Đi vào cõi Thiền trong Thi
ca là đi vào cõi mênh mông bạt ngàn, trùng trùng điệp điệp của muôn vàn cảm
xúc. Ngôn ngữ của Thiền trong Thi ca bất luận sử dụng theo một cấu trúc nào nó
vẫn luôn hàm chứa những triết lý siêu việt, vượt ra ngoài cảm quan và tri giác
của cuộc sống đời thường. Tính Thiền trong Thi ca là một dạng ngôn ngữ được sử
dụng như là một công cụ tìm kiếm chân lý, hay nói cách khác là lịch nghiệm nó bằng
sự rung động của trái tim hơn là để hiểu nó.
Nói về Thi ca và Thiền, Tuệ
Sỹ viết: “… Muốn cho lời thơ tuyệt diệu thì phải là không gò ép vừa không vừa
tĩnh. Tĩnh cho nên thâu tóm hết mọi vọng động; không cho nên bao hàm vạn cảnh.
Ngắm nhìn sự đời bôn ba giữa đời mà như thấy mình nằm trên chóp đỉnh non cao. Đủ
hết mặn nồng, chua chát trong đó có cái hương vị tuyệt vời.
… Đạt tới cõi thượng thừa của thơ, như người học thiền chứng chỗ không tịch của Đạo; cái đó vừa khó, vừa dễ. Học Thiền ba mươi năm đày đoạ thâm tâm mà không thành. Phẫn chí bỏ đi, bất chợt thấy một cánh hoa rơi, cõi không tịch cũng hốt nhiên, đột ngột mở ra chỗ ảo diệu đó.” Vì thế, tính Thiền trong Thi ca luôn ẩn chứa những tư tưởng uyên áo, thậm thâm vi diệu.
… Đạt tới cõi thượng thừa của thơ, như người học thiền chứng chỗ không tịch của Đạo; cái đó vừa khó, vừa dễ. Học Thiền ba mươi năm đày đoạ thâm tâm mà không thành. Phẫn chí bỏ đi, bất chợt thấy một cánh hoa rơi, cõi không tịch cũng hốt nhiên, đột ngột mở ra chỗ ảo diệu đó.” Vì thế, tính Thiền trong Thi ca luôn ẩn chứa những tư tưởng uyên áo, thậm thâm vi diệu.
Thử đọc bài thơ của Thiền sư
Từ Đạo Hạnh (1072 - 1117) bàn về triết lý Có Không (hữu không) thâm u viễn viễn
đầy thuyết phục:
“Tác hữu trần sa hữu
Vi không nhất thiết không
Hữu không như thủy nguyệt
Vật trước hữu không không.”
Vi không nhất thiết không
Hữu không như thủy nguyệt
Vật trước hữu không không.”
(Có thì có tự mảy may
Không thì cả thế gian này
cũng không
Kìa xem bóng nguyệt lòng
sông
Bằng sự quán chiếu tu tập
sâu sắc về triết lý Tánh Không, Thiền sư đã trực ngộ được bản thể của vũ trụ
nhân sinh là thâm diệu mà ngôn ngữ thế gian không thể diễn đạt hết nghĩa lý sâu
xa, nó chỉ có thể “thực chứng” với nổ lực của tự thân.
Vì tự tại vô ngại với vạn
pháp mà Thiền sư nhìn hoa rơi mà chẳng thấy xuân tàn, nhìn lá vàng rơi mà chẳng
thấy mùa thu úa màu. Mãn Giác Thiền sư (1052 – 1096) trong “Cáo Tật Thị Chúng”
đã cho chúng ta diện mạo của một mùa xuân miên viễn như thế:
“Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.”
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.”
(Xuân ruổi trăm hoa rụng
Xuân tới, trăm hoa cười
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua, sân trước một nhành mai.)
Xuân tới, trăm hoa cười
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua, sân trước một nhành mai.)
Sanh, trụ, dị, diệt hay
xuân, hạ, thu, đông là quy luật tuần hoàn tất yếu của vũ trụ, nhưng qua cái
nhìn “vô ngã tính” và cách chuyển tải triết lý Phật giáo bằng ngữ điệu Thi
ca của Thiền sư, bài thơ đã trở nên bất hủ.
Cứu cánh của Thiền là “đốn
ngộ”, là đưa hành giả trở về với “Bản lai diện mục”. Cho nên, dù chỉ là những
câu thoại đầu đơn giản hay những bài kệ, câu thơ ngắn gọn nhưng cũng có thể trở
thành chiếc bè để đưa hành giả sang bên kia bờ giác ngộ.
Chỉ là chuyện đói thì ăn,
khát thì uống thôi mà Trần Nhân Tông (1258 – 1308), sơ tổ Thiền phái Trúc Lâm,
đã chỉ cho chúng ta một “công án” Thiền trong bài “Kệ Vân” (bốn câu cuối của
“Cư Trần Lạc Đạo Phú”):
“Cư trần lạc đạo thả tùy
duyên,
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên.
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.”
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên.
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.”
(Cư trần vui đạo hãy tùy
duyên,
Đói cứ ăn no, mệt ngủ liền.
Báu sẵn trong nhà thôi khỏi kiếm,
Vô tâm trước cảnh hỏi gì thiền.)
Đói cứ ăn no, mệt ngủ liền.
Báu sẵn trong nhà thôi khỏi kiếm,
Vô tâm trước cảnh hỏi gì thiền.)
Thơ Trần Nhân Tông vừa mang
tính chất uyên bác thâm u của một Thiền sư, vừa mang tính chất dân dã nên dễ đi
vào lòng người. Từ sự thực nghiệm sâu sắc về Thiền đi đến một đời sống tâm linh
đầy phóng khoáng, không gò bó bởi hình tướng của thế gian. Đọc bài thơ “Nguyệt”
ta mới cảm nhận sự rung cảm đầy chất lãng mạn của Ngài:
“Bán song đăng ảnh mãn sàng
thư,
Lộ trích thu đình dạ khí hư,
Thụy khởi châm thanh vô mích xứ,
Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ.”
Lộ trích thu đình dạ khí hư,
Thụy khởi châm thanh vô mích xứ,
Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ.”
(Đèn song chếch bóng, sách đầy
giường,
Đêm vắng, sân thu lác đác sương,
Thức dậy tiếng chày đâu chẳng biết,
Trên cành hoa quế, nguyệt lồng sương.)
Đêm vắng, sân thu lác đác sương,
Thức dậy tiếng chày đâu chẳng biết,
Trên cành hoa quế, nguyệt lồng sương.)
Nhìn thấy trăng trong giọt
sương lung linh huyền ảo giữa đêm khuya thanh vắng chỉ có Thi sĩ và Thiền sư mới
nhìn được. Khách thể là trăng, chủ thể là thi nhân. Cả chủ thể lẫn khách thể
đang gặp nhau trong cuộc tồn sinh phiêu phong bạt ngàn vô tận.
Trăng trong thơ Lý Bạch thì
khác, ông u uẩn trong trăng niềm cô liêu khắc khoải về một quê hương xa xăm vời
vợi. Bài thơ “Tĩnh Dạ Tứ” thể hiện điều đó:
“Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương.”
Nghi thị địa thượng sương
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương.”
Cái chếch choáng mờ ảo giữa
màn đêm, hồn thơ Lý Bạch đã bay bỗng lâng lâng vào cõi mộng ảo bao la đất trời.
Ở đây trăng là sương hay sương là trăng? Hay như cuộc đời mộng thực, tỉnh mê mờ
ảo?
Hàn Mặc Tử thì điên với
trăng trong thống ẩm cuồng ca:
“Trăng! Trăng! Trăng! Là
Trăng, Trăng Trăng!
