Ả đào Việt
Nam và geisha của Nhật Bản
Từ TK XVI, Việt Nam và Nhật Bản
đã có quan hệ ngoại giao kinh tế, thành quả là khu phố cổ Hội An-một di sản
nhân loại. Song, quan hệ ngoại giao văn hóa giữa hai nước chưa có những sự kiện
xứng tầm quốc tế. Trong tương lai, Việt Nam và Nhật Bản cần một đối tượng để
đối thoại văn hóa, thông qua đó hai dân tộc biết được những điều mà họ có chung
để cùng chia sẻ và chuyển hóa những giá trị văn hóa. Chúng tôi đề xuất hình
tượng người ca nữ như một hiện tượng mà hầu như nền văn hóa nào cũng có từ rất
lâu đời. Tuy không có quan hệ tiếp biến văn hóa, nhưng điều thú vị là khi nói
đến ả đào Việt Nam, người ta có tâm lý liên tưởng đến nàng geisha Nhật Bản và
ngược lại.
Với khái niệm ả đào và khái
niệm geisha, hai dân tộc Việt - Nhật có chung một cách hiểu, đó là cách gọi
biểu trưng cho cái đẹp, biểu tượng của văn hóa nghệ thuật dân tộc. Người Việt
Nam hình dung geisha như một ả đào Nhật Bản, và có lẽ, để hiểu
khái niệm ả đào, người Nhật sẽ cho rằng đó là geihsa Việt Nam.
Geisha (tiếng
Nhật: nghệ giả - con người
của nghệ thuật) là người nghệ sĩ
vừa có tài ca múa nhạc, lại vừa có khả năng phục vụ nhu cầu văn hóa truyền thống
Nhật Bản (trò
chuyện, trà đạo, cắm hoa, thư pháp...).
Trong lịch sử, geisha là một nghề khởi đầu là nam giới, song, do tính tất yếu của
nghề nghiệp và tâm lý nhìn nhận của xã hội, người ta vẫn nghĩ geihsa là nữ nghệ
giả, chỉ đề cập đến geihsa nữ- như một đối trọng so sánh với
ả đào Việt Nam.
Ả đào là tên gọi (cổ xưa nhất) đã có
từ đời Lý Thái Tổ (TK XI), theo truyền thuyết về Đào thị có nhan sắc, giỏi ca
hát được vua khen tặng, nên dân gian gọi ca nương hát ca trù là ả đào nhằm chỉ người
con gái đẹp, hát hay. Từ đây, ta có nội hàm của khái niệm: ả
đào là chức danh của một nữ nghệ nhân hát ca
trù, còn được gọi là cô đầu. Từ cô đầu thì có người cho là cô
đào bị nói trệch đi (ả là chữ nho có nghĩa là cô, ả
đào có nghĩa là cô đào). Đỗ Trọng Huề thì cho là chữ đầu ám chỉ tiền hoa hồng (tiền đầu) mà các cô ca sĩ phải trả cho thày
dạy hát của mình. Cô đầu lại cũng thường được dùng để
chỉ những cô ca sĩ có nhiều học trò. Cô đầu thoát thai từ ả đào. “Tiếng cô thay tiếng ả cho rõ
ràng, tiếng đầu thay tiếng đào để tỏ ý tán tụng bậc danh ca”.
Lịch sử ra đời của ả đào trước
geisha đến ba thế kỷ nhưng khách của ả đào - nhà nho tài tử lại ra đời muộn hơn
khách của geisha - tăng lữ và võ sĩ cũng ngần ấy thời gian. Nhà nho tài tử Việt
Nam đến muộn mà còn ra đi sớm hơn võ sĩ Nhật. Nguyên nhân là do lịch sử phong
kiến Nhật là một vương triều độc lập, đã sớm có những thành tựu văn hóa từ thời
Heian (794-1192) - văn hóa của quý tộc, đến giai đoạn nội chiến của các lãnh
chúa (1185-1603) tạm gọi là thời trung đại - văn hóa của các tu sĩ và võ sĩ.
