Thứ Năm, 9 tháng 6, 2016

Khúc tráng ca mù u

Khúc tráng ca mù u
Tháng năm, sáng sớm tiếng ve đã râm ran trên những tán lá mù u xanh nghít. Hoa mù u năm cánh trắng, thả từng chùm hương dịu ngọt bàng bạc khắp phố. Con đường đất gập ghềnh dẫn vào những căn nhà cũ kỹ năm nào đã được thay bằng những con đường trải nhựa dọc ngang như ô bàn cờ. Lần đầu tiên quay lại chốn này, tôi không khỏi ngỡ ngàng trước vẻ lạ lẫm của những dãy phố mới.
Năm năm trước, cũng vào giữa mùa mù u dậy hương, ông Năm Đải lọ mọ cùng cây gậy trúc đưa tôi ra nơi mà ông cho là chốn linh thiêng nhất của vùng đất Khuê Trung quê ông. Nơi đó có cả một cụm di tích, từ nhà thờ Tiền hiền làng, nghĩa trủng Hòa Vang là an nghỉ của các anh hùng nghĩa sĩ cho đến miếu Bà là di tích tín ngưỡng của người Chăm. Đã ngoại bát tuần, nhưng ông vẫn không ngần ngại mỗi khi có ai đó muốn tìm hiểu về lịch sử, văn hóa vùng đất nơi ông chôn nhau cắt rốn. Nắng đầu hè đổ lửa, chiếc ô cũ kỹ thỉnh thoảng lệch qua một bên vai ông, phơi gương mặt khắc khổ ra ngoài ánh nắng. Ông tần ngần một lát bên tấm bia cổ rồi cúi xuống, đọc cho tôi nghe những hàng chữ Hán đại tự khắc theo kiểu vỏ đậu trên sa thạch. Những vết chân chim trên đôi mắt ông nhíu lại, dấu thời gian hằn lên đâu đó trong tim ông bỗng bật dậy thành chuỗi thanh âm ngập ngừng giữa quá khứ và hiện tại. Ông và tôi, chúng tôi men theo lối đi hẹp giữa những nấm mộ nhỏ, dẫm lên những bụi cỏ hoang cháy nắng đi về nơi mà ông giới thiệu là đài chiến sĩ. Những rồng, những phụng nghiêng mình trầm mặc trên những mái ngói âm dương, gợi vào lòng tôi một cảm giác man mác buồn như lúc ghé thăm những thành quách cũ dọc theo chiều dài đất nước. Có điều, trong tôi lúc đó không vẳng tiếng loa xưa như Vũ Đình Liên [1], chỉ có hương mù u sánh lại giữa mênh mang buổi trưa hè.
tôi ngồi lại dưới bóng cây mù u, trốn cái nắng hầm hập ngoài trời. Chú có biết cây ni tên chi không? – ông hỏi. Rồi không đợi tôi trả lời, ông lật qua lật lại một chiếc lá chừng như rụng đâu ngày hôm trước, tiếp lời: Cây mù u đó. Tháng tư, tháng sáu trổ hoa. Tháng mười, tháng chạp chín trái. Năm mô có sức khỏe, nó ra thêm một đợt hoa nữa vào tháng mười, tháng mười một. Ông bà xưa tính tuổi mù ù dựa vào thân cây, đường kính sáu mươi phân thì tuổi nó khoảng sáu mươi năm đó. Ông dừng lại, vấn điếu thuốc xắt Cẩm Lệ rồi rít một hơi, phả khói vờn quanh cành mù u là đà trên đầu chúng tôi. Theo cách tính của ông, tôi áng chừng cây mù u này hẳn phải “trẻ” hơn ông ít nhất đến chục tuổi. Mà đúng thế thật, ông bảo, khi ông còn thò lò mũi xanh tập tành học chữ quốc ngữ thì ông nội ông còn giữ chức thủ sắc ở đình, trong làng lúc đó có nhiều cây mù u cổ thụ, nhưng cái cây mà chúng tôi ngồi hóng mát trưa hôm đó còn chưa xuất hiện. Chuyện trò một lát, mới hay tuổi thơ của ông cũng đầy ắp những kỷ niệm mù u như tuổi thơ tôi trong những tháng ngày khốn khó. Trái mù u tròn, người bảo ăn vào sẽ bị ngộ độc, nhưng lúc nhỏ tôi đã từng biết đến vị ngòn ngọt pha lẫn chan chát của nó mà có sao đâu. Một thời cơ cực, người dân quê tôi từng ép hột mù u làm dầu thắp đèn, tuy nhiều khói ít sáng nhưng tính ra cũng đỡ được bộn tiền. Còn kỷ niệm trong ông là những lần chong đèn ngồi học, hít khói dầu mù u đen ngòm hai lỗ mũi.