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Không bán đoàn viên, ước hẹn hò…
Bao giờ đậu trạng vinh qui đã
Anh lại đây tôi thối chữ thơ.…
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Không bán đoàn viên, ước hẹn hò…
Bao giờ đậu trạng vinh qui đã
Anh lại đây tôi thối chữ thơ.…
Tôi đang cầu nguyện cho
trăng tôi
Tôi lần cho trăng một tràng chuỗi
Trăng mới là Trăng của Rạng Ngời
Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng!”.
(Trăng Vàng Trăng Ngọc)
Tôi lần cho trăng một tràng chuỗi
Trăng mới là Trăng của Rạng Ngời
Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng!”.
(Trăng Vàng Trăng Ngọc)
Trăng trong Thi ca có khi là
cái đẹp trong sáng hồn nhiên, nhưng cũng có khi là giọt lệ chia ly, là tiếng hờn
lưu lạc, là chứng nhân cho nội tâm đắng cay, sầu khổ.
Tô Đông Pha không thổn thức
trong trăng mà nghẹn ngào trong đêm mưa buồn thanh vắng:
“Thềm vắng, đêm mưa, buồn da
diết
Nghẹn ngào cô quạnh khóc ai đây.”
Nghẹn ngào cô quạnh khóc ai đây.”
Hay như Tuệ Sỹ một mình bước
đi heo hút cô liêu trên đỉnh tuyết để tìm lại hồn mình trong “dấu tích hoang đường”:
“Ai tóc trắng đìu hiu trên đỉnh
tuyết
Bước chập chùng heo hút giữa màn sương
Viên đá cuội mấy nghìn năm cô quạnh
Hồn tôi đâu trong dấu tích hoang đường.”
Bước chập chùng heo hút giữa màn sương
Viên đá cuội mấy nghìn năm cô quạnh
Hồn tôi đâu trong dấu tích hoang đường.”
Trong cuộc phiêu bồng lang
thang từ mấy nẻo luôn hồi, thi nhân cảm nhận cuộc sống như là một cuộc chơi. Vũ
Hoàng Chương ngậm ngùi:
“Ta còn để lại gì không?
Kìa non đá lở nọ sông cát bồi,
Lang thang từ độ luân hồi
U minh nẻo trước xa xôi dặm về.”
Kìa non đá lở nọ sông cát bồi,
Lang thang từ độ luân hồi
U minh nẻo trước xa xôi dặm về.”
Bùi Giáng cứ ngỡ dạo gót trần
gian chơi một chút rồi đi, nhưng “Có ngờ đâu ở mãi đến bây giờ.” Và cuộc chơi
đó vẫn đến hồi kết:
“Rồi tôi cũng phải xa tôi
Đời tài hoa cũng xa xôi ven trời.”
Đời tài hoa cũng xa xôi ven trời.”
Trịnh Công Sơn xem cuộc đời
như hạt bụi trong cuộc tồn sinh rong chơi lữ thứ…
“Hạt bụi nào hóa kiếp thân
tôi
Để một mai vươn hình hài lớn dậy
Ôi cát bụi tuyệt vời
Mặt trời soi một
kiếp rong chơi…”
Thiền sư và Thi sĩ tuy đi
hai con đường nhưng chung một hướng. Thiền sư đi tìm sự chứng ngộ tâm linh, còn
thi sĩ đi tìm cái đẹp trong muôn trùng cảm xúc bao la bạt ngàn của con người và
vũ trụ vạn hữu.