Còn Việt Nam, sau 1000 năm Bắc
thuộc, những triều đại được gọi là thịnh chỉ mới bắt đầu từ Lý - Trần
(1010-1400), sau là Lê - Nguyễn (TK XV - cuối TK XIX). Sự ra đời của nhà nho
tài tử gắn liền với sự phát triển của đô thị, mà ở Việt Nam do tình hình chiến
tranh liên miên nên đô thị phát triển không mạnh và không liên tục. Vì thế tầng
lớp thị dân Việt Nam cũng ra đời muộn hơn Nhật Bản .
Cũng như ả đào có tiền thân là
con hát, ca nương (TK II trước CN), geisha khởi thủy với hai tiền thân là
saburuko (cuối TK VII) nghĩa là người phục vụ và Shirabyoshi (TK XI) lúc đầu
chỉ là tên một vũ khúc, về sau nó được đặt tên cho các cô gái thường biểu diễn
vũ khúc này để phục vụ cho các võ sĩ (samurai). Vào cuối TK XVI đến đầu TK
XVII, khi cấu trúc xã hội Nhật bị phá vỡ, sự sa sút của nhiều gia đình quý tộc
khiến cho nhiều cô gái biến thành shirabyoshi để có thể tồn tại.
Và trong khi ả đào khai sinh
liền với sự ra đời của ca trù từ TK XV thì mãi đến TK XVIII, geisha của Nhật
Bản mới hình thành. Thế kỷ XVIII ở Nhật là thời Edo (1603-1868) với văn hóa thị
dân (chonin): thương nhân, nghệ sĩ, kỹ nữ, thời của những thành phố không đêm,
của nhà hát, lữ quán, những cuộc vui thâu đêm suốt sáng.
Vào năm những năm 1945, nghề ả
đào suy tàn thì nghề geisha cũng tàn lụi khi Nhật Bản dốc toàn lực vào Thế
chiến II, dù sau đó có được phục hồi, thời hoàng kim đã qua đi vĩnh viễn. Đội
ngũ geisha lại thiếu vắng người kế cận khi Quốc hội Nhật Bản ban hành luật cấm
thiếu nữ chưa tròn mười lăm tuổi học làm maikô (tức geisha tập sự). Thống kê
năm 1980 cho biết cả nước Nhật còn đến 17.000 geisha hành nghề, đến nay chỉ vào
khoảng 200, chủ yếu ở cố đô Kyoto.
Như vậy, về mặt lịch đại, ả đào
có lịch sử hình thành sớm hơn geisha rất nhiều. Nhưng xét về mặt đồng đại thì
văn hóa đô thị của ả đào xuất hiện muộn và kết thúc sớm hơn geisha. Sự chênh
lệch này ảnh hưởng lớn đến văn hóa ứng xử trong tiếp biến văn hóa của hai hình
tượng này.
Không gian của ả đào là giáo phường và ca quán. Giáo phường là trường dạy nhạc, ca quán là nhà hát, về sau các
ca quán kiêm luôn chức năng vừa đào tạo vừa kinh doanh nghề hát như nhà
geisha. Nhà geisha còn đặc biệt hơn ca
quán ở chỗ, nó được xây dựng theo mô hình kiến trúc nhà Minh-dành
riêng cho việc ăn chơi, hưởng lạc. Các geisha tập trung hầu hết ở Kyoto,một cố đô với hình ảnh lặng lẽ, huy
hoàng của một quá khứ, và thủ đô Tokyo với nhịp sống sôi động, ồn ào của xã hội
công nghiệp. Các nàng sống tập trung tại một vài khu phố, người Nhật gọi là hanamachi (hoa nhai). Geisha
thành phố (machi geisha) hoạt
động tự do tại các buổi tiệc bên ngoài các khu phố giải trí, trong khi các
geisha khu phố (kuruwa geisha) giải trí
cho khách trong các buổi tiệc ở các khu
phố giải trí.
