I.TỔNG LUẬN
Giá trị văn hóa truyền
thống của văn bia thời đại Lý - Trần là giá trị về
tính dân tộc hóa, tự tôn dân tộc và sức tự cường, tự chủ quốc gia. Giá
trị ấy được thể hiện qua nhiều mặt, nhiều lĩnh vực như: giá
trị thẩm mỹ, giá trị đạo đức được đề cao và phát triển rực
rỡ nhất trong chiều dài lịch sử của Dân tộc. Do đó, khi tìm
hiểu về giá trị văn hóaVăn bia là chúng ta nghiên cứu về
một loại thư tịch cổ điểnnhưng có niên đại rõ ràngvà có giá trị hơn
những tác phẩm văn học nghệ thuật. Chúng đã chứa đựng những
thông tin về nhiều mặt: lịch sử, kinh tế, xã hội, và thể hiệnrõ tính
chất giáo dục, đặc tính tư tưởng triết học của thời đạiđương
thời. Cho nên, giá trị văn bia Lý – Trần không chỉ có giá trị trong quá
khứ mà còn cả trong hiện tại. Khi đó, những đặc tính căn bản nhất, phổ
biếnnhất về Văn hóa Văn bia thời Lý – Trần mang nội hàm rộng lớn, liên
quan đến mọi mặt, từ đời sống vật chất cho đến đời sống tinh
thần. Và nội hàm ấy lại thể hiện đầy đủ những khía cạnh truyền
thống văn hóa, giáo dục nhân cách cho đến tinh thần xây
dựng, bảo vệ và phát triển đất nước với hai mục đích rõ rệt:
Thứ nhất, để ghi lại những dữ
kiện, sự kiện, sắc lệnh hoặc những vấn đề trọng yếu của quốc
gia, xã hội đã diễn ra có tính chất giáo dục về lối
sống tri ân, báo ân và tuyên dương công hạnh cá
nhân, tổ chức hoặc những thiền sư Phật giáo đã có công trong
công cuộc bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.
Thứ hai, để lưu truyền cho đời
sau những tính chất, việc làm hữu ích có giá trị về
nhiều lĩnh vực. Văn Bia trong giai đoạn này còn chú trọng đến giá trị mỹ
thuật. Bởi lẽ, Văn bia là một tác phẩm thành văn được khắc trên đá.
Do vậy, văn bia thường được chú trọng về mặt mỹ thuật và nội dung chứa đựng giá
trị đạo đức truyền thống hết sức cao đẹp.
II.NỘI DUNG
1.KHÁI NIỆM
Trong quá trình lao động, con
người học hỏi từ gia đình, nhà trường, tôn giáo, giao tiếp xã
hội... và thông qua đó xác định nên suy nghĩ và hành động như thế nào
theo những giá trị của nền văn hóa. Giá trị là sự đánh
giá trên quan điểm văn hóa, nên khác nhau ở từng cá nhân trong
một nền văn hóa, thậm chí có những giá trị mà đại đa số các
thành viên trong nhiều nền văn hóa đều thừa nhận và có xu
hướng trường tồn như tự do, bình đẳng, bác ái, hạnh
phúc... Từ những giá trị về văn hóa như trên, hệ thống văn
bia Việt Nam hiện tồn tại trong lịch sử cho đến nay
là một di sản văn hóa của dân tộc, nó chính là sự gắn kết giữa quá
khứ và hiện tại. Sự gắn kết ấy dù là vô hình hay hữu hình cũng
đều cho chúng ta tự soi vào đó để sống đẹp hơn, có ý nghĩa hơn.