Thấy tôi tỉ mẩn ghi chép, ông Năm bảo, mù u là tên bình dân, chứ trong văn chương người ta gọi là nó "Nam mai", thường được mấy ông già nhắc đến trong sự tích “Gia Long tẩu quốc”. Tôi nhớ có sách, hình nhưĐại Nam nhất thống chí thì phải, có chép về cây mù u, đại khái: Trái để ép dầu, thắp đèn, kiến gián không ăn; thân rạch sẽ tiết nhựa vàng, trị vết đao thương, ghẻ, tê thấp; gỗ dùng làm tay cong, cán, bánh lái thuyền… Một thời, trái mù rất hữu ích cho dân nghèo, nhưng dùng trái mù u để đánh giặc thì xưa nay hiếm. Chắc là chú đã nghe chuyện ông Ông Ích Khiêm dùng trái mù u đánh Pháp rồi? Ông vừa nói, vừa chỉ cho tôi xem một vết sẹo trên thân cây, phía nhìn ra nghĩa trủng. Hồi mới dời hơn một nghìn nấm mộ anh hùng liệt sĩ về chỗ ni – ông nhớ lại, có một ông ở làng Phong Lệ xuống viếng hương, nói là cháu ba, bốn đời chi đó của ông Ông Ích Khiêm. Sẵn cái mác của bà con dọn cỏ dựng bên hông miếu Bà, ổng lấy mũi mác khắc luôn hai vạch trên thân mù u thành hình chữ nhân. Ổng nói, suốt trong di chúc của vị tướng họ Ông cũng chỉ nhắc đi nhắc lại một điều là sống làm răng cho ra con người. Chú biết không, mấy đứa trẻ trong làng nhiều bữa nghịch ngợm lấy mảnh sành cứa vô thân cây làm nó ứa ra một chất dịch sền sệt màu vàng. Rứa mà lần đó, cái chữ nhân của ông Phong Lệ nó đỏ như máu suốt cả mấy ngày. Ai thấy cũng ớn lạnh!
Ngày trước, dọc đường từ Lỗ Sài, Hóa Sơn lên Khuê Trung đến Phong Lệ có nhiều cây mù u lắm. Nó chịu được đất cát, khô hạn. Các bậc trưởng thượng thuộc thế hệ cụ thân sinh ông Năm, mỗi khi thấy mù u con mọc hoang đâu đó, bao giờ cũng nghĩ đến chuyện bứng ngay về trồng vào bờ rào nhà mình. Tôi từng lúc bị cuốn vào câu chuyện kể của ông Năm, quên hẳn tiết trời đang hồi oi bức. Tiếng ve râm ran, hương mù u dìu dịu, trong không gian im ắng buổi trưa hè, giọng ông trầm đục chừng như từ một quá khứ xa xôi nào đó vọng lại giữa bốn bề di tích. Những nếp nhăn chợt giãn ra khi nét hào sảng thoáng hiện trên khuôn mặt già nua cùng với giọng kể như đã từng tham gia trong trận tuyến năm xưa. Tôi mường tượng cảnh Thống chế Lê Đình Lý, rồi đến danh tướng Ông Ích Khiêm đồng cam cộng khổ với nhân dân Đà Nẵng, Hòa Vang trong việc bảo vệ các phòng tuyến chống Pháp hơn 140 năm trước. Là người làng Phong Lệ, họ Ông hẳn biết rõ từng ngọn đồi, từng bến sông khắp cả vùng Liên Trì - Cẩm Lệ để có thể tổ chức đánh giặc bằng vũ khí thô sơ một cách hữu hiệu nhất. Ngày đó, ngoài tàu đồng đạn sắt, Pháp còn trang bị cho quân lính mang giày đinh ống cao, đi đến đâu cũng rầm rầm dương oai diễu võ. Tháng mười năm đó, trái mù u bắt đầu chín rộ khắp nơi. Họ Ông ngầm sức cho bà con quanh vùng hái trái thật nhiều để chuẩn bị cho một trận đánh lớn. Cơ hội đã đến, khi một tốp lính Pháp theo đường 14 tiến lên Phong Lệ; quân ta chặn đánh rồi vờ tháo chạy. Địch đuổi theo, bị trái mù u làm trượt ngã. Phục binh của ta bất ngờ đổ ra đánh, quân địch một phen phiêu hồn bạt vía.