Ca quán, cũng như nhà geisha, là không gian giải trí, không
gian cảm hứng nghệ thuật, không gian làm việc (viết báo, xã giao, bàn việc kinh
doanh…) của khách làng chơi. Không gian văn hóa geisha, cũng như không gian văn hóa ả đào, mang dáng dấp cung đình hơn dân
dã, đó là không gian phòng, không có những tiết mục sôi
động như ca vũ tạp kỹ. Vì thế, nhạc cụ cũng khá tinh giản, ả đào chỉ dùng đôi
phách tre, geisha ngoài cây đàn shanmisen còn dùng sáo trúc và mấy
chiếc trống, trống nhỏ tsutsumi vác lên
vai, trống nhỡ ôkawa kê trên đùi, còn trống
lớn taikô đặt cạnh người diễn.
Nhưng xét riêng từng khía cạnh,
sự khác biệt cơ bản giữa ả đào và geisha là chủ thể văn hóa: một bên là văn hóa
làng xã và văn hóa quý tộc phong kiến, còn một bên là văn hóa thị dân. Nguyên
nhân là do sự khác biệt về giai cấp giữa ả đào và geihsa. Ả đào
xuất thân từ giai cấp nông dân. Trong sinh hoạt đời thường
của con nhà nông, ả đào ban ngày làm ruộng vườn hoặc
chăn tằm dệt vải. Đến tối họ tới giáo phường để luyện tập đàn hát do quản giáp và mấy ả đào già nhiều kinh nghiệm chỉ bảo. Geisha xuất
thân từ tầng lớp thị dân. “Con nhà gia thế sa cơ dấn
thân vào chốn xa mã công khanh. Họ có giao ước với mụ chủ thời hạn làm việc, họ
được tự do, không có một thế lực gì bắt họ phải theo ý muốn người khác được, ở
phòng trà ấy, họ được giáo dục hoàn hảo”. Nhiều giesha nhận được sự nâng đỡ từ những gia đình thuộc tầng lớp thượng lưu,
các dòng họ nổi tiếng.
Từ khác biệt cơ bản trên, ta
hiểu văn hóa ả đào có nguồn gốc từ văn hóa tín ngưỡng tôn giáo dân gian, từ một nghệ nhân chuyên
hát thờ ở đình làng về sau mới trở thành một cô đầu chuyên phục vụ giải trí cho
quý tộc, trí thức. Trong khi đó, văn hóa geisha chỉ thuần túy là
văn hóa giải trí, không dính dáng gì đến tín ngưỡng tôn giáo.
Song, ả đào và geisha đều tương
đồng ở chỗ cả hai có một đời sống văn hóa theo những quy phạm nhất định. Họ bị
cấm ăn mặc khó coi, phải mặc cùng một kiểu trang phục, tóc chải theo một kiểu
đồng nhất, chỉ phục vụ những nhóm khách vài ba người và không bị ép buộc phải
tiếp người khách nào mà họ không thích. Được yêu quý, trọng vọng, nhưng theo
quy luật của nghề nghiệp, họ phải chôn chặt những khát khao thầm kín, ngay cả
tình yêu trong thế giới đầy chuẩn mực.
Vì đối tượng khách của ả đào và geisha đều là nam giới nên khi đề cập
hai hình tượng này không thể không xét đến khía cạnh văn hóa giới - mối quan hệ
nam và nữ nhìn từ văn hóa xã hội.
