"Chuyện tình mùa tạp kỹ"
Một bài tập lập dị có ý đồ
và khuynh hướng hậu hiện đại
Tham luận - đọc tại buổi tọa đàm giới thiệu cuốn tiểu thuyết Chuyện
tính mùa tạp kỹ của Lê Anh Hoài do NXB Ðà Nẵng và Trung tâm Văn hóa Ðông
Tây tổ chức tại Hà Nội tối 27/10/2007
Tôi rất để ý cái gọi là lập dị (không theo thói thường), thể
hiện bằng rất nhiều kiểu tạng, từ những nguồn cơn cố hữu (bởi bản tính), hay cố
ý (bởi ý thức), hoặc cố tình (bởi kích thích)…, quyết định những hiệu quả hoàn
toàn khác nhau.
Nên quan niệm lập dị là một nỗ lực. Nó diễn biến, nó dịch chuyển, mà không chỉ
dừng lại ở việc đúc kết hình hài (vì hình hài của nó chưa chắc được chấp nhận).
Ðặc biệt trong lĩnh vực sáng tác, đó là một công bố thẩm mỹ (thẩm mỹ như một động
từ) theo thể động chứ không phải tĩnh.
Nếu tiếp cận, thăm dò, khám phá và phân tích chuyển động của quá trình thiết lập
ra cái biệt dị đó, ta sẽ không bị ràng buộc bởi những tầm ngắm có sẵn (bài
xích, đố kỵ nó), và sẽ không bị những giá trị kinh điển (hay hoặc dở, đẹp hoặc
xấu, đúng hay sai, chính hay phụ, sang hay hèn…) khống chế đường hướng thẩm định.
Nêu không, thì rất dễ bỏ sót những tín hiệu mới lạ – ngoài nó (sự lập dị),
không ai cung cấp cho ta.
Chuyện tình mùa tạp kỹ là cuốn tiểu thuyết đầu tay của Lê Anh Hoài (sinh
năm 1966), gồm 49 phần, có kết cấu chương hồi cổ điển và khoá đuôi bằng một kịch
bản với sân khấu quay đương đại.
Nội dung cuốn truyện hoàn toàn không nhằm vuốt ve tâm hồn, vỗ về tâm thế như
người đọc trông chờ. Nó còn rất dễ gây nhàm chán, phản cảm, vì rặt những chuyện
yêu đương vụn vặt, tầm phào, nhăng nhít của tầng lớp “có chữ”, “có nghệ”; các
nhân vật thì vô hồn, lạc lõng, thiếu tính cách; mối quan hệ thì rời rạc, không
trạng huống, không gây hấn; ngôn ngữ thì buông tuồng, phá bĩnh, không sàng sẩy...
Tóm lại, tác giả không hề có ý đồ nâng đỡ hay triệt tiêu cảm xúc của bất cứ ai
khi đọc cuốn sách này. Ðồng thời, cũng không để lộ một đầu mối nào cho những ai
hăm hở tìm kiếm cốt truyện trong tác phẩm rồi đem mà kể lể.
Như một ống kính phóng sự, tầm ngắm từ nhân vật Trình, một cậu sinh viên mới ra
trường tập viết báo, rồi lia sang những câu chuyện nghề nghiệp và mối quan hệ
tình yêu, tình dục kín kín hở hở, thật thật giả giả, nói chung là loạn chuẩn,
loạn nhịp đang đeo bám đời sống trong tầng lớp trí thức trung lưu. Những cảnh
quay như không hề chuẩn bị kịch bản, gặp đâu ghi hình đấy, về các nhân vật nhà
báo, giáo sư, thi sĩ, hoạ sĩ, diễn viên... nam có nữ có, cho ta một cảm quan ê
chề đến kinh hoàng về sự sống bề nổi thiếu lý tưởng, thiếu hoài bão, thiếu
trách nhiệm của thế hệ trẻ hôm nay và một mạch nước ngầm của lương thức cần
khơi thông.
Toàn bộ chất liệu mà tác giả đưa lên mặt giấy đều không thể hiện một chủ đề, một
chủ đích, một chủ thể nhất định nào.
