buôn bán to được.
Còn như họ hiếu, họ hỷ, họ ăn tết, cũng là một cách nhỏ nhặt, chẳng đỡ được bao nhiêu, mà lại sinh phiền cho lúc thu lúc đóng. Lắm nơi lại bày ra cách ăn uổng thì lại phiền nữa. Cả họ đỡ độ ba bốn chục, ăn uổng lại tốn mất một hai chục thì còn ích gì cho ngưòi có việc.
XXXII. HỘI BÁCH NGHỆ
Dân làng thường hay có hội bách nghệ. Hội bách nghệ là bao nhiêu người trong làng làm chung một nghề gì, hoặc thợ mộc, hoặc thợ nề, hoặc thợ sơn, thợ sắt v.v... Người làm nghề nào vào hội ấy, cho cử một ngưòi làm trưởng hội hoặc mỗi năm cắt lượt nhau làm trưởng một lần, đế chứa việc hội.
Mỗi năm hội tại nhà trưởng ăn lệ với nhau một kỳ. Ngày ăn lệ hội to làm bò, hội nhỏ làm lợn, trước hết lễ thánh sư, rồi thì hội tụ ăn uống chơi bời vối nhau.
Chủ ý hội thì chỉ cốt để liên lạc cái tình ý đồng sự vối nhau, trong hội ai có việc hiếu, hỷ thì hội cũng có lệ mừng, phúng, hoặc là giúp đỡ tiền nong cho nhau.
Hội thường hay lập ra họ mua bán trưốc là giúp đỡ sau là lấy lời. Cái lời ấy dễ làm vốn công của hàng hội, khi nào nhiều vốn rồi thì hội lại tìm nhiều kể ra mà sinh lời nữa, rồi mỗi năm chia cho nhau một đôi chút. Hoặc hàng hội muốn lấy danh tiếng với làng thì cung tiến về sự thần, như cúng cái nghi mon tàu, hoặc cúng cò cúng tán, cúng áo đại trào v.v... Cúng thứ gì thì đề tên của hội ấy vào thứ ấy, thế là danh giá.
Hội cũng đặt ra có đàn anh, có đàn em, có người giữ sổ, có người giữ tiền công, cũng như một xã hội nhỏ vậy.
Tục ta nghề nào lập hội ấy, một là để giữ gìn công việc cho nhau, hai là để liên lạc tình nghĩa vối nhau, ba là để bênh vực nhau, cứu giúp nhau, vậy thì cái chủ ý cũng hay, mà lại có thể sinh lợi để làm được sự công ích nữa. Tiếc thay dân trí ta hẹp hòi, chỉ biết có tiền thì lo ngay đến một mảnh danh giá, cúng về dân để lấy cái tên ghi ở trong đồ sự thần, cho ai nấy trông thấy đồ thờ thì lại nhớ đến tên mình, thế cho là vinh hạnh rồi. Giả sử hội nào cũng gây lấy một cái vốn to rồi chung nhau mà mở một nghề buôn bán to tát, hoặc công xưởng gì cho có ích lợi to thì chẳng hay lắm ru? 
XXXIII. TUẦN ĐINH
Mỗi làng phải có mươi mười hai tên tuần đinh, làng nhỏ cũng phải có bảy tám tên. Tuần đinh là những hạng trai trong làng, kẻ nghèo hèn không được dự vào ngôi thứ gì thì phải ra tuần, có nơi thì cắt lần lượt các trai tráng từ mười tám tuổi trở lên phải ra tuần mấy tháng hoặc mấy năm. Gọi là tuần phiên cũng là bọn ấy.
Tuần đinh phải theo khán thủ, trưởng tuần canh gác tại nơi điếm sở, đánh trống, đánh mõ cầm canh. Hoặc rúc tù và đi tuần la trong làng, coi sóc đồng điền lúa má, và giữ gìn kẻ gian phi.
Khi có cướp hoặc khi có hỏa hoạn, dân làng hô hoán thì lý dịch phải lập tức đem tuần đinh đến cứu. Dân làng cũng đổ ra mà giúp sức vối tuần đinh.
Khi có việc bắt phu phen, hoặc đến vụ thuế thì tuần đinh phải đi gọi phu và phải đi thúc thuế. Ai bỏ phu hoặc thiếu thuế, lý dịch được phép sai tuần đinh bắt ra điếm đóng cùm. Khi tha về, người có lỗi phải nộp tiền tuần dăm ba hào cho tuần đinh uống rượu. Ai ăn trộm ăn cắp hoặc đánh nhau nằm vạ, hoặc trái khoán ước gì của làng thì lý dịch cũng được phép sai tuần đinh bắt ra điếm để phân xử, tuần đinh canh giữ, lỗi nhỏ thì bắt nộp dăm ba hào, đồng bạc, lỗi lớn thì tuần đinh được phép bắt gà bắt chó ra ngả vạ.
Tiền cấp dưỡng cho tuần đinh, có ruộng thì để cho một vài mẫu, hoặc đến vụ gặt thì để cho một vài lượm lúa trong mỗi mẫu, hoặc ai có trâu thì mỗi con trâu phải cho mấy hào. về nơi không có ruộng thì tính từng nóc nhà, đồng niên mỗi nóc nhà phải cho một vài hào, hoặc nơi thì trừ cho khỏi đóng thuế trong khi ra tuần, tùy tục riêng từng làng.
Việc tuần phòng cũng là một việc hệ trọng, giữ kẻ gian phi, cứu khi nguy cấp để giữ sự yên ổn trong làng, vậy thì bọn tuần đinh tức là một đội cảnh sát của dân xã.
Song ta không hiểu nghĩa ấy thường cho bọn tuần phu như bọn nô lệ của lý dịch, cho nên lắm nơi cắt cử những kẻ hèn hạ yếu đuối cho ra làm tuần. Bọn ấy chỉ sai khiến là được, chứ đến việc canh giờ, chắng qua đi cho đủ đầu, thường khi thấy kẻ gian phi, phải im hơi lặng tiếng, còn làm trò gì được?
Ai có chí cải lương về dân tục, tưởng cũng nên đê lòng đến việc ấy.
XXXIV. ĐẠC PHU
Dưới bọn tuần đinh, làng nào cũng có một người làm nô lệ chung cho cả hàng xã gọi là đạc phu (thằng mõ).
Khi nào trong làng có việc gì thì tên đạc phu phải đi mời mọc cả làng ra đình hội họp. Hoặc có việc gì lý dịch báo cáo cho làng biết thì đạc phu gõ mõ đi rao suốt các ngõ, nhà tư gia ai có việc hiếu hỉ hoặc có việc giỗ kỵ muốn mời làng thì cũng sai đạc phu đi mời.
Đạc phu chỉ trông cậy về những khi giỗ tết của các tư gia và những khi dân làng tế lễ ăn uống, đem nghề hầu hạ điếu đóm mà kiếm ăn. Đạc phu thấy nhà ai có việc mà vào thì dẫu nhà nghèo cũng phải để cho nó một cỗ. Cỗ của nó gọi là cỗ tiếp dư, nghĩa là những món thừa thãi mới cho nó.
Đạc phu là một kẻ đê tiện hơn hết các loài người, chỉ những kẻ khốn khó mới đi nơi xa khuất chịu làm nghề ấy mà thôi. Mà ai đã nhỡ phải bước ấy thì con cháu về sau, muốn làm nghề gì mặc lòng, cũng không rửa được tiếng xấu. 
THIÊN THỨ BA
NÓI VỀ PHONG TỤC XÃ HỘI
I. VUA TÔI
Vua làm chủ tể trong một nước, khắp trong nước từ quan đến dân, ai ai cũng là tôi tớ nhà vua. Có chữ rằng: "Phổ thiên chi hạ, mạc phi vương thổ, suất thổ chi tân, mạc phi vương thân" nghĩa là khắp nơi dưới trờ đâu cũng là đất nhà vua, suốt mặt đất, ai cũng là tôi tớ nhà vua.
Vua thay mặt trời để cai trị muôn dân, cho nên uy quyền của vua rất trọng, vị trí của vua rất tôn. Mà phàm danh hiệu gì cũng có một danh hiệu đặc biệt cho khỏi lẫn với danh hiệu của người thường.
Chỗ của vua ở gọi là Ngự cung, sập vua ngồi gọi là Ngự tọa, đồ vua dùng gọi là Ngự dụng, cơm vua xơi gọi là Ngự thiện, vua đi chơi gọi là Ngự du...
Vua thay quyền trời cho nên gọi vua là Thiên tử, vua ban ơn gọi là Thiên ân, vua giận dữ gọi là Thiên uy, vua đánh đâu gọi là Thiên thảo, vua tha tội gọi là Thiên xá...
Vua quí cũng như thần long, cho nên phàm đồ dùng của vua, thức gì cũng vẽ rồng. Áo thêu rồng gọi là Long cổn, Sạp chạm rồng gọi là Long tọa, kiệu vua ngự gọi là Long giá, thuyền vua ngự gọi là Long thuyền, mà sân cùng bệ nhà vua cũng gọi là sân rồng bệ rồng.
Duy vua được tự xưng mình là trẫm, điển ấy do từ Tần Thủy Hoàng rồi các vua đời sau đều nói theo tiếng ấy, thành ra một tiếng riêng của vua tự xưng.
Vua lại như cha mẹ của muôn dân, cho nên từ quan đến dân đối với vua đều phải hết dạ trung thành, hết lòng cung kính. Các quan chầu yết tất phải hô vạn tuế, nghĩa là tôn chúc vua muôn tuối lâu dài. Vua ban ân cho ai một chút gì tất phải bái mạng (lạy tạ ơn vua). Chiếu sắc dụ chỉ ban về đâu tất phải rước xách tôn trọng. Ai được mông ơn của vua, dẫu bằng sợi tơ sợi tóc cũng quý coi như được gội nhuần mưa móc ở chín từng trời.
Vua, trong có phi tần lục cung giúp việc nội trị, ngoài có văn võ bách quan giúp việc ngoại trị. Muôn dân trong nước thì chỉ trông mong về nhân chính của vua mà thôi.
Họ nhà vua gọi là Tôn thất, làng nhà vua gọi là làng Thanh mộc, họ với làng của vua đều được hưởng phần quyền lợi hơn người thường.
Tên húy của nhà vua phải kiêng, không được dùng, mà đặt rồi thì phải cải đi. Phàm tấu sớ văn chương, dùng đến chữ trọng húy thì phải đổi làm chữ khác, dùng chữ khinh húy thì được phép tỉnh hoạch (bỏ bớt một nét): khi đọc đến tên húy phải đọc tránh ra tiếng khác. Học trò thi cử làm văn, cùng là các giấy má việc quan, phạm đến tên húy phải tội.
Vua đã có chiếu dụ mà ai dám sai lời, gọi là vi chế. phải tội; vua có chiếu sắc ban cho ai mà không nghênh bái gọi là bất kính quân lịnh, phải tội; ai dám bàn bạc đến điều lầm lỗi của vua, gọi là dương quân chi ác, cũng phải tội.
Vua băng hà, cả nước phải để tang, gọi là quốc tang. Quốc tang tùy mỗi trào gia giảm một khác. Song từ năm Tự Đức thứ ba mươi sáu thì lệ định như sau này:
Quan tam phẩm trở lên, bất câu là chưa bổ hoặc đã hồi hưu, cùng với hằng ấn quan tứ, ngũ phẩm, đều phải mặc đồ trảm thôi ba năm. Lục phẩm trở lên, áo vải trắng để tang đủ một năm. Cửu phẩm trở lên, bất câu chưa bổ hoặc hồi hưu, cũng khăn áo trắng để tang chín tháng; con cả quan nhất phẩm để một năm, con cả quan nhị phẩm để chín tháng, con cả quan tam phẩm để năm tháng, cũng đều khăn áo vải trắng. Tiến sĩ, phó bảng, cử nhân, tú tài, giám sinh, ấm sinh, học sinh cũng để tang trong chín tháng; võ cử anh danh cũng vậy. Thân phụ các quan từ thất phẩm trở lên, phải để ba tháng. Vợ mệnh phụ của quan tam phẩm trở lên và vợ cả của quan lục phẩm trỏ lên, để tang theo chồng.
Ở kinh bắt đầu từ ngày phát tang, ở ngoài bắt đầu từ ngày mới đưa tin, hạn trong một trăm ngày, quân dân cấm không được mặc đồ điều, đỏ; trong hai mươi bảy tháng, cấm không được hát xướng đàn địch.
Việc giá thú, tam phẩm trở lên cấm một trăm ngày, tứ phẩm trở xuống cấm hai tháng, quân dân cấm hai mươi bảy ngày.
Quan viên nào mới được thăng hàm hễ trong một trăm ngày thì chiếu theo phẩm hàm mới mà để tang, ngoài một trăm ngày thì cứ theo nguyên phẩm cũ mà đê tang. Các quan viên khi thường làm việc phải dùng khăn trắng áo thâm. Gặp khi có việc sai phái việc quân, thì được mặc đồ nhung phục; còn việc thường đều mặc bận khăn trắng áo thâm.
Nưóc ta xưa nay vốn là một nước quân chủ, phận vua tôi rất nghiêm, mà uy quyền thế lực của nhà vua rất lớn. Của trong một nước tức là của nhà vua, đất trong một nưốc cũng là đất của nhà vua, mà người suốt trong một nưóc, cũng đều là tôi tớ của nhà vua.
Phận làm thần dân lấy một chữ trung làm gốc, chữ kính làm đầu, tôn mạng vua như thánh, như thần, sợ oai vua như sấm như sét. Gặp được vua hiền minh, nhân từ thì dân được hưởng phúc sung sướng; gặp phải lúc hôn quân, bạo chúa, thì dân phải chịu khổ ải lầm than.
Than ôi! Giang sơn như hoa như gấm kia, bao nhiêu mồ hôi nước mắt mở rừng phá núi của tổ tiên nghìn muôn ngưòi để lại, có phải riêng của một mình ai? Vua là một người đứng thay mặt muôn dân, để cai quản tài sản tính mạng cho muôn dân, thì dân phải tôn kính, phải thờ phụng vẫn là cái lẽ đương nhiên. Nhưng cũng nên biết mình là người trong một nước, thì việc nước củng là việc mình, không nên coi nước là nước riêng của một mình vua, nghĩa là cũng phải đem mình mà lo lắng, gánh vác lấy một vai chung cho xã hội.
II. THẦY TRÒ
Học trò học nghề hay là học chữ, ở với người dạy cho mình đều có nghĩa thầy trò. Học trò phải kính trọng thầy, phải quý mến thầy, mà nhất là thầy dạy học chữ lại phải kính trọng hơn nữa.
Học trò khi mới vào học gọi là nhập môn, phải kiếm buồng cau lạy yết kiến thầy hai lạy. Lúc học gặp khi mồng năm ngày Tết như Tết Nguyên đán, Tết Thanh minh, Tết Đoan dương, Tết Trung thu, mùa nào thức ấy hoặc cặp gà thúng gạo, hoặc đương mứt bánh trái, hoặc dăm ba quan tiền, tùy tình đa thiểu mà đem đến lễ thầy.
Khi nhà thầy có việc, hoặc việc hiếu, hoặc việc hỷ, hoặc khi có kỵ, học trò cũng kiếm lễ vật đến lễ, và giúp đáp công việc cho nhà thầy.
Cả bao nhiêu học trò hội lại gọi là hội đồng môn. Hội đồng môn của thầy lập ra, hoặc của học trò hội lại mà đặt ra. Thầy xem trong môn sinh ai là người hiển đạt hơn hoặc có tuổi hơn thì bầu làm Trưởng tràng để đứng đầu mà coi sóc việc môn sinh. Lại bầu một người làm Giám tràng để hiệp trợ vối Trưởng tràng. Ngoài nữa thì liệu xem ai là người mẫn cán đặt ra năm bảy người hoặc mươi, mười hai người Cán tràng, để giúp cho Trưởng, Giám, mà coi công việc chạy chọt vành ngoài.
Thầy đặt ra trưởng, giám, cán, phải có chữ của thầy, thì đồng môn mới phục tùng. Khi thầy có việc cần đến đồng môn phải giúp thì thầy bảo qua với Trưởng, Giám một tiếng, Trưởng, Giám tuần lời thầy đặt tờ cho cán tràng, Cán tràng lại thông báo cho các môn sinh hội lại bổ bán mà giúp đỡ cho thầy.
Khi cha mẹ thầy mất, đồng môn cũng phải hội giúp thầy ít tiền, và phải sửa lễ phúng viếng đưa đón phân minh. Đến khi thầy hoặc vợ thầy mất thì đồng môn phải xử trọng thể hơn, mà phải phục tùng quyển thế huynh là người kế tự của thầy. Phải bổ bán mỗi người dăm ba đồng bạc để giúp cho thế huynh. Lúc đưa ma, hết thảy môn sinh phải khăn trắng áo trắng đưa đến huyệt, lạy tạ bốn lạy mới trở về. Về đến nhà, hội họp với nhau giết bò giết lợn tế thầy một tuần.
Môn sinh cũng phải để tang thầy học 3 năm song không phải phục tang chế, gọi là tâm tang, nghĩa là đế tang trong bụng mà thôi.
Trong môn sinh thể thống rất nghiêm, ai đã vào học đều phải đóng đồng môn cả. Hễ ai bỏ không đóng góp hoặc ai trái lễ phép với nhà thầy, Trưởng, Giám tràng có phép bắt bớ cùm trói, cho nên có câu rằng: Môn sinh tiểu triều đình.
Từ sau mỗi năm đến ngày giỗ thầy hoặc vợ thầy, đồng môn phải biện lễ đem đến lễ giỗ. Hoặc nhà thầy suy đồi đi rồi, không có ngưòi kế tự thì đồng môn họp 3 nhà Trưởng tràng mà làm lễ giỗ thầy và vợ thầy. Giữ giỗ cho đến hết đời thì thôi
Có nơi môn sinh đóng tiền làm nhà thờ thầy và tậu đất ruộng đê làm ruộng kỵ, cứ năm năm lấy hoa lợi mà sung vào việc cúng giỗ cho khỏi phải đóng tiền. Nơi ấy thì học trò thường đời đời nối dõi giữ giỗ ông thầy và vợ thầy.
Người ta ở đời nhò có cha mẹ sình ra mình, lại phải nhờ có thầy dạy cho mình thì mình mới khôn biết việc này việc nọ, mới nên con người, cho nên học trò ở với thầy cũng như con ở với cha mẹ, ấy cũng là một môi luân thường của Á Đông ta.
Song cũng vì tục trọng sư đạo ấy mà sinh ra mấy thói dỏ. Kìa như các bực đáng mặt mô phạm, có công dạy dỗ, có ân đức giáo hóa nhuần thấm đến người thì người ta không nên quên đã đành. Còn như mấy ông đồ quèn học hành chưa hiểu vỡ mạch sách, văn chương chưa thuộc đủ lề lối, mà đã đi về các vùng nhà quê tìm nơi thiết trường, gõ đầu năm ba đứa trẻ nửa mường nửa mán để hộ khẩu cho qua đời. Vậy mà cũng dám lên mặt đạo mạo, động một tí thì bổ cho đồng môn, nào khi nhà thầy có giỗ, nào khi thầy có việc mừng vui, nào khi thầy lấy vợ, nào khi thầy lên lão làng cũng lôi đồng môn ra mà bắt gánh vác, ấy lại là cái mọt của thiên hạ. 
III. BẦU BẠN
Bầu bạn là người đồng học, đồng nghệ, đồng liêu, đồng sự, hoặc là người thuở nhỏ quen biết nhau, hoặc là khi lớn mới gặp nhau một lần, mà trong câu trò chuyện tâm đầu ý hợp thì cũng kết làm bầu bạn với nhau.
Nghĩa bầu bạn trọng nhất là tư ích lẫn cho nhau. Tư ích có hai cách: một là khuyên bảo nhau lấy điều hơn lẽ thiệt, hai là khi anh em có tai nạn nguy cấp thì giúp đỡ lẫn nhau. Bạn ấy mới gọi là bạn ích hữu.
Đôi khi anh em qua lại thăm nhau, lấy chén chè chén rượu khoản đãi nhau làm vuì. Hoặc khi nhà anh em có công việc vui mừng, hoặc việc tang ma, hoặc ngày giỗ kỵ, thường cũng có mời mọc nhau, ấy là quí mến nhau lắm.
Bực giàu có thì thường khi làm tiệc mời nhau ăn uống vui chơi. Hoặc giở ra tổ tôm ít sì, làm cuộc tiêu khiển. Còn hạng nữa thì mỗi tôi dắt díu nhau năm bảy người, nay cao lâu, mai chả cá khi thăm các ả, khi giở bàn đèn, ấy cũng là một cách sum họp của anh em bạn.
Trong bầu bạn, người nào là người đồng tâm đồng chí với mình gọi là bạn tri kỷ. Bạn tri kỷ là bạn rất thiết chẩng nề giàu nghèo sang hèn, lúc nào cũng yêu mến nhau, có khi sống chết cũng chịu với nhau nữa. Song cũng nhiều kẻ lúc trước chơi với nhau rất thân thiết, đến lúc một người sang một người hèn, hoặc một người giàu một người nghèo thì đã coi trọng coi khinh có phần khác trước.
Lại còn một thói anh em chơi với nhau, chỉ lấy cái lá mặt thết đãi nhau từ chầu hát bữa tiệc, tốn kém vài ba chục bạc chẳng coi vào đâu, làm ra bộ hào phóng lắm mà giả thử anh em có nhỡ nhàng, giật tạm năm ba đồng thì một xu không dám lòi ra, vả lại có ý kẻ một quan khinh rẻ chín tiền, tục ấy cũng là môt tục tệ.
Xưa nay bầu bạn ở với nhau; nước ta thì có Lưu Bình Dương Lễ, nước Tàu thì có Quản Trọng, Bảo Thúc là có tiếng ở với nhau thủy chung hết lòng. Dương Lễ cho vợ thứ ba đi nuôi bạn, chuyện ấy ở sách Tuồng ta đã chép, và ta thường đi xem hát bội thì ai ai cũng đã biết rồi. Còn chuyện Quản Trọng, Bảo Thúc, tưởng nên nói qua ra đây để các người chưa xem sách Tàu coi chơi, cũng có thể làm gương được cho trong đạo bầu bạn.
Quản Trọng thuở hàn vi cùng với Bảo Thúc đi buôn, cứ chia lời thì Quản Trọng chiếm lấy phần hơn, vậy mà Bảo Thúc cũng không chê Quản Trọng là tham, vì biết Quản Trọng nghèo hơn. Đến khi Quản Trọng gặp nạn Công Tử Củ, Bảo Thúc cố sức giúp thoát nạn, lại dưng lên vua Tề Hoàn Công để vua dùng làm tướng; mà mình lại chịu ở hàng dưới, mà Bảo Thúc cũng không lấy thế làm hiểm, về sau Quản Trọng sắp mất, vua hỏi ai thay được ngôi mình, thì Quản Trọng tiến cử người khác, mà bác Bảo Thúc đi không tiến, Bảo Thúc lại càng phục chớ không dám giận. Ây là vì Bảo Thúc biết cái tài Quản Trọng hơn mình nhiều, mà Quản Trọng thì một lòng vì nước, coi việc nước trọng hơn tình riêng anh em, cho nên Bảo Thúc càng sợ bụng công bình của Quản Trọng, mà Quản Trọng cũng càng phục cái lượng to của Bảo Thúc. Vậy cho nên Quản Trọng có câu than rằng: "Sinh ra ta là cha mẹ, mà biết bụng ta thì là Bảo Thúc". '
Giả thử thường tình của thiên hạ thì khi Quản Trọng tham lời cũng đủ ghét rồi. Huống chi đến sau lại ra công cứu nạn, lại tiến lên làm tướng mà mình chịu ở dưới, thế mà đến khi mình gần mất vua muốn dùng người có ân với mình, thì mình lại bác đi. Như thế thì ai không giận, ai không cho là người phụ ơn. Vậy mà Bảo Thúc không lấy làm hiềm, Quản Trọng cũng không lấy làm ngượng. Ảy mới thực là anh em tri kỷ.
Nước ta anh em bạn mấy người đã được biết bụng mà chiều tính nhau như thế. Trừ ra mấy người bạn thiển giao, chẳng qua gặp gỡ nhau thì lấy câu chuyện làm cách chơi bời không kể. Còn những người thuở nhỏ ăn cùng một mâm, nằm cùng một chiếu, ngày đêm to nhỏ ân tình đằm thắm biết là dường nào. Vậy mà đến khi kẻ sang người hèn thì đã coi nhau như rác, đi qua trông mặt chẳng thèm hỏi, vào chơi không thèm tiếp. Lại còn có kẻ đã chẳng giúp gì cho nhau thì chớ, ví dụ thấy anh em khá, lại sinh ra tính ghen ghét, chực hại nhau nữa cũng nên. Sách có chữ rằng: "nhất quí nhất tiện, giao tình nãi kiến; nhất tử nhất sinh, nải kiến giao tình" nghĩa là một kẻ quý một kẻ tiện, mới rõ cái tình bầu bạn, một người sống một người chết, mới tỏ cái tình anh em, quả nhiên thế thực.
Than ôi! Kết bạn với nhau, cốt để mài giũa nhau cho cùng nên người, và để khi hoạn nạn thì giúp đỡ nhau. Gần mực thì đen, gần đèn lại rạng, ai là không muốn được người bạn tử tế thủy chung, nhưng hồ dễ đã được mấy người tử tế, cho nên muốn tìm một người để làm bạn tri kỷ thì phải cẩn thận mới được. Nếu không cấn thận mà chơi với phỉ nhân, thì sự bầu bạn chẳng những là vô ích cho mình, mà lại sinh ra đua nhau những thói du đãng làm lụy cho mình nữa.
IV. QUAN DÂN
Tục ta coi quan cũng là cha mẹ dân, thường gọi quan sở tại là quan phụ mẫu. Cho nên dân coi quan cũng rất trọng vọng, rất tôn kính. Dân động có việc gì vào đến quan, trước hết còn phải nói với lính canh cửa, lính canh cửa bẩm với quan, quan có cho vào hầu mới được vào. Nếu quan còn đương giấc, hoặc còn đang thời cơm, hoặc có khách thì phải đứng chực ở ngoài cửa.
Vào đến quan phải bỏ giầy, phải có đồ lễ. Đồ lễ ít cũng phải vài bao trà tàu hoặc buồng cau, và phải lạy hai lạy gọi là lạy trình. Quan rộng lượng không lấy, cho mang ra thì còn cằn nhằn van vỉ, bứt đầu, bứt tai, gọi là chút vi thành, nói cho quan thâu nhận mới yên tâm. Việc gì mà nhờ quan làm ơn cho thì khi xong việc phải có cái lễ tạ, tùy việc to nhỏ mà tạ cho đáng ơn.
Vài mươi năm về trước, quan đi đến đâu, lính tráng theo hầu rầm rập. Kẻ khiêng võng, người vác hèo, đứa cắp tráp, đứa xách điếu. Lại có mấy tên lính cắp bao roi, đánh trống tiêu cổ đi trước mở đường. Dân ai gặp phải ngả nón, phải tránh đưòng, đương ngồi thì phải đứng dậy. Nhất là quan tỉnh đi đến đâu lại uy vệ hơn nữa, tiền hô hậu hét làm cho kinh động mọi người.
Quan to đi qua dân nào dân ấy cắm cờ che tàn bày đồ hương án bái hạ, các kỳ dịch bô lão thì phải ra ứng chực bái vọng.
Xã nào có việc gì mà quan đến thì xã ấy phải phục dịch cung ứng, lý dịch chạy ngược chạy xuôi, mà động lầm lỗi chậm trễ điều gì thì quan lại sai lính vật cổ đánh liền. Lý dịch có câu tục ngữ rằng: đầu chày mày, đít thớt, nghĩa là đầu phải gật gù lạy luôn như chày giã gạo mà đít thì phải đòn luôn như thớt băm thịt.
Quan không được phép làm quan tại bản quán, và không được phép lấy vợ ở trong bản hạt, vì sợ có thân thuộc nhà quan ở lẫn với dân trong hạt thì có khi dùng phép không được công minh.
Quan mới đáo nhậm hạt nào, tổng lý hạt ấy phải kiếm lễ vào chào quan, gọi là lễ nghinh, đến lúc đổi đi nơi khác, tổng lý lại có lễ tiễn nữa.
Quan nào có lòng thương dân, nhiều điều nhân đức dân được nhờ, thì khi phải đổi hoặc khi thăng chức khác, dân tại địa phương ấy thường có đơn ái mộ kêu với quan trên để xin lưu lại cai trị hạt mình.
Quan nào có công đức to với dân thì sau khi mất, dân có khi lập bia kỷ niệm nữa.
Cũng vì cách chuyên chế mà quan với dân xa cách nhau một vực một trời, quan thì coi dân như cỏ như rác, dân thì coi quan như cọp như beo. Dân vào đến cửa quan nhiều kẻ so vai rụt cổ, run lập cập nói chẳng ra hơi, mà quan động đi đến đâu thì ầm ầm như sấm như sét làm thực rõ ra mặt hách dịch. Thậm chí có ngưòi thuở nhỏ vẫn chơi với nhau, hoặc cùng làm việc với nhau, đến lúc một người làm quan' một người làm dân, vào đến cửa đã nhất tự cách trùng ngay rồi. Có người chịu nhận mình phận dưới mà phải lạy người cố tri, mà ngươi cố tri cũng nghiễm nhiên coi mình là bậc quan trưởng mà nhận cái lạy của người bạn cũ lạy mình. Ảy đều bởi cái cách phân biệt một trọng một khinh, đã in sâu vào óc người nước ta, cho nên đôi bên cùng không cho là lạ.
Tuy vậy, dân càng sợ quan bao nhiêu, thì cái tình thân ái lại càng xa cách ra bấy nhiêu. Sợ là sợ phép nước, sợ bề ngoài, chứ trong bụng thì chắc nhiều người oán ghét. Vì thế dân không mấy khi mà đem tình thực nói với quan, mà quan cũng không tài nào mà soi cho thấu cái thói gian của dân được, ấy cũng là một điều tệ ngăn trở cho chính công bình.
Lại nữa trái với cách văn minh là cách bắt dân phải lạy và cách đánh đòn. Cứ cái lẽ của tạo hóa sinh ra người thì ai cũng chân tay, ai cũng mặt mũi, thì ai cũng là người. Ai cũng là người, nhưng phải mỗi người một việc, ngươi đi cày, người làm thợ, người làm công này việc nọ, có thế mổi đủ mà giúp lẫn cho nhau, chớ không người nào một tay mà làm được hết cả mọi việc. Như vậy thì làm quan chẳng qua cũng là một việc, cũng là một nghề. Mà nghề làm quan thì lại tựa như dân góp tiền nhờ một người cầm đỡ cái cân trung bình cho dân mà thôi, có lẽ nào coi dân rẻ rúng được. Loài người trọng nhất là nhân cách, mình có nhân cách mình thì người ta cũng có nhân cách của người ta. Nếu bắt người ta phải lạy và bắt ngươi ta nằm mà đánh thì làm cho nhân cách người ta đê tiện quá, bất luận người bị nhục, bị cái thế bất đắc dĩ mà phải oán tức trong lòng, mà ngươi coi mình tự tôn quá sao cho đành lòng được. '
May nhờ nhà nước bỏ hai cách hủ ấy cho dân ta, thì dân ta thực đỡ được một mối phiền não. Nhưng lại còn hiềm những chốn thôn ổ, phần nhiều người chưa biết trọng cái thân mình, và biết hưởng cái ơn rộng của nhà nưóc, vào đến cửa quan, còn thấy có kẻ khủ lủ lạy lục; ở những nơi xa khuất, một đôi khi còn thấy quan dùng roi mà nạt. Dân thôi chẳng trách gì, chỉ trách người đã có kiến thức và đã được thượng lịnh mà vẫn giữ thói tự kiêu, trái lịnh trên đê lấy oai với kẻ khác.
V. CHỦ KHÁCH
Bất cứ quen lạ thân sơ, người đến chơi với mình thì mình là chủ, người ta là khách.
Khách đến chơi nhà phải có trầu nước khoản đãi. Tình nhạt nhẽo thì mòi ăn khẩu trầu, hút điếu thuốc, nói vài ba câu chuyện; mặn mà thì pha ấm nước chè hạt, hoặc chè mạn mời khách uống, thân quý hơn thì nước chè tàu, trầu cơ thiếc, ấy là lịch sự. Khách xa đến chơi, thân thiết thì thết đãi cơm rượu. Chỗ thành thị thì sẵn đồ xào đồ nấu, phong vận nữa thì mời ra cao lâu, ô ten; nơi quê mùa thì con gà, con cá, kiếm đồ gia vị, uống chén rượu chơi. Xa xôi lâu ngày mới đến chơi nhau thì mời lưu lại ở chơi một vài hôm, hoặc năm bữa nửa tháng.
Người làm quan, có khách đến thăm, bực sang trọng thì rượu chè rồi giở ra là tổ tôm, thuốc phiện, hát xướng, người thân thích họ hàng hoặc bạn kiết thì khách về phải tặng đãi ít tiền ăn đường, hoặc kiếm thức gì như chè thuốc, lụa nhiễu hay là đồ sản vật gì để làm quà cho bà con. Người nào thân tình thì tặng nhiều, người nào sơ tình thì tặng ít, thế nào cũng'phải có mới xong, nếu không có gì thì bà con cho là đồ bủn xỉn. Có khi anh em cùng kiết đến thăm rồi nhờ giúp cho ít tiền tiêu, cũng phải lượng tình mà chu cấp ít nhiều.
Ông thầy nào có học trò làm nên quí hiển, đôi khi thầy có lòng hạ cố, học trò phải thò phụng hết lòng, quĩ dị tất phải phong hậu.
Khách khứa qua lại chơi bời, cũng là một cách vãng lai thù tạc, không có thể khiết nhiên đi được. Mà người đã không có ai là kẻ qua lại thăm viếng, thì chắc nhân phẩm cũng chẳng ra gì. Song trò ở đời, nhân tình khản lãnh noãn, thế diện trục cao đê. Hễ người phú quý hiển đạt thì chẳng thiếu gì kẻ thăm người viếng, động khi nhức đầu sổ mũi cũng có kẻ quà bánh đến thăm, mà dẫu ở xa đến đâu, bà con cũng có lòng vồ vập. Còn người cùng kiệt thì chẳng mấy khi bà con rỗi công đến chơi được, dẫu ở gần nhau, nhưng cũng ít khi có câu chuyện gì mà đến. Có câu rằng: "Bần cư thành thị vô nhân vấn, phú tại sơn lâm hữu khách tầm", nghĩa là người nghèo ngay chôn thành thị, cũng không ai hỏi, người giàu dẫu ở rừng xa núi thắm cũng có người tìm, ấy là cái thói thường rất đáng khinh bỉ của thiên hạ.
Vả, khách đến thăm chủ nhà, ít khi vô cớ mà đến, và cũng ít khi vì nhớ nhau mến nhau mà đến, phần nhiều là có lòng yêu cầu gì mới lấy nê đến thăm mà nói chuyện, phi giật mượn thì là nhờ làm ơn việc gì. Cũng nhiều người tính hay quấy quả anh em, không giúp thì sinh ra hiềm khích, mà giúp mãi thi lấy đâu được.
Song cái tình của người chủ nhà đối với bà con khách khứa thì cũng nên lượng cái sức mình và tùy cái tình người mà khu xử cho một vừa hai phải mới là phải đạo. Chớ thấy anh em đến chơi có ý nhờ vả mà đem lòng khinh bỉ thì lại là một người bạc tình. Còn như người nhờ trời làm nên giàu có phú quý, động thấy bà con anh em đến thăm thì sợ người ta kéo cúi, phải thác việc này việc khác để cho người ta khỏi quấy đến mình, người ấy lại là người biển lận đáng khinh lắm.
VI. CHỦ NHÀ, NGƯỜI Ở
Nhà phong lưu nuôi đến ba, bốn đày tớ, nhà phú quý có khi nuôi đến vài chục người. Đầy tớ trai dùng đế hầu hạ sai khiến gọi là thằng cam, thằng quýt, thằng nhỏ, dùng để thổi nấu gọi là thằng bếp. Ở nhà quê cứ đến mùa cày cấy thì mới nuôi dê làm ruộng, gọi là kẻ đi ở mùa. Đầy tớ gái có tuổi gọi là vú già ; người trẻ tuổi nuôi cho con bú gọi là vú em, những đứa nuôi để hầu hạ đàn bà gọi là con nhài, con mụ.