Ở đây có sự tương đồng về cấu
trúc văn hóa giới, nếu ả đào luôn đi cạnh văn nhân Việt Nam thì geisha không
thể tách rời võ sĩ Nhật, cũng như thiền sư và kỹ nữ nói chung. Cấu trúc này
không có gì thay đổi về bản chất, chỉ thay đổi về hình thức danh xưng, văn nhân
xưa kia là nhà nho, hiện đại là trí thức, văn nghệ sĩ được gọi chung là quan
viên; khách của geisha trước đây là võ sĩ thì ngày nay là khách thượng lưu, gọi
chung là người bảo trợ (danna)…
Cấu trúc văn
hóa này đã làm nên nét đặc thù riêng cho văn hóa ả đào và văn hóa geisha, giúp
ta nhận diện ra đó là thứ văn hóa giải trí. Ả đào và geisha đóng vai trò là người phục vụ văn hóa truyền thống (ả đào xướng thơ, hầu rượu), geisha phục vụ
bằng nghệ thuật hát, thưởng trà, rượu, ngâm thơ... Qua đó ta thấy ả
đào và geisha cũng có nhiều nét tương đồng về quan niệm mỹ
học, triết lý nhân sinh. Văn hóa giải trí này tạo ra những điều kiện và phương
tiện (ngôn ngữ và các hệ thống ký hiệu) cho mối quan hệ giao tiếp xã hội.
Như trên, ta thấy ả đào và
geisha luôn bị đặt trong mối quan hệ phụ thuộc nhà nghề và phụ thuộc người đàn
ông - khách chơi nghệ thuật. Theo
truyền thống, ả đào không được kết hôn với người ngoài nghề.
Geisha cũng không được
kết hôn hoặc khi kết hôn thì phải kết thúc sự nghiệp.
Hệ quả của cấu trúc văn hóa đã
tạo điều kiện cho nghề ả đào và geisha một khả năng giao tiếp rộng, ma
lực hấp dẫn cao nên nó đóng vai trò định hình bộ mặt văn hóa xã hội. Tiền đề này đã tạo
nên một cấu trúc võ sĩ và geisha trong lịch sử, văn chương và văn hóa. Hình tượng kỹ
nữ đi vào văn học, như tác phẩm Xứ tuyết của Kawabata mang trong mình niềm mê hoặc đặc biệt về phụ nữ Nhật
Bản - điển hình là giới geisha. Ở Việt Nam, tác phẩm Chùa
đàn của Nguyễn Tuân cũng dấy lên sự nỗi ám ảnh huyền hoặc về tiếng hát
của ả đào có khả năng cứu rỗi số phận một con người, một cộng đồng thôn Mê
Thảo.
Mặt khác, nhìn vào cấu trúc văn
hóa văn nhân - ả đào, võ sĩ- geisha, ta cũng phần nào hiểu được khả năng tiếp
biến văn hóa của người Việt và người Nhật giai đoạn trung cận đại.
Cùng tiếp thu
tư tưởng của Nho giáo Trung Hoa, nhưng Việt Nam và Nhật Bản có
sự khác nhau. Để tiếp thu cách quản lý tập quyền của Nho giáo, Việt
Nam thì rập khuôn, ngay cả giai đoạn Trịnh Nguyễn
phân tranh, chính quyền cũng dựa trên chỉ một bộ máy trung ương- triều Lê,
nghĩa là bộ máy quan chế của ta hoàn toàn giống như Trung Quốc. Còn
ở Nhật Bản thì theo một hướng khác. Thời trung đại, Nhật Bản đã
có 300 lãnh chúa cát cứ, đứng đầu là một lãnh chúa mạnh nhất Mạc
Phủ kiêm tể tướng, một đại tướng quân- shogun chứ không phải một bộ máy quan liêu như ở nước ta. “Vì không có bộ
máy quan liêu nên nó không dựa vào kẻ sĩ mà phải dựa vào võ sĩ, không có đẳng
cấp sĩ phu mà chỉ có thứ bậc võ sĩ”.
Ngoài Nho giáo, ả đào và
geisha có chung ảnh hưởng Đạo giáo và tín ngưỡng thờ vật linh. Khởi thủy, geisha là những
con đồng ở phái thần đạo, tiêu biểu cho chủ nghĩa khoái
lạc - cũng đeo vàng dát ngọc, cũng tin thần linh, bất cứ nhà geisha nào cũng có mèo
xứ, sành hay một con cáo - thần Inari, họ tin rằng cáo chạy nhanh sẽ mang những lời cầu khẩn của họ lên
trời mau hơn. Ả đào thì thờ Thanh Xà đại vương và Mãn Đường Hoa công chúa (Đinh
Lễ - Bạch Hoa) và các vị thần của Đạo giáo như Đông Phương Sóc, Lã Đồng Tân…
Bên cạnh đó, phần
lớn các loại hình nghệ thuật ả đào và geisha đều tiếp thu cảm nghiệm của Phật
giáo. Nghệ thuật hát ả đào lấy cảm hứng chủ đạo từ triết lý của nhà
Phật. Nhiều loại hình nghệ thuật geisha sử dụng như: trà đạo, hoa đạo, hương
đạo, thư pháp… cũng nằm trong trường ảnh hưởng của Phật giáo Thiền tông.