Chuyện xưa, ông kể rành rọt lắm, say sưa và thành kính. Tôi thoáng chốc hóa thân thành cậu bé chân quê khoác túi vải bên vai, leo lên cành hái trái mù u cho nghĩa quân đi đánh Pháp. Quê tôi cũng có những hàng mù u soi bóng ven sông, đến mùa, trái chín trôi dạt ra tận cửa Đại. Giờ đây, sau mấy chục năm bom đạn cày xới, họa hoằn lắm mới thấy bóng dáng mù u xuất hiện đâu đó trên vùng đất xứ Quảng. Câu chuyện của ông Năm cũng vậy, dần dà ít có người nghe, có chăng chỉ một vài người làm công tác nghiên cứu lịch sử, văn hóa. Có điều, không phải ai cũng tin vào câu chuyện “trận mù ù” đầy vẻ huyền thoại ấy. Huyền thoại, bởi có thấy sách vở nào ghi chép đâu, cả chính sử triều Nguyễn lẫn sách của người phương Tây. Ừ, thì tui biết có nhiều người tỏ vẻ hoài nghi, vặn vẹo hỏi đủ thứ - ông lên giọng. Mà tui hỏi chú, nếu trận đánh ngày đó không xảy ra thì dân gian ai người ta nói tới bằng hò vè. Ông nội tui mỗi lần kể chuyện xưa, thường nhắc câu: “Phen ni coi bộ lu bu/ Rủ nhau đánh trận mù u giữ làng”. Mới đây, có một anh trè trẻ tới tìm tui hỏi chuyện, chính ảnh đọc cho tui nghe câu ni, nói là sưu tầm được ở mô đó: “Đà Nẵng, Sơn Trà, Miếu Bông, Cẩm Lệ/ Chuyện trăm năm còn kể trận mù u”. Đó, chú thấy chưa, không có lửa thì làm răng có khói hở chú?
Giọng ông chợt thoáng buồn, nỗi buồn của một người tin đến độ tín ngưỡng chuyện xưa tích cũ, thế mà thế nhân lại hời hợt đón nhận. Tôi đã từng lội khắp các ngả đường ở Hòa Cường, Khuê Trung từ khi còn chưa đô thị hóa để tìm hiểu thêm những gì mình còn chưa biết. Ngay trung tâm nghĩa trủng Hòa Vang có một ngôi mộ lớn, trên bia xi măng có cẩn hàng chữ: “Tiền triều Đại tướng quý công mộ”. Đến nay vẫn chưa xác định người nằm dưới mộ là ai. Là ông Nguyễn Trọng Ân, tướng trấn giữ đồn Tuyên Hóa, nay thuộc phường Hòa Cường? Là Thống chế Lê Đình Lý, vị tướng đã hy sinh tại mặt trận Cẩm Lệ vào đầu tháng 10-1858? Hay một vị tướng tộc Trần nào đó? Tất cả vẫn còn tồn nghi, nhưng tôi biết chắc một điều là vào năm Mậu Ngọ diễn ra trận đầu đánh Pháp ấy, lúc làng Khuê Trung hãy còn mang tên là Hóa Khuê, nhiều căn cứ quan trọng đã được nghĩa quân lập nên tại vùng địa đầu này để chống trả lại những đợt tấn công của địch. Có lần, một trong những bậc kỳ lão của làng Khuê Trung là ông Hương Mưu đã kể cho tôi nghe về những tên đất vẫn còn lưu truyền trong dân gian như xóm Kho nay thuộc khu vực Bình Hòa 1, mô Súng thuộc khu vực Phước Hòa... Đặc biệt, khi đó còn khá rõ vết tích của một chiến lũy bằng tre xanh chạy dài từ Thuận An - nay thuộc phường Hòa Thuận Đông - lên đến Bình Hòa 1, Bình Hòa 2...