Bọn đầy tớ toàn là kẻ nghèo khó mới đi ở, tùy chủ nhà chi công tháng hoặc nuôi ăn, nhiều ít thế nào, miễn là đôi bên bằng lòng thì thôi.
Đầy tớ ở với chủ nhà phải thực thà, phải siêng năng, phải trước sau một lòng, mới là có nghĩa. Mà chủ nhà với đầy tớ thì nên ở cho có lượng khoan dung nhân từ, đừng cay nghiệt quá, đừng hành hạ quá. Khi kẻ ăn người ở có tật bệnh thì cũng nên trông nom thuốc thang cho nó, chớ đừng nên như câu tục ngữ : "Khỏe mạnh thì ở cùng bà, đau mình sốt mẩy đi ra ở cầu". Khi nó có công việc hoặc có hoạn nạn gì thì nên giúp đỡ cho nó ít nhiều. Nó có lỗi, ta mới quở mắng, trừng trị, nếu lỗi nhỏ thì nên ngơ đi cho nó, thế mới là lượng kẻ cả bao dung.
Đầy tớ là kẻ chẳng may cơ cùng sa sút, mới phải đi ở với mình, thì mình, làm chủ nhà, phải có lòng thương, chớ đừng nên khinh quá, mà ngược đãi làm chi. Lời phương ngôn: Mất tiền mua mâm, bà đâm cho thủng, mất tiền mua bát bà đập cho tan, là một điều rất ác nghiệt, chớ nên bắt chưốc lời đó.
VII. DÂU GIA
Hai nhà có con lấy nhau gọi là dâu gia, hoặc là thông gia. Dâu gia vì tình con mà có nghĩa liên can với nhau. Khi dâu gia có người mất, ở thành thị thì phúng nhau bằng vàng hương câu đổì, ở thôn quê phúng nhau bằng sỏ lợn mâm xôi. về sau người dâu gia khác mất, thì người ăn thừa tự của người dâu gia trưốc phải phúng, gọi là phúng trả nợ thay cho cha mẹ.
Nếu người nào lấy con gái mồ côi, không còn cha mẹ nào, thì nhà trai đốì với anh em người con gái, cũng gọi là thông gia.
Dâu gia nhiều ngưòi rất quí mến nhau. Khi hoạn nạn cũng cứu giúp nhau, mà cũng nhiều người vì nghe lời con mà sinh ra ghét nhau, có khi vì con mà thưa kiện nhau nữa, thế là dâu gia hóa ra oan gia.
Dâu gia không có tình thâm nghĩa trọng với nhau gì mấy, nhưng vì con mà sinh ra tình nghĩa, thì thương yêu con bao nhiêu nên quý trọng đến dâu gia bấy nhiêu. Còn như con cái chẳng ưa nhau, về nhà thêm đặt lời này tiếng khác thì nên cho là kẻ non ngưòi trẻ dạ mắng bảo cho con chứ đừng nên nghe lòi con mà mếch lòng người lớn.
Vả lại dâu gia cũng tất là người đồng thanh đồng khí vối mình, xưa nay hẳn cũng đi thân thiết với nhau mà dẫu chưa biết nhau bao giờ nhưng chắc cũng là xứng đáng với mình, thì mình có lẽ nào vì lời con mà bỏ tình cũ được.
Lạ gì mẹ chồng nàng dâu, có tài nào mà giữ cho khỏi điều này tiếng nọ mà nghe con gái bù lu bù loa, ít xít ra nhiều có điều gì mà chắng về mách với mẹ. Đàn bà lại hay nhẹ dạ thấy con khóc nức nở là thương. Đàn ông lại hay nghe vợ, nghe vợ nói thì cho là thực rồi nhân thế mà dâu gia oán ghét nhau. Vậy không nên nghe lòi con làm gì, thì nghĩa mới trọn thủy chung.
VIII. NHO GIÁO
Nước ta sùng trọng nhất là Nho giáo. Nguyên ủy nho giáo lưu truyền kể cũng đã lâu: Bắt đầu từ vua Phục Hy chế ra bát quái, vua Hạ Vũ dựng ra cửu trùng, đã là gốc triết học của nho giáo. Điển, mô, huấn, cáo là những lời khuyên răn của Đại Vũ, Cao Dao, Y Doãn, Phó Duyệt, đã là gốcc luân lý học của nho giáo, Nghiêu, Thuấn đặt ra điển hình. Châu Công chế ra lễ nhạc, đã là gốc chính trị học của nho giáo.
Đến đời Xuân Thu có Đức Khổng Phu Tử, ngài góp nhặt các lời lẽ, văn chương của các tiền thánh để dạy thiên hạ, từ đó mới thành lốĩ học riêng gọi là nho giáo. Mà muôn đời về sau, ai ai cũng suy tôn Ngài là Tiên Thánh, Tiên Sư.
Ngài húy là Khâu, biểu tự là Trọng Ni, Thánh phụ là Khổng Gia Phủ, tự là Thúc Lương Ngột, làm quan nước Lỗ. Thánh mẫu là Nhan Thị. cầu tự ở núi Ni Sơn mà sinh ra ngài. Ngài sinh ngày hai mươi bảy tháng tám năm Canh Tuất là năm thứ hai mươi mốt đời vua Linh Vương nhà Châu, trước Thiên Chúa giáng sinh 445 năm, sinh tại làng Xương Bình huyện Khúc Phụ, nước Lỗ.
Ngoại thư chép rằng: Khi ngài mới sinh, có năm ngôi sao hiện làm năm ông già xuống sân mà thăm ngài, lại có ba con rồng phủ quanh nhà. Lời ấy là lời tục truyền, chắc là của người suy tôn đạo Ngài, bày ra một điển linh dị, để phần biệt với người thường.
Hồi ngài còn nhỏ, hay chơi những đồ biển đậu (như các thức đèn nến trẻ con chơi). Ngài bẩm tính sinh tri, thiên tư rất thông minh. Học rộng kiến văn nhiều, biết thấu lẽ huyền diệu của tạo hóa. Vua nước Lỗ, nghe tiếng Ngài là bực hiền thánh dùng ngài làm quan Tư Khấu (coi việc hình) và đã dùng Ngài làm tướng, song chẳng bao lâu, vua nước Lỗ đam mê về vũ nhạc, trễ nải việc triều chính, Ngài can ngăn không được mới xin từ chức.
Từ đó Ngài đi chu du các nước chư hầu như: Tề, Vệ, Sở, Tông v.v... Ngài mong đem đạo học của ngài để cứu đời nhưng đi đến nước nào vua nước ấy cũng không biết tin dùng Ngài. Đến khi Ngài già, trở về nước Lỗ, mở trường học ở nơi Hạnh Đàn để dạy học trò. Ngài san định lại kinh thi, kinh thư, kinh dịch, kinh lễ, kinh nhạc, kinh xuân thu, gọi là lục kinh (sáu bộ sách). Ngài dạy người ta cốt nhất là những điều hiếu, đễ, trung, thứ, tu, tề, trị, bình, Hiếu để thờ cha mẹ cho có lòng thảo thuận, Đễ để ở với anh em cho có lòng hoà thuận, Trung để thờ vua cho hết lòng, Thứ để ở với người cho biết suy bụng ta ra bụng người. Tu là sửa cái nết trong mình, Tế là đạo tể gia, Trị là đạo trị nước, Bình là đạo trị thiên hạ.
Tám điều nói đó là tôn chỉ của đạo Ngài. Ngài lại dạy người ta lấy lục nghệ (sáu nghề). Lục nghệ là: Lễ (lễ nghi), Nhạc (âm nhạc), Xạ (phép bắn cung), Ngự (phép cưỡi ngựa), Thư (phép viết), Số (phép tính). Lễ tức là một cách để giao thiệp, nhạc để dưỡng tính tình, xạ, ngự tức là các thể thao, số tức là toán pháp.
Học trò Ngài đông tới ba ngàn người mà vào bực cao hiền được bảy mươi hai người. Trong bọn cao hiền lại duy có Nhan Hồi, Tăng Xâm là giỏi hơn hết.
Ngài thọ bảy mươi ba tuổi thì mất, bấy giờ là ngày mười tám tháng hai năm Nhâm Tuât là năm thứ bôn mươi mốt đời vua Kinh vương nhà Châu trước Thiên chúa giáng sinh ba trăm bảy mươi ba năm.
Ngài mất rồi, thì học trò lập đền thờ ngay ở chỗ nhà Ngài. Thầy Tăng Tử chép lời Ngài soạn ra sách Đại Học, các học trò ghi chép lời ăn nết ở của Ngài soạn ra sách Luận ngữ, để truyền đạo giáo của Ngài. Kế đến cháu Ngài là thầy Tử Tư soạn ra sách Trung Dung, cách đời Ngài một trăm mười năm lại có thầy Mạnh Tử soạn ra sách Mạnh Tử cũng toàn là phát minh thêm đạo Ngài, để truyền bá đi thiên hạ mà dạy người.
Từ đó thì đạo Nho mỗi ngày lưu truyền một rộng. Đến đời vua Cao Tổ nhà Hán, mới lên ngôi vua, trước hêt dùng lễ thái lao (một con trâu, một con bò và một con dê) thân đến tế Ngài tại nơi nhà thờ. Các vua sùng đạo nho trước từ đây. Đến đời vua Vũ Đế, đặt quan Bác sĩ đem năm kinh của Ngài ra đê dạy thiên hạ (vì kinh Nhạc đã mất từ khi nhà Tần đốt sách, cho nên chỉ còn năm kinh). Lại chuyên tôn đạo Khổng Tử mà bỏ các sách vở của các nhà (như Lão Tử, Trang Tử, Dương Tử, Mặc Tử, v.v...) vì thế đạo nho lại thịnh hơn nữa, mà từ đó mọi cách chính trị, đạo luân lý, khoa triết học của Tàu, nhất thiết đều tuân theo đạo nho.
Trên thì có nhà vua tôn sùng, dưới thì có các nhà hiền triết đặt ra lời bàn câu nói, soạn ra sách nọ sách kia, đều để phát minh thêm cái nghĩa đạo nho. Như là nhà Hán thì có Đổng Trọng Thư, Giả Nghị, Lưu Hướng, Trịnh Khang Thành; nhà Đương thì có Hàn Dũ, Liễu Tôn Nguyên, Trương Hoành cử, Chu Khảo Đình v.v... Các bậc ấy đều là danh nho một đời, có công duy trì đạo thống rất nhiều.
Nguyên, Minh trở về sau: đạo nho lại càng thịnh hành. Quận ấp nào cũng có miếu thờ ngài gọi là Văn miếu. Đâu đâu cũng tôn Ngài là Chi thánh tiên sư.
Nho giáo thịnh hành ở Trung Quốc rồi truyền gần khắp phía Á Đông mà nước ta từ lúc nội thuộc nhà Hán, người Trung Quốc như ông Sĩ Nhiếp, ông Tích Quang đã đem đạo nho mà rải rác sang nước ta. Đến đời vua Thánh Tôn nhà Lý mới lập Văn miếu (tức đền Giám Hà Nội bấy giờ) thờ Tiên thánh ; thờ kèm thầy Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử, gọi là Tứ phối bọn thầy Tử Công, Tử Hạ cả thảy mười người, gọi là thập triết. Ở ngoài hai bên tả mạc hữu mạc, thì thờ các vị cao hiền và thờ các bậc tiên hiền tiên nho từ đòi nhà Hán, Đường cho đến nhà Nguyên, Minh. Các người ấy toàn là người Tàu, người nước ta thì sau mới thờ thêm ông Chu Văn An là người làng Thanh Liệt, huyện Thanh Trì ở vê đời nhà Trần.
Văn miếu là một nơi duy trì đạo thông cho trong nước. Vua mỗi năm hai kỳ xuân thu dùng trọng lễ thân ra tế để tỏ lòng tôn sùng đạo Ngài. Lại dùng kinh truyện để thi học trò, dùng nho thuật để trị thiên hạ. Các đời vua về sau mỗi ngày mở mang thêm sự văn hóa thì đạo nho lại mỗi ngày một thịnh thêm.
Vài chục năm nay nước ta tiêm nhiễm lối Ầu học, xem ra nhiều ý tưởng cao lạ, và nhiều sự thực nghiệm. Đạo nho tuy cũng còn nhiều người sùng mộ, nhưng cũng nhiều người tùy thời mà theo về lối Âu châu. Mà trong việc học hành chữ nho cũng không được thịnh như trước nữa. Ớ Sài Gòn thì bây giờ không còn mấy người tinh thông chữ nho, ở Bắc ta có lẽ vài chục năm nữa cũng vậy. Ấy cũng là một cơ hội xoay đổi quan hệ đến vận nước hay dở mai sau.
Đạo nho là một đạo bình thường giản dị, thuận lẽ tự nhiên của tạo hóa, và hợp với tính tình đương nhiên của người ta, ai cũng có thể noi theo được. Người mà có nho học, thì nên một người có nết na, có phép tắc, có lòng nhân ái. Nước mà dùng nho đạo, thì nên một nước có kỷ cương, có thể thông dễ cho việc cai trị.
Duy có một điều : triết lý thì nhiều điều viển vông, mà khiến cho người ta khó hiểu, thủ lễ thì lắm sự câu thúc mà khiến cho người ta khó theo. Tính tình thì chuộng một cách êm ái hòa nhã, khiến cho dân khí nhu nhược, không được hùng dũng hoạt động như tính người Âu châu, nhu dụng thì chuộng một cách tiết kiệm tầm thường khiến cho kỹ nghệ thô sơ, không được tinh xảo phát đạt như các nước Thái Tây. Nói rút lại thì đạo nho là một đạo tự trị thì rất hay, mà đem đối với đời cạnh tranh thì không mạnh. Còn như các thói hủ bại phần nhiều là bởi tự ngưòi làm nên tệ.

IX. PHẬT GIÁO
Phật giáo do ở đạo Bà La môn mà ra, nguyên trước Thiên chúa giáng sinh, dân tộc Á Lợi An tràn vào đất Ân Độ, ở rải rác một dọc sông Hồng Hà, dựng ra thành nhiều nước nhỏ. Dân từ đó chia ra làm bốn bậc người : bậc thứ nhất, gọi là Bà la môn, có bọn thầy tu làm chủ, coi riêng việc tế tự, bậc thứ nhì gọi là Lý đế lợi, các quý tộc làm chủ, coi về quyền chính trị, bậc thứ ba gọi là Phệ xá tức là hạng bình dân, bậc thứ tư gọi là Thủ đá chỉ làm nô lệ mà thôi.
Đạo Bà la môn vẫn thông hành ỏ xứ đó. Đến sau có ông Thích ca mâu ni, thấy bọn thầy tu đạo Bà la môn sinh lắm điều tệ, và lại thấy người ta ai cũng ở trong vòng luân hồi, chịu những cảnh khổ não, như là : sinh, lão, bệnh, tử là bốn cái kiếp khốn nạn, vì thế chán đời mà cầu một phép để giải thoát cái khổ não ấy, mới dựng ra một tôn giáo riêng gọi là Phật giáo. Môn đồ về sau suy tôn ông ấy gọi là Phật Tô Như Lai.
Nguyên ông ấy họ là Thích Ca, tên là Cô Đàm (Gôlama) tự là Tất Đại Đa, con vua nước Ca Duy Vệ (một nước nhỏ trong nước Ân Độ) tên là Tình Phạm Đồ đầu gia, Phật mẫu tên là Tĩnh Diệm. Sách Phật nói rằng: "Bà mẹ chiêm bao thấy người vàng đầu thai, mà sinh ra Ngài". Lại có sách nói rằng: "Bà mẹ chiêm bao thấy con voi trắng sáu ngà, biến thành hào quang soi vào bụng, rồi có mang mười tháng, đến lúc sinh thì sinh ra đằng sườn phía hữu, tự nhiên có cái hoa sen nấy ra để đỡ ngài lên, lại có hai con rồng ở trên trời xuống trông nom săn sóc. Ngài màu da vàng, lông tóc dựng ngược. Sinh ra khỏi, Ngài bước đi bẩy bưốc, một tay chỉ lên tròi, một tay chỉ dưới đất mà thét lên rằng: "Trên thi trời, dưới thì đất, duy có ta là quý hơn cả". Lòi ấy chắc cũng là môn đồ bầy ra.
Ngài sinh bấy giờ là ngày mồng tám tháng tư, nhưng không tưòng về năm nào. Một môn phái ở phía Bắc Ân Độ, thì nói sinh về năm 1028 trước Thiên Chúa vào khoảng đời vua Chiêu Vương nhà Chu, một môn phái ở phía Nam Ân Độ thì cho vào chừng năm 624 trước Thiên Chúa, nhưng các nhà bác học thái tây bây giò thì cho vào chừng năm 558 hoặc 520; cùng một thời với Đức Khổng Tử.
Ông Thích Ca cũng đã lấy ba vợ, sinh được một con trai tên là La Hầu La. Năm hai mươi chín tuổi (đấy theo sách An Độ, chố sách Tàu thì nói năm mười chín tuổi) xảy thấy một người già yếu, tàn tật vào ăn xin, mới suy nghĩ ra đời người toàn là cảnh khổ, lập tức đêm ấy bỏ nhà vào rừng đi tu. Trước hết vào tu ở núi Đàn Đặc và núi Toàn Sơn, sau đến tu ỏ xứ Xá Vệ, ngày ngày mặc áo cà sa ngồi dưới gốc cây đê tĩnh niệm nghĩ cách giải thoát. Được bảy năm, xẩy tỉnh ngộ được đạo huyền diệu, tự xưng là Bồ Đà (bouddha) nghĩa là trong tâm tính đã sáng suổt cả rồi, từ bấy giờ mới đi truyền đạo.
Tục truyền ông ấy về sau ăn mỡ lợn, phát trưống mà mất ở nơi Câu Thi. Lúc gần mất, ông ấy nói rằng: "Nay ta đã lên cõi Niết Bàn, nghĩa là lên đến chỗ cực lạc thế giới".
Ngài mất rồi, các học trò soạn nhặt các lời di ngôn, tập lại thành sách, cả thảy bốn mươi hai chương, chia là ba quyến gọi là kinh Tam Tạng. Tạng nghĩa là chứa, vì các lời ngài chép ra chứa vào một chỗ, cho nên gọi là tạng. Tam Tạng:
1. Kinh tạng, là những lời luân thường đạo lý;
2. Luật tạng, là những lời trời cấm;
3. Luận tạng, là những lời nghị luận.
Mục đích đạo Phật chỉ có hai chữ hư vô là kiêm hết. Có câu rằng: "Hết thảy không có cái gì, chỉ vì cái nhân duyên mà sinh ra. Nay dẫu tạm có, nhưng bản tính vẫn là khộng. Người đời càn dở giữ lấy cho làm của mình có, cho nên Đức Như Lai ra đời, lấy một chữ vô mà phá cái hoặc ấy". Mấy câu ấy đủ rõ đạo Phật.
Đạo Phật chia trong cơ thê, gọi là Lục côn (sáu cái gốc) là :nhãn (mắt), nhĩ (tai), tị (mũi), thiệt (lưỡi), thân (mình), ý (ý tưởng). Các ngoại vật động tới cơ thế, gọi là Lục trần (sáu cái bụi) là: sắc (sắc đẹp), thanh (tiếng hay), hương (mùi thơm), vị (vị ngon), súc (chạm tới mình), pháp (tưởng tượng).
Lại có Ngũ giới (năm điều cấm) là : bất sát sinh (không được giết súc vật), bất đạo (không được trộm cắp), bất gian dâm (không được gian dâm), bất vọng ngôn (không được nói càn), bất ẩm tửu, thực nhục (không được uống rượu, ăn thịt).
Phép Phật lại có cách toạ thiền. Tọa thiền là người tu hành ngồi nhắm mắt ngoảnh mặt vào vách, tĩnh hết lòng trần dục, không nghĩ ngợi gì. Có bốn bậc :
1. Sơ thiền, không lo lắng.
2. Nhị thiền, không khổ não.
3. Tam thiền, rất vui sướng.
4. Tứ thiền, không phải chịu vòng luân hồi nữa.
Luân hồi là kiếp trưôc làm nhũng điều tội ác, thì chết xuống âm phủ phải chịu những tội khổ sở, rồi kiếp sau lại phải làm các giống súc vật, hoặc phải đày đọa những cảnh khô ải.
Dưới âm phủ có một trăm ba mươi sáu động là những nơi ngục hình làm tội người ác. Những lời ấy là cách để khuyên cho người ta làm thiện mà chớ làm ác đấy thôi.
Nói rút lại thì đạo Phật có hai chú ý: một là sự khổ não, hai là giải thoát sự khổ não. Khổ não là bởi sự luân hồi, thoát khỏi vồng luân hồi thì khỏi khổ, vậy thì bỏ hết lòng dục trói buộc ở trần thế, thì ra được ngoài vòng luân hồi rồi mới lên được cõi Niết bàn, nghĩa là lên cõi không không là nơi cực lạc thế giới.
Trên này nói đại khái nguyên ủy đạo Phật, còn đạo Phật thịnh hành ở Ấn Độ và truyền bá sang Tàu, sang ta, thì trong Việt sử yếu của cụ Quận Hoàng nói đã tương, nay xin nhắc lại mà dịch như sau này:
"Sau khi ông Thích Ca mất, học trò là Ma Kha Ca Diệp hội hết đồ đệ ở thành Vương Sá cả thảy năm trăm người, đó là lần thứ nhất Phật giáo hội tụ. Cách một trăm năm nữa. Gia Sá Đa lại họp đệ tử ở Đốn Sá cả thảy bảy trăm người, đó là lần thứ hai Phật giáo hội tụ. Tuy vậy trước sau trong ba trăm năm, Phật giáo lưu truyền, chỉ ở quanh một dải sông Hằng Hà. Đến đời vua Mao Lị Gia dựng nước ở giữa đất Ân Độ, hết sức mà chủ trì Phật giáo, thì Phật giáo mới lan khắp cả xứ Ân Độ. Trước Thiên Chúa hai trăm ba mươi bốn năm (năm thứ năm mươi bổn đời Châu Noãn Vương), vua Kế Ma đại hội ở Kinh Đô, duy lấy Phật giáo làm tôn chủ, bắt ép người trong nước phải theo, và sai bọn thầy chùa làm giáo sĩ, đi ra ngoại quốc mà truyền đạo: từ đó Phật giáo mới lan cả ra thế giới vậy.
Nước Tàu từ khi Ban Siêu (vào đời Hán Võ để) đi sứ Tây Vực trở về thì danh hiệu Phật ở phương Tây, mới thấu đến tai người Tàu. Năm Vĩnh Bình thứ tám đời vua Minh Đế nhà Hán (sau Thiên Chúa sáu chục năm), vua sai người Thái Tịch sang Tây Trúc cầu Phật. Thái Tịch mang kinh Phật và hai thầy tăng là Nghiệp Mã Đằng, Chúc Pháp Lan về Lạc Dương, vua sai lập chùa Bạch Mã để thờ Phật, về sau có bọn Chi Đầu Đà, Mã An Thế, Khang Mạnh Tường mới dùng chữ nho mà dịch kinh nhà Phật để dạy người Tàu, các ngưòi ấy toàn là ngưòi Ấn Độ đến ở Tàu.
Năm Long An thứ ba đời vua A Đế nhà Tần (402) có người Pháp Hiển qua chơi Ấn Độ, đi du lịch hơn ba chục nước, rồi tự Tích Lan đảo vượt bể Nam Hải, mà về nước. Năm Đại Thông đời vua Vũ Đế nhà Lương (532), người Phổ Văn và người Tuệ Sinh sang phía Bắc nước Ấn Độ, đem kinh Phật về nước. Năm Trình quân thứ ba đời vua Thái Tôn nhà Đường, thầy chùa là Huyền Trang đi men Tây Tạng sang Ấn Độ mua được kinh Phật sáu trăm năm mươi bản. Năm Hàm Thanh thứ hai đời vua Cao Tôn nhà Đường (726) thầy chùa là Nghĩa Tinh đi qua bể Nam Hải sang Ấn Độ, lấy được kinh Phật bốn trăm bản, ấy đều là người Tàu sang Ân Độ.
Đương khi nước ta nội thuộc, người Tàu tôn tín thì người nước ta cũng tôn tín, ấy gọi là chủ đi đường nào thì theo đi đường ấy. Xét khi nội thuộc nhà Lương, có người Lý Phật Tử, Lý là họ, Phật Tử là tên, chắc là tục cầu tự di truyền lại, mà thói mộ đạo Phật đã lâu chăng?
Xét ở cựu sử chép năm Thái Bình thứ hai đòi vua Tiên Hoàng nhà Đinh, vua mến đạo Phật, dùng người Ngô Chân Lưu làm Khuông Việt thái sư. Đời vua Đại Hành nhà Lê, sứ Tàu đến nước ta, bao nhiêu tờ bồi vãng lai đều do ở tay Khúông Việt. Sau vua lại sai sứ sang Tàu cầu kinh Tam Tạng, vậy thì Phật giáo truyền sang nước ta từ đó.
Vua Lý Thái Tổ là một vị vua chúa mà học thầy chùa là Vạn Hạnh ; ngưòi nước ta như Từ Đạo Hạnh, Khổng Lộ, Mẫn Giác, Lư Ân đều là bậc danh nho mà thâm thúy về Phật học. Từ nhà Đinh đến nhà Lý, dựng chùa tô tượng không lúc nào không có, vậy thì Phật giáo thịnh hành ở nước ta cũng đã lâu.
Song đương bấy giờ, các bậc danh công như ông Phạm Sư Mạnh, ông Lê Bá Quát cũng đã bài bác đi rồi. Đến đời Vua Lê Thánh Tôn, lại cấm dân không được lập chùa mới, vậy Khang giáo mỗi ngày một thịnh, thì phật giáo mỗi ngày một suy, cũng là cái thềm bậc Tiến hóa tự nhiên đó.
Xét đạo Phật lấy hư vô làm tôn chỉ, chủ ý rằng hết thảy chúng sinh nếu bỏ hết lòng ham muốn mà rũ sạch cái bụi đời bám vào mình, thì ngày sau mình được hưởng cái phúc hậu vô lượng. Cái mục đích ấy cũng cao, cái chủ ý ấy cũng lạ. Song hiềm vì đạo Phật bày ra lắm điều kỳ ảo, nào luân hồi, nào siêu thoát, nào hoạ phúc, nào nhân quả, nói toàn những mối dị đoan, làm cho lòng người mê tín, mà không ích cho sự thật cho nên đạo nho phải bác đi mà không cho là chính đạo.
Tuy vậy, Phật giáo cũng là một đạo giáo, người tầm thường vị tất đã hiểu thấu lý cao sâu của nhà Phật, thì cũng chớ nên bài bác khinh bỉ mà thành ra một người vô hạnh.
X. LÃO TỬ GIÁO
Lão Tử Giáo tức là đạo giáo. Lão Tử họ Lý, tên là Nhĩ, tự là Bá Dương thụy là Đam, người làng Khúc Nhân huyện Hỗ nước sở, sinh năm thứ ba vua Định Vương đời Đông Châu cũng đồng thời với Khổng Tử. Bà mẹ mang thai tám mươi năm mới sinh ra ông ấy, lúc sinh thì đầu đã bạc cho nên gọi là Lão Tử.
Lão Tử làm quan Trụ hạ sử đòi Châu, rồi thấy nhà Châu suy nhược bèn thôi làm quan mà đi ẩn.
Lão Tử thấy thời bấy giờ chuộng việc lễ nghĩa, nhiều điều vụn vặt, muôn uốn nắn lại cái tệ ấy, bèn soạn ra một bộ kinh Đạo Đức, cả thảy hơn năm ngàn câu nói, chủ ý cốt theo cách tự nhiên thanh tĩnh, không' cần phải làm gì, nghĩa là muốn việc cứ phó mặc tự nhiên, không cần phải lo lắng nghĩ ngợi, mới hưởng được sự khoái lạc tiêu diêu.
Sử ký chép rằng: Khổng tử hỏi lễ. Lão Tử đáp: "Người quân tử gặp thời thì đi xe, không gặp thời thì đội nón lá mà đi chân không. Ta nghe: Người buôn bán giỏi khéo chứa của, như người không có gì; người quân tử có đức tốt, coi diện mạo như người ngu. Bỏ cái khí kiêu căng và lòng ham muốn, cùng là cái sắc dục và cái dâm chí của người : ấy điều là vô ích cho mình ngươi cả".
Xem mấy lời đó thì đủ biết tôn chỉ của lối học Lão Tử.
Lão Tử không biết mất về năm nào. Sau có Liệt Ngữ Khâu soạn ra sách Lão Tử, Trang Chu soạn ra sách Trang Tử, cũng đều là lưu phái của đạo giáo.
Trung Quổc mãi đến đời Tấn, Ngụy thì lối học của Lão Tử mới thịnh hành. Trên từ vua chúa, dưới đến sĩ phu, ai ai cũng tôn sùng đạo giáo và tôn Lão Tử là Thái thượng Lão Quân..
Đạo Lão Tử truyền sang nước ta, cũng từ buổi nội thuộc ấy, Bây giờ sùng tín thế nào thì không biết. Song đến đời vua Đinh Tiên Hoàng sai Trương Ma Ni làm Tăng lục đạo sĩ, Lý Anh Tôn thì cho phép Trần Lộc lập ra Đạo nội trạng, ấy là cái chứng cớ của người nước ta sùng tín đạo giáo.
Đạo giáo tuy không thịnh hành như đạo nho, đạo Phật, nhưng các bậc cao nhân dật sĩ phần nhiều là tiêm nhiễm đạo giáo mà lĩnh hội được cái tinh thần. Phàm người phóng khoáng, người có mưu cơ, người biết nhẫn nhục, ngưòi ưa thanh tĩnh; người chán việc đời đều là hội được cái tinh thần của đạo giáo cả.
Còn cái hình thức bề ngoài, như các việc ma quỷ, thần tiên, kiêng khem cấm kỵ, nhương tai, kỳ phúc, thì ta tin theo cũng nhiều, nhưng bất cứ hạng người nào, ai tin thì tin không có đạo phái môn đồ nào ép buộc. Còn chính đạo phái môn đồ thì chẳng qua lác đác có mấy nhà phù thủy đạo sĩ mà thôi. Mà bọn này thì cũng chẳng qua theo thể thức cũ, bùa bèn ấn quyết, trừ ma trừ quỷ, dùng cách ấy đế làm nghề kiếm ăn trong vòng hạ lưu xã hội, chớ kỳ thực thì không biết tôn chỉ đạo giáo là gì.
Đạo Lão Tử cốt lấy thanh tĩnh tự nhiên làm tôn chỉ, cái ý tưởng ấy rất cao xa, không phải người tầm thường hiểu thấu được. Người ta có biết đích xác được cái thân là cái nguồn khổ sở, cái trí khôn là cái gốc phiền luỵ, thì mới biết được cái tôn chỉ ấy là cao; lại phải xét cho thấu hết việc đời, hiểu cho rõ hết tính người, đem một tấm lòng nhạt nhẽo hư không mà giao thiệp với đời, không có một sợi tơ sợi tóc nào vương vít đến trưốc mắt, thì mới biết được đạo ấy có một cái thú ung dung, nhàn nhã, sung sướng, khoan thai. Còn các việc đời tùy xảy đến việc gì thì ứng đối việc ấy không cần phải khó nhọc hơi sức, lao tổn tinh thần, dùng cái lẽ tự nhiên mà thù ứng các việc 'tự nhiên mà đâu ra đây cả.
Vậy thì đạo ấy cũng là một lối học rất cao; một ý tưởng rất lạ, không dễ mà bỉ bác được: Duy học theo đạo ấy thì phàm việc gì cũng cho là phù phiếm hư không, chỉ biết nhàn thân sướng riêng lấy một mình, mà không thiết tưởng gì đến đời, cho nên đạo nho cũng bác đi mà không cho là chính đạo.
Còn cái lưu phái đạo Lão Tử, về sau biến ra thành lối thuật số, cách tu luyện, đạo phù thủy, thì là các môn đồ đạo phái nhân trong tôn chỉ mà suy diễn ra, toàn là các mối dị đoan, làm cho dân trí hư hoại, không có ích gì cho sự thực dụng.
Nước ta bây giờ tuy không có môn phái đạo Lão Tử, nhưng cái tính mê tín dị đoan thì tiêm nhiễm đã lâu, cũng là bởi đạo ấy di truyền lại. Mà lòng người mê tín dị đoan, thì lại là bởi không hiểu đến tôn chỉ của đạo ấy. Chớ nếu hiểu được tôn chỉ thì dầu chẳng được như Thánh nhân hưng công lập nghiệp, nhưng cũng làm nên một bậc người chí hướng cao kỳ, tiêu diêu ở ngoài cõi phong trần. Vậy ta chớ nên vì mấy bác thầy cúng, mấy kẻ tin dị đoan mà vội khinh bỉ đạo Lão được.
XI. GIA TÔ GIÁO
Đạo Gia Tô gốc ở Do Thái mà ra. Nguyên dân Do Thái (Juifs) ở về phía tầy Tiểu Á Tế Á, xưa nay vẫn sùng phụng một vị thần Jehovah. Dân tin rằng thần Jehovah sáng lập nên trời đất và tạo thành ra muôn vật, sau lại tạo ra người theo như hình dung của thần, đàn ông thì gọi là Adam, đàn bà thì gọi là Eva, cho ở vườn cực lạc để cai quản các giống thú vật và được ăn các thứ quả, chỉ trừ ra không được ăn quả cây táo của thần cấm mà thôi. Đến sau, quỷ thấy người được sung sướng, mổi xúi Eve ăn quả cầy táo và đem cho chồng ăn nữa. Khi ăn rồi mối biết mình trần truồng là xấu xa. Đên lúc thần lại thăm vườn thì người ấy chạy đi trốn. Thần giận bèn đuổi người xuông phàm trần, để cho chịu những điều cực khổ, nhưng lại hứa rằng sau sẽ sai ngưòi xuống chuộc tội cho.
Ấy là những sự tôn tín của dân Do Thái. Dân Do Thái bị dân Ai Cập (Egypte) áp chế bắt đi làm nô lệ, chịu nhiều điều cực khổ. Mãi về sau mới có một ngưòi tên là Moise đem dân về xứ Gia lộ tát lĩnh (Jérusalem) làm đền thờ thần Jehovah mà theo giữ lời thập giới. Có một đảng thầy tu giữ đền và cải quản dân. Trong bọn thầy tu thường có những người tiên tri gọi là Prophète, bảo dân Do Thái rằng : thần Jehovah sắp sai người xuống chuộc tội cho dân và cho dân được vinh hiển hơn dân khác.
Sau các thầy tu gọi là bọn Pharisiens cứ vin tiếng thần ra đê làm điều bậy bạ và ăn hiếp dân, bấy giờ mới có Đức Gia Tô (Jésus) ra đời, cải lương đạo khác, gọi là đạo Thiên chúa.
Cứ theo sách của bác sĩ Âu Châu thì Đức Gia Tô sinh tại thành Nã Tát Lặc (Nazaretb) là một tỉnh nhỏ ở xứ Gia Lị Lị (Galliée) ở đông Thổ Nhĩ Kỳ (tức là Tiểu Á Tế Á) vào chừng năm Nguyên thủy đời vua Hiếu Bình nhà Hán. Lịch tây kỷ nguyên, bắt đầu ngày từ năm ấy.
- Sách bác sĩ lại nói: Phụ thân Ngài là Joseph, mẫu thân Ngài là Maria, và Ngài cũng có nhiều anh em. Nhưng cứ lời tục truyền thì bà Maria cảm thần mộng mà sinh ra Ngài, mà ông Joseph là cha nuôi mà thôi. Tính ngài rất thông minh, trước học theo đạo Do Thái, sau thấy bọn thầy tu làm nhiều chuyện bậy bạ hại dân thì mới lập ra môn đạo khác để cứu đời. Mục đích đạo Thiên Chúa thì chỉ cốt dạy người ta lấy sự yêu mến tôn kính đức Thiên Chúa làm gốc, mà sự thò kính cốt ở
trong lòng không cần gì trang sức bề ngoài. Đối với người ta thì cốt giữ bụng từ bi nhân thứ, coi nhau như anh em ruột một nhà, mà ai ai cũng bình đắng cả.
Môn đồ tin theo mỗi ngày một đông. Bọn thầy chùa đạo Do Thái sợ mất quyền lợi, mới xui quan La Mã làm hại, song dẫu đức Gia Tô bị hại mà người tin theo lại càng nhiều. Sau này các môn đồ lại đem đạo ấy mà truyền bá đi các nơi. Ông Saint Pierre thì sang truyền giáo bên La Mã, ông Saint Paul thì sang truyền giáo bên Hy Lạp, rồi rải rác đi khắp nơi, ai ai cũng tôn Ngài là con của Thiên Chúa, thay cha mà xuông cứu dân.
Trong khoảng đệ ngũ thế kỷ, các nước bên Âu châu tôn tín đạo Thiên Chúa rất thịnh. Mở ra một tòa Giám đốc tại kinh đô La Mã mà công cử một người làm Giáo Hoàng để coi việc giáo. Từ đệ thập thế kỷ trở về, các nước có việc gì to cũng phải xin phép đến Giáo Hoàng. Các vua nối ngôi, được Giáo Hoàng làm lễ gia miện (đội mũ) cho là vinh hiển lắm. Mà quyền chính trị cũng về tay Giáo Hoàng.
Vào hồi thập lục thế kỷ, có người Nhật Nhĩ Man tên là Má Đinh Lộ Đắc (Martin Luther) và người học trò tên là Ưóc Hàn Gia Nhĩ (người Pháp) dựng ra môn giáo mới để phản đối vói đạo Thiên Chúa, vì thế trong tôn giáo phân ra làm hai đàng đánh nhau chết hại rất nhiều. Giáo Hoàng khi ấy quyền hành không mạnh bằng khi trước, mới tìm cách để truvền đạo ra hoàn cầu.
Đạo Thiên Chúa truyền sang nước ta, kể cũng đã lâu. Cứ trong Quốc sử chép thì đời Nguyên Hòa nguyên niên nhà Lê (1523), người nước Hà Lan tên là I Nê Khu, mới bắt đầu đến các địa phương Nam Chân, Dao Thủy (thuộc tỉnh Nam Định) giảng đạo Thiên chúa. Ở sách Tây thì chép rằng: các thầy Dòng bên Âu Châu năm 1615 đến xứ Nam kỳ. 1626 thì đến xứ Bắc kỳ; các thầy ấy là người nước Pháp, nước Tây ban Nha và người nước Nhật Nhĩ Man.
Vậy thì đạo truyền sang nước ta, chắc là bắt đầu là người Hà Lan, mà người các nước là tiếp theo đến sau để truyền giáo cả.
Trong năm 1765. Giáo hội cử thầy Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine) sang giảng giáo ở các miền Xiêm La, Tây Trúc, Cao Man. Năm 1780 thì thầy Bá Đa Lộc đến miền Biên Hòa, dựng nên nhà thờ để giảng đạo. Năm 1783 Gia Long bấy giờ là chúa Nam kỳ, nhân vì đánh nhau với Nguyễn Huệ bị thua phải tránh nạn, gặp Bá Đa Lộc ở Cà Mau, nói chuyện với nhau vui lòng lắm. Gia Long mới cậy Ngài đem Hoàng tử cảnh về cầu cứu bên nước Pháp.
Đến đời Thiệu Trị, Tự Đức thì nước ta nghiêm cấm người theo đạo Thiên Chúa, song chẳng bao lâu vì chuyện ấy mà gây nên mối hiềm khích cho nước Pháp. Từ lúc vua nước ta và nước Pháp lập hòa ước thì đạo Thiên Chúa lại thịnh hành ở xứ ta.
Qui thức của người theo đạo 'Thiên Chúa, mỗi ngươi phải đeo một bộ câu rút, ở nhà thì thờ tượng Thiên Chúa và cây Thánh giá hình như chữ thập (+), tức là một thứ hình cụ khi Đức Chúa bị nạn thay tội cho trần gian. Đeo vào mình đế làm một sự kỷ niệm cho lúc nào cũng trông thấy công đức của Chúa.
Mỗi ngày trước khi hai bữa ăn cơm và lúc đi ngủ lúc mới thức dậy, phải chỉ tay lên trán, hai vai và ngực gọi là làm dấu, rồi tụng một bài cầu nguyện, nghĩa là chúc tụng công đức của Thiên Chúa mà cầu Chúa cho mình được cái lòng yêu mến Ngài mãi mãi. Mỗi một chủ nhật và ngày lễ thì các người có đạo phải đến nhà thờ quỳ trước tượng Thiên Chúa mà cầu kinh, đoạn rồi vào một nhà riêng quỳ trước mặt ông cố mà thú tội. Ông cố ban cho ăn một miếng bánh thánh cho được gội nhuần ơn Chúa.
Người theo đạo chỉ được phép lấy một vợ một chồng. Khi mới cưới, vợ chồng phải đem nhau đến nhà thờ làm phép cưới, ông cố chúc cho một vài câu rồi rảy nước phép mà rửa tội cho. Khi sinh con, khi chết, cũng đều đem đến nhà thờ rửa tội.
Mỗi năm có ngày thứ tư gọi là ngày vào mùa (Cendres) và một ngày chủ nhật gọi là ngày ra mùa (Pâque). Trong khoảng hai ngày ấy cả thảy bốn mươi ngày thì nhà theo đạo cứ ngày thứ tư và thứ sáu phải ăn chay (kiêng thịt, còn cá và trứng thì ăn được). Nghĩa là trong những ngày Đức Chúa bị nạn thì phải kiêng kỵ, đến ngày ra mùa là ngày Phục sinh thì mới thôi. Còn quanh năm thì thường ngày thứ sáu bao giờ cũng phải ăn chay.
Mỗi năm về ngày hai mươi lăm tháng Décembre là ngày sinh nhật Đức Chúa thì các nhà thờ làm lễ Noel, ngày mười lăm tháng Aout là ngày thánh Mẫu lên trời thì các nhà thờ làm lễ Assomption. Người có đạo đến lễ đông lắm. Lại có một ngày nhà thờ rước đi quanh phố, gọi là lễ Fête Dieu, rước vui lắm.
Người đi tu chia làm hai thứ: một thứ vào nhà tu, chỉ chuyên nghề tụng niệm suốt cả đời, mà cách ăn ở thì rất khổ hạnh. Một thứ thì phải học cho giỏi khoa thần học và biết đủ mọi lễ nhà thờ, ai thi đỗ thì mới được phép làm lễ ở nhà thờ và được cử đi làm cố, làm giám mục v.v....
Nước ta khi trước rất mộ nho giáo, mà nho giáo thì trọng nhất là việc tế tự, thấy đạo Thiên Chúa chỉ sùng bái riêng một thần, ngoại gia không lễ bái gì nữa, cho nên coi là đạo phản đối mà sinh ra lắm sự tàn ngược. Song cứ xét cái chủ ý của đạo Thiên Chúa thì chỉ cốt khuyên người ta phải thương yêu nhau, củng chẳng khác gì lòng nhân thứ của đạo nho, lòng từ bi của đạo Phật. Vậy mới biết Thánh nào cũng vậy, cũng chỉ dạy người ta lấy sự làm lành mà thôi. Người ta không xét đến nơi đến chốn mà cứ thây lạ tai lạ mắt thì đem lòng hiềm nghi lẫn nhau, chẳng qua chỉ gây nên mối họa loạn, mà hại lẫn nhau thực là điều trái với tôn chỉ của đạo giáo mình cả.
Vả lại lòng tin tưởng của người ta nên mặc cho người ta được tự do, sao nên lấy ý riêng của mình mà ngăn cấm, ấy lại là trái với lẽ công bằng nữa.
Bây giờ thì nước nào cũng đã rõ cái lẽ tự do tôn giáo, đạo thịnh hay suy chỉ cốt bởi lòng người tôn tín nhiều hay ít, chớ không còn thói ghen ghét nhau như xưa nữa.
XII. CHÍNH TRỊ
Chính trị nước ta xưa nay tường đủ ở trong quốc sử và trong hội điển, nhưng cũng xin nói qua ra đây một đôi chút, gọi là cho đủ mặt hàng.
Chính thể xưa kia là một lối chính thể chuyên chế, quyền chính trong một nước do tự triều đình thi thố, chớ dân không phép nào được dự biết đến. Trên thì có vua là chủ trương mọi việc, ở giữa thì có văn võ trăm quan phò tá. Ở ngoài thì có các quan tỉnh, phủ huyện thi hành, ở dưới cùng thì có hàng tổng lý thừa lệnh quan mà làm việc. Còn dân thì chỉ biết tuân theo lệnh cấm mà thôi.
Quan chế - Từ chánh nhất phẩm cho đến tùng cửu phẩm, chia làm chín phẩm mười tám cấp, có phẩm phục phân biệt trên dưối, ai có công thì được thăng hàm thăng trật, ai có lỗi thì phải giáng cấp hoặc là truất quan.
Binh chế - Năm người gọi là một ngũ, mười người gọi là một thập, năm thập gọi là một đội, năm đội gọi là một cơ hay là một vệ. Mỗi đội có bốn đội trưởng, bốn ngũ trưởng, một thơ lại; mỗi cơ có một chánh quân cơ, một phó quân cơ, một điền ty, mười suất đội. Vệ thì có một chánh vệ uý và một phó vệ úy, còn cũng như cơ.
Binh ở kinh chia làm ba hạng: thân binh, cấm binh, tinh binh. Binh ở các tỉnh ngoài thì tùy tỉnh to nhỏ mà đặt nhiều ít cơ vệ, mà mỗi tỉnh lại có quân hiệu riêng. Ví như Hà Nội thì gọi là cơ chấn, cơ định. Nam Định thì gọi là cơ cường, cơ tiệp, Hải Dương thì gọi là cơ kiên, cơ duệ, Sơn Tây thì gọi là cơ hùng, cơ dũng v.v...
Binh thủy chỉ chuyên việc phòng ngự các nơi cửa bể, hoặc đánh thủy, hoặc coi việc vận tải. Binh bộ thì coi về việc đánh bộ và phòng ngự các nơi đồn ải. Binh kỵ thì duy trong kinh có hai vệ gọi là khinh kỵ, phi kỵ mà thôi.
Khi có việc giặc giã, triều đình sai phái cơ vệ thuộc tỉnh nào đi dẹp giặc thì cơ vệ ấy phải làm lễ tế binh gia tổ sư rồi mới cất quân đi. Nếu có giặc to, cất đại binh đi đánh thì phải đợi cho các đạo họp đủ tại nơi quân thứ, trước hết bày đàn, dàn cắm cờ giáo chung quanh, ông chủ tướng mặc đồ nhung phục lên đàn làm lễ, các tướng tá đều phải nhung trang vào lạy, gọi là tế cờ. Tế xong, chủ tướng đọc mấy lời thệ quân, rồi cất quân đi. Lúc đánh giặc, hễ được trận, lập tức đưa tin báo về kinh, gọi là hồng kỳ cáo tiệp (cờ đỏ báo tin mừng). Đợi khi nào triều đình ban cho dụ chỉ rút quân thì mới đem về, gọi là khải hoàn, về đến nơi mở tiệc khao thưởng tướng sĩ, gọi là ẩm chí. Nếu khi nào có việc quan thiệp với địch quốc thì thiên tử ban cờ kiếm, tướng ấn đến cho một đại tướng để thay vua đi đánh gọi là khâm sai. Khi thắng trận trở về, nộp trả kiếm ấn và nộp tù giặc thì Thiên tử họp trăm quan ăn mừng, ngài thân rót chén rượu để an úy công lao đại tướng. Ai được như vậy rất là danh giá vinh hiển. Tục có câu rằng: thứ nhất đẻ con trai, thứ hai đi đánh giặc có ý trọng về sự lập quân công vậy.
Việc tế tự - Tế tự thì trọng nhất là lễ Nam giao (tế trời đất), tế tôn miếu (tế tổ tôn nhà vua) và tế giám (tế Đức Khổng Tử). Các lễ ấy Thiên Tử thường phải thân vào chủ tế. Còn các đền miếu khác, tuy cũng thuộc về quốc tế nhưng sai quan đi mà thôi. Mỗi một vị Thiên Tử lên ngôi hoặc Thiên Tử gặp khánh tiết nào đàm ân thì phong tặng cáo sắc cho các bách thần. Khi có việc kỳ tình đảo võ hoặc việc gì cần đến kỳ đảo thì Thiên Tử thân tế, hoặc sai quan đến tại đền Linh ứng nào mà kỳ đảo, hễ kỳ đảo hiệu nghiệm thì có lễ tạ hoặc phong thêm chữ mỹ tự cho bách thần.
Tài chính - Thuế đinh, điền thổ gọi là chính ngạch. Thuế quan tân, thị độ gọi là ngoại ngạch - Việc chi thu không mấy cho nên dân gian đóng góp nhẹ nhàng dễ chịu, nhưng cũng vì ít tiền công khố mà muôn việc không việc gì chỉnh đốn theo được cách văn minh.
Hình luật - Chia làm năm bực thụ hình là tử, lưu, đồ, trượng, xuy. Tử là tội phải chết, lưu là tội phải đày, đồ là tội phải giam, trượng là tội đánh trượng, xuy là tội đánh roi. Trong năm bực lại chia làm hơn ba trăm điều, tùy theo tội nặng nhẹ mà gia giảm, dân gian không có phép được xem luật, nghĩa là sợ dân biết luật thì dễ sinh thói gian, cho nên cấm mà không cho chứa sách luật. Song cũng vì đó mà dân quê dễ phạm tội.
Công chính - Công chính là việc tạo lập đền đài thành quách, và sửa sang đồ quân khí, chiến thuyền. Khi có việc tạo tấc gì, quan Công bộ phải trù tính trước, xem dùng hết bao nhiêu vật liệu và chi phí bao nhiêu tiền rồi giao cho quan nào đứng hưng công, cứ số ấy mà dùng, không được hơn kém. Lắm khi quan Công bộ tính làm một cái đền, hết bao nhiêu tiền, bao nhiêu gạch, bao nhiêu gỗ, bao nhiêu vôi, bao nhiêu công thợ, rồi quả nhiên như thế cả.
Cách dùng người - Dùng người trọng nhất là do chân khoa cử, mới gọi là chính đồ. Còn người do chân tập ấm, do chân võ biện, do chân lại điển đều cho là tạp lưu. Cho nên ông quan nào có chân đỗ hoàng giáp, tiến sĩ, cử nhân, làm quan vẫn có danh giá hơn người khác; còn người không có khoa mục, dầu làm to thế nào mặc lòng, thiên hạ vẫn không tôn quý gì lắm.
Cách giáo dục - Ở kinh thì có quan Tế tửu, quan Tư nghiệp để dạy những hạng cử, tú, ấm sinh, giám sinh, ở các tỉnh ngoài thì có Đốc học, giáo thụ, huấn đạo để dạy học trò trong nước, cách dạy thì ngoài khoa văn chương, khoa luân lý không còn có khoa học nào nữa.
Thôi nói qua mấy điều đại cương, còn muốn tường cứu thì phải xem đến quốc sử mới biết.
Xét cách chính trị của ta, từ khi Ngô Quyền chế ra Triều nghi. Đặt ra trăm quan rồi dần dần về sau mỗi khi lại bắt chước Tàu mà sửa sang thêm một ít, kể ra thì lối cai trị cũng đã đủ, điển hình pháp độ chẳng thiếu cách nào. Song xét cho kỹ thì phần nhiều còn là cẩu thả giản lược chưa đến tinh vi, mà so với chính cách văn minh thì còn khiếm khuyết nhiều điều. Từ khi có nhà nước bảo hộ chỉnh đốn lại các điều hủ bại, bổ thêm vào các khuyết điểm thì đã dần dần đem nước lên bậc phú cường, sánh với khi xưa đã thấy khác nhiều lắm. Kìa như binh chính thuở trước, một năm mới có một lần ứng điểm, ngọn giáo để rỉ quên không đánh, tên lính bắn khẩu súng không nên, lúc binh thời thì bán phòng, lúc ứng điểm thì mượn người đi thế, biết bao nhiêu thói hủ bại, nay lúc thử coi đội lính tập, nghe tiếng kèn tiếng trống, trong lúc đứng đi hùng dũng gấp mấy ngày xưa. Tài chính thuở trước, một năm hai vụ thu thuế, kể tiếng chẳng mấy đồng, mà thu bổ hằng năm 6 tháng cũng không xong, nào làng này thiếu, nào làng kia bỏ, quan sai lính về bắt bớ lôi thôi, mà nào có xong việc, lại chỉ tổ hại cho dân. Đến lúc dân nộp thuế thì thầy đồ nọ vòi cân chè, thầy bộ kia vòi buồng cau, chờ cho khi nộp được đã mệt sức, kể ra biết bao nhiêu nỗi xấu xa; nay đến vụ thuế dân làng đóng răm rắp, nộp cũng chỉ một ngày là xong, tiện lợi biết gấp mấy khi xưa. Đường xá ngày xưa thế nào, bẩn thỉu hẹp hòi, trông mà gớm, nay thì nào đường hỏa xa, nào quan lộ rộng rãi sạch sẽ biết dường nào. Giáo dục ngày xưa như thế nào, chỉ đua nhau trong sự bút chiến, lều chiến, còn được nghề gì, nay thì nào trường bách công, nào trường trung đẳng, tri thức mở mang biết chừng nào. Ngày xưa làm gì cho có nghị viện, có báo quán, bây giờ thì mới theo đòi được đôi chút văn minh. Ngày xưa thì làm gì cho có điện báo ngân hàng, bây giờ thì đã mở mang ra nhiều sự lợi ích
Nói rút lại thì trong cách chính trị của ta, thực là... không một điều gì có thể ganh đua được với hoàn cầu. Từ nay về sau, lại mong nhờ nhà nước bỏ hết những thói hủ cho ta, mà dắt cho hẳn đến nơi đến chốn đường tân hóa, thì ta mới có ngày mở mặt được cõi Á Đông này.

XIII. VĂN CHƯƠNG
Văn chương ta nên chia làm hai thể cách, một thể cách theo lối Tàu và một thể cách riêng theo lối của ta.
THỂ CÁCH THEO LỐl TẦU
1. Câu đối - Câu đối bốn, năm chữ gọi là tiểu đối, bảy chữ gọi là câu đối thơ, tám chữ trở lên gọi là câu đối phú. Câu đối hai vế phải đối nhau cho chọi từng chữ mới là hay, mà chữ cuối cùng, tiếng bằng thường phải đối vối tiếng trắc mới được, ví như trời thì phải đối vối đất, sông thì phải đối vối núi v.v... Câu đốì thường dùng đế mừng phúng nhau, hoặc khắc gỗ mà treo thờ ở nhà và ở nơi đình miếu chùa chiền.
2. Thơ - Thơ chia làm nhiều lối : thơ năm chữ gọi là thơ ngũ ngôn, bảy chữ gọi là thất ngôn. Ngũ ngôn, thất ngôn mỗi bài bốn câu, gọi là thơ tứ tuyệt, mỗi bài tám câu gọi là thơ bát cú. Thất ngôn dùng đến tám câu, ngũ ngôn dùng đến mười sáu câu là thường, còn dài hơn nữa thì gọi là thơ tràng thiên.
Thơ không cứ gì nhiều ít câu mà không cứ gì điệu bằng trắc, duy chỉ có vần, thì gọi là thơ cổ thể ; thơ chì dùng bốn câu, tám câu, mười sáu câu và phải có điệu bằng trắc, có vần, như bốn câu thì phải ba vần, tám câu thì phải năm vần, mười sáu câu thì phải tám hay chín vần, thì gọi là thơ Đường luật. Đường luật nghĩa là thơ ấy mới tự đời nhà Đường đặt ra, rồi sau cứ tuân đó mà làm luật nhất định cho nhà làm thơ.
Điệu bằng, trắc, Đường luật chia làm hai thể, một thể bằng, một thể trắc, nay xin lấy cái dấu (-) thế cho tiếng bằng cái dấu (.) thế cho tiếng trắc và dấu (V) thế cho tiếng phải vần mà lục ra sau này:
Ngũ ngôn thể bằng:
1) (-) (-) (.) (.) (V)
2) (.) (.) (.) (-) (V)
3) (.) (.) (-) (-) (.)
4) (-) (-) (.) (.) (V)
5) (-) (-) (-) (.) (.)
6) (.) (.) (.) (-) (V)
7) (.) (.) (-) (-) (.)
8) (-) (-) (.) (.) (V)
Ngũ ngôn thể trắc:
1) (.) (.) (.) (-) (V)
2) (-) (-) (.) (.) (V)
3) (-) (-) (-) (.) (.)
4) (.) (.) (.) (-) (V)
5) (.) (.) (-) (-) (.)
6) (-) (-) (.) (.) (V)
7) (-) (-) (-) (.) (.)
8) (.) (.) (.) (-) (V)
Thất ngôn thể bằng:
1) (-) (-) (.) (.) (.) (-) (V)
2) (.) (.) (-) (-) (.) (.) (V)
3) (.) (.) (-) (-) (-) (.) (.)
4) (-) (-) (.) (.) (.) (-) (V)
5) (-) (-) (.) (.) (-) (-) (.)
6) (.) (.) (-) (-) (.) (.) (V)
7) (.) (.) (-) (-) (-) (.) (.)
8) (-) (-) (.) (.) (.) (-) (V)
Thất ngôn thể trắc:
1) (.) (.) (-) (-) (.) (.) (V)
2) (-) (-) (.) (.) (.) (-) (V)
3) (-) (-) (.) (.) (-) (-) (.)
4) (.) (.) (-) (-) (.) (.) (V)
5) (.) (.) (-) (-) (-) (.) (.)
6) (-) (-) (.) (.) (.) (-) (V)
7) (- (-) (.) (.) (-) (-) (.)
8) (.) (.) (-) (-) (.) (.) (V)
Thế nào thì cũng câu thứ nhất, thứ nhì, thứ tư, thứ sáu, thứ tám phải theo vần nhau, mà nếu dùng bốn câu thì chỉ phải ba vần, còn thơ ngũ ngôn muốn dùng mười sáu câu thì phải thêm tám câu nữa, mà cũng theo điệu ấy kéo đi mà thôi. Có khi hai câu đầu bằng, trắc đối nhau ngay cũng được, thì câu đầu không phải vần nữa. Sai vần gọi là lạc vận, không được. Câu tiếp theo đáng bằng bằng đặt trắc trắc, đáng trắc trắc mà đặt bằng bằng, gọi là thất niêm, không được. Trong câu chỉ trừ ra chữ thứ nhất và chữ thứ ba không kể bằng trắc, còn sai bằng trắc chữ nào thì gọi là thất luật, cũng không được. Song chữ thứ nhất ở thơ ngũ ngôn và chữ thứ ba ở thơ thất ngôn đáng trắc trắc mà dùng bằng trắc thì được, chớ đáng bằng bằng mà dùng trắc bằng thì gọi là khổ độc, cũng không được.
Đó là luật thơ, còn như cách làm thơ thì câu đầu tiên gọi là câu phá đề, nghĩa là mới khai cái ý của đầu bài, ví dụ đầu bài là "cái hoa hồng" thì câu phá đề nói khơi ngay vì đâu mà sinh ra cái hoa, hoặc nhờ có mưa móc nhuần thấm mà hoa tốt. Câu thứ nhì là câu thừa đề hoặc gọi là nhập đề, nghĩa là nói vào đầu bài ví như bài này thì thế nào cũng phải nói lại hai tiếng hoa hồng vào mới được. Câu thứ ba thứ tư là hai câu thực hoặc là cặp trạng, nghĩa là phải tả cái đầu bài ra, và phải đối nhau. Như hoa hồng thì câu này một vế tả sắc đẹp và một vế tả cái hương thơm để đối nhau, tả thế nào cho rõ ra hương đốì với sắc của hoa hồng mới là khéo. Hai câu thứ năm, thứ sáu gọi là hai câu luận, nghĩa là bàn cho rộng cái ý đầu bài ra, như bài này thì đem những hoa khác vào so sánh, hoặc nói nó làm cái cảnh vui cho tài tử giai nhân, mà cũng phải đối nhau. Hai câu cuối cùng gọi là câu thúc kết, không cần phải đối nhau. Câu này thì kết cái ý đầu bài lại, hoặc khen hoặc chê, tùy ý mình. Đấy là nói qua các cách thức, chớ đến lúc làm thì biến hóa vô cùng không có nhất định được.
Thơ làm điệu trắc cũng được, điệu trắc thì dùng vần trắc, còn thể bằng trắc thì cũng xoay xở đảo lên đảo xuống như thế mà thôi.
Thơ ngâm vịnh chơi, hoặc để những nơi chùa chiền thắng cảnh thì hoặc dùng cổ thể, hoặc dùng Đường luật tùy ý mình; thơ ứng thí hoặc chúc tụng vua, hoặc tặng người tôn trưởng dùng vào những việc kính trọng thì thường dùng đường luật, vì dùng luật thì thơ mới nghiêm, chớ dùng cổ thể thì phóng túng thế nào cũng, được.
Trong các lối văn chương, duy thơ là khó hơn hết, vì ít chữ mà phải nói cho đủ ý tứ, lời lẽ lại phải thanh tao, phải có điệu, phải có vần, và phải điển nhã gọn lời thì mới là hay.
3. Phú - Phú hoặc dùng năm, sáu vần, hoặc bảy tám vần, tùy lúc ra đề bắt lấy vần gì thì phải làm vần ấy và cứ phải theo thứ tự trong vần mà làm, lúc ra để có phóng vận cho mình hoặc không bắt theo thứ tự thì mới được tùy ý mình, muốn làm vần gì trước sau cũng được.
Phú tùy mình mỗi câu đặt mấy chữ cũng được, nhưng đại để mỗi vần phải có vài bốn câu bốn chữ, gọi là câu tứ tự, hoặc dùng vần liên châu hoặc đối nhau bằng trắc tùy ý, vài bốn câu mỗi vế sáu, bảy chữ hoặc tám, chín chữ đốỉ nhau gọi là câu song qua', một vài câu dài mỗi vế hoặc trên bốn dưới sáu, hoặc trên sáu dưới bốn, hoặc nhiều hơn nhưng cũng chia mỗi vế là hai đoạn, đều gọi là câu cách cú, hoặc dùng mỗi vế ba đoạn, thì gọi là câu gối hạc.
Cách làm phú cũng tựa như cách làm thơ, cũng có khai, có thừa, có tả thực, có nghị luận, có kết. vần đầu mới mở gọi là vần lung, nghĩa là nói cho bao quát cả đầu bài. Vần thứ hai là vần biện nguyện, nói nguyên ủy cái đầu bài; vần thứ ba là vần thích thực, tả cho hết ý nghĩa đầu bài, vần thứ tư thì là vần phụ diễn, suy rộng ý đầu bài ra, rồi từ vần sau trở đi thì nghị luận và kết lại.
Phú cũng nhiều lối, hoặc từ đầu đến cuối, dùng toàn bốn chữ, hoặc dùng toàn bảy chữ, hoặc theo điệu sở từ, cứ mỗi câu dăm sáu chữ, đệm một chữ hề, hoặc dùng cách lưu thủy như lốì phú Xích Bích cũng được.
4. Kinh nghĩa - Kinh nghĩa là lấy một vài câu chính văn trong kinh truyện ra đầu bài, rồi cứ suy diễn ý đầu bài; thay lời thánh hiền mà nói ra cho rộng và cho đúng với nghĩa kinh truyện thì mới được, cho nên lại gọi là tình nghĩa.
Kinh nghĩa có hai lối là lối bát cổ và lối tân hành. Lối bát cổ có tám đoạn: bắt đầu một, hai câu mở, gọi là phá đề, kế đến ba, bôn câu nghị luận gọi là thừa đề. Câu phá câu thừa thì còn là lời minh, từ đoạn sau trở đi thì là lời thánh hiền chớ mình không được nghị luận nữa. Đoạn thứ ba gọi là đoạn khởi giảng, thay lời thánh hiền mà nói suy nguyên cái đầu bài; đoạn thứ tư là đoạn khai giảng phải có hai vế đốĩ nhau, nghĩa là nói khai cái ý đầu bài. Đoạn thứ năm chỉ hoàn lại một câu đầu bài, gọi là câu hoàn đề. Đoạn thứ sáu gọi là đoạn trung cổ, thích thực nghĩa đầu bài; đoạn thứ bảy gọi là đoạn hậu cổ, nghị luận thêm cho rộng nghĩa. Hai đoạn này mỗi đoạn cũng phải đặt hai vế đối nhau, dài hơn đoạn khai giảng một chút. Đoạn thứ tám gọi là đoạn kết tỵ, cũng hai vế mỗi vế hai, ba câu, rồi thúc lại một câu nữa là hết bài.
Lối tân hành đại ý cũng phải đủ chừng ấy phép tắc, duy lối đặt thì không cứ gì mấy đoạn, hoặc nhiều hoặc ít tùy ý mỗi đoạn độ dăm bảy câu đối nhau cũng được.
Kinh nghĩa là văn ứng thí, chớ chơi bời thì không mấy khi dùng đến.
5. Văn sách - Văn sách là lấy những lời nghị luận hoặc những việc làm của cổ nhân hay là việc đương thời mà hỏi cho học trò đáp lại, xem học trò có nhớ sách, và có kiến thức không. Mỗi một mục văn sách độ dăm sáu đoạn hỏi về việc đời xưa và một vài câu hỏi về việc đương thời, hoặc ra văn sách đạo thì mỗi kinh truyện một câu, và vài câu hỏi vào sử ký, một vài câu kinh. Học trò đáp lại phải lựa cái mẹo của người ra bài, hỏi đâu nói đó. Lắm câu đầu bài hỏi lăng hỏi lứu, hỏi câu nọ nhằng ra câu kia, thì làm bài phải theo thứ tự hoặc đảo lên đảo xuống mà nói gỡ dần dần từng câu một, nếu đáp thiếu ý nào hoặc thừa ý nào cũng không được.
Việc thi cử trọng nhất là văn sách, vì phải nhờ sách nhiều và phải có cao kiến mới làm được. Văn sách tức là một bài tràng thiên vấn đáp, có thể xem văn sách mà biết ngưòi học thức hay là hư văn, cho nên lối văn sách lại là lối văn chương hữu dụng.
Văn sách thì có lối riêng. Mới bắt đầu thi hương thì phải có ba chữ: "Đốì sĩ văn (thưa tôi nghe), thi đình thì phải có bốn chữ: "Thần đối, thần văn" (thần xin thưa, thần nghe). Đoạn ấy phải nói lao lung cho hết ý toàn đề, rồi phải tiếp một câu: "Tư thừa sách vấn nhi lược trần chi" (Nay vâng lời sách hỏi mà nói qua sau này), từ đó trở đi mới theo từ câu hỏi mà đáp lại. Đầu câu đáp lại phải dùng hai chữ "Thiết vì" (trộm nói rằng). Nghĩa là nói khiêm rằng mình trộm nghĩ mà thưa, chớ không dám quyết thực như thế. Đến cuối cùng làm xong bài đâu đấy lạì phải viết mấy cầu lề lối, nếu không viết hoặc viết sai một chữ cũng không được. "Mây câu sau này: "Sĩ giã, hạnh phùng thịnh thế, tòng sự văn trường, quản kiến như từ, vị chi khả phủ, nguyện chấp sự kỳ trạch nhi tiến chi. Thần (sĩ) cẩn đốì". (Tôi đây, may gặp đời thịnh, theo việc văn trường, kiến thức hẹp hòi như vậy. chưa biết có phải hay không, xin quan coi việc kén lựa mà tiến tôi lên, tôi kính cẩn thưa) Mấy câu ấy, mỗi khoa thi tùy quan trường đổi đi một vài chữ, học trò cứ theo mà viết.
6. Tứ lục - Lối tứ lục tương tợ như lối phú, duy khác vì không cần phải vần. Đặt câu thì phần nhiều là câu cách cú, hoặc trên bốn dưới sáu hoặc trên sáu dưới bốn, mà bất cứ sáu vói bốn, muốn đặt trên dưới bao nhiêu chữ cũng được.
Lối tứ lục thường dùng vào những văn chiếu, biểu, chế, sắc. Chiếu là làm thay lời vua mà thi lịnh điều gì, biểu là làm thay lời các quan, hoặc lời thiên hạ mà chúc mừng vua hay là tạ ơn vua, chế sắc cũng là thay lời vua mà phong thưởng cho công thần hoặc cho ai. Thay lời vua thì phải dùng những lời nghiêm trang điển nhã, thay lời mừng vua thì phải dùng những lời khiêm tốn thờ phụng
Lối tứ lục lại dùng làm bài ký, bài hịch, bài tựa cũng được.
7. Luận - Luận là lời mình nghị luận, lấy một câu gì hoặc một việc gì làm đầu bài, rồi cứ suy diễn ý câu ấy mà bàn nói, tùy ý mình muốn khen muốn chê mặc dầu miễn là hợp lẽ thì được.
Luận cũng phải có học thức thì bàn mới cao và phải có kê cứu văn chương mới có ruột, nếu cứ bàn vông vinh, không có chủ ý gì, sự thực gì thì gọi là văn vu khoát.
Văn luận tức là một lối văn xuôi, như các lời nghị luận của các báo quán.
Mấy lốì trên này, thơ phú, kinh nghĩa, văn sách, tứ lục, luận là lối ta thường cho học trò học tập mà dùng để thi cử. Còn nhiều lối nữa thì là lúc học đã quán xuyến hoặc làm chơi, hoặc dùng vào việc, mỗi lốì cũng đều có một thể cách riêng nói qua sau này:
8. Tấu Sớ - Là những thư dâng lên vua, hoặc cầu khẩn việc gì, hoặc can ngăn việc gì, hoặc tấu đối việc gì, dùng lối nghị luận chớ không theo như lối biểu.
9. Bài ký sự - Là những lời ký việc thực sự như trong khi đi chơi, hoặc là ghi chép việc gì như lối sử ký, bi ký v.v...
10. Bài tựa - Là bài nói khai mào trên đầu sách, phải xem cho hết ý tứ trong bộ sách mà nói tổng tự dưới lên trên, cho người xem một bài tựa mà đã hiểu đủ ý sách. Tựa cũng có khi dùng để tặng tiến anh em, kể lai lịch cái ý tứ của mình đốì với anh em.
11. Bài hịch - Là một bài kể tội kẻ bạn nghịch hoặc là nước địch quốc để xui giục lòng người cho được khích khuyến. Văn hịch thường dùng theo lốì tứ lục.
12. Văn án - Là một bài kết án cho kẻ có tội, cũng thường dùng theo lối tứ lục.
13. Bài tán - Là một bài tán tụng công đức vua, công đức tổ tiên hoặc mừng quan trên, hoặc ngông thì đề vào ảnh mà mình lại khen mình. Văn tán thường từ đầu đến cuối, dùng toàn bốn chữ, hoặc dùng lối tứ lục hoặc dùng lốì nào cũng được.
14. Bài minh - Là một bài ghi lên trên chỗ ngồi để mình lại khuyên răn mình, hay là để khuyên răn học trò, con cái. Hoặc dùng để ghi chép công đức việc gì, cũng gọi là bài minh. Lối minh cũng thường dùng lốì bốn chữ.
15. Văn tế - Là một bài kể rõ tính nết và công đức của thần thánh hoặc của ngưòi mình tế, dùng theo lốì phú, mà toàn bài thường chỉ một vần, hoặc dùng lối lưu thủy cũng được.
16. Ca khúc - Là những bài hát có khúc, có điệu, có vần. Ca khúc cũng nhiều lối, có lối gọi là điệu Tây giang dạ nguyệt, có lối gọi là điệu nhất tiền mai, bộ bộ thiền v.v...
17. Diễn kịch - Là những bài tuồng Tàu, như văn Tây tương, văn Tỳ bà v.v...
18. Hài đàm - Là những lời nói khôi hài, nói cho ai cũng phải buồn cười, để người ta xem cho được giải trí.
19. Từ hàn - Thư từ gửi cho nhau, những chữ hỏi han thù phụng có riêng một lối, người học giỏi mà không quen viết thơ cũng không viết được.
20. Văn độc - Là những tờ bồi việc quan hoặc lời yết thị, hoặc tờ trát sức, hoặc tờ khai báo, cũng có lối riêng, phải tay thơ lại viết mới quen.
THỂ CÁCH RIÊNG LỐl CỦA TA
1. Thượng lục hạ bát - Gọi là lối Kiều. Lối này cứ câu trên sáu chữ, câu dưới tám chữ, mà vần chữ thứ sáu câu dưới phải tiếp vần với chữ cuối cùng câu trên. Bốn câu ba vần, thành một đoạn nhỏ. Các truyện của ta hay dùng theo lối ấy.
2. Nhị thất lục bát - Gọi là lối Cung oán. Lối này cứ hai câu đầu mỗi câu bảy chữ, mà chữ cuối cùng câu trên phải dùng tiếng trắc, rồi chữ thứ năm câu dưối tiếp theo vần trắc mà hạ xuống tiếng bằng; câu thứ ba sáu chữ, tiếp theo vần bằng, câu thứ tư tám chữ lại tiếp như lối lục bát. Lối này thi bốn câu phải bốn vần, nhưng có khi vần câu đầu không tiếp cũng được, các truyện cũng thường dùng lối này.
3. Biến thể lục bát - Gọi là lối Phạm Công. Lối này cũng dùng trên sáu dưới tám nhưng thường chữ thứ tư câu dưới tiếp với vần chữ cuối câu trên. Lốì này tay văn sĩ không mấy khi dùng, chỉ người nôm na hay dùng.
4. Bài tuồng - Gọi là lổì diễn kịch. Trong lối này có nhiều điệu, mới khởi có mấy câu chúc tụng, gọi là câu giáo đầu; nói chuyện gọi là câu nói. Câu giáo đầu và câu nói, bất cứ dài ngắn, hễ hết ý thì thôi, mỗi câu hoặc bốn chữ, năm, sáu, bảy chữ, tùy đặt thế nào cũng được nhưng cứ chữ cuốĩ câu thứ ba, phải tiếp vần với chữ cuối câu thứ nhì, mà thường câu cuỗì cùng, hạ vần trắc thì xuống mới mạnh. Tướng mới ra đọc một vài câu gọi là câu xướng, tiên mới giáng đọc một vài câu gọi là câu bạch, xướng và bạch thường dùng lối thơ. Nói dứt lời xuống tiếp theo một câu gọi là câu vãn, câu vãn thường nói tiếp mấy tiếng cuối cùng câu trên rồi xuống một, hai câu lục bát. Nói cho bổ ý câu trên hoặc để thi hành câu nói thì gọi là câu loạn, câu loạn hoặc dùng lối thơ, hoặc dùng lối phú, hoặc hai câu thơ rồi xuống một vài câu bốn hoặc năm chữ hoặc câu lục bát tùy ý. Gặp lúc buồn bã mà đọc mấy câu bi ai sầu thảm gọi là câu nam, gặp lúc khoan khoái mà đọc mấy câu ngân nga thủng thỉnh gọi là câu khách, nam và khách thường dùng lốì thơ. Khi vừa đánh vừa nói gọi là câu chiến trận, khi vừa đánh vừa chạy gọi là câu tẩu mã, hai câu này cũng hay dùng lối thơ hoặc lối phú. Ngoại các câu dài, còn nhiều các tiếng đệm gọi là câu trợ ngữ, như tiếng: "Dạ dám bẩm, như tôi đây, vậy chớ, nhưng mà v.v...". Đây nói qua mấy câu đại khái, chớ lúc làm văn thì tùy việc mà đặt câu, còn nhiều biến thể, không nói hết được.
5. Bài hát ả đầu - Gọi là lối ca khúc. Ca khúc cũng chia làm nhiều cách điệu nói qua sau này:
a) Điệu ca trù,
b) Điệu lưu thủy,
c) Điệu hành văn
d) Điệu tứ đại cảnh:
e) Điệu nam thương',
f) Điệu nam bình;
g). Điệu nam ai;
h) Điệu cổ bản
i) Điệu kim tiền;
j) Điệu tam thất;
k) Điệu vọng phu
l) Điệu giao duyên.
Điệu ca trù, câu mới mở thường bốn, năm chữ, rồi tiếp xuống một câu tám chữ, hoặc hai câu đầu độ năm chữ đối nhau ngay cũng được. Kế đến hai câu độ bảy, tám chữ mà tiếp vần với câu trên rồi đưa hai câu thơ ngũ ngôn hoặc thất ngôn một vài câu đi lưu thủy, hoặc hai chữ, hoặc bốn chữ, rồi lại tiếp hai câu bảy, tám chữ, cuối cùng thả một câu độ năm, sáu chữ lửng lơ.
Điệu này không cứ gì dài vắn, tùy ý mình muốn đặt thế nào cũng được, quý hồ giọng lên giọng xuống, điệu trắc, điệu bằng cho hợp cách thì thôi. Còn như các điệu tứ đại cảnh, nam ai, hành vân, lưu thủy v.v... thì thường mỗi chữ mỗi câu đều phải hợp vào giọng hò, lưu, xế, xang, cống, sự, phàn v.v. nghĩa là phải hợp với bài đàn mới được.
Mỗi điệu có một thể cách riêng, phải xem các bài hát mới biết được hết các lốì. Song cứ lấy nghĩa mấy chữ tên khúc điệu mà suy ra thì lưu thủy chắc là giọng văn lưu loát như dòng nước chảy, hành vân chắc là giọng văn man mác như đám mây bay, nam ai là những giọng sầu thảm bi thương, nam bình là những giọng khoan thai hòa nhã, vọng phu là giọng người đàn bà ai oán mong chồng, giao duyên là giọng trai gái tự tình ước hẹn v.v. Ngoài các điệu ca khúc trên, lại còn những điệu hát xẩm, hát ru, hát trống quân, hát quan họ, hát đò đưa, nhưng chẳng qua cũng theo điệu lục bát gia giảm một đôi chút mà thôi. Mà trong điệu ca trù có những điệu thuyết nhạc, gởi thơ, thiên thai, xích bích v.v... thì là theo bài Tàu mà đọc riêng một giọng, chớ không phải có lối nào khác nữa.
6. Văn xuôi - Tức là lối nghị luận hoặc là lối ký sự. Lối này không cứ lệ luận nào, nói thế nào cho đủ ý thì thôi.
Xét các lối văn chương của ta, vừa lối riêng, vừa lốì theo của Tàu, kể ra thì cũng nhiều và cũng đủ cách mà tả hết tính tình của người và tả hết cảnh tượng của tạo hóa, có cách tự nhiên, có cách trang điểm, có cách dùng âm điệu cho dễ rót vào tai người, ấy cũng là đủ lối.
Song hiểm vì trong lối văn chương, phần nhiều là hay dùng cách tiểu xảo, đối chọi nhau từng chữ từng ý mà nhất là thơ hay tìm những tiếng mong manh, những lời bóng bẩy, khi nhỏ nhặt tỉ mỉ, kém khí hùng hào. vả lại hay chuộng lối phù hoa, quý hồ đặt cho đẹp câu, đọc cho sướng tai, mà rút lại thì không có lý tưởng nào là cao lạ.
Lại còn một cách, nói thật là viển vông huyền huýnh, khiến cho người nghe tưởng là cao kiến lắm, mà kỳ thực thì toàn là lời tưởng tượng, vu khoát, tựa như bức tranh vẽ của ta chỉ thấy nét xanh nét đỏ, vẽ rồng vẽ phượng trông thì choáng mắt, mà té ra không có nét nào thực cả.
Lại nhất là những điệu ai oán, những khúc bi thương, tiếng bổng tiếng trầm, thánh tha thánh thót, như dế kêu, như ve hát, ta thường cho là hay mà thực thì là một thứ tiếng hèn mọn yếu ớt, không cô động được cái khí mạnh mẽ cho người ta.
Văn chương của một nước tức là cái tinh thần của một nước, tinh thần có mạnh thì nước mới mạnh, tinh thần mà suy thì nước cũng suy, thiết tưởng văn chương, dầu theo lối nào mặc lòng, quý hồ phải tả cho thực, cho đủ ý mà nói sao cho cảm động được lòng người mới là hay, chớ bất tất phải cầu kỳ từng chữ từng câu, bất tất phải gọt từng tiếng. Văn chương gọt từng tiếng khác nào như ngươi gọt củ thủy tiên, cái lá này bắt cho quăn, cái giò kia hãm cho thấp, trông thì hoa nở đều nhau đẹp đẽ nhưng giá động vào đâu đã gãy, để chưa mấy ngày đã úa, thế là cốt lấy cái khéo nhỏ nhặt, mà làm mất cái khí mạnh của nó, gọi là nhu nhược chí văn chương!
Kìa xem như các tay đại gia văn chương, giọng văn hùng hào quảng bác, rườm rà như cành to cỗi lớn, mạnh mẽ như nước chảy sóng cồn, có cần gì phải tỉ mỉ chọi từng tiếng, từng chữ, từng câu. Lại ngẫm như nước Tàu những lúc mới thịnh, văn chương bao giờ vẫn quê kệch mà cứng cỏi, đến khi văn chương mềm mỏng êm tai, văn hoa đẹp mắt thì đã lại tới hồi suy nhược rồi. Cho nên lúc đời Nam Bắc triều có người chê văn Tàu rằng: "Sách vở chồng chất, chẳng qua đều là giọng sầu thảm bi ai; hòm trắp đầy truyện, chẳng qua đều là lời phong hoa tuyết nguyệt" ấy là văn lúc suy thế.
Vậy có câu rằng: "Văn chương quan hồ thê vận" nghĩa là văn chương quan hệ với vận mệnh một đời, quả nhiên như thế thực.
XIV. KHOA CỬ
Nước ta từ đời nhà Lý mới có khoa cử. Xét trong sử ký; năm Thái Bình thứ tư đời vua Thánh Tôn (1075), mới bắt đầu mở khoa thi ba kỳ, kén lấy người minh kinh bác học. Sau lại mở ra khoa văn học. Đến thời vua Anh Tôn mở khoa thi thái học sinh, hỏi việc chính trị, ai đỗ thì dùng làm quan; vua Nhân Tôn mở khoa lại điển, thi hành luật thư toán, ai đỗ thì bổ làm ty thuộc.
Qua sang nhà Trần, năm Thiên ứng chính binh thứ tư đời vua Thái Tôn (1232), thi thái học sinh mới chia ra làm ba hạng, gọi là nhất giáp, nhị giáp, tam giáp, năm thứ 16 (1244) lại định lệ nhất giáp, chia làm ba bậc: bậc thứ nhất là Trạng nguyên, bậc thứ nhì là Bảng nhỡn, bậc thứ ba là Thám hoa. Người xứ Bắc kỳ đỗ đầu thì gọi là Kinh trạng nguyên, người Thanh, Nghệ đỗ đầu thì gọi là Trại trạng nguyên.
Đến năm Hưng Long thứ 12 đời vua Anh Tôn (1311) đổi phép thi lại mà chia làm bốn kỳ: kỳ thứ nhất ám tả, kỳ thứ nhì thi kinh nghĩa thơ phú, kỳ thứ ba thi chiếu biếu, kỳ thứ tư thi văn sách.
Năm Long Khánh thứ hai đời vua Duệ Tôn (1370), đổi tên Thái học sinh gọi là Tiến sĩ. Trạng nguyên, Bảng nhỡn, Thám hoa, Hoàng giáp thì gọi là tiến sĩ cập đệ, còn dưới nữa thì gọi là tiến sĩ đồng cập đệ. Lại mở ra khoa thi hương, ai đỗ thì gọi là Cử nhân. Đỗ cử nhân mới được dự thi hội.
Qua sang nhà Lê, năm Thiệu Bình thứ sáu đời vua Thái Tôn (1438) đổi lại phép thi, cứ ba năm mở một khóa. Thi hương rồi thì thi hội, thi đình, ai đỗ đình mới định hơn kém mà chia làm tam giáp. Năm Đại bảo thứ ba, mới bắt đầu khắc bia tiến sĩ mà dựng trong nhà Thái học (tức ở đền Giám bây giờ). Năm Quang Thuận thứ 7 đời vua Thánh Tôn (1467), mới định lệ đỗ tiến sĩ được truyền loa và được vinh qui; năm Hồng Đức thứ hai mươi bốn (1486) thì định lệ ban yến cho tiến sĩ và ban thưởng áo mũ. Bây giờ đỗ tiến sĩ thực là vinh dự vô cùng. Còn thi hương chia làm hai hạng, ai đỗ hạng cao gọi là hương cống, đỗ hạng tháp gọi là sinh đồ.
Cách thức thi hương bản triều
Quốc triều ta, từ năm Minh Mệnh thứ sáu, định lệ cứ năm Tị, Ngọ, Mẹo, Dậu thì mở khoa thi hương. Thừa Thiên, Gia định, Nghệ An thi về tháng bảy, Thanh Hóa, Nam Định, Bắc Thành (Hà Nội) thi về tháng chín.
Năm Đồng Khánh nguyên niên thì tràng Hà Nội, tràng Nam Định họp lại làm một mà gọi là tràng Hà Nam.
Đại để phép thi của ta, cứ năm nào đến khóa thi thì quan Đốc học các tỉnh phải sát hạch học trò, ai đỗ hạch mới được đi thi. Gần đến tháng thi học trò đỗ hạch và những tú, ấm phải nộp quyển trước cho quan Đốc học biên bản hạt mỗi người nộp ba quyển, mỗi quyển độ một, hai chục tờ, đóng bằng giấy thi, mặt quyển đề họ, tên, niên canh, quán chỉ và phải khai họ tên, nghề nghiệp tổ phụ tam đại nhà mình. Quan Đốc sai lễ sinh thâu quyển rồi đóng hòm tử tế, làm danh sách đợi đến ngày thi thì đem nộp cho quan trường.
Quan trường thì do tự bộ cử ra một ông Chánh chủ khảo, một ông phó chủ khảo, còn mấy ông giám khảo, đề điệu, phân khảo, phúc khảo, sơ khảo thì tùy tràng to nhỏ mà cử nhiều hoặc ít. Chánh, phó chủ khảo giữ quyển ra đầu bài, chấm quyển lần sau cùng và lấy người đỗ. Phân khảo có quyền xét lại những quyển hỏng. Giám, Sơ, Phúc thì chỉ được phép chấm quyển ba lần trước mà thôi. Đề điệu, giám sát thì coi về việc giữ quyển và kiểm xét sự gian phi của quan trường và của học trò. Lại phải vài chục người lại phòng để coi nhận quyển, làm sổ sách viết bản v.v...
Trứớc hôm thi vài ngày, các quan trường vào tràng thi gọi là ngày tiến trường. Tiến trường rồi thì bốn mặt trường có lính canh giữ nghiêm cẩn, cấm không ai được tự nhiên ra vào nữa.
Hôm học trò vào trường thì chia làm bốn vị hoặc tám vị, mỗi vị có một cửa, ai vào cửa nào, quan trường phải yết bảng trước cho học trò biết.
Học trò mỗi người vác một bộ lều chiếu, cổ đeo ống quyến, bầu nước, vai đeo một cái tráp chứa đồ ăn thức dùng, phải chực sẵn ở ngoài cửa trường từ đêm.
Tan ba hồi trống thì quan trường chia nhau, mỗi ông võng lọng ra một cửa: quan chánh ra cửa giáp, quan phó ra cửa ất, quan phân, quan giám ra hai cửa tả hữu, mỗi cửa đốt hai cây đình liệu sáng rực trời, quan trường áo mũ đai mãng ngồi trên ghế chéo, sai lại phòng xưống danh giao quyển cho học trò vào trường.
Học trò vào đông đủ đóng lều đâu đầy, sáng rõ thì có đầu bài. Học trò phải tĩnh túc mà làm văn. Đến trưa phải đem quyển vào nhà thập đạo lấy dấu nhật trung. Tối làm văn xong thì nộp quyển. Bấy giờ quan trường hội ở nhà thập đạo, học trò nộp quyển rồi thì cứ do cửa tiền mà ra.
Kỳ đệ nhất thi bảy bài kinh nghĩa, ai muốn làm mấy bài cũng được, nhưng ít nhất cũng phải làm một bài kinh và một bài truyện. Kỳ đệ nhị một bài thơ thất ngôn và một bài phú độ sáu, bảy vần. Kỳ đệ tam một bài văn sách, hỏi độ năm, sáu câu cổ và một câu kim. Ai đậu kỳ thứ nhất mới được vào kỳ thứ nhì, đậu kỳ thứ nhì mới được vào kỳ thứ ba. Trong ba kỳ đều thông cả, ai có ưu, bình thì mới được dự vào kỳ phúc hạch. Mỗi kỳ vào đều có bảng yết ngoài cửa trường. Người được vào phúc hạch, phải nộp thêm một quyển để hôm sau vào trường.
Kỳ phúc hạch phải làm bài kinh nghĩa, bài phú độ hai, ba vần và một, hai câu văn sách, gọi là lược bị. Quan trường soát cả trong bốn kỳ, rồi phân thứ bậc mà lấy người đỗ, văn tốt lấy lên hạng cử nhân, văn làm thường lấy vào hạng tú tài.
Đến hôm treo bảng, xướng hồi danh thì các quan trường áo mũ cân đai ngồi sắp hàng trên ghế chéo ở trước cửa Tiền, cho lính truyền loa mà xướng từng tên ngươi đỗ cử nhân vào ngồi sắp dãy trước nhà thập đạo, rồi ban thưởng cho mỗi ông tân khoa một bộ áo mũ, một cái lọng xanh. Các tân khoa lãnh áo mũ rồi theo cả các quan trường đến đền kính thiên bái mạng, nghĩa là lạy tạ ơn vua. Đoạn rồi theo các quan về dinh quan tỉnh ăn yến. Hôm sau các tân khoa lại rủ nhau đi tham yết các quan tỉnh. Quan tỉnh hoặc thưởng riêng cho các tân khoa thức gì, hoặc quan trên diễn thuyết một bài khuyên các tân khoa. Các việc đó tùy ý quan trên, không có lệ nào.
Trong khi ăn yến. các tân khoa trao lẫn cho nhau mỗi người một cánh danh thiếp, nghĩa là trong hội đồng canh, thông tính danh cho được biết nhau. Ông đỗ thủ khoa phải tặng chung cả bạn đồng canh một bài thơ, trong thơ thì đại để bài nào cũng kể lể sự vinh hạnh rồi kết ý khuyên nhau phải giữ trung nghĩa để báo đáp ơn cao sâu của vua.
Cách thức thi hội bản triều
Năm Minh Mệnh thứ sáu, định lệ cứ năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì mở khoa thi hội, và thi về tháng ba.
Thi hội, có một chánh chủ khảo, một phó chủ khảo, hai tri công cử, hai Đề điệu, sáu đồng khảo để coi việc ra đầu bài, chấm quyển, vài bốn tuần sát để coi việc giữ gian; và bốn mươi thơ lại để coi việc sổ sách, viết quyển, viết bảng v.v... '
Các cử nhân giám sinh, giáo thụ, huân đạo, và tú tài ấm sinh tình nguyện ứng thi, đều được phép đi thi hội.
Thi hội chia làm bốn kỳ: kỳ đệ nhất ít ra phải làm bài kinh nghĩa; kỳ đệ nhị chiếu, biếu, luận; kỳ đệ tam một bài thơ ngũ ngôn mười sáu câu, một bài phú độ tám vần; kỳ đệ tứ một bài văn sách. Trong hai kỳ phải một kỳ bất cập phân thi hỏng; trong bốn kỳ được tám phân trở lên mới là trúng cách.
Hội thi trúng cách rồi mới được vào đình thí. Đình thí chỉ đối sách một bài rất dài. Quan trường hội đồng xét văn rồi đứng lên Ngự lãm, quyển nào nhiều phân số lấy vào hạng tiến sĩ, còn ít phân số thì cho vào hạng phó bảng.
Ngày xướng danh gọi là ngày truyền lô. Hôm đó, bầy nghi vệ đại triều ở đền Thái Hòa, các quan mặc đồ triều phục chia ban đứng chầu, phụng Hoàng thượng ra ngự điện, rồi quan Khâm mạng tâu lại việc thi, quan Giám thị thì triệu các tân khoa tiến sĩ vào nhà công văn, phụng mệnh vua, mà ban thưởng mỗi người một bộ áo mũ. Các tiến sĩ quỳ lãnh rồi, quan Lễ bộ dẫn vào quỳ sắp hàng trước sân rồng, rồi quan truyền lô cầm sổ theo thứ tự mà xướng danh. Đâu đấy mới treo bảng ở trước lầu phú văn ba ngày.
Sau khi ra bảng, ban ăn yến tại dinh Lễ bộ và ban cho mỗi người một cành kim trâm. Sáng hôm ấy, các quan trường và các tân khoa tiến sĩ mặc đồ triều phục, lễ vọng tạ ơn ban yến. Ăn yến đoạn mỗi ông tân khoa phải dâng một bài biểu tạ ơn.
Quan lễ bộ lại dẫn các quan giám thị và các ông tân khoa vào vườn Ngự uyển xem hoa, mỗi người đều mặc đồ triều phục, cưỡi ngựa che lọng, xem hoa xong thì ra từ cửa thành đông mà đi xem các phố xá.
Còn dựng bia thì cũng theo như cách nhà Lê.
Năm Thành Thái thứ mười tám (1906) nhà nước bảo hộ nghị định cải lương lại phép học phép thi, thi từ khảo hạch cho đến thi hương, thi hội đều có thay đổi ít nhiều. Thi hương kỳ thứ nhất bổ kinh nghĩa, mà làm năm đạo văn sách; kỳ thứ nhì làm hai bài luận chữ nho, kỳ thứ ba làm một bài luận quốc ngữ và dịch một bài chữ Pháp ra quốc ngữ; kỳ phúc hạch làm văn lược bị, nghĩa là đủ các văn thể ba kỳ trước mà mỗi bài làm ít câu mà thôi. Phép thi hội cũng còn tương tự như phép thi hương, đợi khi nào lối tân học thịnh hành, sẽ lại cải định.
Mỗi khoa thi có quan Toàn quyền hoặc quan Thông sứ vào trường diễn thuyết một bài để khuyên học trò. Còn cách thức ban ơn cho tiến sĩ cử nhân thì vẫn như trước.
Xưa nay lối khoa cử của ta là một con đường cho bọn sĩ phu. Sĩ phu có do con đường ấy xuất thân mới là chính đồ, mà sự vinh hạnh về sau cũng bởi đó mà ra cả. Bởi vậy nhân tâm nước mình say mê bia đá bảng vàng, cố sức mà dùi mài truyện hiền kinh thánh, có người đầu bạc mà vẫn chịu khó đeo bộ lều chiếu để đua ganh vối bọn thiếu niên. Mà rút lại thì có gì đâu, học cũng chẳng qua là học văn chương, thì cũng chẳng qua là thi văn chương. Ai may ra hiển đạt, cũng phải nhờ có tài trí riêng mới chuyên vận được việc đời. Chớ như chuyện một lối văn chương, có mấy khi mà nên được việc. Vậy mà ta mê mẩn mấy trăm năm nay, vẫn chưa tỉnh hết.
Nhà nước gần đây cải lương lại phép thi, bỏ bớt lối hư văn mà thay đổi lối thực học. Hiềm các vị tân học chưa được thịnh hành mà tục cựu nhiễm của ta thì chưa gột hết cho nên cách thi cử cũng chưa theo ngay được lối văn minh. Thiết tưởng làm sao cũng phải có một phen đổi hết cách cũ mà dùng toàn cách mới có ngày mong đến được cõi tân hóa. Xem như các nước bên Á Đông ta, như nước Tàu, Nhật, trước cũng thi cử như ta, mà họ bỏ đi đã lâu rồi. Duy ta còn khăng khăng giữ mãi, không biết bao giờ mới đổi được

XV. VÕ NGHỆ
Võ nghệ của ta cũng có nhiều cách, nhưng có mấy lối thường dùng nói qua sau này:
1. Tập xách nặng - Dùng một hòn đá hoặc quả chì nặng độ năm, sáu chục cân, khi tập giơ lên nhắc xuống cho cứng gân xương, tập được rồi lại lần lần dùng quả nặng hơn mà tập.
2. Tập đu - Kiếm cành cây nào dễ vin, hoặc trồng cột bắc giá, mỗi ngày thong thả đánh đu một vài dạo. Hai tay vịn cành cây hoặc giá đu từ từ mà đưa mình lên và hạ mình xuông độ năm, sáu lần, hễ đưa được thẳng cánh tay đem đầu gối lên sát cành cây hoặc giá đu thì mới được và lại tập lộn mình trên giá cho dẻo gân xương.
3. Luyện chân tay - Trước hết dùng một thùng thóc, mỗi ngày giương thẳng hai bàn tay mà đâm xỉa vào thóc, lâu rồi gân tay rắn chắc, có thế đâm thủng được cây chuối. Luyện chân thì tập đá vào cây chuối, đá mãi thành chai, có thể đá vào tường gạch cũng không biết đau.
4. Tập nhảy - Kiếm một chỗ gò thấp, mỗi ngày tập nhảy. Thoạt tiên bỏ đầy cát vào hai ống quần, buộc lại mà nhảy. Trước nhảy còn nặng sau dần dần quen mà nhẹ đi. Đến lúc tập được bỏ hết cát đi, thì nhảy nhẹ mình lắm, có thể cao tới mái nhà cũng nhảy được.
5. Tập côn, tập đâu rồi tập khiên mộc, tập múa đại đao - Mỗi cách đã có một bài dạy, khi động, khi tĩnh, khi lên khi lui, khi múa mình khi nhảy nhót, đều có phép cả. Thầy dạy võ cầm mõ làm hiệu, học trò nghe theo tiếng mõ mà đi bài.
Trong khi tập thường phải ăn cháo cho nhẹ người dễ tập. Nếu lúc mới tập mà đau gân xương thì nấu nước lá tre mà xông mình hoặc uống thì khỏi và lại khỏe thêm ra nữa.
Võ kinh của ta thì chẳng qua chỉ những cách xem giờ, kén ngày, coi thiên văn, xét địa lý, tính nhâm độn và các phép huyền ảo v.v...
Còn phép thi võ về những triều trước, thì không rõ thế nào. Duy bốn triều ta, từ năm Minh Mạng thứ mười bảy, mới mở khoa thi võ ở Thừa Thiên, sau lại mở thêm trường thi ở Hà Nội và ở Thanh Hóa. Năm Thiệu Trị thứ năm, nghị định cứ năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu thì mở khoa võ hương thứ, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì mở khoa võ hội thí. Cứ thi văn chương thì kế đến thi võ.
Cách thức thi chia làm ba kỳ:
Kỳ thứ nhất xách tạ. Quả tạ đúc bằng chì, nặng một trăm hai chục cân An Nam. Hai tay mỗi bên xách một quả, đi được mười sáu trượng (mỗi trượng vào bốn thước tây, mười sáu trượng thành ra sáu mươi bốn thước tây) trở ra; hoặc xách một tay một quả, đi được ba mươi hai trượng trở ra thì là ưu hạng, xách hai quả đi được mười hai trượng trở ra, xách một quả đi được hai mươi bốn trượng trở ra thì là bình hạng, xách hai quả đi được tám trượng trở ra, xách một quả đi được mười sáu trượng trở ra thì là thứ hạng. Không được như số ây là liệt hạng.
Kỳ thứ hai thi múa côn sang. (Thời Minh Mạng kỳ này thi múa côn đánh quyền, và đấu gươm mộc, đến thời Thiệu Trị mới đổi cách này). Côn sắt nặng 30 cân, chia ba cầm một phần côn, vừa đi vừa múa và làm bộ nhảy nhót, đâm đánh, hễ đi được ngoài sáu chục trượng là ưu hạng, ngoài năm chục trượng là bình hạng, ngoài bốn chục trượng là thứ hạng, không đầy số ấy là liệt hạng.
Ngọn sang (ngọn giáo) dài bảy thước bảy tấc An Nam, người thi một tay cầm đốc sang, một tay cầm giữa khúc, đứng cách người bù nhìn ba trượng, múa may nhảy nhót ba, bốn bước, rồi mắt nhìn cho kỹ, chạy tuột đến đâm giữa rốn bù nhìn. Hễ đâm trúng mà suốt mũi sang thì là ưu hạng, trúng không là bỉnh hạng, trúng sượt qua là thứ hạng, không trúng là liệt hạng.
Kỳ thứ ba thì bắn súng hiệp. Đứng cách xa chỗ ụ bắn hai chục trượng năm thước, bắn sáu phát súng, hễ hai phát trúng đích, một phát trúng vành tròn, ba phát trúng ụ đất là Ưu hạng; một phát trúng đích, một phát trúng vành tròn, bôn phát trúng ụ đất là bình hạng-, hai phát trúng vành tròn, bốn phát trúng ụ đất là thứ hạng; sáu phát không trúng cả, hoặc trúng đích được một phát đều là liệt hạng.
Quán cả ba kỳ, hễ ai có ưu bình thì lấy đỗ vào hạng võ cử nhân, toàn một hạng thứ thì lấy đỗ vào hạng võ tú tài. Kỳ phúc hạch hỏii vài ba câu võ kinh, tùy văn lý mà chia thứ bậc trên dưới.
Phép thi hội cũng y như phép thi hương, duy mỗi kỳ phải nặng hơn thi hương một chút. Ví như thi hương quả tạ nặng một trăm mười cân thì thi hội phải nặng một trăm hai mươi cân, thi hương đi mười sáu trượng thì thi hội phải đi hai mươi trượng. Thi trúng đủ ba kỳ cho vào hạng trúng cách. Kỳ đình thi ai biết chữ thì vào, không biết chữ xin thôi cũng được.
Đình thi hỏi một bài đại nghĩa trong võ kinh, một vài điều yếu lược về phép dùng binh của danh tướng lịch triều và một vài điều thời sự. Xét văn lý hơn kém thế nào rồi định phân số. Hễ có phân số thì lấy đỗ vào hạng võ tiến sĩ, ban áo mũ cờ biển, cho vinh qui cũng như tiến sĩ thi văn. Ai không được phân số nào, hoặc chỉ trúng hội thi mà không vào đình thi thì cho đỗ vào hạng phó bảng.
Văn võ bao giờ cũng phải dùng cả đôi đường, chớ không bỏ đường nào được. Có văn thì mới gây dựng nên mớì thái bình, mà có võ thì mới dẹp yên được những lúc nguy biến. Vì thế nước ta xưa kia, đã có thi văn thì tất phải thi võ, tuy những lúc bình thời không cần đến ngọn giáo mũi gươm mà vẫn không bỏ được.
Song mỗi thời một khác, khi xưa làm đến việc chiến trận, hai bên còn đấu quân đấu tướng, còn dùng đến kiếm kích qua mâu, còn phải đợi đến người sức hùm tay vượn, mới quyết được thắng bại ở nơi chiến trường, chớ bây giò chỉ quyết được thua bằng trí khôn, bằng tiền của, bằng quân khí gớm ghê, dẫu có tài nhất nhẫn địch vạn như Triệu Tử Long, có sức giang đỉnh bạt sơn như Sở Hạng Võ so với thời này chắc cung không đứng vững được với một trái đạn. Vậy thì võ nghệ ngày xưa, thực là vô dụng cho đời nay lắm.
Ta lại phải một điều nữa là văn võ chia ra làm đôi đường. Người thông thái biết chữ thì thường sức yếu như sên có khi gió mạnh phải ngã, mà người có luyện tập gân cốt, mạnh mẽ hơn người thì thường dốt đặc cán mai, một chữ chi chẳng biết. Ấy đều là cách giáo dục của ta chưa được hoàn toàn: Từ khi nhà nước bảo hộ bỏ cách thi võ, dẫu không cần gì phép võ của ta, nhưng trong cách giáo dục, có riêng một khoa thế thao thì chẳng khác gì dạy ta phép võ mà phép võ ấy mới là có ích, nghĩa là võ không cần phải đánh nhau với ai, chỉ cốt luyện tập cho nên người khỏe mạnh để giúp thêm cho tri thức đặng mà gánh vác mọi việc đòi.
XVI. NGHỀ LÀM RUỘNG
Nước ta là một nước Nông quốc, nghĩa là lấy việc làm ruộng làm gốc sinh nhai. Nguyên địa thế nước ta, có hai đại bình nguyên ở rải theo hai dọc sông cửu Long Giang và sông Nhĩ Hà. Đất tốt màu mỡ, lại ở về nhiệt đới, cây cối dễ mọc, mà người thì ít đất thì nhiều, cho nên xưa nay chỉ lấy việc cày cấy làm trọng hơn cả.
Kỳ thủy ta cày cấy theo hai dọc sông ấy, rồi lần lần khai thác đến các nơi rừng xanh núi đỏ, thành ra một nước chỗ nào cũng là đất ruộng nương.
Ruộng chia làm hai vụ: cày cấy từ tháng năm tháng sáu, đến tháng tám tháng chín được gặt gọi là vụ mùa, cày cấy từ tháng một tháng chạp đến tháng tư tháng năm năm sau được gặt, gọi là vụ chiêm. Cũng có nhiều ruộng làm được cả hai vụ, có ruộng chỉ cấy một vụ, còn một vụ thì trồng màu.
Về các nơi sơn cước, phần nhiều là trồng trà, bông, sơn, cau, cà phê v.v... Ở về các nơi đất bãi phần nhiều là trồng ngô, khoai, đậu, mía, dâu, vừng, lạc v.v... Các thứ ấy mỗi năm được lợi cũng nhiều.
Nhà làm ruộng rất là cần khổ. Thoạt tiên cày võ, bừa cỏ rồi đến gieo mạ cấy lúa. Cày hôm cuốc sớm, vất vả quanh năm, nào khi làm cỏ, nào khi tát nước; trời nắng chang chang, xém cả da cháy cả thịt cũng phải lọm cọm ở giữa cánh đồng, qua sang đông thì trời rét như cắt ruột, xẻo da mà cũng phải dầm chân xuống nước. Nói rút lại thì nghề nghiệp nước ta, không nghề gì khó nhọc bằng nghề làm ruộng. Mà cách ăn uống lại rất kham khổ, trừ ra mấy nhà phong lưu giàu có, còn phần nhiều thì quanh năm chí tối, cơm tương với cà, bữa nào đổi đồ ăn cho khỏi chán thì đến rau muống luộc chấm tương, hoặc đậu phụng kho nước mắm là cùng, bữa nào canh tôm nấu bầu, hoặc canh cua nấu khoai sọ đã là phong vận, còn thịt cá thì hoạ chăng ngày giỗ ngày Tết mới có. Cơm cũng chẳng mấy khi ăn cơm gạo trắng gạo thơm, phần nhiều là cơm đỏ gạo xấu.
Nhà làm ruộng chẳng những người lớn vất vả, dẫu đến trẻ con cũng vất vả. Nào khi chăn trâu chăn bò, nào khi mò cua bắt ốc, khố rách áo ôm, coi hình thù rất tiều tụy.
Thôi nói cái cảnh nhà làm ruộng của ta, thì chẳng còn nước nào khổ hơn. Song cũng lắm lúc vui thú mà vui thú thật. Xem những lúc cấy gặt, chỗ túm năm, chỗ tụm ba đua ganh nhau làm ăn, câu ,truyện pha trò, tiếng cười hể hả làm cho quên sự mệt nhọc mà sinh vui. Lại nhất là đi những quãng đồng thanh vắng thỉnh thoảng được nghe mấy câu hát ví của các cô cấy mạ, tiếng vang lanh lảnh, gió đưa như rót vào tai, khiến cho lòng người bát ngát. Những lúc mùa màng lúa chín, đi hai bên bờ ruộng gió đưa mùi thơm đến mũi, sướng biết là dường nào, lại những khi chiều hôm gió mát, mấy đứa mục đồng ngồi trên lưng trâu thả cánh diều nhỏ, xem dáng nó ung dung đắc ý thì lại thêm vui cho tai mắt mình hơn nữa. Cho nên lại có câu "Điền gia lạc thú" thì tưởng ra không nghề gì vui bằng nghề làm ruộng.
Duy phải một điều là nghề làm ruộng của ta phần nhiều nhờ ở tròi, phần chắc ở sức mình thì ít, có câu tục ngữ rằng: "Mồng chín tháng chín có mưa, mẹ con đi sớm về trưa mặc lòng" lại rằng: "Mồng chín tháng chín không mưa, mẹ con bán cả cày bừa mà ăn". Xem vậy thì biết ta không chịu dùng sức người để tranh quyền tạo hóa, cũng vì nông học của ta chưa mở mang.
Ta lại phải một điều nữa là cách thức làm ruộng từ xưa thế nào, bây giờ vẫn giữ lối ấy, không ai trù nghĩ được cách nào tiện lợi hơn. Mà đất sơn lâm bỏ hoang còn nhiều, chưa khai khẩn được hết.
Ít năm nay nhờ có nhà nước mở mang, đã khai phá được nhiều nơi hoang địa và lại nhờ có cơ khí cày bừa tiện hơn xưa, nhờ có đào kinh xẻ lạch, tiện bề lấy nước và tháo nước. Lại dạy cho ta cách lựa giống, cách bón màu, chẳng bao lâu ta theo được phép canh, nông, thì việc làm ruộng của ta chắc mỗi ngày một phát đạt.
Nước ta công nghệ khoáng sản bề nào cũng kém các nước, duy còn nhờ có hòn đất cao du, lắm thóc nhiều gạo, trước là đủ nuôi nhau trong một nước, sau còn thừa bán ra ngoại dương để có tiền mà chi tiêu mọi việc. Xem như mấy năm nay, mỗi năm tải đi các nước hàng vạn tấn vừa ngô, vừa gạo, đủ biết nước ta thóc gạo là nhiều. Ngưòi Pháp đã có người nói rằng: "Đông Dương là cái kho vô tận của Đại Pháp".
XVII. NGHỀ NUÔI TẰM
Nuôi tằm là một nghề căn bản của nước ta và là nghề của đàn bà. Các nơi có bãi trồng dâu, nuôi tằm nhiều hơn các nơi khác.
Cách nuôi tằm, trước hết mua trứng ngài treo để chỗ mát cho nó nở ra các con sâu nho nhỏ rồi bỏ vào nong, lấy lá dâu thái thật nhỏ như sợi thuốc lào rắc vào nong cho nó ăn. Mỗi ngày phải cho ăn độ ba mươi sáu hoặc bốn mươi tám lần, ít nhất cũng phải hai mươi sáu lần. Cho ăn như thê độ một tuần lễ, rồi thái to hoặc đế cả lá mà cho ăn mỗi ngày độ năm sáu lần. Nuôi cho đến khi thấy con tằm vàng ánh bụng ra thì bắt nó lên né cho nó kéo tơ làm tổ, gọi là quả kéo.
Cứ hai mươi bốn ngày hoặc một tháng thì được một lứa tằm. Nhà thường thường mỗi lứa nuôi vài chục nong, nhà giầu nuôi đến hằng trăm nong.
Nuôi tằm phải làm một phòng riêng hoặc phải làm riêng một cái nhà. Nền nhà phải cao cho khỏi ẩm thấp. Nhà phải kín và bốn mặt đều phải có cửa, thường thường phải mở cửa cho thông khí. Trời nóng phải mở cho mát, trời rét phải đóng cho ấm.'
Phải giữ gìn đừng cho ruồi nhặng đậu vào con tằm. Nếu để ruồi nhặng đậu vào thì sinh ra bọ mà hại kén về sau. Lại phải giữ chuột vì chuột hay ăn tằm lắm.
Nuôi tằm kiêng nhất là hơi người chết. Nếu phạm phải hơi ấy thì tằm giã nước mồm ra, ăn kém không kéo được tơ mà làm thành kén nữa.
Lại kỵ nhất là gió tây. Hễ mùa bức động có gió tây thì tằm chết nhiều, nên phải che kín chiều gió ấy mà mở cửa khác cho mát.
Lại thường phải xem xét tằm tốt hay xấu, nêu con nào xấu thì nhặt bỏ đi, hoặc xấu cả nong thì đổ cả đi, kẻo nuôi tằm xấu hại lá dâu mà không ích gì, lại uổng công nữa.
Khi tằm chín bắt lên né phải đem phơi qua nắng để nó làm tổ cho chóng.
Thành kén rồi, trong ba ngày phải ươm ngay. Nếu muốn để lâu thì phải sấy kén cho con nhộng ở trong quả kén chết đi, kẻo để nó thành ngài cắn quả kén thì hỏng cả tơ.
Nhà nuôi tằm thường người già trẻ đều vất vả. Nào người hái dâu nào người thái lá, nào người săn sóc chăn nuôi. Nhất là khi tằm ăn rỗi lại càng phải chăm chỉ lắm.
Nuôi tằm cũng nhiều lợi lắm. Ai được luôn dăm lứa tằm có thể làm giàu ngay được. Nhưng, không khéo mà để hỏng vài lứa thì cũng thiệt hại nhiều.
Còn như cách ươm tơ của ta khi trước thì cũng còn vụng nhiều, làm cho tơ nhiều đầu mối mà không được thành sợi. Từ khi có trường canh nông dạy ươm theo cách cẩn thận thì tơ đã tốt hơn khi trước.
Cách ươm:
1. Người đàn bà ươm tơ phải xem nước trong nồi ươm nóng vừa độ, đê cho sợi tơ kéo khỏi đứt.
2. Bỏ kén vào nồi ươm phải bỏ từng ít một, lấy đũa nhào đi nhào lại đê lấy sợi gốc ra cho được thanh và đều nhau thì bán càng được nhiều tiền.
3. Khi lấy gần hết gốc thì bỏ đũa ra mà kéo bằng tay cho đến khi ra hẳn sợi tơ. Đừng kéo lấy gốc nhiều quá mà hao tơ.
4. Kén phải bỏ vào nồi cho đều, đừng có khi nhiều khi ít. Mỗi bàn ươm thì ươm hai mối. Muốn cho tơ dễ kéo và dễ bán thì cho bảy con kén làm một sợi.
Những người ươm tơ phải có ý tứ giữ mực, lúc nào cũng bảy con kén, ngộ có sợi nào đứt thì phải nối ngay, mà khi có nhiều con kén hết một lúc cho kén mới vào thay thì để tám con mà thôi chớ nên cho nhiều quá.
5. Cái cần để bắt chéo mối tơ lại thì phải cho dài thì tơ mới tròn mà săn sợi, tơ có chỗ đầu mấu nào thì khi đi qua chỗ bắt chéo ấy phải đứt ngay, mà mình dễ trông thấy để nhặt nó đi:
Còn người quay tơ thì thường thường dùng trẻ con quay cũng được, quý hồ quay cho đều, mà quay mau hay chậm thì tùy người ươm bảo. Lúc nào sợi tơ đứt ra thì người quay tơ phải tìm mốii đứt ở các gàng để cho người ươm quấn mối ấy lên cần mà nối lại cho liền, đừng để thừa mối ra.
Mỗi lúc bỏ kén vào quay để lấy gốc ra thì phải dùng lò ươm cho đều lửa.
Khi nào con tơ đã to độ 40, 50 grammes thì đầu mối phải quấn vào, buộc lại cho dễ tìm rồi đem nguyên cái gàng phơi ra chỗ có gió mà không có bụi cho được chóng khô và sạch sẽ. Khô rồi tháo ra mà để vào chỗ kín đừng để cho ẩm ướt.
Nghề nuôi tằm và nghề làm ruộng đều là nghề nghiệp căn bản rất hệ trọng cho việc sinh nhai và lại rất khó nhọc hơn cả mọi nghề, nước nào thì cũng phải trọng hai nghề ấy làm cốt. Nước Tàu và nước ta, nhà vua cũng phải có ruộng tịch điền, có nhà tầm thất, vua thì phải thân canh, bà hoàng hậu thì phải chăn tằm đê làm gương cho thiên hạ, cũng là ý trọng nghề căn bản đấy thôi.
Tiếc cho nước ta, nghề nào cũng cứ theo một lối cổ, không ai nghĩ được cách biến hóa nào cho mỗi ngày một tấn tới thịnh vượng. Cho nên đồ hàng tằm của ta, tuy cũng dệt được các thứ tơ lụa mà không bao giờ tôt đẹp bằng hàng vóc hàng nhiễu của các nước.
Ít nay nhờ có xem xét hết các cách ích lợi trong việc canh tang thì cũng đã nhiều khi dạy cho ta lấy phép tiện diệu hơn trước. Các nhà canh nông ta, tưởng nên lưu ý mà học lấy các cách khôn ngoan hơn ấy, thì mới có thể thịnh vượng được. Còn như cách dệt hàng, cũng nên bỏ lối cũ của ta mà học theo lối mới hoặc là nhân lối cũ mà cải lương cho thêm tốt đẹp, thì mới có thể đem ra ngoại quốc mà tranh lấy mối lợi với hoàn cầu.
XVIII. NGHỂ BÁCH CÔNG
Đường công nghệ của ta thì kém lắm. Duy có mấy nghề độ vài chục năm nay người nước ta đã chịu khó dùng công làm kỹ càng, và kiểu cách mới, như nghề: khảm xà cừ, nghề thêu, nghê trỗ chạm gỗ gụ, nghề đúc đồ đồng v.v... các nghề ấy cũng đã tân tới. có thể cho vào bậc xảo kỹ, và có thế bán ra ngoại quốc, tranh được ít nhiều mối lợi với hoàn cầu.
Lại còn mấy nghề đang học dở dang chưa được tinh xảo lắm, như nghề nặn tượng đất, nghề làm mũ theo kiêu tây, nghề đan bít tất, nghề đóng giày tây, nghề rút mây làm ghế ngồi, nghề làm pháo, nghề khắc chữ đồng, nghê xi bạc .v.v, các nghê này thông dụng cũng nhiều nếu khi ta học được đến nơi đến chốn, làm cho chắc chắn, tốt đẹp khéo léo thì dẫu chắng bán ra nước ngoài nhưng cũng giữ được tiền của trong nưốc khỏi xông ra ngoài nhiều lắm.
Lại có mấy nghề cũ của ta xưa nay thông dụng ở trong nước rất mạnh mà chưa có thể tranh lợi được với ngoại quốc như nhiễu Bình Định, the La Khê, lụa Cổ Độ, Nguyễn Xá, bút Bạch Liên, mực Kiêu Kỵ, giấy Yên Thái, vải Thượng Hội, giày Trúc Lâm, chiếu cói Thiện Trạo, đồ sành Bát Tràng, đồ mây Phú Vinh, nón lông Kim Dộng v.v... các thứ này tuy là trong nước dùng nhiều nhưng không ai chế ra được kiểu cách mới nào cho thích mắt và hợp dụng với ngươi ngoại quốc, lại e có khi ngươi trong nước dùng mãi cũng chán mà bỏ tiền mua của nước ngoài thì thiệt hại cho của trong nước lắm.
Lại có mấy nghề rất lớn lao, rất đại lợi, nước ta nhiều người có chí ước ao muốn mở mang mà chưa học được và chưa có thể làm được như'nghề chế đồ sứ, nghề dệt vải cát bá, nghề đúc đồ pha lê, nghê đúc sắt v.v... các nghề ấy mới là đại dụng nhưng phải tốn nhiều tiền mới lập được nên công xưởng máy móc mà làm, ước sao cho trong nước có được vài ba công ty to mà làm những nghề ấy.
Còn như mây nghề làm thợ như thợ sơn Đình Bảng, thợ khắc Nhị Khê, thợ đồng Ngũ Xã, thợ mộc Nhân Hiền, thợ nề Yên Phụ, thợ đá Quảng Nam, thợ vàng Định Công, thợ bạc Đồng Tham v.v... thì cũng là các nghề kiếm ăn ra tiền, nhưng chẳng nghề nào là nghề tấn tới thịnh vượng cho nên ngươi làm thợ chỉ kiếm đủ nuôi miệng, có khi ráo mồ hôi thì hết tiền.
Công nghệ là các thứ cần dùng ở trong nước, hoặc cần để ăn, hoặc cần để ở, hoặc cần để trang sức, hoặc cần đê dùng vào việc nọ việc kia, thiếu một nghề nào thì kém một thức dùng ấy. Trong nước đã thiếu đồ dùng tất phải mua của ngoại quốc mà dùng, mua của ngoại quốc bao nhiêu tất thiệt hại cho của cải trong nước bấy nhiêu. Vả lại nhân tình ai là chẳng muôn dùng đồ đẹp, đồ tốt, đồ chắc chắn vững bền, đồ hoa mỹ thanh lịch. Nếu trong nước có đồ dùng mà xấu xa thô bỉ thì người ta chẳng mấy khi muốn nhìn đến, té ra có cũng như không. Vậy muốn giữ cho khỏi hao của thì tất trong nước phải đủ thứ dùng mà đồ dùng phải cho hợp ý người ta, nếu lại muốn chọi khéo đế tranh lợi với hoàn cầu thì lại phải chế ra đồ tốt như người ta hoặc hơn ngưòi ta mới được. '
Nước ta, công nghệ thì cũng chẳng thiếu thứ gì, nhưng chỉ vì tính người mình không biết quí trọng công nghệ, người làm nghề tựa hồ như bất đắc dĩ không học được mà làm quan, chẳng lẽ ngồi khoanh tay mà chịu chết mới phải xoay ra làm nghề mà thôi. Mà làm nghề thì không cần gì lấy tinh xảo, chỉ cốt làm cho bán rẻ tiền được nhiều người mua là hơn. Nghề như thế thì mong sao cho tấn tới thịnh vượng được, mà công nghệ suy nhược, lại là vì người có học thức không chịu làm, người chịu làm thì lại là người không có học thức, chẳng qua chỉ theo lối cũ nghìn năm xưa chớ không nghĩ được cách thức mới nào nữa.
ít năm nay, có trường bách công dạy dỗ, có lắm lời tân học cổ động thì cũng đã tỉnh ngộ ra ít nhiều và cũng đã có người sinh được nghề khéo, học được nghề mới, tranh được lợi buôn bán một đôi ít rồi. Song cái tính khinh đường công nghệ của ta thi vẫn chưa bỏ được. Dầu có người như công nghệ mà làm nên giàu có song vẫn tự coi mình đê tiện, phải mượn cái phấn ông hàn ông bá mới là vẻ vang. Tục ngữ có câu rằng: "nhất nghệ tinh, nhất thân vinh", lại có câu rằng: "Ruộng bề bề chẳng bằng một nghề trong tay". Than ôi! Cố nhân ta đã có những câu ấy mà ta không ai biết trọng là cớ sao vậy?
XIX. NGHỀ BUÔN BÁN
Việc buôn bán nước ta cũng suy đồi lắm. Bao nhiêu các mối lợi to như vận hàng hóa xuất dương, khai mỏ, mở nhà ngân hàng, lập đại thương cục v.v... thi ở cả tay các ngươi ngoại quổc, chớ người mình thì chưa thấy mấy người dựng nên công cuộc nào hoặc hợp cô mà làm nên việc gì to tát. Duy vài chục năm nay thi mới có mấy nhà phú thương gây dựng được vài việc như công ty tàu thủy, hiệu cầm đồ, hiệu nhà in, cửa hàng bán đồ thêu đồ khảm v.v... có việc vốn tới vài ba mươi vạn, kẻ làm công tới một hai trăm người, kể đã là to song so với cách buôn bán của ngoại quốc thì vẫn chưa thấm vào đâu cả. Dưới hạng này thì các nhà buôn bán ở các nơi thành phố, người thì mở hàng cân ngô cân gạo, người thì buôn cất hàng Tây hàng Tàu, hoặc người thì buôn hàng tơ lụa, hoặc ngươi thì bán hàng tạp hóa, hoặc ngưòi thì cho vay đặt lãi, để tranh lợi với bọn sắt Ty v.v... Những nghề này dấn vốn nhiều ra độ một vài vạn, ít nữa độ đôi ba nghìn, cũng nên kể là nhà buôn bán to của An Nam ta.
Lại còn các nhà buôn thuyền bán bè chỏ tỉnh này qua tỉnh khác, hoặc mắm hoặc muối, hoặc ngô hoặc gạo, hoặc củi hoặc gỗ, hoặc nứa hoặc tre v.v... Hạng này cũng kế là một việc buôn bán vật lực, cũng phải một vài nghìn vốn mới đủ dùng.
Dưới nữa thì là các nhà tư bản ít ỏi, đan lồng phất giấy, buôn chợ kia bán chợ nọ, buôn chiều hôm bán sớm mai. Nan người nứa ngươi, nhờ cái tay khéo phất, kiếm được đủ ăn tiêu đủ thuế má là tốt, mà không khéo vỡ nợ bỏ xứ mà đi cũng nhiều.
Còn về chốn nhà quê nơi nào không có ruộng nương, không có nghề nghiệp gì thì xoay ra làm hàng xay hàng xáo, lái trâu lái bò hoặc bán hàng quà hàng bánh kiếm ít lời đầu tôm, đầu cá, về nhà cơm rau cơm cháo cho qua đời. Nhà nào có được một vài trăm bạc, bỏ ra vốn đong vốn để hoặc chứa thóc gạo, đong lúc rẻ bán lúc đắt, hoặc cầm bát họ bát hàng, đã kể là phong vận hơn người.
Xét ra việc buôn bán của ta không được thịnh vượng bằng các nước cũng bởi nhiều cớ:
Một là vì ta không biết trọng nghề buôn bán. Phần nhiều người chỉ nô nức về đương công danh sĩ hoạn mà coi nghề buôn bán là một nghề khinh thường. Người giàu có cho con đi học, mong cho con về sau nhất ra thì làm nên ông nghè, ông bảng, không nữa thì cũng phải làm được ông hậu, ông hàn, chớ nào ai mong cho con mai sau làm nên bác tài này ông tài nọ. Người làm quan trở về thì lấy gió mát trăng thanh, cúc thơm lan tốt chè chuyên thuốc quấn, đàn ngọt hát hay làm vui thú, chớ nào ai thiết gì ông chủ cửa hàng nọ, ông quản lý cửa hiệu kia. Mà các bác nhờ tổ ấm đủ bát ăn thì cũng lấy sự thanh nhàn là thú ở trên đời, còn việc buôn bán thây mẹ đĩ. Té ra bao nhiêu công việc buôn bán phần nhiều ở trong tay người đàn bà và ở trong bọn mấy chú lái thì mong sao mà mở mang ra to được:
Hai là vì nhát tính không dám đi xa. Người nhờ có dấn vốn chỉ ngồi phền phệt một xó, cái gì cũng chờ người ta mang đến tận nơi, mua tranh bán cướp với nhau, chớ một bước cũng không dám dời đi đâu cả. Ví dụ có đi chăng nữa thì chẳng qua Hà Nội xuống Hải phòng, Sơn Tây xuôi Nam Định đã cho là xa xôi, ai bần cùng lắm mới lên đến Lào Cai, Yên Bái, hoặc vào đến Bình Định, Sài Gòn. Còn chỉ những lo nước độc ma thiêng, hoặc là phong ba bất trắc mà quanh năm chí tối, bán quẩn buôn quanh.
Ba là vì không có lòng thành thật, nhất là những kẻ gian tham, của một nói thách lên mười để lừa những người khờ dại, nhờ cái sự sơ ý của người ta mà kiếm ăn làm giàu làm có, thì cái tài ấy cũng đáng khinh bỉ lắm. Lại còn những kẻ giả dốì điêu chác nói tốt bán của xấu, càng người quen càng nèn đau thì cũng đáng khinh nữa. Đến như các nhà hợp cô mở ra hội này hội khác, công việc chưa thành, đã đem lòng ngờ vực nhau rồi. Nào là chủ hội thì nghi cho người làm công ăn bớt, nào là người có phần thì nghi cho chủ hội hà lạm. Mà rồi thì ai ai cũng chỉ muốn giữ lợi riêng, chẳng quản gì đến hội nữa. Vì thê người có phần sinh chán, mà chẳng bao lâu phải tan.
Bốn là vì ta không có lòng kiên nhẫn. Phàm làm việc gì, có phải dễ dàng mỗi chốc mà thành hiệu ngay được đâu. Ta buôn bán động hơi thấy lỗ vôn một chút hoặc hơi vấp váp điều gì thì đã ngã lòng ngay. Hoặc người đóng cửa trả môn bài, hoặc ngưòi xin thôi cổ phần, làm cho các việc có cơ tấn tới mà cũng phải tan không thành nữa.
Năm là vì ưa phù hoa, lấy sĩ diện với ngoài. Ai buôn bán hơi được kha khá phát tài, đã vội vàng đổi ngay bộ dáng cũ. Cửa nhà trang sức rực rỡ, coi ra dáng đại phú gia rồi. Đi đâu thì quần nọ áo kia, xe xe ngựa ngựa, nghênh ngang lên mặt tưởng không ai phong lưu bằng ta, nhất là dư của mà mua được tiếng ông hàn, ông bá thì lại coi ra dáng nữa. Chí khí nông nổi như vậy thì tích lũy làm sao cho nên một vốn to để mở mang cho mỗi ngày một phát đạt.
Vì các nỗi trên này mà đường buôn bán suy nhược, trách nào mà bao nhiêu lợi quyền, chẳng vào tay người khác.
Ít lâu nay đã có người hiểu cách buôn bán là trọng, lập nên công này việc khác cũng đã ra tuồng, và cũng đã được hưởng những lợi quyền sung sướng ở trong việc buôn bán. Song nghìn muôn ngưòi mới được một vài ngưòi, chớ phần nhiều thì vẫn u u mê mê như trước mà dẫu có muốn mở mang cũng không có lòng thành tín và lòng kiên nhẫn để cho nên một cuộc hay.
Than ôi! Việc lý tài chung của một nước, trọng nhất là sự buôn bán. Đường buôn bán có thịnh thì nước mới thịnh, đường buôn bán mà suy thì nước cũng suy. Thử xem như các nước cường thịnh, bây giờ nước nào là nước không có tàu đi buôn đi nhiều nơi. nước nào là nước không có hiệu buôn lập nhiều chốn, có đâu lại lạ như nước ta, không được một chiếc, tàu nào xuất dương, một cửa hàng nào ở ngoại quổc, vậy mà cứ muốn vinh dự như các nước, thì vinh làm sao được?
XX. Y DƯỢC
Ta trước đây chỉ dùng hai thứ thuốc: các vị của Tàu gọi là thuôc bắc, các vị của ta gọi là thuốc nam.
Thuốc nam cũng nhiều phương thần hiệu lắm. Như thuốc bó xương, thuôc rắn cắn. thuốc chó dại v.v... nhiều khi chữa khỏi trông thấy. Chắc cũng còn nhiều phương thần hiệu nữa; nhưng ngặt vì tính người mình bí hiểm, ai có phương nào tuyệt hay thì chỉ để làm bài thuốc gia truyền mà kiếm lợi riêng một mình; chớ không ai làm ra sách vở hoặc truyền lại cho người khác. Người ấy mất thì bài thuốc cũng mất, cho nên không còn mấy bài hay đê đến bây giờ.
Thuốc nam không có cách xem bệnh tinh vi bằng thuôc bắc, chỉ bệnh nào phát hiện ra ngoài thì cứ theo bài thuốc truyền tục mà chữa thôi. Ví như sốt rét thì uổng nước lá ngâu, đi tả thì ăn lộc táo hoặc nấu nước lá ổi tàu, vỏ dừa mà uống; trẻ đầy bụng thì giã lá xoan với con gián đất mà dit vào rốn, đàn bà đẻ thì uống nước lá nhân trần, cao ích mẫu v.v... Các bài ấy chốn hương thôn dùng nhiều mà nhiều bệnh lại không phải thầy thuốc xem xét nữa; cách ấy là cách cẩu thả, các người cẩn thận không mấy khi dùng.
Người cẩn thận ưa dùng thuốc bắc nhiều. Thuốc bắc nguyên từ đời vua Hoàng đế bên Tàu nếm các thứ cỏ cây mà chế ra, các vị thuốc có vị hàn vị nhiệt, có vị bình thường không nóng không lạnh, có vị ôn hòa. Làm thuốc biết bào chế rồi mới chữa được bệnh.
Về sau các danh y như Hoa Đà, Biển Thước v.v... mỗi ngày lại kê cứu thêm tinh vi, mà chế ra nhiều phương thuốc hay và soạn ra sách vở để lưu truyền về sau.
Bệnh chứng đại để chia ra làm hai căn nguyên; một là nội thương, hai ngoại cảm. Nội thương là gốc bịnh tự trong phát ra hoặc vì huyết khí suy nhược, hoặc vì thất tình không được điều hòa, ăn uống chơi bời quá độ mà sinh bệnh; ngoại cảm là gốc bịnh ở ngoài nhiễm vào, hoặc nhiễm phải phong hàn thử thấp, hoặc nhỡ ăn phải độc chất mà sinh bịnh.
Người chữa bệnh cũng chia làm hai môn, một môn nội khoa và một môn ngoại khoa. Môn nội khoa chuyên trị những bịnh đau yếu trong tạng phủ hoặc nhức đầu, đau mắt, sốt rét, ho lao v.v... Môn ngoại khoa chuyên trị những bịnh què, gãy, nhọt, ghẻ v.v...
Nội khoa phần nhiều là dùng thuốc chén, hoặc công, hoặc bồ, hoặc hạ, hoặc giải; ngoại khoa phần nhiều là dùng thuốc cao, thuốc lá để xoa bóp hoặc châm chích, cắt mổ mà trị bề ngoài.
Cách xem bệnh có bốn phép cốt yếu:
1. Vọng (trông) là phải xem hình dung người bịnh, coi sắc người thế nào, hoặc xanh vàng, hoặc đen xám, rồi mới đoán được gốc bịnh.
2. Văn (nghe) là nghe xem tiếng nói người có bịnh hoặc mê hoặc tỉnh hoặc trong hoặc đục để đoán bịnh nặng nhẹ dường nào.
3. Vấn (hỏi) là hỏi người có bịnh hoặc gia nhân người có bịnh xem căn do bởi đâu mà thành bịnh, hoặc hỏi xem nóng lạnh thế nào và đã uổng những thuốc gì để cho biết thêm đích xác.
4. Thiết (bắt mạch) là xem mạch ở hai cổ tay, xét xem người bịnh đau tại đâu, hoặc hàn, hoặc nhiệt, hoặc hư, hoặc thực thế nào, rồi mới biết chắc được bệnh mà bổc thuốc.
Trong bốn cách: vọng, văn, vấn, thiết thì cách xem mạch là tinh vi hơn cả. Mạch mỗi cổ tay có ba bộ thôn, quan, xích, mỗi bộ đều ứng nghiệm vào trong tạng phủ. Ví như cổ tay ta, bộ thôn thì thuộc tâm, bộ quan thì thuộc can, bộ xích thì thuộc thận âm. Cổ tay hữu, bộ thôn thuộc phế, bộ quan thuộc tỳ, bộ xích thuộc thận dương. Mà mỗi tạng lại kèm theo một phủ.
Mạch. Sơ án đã thấy mạch gọi là phù, trọng án mới thấy mạch gọi là trầm, nhất tức tam tứ chí gọi là trì; nhất tức lục thất chí gọi là sác. Mạch bộ nào thì ứng vào tạng phủ bộ ấy, xét xem nối chìm mau chậm thế nào thì. mới đoán được trong tạng phủ thủy hỏa suy vượng khí huyêt hư thực mà chữa bệnh.
Xem mạch phải về buổi sáng sớm, tinh thần còn an tĩnh thì xem mới được. Khi đã xét được đích bịnh còn ở đâu, bấy giò mới lập phương bốc thuốc.
Nước ta theo dùng thuốc bắc đã lâu. Tự đời Hồ Hán Sương đã lập tòa y viện để chữa bệnh cho nhà vua. Đám quân thứ và các tỉnh cũng đặt ra quan điều hộ đế chữa bịnh cho các quan và quân lính.
Về cuối đời nhà Lê, có ông Lê Hữu Trác là người làng Hiệu Xá huyện Đường Hào (thuộc tỉnh Hải Dương), học thức rộng, giỏi vê nghề làm thuốc, có tiêng thánh y ở đời. Ông ấy có soạn ra một bộ sách thuôc, hai mươi sáu quyến, gọi là bộ Hải Thượng Lãn Ông truyền ở đời. Bộ sách tinh hiệu lắm, bấy giờ các nhà làm thuôc theo dùng nhiều.
Thời Minh Mệnh lại có ông Trạch Viên là người Bắc Xinh, thời Tự Đức lại có ông Đô Văn Tuyển là người Hưng Yên, cũng đều là tay danh y có tiêng trong nước.
Ít lâu nay, trong nước đâu đâu cũng có nhà thương, có những y khoa chuyên môn Thái tây coi việc chữa bệnh. Nhà nước lại mở ra trường Thái y viện để dạy người ta học cách làm thuốc theo lối Âu châu. Ta cũng nhiều người học được cách hay, mà dân gian theo dùng, thuôc tây cũng đã nhiều.
Thuốc thang là một sự rất quan hệ cho việc vệ sinh, dù thuốc nam, dù thuốc bắc, người mới chế ra, mới đặt ra bài thuốc, chắc là đã có kinh nghiệm rồi mới dám truyền cho đời sau, thì cũng không nên nhất thiết bài bác cho là không hay cả được.
Hiềm vì xưa kia nước ta không biết trọng việc vệ sinh, không biết trọng nghề làm thuốc. Thường cho nghề làm thuốc là một nghề nhỏ mọn, không mấy người lưu tâm về việc ấy. Nhà vua cũng không đặt ra khoa học thuốc, không có phép thì không có chức lớn, không có cách nào cổ động cho lòng người. Cho nên những người thông minh tài trí còn đua ganh về nghề khác mà không ai tưởng gì đên nghề này. Trừ ra chỗ Thái y viện coi riêng về việc thuốc thang nhà vua là một nơi rất cẩn trọng thì còn có quan Ngự y, có y sinh còn có chuyên môn học tập một chút. Còn như chốn dân gian thì chỉ những người bất đắc chí trong đường khoa cử sĩ hoạn mới xoay ra xem sách thuốc để lấy nghề sinh nhai về sau. Ai xem hết dăm bảy bộ sách thuốc như bộ Cảnh nhạc, Phùng thị cẩm nang, Y tôn kim giám, Thạch thất, Hải Thượng Lãn Ông v.v... thì làm thuốc cũng đã kha khá, ai có chí kê cứu nhiều và làm thuốc đã lịch duyệt lâu năm rồi thì thuốc men cũng chín chắn, mạch lạc mới phân minh. Song mấy người có chí, chẳng qua xem qua loa mấy bộ đã tự đắc là hay là giỏi, may ra chữa được một vài chứng bệnh nguy hiểm ngẫu nhiên mà khỏi, đã nổi tiếng là danh sư. Còn phần nhiều là người thiên học, xem vọc vạch mấy bài tân phương bát trận, hoặc mấy bài nghiệm phương tân biên, rồi cũng dám lên mặt ông lang, đi khắp chợ cùng quê để chua bệnh cho thiên hạ. Mạch thấy nắm cũng nắm, mà có hiểu thế nào là mạch thực, mạch hư, bệnh thấy xem cũng xem, mà có hiếu thế nào là bệnh hàn bệnh nhiệt. Động xem đám nào cũng giảng qua một đôi lời: Bệnh kia chân hỏa nhược, bệnh nọ chân thủy khuy, bệnh ấy nên bổ tỳ, bệnh khác nên bổ thận v.v... Thuốc biết lập phương, biết gia giảm đã vào bực khá, chớ còn nhiều ông lang chỉ cứ bệnh nào phương ấy, đã có một cuốn sách trong tráp làm thầy.
Lại có một hạng thầy lang không cần phải đi xem bệnh cho ai, hễ người có bệnh cho người nhà đi lấy thuốc thì cứ hỏi từng câu mà bốc từng vị. Ví dụ hỏi có ho thì gia cam thảo kết cánh, hỏi không lợi tiểu tiện thì gia xa tiển mộc thông, rồi bốc thêm một vài vị vô thưởng vô phạt như hoài sơn, phục linh v.v... Hoặc đệm thêm một nắm lá xì xằng cho to gói thuốc đê lấy cho đáng đồng tiền của người ta. Cũng may mà dân ta phần nhiều còn ngu xuẩn, sống chết đổ cho tại số, chớ không thì các ông lang ấy chắc ăn không ngon ngủ không yên.
Than ôi! Tính mệnh của ngưòi ta rất trọng, nghề làm thuốc là nghề rất khó, mà ta đã không có khoa học thì chớ, lại coi là việc dễ dàng, một nghề nhỏ mọn thì thuổc thang hay làm sao cho được.
Còn như thuốc nam, cũng lắm bài hay, mà tiếc vì không có sách di truyền chỉ còn một vài bài gia truyền của mấy nhà giữ được thì còn thấy hiệu nghiệm đó thôi. Giá thử có người chịu khó kê cứu cách thức thuốc nam thuổc bắc cho tinh tường, lại học thêm những bài kinh nghiệm, hợp lại mà làm riêng một khoa y học An nam thì có lẽ cũng hay lắm.

XX. BỐC PHỆ
Lối bốc phệ khởi trước từ vua Phục Hi, xem tượng Hà Đồ mà vạch ra tám quẻ: càn, khảm, cấn, chấn, tốn, ly, khôn, đoài. Tám quẻ ấy là tám quẻ chính. Mỗi quẻ chính lại nhân ra tám quẻ trùng quái, tám tám thành ra 64 quẻ. Mỗi quẻ trùng quái có sáu nét vạch gọi là sáu hào, sáu mươi bốn quẻ thì cả thảy có 384 hào.
Trong 384 hào, mỗi một hào biến động lại hóa ra quẻ khác, cho nên cai quát hết muôn việc biến hóa của trời đất. Mà muôn việc trong trời đất thì không điều gì ra được ngoài lỗ âm dương ngũ hành. Phép bốc phệ chỉ suy về âm dương ngũ hành mà đoán hết được mọi việc.
Sau vua Phục Hi có vua Văn Vương đặt ra thoán từ là lời đoán từng quẻ; ông Châu Công đặt ra hào từ là lời đoán từng hào. Đến Đức Khổng Tử lại đặt ra tượng từ là lời giải nghĩa các thoán từ hào từ của Văn vương Châu Công, từ đó các nhà bói toán cứ theo lời ấy mà đoán quẻ.
Phép bói dịch thì chỉ có hai cách: một là bói rùa, hai là bói cỏ thi. Các nhà thuật số về sau, lại suy diễn cái lẽ âm dương ngũ hành mà đặt ra nhiều phép bói như là ưởng bốc (bói bằng tiếng), ngoã bốc (bói bằng ngói), mễ bốc (bói bằng gạo), hoa thảo bốc (bói bằng cành hoa lá cỏ) v.v... Kể ra thì nhiều cách lắm, song tục ta theo dùng thì đại để có mấy lối kể sau này:
Thi bốc. Là phép bói cỏ thi. Phép này, trước hết phải có một bộ năm mươi chiếc cỏ thi, cắt đều nhau dài chừng ba bốn tấc, bỏ vào một cái túi, để cho sạch sẽ cẩn thận. Khi có việc gì cần phải bói thì mới đem bộ cỏ thi ra đặt trên một cái yên, thành kính mà đem việc của mình nghi ngờ, khấn xin thần minh chi giáo. Đoạn bỏ riêng một chiếc cỏ thi vào trong túi, để sánh với thái cực, còn bốn mươi chín chiếc chia làm đôi mà đặt xuống hai cái khấc một mảnh ván con, rồi tay tả cầm lấy một nắm cỏ thi ở phía tả, lại lấy một chiếc cỏ thi ở cái khấc phía hữu cài vào khe ngón tay bên tả, để sánh với tam tài.
Đâu đấy mới lấy tay hữu mà đếm nắm cỏ thi bên tay tả, cứ bốn một mà đếm, nghĩa là thủ tượng với tứ thời. Đếm như thế rồi còn thừa số sau cùng hoặc một, hai, ba, bốn chiếc thì cài vào trong khe ngón tay vô danh. Đó gọi là trả số lẻ mà cài vào trong ngón tay để sánh với tháng nhuận.
Đếm xong thì lại trả những số đếm rồi để vào chỗ khấc lớn phía tả rồi cầm lấy một nắm ở phía hữu mà đếm bằng tay tả, cách đếm cũng như trước, rồi còn số thừa thì cài vào khe ngón tay giữa. Đoạn lại trả số đã đếm rồi để vào khấc lớn phía hữu.
Xong thì hợp cả ba số cài trên tay mà đặt xuống một khấc nhỏ thứ nhất trên mảnh ván.
Đó là một lần đếm. Lần thứ hai dồn những cỏ thi để hai khấc lớn làm một, rồi chia ra hai bên, lại theo cách trước mà đếm. Lần thứ ba cũng làm như vậy. Ba lần đếm như thế rồi hợp cả số đã đếm còn được ba mươi sáu chiếc thì là hào lão dương, gọi là trùng, khuyên một cái vòng tròn làm dấu, còn ba mươi hai chiếc là thiếu âm, gọi là sách. Vạch hai nét như hình chữ bát làm dấu, còn hai mươi tám chiếc là thiếu dương gọi là đơn, vạch một chữ nhất làm dấu, còn hai mươi bốn chiếc là lão âm gọi là giao, vạch chéo chữ thập làm dấu.
Ba lần đếm mới thành một hào, thành một hào rồi thì hợp cả lại mà đếm như trước. Đếm hai mươi tám lần thì được sáu hào, mới thành một quẻ. Thành quẻ rồi thì xem hào nào động biến làm sao, rồi cứ chiếu các lời của Văn vương, Châu Công Khổng Tử ; hoặc là xét trong quái hoạch của Phục Hi mà đoán. Bói hay dở chỉ tại người đoán cao đoán thấp mà thôi.
Tục ta cho phép bói dịch rất thiêng liêng, cho nên khi xưa nhà vua có việc gì to tát quan hệ, thường sai bói dịch. Các nhà thi thư nước ta tin mến đạo dịch, cũng nhiều nhà chứa sẵn một bộ cỏ thi, để vào túi gấm rất cẩn thận và hương hoa thờ phụng quanh năm. Khi có việc quan trọng đem ra bói, cũng nhiều khi có điều linh nghiệm, nhưng có cao đoán mới hay.