Cái đẹp của ả
đào và geisha cũng ít nhiều tiếp thu từ cái nhìn mỹ học Trung Hoa, một hệ thống quan điểm về nghệ thuật làm đẹp của nữ giới theo hai
hướng mỹ cảm: trau chuốt cầu kỳ đến mức điêu luyện; theo cái đẹp tự nhiên chân
chất, mộc mạc nhưng sâu xa, ý vị.
Về mặt này thì Nhật Bản có ưu
thế hơn Việt Nam vì tính duy mỹ là văn hóa truyền thống lâu đời của Nhật. Trong Cổ
sự ký (Kojiki), huyền tích về thuở hồng hoang Nhật,Thái dương thần nữ Amaterasu là nữ thần của ánh sáng và sắc đẹp. Geisha được miêu tả cụ thể với hình tượng người con gái có làn da
trắng xóa như búp bê sứ, đôi môi đỏ chót rực rỡ và đôi chân mày cong vút thanh
mảnh đầy duyên dáng. Trang phục kimono: mùa nào các geisha cũng phải thắt
lưng (obi) bằng tấm lụa thêu rực rỡ quấn mấy vòng quanh
bụng và buộc nút sau lưng, trông như đeo cái trống cho nên còn gọi là nơ trống.
Cho thấy, geisha có cả một nghệ thuật trang điểm và làm tóc.
Ở Việt Nam, cái đẹp của ả đào
chỉ mang tính ước lệ tổng hợp qua mấy câu thơ của văn nhân xưa (khuyết danh): “Mặt tròn thu
nguyệt / Mắt sắc dao cau / Vào - duyên khuê các / Ra - vẻ hồng lâu / Lời ấy gấm
- Miệng ấy thêu - Tài lỗi lạc chẳng thua nàng Ban, Tạ / Dịu như mai / Trong như
tuyết - nét phong lưu chi kém bạn Vân - Kiều”. Trang phục “đầu vấn khăn,
mặt tô son, điểm phấn, tóc bỏ đuôi gà, mặc áo năm thân dài quá gối, màu xanh
điểm hoa (có khi dùng màu khác), cài khuy bên phải, quần dài đen chấm gót như
các tố nữ trong tranh tứ bình...”. Trong lúc diễn xướng, làm trò, ấn tượng ả đào để lại cho người xem là sự trang nghiêm, trông có vẻ thụ động, có
phần âm tính hơn geisha.
Cái đẹp của ả
đào tương quan với cái đẹp của geisha.