Ông Năm trầm ngâm một lát. Rồi chừng như nghĩ ra rằng chuyện trò với một người trẻ tuổi biết cách chăm chú nghe như tôi cũng ít nhiều thú vị, ông chợt mỉm cười. Chắc chú ra Huế nhiều lần rồi. Chú có nghe ngoài đó người ta nhắc tới câu Văn Thánh trồng thông, Võ Thánh trồng bàng/ Ngó vô Xã Tắc, hai hàng mù u không? Chú có biết vì răng mà Xã Tắc người ta trồng mù u không? Tui học cũng không nhiều lắm, chỉ có nghe nhiều, đọc nhiều và nhớ lâu thôi. Theo lời ông nội tui thì ngày xưa, các vua khi mới dựng nước quý trọng dân lắm. Dân muốn có đất ở, vua cho lập nền Xã để tế thần Hậu thổ. Dân muốn có lúa ăn, vua cho lập nền Tắc để tế Thần nông. Mất đất, mất lúa là mất Xã Tắc, mất cả quê hương, đất nước; nên ngày xưa người ta coi Xã Tắc như là quốc gia. Thời nhà Nguyễn, ở phía Nam kinh thành có đàn Giao tế Trời, nội thành có Thế miếu thờ tổ tiên nhà vua, có Xã Tắc là nền thờ thần Đất và thần Lúa... Ông dừng lại, chăm chú nhìn cây bút nguệch ngoạc những dòng chữ tốc ký trên quyển sổ ghi chép của tôi. Ông cụ này đáo để đây – tôi nghĩ. Biết tôi đang nóng lòng muốn biết quan hệ ra sao giữa ngó vô Xã Tắc và hai hàng mù unhưng ông vẫn phớt lờ như vô tình lắm. Người “bại trận” trước là tôi, chờ một hồi lâu nhưng vẫn thấy ông điềm nhiên vấn thuốc, tôi buộc miệng: Còn cái cây mù u thì sao hả bác? Ông bật cười, nụ cười lên lão thật đáng yêu: Thì nó thích hợp với thổ nghi, khí hậu ở xứ ta. Không sợ gió bão, dễ trồng, chịu mưa dầm nắng hạn. Cây thấp mà tàn hẹp, rễ chắc mà khá sâu, thớ gỗ xoắn nên khó gãy. Được cái là nó bình dân lắm, không đòi hỏi đất tốt, mọc được trên đất cát, đất thịt, đất sỏi, không sợ trâu bò dẫm chết. Đó, tui hỏi chú, nếu không trồng cây mù u ở Xã Tắc thì còn biết trồng cái cây chi nữa?..
Ngước nhìn bóng dáng vững chãi của cây mù u cổ thụ, một nửa ngả bóng che rợp miếu Bà, một nửa nhoài mình trên những nấm mồ nghĩa sĩ, tôi chợt cười một mình khi hình dung ra nụ cười sảng khoái của ông Năm Đải ngày nào. Ông vừa quy tiên hồi năm ngoái, sau khi cả khu dân cư nơi ông ở vừa được chỉnh trang. Những dãy phố mới lần lượt ra đời, gieo vào lòng tôi một cảm giác nửa thân quen nửa xa lạ. Cả cụm di tích giờ đây lọt thõm giữa bốn bề những kiến trúc hiện đại. Cây sợp trước nhà thờ Tiền hiền cùng với cây mù u bên miếu Bà vẫn sớm chiều tỏa bóng, níu lại chút hồn thiêng của làng quê xưa giữa lòng đô thị. Mấy tháng trước, tôi lại có dịp tha thẩn dưới bóng những hàng sứ trắng trong khuôn viên nghĩa trủng để tìm một góc nhìn toàn cảnh. Lễ tế Nghĩa sĩ Đà Nẵng và Hội làng Khuê Trung diễn ra hôm mười sáu tháng ba âm lịch vừa rồi cần một khuôn hình để UBND quận Cẩm Lệ làm lô-gô lễ hội. Sau mấy lần trùng tu, tôn tạo, cả cụm di tích giờ đây tuy chưa phải xứng tầm lẽ ra phải có, nhưng cũng đủ để không phải hổ thẹn với khách phương xa biết tiếng ghé thăm. Hơn một nghìn ngôi mộ lặng lẽ xếp thành hàng như xưa kia nghĩa sĩ từng nóng lòng chờ lệnh xuất chinh. Những cánh hoa sứ trắng rơi tản mác trên lối đi, phải chăng là dấu tích bi tráng của người xưa lưu lại? Hay là tấm lòng thơm thảo của người nay gởi đi?