Phần cuối là một vở kịch gồm 14 (sách in nhầm thành 13) lớp, các nhân vật trong
tiểu thuyết (phần trước) lại thay hình đổi dạng, sắm những vai: Ðông Gioăng,
Thi sĩ, Ðại bợm, Chồng, Dâm phụ, Nàng ngây thơ, Ca sĩ – kẻ ăn xin... xuất hiện
và diễn biến đan xen trong phòng khách của một gia đình, trong quán café, tràn
cả ra đường phố nữa. Kịch nghệ, kịch tính, kịch thoại không đến nỗi phức tạp nhưng
không đơn giản và đơn thuần chút nào.
Nó ngẫu hứng đến mức tùy hứng!
Nó khiến ta hoài nghi, và nhận thức về sự bấp bênh dẫn đến nguy cơ đứt xích một
hệ thống thẩm mỹ - thuần phong và mỹ tục cổ truyền. Ðồng thời thôi thúc chúng
ta tìm kiếm những quy phạm hoàn toàn mới (không kế thừa), hoàn toàn sống động
(không sách vở), mang vác chức năng khai mở (không chỉ phù hợp) nhận thức về xã
hội, về con người, về môi trường văn hoá đang không ngừng biến đổi.
Giọng điệu bất cẩn, bỡn cợt, giễu nhại, buông thả tràn ngập cuốn truyện. Từ
ngôn ngữ tiêu đề, ngôn ngữ diễn tả, đến ngôn ngữ đối thoại, thậm chí cả những
đoạn lên cót chính luận đều không che đậy thái độ thách thức và cà khịa với
thành quả trau chuốt, lịch lãm, nghiêm túc trong nghệ thuật nhuận sắc ngôn ngữ
đã và đang được độc tôn.
Chuyện tình mùa tạp kỹ không màng đến giá trị vĩnh hằng, không phấn đấu trở
thành tuyệt tác, không cao siêu, thậm chí chẳng sâu sắc gì. Lớp lang của chương
hồi như một cố gắng tuyệt vọng duy nhất (không thể thiếu) để xâu chuỗi những mẩu
tình rời rạc và rối rắm thành cấu trúc cho tiểu thuyết, dù cấu trúc lồng ghép
này gây cảm tưởng không mấy an toàn cho tác phẩm.
Song, Lê Anh Hoài đã sử dụng nó làm một bài tập thể nghiệm hậu hiện đại trong
văn học với ý thức, khuynh hướng hẳn hoi.
Do vậy, muốn nhận diện nó, phải viện dẫn đến lý thuyết chứ không chỉ bằng vào cảm
tính bột phát và ngẫu hứng của trực giác.
Có quá sớm và liều lĩnh hay không, khi nhận định khuynh hướng hậu hiện đại bao
trùm cả cuốn tiểu thuyết Chuyện tình mùa tạp kỹ? Trong khi, ngay thời điểm
này, làng văn chương Việt Nam (trong nước) vẫn chưa sẵn sàng và cũng chưa thiện
chí đón nhận thực tế và vốn liếng của khuynh hướng này.
Thế nào là hậu hiện đại? Có quá nhiều tài liệu và thông tin có thể thoả mãn bất
cứ ai có nhu cầu tìm hiểu chủ đề đó. Tôi không muốn góp thêm một “tam sao thất
bản” thiếu minh bạch (vì đã có người làm chuyện đó) tại đây. Nhưng, phải lưu ý
trước tiên một đặc trưng, để khu biệt với các triết thuyết khác là: tinh thần hậu
hiện đại khuếch tán sự hoài nghi và phủ nhận những quy phạm, lô gích vốn được
tôn trọng bền bỉ, đồng thời xoá nhoà một cách thoải mái và triệt để những lằn
ranh tách bạch trong các cặp phạm trù lưỡng nghi đối lập (âm/ dương, sáng/ tối,
đẹp/ xấu, chính/ tà, thanh/ tục...), có ảnh hưởng đến khu vực mà nó phổ chiếu.