Vậy Văn Bia là gì? Khái niệm
của các nhà ngôn ngữ học và xã hội học thì Bia là hình
thức lưu trữ dữ liệu, thư tịch cổ có tính chất và ý
nghĩa xưng tụng, tán dương hoặc đó là sự đánh dấu một
mốc lịch sử quan trọng nào đó. Theo Từ Điển Hán Việt và Từ Điển Tiếng
Việt của Viện Ngôn Ngữ Học định nghĩa và giải thích: Bia hay Bi
là tấm đá đúc, đẽo có khắc chữ; trong đó, Bi tức là bia, bia đá, là sự đề cao,
ví dụ như bi bản, bi biểu, bi chí, bi kệ, bi minh, bi bảng, bi trung, v.v… Ngoài
ra, Bia (Bi) được định nghĩa theo các nhà Văn học, Lý luận thì
Văn Bia hay Văn Bi là sự thể hiện chất hào sảng, khí phách cốt
cách thanh cao, công lao phi thường; chất văn là chất nhân văn
nhân đạo và thẩm mỹ tinh tế. Có nghĩa là, lời hay, chữ đẹp, ý thuần
khiết thanh cao. Đặc tính nổi bật là nghiêng về tính
chất tinh tế của sử liệu, viết theo thể văn xuôibiền ngẫu hoặc
thi kệ tản văn, hoặc là sự kết hợp giữa hai thể loại văn chương ấy.
2.GIÁ TRỊ VĂN HÓA THỂ
HIỆN QUA CHỨC NĂNG VÀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN
Ở Việt Nam, văn khắc
trên đá đã có một truyền thống lâu đời và xuyên suốt qua các
giai đoạn. Đến thế kỉ X, với chiến thắng Bạch Đằng oanh liệt năm 938 đã chấm
dứt thời kì 1.000 năm Bắc thuộc, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử Dân
tộc. Đây là sự kiện trọng đại trong lịch sử phát triển quốc
gia Đại Việt, và là kết quả của một ý chí, một tinh thần đoàn
kết kiên cường, bất khuất. Chính cơ sở ấy đã giúp cho nước nhà dần đi
vào con đường ổn định về chính trị, kinh tế… và củng cố khối
đoàn kết thống nhất, tạo sự ổn định chung trong cả nước. Những thành
quả này là cơ sở ban đầu cần thiết cho sự tồn tại và chấn
hưngmột quốc gia độc lập. Trên cở sở đó, từ thời Lý và suốt thời
đại nhà Lý, đất nước ta đã có những bước tiến vững chắc trong
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Sự phát triển chung của quốc
gia đã phần nào đó giúp cho nền văn hóa văn bia ra đời và phát
triển, nhằm đánh dấu những sự kiện lịch sử quan trọng,
để rồi văn bia được xem như là một phương tiện lưu lại những giá
trị truyền thống văn hóa của dân tộc.
Trong mấy năm trước đây, tại
Hoa Lư (nay thuộc tỉnh Ninh Bình) kinh đô nhà Đinh (968-980), các nhà khoa học
đã phát hiện ra các cột đá có khắc kinh Phật, đó là bài thần chú Phật
Đỉnh Tôn Thắng Đà La Ni(佛
頂 尊 勝 佗 羅 尼) bằng
chữ Hán.
Bài thần chú Phật
Đỉnh Tôn Thắng Đà La Ni là một thần chú vốn ở trong Kinh Phật
Đỉnh Tôn Thắng Đà La Ni, hoặc là Phật Đỉnh Tối Thắng Đà La
Ni, còn có tên là Tối Thắng Phật Đỉnh Đà La Ni tĩnh trừ nghiệp
chướng chú kinh”[1]. Như vậy, chứng tỏ Phật giáo ở nước ta
đã phát triển mạnh từ thời Đinh và có sự ảnh hưởng của yếu tố Mật
tông.