“Ân triêm khô cốt di truyền cổ/ Trạch cập tàn hồn tái kiến kim”. 140 năm trơ gan cùng tuế nguyệt, tính từ thời điểm lập bia “Hòa Vang nghĩa trủng”, hai trụ biểu bằng sa thạch vẫn tươi rói những dòng chữ tượng hình khắc ghi dấu tích hùng anh của nhân dân Đà Nẵng. Đây là một câu đối hay, rất khó dịch sang quốc ngữ, ông Năm Đải có lần tạm giải nghĩa rằng: Ơn vua ban thu nhặt hài cốt (nghĩa sĩ) để lưu giữ dấu xưa, (nhờ đó mà) còn lại những anh hồn để các thế hệ ngày nay chiêm ngưỡng. Đã hai lần thiên di nghĩa trủng để thành lập và mở rộng sân bay Đà Nẵng, một lần vào năm 1920 khi Đà Nẵng trở thành “nhượng địa” của Pháp, một lần vào năm 1962 khi Mỹ tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam. Từ xứ Trũng Bò làng Nghi An – nay thuộc phường Hòa Phát – đến vườn nhà ông Bá thuộc xứ Trảng Dài làng Khuê Trung, rồi lần cuối cùng đến địa điểm hiện nay, “khô cốt” của người xưa đã được bảo lưu để người đời sau có dịp quay về đốt nén nhang tưởng niệm những “tàn hồn”. Di hài của anh hùng nghĩa sĩ qua từng ấy năm thật khó mà còn được nguyên vẹn. Thế nhưng, tấm lòng của người dân bao đời nay vẫn vẹn nguyên với nghĩa sĩ năm xưa. Trận đầu đánh Pháp diễn ra năm 1858, nhưng mãi đến 8 năm sau đó, vào năm Tự Đức thứ 19, triều đình phong kiến mới cho lập bia tưởng niệm khắc bốn chữ “Hòa Vinh (Vang) nghĩa trủng”. Một thời gian dài, để tránh tai mắt của thực dân Pháp trong việc cúng tế hằng năm, người dân quanh vùng chỉ đơn giản gọi nấm mồ các anh hùng nghĩa sĩ là Âm linh cô mộ. Theo lời ông Năm Đải, ngày trước, khi nghĩa trủng còn ở vườn Bá, làng Khuê Trung trí riêng 1,7 mẫu ruộng nhất đẳng điền dành cho việc tu tảo phần mộ và cúng tế Âm linh – tức là vong linh nghĩa sĩ – vào ngày 17 tháng 11 âm lịch hằng năm. Vì sao lại chọn ngày 17 tháng 11? Ông Năm bảo, chưa có ai giải thích được nguồn gốc ý nghĩa của ngày này, chỉ biết nó đã có từ lâu rồi. Về sau, do chiến tranh diễn ra ác liệt nên lệ này dần rơi vào quên lãng. Đến nay, lễ tế vong linh nghĩa sĩ được tổ chức kết hợp với lễ tế Tiền hiền làng Khuê Trung vào ngày 16 tháng 3 âm lịch hằng năm.