Ả đào
|
Geisha
|
||
Ngoại hình
|
Tiếp thu mỹ học Trung
Hoa
|
Xu
hướng tự nhiên chân chất, mộc mạc nhưng sâu xa, ý vị
|
Xu
hướng trau chuốt cầu kỳ, điêu luyện, khắc vàng, vẽ nét
|
Vẻ đẹp tổng quan
|
Như
tranh dân gian giản dị, cổ điển dễ gần
|
Như
búp bê sứ
giả
tạo, xa vời, xa xỉ
|
|
Trang điểm
|
Hài
hòa, chỉnh chu
|
Công
phu, cách điệu (hát tuồng, mặt nạ, tóc giả)
|
|
Trang phục
|
Áo
dài và áo tứ thân ( bình dân)
|
||
Cử chỉ, điệu bộ
|
Thụ
động, ít động tác, ít dùng phi ngôn ngữ
|
Dịu
dàng, uyển chuyển, mềm dẻo, nhiều động tác và phi ngôn ngữ
|
|
Nội hình
|
Đức tính
|
Giỏi
chịu đựng
|
Khéo
chiều chuộng
|
Nhận thức
|
Cảm
tính
|
Lý
tính, thực dụng
|
|
Nghệ thuật
|
Thể loại
|
Đơn
nhất: ca trù
|
Đa
dạng: nhạc, thơ, văn, múa, trà đạo, cắm hoa, thư pháp…
|
Múa & nhạc cụ
|
Giản
tiện: múa bài bông, nhạc cụ: đôi phách
|
Phong
phú: múa cây tùng, cây bách, anh đào… nhạc cụ: đàn, sáo, trống…
|
|
Kỹ năng
|
Chuyên
sâu
|
Bao
quát, tổng hợp
|
|
Kết luận
|
Thiên
về cái đẹp truyền thống
|
Kết
hợp cái đẹp truyền thống và hiện đại, hơi đặc biệt, tạo sự thu hút, hiếu kỳ
|
Văn hóa tận dụng của geisha là tiếp
thu các lợi thế của văn hóa Âu- Mỹ và phát huy nghệ thuật truyền thống để thu
hút khách, phô trương sự lịch lãm, sang trọng. Chương
trình Tokyo Rose thời Thế chiến II dùng giọng nữ tuyệt vời đã làm chao đảo tinh
thần quân đồng minh. Kiharu Nakamura, một geisha nổi tiếng nhất với biệt danh geisha duy nhất nói
được tiếng Anh, trở thành cầu nối về văn hóa giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ. nhiều nghệ sĩ và ngôi sao thể thao thế giới đã từng thưởng thức
tài nghệ múa hát của Kiharu. Bà cũng chính là nguồn cảm hứng để Cocteau viết
nên bài thơ Geisha.Vấn đề mặc quốc phục cũng là
một biểu hiện giữ gìn bản sắc của ả đào và geisha. Ngoài nghệ thuật, hình
thức cũng là một cách thể hiện văn hóa cổ truyền: người hát trong trang phục truyền thống sẽ khác biệt rất nhiều
so với người hát ăn mặc Âu phục.
Sự quan tâm ngày càng cao đối
với geisha và ngoại hình đặc biệt của họ đã khơi lên nhiều hiện tượng văn hóa
đại chúng ở cả Nhật Bản và phương Tây. Gần đây nhất là phong cách trang điểm
kiểu geisha được đề xướng sau thành công và sự nổi tiếng của tiểu thuyết Hồi
ức của một geisha và bộ phim cùng tên. Ca sĩ
Madonna xuất hiện trên video âm nhạc Nothing Really Matters (1999) trong trang phục kimono cách điệu với trang điểm đậm màu
như một geisha.
Ở Việt Nam,
không có văn hóa tận dụng này, nguyên nhân chính là do tầng
lớp trí thức theo xu hướng hoài cổ không nhiều. Những năm sau 1945, Mỹ ném bom
vào xóm Khâm Thiên (Hà Nội), Nguyễn Tuân đã gọi đó là “hành động cư xử thô bạo
với tiếng hát ả đào”. Suốt những năm chiến tranh chống Mỹ, tiếng
hát ả đào tưởng bị lãng quên, thập niên 80 (TK XX), tiếng
hát ả đào mới được Trần Văn Khê giới thiệu ra quốc tế, đào nương Quách Thị Hồ
mang vinh quang về cho đất nước với bằng danh dự của UNESCO, các nhà nghiên cứu
dân tộc nhạc học trên thế giới bắt đầu bị mê hoặc bởi giọng ca độc đáo này. Có
thể nói, ca trù được thế giới biết đến nhờ tiếng hát ả đào Quách Thị Hồ trực
tiếp hoặc gián tiếp qua đĩa CD đầu tiên mà UNESCO phát hành có tên ca trù.