Mai hoa bốc. Là phép bói chiết tự. Phép này của ông Thiệu Khang Tiết đời nhà Tống đặt ra, đã đặt sẵn từng quẻ và có sẵn những lời giải đoán. Ai có việc gì muốn bói thì tùy ý mình, muốn viết chữ gì thì viết, phải viết ra một chữ rồi mới trông hình trạng chữ hoặc đếm nét chữ mà khép vào quẻ, xem lời quẻ thế nào mới đoán được. Hoặc lấy ý nghĩa trong chữ mà đoán. Ví dụ một người bói việc cầu hôn có thành không, viết ra một chữ tử. Người đoán: chữ tử trên chữ nhất dưới chữ uyên.
Thế là nhất sàng cẩm bị túc uyên ương (một giường chăn gấm chim uyên ương ngủ), tất là việc cầu hôn thành. Lại một người xem vợ đi xa đã đến chưa, viết ra một chữ dạng. Người đoán: chữ dạng tựa như chữ ân, mà trên không có đầu; lại giống chữ nghĩa, mà dưới không có chân. Thế là đoạn ân tuyệt nghĩa, tất là không được gặp nhau v.v... Phép này cách đoán cũng mông mênh lắm, ta đôi khi mới có người xem chơi mà thôi.
Kim tiền bốc. Là phép bói gieo tiền đồng. Phép này thì từ Kinh phòng đời nhà Hán đặt ra. Về sau ông Giã Hạc lại lập sẵn các quẻ, và nghị luận thêm tinh tường, cho nên lại gọi là phép bói Giã Hạc. Phép này giản tiện hơn cả các cách khác cho nên ta theo dùng nhiều, mà nhất là các thầy bói lại chỉ chuyên về phép ấy.
Phép bói phải có ba đồng. Người xem bói hoặc bói việc công danh, hoặc hỏi việc tài lợi v.v... thì nói cho thầy bói biết. Thầy bói khấn rồi gieo quẻ. Hễ ba đồng ngửa cả gọi là trùng, ba đồng xấp cả gọi là giao, một sấp hai ngửa gọi là đơn, một ngửa hai sấp gọi là sách.
Mỗi lần gieo là một hào; Trùng là hào thái dương, giao là hào thái âm, đơn là hào thiếu dương, sách là hào thiếu âm.
Gieo sáu lần thành một quẻ, bấy giờ mới xem hào nào động, hào nào tĩnh mà đoán.
Sáu hào ăn theo năm việc là phụ mẫu, thê tài, huynh đệ, tử tôn, quan quỷ. Hễ hào nào động thì chủ về việc ấy ví như hào phụ mẫu động thì chủ về việc cha mẹ, hào tử tôn động thì chủ về việc con cháu v.v...
Đoán quẻ cốt nhất phải tính ngũ hành sinh khắc. Ngũ hành tương sinh:
Mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh thủy, thủy sinh mộc.
Lại cần nhất là phải xem thế ứng đứng vào hào nào. Thế tức là mình ứng là người ngoài, hễ mình đứng vào đâu là chủ vào mình quan hệ với việc ấy.
Xem quẻ lại phải xem nhật thần (ngày) nguyệt tướng (tháng). Hễ nhật nguyệt sinh phù vượng trợ cho mình là tốt, hình xung khắc hại với mình là xấu. Lại xem việc mình sở chủ, như mình chủ cầu danh thì xem hào quan quỷ, chủ việc buôn bán thì xem hào thê tài v.v... Việc sở chủ được sinh vượng thì hay, phải hình xung thì dở.
Phép bói này giản tiện mà cao đoán cũng hay. Nhưng nghề thầy bói thì chỉ thuộc lòng các lề lối, xem gia sự, hễ thấy hào quan quỷ động thì cho ngay là có ma làm, đã xui nhà chủ phải cúng cấp thế này thế khác; xem cầu tài, thấy hào thê tài động hoặc bị nhật thần nguyệt tướng xung khắc thì cho ngay là thất lợi, xui người ta giữ gìn cho khéo kẻo mất trộm. Thầy bói phần nhiều là nói dựa, may ra một trăm điều, cũng trúng một hai điều thì đã nổi tiếng là hay.
Ngoài các phép trên này, ta còn cách bói Kiều, bói âm dương nữa. Bói Kiều là mình có việc gì muốn được biết hay dở đường nào thì khấn với Thúy Kiều, Kim Trọng xin cho mấy câu dòng nào, rồi mở cuốn sách Kiều, bất kỳ chỗ nào, gặp chỗ nào thì lấy mấy câu thứ mấy ở trang ấy mà đoán. Cách này là một cách bói chơi, nhưng cũng nhiều khi có người cho là nghiệm. Bói âm dương là mình có việc gì cầu khẩn với thần thánh, không biết việc ấy có nên không, hoặc hay dở thế nào thì lễ mà khấn xin một keo âm dương. Hễ gieo hai đồng tiền trên cái đĩa, một đồng sấp một đồng ngửa là sở cầu như nguyện; hai đồng xấp cả hoặc ngửa cả đều là không nên việc. Hoặc một đồng ngã một đồng còn quay thì là thần thánh cười chưa cho quyết bề nào, lại phải kêu xin gieo quẻ khác cho được biết chắc.
Nước ta tin việc quỷ thần, cho nên càng theo cách Tàu mà chuộng việc bói toán. Bói cốt là đem việc mình mà bói quỷ thần, để quyết cái lòng mình ngờ vực, định cái sự mình hồ nghi, cho đặng biết đường hay lẽ phải để theo về đường lành mà lánh đường dữ.
Việc bốc phệ là của các tiên thánh đặt ra, mà xét trong sử sách, phép bói cũng nhiều điều linh nghiệm lắm. Các thầy bói giỏi như Quản Lộ, Quách Phác xưa kia, đoán trăm quẻ trúng cả trăm, còn rành rành để chuyện lại đời sau, không nên cho là điều vô lý cả được.
Duy một điều: phần ứng nghiệm thì ít mà phần viển vông thì nhiều; mà cũng chắng mấy khi cao đoán, chắng qua các thầy bói nói rờ nói rẫm, trăm điều làm sao chẳng tin được một, hai điều.
Vả lại, người ta nên tin ở sức mình tài mình. Việc gì mình đã có chí thì phải làm nên được. Sự hay sự dở do ở mình mà mình làm việc gì thì tất mắt mình trông thấy trước, can gì phải hỏi đâu, mình cứ một mục đích, theo lẽ phải, dù may dù rủi mặc dầu, can gì phải hỏi xem hay dở thế nào nữa. Ví dầu có thần thánh thì thần thánh cũng dạy mình theo lẽ phải, không có lẽ thần thánh thấy mình phải mà lại bảo không nên làm được. Còn như cái họa phúc, bảo rằng bói để nhờ thần thánh dạy cho, để biết đường trước mà liệu mình. Lời ấy thì lại thiêng lắm. Họa phúc là mình làm lấy chớ không tự đâu mà nếu có sự bất kỳ, một may một rủi, thì chẳng qua là sự xảy ra, chớ người hay, dẫu nghèo khổ cơ cực trăm nghìn năm vẫn còn tiếng hay, người dở dẫu giàu sang sung sướng, trăm nghìn năm vẫn là tiếng người dở, can gì phải liệu mình. Vậy thì phép bói, dù linh nghiệm dù không linh nghiệm thế nào mặc lòng, thiết tưởng người ta không nên tin, nghĩa là tin cũng vô ích không giúp thêm được việc gì mà lại thêm làm ngại lòng cho người ta nữa.
XXI. ĐỊA LÝ
Tục ta trọng việc địa lý, phàm việc xây thành, lập quách, cất đình dựng chùa, hoặc là làm cửa làm nhà, để mồ để mả đều phải tìm nơi hình thắng và chỗ cát huyệt. Đất lập cửa nhà gọi là dương cơ, đất để mả gọi là âm phần. Dương cơ trọng hơn âm phần. Có câu rằng nhất dương thắng thập âm. Song dương cơ thì thường dân ít kén chọn, chỉ cốt lấy hướng cho được thuận thì thôi: còn âm phần thì thường nhờ thầy địa lý đi tìm tòi cẩn thận lắm.
Phép địa lý có đã lâu. Từ đời nhà Tàu đã có một người ẩn sĩ soạn ra kinh Thanh nang, đến đời nhà Hán thì có ông Trương Tử Phòng soạn ra bộ Bình sa ngọc xích, nhà Tấn có ông Quách Phác soạn ra Táng kinh, đời nhà Tống có ông Trương Tử Vi soạn ra bộ Ngọc tủy chân kinh, còn ông Trần Đoàn soạn ra bộ Kim tỏa bí quyết, đời nhà Nguyên có ông Lưu Bỉnh Trung soạn ra bộ Kim đẩu quyết táng pháp. Còn nhiều nữa, không kể xiết được.
Từ đó phép địa lý truyền khắp đất Tàu, mà nước ta cũng mộ theo phép ấy. Nước ta có ông Nguyễn Đức Huyên người làng Tả Ao huyện Nghi Xuân tỉnh Nghệ An, về đời nhà Lê, sang học phép địa lý bên Tàu giỏi lắm, trở về nước nhà làm đất, nổi tiếng lừng lẫy, hẳn bây giờ ai ai cũng còn biết tiếng ông Tả Ao.
Sau lại có ông Hòa Chính là tiến sĩ, cũng sang Tàu học được phép địa lý có làm bộ sách để lại.
Phép địa lý trước hết phải phân biệt hình đất. Đất có 5 hình chính là: thủy, hỏa, mộc, kim, thổ, thủy là hình miếng đất lè phè, hỏa là hình miếng đất nhọn, mộc là hình miếng đất dài, kim là hình miếng đất tròn, thố là hình miếng đất vuông. Lại có nhiều các biên hình nữa, ví như: trong miếng đất vuông có hình tròn gọi là thổ phù kim; miếng đất dài có nảy nhánh ra gọi là mộc sinh nha v.v...
Mỗi đất lại có một kiểu riêng, kiểu nào trông địa thế giống như hình gì thì gọi là kiểu ấy. Có kiểu gọi là lục long tranh châu, có kiểu gọi là phượng hoàng ấm thủy, có kiểu gọi là tê ngưu vọng nguyệt; có kiểu gọi là quần tiên hội ẩm, có kiểu gọi là nhất hổ trục quần dương v.v... Đất có hợp vào kiểu mới là đại địa.
Lại có chỗ gọi là con rùa, con cá chép, con voi, con ngựa, cái cờ, miếng ấn, ngòi bút, thanh kiếm v.v... cũng tùy theo kiểu đất hình đất và phương hướng nào mà đặt tên.
Phép đi tìm đất, trước hết phải tìm tổ sơn, rồi dò theo long mạch mà tìm huyệt. Long mạch có chỗ cao như các gò đồng núi non thì gọi là âm long, chỗ đất bình dương thì gọi là dương long. Đi tìm phải trải qua lô nọ đống kia, xét xem hình thế khởi phục nghênh tống thế nào. Khi nào đến chỗ có hai dòng nước giao với nhau, chỗ ấy mới là gần đến huyệt trường.
Huyệt trường tất phải có tiền án, hậu trẩm, tả long, hữu hổ; và phía trước phải có minh đường thủy tụ hội, phía sau phải có long mạch thu thúc, phía ngoài phải có bàng sa triều củng, cốt phải tụ khí tàng phong mới là chân huyệt; nếu chỗ sơn cùng thủy tận thì gọi là tuyệt địa; hoặc chỗ huyền võ tàng đầu (rùa giấu đầu), xương long vô túc (rồng không chân), bạch hổ hàm thi (cọp ngậm thây), chu tước bi khốc (chim kêu sầu) thì là đất hung địa; đất ấy chắc bị tàn hại.
Nhà phong thủy đại để chia làm ba môn:
Một là nhật gia học. Môn này linh về việc xem thái dương chiền độ. Tính toán từng phân từng ly cái hoành độ của nhật, nguyệt, ngũ tinh và nhị thập bát tú xem ngày giờ nào chiếu về địa phận nào rồi mới làm đất. Có khi biết trước được ngôi đất đến năm tháng ngày giờ nào thì phát những thế nào.
Hai là hình gia học. Môn này chỉ xem xét hình đất mà làm. Ví như hình đất như con khuyển thì táng tại bụng, hình đất như con voi thì táng tại vòi v.v... Lối ấy cốt phải xem cho tường hình đất, chớ sai lầm một chút cũng không được.
Ba là pháp gia học. Môn này chỉ chuyên về lý khí, cốt phải tinh về lý âm dương ngũ hành. Phải biện cho rõ chỗ nào là âm chỗ nào là dương, chỗ nào là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Cốt làm sao cho sinh khắc chế hòa hợp độ mới được.
Địa lý giỏi thường kiêm cả ba môn, mà ai chuyên về môn nào cũng được.
Làm đất cần phải có cái tróc long và địa bàn. Tróc long nhỏ hơn địa bàn để giắt trong mình đi tìm đất cho tiện. Địa bàn thì có đủ các tinh thần chiền độ và đủ các vòng thu sa nạp thủy, tường hơn tróc long, khi phân kim điểm huyệt mới phải dùng đến.
Phân kim điểm huyệt phải cần biết thập nhị thần là tràng sinh, mộc dục, quan đái, lâm quan, đế vượng, suy bịnh, tử, mộ, tuyệt, thai, dưỡng. Thập nhị thần ăn theo mười hai phương, hễ được phương sinh, vượng, mộ, dưỡng, thì tốt; suy, bịnh, tử, tuyệt thì xấu. Có câu rằng: "sinh lai hội vượng, thông minh chí tử phương sinh, vượng khứ nghênh sinh, phú quý chí kỳ sậu chí" nghĩa là được hưởng sinh vượng thì đẻ ra con thông minh và làm nên giàu sang.
Lại có câu rằng: "một dục thủy đáo đường chủ hoang thai, tử tuyệt thủy đáo đường chủ yểu chiết" nghĩa là nước ở phương mộc dục đến trước huyệt thì chắc có con gái lẳng lơ, nước phương tử tuyệt đến huyệt thì trong nhà có người chết yểu.
Lúc hạ huyệt, lại phải đợi đến giờ hoàng đạo, hay giờ tam hợp mới tốt.
Đời vua Hán Võ đế, cái chuông ở trong cung Vị Ương không ai dám đánh mà tự nhiên kêu. Vua hỏi ông Đông Phương Sóc. Thưa rằng: đồng là con núi, núi là mẹ đồng, khí loại tương cảm với nhau. Nay vô cớ mà chuông kêu, hẳn là có núi đồng đổ chăng. Ba ngày nữa, quả nhiên ở Nam quận báo tin về có núi đồng đổ. Sách địa lý dẫn điều trên này, cho rằng địa lý cũng một lẽ cảm ứng. Như vậy, có nói rằng người ta chịu cái di thê của cha mẹ, hễ hài cốt của cha mẹ được chỗ sinh khí thì con cái cũng được mát mặt, nghĩa là huyết mạch liên quan với nhau.
Lại xét các nhà phong thủy có tiếng xưa nay, như bọn Quách Phác, Trần Đoàn bên Tàu, ông Tả Ao, Hòa Chính bên ta, cứ như lời ghi chép trong sách lưu truyền lại thì cũng lắm điều linh nghiệm, không dám quyết là lời hoang đường cả. Song cứ mục kích bây giờ thì chỉ thấy những ông phong thủy nói thánh thì nhiều, mà không thấy gì là hiệu nghiệm. Ông nào cũng có được vài ba bộ sách địa lý, đi đâu cũng có tróc long, có địa bàn, cũng dò dẫm tìm tòi chỗ gò cao nơi nước dễu, chỗ này chỏ con kim, chỗ kia gọi con thỏ. Ông thì tự đắc học được phép cụ Tả Ao, ông thì tự đắc là tìm được kiểu đất Cao Biền, ông lại nói ngoa rằng mắt trông thấu xuống ba thước đất.
Nghe lời các ông bàn bạc thì rắn trong lỗ cũng phải bò ra, ai chưa học đến địa lý cũng phải chịu. Song chỉ hiềm tai nghe thì hay mà mắt không được trông thấy cái hay đó, hoặc giả sách vở đời trước, cũng như lời các anh chăng?
Thôi như mà địa lý dù có dù không, chưa có người kê cứu cho hết lẽ, thì cũng chưa biết thế nào mà dám nói. Duy có một điều mà lại chính là lời của nhà địa lý dạy, là câu tiên tích đức hậu tầm long (chứa đức trước rồi sau sẽ tìm đất), thì người ta quý hồ cách ăn ở cho phải đạo, chớ bất tất phải vị công danh phú quý mà chỉ chăm một đường đi tìm đất. Vả địa lý chính bởi Tàu mà ra, mà Tư Mã Ôn cũng là danh tiếng nước Tàu lại xin cấm hết sách địa lý đi, cho là một sự càn dở, làm cho cổ hoặc nhân tâm. Người Lữ Tài cũng bài bác phép địa lý là yêu vọng, xem vậy thì đủ biết người xưa cũng đã nhiều người không tin.
Lại xem như các nước văn minh bây giờ, có tin gì địa lý, chôn người chết có cần gì long gì hổ, quản gì phương gì hướng, vậy sao mà lắm người giàu có thiên vạn ức triệu, ấy lại là cái tang chứng rõ ràng không cần gì phải địa lý vậy.
XXII. TOÁN SỐ
Toán số là các sách đoán số cho người, phép này có cũng đã lâu. Từ đời nhà Hán đã có Hà Thượng Công soạn ra sổ tam mịnh; đến đòi nhà Đường có bọn Tăng Nhất Hạnh, Tang Đạo Mậu, Lý Hư Trung đều thâm thúy về nghề toán số; đời Ngũ Đại thì có Tử Bình soạn ra số Định Chấn; đời nhà Tống thì có Lâm Hiếu Công soạn ra số Lộc Mịnh. Lại có những số Ngũ tinh, Phạm vi, Hà lạc, Tử vi, Tiền định v.v...
Đại để số nào cũng suy tính âm dương, ngũ hành sinh khắc chế hóa, cũng tính theo chiền độ nhật nguyệt, tinh thần hợp với ngày sinh tháng đẻ mà đoán số mạng giàu nghèo, sang hèn, thọ yếu của người ta.
Trong phép toán số ấy, ta thường theo dùng chỉ có số Hà lạc, số Tiền định và số Tử vi.
Số Hà lạc dùng bát tự, năm, tháng, ngày giờ thuộc về can chi gì, rồi tính theo số mục mà ghép vào quái hào trong dịch mà đoán. Phép này các nhà nho dùng nhiều.
Số tiền định thì tục truyền của Quỷ Cốc Tiên sinh soạn ra, có lập cục sẵn các ngày sinh tháng đẻ, mỗi cục có mấy câu thơ thất ngôn và có mấy câu định cách để đoán việc hay dở của người ta, tục cho là linh nghiệm. Song lời lẽ thiển cận. Minh nho cho là bọn thầy bói tầm thường đặt ra cho nên các người có học thức không mấy người tin.
Số Tử vi thì tinh tường hơn các phép khác. Tục truyền là của ông Trần Đoàn nhà Tống soạn ra. Nhưng La Luân thì nói thầy chùa núi Họa Sơn tên là Vạn mới soạn ra sách ấy. Sách Vân Đài loại ngữ của ông Lê Quí Đôn thì cho là hậu nho đặt ra mà thác danh là ông Trần Đoàn.
Phép này trước hết phải chia âm dương can chi. Ví dụ: giáp, bính, mậu, canh, nhâm là dương can; tí, dần, thìn, ngọ, thân, tuất là dương chi. Người ta sinh về các năm ấy gọi là dương nam, dương nữ. Ất, đinh, kỷ, tân, quí là âm can, sửu, mão, tị, mùi, dậu, hợi là âm chi. Người ta sinh về các năm ấy gọi là âm nam, âm nữ.
Phần âm dương rồi phải dùng phép lục giáp nạp âm mà lập cục, để xem người sinh thuộc về cục gì trong ngũ hành, hoặc hỏa lục cục, hoặc mộc tam cục v.v...
Kế phải an thân, mịnh. Phép này tính đốt bàn tay trái, trước hết khởi từ cung dần, tính xuôi từ tháng giêng đến tháng sinh; lại ở ngay đốt ấy khởi giờ tý, tính ngược cho đến giờ sinh thì an "mịnh" tính xuôi cho đến giờ sinh thì an "thân".
An thân mịnh rồi phải Tính theo mịnh cung mà bày mười hai cung là: mịnh viên, huynh đệ, thê thiếp, tử tức, tài bạch giải ách, thiên di, nô bộc, quan lộc, điển trạch, phúc đức, phụ mẫu.
Phân cung rồi thì theo phép mà an mười bốn vị nam bắc đẩu là Tử vi, Thiên cơ, Võ khúc, Thái dương, Thiên đồng, Liêm trinh, Thiên phủ, Thái âm, Tham lang, Cự môn, Thiên tướng, Thiên lương, Thất sát, Phá quân.
Rồi cứ lần theo phép mà an cáo vị sao cát tinh, hung tinh, tứ hóa, thập nhị thần, thập nhị tướng, tuần triệt v.v..."
Phép đoán cần nhất phải xem mịnh và thân đứng về cung nào, rồi xem các vì sao chính chiếu, hợp chiếu, giáp chiếu cát hung thế nào, mà đoán vận mệnh hay dở. Chính chiếu là cung đối hướng với bản cung, như tí đối ngọ, mão đối dậu v.v... Hợp chiếu là cung tam hợp với bản cung, như thân, tý, thìn, hợp với nhau, dần, ngọ tuất hợp với nhau v.v... Giáp chiếu là hai cung đứng đôi bên bản cung như tý thì hợi, sửu là giáp, ngọ thì tỵ, mùi là giáp v.v...
Ba mươi năm về trước thì đoán về cung mệnh, ba mươi năm về sau thì đoán về cung thân. Cũng có người thân mệnh đồng cung, thì tiền vận hậu vận, cũng như nhau.
Đại để cung thân mệnh nên có những tài tinh phúc tinh. Văn tinh chủ về việc văn, mà lại đóng vào cung miếu vượng và hợp cách thì chắc là người văn hoa tư tảo. Võ tinh chủ về việc võ, mà lại đóng về cung đắc địa và không phá cách thì chắc là người hùng võ uy quyền. Tử, Phủ, Nhật, Nguyệt giáp với mệnh cung, mà đắc vị chắc là người quí cách, Phá, Sát, Tham, Liêm giáp với mệnh cung mà hãm chắc là kẻ hung tàn v.v... Nhưng phải cốt về cung phúc đức
Lại nên xem đại hạn, tiểu hạn, đại hạn chủ việc họa phúc trong mười năm, tiểu hạn thì chủ việc hay dở trong một năm.
Xem số đàn bà nên xem cung mệnh, cung phu tử, cung phúc đức, nếu thân mệnh đứng vào đất không vong thì chắc là người cô độc; mà nếu có đào hoa chiếu mệnh thì chắc là người đa tình; ở vào đất lạc hãm thì chắc là kẻ hạ tiện.
Trong số Tử vi có những vì sao đứng hợp cách thì gọi là nhập cách, nói qua vài cách sau này: Ví dụ: Tử vi, Đế vượng, Tham lang. Võ khúc, Phá quân đứng vào tất miêu vượng, mà thân mệnh lại nhiều cát tinh, gọi là thọ cách. Cung mệnh thân có Tử, Phủ, Quyền, Lộc lại được Xương, Khúc, Khôi, Việt chiếu vào gọi là phú quý cách. Mệnh đứng vào cung tý, ngọ, dần, thân, có thất, sát triều đẩu, chủ về uy võ lừng lẫy: Tham, Lộc, đóng hai cung thân, mệnh lại có các vì hung tinh đắc địa, gọi là cách Tham lộc thủ cung, chủ về làm nên công danh hách dịch v.v...
Dùng tinh tú mà đoán họa phúc nhất sinh của người đời, thực là một sự viển vông, không lẽ nào đủ làm bằng cứ cho tin được. Vậy sao từ xưa các bậc thông minh cũng có người tin và cũng nhiều người cho là linh nghiệm, có lẽ sai lầm cả sao?
Thiết tưởng các nhà âm dương bày đặt ra số mạng, cũng có một kiến thức riêng. Song một câu thực thì một trăm câu hư, một người nghiệm thì một ngàn người không nghiệm. Người xem số thấy nghiệm được một đôi điều cho ngay là thần thánh, mà những điều không nghiệm thì có ai hỏi đến đâu. Cái nghiệm đó chẳng qua cũng như một trăm bó đuốc phải bắt được con ếch mà thôi.
Ông Đào Tiềm là bậc hiền sĩ nhà Tấn có nói rằng: "Đạt nhân tiền bất khả ngôn mạng", nghĩa là trước mặt người đạt lẽ không nên nói chuyện số mệnh, ấy là lời nói rất phải.
Ông Lã Tài người nhà Đường cũng bác rằng: "Người phú quý ở đất Nam Dương (hai mươi tám tướng) không lẽ người nào cũng được cung lục hợp; quân bị chôn ở đất Tràng Binh (bốn chục vạn người) không lẽ người nào cũng phạm phải hạn tam hình". Hai lời ấy đều là của nhà âm dương tinh học nói ra, đó là một cái bằng cớ không số mạng nào. Ta nên phải biết trọng ở sức người, dù giàu, dù nghèo, dù sang, dù hèn, dù sống lâu, dù chết non, việc gì cũng bởi tự người làm ra cả. Nếu cho là đã có số nhất định của trời, thì thử khoanh tay ngồi một xó, không chịu làm ăn gì, xem có giàu được không? Thử không học hành gì, cứ việc ăn chơi cho thỏa xem có lập nên công nghiệp gì không?
Hẳn là không. Vậy sao không chịu là tại mình mà còn đổ cho tại số?
Có người nói rằng: cái số hay thì tự nhiên trời xui giục cho được gặp hay, cái số dở thì tự nhiên trời run rủi cho phải gặp dở. Lời ấy cũng xin cãi rằng không phải. Nghề ở đời, tài nào lại không có cái may cái rủi. Song sự may rủi đó là sự ngẫu nhiên, chớ bao giờ việc gì cũng thành tại có chí, mà bại bởi vô chí. Người có chí, dẫu rủi ro không thành được ngay, nhưng cố gắng mãi thì quyêt phải được, người vô chí dẫu may mắn mà được một dịp may, nhưng chắng bao lâu cái may ấy nó cũng hết đi.
Sách có câu rằng: "Nhân định thắng thiên" nghĩa là người đã nhất định thì thắng được cả trời. Tục ngữ ta có câu: có công mài sắt có ngày nên kim. Vậy thì số nào cho bằng bụng người được.
Những người không biết suy xét cho cùng, động mở miệng là nói cái số trời bắt mình như vậy, bắt khổ phải chịu khổ, bắt nghèo phải chịu nghèo, bắt đau đớn phải chịu đau đớn, ấy là những lời vô chí, phải sao chịu ép một bề, không biết cựa cái sức mình để tranh lấy quyền tạo hóa, chính mình tự bao tự khí cái thân mình.
XXIII. TÍNH TÌNH
Tính tình nên chia làm hai hạng là Tính tình đàn ông và tính tình đàn bà.
Tính tình đàn ông - Bậc sĩ phu trọng nhất là luân thường, dẫu nghèo khổ thế nào mặc lòng, nhưng trái luân thường thì ai cũng chê cười. Lại có tính ưa nhàn, lấy cảnh phong nguyệt hoa thảo làm vui thú, lấy cuộc cầm kỳ thi tửu làm phong lưu. Về phần nông công thương cổ thì phần nhiều là người cần kiệm, an phận làm ăn, tuân giữ phép nước, mà nhất là lấy sự quyến luyến ở trong gia đình làm vui, bần cùng mới phải đi làm ăn xa, chớ có thể ở nhà được thì không ai chịu đi đâu cả.
Dân tình rất yêu sự yên ổn; quý hồ làm ăn cho đủ đóng đủ góp với làng nước; ra đến đình không ai nói động đến mình là mãn nguyên rồi.
Ai ai cũng biết trọng sự học hành; trừ ra nhà nghèo quá thì mới không thế, sao cho con đi học được, chớ còn ai có con độ lên bảy, tám tuổi cũng đã cho con đi học. Nhà thường thường, cho con đi học độ dăm ba năm thì xoay ra làm nghề, nhà phong lưu phú quý thì cho con đi học thành người mới thôi.
Từ người sang cho chí người hèn; ai cũng lấy !ễ nghĩa làm trọng, mà nhất là các nơi hương thôn lại hay câu nệ lễ nghĩa từng tí. Ai không có lễ nghĩa thì thiên hạ chê cười là đồ ngạo ngược. Ngoài các tính trên này, ai có những tính thực thà, cẩn thận, trung hậu, nhún nhường, hòa nhã, công liêm, trầm tĩnh, khảng khái, ngạnh trực, can đảm, quả quyết, kính bậc đạo đức, nhớ người ân nghĩa, trọng đường công nghiệp, giữ cái danh giá có tư cách, có nghĩa khí, có lượng khoan dung, có lòng nhân đức, có chí nhẫn nại, có khi cương cường, trọng ái tình, yêu nhân loại, yên phận mình, giúp kẻ khốn, ghét sự ác, vui sự thiện, ẩn nhân chi ác, thành chi nhân mỹ, lúc nên xa xỉ cũng xa xỉ, lúc nên hào hoa cũng hào hoa v.v... như thế gọi là tính khí quân tử.
Ai có những tính hồ đồ, ngờ vực, nhút nhát, lười biếng, ghen ghét, khoe khoang, hợm hĩnh, khép nép, câu nệ, sợ đầu sợ đuôi, nghĩ quanh nghĩ quẩn, chẳng ác mà cũng chẳng thiện, chẳng dở mà cũng chẳng hay, ham sự cờ bạc rượu chè, thích sự quây quần ăn uống, chẳng hại gì ai mà cũng chẳng ích gì cho ai, đua đả theo thói đời, gió chiều nào che chiều ấy, người ta xuôi cũng xuôi, người ta ngược cũng ngược, người ta nói cũng nói, người ta cười cũng cười v.v... như thế thì gọi là tính khí thường nhân.
Còn ai có những tính gian giảo, kiêu ngạo, ương ách, phản trắc, tham lam, thô tục, cục cằn, hay khoe hợm, hay xóc móc, hay kiện cáo, hay tranh giành, hay nịnh hót người quyền thế, hay khinh bỉ người hiền lành, hay nạt dọa kẻ ngu hèn, hay a dua kẻ bạo ác, hay sinh sự, hay thù hằn, ăn trộm ăn cướp, xỏ lá ba que, đàng điếm, hoang toàng, ngông nghênh, huỳnh hãm, đài các giả, phong lưu mượn, tinh ranh vặt, lý sự cùn, anh hùng rơm, nhanh nhảu đoảng, thị phú khinh bần, thị cường lăng nhược, vong ân bội nghĩa, phản bạn lừa thầy, ố nhân thắng kỷ, ích kỷ hại nhân v.v... như thế gọi là tính khí tiểu nhân.
Tính tình đàn bà - Đàn bà nhất là trọng điều liêm sỉ tiết nghĩa. Con gái chưa chồng, phần nhiều là biết giữ mình, con nhà sang không ai dám xâm phạm đã đành, dẫu đứa hèn hạ có người trêu ghẹo cũng biết xấu hổ, có khi vãng ra những điều thô tục để cự lại.
Người có chồng rồi, lại nhiều người giữ gìn lắm, chỉ e mang tiếng với chồng. Mà đàn ông ta cũng yên chí rằng người đã có chồng như sản vật gì đã có chủ, không ai tưởng đến sự xâm chiếm nữa. Đàn bà cũng yên chí mình là một người riêng của chồng, dầu sông chết chỉ biết có chồng mà thôi. Lúc còn con gái, nhỡ nhàng phải một sự xấu thì không tài nào mà gột rửa cho sạch, dù con nhà sang, dù con nhà hèn mặc lòng, ai ai cũng khinh bỉ mà không khi nào lấy được người tử tế nữa.
Trong vợ chồng cũng phải chính đính, những người tử tế không mấy khi nói những tiếng lả lơi nhả nhớt.
Ai bất hạnh góa chồng, thì dù còn trẻ tuổi nhan sắc cũng muốn thủ tiết với chồng, để giữ lấy danh giá. Bất đắc dĩ mà bước đi bước nữa, thì đã lấy làm xấu hổ, mà người ngoài cũng đã hơi khinh. Nếu ở vậy mà nhỡ ra khôn ba năm dại một giờ thì phải trốn tránh đi đất khác, kẻo sợ người cười, và e dân làng ngả vạ.
Có chồng mà tư gian với trai, thì nhà chồng phú về ngay, mà cũng không ai lấy nữa.
Đàn bà thành phố, lắm người khéo buôn bán, có khi đàn ông cả đời chỉ trông về vợ mà ăn chơi.
Đàn bà nhà quê hay làm, chăm chỉ công việc, nào người chợ búa, nào người cày cấy, ai ai cũng lấy đảm đang được công việc nhà chồng là giỏi. Ta thường coi nhà nào có đàn bà giỏi là nhà ấy thịnh vượng.
Ngoài các tính trên này, ai có những tính: khoan hòa, nhân đức, hiếu thuận, hiền từ, khôn ngoan, mực thước, đủ cả tam tòng tứ đức, giữ được trinh tiết thủy chung, ăn nói dịu dàng, nết na đứng đắn, biết đường thờ cha kính mẹ, biết nghĩa chiều chồng nuôi con, có thao lược gánh vác việc cửa nhà, có can đảm mở mang việc buôn bán, biết giúp chồng cho nên người vẻ vang, biết dạy con cho nên người tử tế, như thế gọi là bậc hiền phu.
Ai có những tính: tần tảo, chắt chiu, cơ chỉ, hàn gắn, chín chắn, nhu mì, thật thà, cẩn thận, biết đường ăn ở, biết điều phải chăng, biết quí chồng, biết yêu con, biết lo biết lắng, biết nói biết cười, biết tề gia nội trợ, biết kính trọng anh em nhà chồng, có ghen tuông mà ghen tuông biết điều, có nóng nảy mà nóng nảy vừa mực, tuy không có đức hạnh thao lược bằng bậc hiền phụ, nhưng cũng không đến nỗi hèn mạt như kẻ vô loài như thế là bực kha khá trung bình, cũng nên gọi là lệnh phụ.
Còn ai có những đức tính: gian dối, chua ngoa, cay độc, bạc bẽo, hoang toàng, lừa lọc, lẳng lơ, tráo trở, giang hồ, trăng gió, khinh chồng như lợn như gà, rủa con có ngành có ngọn, mắt quằm quặm như diều hâu, mồm toang toác như quạ cái, điêu ngoa, hốt lẻo, tức tối ghen tuông, lăng loàn, nghiệt ngã, thì gọi là kẻ ác phụ. Lại có hạng ngu si, đần độn, hay ăn, làm biếng, ăn chẳng nên đọi nói chẳng nên lời, buôn bán vụng về, nói năng càu nhàu, u vai, thịt bắp, mặt xỉa mày sưng, mặt tày lệnh cổ tay cong, tối như đêm, dày như đất, như thế gọi là bọn xuẩn phụ.
Trong các tính tình đàn ông, đàn bà không mấy người toàn hay cả mà cũng không mấy người dở cả. Đại để trong mười phần được bảy, tám phần hay đã là hay, trong mười phần phải bảy, tám phần dở thì là dở. Người hay thì ai ai cũng trọng mà người dở thì ai ai cũng khinh.
Mỗi nước có một tính tình riêng, có tính tình nước kia cho là dở, mà nước này cho là hay, có tính tình nước này cho là hay, nước kia cho là dở. Cái hay cái dở đó tùy theo cái trình độ của dân trí mà phân biệt và theo cái thói quen mà thôi.
Nước ta học theo Khổng giáo, cho nên trọng nhất là luân lý cương thường. Bất cứ đàn ông, đàn bà, hễ giữ được luân lý cương thường là hay, mà trái với luân lý cương thường là dở. Mà luân lý của đàn ông, thì lại trọng nhất là trung hiếu, luân lý của đàn bà thì lại trọng nhất là trinh tiết. Cho nên điều khác hay dở thế nào mặc lòng mà hai mối đó thì là mối quan hệ thứ nhất, cái danh giá nặng nhẹ, trước hết phải lấy đó mà cân, rồi mới cân đến điều khác được.
Ấy là cái tính tình riêng của ta, chớ so với lý tưởng các nước văn minh, thì vị tất điều hay của ta đã toàn là hay, điều dở của ta đã toàn là dở.
