Một cặp kính trắng với sợi dây vòng ra sau cổ, năm ba con khỉ nhảy tung
tăng trên vai, trên đầu, tóc tai rối rắm, áo quần cái dài, cái ngắn, kiểu
đàn ông, đàn bà, đầy màu sắc sặc sỡ …đây là dáng người anh Bùi Giáng chúng
ta thường gặp trên những nẽo đường Sài Gòn năm 1975 …
Sau năm 1975, anh Bùi Giáng
về ở chung với chúng tôi trong nội xá viện Đại
học Vạn Hạnh cũ (222 Trương Minh Giảng, nay là Lê Văn Sĩ). Vào
thời điểm này, Đại học Vạn Hạnh không còn hoạt động, nên nội
xá chỉ còn một số ít người ở lại với Hòa thượngViện trưởng Thích Minh
Châu. Chúng tôi quản lý chung, chú Chơn Thuần đi chợ và thị
giả cho Hòa thượng Viện trưởng, anh Trần Châu phụ
trách an ninh, anh Bùi Giáng thì nhận nhiệm vụ đi mua lương thực.
Vào thời đó, mỗi hộ đều có một
cuốn sổ lương thực. Anh Giáng giữ sổ cẩn thận và đảm trách công
việc đi mua lương thực rất chu đáo. Trong khoảng thời gian ở
chunganh chưa một lần bỏ công việc. Chỉ khi nào hợp tác xã
bán khoai sắn hay những loại lương thực giá rẻ, anh mới mua rồi đem phân phát
cho những người nghèo. Nhiều khi thấy anh vác bao những gạo 10kg hay 20kg lên cầu
thang, chúng tôi ái ngại, xuống vác giùm, nhưng anh không chịu. Sau mỗi
lần buông gạo trên vai xuống, dường như anh vui hơn, khỏe hơn và tỉnh
táo vô cùng, lạ thật!
Anh Giáng rất thương người.
Nhiều lần anh xin chúng tôi tiền, đi rảo quanh chợ, cho những người nghèo
khó mà anh đã theo dõi và biết rỏ về hoàn cảnh khó
khăn của họ. Có lần anh muốn giúp người nào đó quá khó khăn, túng thiếu với
số tiền nhiều nhưng không dám xin tiền chúng tôi nên anh vào
phòng gom quần áo, sách vở của chúng tôiđi bán ở đâu không biết. Hai ba
ngày sau mới về, như một người biết lỗi, anh len lén vào phòng,
ngồi im trong một góc giường. Thấy bộ dạng của anh, chúng tôi không
còn giận nữa, nhưng vẫn làm nghiêm hỏi:
- Anh lấy quần áo, sách vở của
tôi phải không?
- Phải
- Để làm gì?
- Giúp người
- Tại sao anh lấy đồ vật của
người ta mà còn kỳ thị địa phương?
Anh ngạc nhiên hỏi
lại:
- Áo quần, sách vở của chúng
tôi để chung với anh Châu. Anh Châu đồng hươngQuảng Nam với anh, nên
anh chỉ lấy áo quần, sách vở của tôi, còn của anh Châu thì không lấy thứ gì
cả, kỳ thị địa phương chứ gì nữa?
Anh phì cười:
- Không phải đồng hương,
đồng khói gì cả, chỉ vì thằng Châu sinh viên nghèo, lấy của nó tội.
Rồi sau đó, Viện Đại học Vạn
Hạnh được sử dụng làm Trường Đại học Sư phạm, chúng
tôi dời về 716 Nguyễn Kiệm, quận Phú Nhuận. Khi về nơi đây, anh Giáng
không về theo. Anh đi đâu không rõ. Hơn nữa năm sau, anh mới trở lại. Anh lặng
lẽ đi vào phòng chúng tôi, đặt lên bàn một nải chuối chín vàng rất đẹp
và một lá thư rồi lặng lẽ đi như đã đến. Chúng tôi xúc
động vì lâu ngày mới gặp lại anh, và ngạc nhiên vì cử chỉ khác
thường của anh. Chúng tôi trân trọng đặt nải chuối lên cúng
Phật và cầm lá thư đọc:
“ Ngã hữu thốn tâm vô
dự ngữ
Hồng sơn, sơn hạ Quế giang
thăm”.
Không biết hai câu thơ này
anh làm hay anh trích dẫn của ai, nhưng đọc xong chúng tôi lặng cả
người vì tình cảm nồng hậu của anh.
“ Ta có tấc lòng chưa ngõ được,
Dưới chân núi Hồng, sông Quế
mãi sâu”.
Sau đó , anh thường
xuyên lui tới với chúng tôi, nhiều khi ở hai ba tháng liên
tục, rồi đi đâu đó nữa tháng mới trở lại. Một lần, anh trở
về với tiếng chó sủa, tiếng kêu inh ỏi của bầy chó, anh kêu chúng
tôi ra ngồi dưới gốc cây hoa hậu để nói chuyện. Anh cho
biết, anh mới từ Long An về sáng nay, ghé chợ nhỏ Phú Nhuận, nhâm nhi cốc nhỏ
cho ấm bụng. Nhưng nghe tiếng kêu của bầy chó và bộ dạng quen thuộc của
anh, lũ nhỏ bán bánh kẹo quanh chợ liền tụ tập quanh anh khá đông.
Anh đọc thơ, nói đủ thứ chuyện cho bọn trẻ nghe. Chúng mải mê theo anh nên quên
cả bán buôn. Thấy trưa rồi, anh mới nói:
- Trong tụi bây, đứa nào làm
được hai câu thơ thật hay, tau sẽ mua toàn bộ bánh kẹo, nếu
không được tất cả phải đi bán nghe chưa.