Vị trí cung đình, thượng uyển của văn học nghệ thuật vốn dành chỗ cho giới quý
tộc và giới học đòi quý tộc nay được hoán đổi, nhường chỗ cho cả những thành phần
chợ búa, vỉa hè, rác rưởi, tiếp nạp cả những ngôn ngữ bông phèng, thậm chí tầm
bậy – chẳng sạch sẽ linh thiêng gì nhưng không có cách nào tiêu diệt nó! Nguồn
cảm hứng đa tạp, ngoài rìa, bình dân hoá văn chương đã bộc lộ sinh khí vốn là của
hiện thực cuộc sống. Hơn nữa, nó còn góp phần lột trần bộ mặt mưu lợi và giả tạo
của một giai tầng đang thao túng văn hoá quyền uy và cũ mèm.
Tại sao lại là bài tập thể nghiệm? Vì trào lưu hậu hiện đại đã có sẵn mẫu mã và
thương hiệu. Lê Anh Hoài không sáng tạo ra mà chỉ là một trong những cây bút tự
trang bị và ứng dụng triết thuyết này trong văn chương Việt một cách lạc lõng
và chung tình.
Ðiều tôi quan ngại là trạng thái không mấy an toàn của cấu trúc của nó. Thực tế
cho thấy trò chơi hệ thống hoá này của Lê Anh Hoài đã gặp ngay một tai nạn (nghịch
lý) - hệ thống bị vô hiệu hoá. Ta có thể đọc ngược đọc xuôi, đọc bất kỳ một
chương nào trước hoặc sau, không cần nương tựa đến sự sắp đặt của cấu trúc
chương hồi. Nhìn tổng thể, anh chàng chương hồi yếu thế như một hình nộm, không
đủ sức sống, cả sinh lý lẫn hình thể để quyến rũ nàng nội dung (thích đủ thứ)
này vào cuộc giao hoan, nhưng lại có tham vọng chế ngự và sở hữu nàng, bằng
tiêu đề diệu vợi và mấy câu kết đỏm dáng.
Có thể kiểm chứng qua những lời nhận xét của một số nhà phê bình được trích dẫn
dưới đây:
“Cũng lập chương hồi, nhưng anh lập ra rồi bỏ đó. Như thể một ngụy trang hay một
cú chơi khăm chương hồi...” (Inrasara)
“Tình yêu hiện lên dưới dạng một câu chuyện chương hồi? Hình như nó không phải
là thế...” (Nguyễn Chí Hoan)
“Giả hình thức chương hồi để phục hiện những mảnh vụn, mảnh vỡ của cuộc sống...”
(Phạm Xuân Nguyên)
“Viết theo lối ‘giả cổ’ với những chương hồi tựa như những tiểu thuyết chương hồi
cổ điển: Tam Quốc diễn nghĩa, Hồng Lâu Mộng, Kim Bình Mai...” (Ð. N.) [1]
“Nhại truyện mà xưa ta cứ gọi chung là truyện Tàu... Thủ pháp pha lai...” (Thường
Quán) [2]
Liệu sự hẫng hụt, lệch pha và rã đám trong cấu trúc phải chăng cũng nằm trong
trò chơi của Lê Anh Hoài? Nếu đúng như vậy thì, Lê Anh Hoài đã cố ý tạo ra một
trật tự ảo? Hay là một trật tự giả? Nhằm xoá nhoà đường biên giữa hệ thống (gọn
gàng, ngăn nắp) và linh loạn (rời rạc, lộn xộn). Tôi muốn nhường câu trả lời
cho những ai có hứng thú khám phá.
Cũng có thể xem đó là một cuộc phiêu lưu vô tăm tích trong nỗ lực cách tân của
Lê Anh Hoài chăng?
Bỗng nhiên lại ngẫm nghĩ về câu nói có tính đúc kết của nhà lý luận phê bình
Nguyễn Hưng Quốc, mà tôi mượn làm lời cuối: “Một nền văn học hậu hiện đại chủ
nghĩa bằng tiếng Việt chỉ có thể ra đời từ những bước dò dẫm đầy phiêu lưu ấy” [3].
Chú thích:
[1] Xem: www.phongdiep.net
[2] Xem:
http://damau.org/.
[3] Nguyễn Hưng Quốc, Mấy
vấn đề phê bình và lý thuyết văn học - NXB Văn mới (2007) tr. 318.
Linh Đàm, 1/11/2007Dư Thị Hoàn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét