Trịnh Công Sơn đã từng
viết “Mỗi bài hát của tôi là một lời tỏ tình với cuộc sống, một lời nhắn nhủ thầm
kín về những nỗi niềm tuyệt vọng, ….”. Vậy lời nhắn nhủ thầm kín đó của Ông
trong bài hát “Vết lăn trầm” là gì?.
Khi nghe giọng Khánh Ly vang lên: “Vết lăn! vết lăn trầm!...”, lòng tôi như se
lại, một cảm giác bâng khuâng không rõ cội nguồn, cảm giác cô đơn, vắng lặng phủ
lấy tâm hồn rồi đẩy tôi vào một trạng thái trầm tư kéo dài đến nỗi khi bài hát
đã qua rồi mà tôi còn chưa tỉnh lại! Vết lăn trầm, trước tiên đó là một hình ảnh
hay là một dấu tích của một kiếp người ngắn ngủi, nhưng lại vô cùng khổ đau, trầm
luân và lận đận. Nhưng nếu chỉ có vậy thì chưa thể nào hiểu được lời nhắn nhủ
thầm kín của Trịnh Công Sơn trong bản nhạc này là gì.
“Hằn trên phiến đá nâu thêm ưu phiền...”, Với Trịnh Công Sơn, cuộc đời con người
thật là ngắn ngủi như một vết chân chim hằn trên đá, trên cát. Nó xuất hiện rồi
nhanh chóng phai mờ, như “có lần chim muông hằn dấu chân”. Đời người ngắn ngủi
được Ông viết trong nhiều bài hát: “Mùa xuân quá vội. Mười năm tắm gội. giật
mình ôi chiếc lá thu phai." (Chiếc lá thu phai), hay “Ôi tiếng buồn rơi đều,
nhìn lại mình đời đã xanh rêu” (Tình xa).
Nhưng thật là trớ trêu, đời người ngắn ngủi là vậy mà con người lại phải gánh
chịu biết bao đau khổ, tủi hờn, như nhân gian đã có lần than thở đời là bể khổ,
vì mấy ai hiểu được cuộc đời để mà sống qua cho đúng nghĩa con người, “làm sao
em nhớ những vết chim di” (Diễm xưa), “Có biết gì về ngày chưa tới” (Cỏ xót xa
đưa) để mà “về thu xếp lại…Vội vàng thêm những lúc yêu người” (Chiếc lá thu
phai).
Ở một góc nào đó của cõi trần gian, thân phận con người là định mệnh, không thể
kháng cự mà bị đẩy đưa lăn lóc, con người phải chấp nhận số mệnh và sống qua cuộc
đời đầy bất hạnh như một viên đá để lại một vết lăn buồn: “Người chợt nhớ mình
như đá. Đá lăn, vết lăn buồn”.
Cũng đã có mấy ai nhận thức được cội nguồn của những nỗi bất hạnh mà con người
phải gánh chịu kể từ khi bắt đầu cuộc sống, “Trẻ thơ ơi, trẻ thơ ơi, tin buồn từ
ngày mẹ cho mang nặng kiếp người” (Gọi tên bốn mùa).
Cội nguồn đó chính là cái ác đã và đang ẩn náu ngay chính bên trong con người.
Bởi vì anh mang danh là con người, nhưng thực ra anh đang ngụy trang che giấu
cái gốc gác xa xưa của mình, bởi vì anh xuất thân từ loài dã thú: “Từ hoang xưa
dấu thân anh dã cầm. Ôi vết hằn ghi trên bồn gió hoang” (không phải là “Từ
hoang xưa dấu chân anh dạ cầm” như Tuyển tập những bài ca không năm tháng đã in
sai, và vô nghĩa). Cái ác của chính con người từ cổ chí kim đã và đang là
cội nguồn của mọi nỗi bất hạnh trên thế gian. Và chính nó vẫn còn ghi lại những
vết hằn trong quá khứ không ai có thể chối bỏ được, trên những thành quách, những
đài tưởng niệm, những mộ bia hoang vắng,… và hãy còn lưu lại trong sử sách: “Ôi
vết hằn ghi trên bồn gió hoang”. Bồn gió hoang không phải là một từ ghép. Bồn
là một thực thể vật chất hiện hữu, gió hoang chỉ đóng vai trò một trạng từ
không gian. Nếu chúng ta bỏ ra một ít thời gian để làm một chuyến đi, một cuộc
hành trình đi từ hiện tại về quá khứ, để chiêm nghiệm, để thấy tận mắt, nghe tận
tai về những vết hằn đẫm máu của cái ác vẫn còn lưu lại ở nhiều nơi, thì chúng
ta sẽ hiểu được thế nào là vết hằn ghi trên bồn gió hoang. Hãy nghe lại tích
xưa như Trọng Thủy Mỵ Châu để biết đâu là tình yêu, tham vọng, sự phản bội và
những cái chết; hãy lật báo hàng ngày ra mà xem cảnh cướp của giết người, anh
em giết nhau, vợ giết chồng, chồng giết vợ; hãy đến bên tượng đài Sơn Mỹ để xem
và nghe người ta đã giết dân mình như thế nào; hãy mở sách sử để xem cội nguồn
của cái chết trên hai triệu người dân Việt vì đói năm 1945; hãy sang Campuchia
để chứng kiến vết tích của sự diệt chủng; hãy trở lại Liên Xô (cũ) đứng bên những
ngọn lửa nhỏ của những đài tưởng niệm chiến sỹ vô danh để nghe có đến hai mươi
triệu người đã chết trong chiến tranh vệ quốc... và còn biết bao nhiêu những vết
hằn của cái ác do chính con người đã gây ra nữa! mà kể ra, cả đôi môi và tâm trạng
người ta càng cảm thấy u uất hơn: “Chờ ta da du một chuyến. Ôi môi hờn xin đừng
kể lại tích xưa buồn hơn”. Từ “da du” được sáng tạo bởi Trịnh Công Sơn với ý
nghĩa như vậy, hẳn không phải “Chờ ta giao du một chuyến” như có ca sỹ đã hát.
Như một nỗi niềm tuyệt vọng trước những thực tại đau buồn, như một sự tương phản
với thực tại, lời ca đột ngột nhắc lại cái đích không xa mà mọi con người đều
phải đến: “Đợi chờ năm làm gió qua truông thiên đàng”. Cái đích ấy đã được Trịnh
Công Sơn viết không chỉ một lần: “Người đã đến và người sẽ về bên kia núi” (Cỏ
xót xa đưa), “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi”
(Cát bụi).
Sự tương phản ở đây khiến ta cảm nhận có một sự vô nghĩa nào đó đang hiện hữu,
một sự lầm đường lạc lối nào đó của con người đang tồn tại. Nó khiến ta muốn phủ
nhận cái xấu xa đang hiện hữu để vươn tới những gì cao thượng hơn mà lẽ ra con
người phải có được trong khi còn “ở trọ” chốn trần gian. Đó là những gì? Đó là
tuổi thơ vô tội, là những bài ca dao đầy ắp tình thương mà mẹ đã một thời hát
ru con ngủ. Đó là tình yêu và là cái thiện!
Điệp khúc tiếp theo là một lời hát ru con ngủ, nhưng không phải bài ca dao thuở
nọ, mà là lời hát tiễn đưa con trong nỗi niềm tuyệt vọng, đành phải tin rằng chết
là một giấc ngủ bình yên, đành phải tin rằng chết là cơ may thoát khỏi những
đau khổ chốn trần gian (“che dấu thân đau rã mòn”) để an ủi cho chính người ở lại.
Âm “thôi” kéo dài não nề khiến ta cảm nhận được nỗi tuyệt vọng ấy: “Thôi! Ngủ
yên đi con. Ngủ đời yên đi con che giấu thân đau rã mòn. Ngủ đời yên đi con như
vết thương đau ngủ buồn, như trùng dương đêm mắt thâm còn nghe ngóng!”, đó là lời
ru con lần thứ hai, như “Ru con nay đã hai lần, ôi tấm thân này ngày xưa bé bỏng”
(Ngủ đi con).
Có lẽ điệp khúc là nghệ thuật đỉnh cao trong mô tả nỗi khổ đau của kiếp
làm người. Hình ảnh người phụ nữ ru tiễn con đi về cõi vĩnh hằng kết hợp với
hình ảnh một người phụ nữ đêm mắt thâm quầng còn mỏi mòn nhìn ra biển mà nhen
nhóm một chút hy vọng nhỏ nhoi đợi chồng về trong nỗi tuyệt vọng bao la của đại
dương như ẩn hiện một hòn vọng phu, khiến trời xanh mà nghe thấy chắc cũng phải
động lòng! Ôi kiếp làm người! Ôi “Đá lăn! Vết lăn trầm”!
“Từ cơn đau ấy, lưu thân mỏi mòn, ôi mắt thầm van xin lời thánh đêm!”, khi đã
trải qua khổ đau tột cùng, con người như mất tất cả, không còn chỗ bám víu,
không còn biết đâu là hạnh phúc trên cõi đời, chỉ còn biết cầu xin đấng tối cao
cho được bình an để mà mòn mỏi lưu thân cho đến hết cuộc đời. Thật không còn từ
nào có thể thay thế được “lưu thân mỏi mòn” để diễn tả nỗi khổ của kiếp làm người,
lưu thân là chỉ ở tạm, ở trọ mà thôi như “Tôi đây ở trọ trần gian” (Ở trọ), còn
nhà của mình là chốn vĩnh hằng hay chốn thiên thu như Ông đã từng viết: “Anh nằm
xuống như một lần vào viễn du. Đứa con xưa đã tìm về nhà” (Hát cho người nằm xuống).
Từ đầu bài hát đến giờ, tổng kết lại ta thấy những gì? Đó là cái ác trong con
người và những vết hằn của nó vẫn còn đó; đó là nỗi bất hạnh tột cùng của kiếp
người; và bây giờ là “van xin lời thánh đêm”. Và hoàn toàn không phải ngẫu
nhiên sau “Ôi mắt thầm van xin lời thánh đêm”, thì vang lên “Bài ca dao trên cồn
đá, trên ngai vàng quê nhà một thời ngủ yên tuổi xanh”.
Mọi người Việt, dù được sinh ra từ những nơi tận cùng của nghèo khó (trên cồn
đá) hay từ những nơi tột đỉnh của vinh quang (trên ngai vàng) đều đã có ít nhất
một lần được nghe hát ca dao. Đó là những lời giáo huấn của cha ông được truyền
lại về lòng nhân ái, đầy ắp tình thương giữa người và người: “Công cha
như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”, “Bầu ơi thương lấy bí
cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”, “Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
người trong một nước phải thương nhau cùng”…,hay đôi khi là biểu hiện tình mẫu
tử thiêng liêng nhưng cũng gởi gắm nhiều tâm trạng của kiếp người ngay từ thời ấu
thơ:
“Ví dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi
Khó đi mẹ dắt con đi
Con thi trường học mẹ thi trường đời”.
Khi
viết về sự “van xin” “lời thánh đêm” và “bài ca dao”, Trịnh Công Sơn chắc chính
mình cũng muốn van xin con người hãy hướng về lòng nhân ái, về cái thiện tâm,
hãy để cho tình yêu, lòng vị tha, hạnh phúc được nhân lên; hãy để cho cái ác, sự
nhẫn tâm, sự phản bội … đi vào lãng quên. Khi hát các khúc nhạc của Trịnh Công
Sơn, người hát cũng như đang van xin chính mình hãy giã từ cái ác, hoặc là cầu
mong cho mình, cho nhân gian được niềm vui, hạnh phúc. Người nghe cũng phần nào
được an ủi, được củng cố lòng tin vào cuộc sống và thấy cuộc đời còn đáng sống
hơn. Và tất cả những điều đó cũng chính là lời nhắn nhủ thầm kín của Ông
trong ca khúc “Vết lăn trầm”.
Tôi đã đọc một số bài viết về nhạc Trịnh Công Sơn, trong đó có bài viết gây nhiều
ấn tượng của Ông John C. Schafer, một người Mỹ đã phân tích và chứng minh “về
Cái chết, Phật giáo và Chủ nghĩa hiện sinh trong nhạc Trịnh Công Sơn”.
Tôi cũng lấy làm tiếc là không thấy ai đưa ra kết luận về cuộc sống trong âm nhạc
của ông là rất ngắn ngủi và đầy bất hạnh, và lời trong mỗi bài ca thường là một
lời nhắn nhủ thầm kín rằng con người hãy từ bỏ cái ác trong chính mình, hãy làm
cho tình yêu, hạnh phúc được chắp cánh bay cao. Và do đó, nhạc của Ông là
loại âm nhạc hướng thiện. Ca từ đầy quyến rủ và bí ẩn. Giai điệu thánh thiện và
nội dung đầy tính nhân văn. Chính vì vậy mà nó có sức thu hút mạnh mẽ cả người
hát lẫn người nghe.
Nếu bạn chịu khó để tâm, sẽ thấy điều ấy (sự hướng thiện) đã được Ông viết rất
nhiều lần: “chiều này còn mưa sao em không lại, nhỡ mai (không phải là nhớ mãi)
trong cơn đau vùi làm sao có nhau”! (Diễm xưa) hoặc “Xin hãy cho mưa qua miền đất
rộng, ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau” (Diễm xưa), khác nào hãy cho nhau một
cuộc đời này hạnh phúc, bởi lẽ kiếp sau sỏi đá vô tri cũng cần có tình, huống hồ
chi là con người của kiếp này.
Hay “Ru khi mùa mưa tới. Ru em mãi yêu người. Ru em hoài bé dại, một hồn
thơm cây trái.…Ru em là cánh nhạn miệng ngọt hạt từ tâm”! “Ru em tình
như lá trăm năm vẫn quay về”! (Ru tình) khác nào là lời cầu mong cho con người
có thiện tâm, tình yêu và sự thủy chung.
Hay “Một ngày, ngày ngày đã qua. Ôi một ngày, ngày chóng qua … Ôi nhân loại, mặt
trời và em thôi. Này đôi môi xin thương người”! (Xin mặt trời ngủ yên).
Trong một thể hiện khác: “Mặt trời nào soi sáng tim tôi, để tình yêu!...” để
tình yêu được thức tỉnh trong mọi trái tim người, để những tâm hồn khô cằn như
đá cuội cũng được hồi sinh. Có lẽ ở đây Ông đã sử dụng một phép đảo ngữ mà ta
ít khi thấy trong tiếng Việt “Để tình yêu xay mòn thành đá cuội” (Cát Bụi).
Và nhiều khi không còn là một lời nhắn nhủ thầm kín nữa mà là một sự thẳng thắn,
một lời kêu gọi bộc trực rằng con người hãy quên đi điều ác mà hướng đến cái
thiện: “Biển sóng, biển sóng đừng âm u. Đừng nuôi trong ấy trái tim thù!” (Sóng
về đâu).
Sự đấu tranh vì cái thiện thật sự mạnh mẽ và quyết liệt hơn trong những ca khúc
phản chiến: “Giòng máu anh em đã nhuộm mặt trời, cùng xương khô lên tiếng nói.
Đòi sống ấm êm nhân danh con người” (Ta đã thấy gì đêm nay), “Hãy sống giùm
tôi, hãy nói giùm tôi, hãy thở giùm tôi! Thịt da này dành cho thù hận…” (Hãy sống
giùm tôi) …
Và có lẽ không có chứng minh nào thuyết phục hơn bằng chính lời tâm sự của Ông:“…
Không ai muốn mình là kẻ tuyệt vọng. Nhưng tôi tự nguyện làm tên tuyệt vọng. Bởi
nhiều sớm mai khi tôi thức dậy đã không thấy được hoa quả khai sinh trong trái
tim người …” (Sài gòn, tháng 11.1992). Lời nhạc còn một câu cuối. Lại xuất
hiện một sự tương phản. Tương phản giữa “Một thời ngủ yên tuổi xanh” và “Rồi một
hôm chợt thấy hoang vu quanh mình!”. Một câu ngắn, nhưng chứa đầy nội tâm làm
ta không thể không quan tâm.
Trong nhạc của Ông, nhiều khi ta gặp các từ “trẻ thơ”, “tuổi xanh”, “vòng nôi”,
“tóc … xanh”, “trẻ hát trong nôi”, “thơ ngây”, “bé dại” … được sử dụng với một
sự trân trọng đặc biệt. Nó thể hiện một sự tinh khôi, một thời hồn nhiên vô tội,
một sự bình yên và là niềm hạnh phúc. Bên cạnh đó, ta cũng thấy sự xuất hiện của
từ “hoang vu”, “im vắng” “bỏ hoang”… trong tâm hồn con người. Nó chứa đầy nội
tâm bí ẩn. Nó là lúc con người chợt nhìn lại cuộc đời của chính mình, là lúc
con người cảm thấy cô đơn, như một báo hiệu vết lăn sắp kết thúc. Trong nhạc của
Ông, ở những mảnh đời khác nhau, tâm trạng con người cuối đời cũng khác
nhau. Có kẻ vội vã yêu thương ở cuối cuộc đời, là lúc “Về thu xếp lại, ngày
trong nếp ngày. Vội vàng thêm những lúc yêu người” (Chiếc lá thu phai), hay là
“Còn đây có bao ngày, còn ta cứ vui chơi” (Còn có bao ngày), nhưng cũng có khi
sự hoang vắng lại biểu hiện một sự tự vấn, một sự ăn năn, một sự sám hối về phần
đời đã qua: “Đời sao im vắng như đồng lúa gặt xong, như rừng núi bỏ hoang. Người
về soi bóng mình giữa tường trắng lặng câm!” (Ru ta ngậm ngùi), sự sám hối lên
đến tột cùng: “Hương trầm có còn đây ta thắp nốt chiều nay. Xin ngủ trong
vòng nôi! Ta ru ta ngậm ngùi! Xin ngủ dưới vòm cây!” (Ru ta ngậm ngùi), có lẽ
là tâm trạng con người sống cuộc đời đã qua với bản năng dã cầm nhiều hơn là
con người để rồi ăn năn xin được tha thứ, xin được trở về với tuổi thơ vô tội,
xin trở lại “ngủ trong vòng nôi”, nhưng đã quá muộn, đành phải “ta ru ta ngậm ngùi”.
Và rõ ràng sự “chợt thấy hoang vu quanh mình” cũng phản ánh những nỗi niềm, sự
băn khoăn thiện ác của con người trước lúc chia tay đi xa. Nó cũng không nằm
ngoài sự hướng thiện.
Tuy nhiên, chúng ta
không chỉ biết ngồi yên hát rao điều thiện, cầu xin cái ác hãy thương tình mà
còn phải biết cách ủng hộ cái thiện, chống lại cái ác, như ai đó đã viết: “Khi
cái ác đã cầm lấy dao găm thì cái thiện phải cầm lấy súng trường”.
“Vết lăn trầm” là ca khúc chứa nhiều nỗi ưu tư của Ông về kiếp làm người. Là lời
nhắn nhủ thầm kín để con người biết quên đi lòng tham, quên đi hận thù, tránh
điều ác để hướng tới tình yêu, hạnh phúc, cũng là để cứu lấy con người khỏi khổ
đau, bất hạnh. Nó có thể xem là đại diện cho âm nhạc hướng thiện của Ông. Cần
thiết nên xem xét lại để phổ biến âm nhạc của Ông đầy đủ hơn thay vì ngăn cấm.
Và hãy đừng ngạc nhiên khi có ai đó nói với bạn rằng bạn cũng thích nhạc Trịnh
Công Sơn ư, vậy bạn là người tử tế!.
VẾT LĂN TRẦM - Khánh Ly - YouTube
Trương Hồng Mẫn
vé máy bay eva giá rẻ
gia ve may bay eva di my
korean air vietnam office
tìm vé máy bay đi mỹ
mua vé máy bay đi canada
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Ngẫu Hứng Du Lịch
Tri Thức Du Lịch