Tôi nhẩm tính, vậy là đã 44 năm qua, từ ngày Nghĩa trủng Hòa Vang dời về vị trí hiện nay, người dân các họ tộc làng Khuê Trung đã kết hợp Lễ cúng Tiền hiền đầu xuân với lễ tế các vong linh nghĩa sĩ đã hy sinh trong trận đầu đánh Pháp năm xưa. Suốt mấy chục năm qua, các am thờ, những bàn hương án ở phía cuối nghĩa trủng chỉ lung linh ánh nến và phảng phất khói hương mỗi năm một lần vào dịp đó. Ngoài ra, cũng phải kể đến băm ba lần tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng cũ và thành phố Đà Nẵng hiện nay tổ chức lễ tưởng niệm nghĩa sĩ vào những năm tròn 5, tròn 10, gọi là những năm “chẵn”. Cuộc chiến đấu không cân sức năm xưa đã để lại ít nhất 3 di tích trên đất Đà Nẵng. Nghĩa trủng Hòa Vang và sau đó 10 năm là Nghĩa trủng Phước Ninh được tạo lập để ghi nhận công lao của các nghĩa sĩ vị quốc vong thân. Khu Mả Tây là cách gọi dân gian để chỉ gần một nghìn ngôi mộ của liên quân Pháp – Tây Ban Nha còn nằm lại ở phía đông mũi Mỏ Diều và đảo Cò trên bán đảo Sơn Trà. Đến nay, trong khi Nghĩa trủng Phước Ninh chỉ còn hai ngôi mộ và một bia sa thạch trong khuôn viên Trung tâm Thể dục - Thể thao Nguyễn Tri Phương trên đường Hoàng Diệu, thì Nghĩa trủng Hòa Vang, qua nhiều biến thiên của lịch sử, cho đến nay vẫn còn giữ được vẻ đường bệ, uy nghi của một ngôi mộ xây cao. Tìm khắp cả nước, không đâu có được một nghĩa trủng quy tụ đầy đủ các tướng sĩ quân dân đã hy sinh trong trận đầu đánh Pháp như thế.
Lễ tế Nghĩa sĩ Đà Nẵng và Hội làng Khuê Trung diễn ra trong 2 ngày 15 và 16 tháng 3 âm lịch vừa rồi, có lẽ là lần đầu tiên anh linh những anh hùng nghĩa sĩ yên nghỉ ở nghĩa trủng Hòa Vang cảm thấy được an ủi ít nhiều. Tiếng trống tuồng đêm khai hội rền vang cả một vùng nghĩa trủng như tiếng trống thúc quân giục giã năm nào. Ca cảnh truyền thống tái hiện không khí Đà Nẵng những ngày đầu đánh Pháp - một trận đánh không cân sức, hàng nghìn người đã ngã xuống để bảo vệ thành, nhưng ngọn lửa hùng anh thì vẫn còn rực cháy mãi. Tôi lặng người đi, khi hàng trăm nữ sinh Trường THPT Hòa Vang áo dài trắng, mỗi em một ngọn nến trên tay, từ sân khấu dưới cây mù u trân trọng đi về nghĩa trủng. Gần sáu trăm học sinh Trường THCS Trần Quý Cáp quần xanh áo trắng, khăn quàng đỏ, mỗi em cầm hai ngọn hoa đăng rồng rắn nối theo. Nước sông Hàn hai ba phen cuồn cuộn, tàu Tây Dương bắn phá lũy An Đồn. Mây Sơn Trà năm bảy lớp ùn ùn, súng Nghĩa sĩ vang rền thành Điện Hải… Vẻ bi tráng trang trọng của những câu trích dẫn từ “Văn tế Nghĩa sĩ” nối kết với ánh sáng lung linh của những ngọn hoa đăng và thanh âm dìu dặt của khúc tưởng niệm “Hồn tử sĩ” gieo vào lòng người một sự thiêng liêng thành kính. Học sinh từng nhóm rẽ vào những lối đi hẹp, trân trọng đặt hoa đăng trên những nấm mồ nghĩa sĩ, rồi lặng yên hồi lâu giữa làn ánh sáng huyền hoặc ấy. Từ dân làng cho đến quan chức các cấp, tất cả để cho lòng mình chùng xuống trong phút hòa quyện giữa quá khứ và hiện tại, giữa sự tri ân và lòng ngưỡng vọng.