Thiết tưởng cái trình độ dân trí của ta, mỗi ngày một tấn tới hơn một chút, thì tình hình đó chắc sao cũng thay đổi ít nhiều. Nhưng trong tính tình đó chắc sao cũng nhiều điều là quốc túy của ta và cũng hợp với lẽ phải chung cả hoàn cầu, như những điều lễ nghĩa liêm sỉ, đạo đức trung thành v.v... thì dầu đến bao giờ cũng không nên đổi, mà cũng không sao đổi được cái lẽ tự nhiên của tạo hóa ấy.

XXIV. THANH ÂM NGÔN NGỮ
Nước ta địa thế phân làm ba xứ là: Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Trong ba xứ vốn đã nói chung một thứ tiếng, lại học theo một chữ nho, từ khi các ông cố đạo đặt ra chữ quốc ngữ thì lại dùng chung một lối chữ, cho nên thanh âm ngôn ngữ vẫn thông dùng với nhau, trừ ra một ít thổ âm vì phong thổ mà khác nhau thôi.
Mà khác nhau thì chỉ có Bắc kỳ và Nam kỳ còn hơi khác nhiều, chớ ở Trung kỳ thì nửa dùng tiếng Nam, nửa dùng tiếng Bắc, chẳng qua có 11 tiếng riêng hẳn như các tiếng gáy nhông (vợ chồng), ngân ngải (xa gần), mô tê (đâu đó) mần răng mần rứa (làm gì, làm vậy), bên ni bên mô (bên nọ bên kia) v.v... Các tiếng ấy tuy khác, nhưng đâu đâu cũng đã hiểu. Duy còn Nam, Bắc thì đôi khi có tiếng khác nhau, hơi khó hiểu một chút, nhưng xem đại ý thì cũng hiểu được nhau cả.
Nay thử đem những tiếng Nam, Bắc khác nhau mà phân biệt đại khái như sau này:
Cùng nghĩa mà khác hẳn tiếng, như là:
Bắc
Nam
Cha mẹ
Má tía
Hoa quả
Bông trái
Hào (bạc)
Cắc
Xu (đồng)
Chim
Thuyền
Ghe
Hòm
Rương
Vừng (hạt)

Muỗm (quả)
Xoài
Lạc (củ)
Đậu phụng
Gạo (bông)
Gòn
Gạ gẫm
O bế
Tảng lờ
Giả đò
Cú (chim)
Ó
Cáo (con)
Chồn
Trái (phải)
Quấy
Đuổi
Rượt
Tiêu
Xài
v.v...
Cùng âm mà khác vận như là: Gi và Tr
Giời (ông) Trời
Giăng (mặt) Trăng
Giai (con) Trai
Giồng (cây) Trồng
Giầu (lá) Trầu
Gianh (cỏ) Tranh
Gio (than) Tro
Giải (chiếu)
Trải
Nh và
L
Nhời
Lời
Nhẽ
Lẽ
Nhầm (lẫn)
Lầm
Nhanh
Lanh
Nhụt (dao)
Lụt
Nhạt (mặn)
Lạt
Nhợ (mùi)
Lợ
Nhọ nhem
Lọ lem
D và
Nh
Dện (con)
Nhện
Dộng (con)
Nhộng
Dựa (cầy)
Nhựa
Dám (nắng)
Nhám
Duộm (màu)
Nhuộm
Dúm (lửa)
Nhúm
Dọt (ung)
Nhọt
v.v...
Lại còn những tiếng lặt vặt như là:
Ngắn
Vắn
Trọn (việc)
Lọn
Lòng (trứng)
Tròng
Gắng (sức)
Ráng
Ngắm (nhìn)
Nhắm
Cành
Nhành
v.v...
Cùng vận mà khác âm
B
N
Bể
Biển
Bụi (cỏ)
Buội
Cưỡi (ngựa)
Cỡi
Dù (ví)
Dầu
Được
Đặng
Đánh
Đoánh
Gửi (thơ)
Gởi
Hoạt
Hượt
Mừng
Mầng
Này
Nầy
Nguyên
Ngươn
Nhân
Nhơn
Phúc
Phước
Quý
Quới
Sinh
Sanh
Súy
Soái
Tính
Tánh
Thủa
Thuở
Triều
Trào
Vào

4. Cùng vận cùng âm cùng nghĩa mà thường đọc sai lẫn hoặc viết sai không phân biệt, làm cho lúc người xứ nọ nghe người xứ kia nói hoặc xem sách mà ngẩn ngơ không hiểu.
Bắc thường hay lẫn về những vần Tr với vần Ch, D với Gi với R, và s với X.
Tr lẫn với
Ch
tra (khảo)
cha (mẹ)
tranh (giành)
chanh (quả)
trâu (bò)
châu (ngọc)
trán (cái)
chán (chê)
trông (mong)
chông (gai)
trinh (tiết)
chinh (chiến)
tránh (trốn)
chánh (sự)
v.v...
D lẫn với
Gi và
R
dời (đổi)
giời (ông)
rời (rã)
danh (công)
gianh (cỏ)
ranh (tinh)
dòng (dõi)
giòng (dây)
ròng (rông)
dầu (mỡ)
giầu (nghèo)
rầu (buồn)
dao (con)
giao (thiệp)
rao (hàng)
dành (để)
giành (tranh)
rành (rành)
da (thịt)
gia (cống)
ra (vào)
v.v...
s
lan với
X
sa (xuống) sá (đường) sách (vở) sanh (trưỏng) sỉ (nhục) sinh (sản) suất (đinh) sôi (nước) sướng (sung)
xa (gần) xá (tội), xách (tay) xanh (đỏ) xỉ (la) xinh (dòn) xuất (nhập) xôi (thịt) xướng (hát) v.v...
Nam thường sai lẫn về những tiếng ac và at, ắc với ắt, ấc với ất, an với ang, ăn với ăng, uốc với uôt, uôn với uống. Ac lẫn với At
các (đài) cát (đất)
bác (chú) bát (đĩa)
hạc (chim) hạt (nhân)
nhác (lười) nhát (nhút)
hác (hốc) hát (tiếng)
v.v...
Ắc lẫn với
Ắt
bắc (nam)
bắt (buộc).
cắc (tùng)
cắt(dao)
hắc (bạch)
hắt (đi).
nhắc (cân)
nhắt chuột)
giặc (trộm)
giặt (tắm)
v.v...
Âc lẫn với
Ất
bấc (đèn)
bất (chẳng)
mậc (thước)
mật (đường)
tấc (thước)
tất (châu)
vậc (sông)
vật (loài)
phấc (phâng)
phất (cờ)
v.v...
An lan với
Ang
ban (thưởng)
bang (gia)
can (ngăn)
cang (cường)
than (tro)
thang (trèo)
nhan (sắc)
nhang (đồn)
gian (phi)
giang (hà)
quan (chức)
quang (gánh)
san (xẻ)
sang (giàu)
tàn (phá)
tàng (kho)
v.v...
Ăn lan với
Ăng
băn (khoăn)
băng (váng)
căn (bốn)
căng (vải)
thăn (thịt)
thăng (giáng)
săn (bắn)
săng (hòm)
văn (chương)
văng (chài)
v.v...
Uôn lan với
Uông
luôn (luôn)
luông (tuồng)
tuôn (nước)
luông (dâm)
khuôn (phép)
khuông (phù)
buôn (bán)
buông (thả)
chuồn (chuồn)
chuồng (cũi)
v.v...
Uôc lẫn với
uốt
chuộc (mua)
chuột (con)
luộc (nấu)
luột (trắng)
tuộc (bạch)
tuột (thẳng)
buộc (dây)
buột (mất)
v.v...
Nói tóm lại thì trong ba xứ chỉ khác nhau một ít thế mà thôi. Mà dẫu khác nhau, nhưng nghe cả câu thì cũng hiểu. Còn như giọng nói thì ở Nam kỳ và Trung kỳ thường lẫn dấu hỏi với dấu ngã, không phân minh bằng Bắc kỳ.
Xét xem ngôn ngữ nước ta tuy có khác nhau ít nhiều, nhưng đại yếu thì thật là đồng một thanh âm, đồng một văn tự, tiện cho bề thông đồng, vả lại nhờ có chữ quốc ngữ mai sau ta mà nên một lối văn tự riêng của ta, thì ta không bao giờ quên được cái công của ông cố nào đặt ra chữ đó.
Song ước gì được nhiều bậc thông minh hợp lại mà làm cuốn tự điên đủ cả tiếng ba xứ, kê cứu thêm cho tinh tường và kèm thêm chữ Nho chữ Pháp, để làm tiếng nhất định cho suôt trong nước. Xứ nào sai đâu thì sửa đổi đi, như thế thì lại càng tiện hơn nữa.
XXV. CÁCH ẨM THỰC
Cách ẩm thực của ta về thứ thóc gạo thì cần nhất là gạo tẻ gạo nếp, gạo tẻ thổi cơm, gạo nếp thổi xôi làm bánh. Côn ngô, khoai, vừng, đậu, kê, sắn thì hoặc làm bột, hoặc nấu bánh cũng là các thứ phụ thêm cho sự ăn uống.
Về thứ đồ ăn thì nhất là hay dùng những thịt trâu, bò, dê, lợn, gà, vịt, chim, ếch, tôm, cá, cua, ốc v.v...
Mà thịt lợn lại là thứ cần dùng hơn hết, dẫu nấu nướng gì cũng phải dùng đến thịt lợn hoặc mỡ lợn. Thịt lợn lại chế ra làm giò, làm chả, làm nem, làm chạo, làm ruốc bống và nấu ra nhiều món đồ ăn nữa.
Các thứ rau có hoặc dùng nấu đệm, hoặc dùng ăn ghém thì là rau cải, cải bắp, củ su hào, cà chua, đậu Hòa Lan, rau nhút, rau muống, bầu bí, dưa, mướp, hành, tỏi, gừng, nghệ, riềng, bẹ mùi, thơm, ngổ, húng, chanh, ớt v.v... Đồ gia vị thì là đường, mật, mẻ, muối, dấm thanh, dấm bỗng, mắm tôm, mắm ngấu, dầu vừng, dầu lạc v.v...
Các thứ hoa quả thì là cam, quít, bưởi, chuối, đào, mận, muỗm, xoài, vải, nhãn, hồng, thị, dứa, mít, dừa, phật thủ, thanh yên, vả, nhót, mơ, trám, hồng bì, dâu gia, ổi, na, măng cụt, thanh trà v.v... Mỗi thứ quả sinh về một mùa, duy chuối thì quanh năm lúc nào cũng có mà cũng cần dùng hơn cả các thứ.
Các thứ bánh trái thì việc tế tự và việc hiếu hỉ, trọng nhất là bánh dầy bánh chưng. Còn như bánh đường bánh ngọt, bỏng, kẹo, chè, mứt v.v... thì dùng để làm đồ tráng miệng sau khi ăn cơm; bánh giò, bánh đúc, bánh đa, bánh rán v.v... thì là đồ làm quà ăn cho đàn bà và trẻ con.
Rượu thì nấu toàn bằng gạo nếp, ủ men rồi cất ra. Trong thứ rượu ấy hoặc ướp thêm hoa sen, hoa cúc, hoa hồng, hoa cau, hoặc hoa nhài v.v..., gọi là rượu hoa; hoặc tẩm với các vị thuốc bắc gọi là rượu thuốc. Rượu hoa quí nhất là rượu sen, rượu cúc, mà rượu thuốc quí nhất là rượu sâm nhung. Lại có một thứ rượu nếp, cũng ủ men rồi để nguyên cả cái mà ăn. Ngoại các thứ rượu ấy, cũng nhiều người dùng rượu Tây rượu Tàu.
Nước thì phần nhiều là dùng trà mạn, trà hạt, phong lưu hơn thì dùng trà tàu, trà ướp sen, ở chốn thôn quê thì thường hay dùng trà tươi, hoặc là nước lá vối nước gạo rang, mà nhất là nước nụ vối ủ ngon lắm.
Trên này là các đồ ăn uống, còn sự ăn uống thì lại tùy theo mỗi nơi mà khác nhau. Đại để ở nơi thành phố, bữa ăn hằng ngày, nhà phong lưu mới ăn đến một vài món đồ xào nấu, hoặc một hai đĩa thịt quay, lạp xường, xà xíu, hay là giò chả, cá rán, thịt kho, trứng bác, cua om v.v... Nhà thường thường mỗi bữa cũng được đĩa thịt hoặc đĩa cá kho, rồi thêm những thứ đậu giá rau cỏ v.v... Khi có công việc giỗ tết hoặc mở tiệc thết khách thì mới dùng đến ngũ trân bát vị, nhà giàu làm nhiều, nhà nghèo làm ít, thế nào cũng phải có bảy, tám hoặc vài bốn bát nấu, da tê, vây cá, bong bóng, mắm mực, vịt hầm, chim xào v.v... lịch sự nữa thì dùng đến đồ Tây hoặc đồ ăn Tàu.
Ở nơi quê mùa thì nhà phong lưu mới ăn đến thịt cá giò chả luôn, còn nhà thường thường thì phần nhiều là ăn cua, ốc tôm tép, đậu phụ, đôi khi mới ăn đến thịt cá. Nhà nghèo nữa thì quanh năm chỉ ăn tương cà, dưa khoai, dưa cải, rau muống luộc, đậu kho v.v... Đôi khi có công việc giỗ tết, ăn mừng, làm ma nhà giàu có khi cũng nấu nướng theo cách phố xá nhưng phần nhiều thì trâu bò ăn tái, thịt lợn luộc chần ăn cơm dấm, gà vịt luộc chấm muối tiêu, hoặc là nấu bát ba ba, giả cầy, miến xào, măng ninh v.v... Song ở nhà quê ăn uống tốn hơn nơi phố xá, vì là nhà quê động có cỗ bàn, tất phải mời đến làng mạc họ xóm, có khi đến vài trăm mâm, chớ ở phố xá mời mọc nhiều cho lắm thì mới đến mười mâm là cùng.
Còn uống rượu, ở nhà quê cũng nhiều người hay rượu hơn ở phố xá, có người uống đến một chai to một lúc, có người uống lươn khươn cả ngày.
Xét việc ăn uống của ta, càng đủ các thứ thịt cá, sơn hào hải vị, rau cỏ hoa quả, chẳng thiếu thức gì, song chỉ hiềm cách nấu nướng thì còn vụng nhiều lắm. Ở chỗ quê mùa trừ ra những nhà nghèo khó, ăn uống kham khổ không kể, còn nhà thường thường cho đến nhà phong lưu, ăn uống chẳng qua thay đổi trong mấy món ba ba, giả cầy, thịt cá, giò chả, đậu rán, rau xào v.v... Mà các thứ thịt thì chỉ đến thịt bò ăn tái, thịt dê bóp vừng, thịt lợn luộc chần, thịt gà chấm muối là cùng, chớ không có cách nào xào nấu cho ngon lành thơm tho hơn nữa. Nơi thành thị thì cũng có khác nhà quê được một đôi món nấu theo kiểu Tây kiểu Tàu, nhưng phần nhiều thì cũng chẳng khác gì nhà quê.
Ăn uống là các thứ bổ dưỡng thân thể, thực là rất cần cho đường vệ sinh. Đã đành rằng ăn để mà sống không phải sống để mà ăn, nhưng cũng phải biết cách ăn, uống, biết đường bổ dưỡng cho được, nên người béo tổt khỏe mạnh, rồi mới gánh vác nổi được việc khó nhọc ở đời, chớ nên ăn uống cẩu thả, thế nào cũng xong, rồi lắm khi chán miệng không muốn ăn thành ra người ăn uống yếu ớt, thân thể gầy gò, thì còn làm gì được những việc nặng nhọc nữa.
Ta xưa nay vẫn nhầm về điều ấy, có câu tục ngữ rằng: miếng ăn quá khẩu thành tàn; lại rằng: sống về mồ về mả, chẳng sống về cả bát cơm, những câu ấy có ý nói làm người không cần gì đến sự ăn uống, vẫn là phải, nhưng thực trái với nghĩa dưỡng sinh. Xem như các nước văn minh, nước nào càng có sách nấu ăn, mỗi thứ nấu một mùi, mỗi vị chế một cách, làm cho người ăn ngon miệng mà không bao giờ chán, thực là biết lấy sự ăn uống làm trọng. Nước ta thì sách vở nấu ăn ở đâu mà có, ai là thợ nâu ăn chẳng qua mấy tay người nhà đày tổ theo tục mà làm thế nào cho ăn được thì thôi, chớ nào ai cần phải học nấu. Giá thử ai có chỉ xem xét trong các cách nấu của Tây của Tàu, và tùy theo cái tính của ta, gia giảm vị này vị khác, làm riêng một cuốn sách nấu ăn cho ta, thì tưởng cũng là việc có ích lắm.

XXVI. CÁCH PHỤC SỨC
Cách phục sức của ta, phần nhiều là theo lối nước Tàu, từ đời nhà Hán Đường đến bây giờ.
Vua quan có phẩm phục, binh lính có nhung phục, thường dân có lễ phục. Phẩm phục mặc những khi triều hạ lễ bái, nhung phục mặc những khi chiến trận thao luyện, lễ phục mặc những khi tế tự. Ngoại giả là những thường phục, mặc các ngày thường.
Phẩ m phụ c: mũ áo, đai, mãng, xiêm, ủng, từ vua chí quan, tự nhất phẩm chí cửu phẩm, đều có phân biệt màu sắc và từ vàng bạc gấm vóc tơ lụa cho chí kiểu vẽ sợi thêu cũng khác nhau. Nhung phục của các quan võ thì cũng tùy phẩm tước mà phân biệt, còn binh lính toàn mặc một đồ áo nỉ, có bác cổ bác tay và có nẹp quanh áo, cũng chia ra các mầu sắc. Lễ phục của thường dân thì mũ ô sa, áo giao lĩnh, hia ủng vải, mà thứ gì cũng toàn sắc thâm.
Còn như thường phục thì ai ai cũng đội khàn, mặc áo chẽn, đi giày mà thôi.
Thường phục của ta khi xưa cũng có phép, như quan viên mới được mặc đồ gấm vóc tơ lụa, thường dân chỉ được mặc đồ vải. Bây giờ không cứ gì cả, ai muốn ăn mặc thế nào cũng được.
Lối thường phục hiện bây giờ, trừ ra ít người ăn mặc theo kiểu Tây, còn kiểu mẫu riêng của nước ta, thì suốt nước già trẻ, đàn ông, đàn bà toàn theo một cách, chỉ khác nhau dài hay ngắn, rộng hay hẹp và khác nhau bằng tơ lụa hay bằng vải, mầu thâm hay mầu trắng mà thôi.
Đàn ông phần nhiều là đội khăn lượt thâm, trời rét bịt thêm khăn nhiễu quàng đầu quàng cổ. Áo trong có áo cánh lót thịt, áo ngoài dùng toàn mầu thâm, trời nóng mặc áo sa, the, lụa, xuyến, hoặc vải nâu, trời rét mặc áo kép, áo bông, hoặc bằng vải the, vóc, nhiễu, nhung, dạ, quần thì mùa nào cũng vậy, chỉ dùng một màu trắng, mà phần nhiều là quần vải cát bá, dây lưng phần nhiều bằng sồi hoặc lượt, hoặc nhiễu; giày thì hết thảy là giày hở gót, mũi nhái, da láng hoặc da me. Nón đội thì là nón dứa, nón sơn, nón lông, ít nay thì che ô nhiều.
Đàn bà vấn khăn thâm, hoặc lượt, hoặc nhiễu, hoặc vải nâu, trời rét bịt thêm cái khăn vuông bằng vải nâu, hoặc bằng luyến thâm. Ở Trung kỳ và Nam kỳ thì đàn bà bới tóc bịt khăn vuông, chớ không vấn khăn như người Bắc kỳ. Yếm cổ xây hoặc cổ viền, dùng mầu trắng nhiều hơn cả; người Nam kỳ không mặc yếm, có áo nịt lót thôi. Áo cũng dùng mầu thâm hoặc mầu nâu nhiều, duy người ăn chơi hoặc con hát mới mặc các thứ mầu xanh đỏ. Quần phần nhiều mặc quần sồi, lĩnh thâm, đôi khi cũng có người mặc quần nhiễu đỏ; ở Nam kỳ và Trung kỳ thì người phong lưu mặc quần nhiễu trắng, chốn quê mặc quần vải xanh, Nam Trung kỳ và các nơi phường phố, đàn bà thường hay mặc áo cài khuy, ít thắt lưng; ở nhà quê thì thường thắt lưng ra ngoài áo, bỏ xuống hai múi dài. Giầy dép, người phong lưu đi hài thêu, hoặc giày nhọn mũi, người thường đi dép cong sơn bóng bọc nhung, hoặc guốc sơn dầu sơn đen, kẻ hà tiện đi dép quai một. Nón thì đội nón nghệ quai thao là quý nhất, còn thường thì đội nón bẻ, nón lòng chảo, cũng nhiều người đã che ô.
Ấy là đồ thường phục; còn đồ hiếu phục thì khăn áo dùng đồ sô gai chàm, xám, ít nay nhiều người dùng vải thâm vải trắng để thế đồ chàm xám cũng tiện.
Còn về đồ trang sức thì đàn ông đôi khi mới có người đeo nhẫn vàng ngón tay, hoành một bộ khuy áo vàng. Về phần đàn bà thì tai đeo vành khuyên, hoặc nụ thông; cuống giá, cô đeo chuỗi hạt huyền, hoặc hạt vàng, hoặc vòng kiềng hoặc dây chuyền, các ngón tay đeo nhẫn khấu, nhẫn lá hẹ, cổ tay đeo xuyến hoặc vàng, hoặc bạc mạ vàng, hoặc để trơn, hoặc trổ chạm, hoặc giáp thêm mặt kim cương, mặt thủy xoạn; ở dưới dây lưng lại đeo bộ xà tích bạc.
Trẻ con thường hay cho đeo vòng cổ vàng hoặc bạc, lại kèm thêm cái khánh khắc bốn chữ "tràng sinh bản mịnh" hoặc cái khóa bạc nhỏ, hoặc tiền vàng tiền bạc, một vài cái vuốt cọp nạm bạc hoặc đeo cái lưỡi tầm sét đồng v.v... Vòng tay vòng chân thì thường đeo kèm thêm quả bàu nhỏ.
Trong cách ăn mặc của ta, không kể gì bằng vóc nhiễu hoặc bằng vải bông cũng không kể gì dày hay mỏng, đó là tùy nơi hàn nhiệt, tùy người giàu nghèo mà khác nhau, chắng có hề gì. Song cứ coi cái dáng dấp, trừ ra quen mắt cho là được thì thôi, chớ nói đến sự gọn gàng, sự hoa mỹ thì chưa được. Quần áo cốt cho hợp cách vệ sinh, lại phải cốt cho gọn gàng dễ làm việc. Ta ăn mặc một cách lụng thụng lướt thướt, tuy trong mình thư thái dễ chịu nhưng thực là không tiện cho những việc làm ăn, và lại làm mất cả cái dáng hùng dũng của đàn ông nữa. Đàn bà thì chi cho bằng xinh xang lấy dáng, mà ta thì chỉ đến cái khăn vận cho xinh, cái áo mặc cho gọn, cái đường ngôi rẽ cho thẳng, cái mái tóc chải cho trơn là cùng, chớ không còn cách nào trang sức cho lịch sự hơn nữa.
Thử coi các nước, có nước nào ăn mặc như ta, không? Nước nào thì đàn ông cũng áo phải ngắn, quần phải hẹp thì mới gọn, mới ra dáng khỏe mạnh; đàn bà thì quần áo phải hoa mỹ, phải xinh xắn, thì coi mới đẹp mắt. Thiết tưởng cũng có một khi nên cải cho hợp với trình độ văn minh hoàn cầu.
Còn như nón đội, giầy dép đi, tưởng cũng nên đổi dần kiểu cách khác thì mới tiện, chớ đội nón bẻ nón nghệ, đi dép bụi lấm chân, kéo giê một cái thì đứt quai, mà đi không khéo thì vấp ngã, cũng là chưa tiện.
XXVII. CÁCH CƯ SỞ
Cách làm nhà ở của ta, tất phải xem năm nào có được tuổi mới dám làm. Lúc làm nhà, lại xem hướng nào thuận thì làm ngảnh về hướng ấy. Ngày nào phạt mộc, giờ nào dựng nhà, đều phải xem chọn kỹ càng.
Nhà nào cũng chỉ theo một kiểu cách, ở phố xá, thì toàn một kiểu phố xá, ở nhà quê thì toàn một kiểu nhà quê, bất quá khác nhau to với nhỏ, rộng với hẹp, lợp lá với lợp ngói mà thôi.
Kiểu phố xá phần nhiều là hẹp bề ngang mà bề dọc thì dài, nhà nào cũng có gác, trong nhà chia làm hai, ba lớp, trên lợp ngói, chung quanh có tường.
Nhà nào cao tới hai từng gác đã là cao, dài tới ba, bốn lớp đã là dài, rộng tới ba gian đã là rộng, còn lắm nhà thấp bé chật hẹp, chỉ độ một gian dài.
Trên gác làm bàn thờ, hoặc để chứa đồ, còn ở dưới thì để ở và làm nhà bếp, nhà sau. Các nhà rộng rãi thì còn dễ chịu, chớ các nhà chật hẹp, nào chỗ bán hàng, nào chỗ ăn chỗ nằm, chỗ bếp nước; chỗ đi đàng sau, quanh quẩn cả một nơi rất là khó chịu. Đã chật thì chớ, lại hay cho nhiều chủ thuê chung, có nhà năm bảy chủ ở chung làm một, mỗi chủ chắn riêng một cái phên, hoặc treo riêng một cái màn chỗ nằm để cho cách biệt.
Ở nhà quê thì phần nhiều là lợp lá gồi, hoặc có tranh, hoặc rơm rạ, thỉnh thoảng mới có nhà lợp ngói, kiểu thì nhà nào cũng đều năm, sáu hàng cột chia làm ba gian, hai chái, hoặc năm, bảy gian là cùng. Nhà lợp ngói thì cột, kè, hoành, rui toàn bằng gỗ, nhà lợp lá thì nửa gỗ, nửa tre, nhà kèo tre đố nứa là nhỏ hơn cả.
Nhà nào cũng để riêng ba gian giữa làm bàn thờ còn gian bên thì che kín làm buồng ngủ, xây tường, hoặc đóng thuận, hoặc trát vách.
Bề ngang có một cái nhà nhỏ làm bếp, có người làm luôn nhà bếp vào một gian đầu nhà.
Trong nhà trừ ra chỗ bàn thờ, bày đồ đèn nến, hương án, mâm quì, còn chung quanh thì bày la liệt nào giường nào phản, nào án thờ, nào ghế ngựa để làm chỗ ngồi chơi và chỗ ăn uống.
Ở nhà quê thì nhà tre nhà lá, không vững chãi bằng nhà gạch ở phố xá, nhưng nhà nào cũng có sân, có vườn, rộng rãi dễ chịu hơn ở phố nhiều. Song cũng lắm nhà tụp hụp lều tranh túp cỏ, coi tiều tụy quá chừng.
Ngắm các kiểu nhà của ta, bất cứ nhà quê hàng phố, nhất thì nhà gỗ nhà gạch, trổ chạm đầu kèo đầu kẻ, vẽ vời cành trúc cành mai, cửa võng sơn son thếp vàng, tường hoa trêu quanh tứ phía, nào cửa bức bàn, nào cửa chắn song, nhà rộng bẩy gian, thềm cao ba thước, thế là lịch sự, thường thường thì nhà lá đại khoa, trung khoa, hạ thách thượng thu, bào trơn đóng bén, kém nữa thì nội kèo ngoại kẻ, cửa phên vách dừng, có nhà tụp hụp có nhà phong quang, không phải nhà nào cũng như nhà nào. Song cứ xem cái đại thế thì nhà nào cũng đến kèo cột, đến xà, đến rui, coi ra chỉ những gỗ ngổn ngang, trên không có thừa trần, dưới ít khi lát gạch, chung quanh thì tường kín bốn bề. ít cửa thông hơi, chẳng những là kém đường vững vàng hoa mỹ, và lại không hợp cách vệ sinh.
Đến như trong nhà, không mấy nhà phân biệt phòng nào là phòng ăn, phòng nào là phòng ngủ, chỗ nào là chỗ làm việc, chỗ nào là chỗ ngồi chơi, nhà nào cũng chỉ thấy bày la liệt những ghế, những bàn, những giường, những phản; có khi ăn ở đấy, ngủ ở đây, làm việc ngồi chơi cũng ở ngay đấy.
Nói tóm lại thì đường mỹ thuật làm cửa làm nhà của ta còn kém, mà tính người ta lại cẩu thả nhiều, quý hồ thế nào cho dung thân được thì thôi, chớ không quản gì đến hoa mỹ. Sự đó chẳng quan hệ gì là mấy. Nhưng cũng nên theo cách nào cho được gọn gàng sạch sẽ, mà bài trí thì nên để cho thanh lịch, chỗ không quý gì nhiều đồ, cốt làm cho rộng rãi thông hơi mà đừng làm chướng mắt, và lại tiện cho việc lau rửa quét dọn thì được sạch sẽ luôn.
Các nơi nhà quê, nhiều nhà nào trổ nào chạm, chẳng qua chỉ cho nhện dễ chàng võng, kê lắm giường lắm phản, chẳng qua chỉ để cho mối xông đất, mái tụp hụp như chuồng ngựa, buồng kín bít như buồng tằm, chẳng qua chỉ để cho chuột bọ rúc rích ra vào, gớm ghê bẩn thỉu như thế thì sao cho sạch sẽ được. Mà chỗ ở đã không được sạch sẽ thì không giữ được vệ sinh; vả lại người ưa sạch sinh ra bứt rứt trong mình, lúc nào cũng như để mình vào trong đám dơ dáy, chịu làm sao cho được.
Xong nói đến sự cửa nhà cho phong quang, cùng là ăn uống cho ngon lành, quần áo cho lịch sự, thì phải truy nguyên đến đường sinh lý, vì ai cũng là biết khôn, chỉ vì kém đồng tiền mà thôi. Thế thời muốn được như vậy, ta lại cần phải làm thế nào cho nhiều tiền.
XXVIII. ĐỂ TÓC
Trẻ mới sinh độ một tháng, gọt hết cho sạch tóc máu rồi tóc hơi dài lại cạo. Đến khi ba, bốn tuổi trở lên con trai để ít tóc trên đỉnh đầu gọi là cái chỗm, hoặc cái hồng mao, con gái để ít tóc trên thóp hoặc ở sau gáy, gọi là cun cút; cũng nhiều đứa để hai bên góc đầu, gọi là hai trái đào. Đến chừng mười hai, mười ba tuổi trở lên thì để tóc, không cạo nữa. Để cho đến khi có tóc dài, đàn ông bới tròn một nắm đằng sau sống óc rồi đội khăn bịt ra ngoài, đàn bà thì cuộn tóc vào trong khăn, rồi vấn một cái vành tròn trên đầu, mà để đuôi tóc thòng ra đằng sau gọi là cái đuôi gà. Đàn bà Trung kỳ và Nam kỳ thì bới tóc như đàn ông Bắc kỳ.
Đàn ông lấy có bới tóc làm đẹp, đàn bà lấy có đuôi gà làm xinh, cho nên nhiều người không tóc, phải mượn tóc ngoài mà độn vào. Trừ ra chỉ có nhà sư, hoặc kẻ làm ăn lam lũ, thì mới để đầu trọc.
Ít lâu nay, đàn ông nghiễm nhiên theo Âu hóa, đã nhiều người húi đầu, duy ở chốn quê thôn và cựu nho thì không mấy người chịu húi.
Đầu để tóc vừa bẩn thỉu, vừa ngứa ngáy, mà mỗi ngày một lần gội, hai ba lần chải thì lại mất thì giờ, mất công việc. Nhất là về trời mùa nóng, mồ hôi mồ kê, chậm gội một hai ngày thì đầu đã hôi như tổ cú, có người làm biếng không năng chải thì chấy như giòi, thực là bẩn thỉu khó chịu, mà lắm khi nhức đầu nhức óc vì tóc mất cả trí khôn, cho nên khắp hoàn cầu đâu đâu cũng vậy, đàn ông cần dùng cái óc khôn, thì tất phải húi đầu mới chịu được, vả lại đầu trọc tiện cho nhiều bề lắm, muốn tắm gội lúc nào cũng được, mà làm việc cũng không bận bịu vựớng víu, được sạch được mát luôn luôn. Dẫu văn minh chẳng ở đâu trên đầu, nhưng tiện cho mình mà lại được khỏe mạnh thì nên húi lắm.
Ta theo tục Hán Đường mà để tóc, quen mắt thì cho là đẹp, lại lắm người nệ chữ sách: "thân thể phát phu, thụ chi phụ mẫu, bốt khả hủy thương", nghĩa là thăn thể mình và da tóc mình là chịu của cha mẹ để cho, không nên phá hoại. Viện câu ấy mà giữ lấy tóc, sợ thất hiếu với cha mẹ, người nào nghĩ như vậy là lầm, vì cha mẹ sinh ra mình, mong cho mình mạnh khỏe để làm mọi việc, thì quý hồ thế nào giữ được sức mạnh là hiếu, chớ cứ giữ một đông tóc mới là hiếu hay sao?
XXIX. NHUỘM RĂNG
Con trai con gái chừng mười tuổi trở lên, rụng hết một lượt răng sữa, mọc đủ răng khác rồi thì nhuộm răng.
Cách nhuộm răng trước hết dùng cánh kiến tán cho nhỏ, vắt nước chanh để kín bảy ngày, rồi chờ tôi đi ngủ thì phết thuốc ấy vào hai mảnh lá dừa hoặc lá cau mà ấp vào hai hàm răng. Trong khi nhuộm phải kiêng nhai, ăn cái gì phải nuốt, vì sợ nhai thì nó lại phai thuốc ra. Nhuộm như thế độ dăm bảy hôm, cho răng đỏ già ra mầu cánh gián, thì bôi thuốc răng đen mà nhuộm. Thuốc răng đen làm bằng phèn đen trộn với cánh kiến, nhuộm một hai miếng lá đen kịt lại, đoạn lấy cái sọ dừa để lên con dao mà đốt cho chảy nhựa ra, rồi lấy nhựa ấy phết vào răng cho không phai ra ctược nữa, gọi là giết răng, từ đó ăn không phải kiêng nhai nữa.
Đàn ông nhuộm một hai lần thì thôi, đàn bà thường mỗi năm một lần nhuộm; vì đàn bà lấy răng đen nhánh làm đẹp, cho nên có người nhuộm mãi đến ngoài ba mươi tuổi mới thôi.
Ít lâu nay các người theo tân học đã bỏ tục ấy, đàn bà con gái chuộng mới cũng để trắng cho làm đẹp.
Sự đẹp xấu ở trong hàm răng, cũng tùy theo cái mắt quen nhìn, dẫu trắng dẫu đen, không hề chi cả. Duy một điều, chất nó vốn trắng, cứ theo tính tự nhiên mà để trắng cũng được, hà tất phải sinh sự lối thôi cho khó nhọc?
Có người nói rằng: nhuộm răng không cốt gì làm cho đẹp, cốt để cho khỏi sâu răng, cho được chắc chắn chân răng. Nói vậy vị tất đã phải, vì chán người nhuộm răng mà vẫn sâu răng. Muốn cho khỏi sâu thì chi bằng mỗi bữa ăn xong, phải xỉa cho sạch, hoặc chải cho kỹ, đừng để đồ ăn giắt vào chân răng thì không bao giờ sâu được.
Song tục quen đã lâu, đàn ông trắng răng thì chẳng sao, chớ đàn bà nhà tử tế bấy giờ mà trắng răng, thì coi cũng khí ngộ một đôi chút. Nhưng lâu dần cũng phải quen mắt, có lẽ quen mắt rồi thì trắng lại đẹp hơn đen nhiều.
XXX. ĂN TRẦU
Quả cau bổ ra hoặc để tươi, hoặc phơi khô, lá trầu không quệt ít vôi cuộn lại như cái tổ sâu, và cắt một miếng vỏ cây (nhất là hay dùng rễ cây đay), mấy thứ đó hợp làm một mà nhai, gọi là ăn trầu.
Ăn trầu có mùi thơm, trừ được mùi xú uế trong mồm và làm cho môi đỏ tươi, đàn bà lấy thế làm đẹp.
Trầu cau lại là một thứ đầu các sự lễ nghĩa. Phàm việc tế tự tang ma, việc cưới xin, việc vui mừng, việc gì cũng lấy miếng trầu làm trọng. Tế tự thường khi dùng cả buồng cau để lễ, cưới xin nhà gái thường ăn của nhà trai vài ba ngàn quả, để chia phần cho bà con.
Dân thôn ai có việc gì đến nhà người tôn trưởng, hoặc vào cửa quan, cũng đem buồng cau vào là quý. Nhà tư gia cúng giỗ tổ tiên tất phải có cơi trầu. Khách đến chơi nhà, phải có trầu cau thết đãi.
Đám hương ẩm, tùy người tôn ty mà chia phần trầu có thứ tự, nếu kém một khẩu trầu có khi sinh sự tranh kiện nhau.
Kẻ buôn bán, đã ăn miếng trầu của nhau rồi, thì phải nể nhau, có câu rằng:
Miếng trầu là đầu thuốc câm.
Đàn bà rất là hay ăn trầu, có người ăn luôn mồm cả ngày, nhả bã miếng này lại ăn ngay miếng khác. Lại nhiều người ăn kèm với điếu thuốc lào, môi lúc nào cũng cắn chỉ tím thâm lại.
Nghề buôn bán cau tươi cau khô cũng là một mối buôn bán nhiều lời ở xứ ta. Trầu không có năm đắt tới hai ba xu một lá.
Xét trong truyện Trích quái, có một truyện nói về sự tích trầu cau. Nói rằng: Đời thượng cổ có một ông quan, người cao lớn, vua cho gọi lắ họ Cao. Người ấy có hai con trai, con cả là Tân, thứ là Lang, hai anh em mặt giống nhau như hệt. Đến khi mười bảy, mười tám tuổi cha mẹ mất cả, mới đem nhau đi nơi khác, học một ông thầy họ Lưu. Nhà ông thầy có người con gái mười bảy tuổi, trông thấy hai chàng kia đẹp trai mà tử tế, yêu lắm, muốn kết làm vợ chồng, nhưng không biết ai là anh. Bèn bưng một bát cháo và một đôi đũa đem mời hai người để xem ý ai ăn trước. Nàng kia biết đích rồi, mới nói với cha mẹ mà lấy người ấy.
Từ đó hai vợ chồng đằm thắm với nhau, mà coi em nhạt nhẽo. Người em phẫn chí, bỏ anh mà đi, đi đến nửa đường, gặp khúc suối sâu chảy mạnh, không làm sao sang được, mới ngồi mà khóc, rồi chết hóa ra cây cau. Người anh thấy em đi không về, đi tìm thì thấy đã chết ở dưới gốc cây, thương em quá, cũng đập đầu vào gốc cây mà chết, rồi hóa ra một hòn đá. Người vợ thấy chồng đi tìm em không về, cũng đi tìm đến đó, thấy chồng đã chết, lại vật mình vào hòn đá mà chết nốt, rồi hóa ra một bụi trầu không bám quấn quýt cả vào hòn đá và leo cả lên cây.
Cha mẹ người con gái thấy vậy, thương tình lập đền thờ cả ba người ở đó.
Về sau, vua Hùng Vương nhân đi tuần thú qua xứ ấy thấy trong đền có cây xanh lá tốt, mọc trên một đống đá. Vua ngồi nghỉ mát, gọi người bản thổ hỏi chuyện, rồi ngài sai lấy quả cau ấy bổ ra, và lấy hòn đá nung lên thành vôi tôi với nước, rồi lấy vôi quệt vào lá trầu mà ăn lẫn với miếng cau thì thấy mùi mẽ thơm tho, nhổ ra hòn đá thì thấy đỏ. Ngài mới truyền cho thiên hạ lấy giông mà trồng để dùng vào việc cưới xin mọi việc.
XXXI. HÚT THUỐC LÀO
Hút thuốc lá và thuốc phiện thì người ta cũng như tính người các nước, nhưng ta lại còn một tính riêng là nhiều người Ưa hút thuốc lào.
Thuốc lào là một thứ lá cây, tên chữ gọi là tương tư thảo. Kỳ thủy ta cho thuốc ấy trừ được sơn lam chướng khi, mới có người hút, lâu rồi quen đi mà ai cũng đua nhau, bởi thế thành tục.
Cây thuốc ấy về vùng Hải Dương, Nam Định trồng nhiều. Họ lấy lá phơi âm can cho khô, rồi thái nhỏ mà đóng thành bánh, rồi mới bán cho người ta hút.
Hút thuốc lào phải có một cái bình điếu, đổ nước vào trong bình, và một cái xe điếu, lúc hút thuốc thì cắm xe vào bình điếu mà hút.
Bình điếu hoặc bằng sành, bằng sứ, hoặc bằng tre, bằng gỗ, bằng ngà, có thứ trổ chạm nạm bạc, khảm xà cừ, xe bằng rễ trúc, dài tới ba, bốn thước.
Mỗi nhà có một bình điếu; khi khách vào chơi, tất phải có chén nước, miếng trầu và điếu hút thuốc lào để điểm vào câu chuyện.
Người sang trọng đi đâu, tất có một thằng đày tớ xách điếu đi hầu. Khi hút thuốc, điếu để cách xa ba, bốn thước, rồi đứa đày tớ dịt thuốc châm lửa đưa xe kề đến tận miệng mà hút.
Lắm người hút quen mồm rồi, không sao bỏ được, dẫu ho thế nào cũng cố hút được một điếu mới nghe. Đàn bà thỉnh thoảng cũng có người hút, lắm người hút vào say đờ mắt ra một lát, mà vẫn không sao chừa được.
Các văn sĩ lắm người làm văn nghĩ ngợi, phải có hút điếu thuốc mới nẩy được tứ, cho nên học trò vào trường thì phải đem kèm ống điếu vào trường.
Kẻ đi cày, anh đi câu, cũng xách được một cái điếu cày bằng dóng tre đi theo, đôi khi ngồi vệ đường hút nghe sòng sọc.
Tục ăn trầu hút thuốc lào của ta, ví cũng như người Tây hút thuốc lá, người khác nhấm hạt dưa, làm một cách giải buồn cho cái miệng.
Song hút thuốc lá còn thơm, nhằn hạt dưa còn bùi, àn miếng trầu còn khỏi chua miệng, chớ hút thuốc lào thì vừa hôi vừa đắng, vừa sinh ho hen, chẳng có ích gì, chỉ vì quen mồm mà không bỏ được. Tục cho là trừ được sơn lam chướng khí, vị tất đã trừ được độc, chẳng qua chỉ sinh ra bệnh ho mà thôi. Đôi khi có người ngồi gần bếp hút thuốc say đờ mắt ngã lăn vào bếp, thì lại là một sự nguy hiểm nữa.
Lại nực cười thay cho mấy ông làm bộ sang trọng, động đi đến dâu thì có một thằng đày tớ ôm tráp xách điếu đi lạch đạch đằng sao, làm cho thiên hạ phải ngại mắt mà trông vào mình, thời buổi nay mà coi thấy nghi vệ cổ thì cũng lấy làm lạ.
XXXII. HÁT XẨM
Những người đui mù lòa mắt, học nghề đàn hát, rồi rủ nhau một tụi độ năm, sáu người, vừa đàn ông vừa đàn bà, dắt nhau đến các nơi thành thị, kiếm chỗ đông người, trải chiếu ngay các nơi vệ đường mà hát.
Bọn xẩm, kẻ thì đánh trống gõ phách, kẻ thì kéo nhị, kẻ thì gảy đàn bầu, rồi đồng thanh mà hát, hoặc đi giọng nam, hoặc đi giọng bắc, ăn theo tiếng nhị tiếng đàn, nghe cũng vui tai.
Đàn bà trẻ con người lớn xúm xít vào xem, kẻ thưởng dăm ba đồng kẽm, người cho một vài xu. Hễ người xem vãn rồi thì lại dắt nhau đi chỗ khác.
Hát xẩm cũng là một nghề sinh nhai của bọn mù lòa, nghề ấy chính là một kê cứu kẻ tàn tật.
XXXIII. HÁT Ả ĐÀO
Ả đào tức là bọn ca nhi vũ nữ, tập nghề ca vũ từ thuở nhỏ, chừng mười bảy, mười tám tuổi đã đi hát được.
Bọn ả đào nhà quê thường đi hát về các nơi đình đám. Bọn ấy có lệ giữ cửa đình, hễ đến mùa các nơi dân xã hội hè, thì bọn nào hát cửa đình bọn ấy. Mỗi khi đi hát, kéo nhau từng bọn từ già chí trẻ, cả đào lẫn kép, đến hàng hai mươi, ba mươi người.
Hết vụ hát thì lại về nhà quê cày bừa làm ăn. Còn ả nào có nhan sắc hoặc hát giỏi thì ra các phố xá mở nhà hát chiêu khách.
Các bậc hào hoa văn nhã, lấy cách chơi ả đào làm cách chơi thanh lịch. Hoặc gọi dăm ba ả về nhà hát chơi, hoặc dắt bảy, tám cô dạo thuyền chơi cảnh, hoặc đến chơi tại nhà ả đào. Trong cách chơi cốt nhất là được người tiếng tốt, hát giỏi, ca đủ giọng, câu thông, câu miễu, nói, hát, xẩm, ngâm thơ, đọc phú, kể chuyện, gửi thư, ca lý, ru hãm, hễ điệu nào cũng hát được mà êm tiếng ngọt giọng là hay. Hát phải có đàn có phách, đàn phách phải ăn theo tiếng hát. Lại cần nhất là người nghe hát phải biết đánh trống chầu. Đánh chầu có phép. Mới thoạt ngồi đánh luôn ba bốn hoặc năm, sáu tiếng, gọi là trống giục, để giục. Đến lúc hát thì có chỗ nào dứt câu điểm một tiếng (bằng cắc trạc thùng) gọi là điểm câu. Ngoại giả chỗ nào câu văn hay, hoặc giọng lên xuống khéo thì điểm một tiếng hoặc hai, ba tiếng (cắc) nghĩa là tiếng khen, có chỗ đánh luôn hai tiếng (thùng) rồi hạ một tiếng (cắc) thì gọi là tiếng hạ mã; có chỗ cắc một tiếng lại điểm hai, ba tiếng thùng thì gọi là tiếng thượng mã. Có chỗ đánh thùng cắc thùng gọi là xuyên tâm; có chỗ đánh luôn ba tiếng thùng rồi chêm một tiếng cắc, lại với theo một tiếng thăng, gọi là tiếng lạc nhạn. Nhưng cốt nhất phải thuộc khổ phách, phách mau thì trống mau, phách khoan thì trống khoan, mỗi khi dồn phách thì có mấy tiếng trống xếp, tiếng trống vừa dứt thì khổ phách cũng vỗ theo, thế mới là chầu hay.
Trong khi hát, quan viên ai thích nghe hát thì nghe, ai muốn tổ tôm tài bàn thì ả đảo ngồi chia bài, ai muốn thuốc phiện thì bắt ả đào ngồi tiêm thuốc.
Hát hỏng chơi bời xong thì đến cuộc rượu. Cuộc rượu đủ các thứ đồ xào nấu, ngũ trân bát vị. Trong khi ngồi uống rượu, một ả đào làm chủ tiệc rượu phải đứng dậy trước mời khắp quan viên một lượt mỗi người một thìa, quan viên uống rồi mỗi người mời trả lại một thìa. Kế đến các ả khác (người chạy mảnh) cũng vậy, mỗi người chạy vòng quanh chiếu rượu, trước mời người làm chủ cuộc hát, rồi mời khắp quan viên, quan viên cũng đáp lại mỗi người một thìa. Mời mọc đâu đấy thì mỗi quan viên phải có một ả đào - hoặc hai, ba ả ngồi kèm đỡ bát đũa. Lúc uống rượu, quan viên ai muốn mời ai uống rượu nào thì nhờ ngay ả đào ngồi gần đó mời giùm; người ấy uống rồi lại nhờ tay ả khác mời, trả lại quan viên kia. Hoặc là quan viên ả đào mời lẫn nhau, mời thuận trả thuận, mời nghịch trả nghịch, có khi quàng vai bá cổ nhau mà mời, hoặc hôn nhau để tỏ lòng yêu mến.
Trong cách uống rượu, lại giở ra lắm cách để vui: hoặc cách truyền lửa, hoặc cách quay thìa. Truyền lửa là một người đốt một cái đóm tắt đi, rồi lần lượt truyền cái làn đóm lẫn cho nhau, hễ đến ai mà cái tàn đóm tắt hết thì phải uống một thìa rượu. Quay thìa là để một cái thìa vào cái đĩa, quay tít đi một vài vòng, hễ cái chuôi thìa chỉ về ai thì người ấy phải uống một thìa. Lại còn cách khởi thuận là cứ thuận tay mà mời lần lượt nhau, khởi nghịch là theo chiều nghịch mà mời lẫn nhau, cách nhất là cứ cách một người thì lại mời một người. Ba người mời lẫn nhau gọi là rượu tam đa, năm người mời lẫn nhau gọi là rượu ngũ phúc. Ả đào ai có điều gì xấc xược thì quan viên lại phạt một vài thìa nữa.
Rượu nghe ngà ngà say cả, mới giở đến hát lý, hoặc xẩm, hoặc bộ, ai muốn nghe điệu nào thì bắt hát điệu ấy. Cuối cùng mỗi ả hãm một vài câu, quan viên ăn cháo là mãn tiệc. Đó là tiệc rượu to, còn một vài người đi chơi uống rượu suông nghe hát thì gọi là hát chay, hoậc không nghe hát, chỉ uống rượu ăn cháo, nghe vài câu lý, vài câu hãm thì gọi là tiệc xú dề.
Trong cách chơi này có nhiều bậc. Có người bởi tính hào hoa phong nhã mà chơi, có người vì lòng buồn bã chán ngán mà chơi. Bọn ấy thì lấy tiếng đàn tiếng hát, câu văn chương. Tiếng trông chầu làm vui thú, ngoài nữa thì lấy cái cười hoa cốt liễu, thìa rượu con bài làm cách giải buồn. Song chơi thì chơi, nhưng chơi một cách rất thanh nhã, mà lại có điều có độ cốt để di dưỡng tính tình khi nhàn nhã mà thôi.
Ngoại giả hạng ấy, kẻ thì vì đam mê sắc dục mà chơi, kẻ thì vì đua đả anh em mà chơi, kẻ thì vì dởm của mà chơi, kẻ thì vì quang mỡ mà chơi. Hạng này thì ít người hiểu được cái thú thanh nhã, chẳng qua chỉ ưa bê má phấn môi son, lấy cách quàng vai bá cổ, kè đùi kè vế làm vui, lấy lời ong bướm lả lơi, trăng hoa bỡn cợt làm thích. Mà chơi thì chẳng có điều độ nào, kẻ sẵn đồng tiền mồ hôi nước mắt của cha mẹ để lại phá đi đã đành; kẻ nhờ có công việc làm ăn, trong tay nghe hơi có đồng tiền, đã tưởng ngay lên bộ mặt hào hoa phong nhã. Có kẻ còm cọm làm hàng tháng, lĩnh được dăm ba chục bạc, chỉ đổ vào một hai chầu hát là lại nhẵn như chùi, thậm chí bán cửa bán nhà, vay công lĩnh nợ để chơi cho thỏa thích một thời, mà sau phải ôm xác lo trả nợ.
Đó là cách chơi hoang đàng chẳng có lý thú gì, chỉ tổ hại của mà thôi. Còn về phần ả đào là bọn đem thanh sắc mà bán cuộc vui cười cho người, cái thói đưa đà, cái giọng ỏn ẻn, cái tình khi mặn khi nhạt, chẳng qua đều vì đồng tiền, đó là một cái lối riêng của nhà nghề, chẳng nên trách làm chi bọn ấy.
XXXIV. HÁT TUỒNG
Hát tuồng tác là nhạc võ và là một cách tiêu khiển cho người ta. Cổ giá dùng những sự tích đế vương diễn ra làm tuồng, là có ý kỷ niệm cái công đức trị dân phá giặc của người xưa, để làm gương cho các vua đời sau; và lại tả hết các tính tình kẻ trung người nịnh, để làm gương cho thiên hạ, vậy thì hát tuồng là một bức tranh truyền thần của tiền nhân và là một bài luân lý dạy bằng sự thực nữa.
Nước ta cũng theo tục ấy mà đặt ra các bài tuồng. Nhất là hay diễn theo sự tích Tam quốc, Sơn hậu, Chinh đông, Chinh tây, Bình nam, Tảo bắc, Phản đường, Thuyết nhạc v.v...
Con hát phải luyện tập lắm mới giỏi. Phải biết hát đủ giọng, phải biết bộ tịch nhảy múa, đóng vai nào phải y hệt cái thần tình vai ấy mới là khéo.
Hát phải có nhạc, nào kèn nào trống, nào mõ nào thanh la để đỡ giọng hát và điểm vào những nơi nhạt nhẽo cho vui; lại có người cầm trống chầu để thưởng những chỗ hay và làm cho thêm lộng lẫy cuộc vui lên nữa.
Đồ áo mũ bia ủng, cờ tàn qua kích cũng phải chỉnh đốn lịch sự. Rạp hát bài trí cũng cho trang hoàng rực rỡ, làm ra nghi lâu, giả thành, và có đủ sơn thủy cây cối mới đẹp.
Về các nơi nhà quê khi có hội hè, thường hay gọi phường tuồng về hát. Song chỉ hát độ dăm ba bữa nửa tháng là tan, mà rạp hát cũng kết tạm bằng nứa lá xì xằng, chớ không có cơ sở chỉnh đốn nào cả. Duy ở về các nơi đô hội thì mới có rạp hát lịch sự, trừ ra ở Huế có rạp hát Ngự là nhà hát riêng của vua đã đành, còn như Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng v.v... thì là các người có vốn hợp cổ lập nên, hoặc của một người giàu có mở ra đổ làm chỗ vui chung cho thiên hạ mà lấy lời.
Cuộc diễn kịch của hoàn cầu là cốt đem hết tính tình hay dở của thiên hạ mà bày ra trước mắt thiên hạ, tả làm sao cho đúng tinh thần, để cho người đi xem trông thấy mà cảm động đến tấm lòng, thời nào nên kính nên trọng, thời nào nên khinh nên bỉ, vừa làm một trò tiêu khiển cho người ta, lại vừa làm một cách treo gương cho người ta, cho nên tuy là sự vui cười, mà thực là có ích cho việc giáo dục nữa.
Vậy bất cứ điều gì, hoặc việc quân quốc, hoặc tình trai gái, hoặc các nết hay của bậc hiền đức, hoặc các thói xấu của loài tiểu nhân, điều gì có thể tỉnh ngộ nhân tâm, cũng có thế đem ra diễn được. Còn như các câu khôi hài, các lời tán tỉnh, chẳng qua chỉ đệm cho thèm vui mà thôi.
Ta chưa biết trọng nghề diễn kịch, thường cho con hát là kẻ hèn hạ, chớ không biết rằng, chính người học có lịch thiệp thế thái nhân tình, thì mới làm nổi được con hát giỏi, mà cũng không mấy người có học thức mà chịu đi làm nghề ấy.
Các nước văn minh, con hát có danh giá, mà những nhà văn sĩ, ai làm được bài tuồng nào hay, cũng nổi tiếng văn chương một thòi, ta thì đã đâu được như thế.
Vậy mới biết hát tuồng cũng là một việc hệ trọng. Hiện nay ta cũng đã nhiều người hiểu nghĩa ấy, muốn cải cho theo với cách văn minh. Thiết tưởng muốn theo cách văn minh thì chẳng những qui củ rạp hát, cùng là âm nhạc phải chỉnh đốn lại, mà đến những bài tuồng cũng nên sửa sang theo lối mới, bỏ những điều hoang đường, bớt những câu nhảm nhí, mà nhất là diễn theo sụ tích của ta thì lại càng hay.
XXXV. CUỘC TIÊU KHIỂN
Các bậc hưu quan trí sĩ, hoặc những người phóng khoáng nhàn dật, thường có mấy cách tiêu khiển cho làm cách phong lưu thanh nhã như sau này:
Gẩy đàn - Những lúc thư nhàn, hoặc khi đêm khuya thanh vắng, buồn bã một mình, thì mượn tiếng đàn làm tiếng giải muộn. Hoặc đàn nguyệt, hoặc đàn thập lục, dạo một vài câu lưu thủy, hoặc gảy chơi một khúc tứ đại nam ai v.v... Tiếng đàn thánh tha thánh thót, ti tỉ như dế kêu sầu, cũng đủ tả tấm lòng ngao ngán. Song nay đàn mai địch, lúc nào cũng rầm rĩ cửa nhà thì lại gây nên mối hoang dâm phóng đãng mà thôi.
Đánh cờ - Bàn cờ vuông, con cờ tròn, phải có hai người mới đánh được. Quân cờ chia làm hai bên đen đỏ, mỗi bên có mười sáu con, mỗi con đi một phép, ví như tướng chỉ đi quanh trong cung, sĩ đi hoa chanh, tượng đi chữ điền, xe pháo đi ngang đi dọc tùy ý, nhưng pháo phải cách một con mới được đánh. Mã đi chữ nhật, tốt đấm nước một, sang hà mới được đi ngang.
Đánh cờ cũng vui thú, mà càng nghĩ càng cao vô cùng. Đánh cờ được hai người đối thủ thì nghĩ ngợi có khi nửa giờ mới được một nước, có người mê mẩn đến nỗi quên ăn quên ngủ.
Ngâm thơ - Một mình buồn bã trông thấy cảnh tượng gì xúc động tình tứ, hoặc đi chơi đâu có thắng cảnh gì thì mượn ngòi bút mà tả tính tình. Có khi một vài anh em xướng họa hay là liên ngâm với nhau, cũng là một cuộc vui rất thanh nhã.
Thơ phải đặt cho thanh tao lưu loát và nhẹ nhàng tự nhiên, tả cho đến tinh thần mới là thơ hay, phi tay danh văn không làm nổi thơ.
Uống rượu - Lắm người bất đắc chí ở đời, mượn chén rượu đổ cho giải khuây những khi buồn bực. Khi chiều hôm, lúc ban sớm, ngật ngù tay đũa tay chén, ngẫm nghĩ sự đời, coi như một giấc mộng hoàng lương. Hoặc khi gặp bạn tri âm, mượn chén quỳnh để giải lòng tâm sự, có khi nhân cơn hứng thú, dốc bầu tiên mà đối cảnh thiên nhiên, vậy cũng là thú vị. Song uống lắm cũng say, những lúc khướt cò bợ mà nói càn nói xiên, cùng là nhân hứng tửu mà sinh ra bậy bạ thì rượu lại là một vật vô ích cho người.
Hút thuốc phiện - Trước bàn đèn nằm vắt chân chữ ngũ hút dăm ba khói tiêu khiển, ngẫm nghĩ cuộc đời cũng lắm sự buồn cười. Nhất là những khi anh em họp mặt, kẻ nằm ngang, người nằm dọc, khói thơm ngào ngạt, tiếng hút vo vo, câu chuyện nổ như pháo ran, tiếng cười ầm như vỡ chợ, bao nhiêu sự buồn bực, theo cả khói mà bay đi. Song nghĩ đến những khi nghiện ngập mà lại sợ. Trai anh hùng xo vai rụt cổ, gái thuyền quyên mặt bủng da chì. Đến lúc cửa nhà cơ nghiệp, trâu bò ruộng nương chui cả vào lọ rồi, chỉ những ngáp vắn thở dài thì cảnh vui ấy lại hóa ra một cảnh rất buồn bã.
Đánh tổ tôm - Đủ năm người mà muốn bày cuộc tiêu khiển thì chi cho bằng đánh tổ tôm. Tổ tôm có ba hàng là hàng văn, hàng vạn, hàng xách. Mỗi hàng có chín con từ nhất cho đến cửu. Hàng nhất gọi là hàng yêu đen, lại có thêm ba hàng yêu đỏ nữa là chi chi, cung thang, và ông lão. Mỗi thứ có bốn con, cả thảy là 120 con bài.
Cỗ bài chia làm sáu phần, một phần đế bốc nọc, còn năm phần mỗi người một phần. Người được cái hơn một con, phải phát ra trước, rồi cứ theo thứ tự mà ăn mà đánh. Ăn từ nhất đến cửu, gọi là ăn dọc: ăn hàng tam vào hàng tam, ngũ vào với ngũ v.v... gọi là ăn ngang. Hai con cùng một gióng gọi là phỗng, ba con gọi là khàn, bốn con gọi là thiên khai.
Đánh tổ tôm, nước ăn nước bốc cũng lắm nước cao, mà được trúng ý mình thì thích chí lắm. Có lúc bốc được những con bài kiệt thì sướng vô cùng, cho nên có câu rằng: "thiên tử bất như tứ vạn". '
Bài phu nào vào phu ấy, gọi là bài thập thành, thì bốc quân yêu hay là ai đánh quân nào vào phu cũng ù được. Hoặc còn thiếu một con gì thì chờ con ấy ra mới ù được, ù như thế gọi là ù suông.
Bài ù có tam vạn, tam xách, thất văn thì gọi là "có tôm"; có cửu vạn, bát xách, chi chi thì gọi là "có lèo"; bài có mười con đỏ gọi là "thập hồng"; bài đen gọi là "bạch định": chờ chi chi ù gọi là ù "chi nẩy", ù các thứ ấy ăn tiền gấp một, hai, ba, bốn lần ù suông.
Đó cũng là một cách giải buồn, nhưng ham mê quá thì phí thì giờ và lại mất công mất việc nhiều.
Đánh kiệu - Kiệu cũng dùng cỗ bài tổ tôm mà đánh, kiệu hai người đánh, ăn đủ bẩy hàng, gọi là thất kiệu; ba người đánh, ăn đủ năm hàng, gọi là ngũ kiệu; bốn người đánh ăn có bốn hàng gọi là tứ kiệu.
Đánh kiệu ăn được tự nhất văn đến cửu văn gọi là suốt; trong các nước ăn có đủ bốn con bài nào cùng một thứ gọi là triệt; được mỗi thứ ba con gọi là ba hoa. Các nước ăn ấy mỗi nước được thêm một từng thì lại ăn gấp hơn một từng, có những tiếng đơn, kép, mền, đụp, điêu cừu, dương hử v.v... nghĩa là mỗi từng lại gập thêm một từng.
Các học trò thi cử, có khi đánh kiệu để hỏi việc đắc thất, song cũng là một cách chơi cho tiêu khiên mà thôi.
Chơi cảnh - Nhàn cư vô sự, kể ra cách chơi cảnh cũng hay. Nhà chơi cảnh thường hay xây bể, đắp non bộ. Chung quanh trồng các thứ cây cối, có hoa, hoặc lan, hoặc cúc, sơn trà, mộc hương, mẫu đơn, đỗ quyên, hồng, sói, nhài, huệ v.v... Lại có các thứ xanh, sy, cây uốn con rồng, cây uốn con phượng, cây uốn thế này, cây uốn thế nọ, lắm cây uốn khéo trông cũng đẹp.
Giàn hoa thì trồng các thứ dây leo, hoặc nho, hoặc hoa lý, hoặc hoa lan tiên. Ngoài vườn hoa lại trồng các thứ cây cối có quả: cam, quất, đào, mận, na, bưởi v.v... Bể nuôi một vài con cá vàng, núi trồng một hai cây cố thụ. Lại nuôi một vài con chim hoặc sơn ca, hoặc bạch yến, họa mi v.v... Những lúc thư nhàn, ra vườn cảnh ngắm xem cây cối xanh tươi, hoa thơm ngào ngạt, trông con cá lượn thung thăng mặt nước, nghe tiếng chim kêu véo von trên cây thì còn gì vui cho bằng nữa.
Nói qua mấy cách tiêu khiển trên này là phần nhiều người ưa chơi. Còn người thích ý này, người ưa thứ khác, không biết đâu mà kể cho xiết được.
Xét trong các cách chơi bời, cách nào cũng có một cái thú tiêu nhàn, cũng di dưỡng được tính tình, cũng khoan khoái được thần chỉ. Song bất câu cách nào hễ chơi có điều có độ thì còn có lý thú, chớ chơi quá thì đểu là vô ích. Uống rượu lắm thì sinh ra bệnh, hại đến sự vệ sinh; tổ tôm lắm sinh ra hại của, tổn cho đường sinh lý; cờ lắm tổn tinh thần, kiệu lắm mất công việc. Mà nhất là thuốc phiện thì lại hại nữa. Thử xem các người nghiện, hồ dễ đã được mấy người phong lưu suốt đời, phần nhiều là sinh ra xơ xác tồi tàn, bẩn thỉu keo cúi.
XXXVI. CUỘC CỜ BẠC
Những người vô công rồi nghề, thường có tính ham mê về cờ bạc. Trong những tháng giêng, hai, ba, gọi là tháng ăn chơi, đàn bà trẻ con cho chí người lớn, chỗ thì xúm năm, chỗ thì tụm ba, nào đám thờ lò nào đám xúc xắc, quay đất, xóc đĩa. giồi mỏ, giồi chẵn lẻ, bài phu, tam cúc, tứ sắc, bài cào v.v... Đâu đâu cũng chỉ nói đến chuyện cờ bạc.
Đó là cách chơi xuân, ăn thua độ dăm ba đồng, còn quanh năm những tay ăn chơi chực bóc áo tháo cầy của nhau thì nhất là hay chơi xóc đĩa, ít xì hay là tài bàn, đánh bất.
Xóc đĩa - Xóc đĩa dùng bốn đồng tiền hoặc cắt diêm làm tiền cho êm, một mặt bôi vôi cho trắng, một mặt bôi mực cho đen, người làm cái bỏ bốn đồng tiền ấy vào dĩa rồi úp bát lạt mà xóc. Ngoài chỗ người xóc cái ngồi thì chia hai bên làm hai mặt, một mặt chẵn và một mặt lẻ. Bao nhiêu người đánh bạc ngồi xúm chung quanh, ai đánh mặt nào bỏ tiền xuống mặt ấy. Đánh đâu đấy thì nhà cái mở bát; hễ bốn đồng tiền sấp cả hoặc ngửa cả, hoặc hai sấp hai ngửa thì người đánh mặt chẵn được, sấp một đồng hay là ba đồng thì người đánh mặt lẻ được.
Bạc có lúc đi một chẵn lại một lẻ, gọi là đi cài một; hai chẵn hai lẻ, gọi là bạc cặp; hai nọ một kia, gọi là cặp lệch, ba nọ một kia gọi là ba bay; đi cả một dạo gọi là bạo đền; đến một dạo rồi ra mặt khác một cái lại về gọi là hồi nung.
Nhà cái có quyền muốn ăn mặt nào muốn bán mặt nào cũng được. Mà ý mình đậm mặt nào thì lại thừa thêm lên cho nhà con mở bát, nhà, con mở mà trúng vào mặt của nhà cái thừa thì nhà cái được, không trúng thì nhà cái thua.
Ít xì - Vài năm nay mới sinh ra cách đánh ít xì, dùng bài tây mà theo cách đánh của Tàu.
Cỗ bài ít xì có tám hàng, mỗi hàng bốn cây, mỗi cây riêng một thứ hoa, cả thảy là ba mươi hai cây.
Tám hàng là: thứ nhất ít xì, hai vua, ba đầm, bốn bồi, năm sập, sáu cẩu, bảy bạt, tám sất.
Phép đánh phải sáu người ngồi một bàn, không đủ tay thì bốn, năm người cũng được. Trước hết mỗi người rút một cây, ai được quân ít xì thì làm cái. Người làm cái trang bài, người tay cuối có bài (đảo nọc), người tay vần rút trước rồi cứ lần lượt mà rút.
Trước khi rút, mỗi người bỏ ra một vài hào bạc, gọi là xuất phá ấy để phòng ván đầu không ai ra tiền thì người hơn nước được tiền ấy, nếu có người ra tiền thì tiền ấy bỏ hồ.
Rút cây đầu đế ngỏ, rút đến cây thứ hai phải để kín, gọi là cây tẩy, vì cốt ăn thua về con ấy.
Cây đầu tiên ai hơn nước thì phải ra tiền trước, những nhà kia bài tốt thì ra tiền theo, ai xấu thì úp, không rút nữa. Còn ai rút thì mỗi lần rút phải ra một lần tiền cho đến cây thứ năm là cây cuối cùng, rồi ai hơn nước thì ăn.
Phép ăn bốn con ăn đồng hoa (bốn con đồng một thứ hoa), đồng hoa ăn mùn xẩu (ba nọ hai kia), mùn xẩu ăn xẩu (nàm cây liền thứ tự), xẩu ăn ba quân, ba quân ăn hai đôi, hai đôi ăn một đôi, một đôi ăn cộc kệch.
Trong khi ganh nhau ra tiền gọi là tố, ai sợ không ra nữa gọi là pha, ai ít tiền còn bao nhiêu bỏ ra gọi là xài láng, ai bài xấu mà già gan ra tiền để người ta sợ phải pha thì mình được ăn gọi là tháu cáy.
Tài bàn. Tài bàn cũng đánh bằng cỗ bài tổ tôm, cách ăn cách đánh cũng vậy, chỉ khác nhau vì tổ tôm thì năm người đánh, tài bàn thì chỉ ba người làm một bàn mà thôi, mà tổ tôm đánh có chừng, chớ tài bàn không chừng mực nào cả.
Tài bàn ai đặt to đặt nhỏ tùy ý, ai ù thì được, mà phải đủ chín lưng giở lên mới được ù.
Đánh bất. Cỗ bài bất có bốn hàng văn, hàng xách, hàng vạn, hàng thập, mỗi hàng có chín con, từ nhất đến cửu, duy hàng thập không có nhất, lấy ông cụ thay vào. Lại có thêm hai con yêu nữa là lang thang, chi chi, tính giá bằng hàng văn. Cách ăn: cụ ăn thập, thập ăn vạn, vạn ăn xách, xách ăn văn và cứ theo thứ tự nước trên ăn nước dưới.
Mỗi người đánh là một cửa, độ năm, sáu hoặc bảy tám cửa cũng được, mà ai muốn đặt bao nhiêu thì đặt, hễ ai rút được đúng số mười và hơn nước thì ăn và được làm cái, không ai rút đúng thì cứ người cái trước.
Các cách đánh bạc trên này, không có hạn ngữ nào, những tay có của thường khi đánh to, ăn thua nhau tới hàng trăm hàng nghìn.
Khi trước lại còn mấy cách người khách mở mà ta cũng nhiều, người ham đánh như ta phán thán, đố chữ v.v... Nhiều người hại về nghề cờ bạc ấy đến nỗi mất cơ mất nghiệp.
Cờ bạc chơi để mà tiêu khiển còn khá, vì chẳng thiệt hại mấy, chớ đâm ra ham mê, lấy nghề cờ bạc để làm sinh nhai thì chưa thấy mấy người khỏi được hại. Phương ngôn có câu rằng: cờ bạc rạc rày, lại rằng: cờ bạc là bác thằng bần, lại rằng: tiền cờ bạc gác ngoài sân, những câu ấy thực là đích đáng.
Chẳng những hại một mình mà thôi, lại còn có người vì cờ bạc mà bán vợ đợ con hoặc là sinh ra ăn cắp ăn trộm thì hại lây đến vợ con cùng là người ngoài nữa.
Nghề cờ bạc hại như thế, mà sao lại lắm người ham mê. Vì đó chẳng qua mấy bác ăn không ngồi rồi, không nghĩ cách xa xôi, trước còn cho là một cuộc tiêu khiển, rồi cay vào thành ra gỡ gạc. Chẳng kể gì mấy đám gỡ gạc nho nhỏ, các tay đại phú, các bực hào thương thường cũng có kẻ đam mê mà bỏ cả công việc buôn bán. Hạng ấy thì lại mộng tưởng nhưng sự may rủi rất lớn lao, tưởng những sự gỡ một ngày còn hơn buôn cả tháng. Cái mộng tưởng ấy thì trăm người may cũng có một người được phỉ lòng, nhưng chẳng qua được buổi này thua buổi khác, chớ mấy người mà nhờ cờ bạc làm nên giàu. Phóng túng nhiều có làm nên được giàu nữa thì của ấy cũng không bền, mà bao giờ cũng mang tiếng là của phù vân, có hay gì cái giàu có ấy.
Người ta không biết trọng cái thực lực mà muốn trông cậy về cái vận may, thì chí khí cũng đã kém rồi, huống chi là cái may cũng không mấy khi được gặp.
 Năm 1973
Phan Kế Bính
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tín ngưỡng tâm linh trong truyện ngắn của Y Ban

Tín ngưỡng tâm linh trong truyện ngắn của Y Ban Chất liệu văn hóa dân gian, yếu tố tín ngưỡng tâm linh của Phật giáo, Đạo giáo, đạo Mẫu (t...