Sau một đỗi, có đứa nhảy ra trước
mặt anh và nói:
- Thật không bác?
Rồi chẳng cần anh trả lời,
nó ứng khẩu đọc liền:
“Sáng nay bán ế quá chừng,
Vì nghe bác Giáng nói khùng quên đi”.
Mỗi lần hết tiền, anh thường
tìm đến chúng tôi; và lần này…kể xong chuyện, anh tặng chúng tôi hai
câu thơ:
“Đến thăm sư phụ Chơn
Nguyên, Trầm tư vô tận ưu phiền tái lai”.
Sau khi đưa tiền cho anh trả
tiền rượu và tiền xích lô, chúng tôi gởi tặng lại anh hai câu thơ:
“Nghe tin sư phụ thở
dài, Đến đây Bùi Giáng đòi hoài tiền xe”.
Anh nhận tiền và khoái chí
cười to.
Anh Bùi Giáng gọi chúng
tôi với đủ loại danh xưng, như trong tờ giấy chép thơ tặng chúng tôi,
anh ghi:
“Kính gửi sư phụ, Đồng
chí, Đại ca Thích Chơn Nguyên:
Anh vẫn tưởng đầu đường
thương xó chợ, Có ai ngờ xó chợ cũng thương nhau”.
Một hôm có người rũ anh về lục
tỉnh chơi, anh mãi vui dưới đó hơn ba tháng mới trở lại; chắc là nhớ thiền
viện Vạn Hạnh lắm, nên mới sáng tinh mơ, anh đã đến Viện để đưa tờ giấy:
“Kính gửi: Thầy Minh
Châu
Thầy Chơn Thiện
Thầy Chơn Nguyên
Kính dâng Vạn Hạnh một
tờ
Kể từ vô tận bất
ngờ tái lai”.
Chuyến đi anh quá phung
phí sức, nên đến Viện vài hôm, anh ngả bệnh. Chúng tôi săn sóc và
tẩm bổ anh cả tháng mới hồi phục, vừa khỏe xong là anh lại đi.
Trước khi đi anh để lại bài thơ:
“Thầy vui như thể thiên
thần,
Con buồn như thể tuyệt
trần bấy nay.
Thầy vui Vạn Hạnh bấy
chầy,
Con buồn chết đứng giữa ngày
phù du”.
Sau đó, vắng anh thời
gian khá lâu, mới biết được anh về ở với người cháu sau lưng chùa Liên Ứng. Chúng
tôi đến thăm anh vào một đêm rằm, trăng đổ đầy khu vườn anh ở, mới gặp
nhau chưa kịp mừng, anh hỏi như kẻ lạ:
- Đi đâu đó?
- Vì hoa nên phải đánh đường
tìm hoa.
Câu trả lời làm
anh vui, phấn khởi như ngày tháng quen cũ. Anh đọc đủ loại thơ, với nhiều giọng,
kể cả giọng Quảng “Nôm” của anh.
Trước khi ra về, anh đưa cho chúng
tôi một bài thơ của Lý Bạch, anh nói bài thơ này có tư tưởng gần
với giáo lý nhà Phật; về dịch xong đưa lại cho anh xem. Nghe anh nói,
tôi ngại, đâu dám múa may trước một người cao vời vợi về thơ ca cũng như chữ
nghĩa, hơn nữa chúng tôi chưa từng làm việc này một cách nghiêm túc. Thỉnh
thoảng, chúng tôi cũng có dịch thơ Đường, nhưng bài nào thích thì dịch,
rồi đọc bạn bè nghe cho vui mà thôi. Hôm nay, anh lại nhờ, nhờ một cách quá trân
trọng, vì thế chúng tôikhông thể từ chối. Bài thơ của Lý Bạch như sau:
NGHI CỔ
Sanh giả vi quá khách
Tử giả vi quy nhân
Thiên địa nhất nghịch lữ
Đồng bi vạn cỗ trần
Nguyệt thổ không đảo dược
Phù tang dĩ thành tân
Bạch cốt tịch vô
ngôn
Thanh tùng khởi tri xuân
Tiền hậu cánh thán tức
Phù vinh hà túc trân
Đọc xong nguyên tác, chúng
tôi ngại việc dịch không chuyên chở hết ý của bài thơ, nhưng nặng tình với
anh, chúng tôi đem về dịch:
THEO DẤU CHÂN XƯA
Sống là như khách qua đường
Chết là trở lại quê
hương của mình
Đất trời quán trọ mông
mênh
Nghìn năm cát bụi tâm tình đớn
đau
Thời gian có đợi ai đâu
Đâu xanh hôm trước nay màu củi
khô
Ngổn ngang xương trắng
ngẩn ngơ
Hàng tùng xanh thẳm đâu ngờ
xuân sang
Trước sau là tiếng thở
than
Cuộc đời hư huyển giàu
sang làm gì?
Gửi anh bài thơ dịch. Chưa gặp
lại anh, để nghe ý kiến, thế mà anh không còn nữa! Nhưng biết đâu, việc dang
dở này là cái cớ để anh thêm lần nữa: “Ngã hữu thốn tâm vô dự ngữ”. Phải không anh Bùi Giáng?!.
Chơn Nguyên
Trả lờiXóaeva air vietnam
vé máy bay đi mỹ giá rẻ nhất
hãng hàng không hàn quốc
tìm vé máy bay đi mỹ
vé máy bay đi canada giá rẻ
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Ngẫu Hứng Du Lịch
Tri Thuc Du Lich