Hàn Mặc Tử (1912-1940)
Từ miền nhân sinh tới cõi thiên linh
Trong bài viết “Kỷ niệm 100
năm ngày sinh nhà thơ Hàn Mạc Tử: Giới thiệu Bộ Sưu tập Thơ Công giáo "Có
một Vườn thơ Đạo" trên trang web HĐGMVN và cả trên trang web Công Giáo
Viêt Nam ngày 24/05/2012 [1], Lm Trăng Thập Tự giới thiệu: “Ngày
22-9-2012 tới đây sẽ là kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Hàn Mạc Tử. Đây là một
niềm vui cho giới Công giáo vì nhà thơ được công chúng biết đến rộng rãi nhất
và được thương mến nhiều nhất này là một tín hữu Công giáo trẻ, chết lúc mới 28
tuổi”.
Theo Lm Trăng Thập Tự, Bộ
Sưu tập Thơ Công giáo CÓ MỘT VƯỜN THƠ ĐẠO, gồm 4 quyển trong đó quyển 1 “nói
riêng về Hàn Mạc Tử, tập trung vào mảng thơ đạo của nhà thơ”.
Lm Trăng Thập Tự nhận xét: “Hiện
nay giới văn học vẫn còn ngộ nhận trầm trọng về thơ đạo của Hàn Mạc Tử. Với những
bài viết của một số tác giả Công giáo sắp xếp có hệ thống, quyển 1 của bộ sách
mong sẽ giúp độc giả có được cái nhìn chính xác và sâu xa hơn, tiếp cận với
tinh thần đạo hạnh và cả kinh nghiệm tâm linh sâu thẳm đáng kinh ngạc của nhà
thơ trẻ tuổi”.
Phần mình, chúng tôi hân hạnh
đóng góp một góc nhìn về tinh thần sống đạo của nhà thơ Hàn Mạc Tử (hay Hàn Mặc
Tử [2]) trong nỗi đau bệnh cùi và những dòng thơ
đạo của ông như sau đây.
HÀN MẶC TỬ
(1912-1940)
Từ miền nhân sinh tới cõi
thiên linh
HÀN MẶC TỬ, người thanh niên
28 tuổi ốm yếu, bệnh hoạn, chết khi đang mang bệnh hủi [3] ở trại cùi Qui Hòa, Qui Nhơn, Bình Định,
nhưng thơ ông và tên của ông vẫn sống mãi với đời, trong lòng người Việt Nam
cũng như trên văn đàn và lịch sử dân tộc.
Năm 2012, nhân kỷ niệm 100
năm ngày sinh của thi hào yểu mệnh này, chúng tôi xin ghi lại một số nét đặc
thù thơ văn ông viết về những đớn đau ông đã trải nghiệm với chứng bệnh cùi bất
hạnh của ông. Ở đó, chúng ta sẽ thấy ông không một lời than trách số phận,
không một lời trách móc Đấng Tạo Hóa. Trái lại, lời thơ của ông toàn là những lời
tán tụng Thiên Chúa, vinh danh Đức Giêsu và ngợi khen Đức Mẹ Maria Thánh Nữ Đồng
Trinh.
Đôi dòng tiểu sử
Hàn Mặc Tử chính tên là Nguyễn
Trọng Trí – FranÇois Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22-9-1912 bởi một
gia đình Công giáo tại làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình, sau đó theo cha mẹ dời
cư về các vùng Sa Kỳ, Bồng Sơn, Qui Nhơn thuộc tỉnh Bình Định. Thân phụ là Nguyễn
Văn Toản mất sớm (1926) lúc Trí lên 14 tuổi, Trí được mẹ– bà Nguyễn
Thị Duy, và anh cả – Nguyễn Bá Nhân, dạy dỗ.
Nhời sự dìu dắt của anh Nhân
(bút hiệu Mộng Châu), Trí bắt đầu làm thơ Đường Luật, xướng họa với anh. Chọn
bút hiệu Minh Duệ Thị, rồi Phong Trần.
Năm 1928, Nguyễn Trọng Trí
đi học Trường trung học Pellerin của các Thầy Dòng La San tại Huế và thôi học
trở về Qui Nhơn năm 1930. Hai năm sau, đi làm ở sở Đạc điền Qui Nhơn, bắt đầu
có thơ đăng ở các báo Tiếng Dân và Phụ nữ Tân văn. Bút hiệu Lệ
Thanh.
Năm 1935 (23 tuổi), vào Sài
Gòn sống cuộc sống lãng du, phụ trách trang văn chương báo Sài Gòn, viết cho
các báo Công Luận, Tân Thời và Đông Dương tạp chí. Bút hiệu Hàn
Mạc Tử hay Hàn Mặc Tử xuất hiện từ dạo đó để sau này trở thành bất
tử.
Năm 1937, xác định mình bị
phung cùi, Hàn Mặc Tử cố ẩn mặt, cắt đứt quan hệ với bạn bè, tuy vẫn
tiếp tục làm thơ gửi cho báo, hoặc tập hợp thành tập, như: Thơ Điên sau
gọi là Đau Thương (1938), Xuân Như Ý và Thượng
Thanh Khí (1939).
Năm 1940, đang say sưa viết Cẩm
Châu Duyên (gồm một số bài thơ và hai vở kịch thơ Duyên Kỳ Ngộ, Quần
Tiên Hội), Hàn Mặc Tử phải vào nhà thương phung Qui Hòa ngày
20-9-1940, chưa đầy ba tháng thì mất ngày 11-11-1940 sau khi lãnh nhận các Bí
Tích sau hết.
Văn nghệ sĩ đương thời và hậu
duệ đánh giá thơ văn Hàn Mặc Tử
Từ năm 1940, thơ Hàn Mặc
Tử đã được một số người chú ý tới. Khen có, chê có. Nhưng càng về sau,
càng đọc thơ Hàn Mặc Tử, người ta càng thấy thấm nguồn thơ và hồn thơ của
anh. Và rồi cả công luận lẫn giới văn học đều nhìn nhận Hàn Mặc Tử là
bậc thiên tài độc đáo nhất trên diễn đàn thi ca Việt Nam.
Người ta ca tụng thơ tình của
anh, ngợi khen thơ lãng mạn của anh, tán dương những vần thơ điên, thơ loạn của
anh. Có người – như Thế Phong [4], vinh danh anh là nhà thơ siêu thoát.
Có người – như Vũ Ngọc Phan [5], tung hô anh là nhà thơ Việt Nam đầu tiên
đưa tôn giáo mình, đức tin của mình vào thơ.
Trọng Miên coi thi sĩ
là bậc “thiên tài tử vì đạo đã truyền sang cho ta những rung động đê mê, những
thanh thoát vô cùng, những say sưa điên dại” [6].
Hoài Thanh còn quả quyết: “Với
Hàn Mặc Tử... thơ chẳng những để ca tụng Thượng đế mà cũng để nối người ta với
Thượng đế để ban ơn phước cho cả và thiên hạ”[7]
Đặng Tiến dành trọn một
bài dài đăng trên tạp chí Văn ở Sài Gòn chứng minh “Đức Tin Trong Hồn Thơ Hàn Mặc
Tử”[8]
Nhà văn Công giáo Phạm Đình
Khiêm có viết một tiểu luận thần học mang tên “Linh Hồn Hàn Mạc Tử” do Nhà văn
Võ Long Tê giới thiệu, được Lm Thi sĩ Trăng Thập Tự cong bố năm 2010. Trong lời
giới thiệu, ông Võ Long Tê ghi lại chính lời Hàn Mặc Tử tâm sự với ông Bùi Tuân
như sau: “Bao giờ tôi cảm thấy mình đau đớn, trong xác thịt và trong tâm hồn,
và nhất là tôi thấy mình bình tĩnh trong sạch thì mới làm ra những bài thơ đạo
hạnh. Không phải lúc nào mình cũng làm được lối thơ ấy.”
Nguồn cảm hứng thần nghiệm
Chúng tôi không nghĩ là Hàn
Mặc Tử đóng vai nhà “minh giáo” hay muốn làm việc truyền giáo trong khi
làm thơ. Hàn Mặc Tử chắc chắn không hề có mục đích khoác áo thừa sai
cho thơ ca của mình. Ông làm thơ là vì “hồn ông trào từ ngọn bút” và rồi
ngòi bút ông cứ thoăn thoắt chạy, tuôn ra những lời thơ mà kẻ phàm trần không bắt
kịp. Chính bản sắc và giá trị thơ ông chuyên chở sứ mạng giới thiệu những nét
thâm sâu của đạo thay ông. Phải chăng nguồn cảm hứng thần nghiệm (mystic
experience) đã dẫn dắt Hàn Mặc Tử đúc kết nên những vần thơ “siêu
thoát” tuyệt diệu?
Chuyện ông Gióp trong Kinh
Thánh
Xin phép dừng lại đây giây
phút để chúng ta cùng hồi tưởng câu chuyện một nhân vật trong Kinh Thánh Cựu Ước: Chuyện
ông Gióp.
Sách ông “Gióp” là một
thiên thi ca linh ứng. Thiên thi ca này thuật lại câu chuyện một người có tên
là Gióp, giàu có, đông con, đông của, đông gia súc, đông người hầu hạ, và cũng
được coi là một tấm gương công chính, thánh thiện. Bỗng dưng, tai họa bất ngờ dồn
dập phủ xuống ông và cả nhà ông. Hết cướp bóc tới thiên tai đã nhanh chóng đẩy
ông Gióp vào tình trạng mất người, mất của đau thương tang tóc. Cả con cái và
gia nhân của ông lần lượt theo nhau mà chết, kẻ thì bị cướp giết hại, người thì
bị cuồng phong làm sập nhà, đè chết... Cuối cùng, tới phiên chính ông Gióp rơi
vào thảm trạng của “chứng ung nhọt ác tính từ bàn chân cho tới đỉnh đầu. Ông ngồi
giữa đống tro, lấy mảnh sành mà gãi” (Gióp 2, 7-8), khiến ông Gióp thốt lên lời
than thân thiểu não:
Hơi thở tôi khiến vợ tôi ghê
tởm,
Mùi hôi thối xông ra
Làm cho anh em tôi gớm ghiếc,
Thậm chí tôi bị bọn nhãi
ranh chế giễu...
Đến kẻ mến thương tôi cũng
trở mặt với tôi (Gióp 19, 17-19)
Có người sẽ cho rằng thật là
gượng ép nếu mang một câu chuyện Kinh Thánh ra mà so sánh với những gì xảy ra
cho một người Việt bình thường thời hiện đại. Dầu vậy, đọc bệnh hủi của thi sĩ
Hàn Mặc Tử qua ngòi bút và những dòng thơ của chính ông, chúng ta không thể
không liên tưởng tới ông Gióp trong Kinh Thánh. Hay ngược lại, mỗi lần đọc truyện
ông Gióp, ai đã từng đọc thơ Hàn Mặc Tử sẽ không thể nào không nghĩ tới
chứng cùi hủi đáng thương của nhà thơ.
Não nùng tâm trạng người mắc
bệnh hủi
Bản thân Hàn Mặc Tử cũng đối
diện với nỗi bất hạnh không kém ông Gióp. Cái bệnh cùi hủi của họ Hàn có
lẽ cũng làm cho anh xông lên “mùi hôi thối... làm cho anh em gớm ghiếc” và
xa lánh.
Hàn Măc Tử khác ông Gíóp ở
chỗ Hàn chưa vợ, chưa con. Hàn không phải không có thân nhân, bạn bè, nhưng do
bệnh hoạn, Hàn cố tình lánh mặt mọi người, kể cả song thân và anh chị em ruột của
mình. Dầu vậy, là con người, Hàn cũng có một quả tim rung động, cũng ấp ủ những
mối tình thầm kín và chắc chắn cũng ước mơ về một cuộc sống hạnh phúc gia đình
như bao nhiêu người khác. Nhưng rồi trong cơn khốn cùng, chàng lại nhìn thấy cả “bến
mộng tân hôn” của mình cũng bị “sóng buồn” vây phủ tràn lan.
Chàng đau khổ đến phát điên, “khóc cười nức nở” đến nỗi “héo
don”:
Và sóng buồn dâng ngập cả hồn
Lan tràn đến bến mộng tân
hôn
Khóc cười nức nở nơi đầu miệng
Là nghĩa trời ơi, nghĩa héo
don! (Sầu vạn cổ)
Tiếng nức nở của Hàn
Măc Tử có lẽ không khác tiếng nức nở của ông Gióp bao nhiêu. Có khác chăng
là ở chỗ tiếng khóc nức nở của Hàn thì hòa quyện vào tiếng cười lạc quan thanh
thản của chính anh, trong khi tiếng nức nở của ông Gióp lại vang thành tiếng
“gào thét” não nuột vì kinh hoàng sợ hãi, nỗi kinh hoàng phát xuất từ những lo
nghĩ về “trăm điều phiền muộn”:
Bánh tôi ăn chỉ là tiếng nức
nở,
Tiếng tôi gào thét tựa nước
lũ ngập tràn.
Những gì làm tôi kinh hoàng
sợ hãi
Nay đã đến rồi.
Những gì khiến tôi rụng rời
khiếp sợ
Nay ập xuống trên tôi.
Tôi chẳng được thư thái yên
hàn
Tôi hết được nghỉ ngơi
Vì trăm điều phiền muộn
(Gióp 3, 24-26)
Hàn Măc Tử ngược lại, “không
nói không rằng, nín cả hơi”. Cùng lắm là buồn thầm, khóc vụng, chứ không
than thân trách phận như ông Gióp:
Thân tàn ma dại đi rồi
Rầu rầu nước mắt bời bời ruột
gan! (Muôn năm sầu thảm)
Ông Gióp rên rỉ tuyệt vọng:
Thịt tôi chai ra, dòi bọ lúc
nhúc,
Da tôi nức nẻ, máu mủ đầm
đìa.
Ngày đời tôi thấm thoát hơn
cả thoi đưa,
Và chấm dứt không một
tia hy vọng (Gióp 7, 5-6)
Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn
bút
Mỗi lời thơ đều dính não cân
ta
Bao nét chữ quay cuồng như
máu vọt
Như mê man chết điếng cả làn
da (Rướm máu).
Ông Gióp thất vọng đến hoảng
hốt “thà chết” và chết thảm bằng “treo cổ hơn là sống lây lất”:
Chẳng thà bị treo cổ,
Chẳng thà phải chết
Hơn là sống lây lất, da bọc
xương (Gióp 7, 15)
Hàn Mặc Tử vẫn giữ thái
độ bình tĩnh thản nhiên, có khi còn thách thức cả đau thương:
Cứ để ta ngất ngư trong vũng
huyết
Trải niềm đau trên mảnh giấy
mong manh
Đừng nắm lại nguồn thơ ta
đang siết
Cả hồn ta trong mớ chữ rung
rinh (Rướm máu)
Trải niềm đau trên những
dòng thơ
Gióp phân trần tự biện minh
và trách móc, lắm lúc bị cám dỗ đổ lỗi cho Đấng Chí Tôn về tất cả những đắng
cay chua xót ông gánh chịu:
Con phạm tội có hề chi đến
Ngài?
Lạy Đấng dò xét phàm nhân!
Sao Ngài cứ đặt con làm bia
để bắn?
Phải chăng con đã nên gánh nặng
cho Ngài?
Người vùi dập tôi trong cơn
giông bão,
Lại vô cớ bắt tôi chịu thêm
nhiều thương tích.
Ngài chẳng để tôi kịp thở,
Mà lại dìm tôi trong bao nỗi
đắng cay (Gióp 9, 17-18)
Hàn Mặc Tử thì không
như vậy. Nỗi đau của chàng là một nỗi đau đầy “khoái lạc” từ niềm tin phó thác,
đến nỗi trong khi cầu nguyện, chàng ọc ra máu mà cứ cho rằng mình đang ọc sữa, ọc
thơ:
Đương cầu xin ọc thơ ra dường
sữa,
Ta ngất đi trong khoái lạc của
hồn đau
Trên chín tầng điêu động cả
trân châu. (Đêm xuân cầu nguyện)
Ông Gióp nhìn nhận: “Sau khi
da tôi đây bị tiêu hủy, tôi sẽ được nhìn ngắm Thiên Chúa” (Gióp 19, 26). Và rồi
ông cam kết với Chúa:
Bao lâu tôi còn chút hơi thở,
Bao lâu sinh khí Thiên Chúa
còn ở trong tôi,
Môi tôi sẽ không nói điều xảo
trá,
Và lưỡi tôi không thốt lời dối
gian (Gióp 27, 3-4)
Còn thi sĩ họ Hàn, trong cơn “khoái
lạc của hồn đau”, đã cảm thấy từ ngòi bút mình đến cả lòng trí lẫn miệng
lưỡi mình như cùng đồng thanh vang lên tâm tình tri ân, ngợi khen và chúc tụng
trong khi tay nắm chặt cây nến nguyện cầu mà cứ ngỡ như “trong tay nắm một
nạm hào quang” và cảm thấy “no nê” ơn mưa móc bởi Trời:
Bút tôi reo như châu ngọc đền
vua;
Trí tôi hớp bao nhiêu là khí
vị...
Và trong miệng ngâm câu ca
huyền bí
Và trong tay nắm một nạm hào
quang...
Tôi no rồi ơn võ lộ hòa chan (Xuân
như ý)
Ông Gióp tỉnh cơn mê muội để
nhìn thấy hồng ân và dung nhan Đấng Tối cao qua một cuộc thị kiến:
Từ phương bắc, xuất hiện
một vừng sáng huy hoàng.
Thiên Chúa đầy oai phong lẫm
liệt,
Người là Đấng Toàn Năng, ta
chẳng sao vương tới,
Người cao cả, vì Người hùng
mạnh và công minh.
Người quyền năng, vì Người
chính trực, nhưng chẳng áp bức ai.
Vì thế mọi phàm nhân đều
kính sợ Người... (Gióp 37, 22-24)
Hàn Mặc Tử trong cơn đau thể
xác tuy không được thị kiến như ông Gióp, nhưng có lẽ cũng đã được dẫn dắt vào
cõi thiên linh hầu như… tương tự. Tuy nhiên, thay vì như ông Gióp thấy nét uy
nghi của Đấng Toàn Năng, Hàn Mặc Tử lại nhìn thấy phép tắc (quyền uy) của Đấng
Vô Thỉ Vô Chung qua những hình nét thiên nhiên đầy thi vị:
“Ôi! Trời hạo nhiên! Đây
không phải do phép tắc mầu nhiệm của Đấng Vô thi Vô chung?
Đưa ra nào là nhạc thơm,
hương gấm, mộng ngọc, và trinh bạch, đàn ly tao, tranh tuyệt phẩm...
Đưa ra nào là gió ly biệt,
trăng đoàn viên, chim tứ chiếng, mây giang hồ, và nào trời thanh sắc, bông nhũ
hương, niềm mộc dược.
Vẫn chưa bưa, chưa đã, chưa
nguôi được chí muôn sao!” (Xuân như ý).
Xung phong làm thi sĩ của đạo
quân Thánh giá
Từ sự chiêm ngưỡng quyền
năng nhiệm mầu của Đấng Vô thỉ Vô chung”, Hàn Mặc Tử mạnh mẽ hiên ngang tự nhận
mình là “thi sĩ của đạo quân Thánh giá”:
Đây, thi sĩ của đạo quân
Thánh giá
Nửa đêm nay vùng dậy để tung
hô
Để sớt cho cả xuân, xuân
thiên hạ
Hương mến yêu là lộc của lời
thơ (Nguồn thơm – Xuân như ý)
Ông Gióp cuối cùng nhìn lại
mình và nói lên lời thống hối thảm thiết:
Trước kia, con chỉ biết về
Ngài
Nhờ người ta nói lại.
Nhưng giờ đây, chính mắt con
chứng kiến.
Vì thế, điều nói ra con xin
rút lại,
Trên tro bụi, con sấp mình
thống hối ăn năn (Gióp 42, 5-6)
Hàn Mặc Tử cũng ăn năn
sám hối và cầu xin ơn tha thứ, nhưng không phải chàng thống hối vì đã trót nói
lời xúc phạm tới Đấng Chí Tôn, mà là xin ơn tha thứ cho những câu thơ tội lỗi:
Tôi van lơn thầm gọi Chúa
Giêsu
Ban ơn xuống cho mùa xuân
hôn phối
Xin tha thứ những câu thơ tội
lỗi
Của bàn tay thi sĩ kẻ lên
trăng (Xuân như ý).
Ca tụng Mẹ... bằng hoa hương
sáng láng
Có lẽ nhờ tấm lòng khiêm
cung sám hối cũng như tâm tình hoàn toàn phó thác mà Hàn Mặc Tử đã được
ơn linh ứng đặc biệt cả trong nguồn thi cảm lẫn trong thị kiến siêu phàm mà ít
ai trên cõi đời này được ban cho.
Thử nghe lại một đoạn thơ của
bài thơ Thánh Nữ Đồng Trinh Maria, ta có cảm tưởng như thể ơn xuất thần đã
thực sự thấm nhập vào hồn nhà thơ khiến anh tuôn ra những dòng thiên thi siêu
thoát:
Như song lộc triều nguyên ơn
phước cả,
Dâng cao dâng thần nhạc sáng
hơn trăng
Thơm tho bay cho đến cõi
thiên Đàng
Huyền diệu biến thành muôn
kinh trọng thể
Và tổng lãnh Thiên Thần quỳ
lạy Mẹ
Hương xông lên lời ca ngợi
sum hòa
Trí miêu duệ của muôn vì rất
thánh...
Hỡi Sứ thần Thiên Chúa
Gabriel
Khi Người xuống truyền tin
cho Thánh nữ,
Người có nghe xôn xao muôn
tinh tú?
Người có nghe náo động cả
muôn hoa?
Người có nghe thơ mầu nhiệm
ra đời
Để ca tụng – bằng hoa hương
sáng láng,
Bằng tràng hạt, bằng Sao Mai
chiếu rạng,
Một đêm xuân là rất đổi anh
linh. (Xuân như ý).
Nhận định về lòng sùng kính
Đức Mẹ của nhà thơ Hàn Mặc Tử qua bài thơ Ave Maria, nhà văn Phạm Đình Khiêm quả
quyết, Hàn Mặc Tử “không chỉ là một đứa con hiếu thảo của Mẹ, ông còn tỏ
ra là một tông đồ nhiệt thành và một thiên thần thi nhân của Mẹ có lòng thương
xót. Không gì bằng kiệt tác Ave Maria say sưa tình yêu và hy vọng, và bởi
âm điệu du dương lôi cuốn mọi tâm hồn hướng về Mẹ thiên quốc, và bởi ngôn ngữ
như thêu hoa, dệt gấm nó sánh được với nhạc khúc của các Thiên Thần …”
Vươn lên tới cõi thiên linh
Trong đớn đau, Hàn Mặc Tử
không khóc lóc van nài, không kêu ca oán trách, trái lại tỉnh táo nguyện cầu bằng
tất cả tâm tình tri ân, chúc tụng:
Cho tôi thắp hai hàng bạch lạp
Khói nghiêm trang sẽ dâng
lên tràn ngập
Cả Hàn Giang, cả màu sắc
thiên không
Lút trí khôn và ám ảnh hương
lòng
Cho sốt sắng, cho đê mê nguyền
ước... (Xuân Như Ý)
Hoặc:
Sáng vô cùng, sáng láng cả mọi
miền,
Không u ám như cõi lòng ma
quỷ,
Vì có Đấng Hằng Sống hằng ngự
trị,
Nhạc thiêng liêng dồn trỗi
khắp hư linh! (Ngoài vũ trụ)
Một phế nhân bệnh cùi như
Hàn Mặc Tử bị chôn sâu cuộc đời trong cô đơn tăm tối và đớn đau triền miên cả
thể xác lẫn tinh thần, luôn đối diện với tử thần, “run như run thần tử thấy
long nhan”, vậy mà trước mắt anh, trên môi miệng anh lúc nào cũng tràn ngập
ánh sáng, thần nhạc, nhạc thiêng, muôn hoa và tinh tú... Và huyền diệu biết
mấy
Đang khi mầu nhiệm phủ ban
đêm
Có thứ gì rơi giữa khoảng im
Rơi tự thượng tầng không khí
xuống
Tiếng vang nhè nhẹ dội vào
tim! (Huyền ảo)
Khi trích dẫn những dòng thơ
trên của Hàn Mặc Tử, nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Phan vốn là một người không
Công giáo đã phải buột miệng thốt lên: “Tình tứ đến thế là cùng, cảm động
đến thế là cùng. Một người mang bệnh rất đau đớn mà có tâm thần thư thái, bình
tĩnh như thế, thật cũng lạ!”[9]
Để kết thúc bài này, xin mượn
nhận định của Hoài Thanh, tác giả cuốn “Thi Nhân Việt Nam”, là nhà phê bình văn
học tên tuổi (cũng không Công Giáo), phát biểu như sau: “Hàn Mặc Tử đã dựng
riêng một ngôi đền để thờ Chúa... Lòng tôi [dù] có dửng dưng, trí tôi làm sao
không ngợp vì cái vẻ huy hoàng sang trọng, lung linh, huyền ảo của lâu đài kia [đền
thờ Chúa]? Có những câu thơ đẹp một cách lạ lùng, đọc lên như rưới vào hồn một
nguồn sáng láng”[10]
[3] Một
số tài liệu cho biết, Hàn Mặc Tử bệnh hủi, nhưng không chết vì bệnh hủi mà chết
vì kiết lỵ cấp tính.
Lê Thiên
& Lê Tinh Thông
Trả lờiXóahãng eva air có tốt không
vé máy bay đi mỹ một chiều
hãng korean air
đại lý bán vé máy bay đi mỹ
vé máy bay đi canada tháng nào rẻ nhất
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Ngẫu Hứng Du Lịch
Kien Thuc Du Lich