Đối phó với làn sóng Âu Mỹ hóa,
bào mòn văn hóa truyền thống, chính quyền Việt Nam cũng như Nhật Bản có hai
cách: cách tiêu cực là cấm hẳn nghề ả đào và geisha, cách tích cực hơn là tìm
việc làm mới cho những nghệ nhân, nghệ giả này, đưa họ vào hệ thống quản lý,
xem như một nét văn hóa cần bảo tồn. Cũng như ả đào, geisha cũng chịu áp đặt bởi văn hóa Âu
Mỹ mà sản phẩm chính là khiêu vũ.
Phản ứng cá nhân trước thời
cuộc, các ả đào Việt Nam chọn con đường mai danh ẩn tích, đi làm thuê… trở về
với công việc nhà nông là nguồn gốc xuất thân của họ. Trong nhận thức, ả đào
hành động theo cảm tính phụ nữ Việt Nam giặc đến nhà đàn bà cũng
đánh. Lịch sử đã ghi nhận những chiến công của các ả đào như nàng ca
nhi Đào Đặng lập mưu giết giặc Minh, các ả đào hạt Quảng Yên phá súng thần công
giặc... Còn geisha thì không tham gia chiến đấu, nhưng họ nhận thức bằng lý
trí. Họ biết phát huy ưu điểm là sự cầu kỳ, giỏi thích nghi, khéo chiều chuộng,
xa xỉ, khó gần (chỉ có giới quý tộc và doanh nhân mới trả nổi cái giá rất đắt
để được gặp geisha). Nhưng điều đó lại càng khiến geisha trở nên hấp dẫn tính hiếu kỳ của mọi người hơn. Văn hóa Nhật còn
cho geisha cái đặc quyền được lựa chọn đối
tượng phục vụ. Vì người Nhật ưa thực tế hơn và sẵn sàng dẹp bỏ tính tự tôn để
thích nghi với tình huống mới. Lối ứng xử này mang đặc trưng rất geisha.
Văn hóa ả đào và văn hóa geisha
là hiện tượng có thật, đã từng tồn tại trong lịch sử hai nền văn hóa Việt -
Nhật. Đó là văn hóa giải trí, hiểu đơn giản là hình thức mượn
tiếng mỹ nhân để thưởng ngoạn nghệ thuật.
Là hiện tượng văn hóa nghệ
thuật, đồng thời cũng là hiện tượng xã hội, Ả đào và geisha vừa sống trong môi
trường chính trị xã hội hiện hữu vừa sống trong môi trường văn hóa dân tộc, trở
thành hình tượng văn hóa của mỗi quốc gia.
Cần phân biệt rõ sự lựa chọn
nào của ả đào và geisha là văn hóa và sự lựa chọn nào là phi văn hóa... để
có cái nhìn khách quan và nhân văn khi đánh giá ả đào và geisha. Từ đó, hai bên
có cách quản lý văn hóa tích cực, giúp phát huy bản sắc văn hóa truyền thống
của mỗi dân tộc.
Hiện tại ở Việt Nam và Nhật Bản
còn rất ít những ả đào và geisha thực thụ có được thành công như những gì mà tổ nghề của họ đã gây
dựng nên. Thế giới văn hóa tao nhã của ả đào và geisha đang có xu hướng bị thu hẹp, ít mang tính truyền thống hơn để thay
vào đó những hình thức giải trí phục vụ số đông. Cũng ít ai bận tâm đến văn hóa
truyền thống của hai hình tượng này còn gì là bản sắc, có gì là tiếp biến văn
hóa hay không. Chính vì vậy, nét sâu sắc, ý vị của ả
đào và nét huyền bí của geisha cần phải được khai thác ở nhiều góc độ.
NGUYỄN HOÀNG
ANH TUẤN
Trả lờiXóaeva airline vietnam
giá vé máy bay eva đi mỹ
phong ve korean air
mua vé máy bay đi mỹ giá rẻ
săn vé máy bay giá rẻ đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Ngẫu Hứng Du Lịch
Kien Thuc Du Lich