Đến thời Lý, Phật giáo phát
triển rất mạnh mẽ và đạt tới đỉnh cao. Vua Lý Thái Tổ đã có nhiều sắc
lệnh có lợi cho sự phát triển của Phật giáo, như làm chùa trong cả nước, độ
dân làm sư, sai sứ sang Trung Quốcxin kinh Phật, v.v... Sau này các vua Lý
đều tôn sùng đạo Phật và tất nhiên cả các tầng lớp qúy tộc quan
lại cũng mộ Phật. Tinh thần sùng Phật lại được thể hiện trong
các lĩnh vực của hoạt động xã hội. Trên lĩnh vực văn học, bên cạnh
những áng văn chính luận nổi tiếng phản ánh công cuộc dựng nước và giữ
nước của dân tộc còn có những bài thơ và văn bia xoay quanh các chủ đề
về đạo Phật. Điều này được minh chứng qua sử liệu được ghi lại trong Đại Việt
Sử Ký Toàn Thư như sau: “Năm1010, mùa thu, tháng 7, vua [Lý Thái
Tổ] từ thành Hoa Lư, dời đô ra kinh phủ ở thành Đại La... Xuống chiếu phát tiền
kho 2 vạn quan, thuê thợ làm chùa ở phủ Thiên Đức, tất cả 8 sở, đều dựng bia
ghi công...
Năm 1011, bên hữu dựng chùa
Vạn Tuế. Ngoài thành dựng chùa Tứ Đại Thiên Vương và các chùa Cẩm Y, Long
Hưng, Thánh Thọ...
Năm 1014, mùa thu,
tháng 9, xuống chiếu phát 310 lạng vàng trong kho để đúc chuông treo ở
chùa Hưng Thiên, tháng 10, xuống chiếu phát trăm lạng bạc trong kho để đúc hai
quả chuông treo ở chùa Thắng Nghiêm...
Năm 1016, độ cho hơn nghìn
người ở kinh sư làm tăng đạo. Dựng hai chùa Thiên Quang, Thiên Đức
và tô bốn pho tượng Thiên Đế...
Năm 1018, mùa hạ, tháng
6, sai Viên ngoại lang là Nguyễn Đạo Thanh và Phạm Hạc sang nước Tống xin kinh Tam
Tạng...
Năm 1019, xuống chiếu độ dân
trong nước làm tăng... Năm 1021, làm nhà Bát giác chứa kinh...
Năm 1024, mùa thu,
tháng 9, làm chùa Chân Giáo ở trong thành để vua tiện ngự xem tụng
kinh.” [2]
Và Văn bia thời Lý
(1010-1225) hiện mới tìm thấy được là 18 văn bản [3]. Đứng về phương
diện chức năngxã hội và chức năng lịch sử, giá trị nội
dung văn bản của các văn bia thời kì này chủ yếu gắn liền với mục
đích tôn giáo, tín ngưỡng như Giáo sư Nguyễn Huệ Chi đã có đánh
giá, nhận xét: “Tác giả văn bia có thể là nhà Nho, nhưng bản thân văn
bia thì hầu như chỉ xuất hiện với mục đích tôn giáo, lưu
hành trong phạm vi thờ cúng và nhất là nhà chùa”[4].
Vậy có thể nói các bài văn
bia thời Lý là những tài liệu có giá trị khi nghiên cứu lịch
sử tư tưởng Việt Namvà đặc biệt là lịch sử, tư tưởng Phật
giáo Việt Nam. Ví dụ như văn bia: An Hoạch sơn Báo Ân tự bi kí (安 獲 山 報 恩 寺 碑 記) do
Chu Văn Thường soạn, niên đại Hội Phong 9 (1100) ở chùa Báo Ân núi
An Hoạch, Đông Sơn, Thanh Hóa; Bảo Ninh Sùng Phúc tự bi (保 寧 崇 福 寺 碑) do
Lý Thừa Ân soạn, niên đại Long Phù Nguyên Hòa (1107) ở Chiêm Hóa, Tuyên Quang;
Đại Việt quốc đương gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh tháp bi (大 越 國 當 家 第 四 帝 崇 善 延 齡 塔 碑) do
Nguyễn Công Bật soạn, niên đại Thiên Phù Duệ Vũ 2 (1121) ở chùa Sùng
Thiện Diên Linh, Duy Tiên, Hà Nam; Ngưỡng Sơn Linh Xứng tự bi
minh (仰 山 靈 稱 寺 碑 銘) ở
chùa Linh Xứng núi Ngưỡng Sơn, Ngọ Xá, Hà Trung, Thanh Hóa và Sùng
Nghiêm Diên Thánh tự bi minh (崇
嚴 延 聖 寺 碑 銘) ở
chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh, Hậu Lộc, Thanh Hóa do Pháp Bảo soạn trước
năm 1107 và năm 1118, Viên Quang tự bi minh tính tự (圓 光 寺 碑 銘 并 序) do
Dĩnh Đạt soạn, niên đại Thiên Phù Duệ Vũ 3 (1122) ở chùa Viên
Quang, Giao Thủy, Nam Định; Phụng Thánh phu nhân Lê thị mộ chí (奉 圣 夫 人 黎 氏 墓 志),
khuyết danh, niên đại Chính Long Bảo Ứng (1173) ở chùa Phúc Thánh, Tam Nông, Vĩnh
Phúc; Càn Ni sơn Hương Nghiêm tự bi minh (乾 尼 山 香 嚴 寺 碑 銘),
khuyết danh, niên đại Thiên Phù Duệ Vũ 5 (1124) ở chùa Hương
Nghiêm núi Càn Ni, Đông Sơn Thanh Hóa; Cự Việt quốc Thái úy Lý
công thạch bi minh tự ( 鉅
越 國 太 尉 李 公 石 碑 銘 序),
khuyết danh, niên đại khoảng năm 1159 v.v...
Đặc điểm nổi bật của
chúng là tư tưởng Phật giáo đã được phát biểu quan điểm có tính
chất triết học của mình. Một điều cần được khẳng định là Phật
giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt tư tưởng và nhân
sinh quan của người Việt Nam trong giai đoạn lịch sử này.
Điển hình như Ngưỡng Sơn Linh Xứng tự bi đã làm sáng tỏ điều
này: “Thái úy (Lý Thường Kiệt) tuy thân vướng việc đời mà lòng vẫn hướng
về đạo Phật. Có lẽ vì nhà vua và mẫu hậu tôn sùng giáo Lý nhà
Phật đó chăng? Cho nên Thái uý vâng theo ý chỉ của đức vua và mẫu hậu
mà nâng đỡ Phật pháp vậy”[5]. Thứ hai, ngoài ra các
văn bia thời Lý còn là những tư liệu có giá trị góp phần nghiên
cứu lĩnh vực văn hóa Phật giáo và văn hóa dân
gian của người Việt trong đời sống xã hội thời kì này.
Năm 1210, vua Cao Tông chết, thái
tử Sảm lên thay, tức là Lý Huệ Tông. Triều chính hoàn toàn trong
tay họ Trần. Kết cục, cuối năm 1225, công chúa Lý Chiêu
Hoàng đã bị ép nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh (Trần Thái Tông).
Nhà Lý chấm dứt, nhà Trần thay thế, người đứng đầu dòng họ Trần
ở đây là Trần Cảnh (Trần Thái Tông) nhưng người đặt nền móng cho
sự ra đời chính thức của nhà Trần là Trần Thủ Độ. Thời đại của
nhà Trần chính thức bắt đầu năm 1225.
Tiếp nối nhà Lý, Phật
giáo thời Trần vẫn giữ vai trò quan trọng trong đời sống tinh
thần của xã hội; tuy nhiên, với việc thi tuyển chọn quan lại trở
thành thường xuyên, tầng lớp Nho sĩ ngày càng đông đảo đã đẩy lùi dần
dần thế lực của tầng lớp Tăng lữ trên lĩnh vực chính trị và tư
tưởng. Hàng ngũ quan lại xuất hiện từ tầng lớp Nho sĩ ngày
càng chiếm ưu thế trong bộ máy chính quyền và nắm giữ những chức vụ
quan trọng trong triều đình. Lực lượng sáng tác văn học và nghệ
thuật cũng dần chuyển sang tầng lớp Nho sĩ. Các vua Trần đều ý thức được vai
trò của Phật giáo và Nho giáo đối với xã hội nên Phật
giáo đã phát triển trong sự dung hòa đối với Nho giáo và Lão
giáo.
Văn bia thời Trần đã phản
ánh được nhiều yếu tố, tính chất và đặc trưng về không khí chính
trị tư tưởngthời bấy giờ. Văn bia thời kỳ này khá phong phú,
không chỉ với mục đích tôn giáo như văn bia thời Lý mà còn có
các nội dung khác. Tuy nhiên văn bia thời Trần vẫn chủ yếu được dựng
tại các nhà chùa. Ví dụ như văn bia Sùng Nghiêm sự Vân Lỗi sơn đại bi tự
(崇 嚴 事 雲 磊 山 大 碑 序) do
Phạm Sư Mạnh soạn, niên đại Thiệu Khánh 3 (1372) đã viết: “Đất trời có tượng, tỏ
chở che để nuôi dựng muôn linh; thời tiếtkhông hình, ngầm nóng lạnh để hóa
thành vạn vật”[6].
Thời nhà Trần, khi Phật
giáo còn chiếm ưu thế trong xã hội, một số tác phẩm có giá
trị về triết lý và tư tưởng của Phật giáo xuất hiện như:
Khóa Hư Lục, Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục,... Do vậy, văn bia thời kì
này cũng vẫn xuất hiện những bài văn bia truyền bá tư tưởng Phật
giáo và sự liên hệ giữa Phật giáo và Nho giáo.
Văn bia Hưng Phúc tự bi (興 福 寺 碑) khuyết danh soạn, niên đại Khai Thái
(1324) đã viết về mối quan hệ của Phật - Nho như sau: “Noi theo chí người trước
làm sáng tỏ ở đời sau, họ Khổng gọi là hiếu; vui bố thí của
tiền sáng lập ruộng phúc, đạo Phật gọi là từ. Ôi hiếu và từ,
há chẳng phải là bản tâmcủa con người hay sao? Vậy nên dốc lòng hiếu
để báo cái ơn vô cùng, rộng điều từ để cầu phúc cõi âm mờ mịt khiến
cho đời đời con cháu, nhờ ơn mưa móc, cảm sắc khói hương, mỗi lần chiêm
ngưỡng lễ báilại một lần dậy niềm hiếu kính, gây nền phúc lâu
dài về sau” [7]. Tuy nhiên vào những năm cuối của thế kỉ XIV, đạo
Phật đã kết thúc thời kỳ huy hoàng vàng son của mình khi Hồ
Quí Ly ra lệnh sa thải Tăng đồ, bắt những người dưới 40 tuổi phải hoàn
tục vào năm 1396.
Bố cục và đề tài trang trí
trên văn bia thời Trần vẫn giống hệt thời Lý nhưng xu hướng sử
dụng các đề tài và dáng dấp các hoa văn có nhiều biến chuyển.
Hình phượng trên trán bia chỉ
gặp trên một tấm bia sớm nhất thời Trần: bia chùa Thiệu
Long (Hà Nội) tạc năm 1226. Có thể nói trang trí trán bia Thiệu Long là
sự tiếp nối truyền thống trang trí trên các bia cuối thời Lý.
Phổ biến trang trí trên
trán bia thời Trần là hình rồng như các bia chùa Đại Bi, bia
chùa Thanh Mai (Hải Hưng), bia chùa Sùng Hưng, bia chùa Hưng
Phúc (Thanh Hóa), bia “Ngô gia thị bi” (Hà Nam Ninh). Rồng trên các bia Trần
có thân bè mập, mào ngắn, khúc uốn doãng, các ký hiệu chữ S và chữ W thời Lý biến
mất nhường chỗ cho các cặp sừng nhiều kiểu khác nhau.
Tóm lại, một số đặc điểm về chức
năng, và lịch sử hình thành phát triển tính truyền thống Văn
Bia Lý - Trần thường dùng để ghi lại những sự kiện lớn diễn
ra trong lịch sử, sự kiện văn hóa, chính trị…hoặc ca ngợi công
đức của các vị vua cai trị và tôn vinh những bậc Nho học có công trạng hoặc
đạt những giải cao trong các kỳ thi do triều đình tổ chức như bia Tiến sĩ.
Đặc tính thứ hai, thể
hiện về nguyên khí quốc gia, đó là những người hiền tài. Vì
vậy, người đỗ đạt cao thường được lưu danh vào bia đá mà người ta thường
gọi là bia Tiến sĩ. Hiện nay, tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám còn lưu giữ 82
bia tiến sĩ có niên đại từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18 (1484
-1779). Những văn bia này được xem là những minh chứng cho sự cần cù hiếu
học của nhiều thế hệ ông cha chúng ta, đã góp công sức vào sự
phát triển của dân tộc.
Bia đá chính là sự khẳng định
bản sắc văn hóa dân tộc, do đó chúng ta cần đọc, hiểu, trân
trọng và phát huy hơn nữa những giá trị hết sức cao đẹp của
ông cha ta đã để lại.
III.KẾT LUẬN
Nếu xét về khái niệm chuẩn về
tính đa dạng văn hóa và văn hóa truyền thống theo
UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa vào năm 2002, như sau: “Văn
hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật
chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người
trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật,
cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền
thống và đức tin”[8]; thì khi đó, điều này đặc điểm giá trị văn
hóa Văn Bia Lý – Trần đã thể hiện tính giáo dục truyền thông và hoạch
định chiến lược phát triển văn hóa dân tộc hết sức ổn
định. Bởi vì, khi những phản ứng tiêu cực của xã hội trước
những vi phạm tiêu chuẩn văn hóa chính là cơ sở của hệ
thống kiểm soát văn hóa hay kiểm soát xã hội mà qua đó
bằng những biện pháp khác nhau, các thành viên của xã hội tán đồng
sự tuân thủ những tiêu chuẩn văn hóa. Đặc tính nổi
bật khi giá trị Văn hóa đạo đức của văn bia thời Lý –
Trần thể hiện thì ngoài phản ứng của xã hội, phản
ứng của chính bản thân cũng góp phần làm cho những tiêu chuẩn văn
hóa được tuân thủ, bởi vì nó chứa đựng giá trị soi rọi lại
chính bản thân con người. Quá trình này chính là tiếp thu các tiêu
chuẩn văn hóa, hay nói một cách khác, hòa nhập tiêu chuẩn văn
hóa vào nhân cách của bản thân.
[1] Lịch sử Phật
giáo Việt Nam, Nxb. KHXH, Hà Nội. 1988, tr.139.
[2] Đại Việt Sử Ký
Toàn Thư, Bản Kỷ, Bản in Nội Các Quan Bản Mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18
(1697), Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Soạn giả: Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên,
Ngô Sĩ Liên, v.v..., 1697, Dịch giả: Viện KHXH Việt Nam 1985-1992,
nhà xuất bản: KHXH - Hà Nội 1993, chuyển sang ấn bản điện tử
bởi: Lê Bắc, Công Đệ, Ngọc Thủy, Tuyết Mai, Hồng Ty, Nguyễn Quang Trung, 2001.
[3] Theo số liệu điều
tra công trình Tổng tập văn khắc Hán Nôm Việt Nam, Viện Nghiên
cứu Hán Nôm.
[4] Thơ văn Lý -
Trần (tập 1), Nxb. Khoa Học Xã Hội, 1977, tr.185.
[5] Sđd., Thơ văn Lý -
Trần (tập 1), tr. 362.
[6] Thơ văn Lý -
Trần (tập 3), Nxb. Khoa Học Xã Hội, 1978, tr.133.
[7] Thơ văn Lý-Trần (tập 2, quyển thượng), Nxb. KHXH, 1989, tr.638.
[8]Tuyên bố chung
của UNESCO về tính đa dạng văn hóa (http://www. unesco. org/.
Giác Chinh
đại lý vé eva air
Vé máy bay đi mỹ
korean air vietnam office
vé máy bay đi mỹ giá rẻ
Vé máy bay đi canada
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Ngẫu Hứng Du Lịch
Tri Thuc Du Lich