Hai đêm liền, chúng tôi ngồi lại đến tận nửa khuya trong gian hàng “Trà đạo” dưới gốc cây sợp bên nhà thờ Tiền hiền. Cuộc tán gẫu diễn ra dài nhất là với một đồng nghiệp đang công tác ở một cơ quan báo chí. Namthanh nữ tú quanh vùng dập dìu trẩy hội ngày một thưa dần, thưa dần, nhưng chúng tôi vẫn còn ngồi lại bên chén trà khuya. Những tán cây mù u được ngọn đèn cao áp chiếu sáng, vẽ một bức tranh trừu tượng lên bầu trời đêm. Đây là cây mù u hậu duệ của rừng mù u ngày trước chăng, khi danh tướng họ Ông tổ chức đánh Pháp một trận ngay trên làng quê mình? Sau cuộc chạm trán đầy huyền tích ấy, một trái mù u có lẽ đã phiêu dạt ở đâu đó, để lại một cây mù u con mọc hoang, tình cờ một bậc kỳ lão ở làng Khuê Trung bắt gặp và bứng về trồng, khởi thủy cho một thế hệ mù u mới ở vùng này. Phía trước miếu Bà, đối diện cây mù u là một giếng hình vuông được ghép bằng sa thạch, lâu nay người địa phương vẫn quen gọi là giếng Hời. Trên một trụ đá ở thành giếng có khắc nhiều chữ Hán mà còn rõ nét nhất là bốn chữ hàm long kiết tỉnh - giếng tốt mạch hàm rồng. Lần đầu tiên tôi đến nơi này, còn thấy bên gốc mù u còn vứt lăn lóc những viên đá trang trí chân cột hình quả bí, những viên gạch nung cổ và một yoni hình vuông phẳng dẹt như một cái cối, dấu tích một thời của kiến trúc tín ngưỡng Chăm-pa. Được bám rễ vào lòng đất có mạch giếng hàm rồng, được dưỡng nuôi trong không gian tĩnh lặng đến thần bí của di tích tín ngưỡng Chăm, cây mù u hậu duệ của “trận mù u” chẳng mấy chốc đã vươn vai thành người khổng lồ trong hàng cổ thụ ở Khuê Trung. Hơn 40 năm qua, từ khi Nghĩa trủng Hòa Vang được thiên di về nơi này, vẻ thâm nghiêm đến rợn người của những di tích dưới bóng mù u cổ thụ càng được người dân địa phương nhắc đến với một sự ngưỡng vọng “kính nhi viễn chi”.
Ông Năm Đải, ông Hương Mưu giờ đã yên nghỉ trong lòng đất mẹ. Người cổ thụ lần lượt ra đi, chỉ còn cây cổ thụ sớm chiều soi bóng. Chữ nhântrên thân mù u giờ chỉ còn một vết sẹo nhỏ. Cái giếng Hời, các cụ bảo ngày xưa nước ngọt trong và mát lạnh ghê lắm, giờ đây vì đã “lên lão” hay vì người đời nay không chịu khó khơi thông nên mạch hàm rồng đã trở nên cạn kiệt? Trận mù u xưa thực hư thế nào không còn là điều nghị luận, khi mà dân tộc Việt còn có biết bao nhiêu huyền sử về những cuộc đấu tranh chống lại các ác, cái xấu. Tôi tin vào những điều tốt đẹp nhất, thiêng liêng nhất mà quá khứ bi hùng của dân tộc còn lưu giữ được qua những cuộc trường chinh dựng nước và giữ nước. Một trong những điều như thế, giản đơn như là cây mù u không sợ gió bão, chịu mưa dầm nắng hạn, cây thấp mà tàn hẹp, rễ chắc mà khá sâu. Những anh hùng nghĩa sĩ năm xưa đã mang trong tim mình một hạt mầm mù u trước giờ xông trận, tôi tin thế, để làm nên khúc tráng ca bất tử giữa lòng dân tộc. Tôi lặng nhìn đài hoa đăng các em học sinh để lại đêm nào trên những nấm mộ, nghĩ đến một rừng mù u đã mọc lên từ trái tim của người xưa, kiêu hãnh và hiên ngang dưới ánh nắng tháng năm.
[1] Lòng ta là những hàng thành quách cũ/ Tự ngàn năm bỗng vẳng tiếng loa xưa.
Đầu hạ 2006
Văn Thành Lê
Theo http://www.vanchuongviet.org/





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Bùi Việt Phương và những vần thơ lạ từ miền núi Bùi Việt Phương thuộc thế hệ 8X. Phương sinh ra và lớn lên ở miền núi, học xong khoa Ngữ...