Thơ và Thiền gặp nhau trong
cảm nhận tri thức và trực giác. Thiền không thể dùng ngôn ngữ để diễn đạt, mà thơ
cũng không thể dùng lời để diễn đạt hết xúc cảm của nội tâm. Thơ là “Thi thị khả
giảng bất khả giảng chi gian” có nghĩa là thơ có cái giảng và có cái không thể
giảng được. Thơ và Thiền nằm trong cái siêu nhiên đó. Cho nên, những bài thơ
tuy là thơ thiền nhưng vẫn phóng khoáng. Phạm Thiên Thư trong tập thơ “Đưa em
tìm động hoa vàng” có đoạn viết:
“Mùa xuân mặc lá trên ngàn
Mùa thu mặc chú bướm vàng tương tư
Động Nam Hoa có Thiền sư
Đổi kinh lấy rượu tâm hư uống tràn.”
Mùa thu mặc chú bướm vàng tương tư
Động Nam Hoa có Thiền sư
Đổi kinh lấy rượu tâm hư uống tràn.”
Khi Thiền sư đủ bản lĩnh để
đổi kinh lấy rượu rồi là thong dong “thõng tay vào chợ”, “kỵ ngưu quy gia”, giải
thoát và giác ngộ.
Thiền sư Ngốc Tử muốn lên
cõi Niết Bàn vẫn thương cho người ở lại:
“Tim này ví xẻ làm đôi
Nửa dâng cúng Phật chao ôi còn nàng?
Lung linh dưới ánh trăng vàng
Như lai Điều ngự trên làn tóc em.”
Nửa dâng cúng Phật chao ôi còn nàng?
Lung linh dưới ánh trăng vàng
Như lai Điều ngự trên làn tóc em.”
Như Lai là Điều Ngự, điều ngự
cũng có nghĩa là về ngự trên làn tóc em. Trong em, Thiền sư nhìn thấy được thấp
thoáng có bóng dáng của Như Lai dưới ánh trăng vàng lung linh huyền ảo.
Hai câu thơ sau của Thiền sư
Thiện Quang cũng mang Từ bi tâm của công hạnh Bồ tát:
“Ta sợ khi ta thành chánh quả
Nghìn năm chẳng thấy dấu chân em.”
Nghìn năm chẳng thấy dấu chân em.”
Ta là Thiền sư biết chuyển
hóa tự thân, đoạn trừ khổ đau, đạt đến cảnh giới Niết Bàn vẫn thương cho em cứ
mãi rong ruỗi trôi dạt trong biển sanh tử luân hồi.
Tính Thiền trong Thi ca
không chỉ là những triết lý siêu việt, ngôn ngữ huyền ảo mà cũng có lúc phóng
khoáng với một tinh thần lạc quan, yêu đời.
Cuộc đời chúng ta như những
“Con chim ở trọ trần gian, con cá ở trọ trong khe nước nguồn…”, thắc mắc làm chi
bến nọ bờ kia.
Dù sao ta cũng phải cám ơn
trần gian tạm bợ này như nhà thơ Bùi Giáng:
“Ta cám ơn trần gian này lắm
lắm
Nhờ nơi đây ta biết được vui sầu.”
Nhờ nơi đây ta biết được vui sầu.”
Và vẫn biết rằng “Luân Hồi
Có Nhau” như nhà thơ Thái Tú Hạp:
“Ta về tịch mặc ngàn hoa
Lá cao vút đẫm mây qua đỉnh trời
Nhân gian dành trọn cuộc chơi
Ta cùng em hát bên đồi xuân xưa
Nhất quán rồi - mộng mai sau
Tâm vô lượng mở - có nhau luân hồi
Cảm ơn thơ, cảm ơn đời
Trăm năm nhật nguyệt, đầy vơi nghĩa tình”.
Lá cao vút đẫm mây qua đỉnh trời
Nhân gian dành trọn cuộc chơi
Ta cùng em hát bên đồi xuân xưa
Nhất quán rồi - mộng mai sau
Tâm vô lượng mở - có nhau luân hồi
Cảm ơn thơ, cảm ơn đời
Trăm năm nhật nguyệt, đầy vơi nghĩa tình”.
Tính Thiền trong Thi ca vượt
ra ngoài ngôn ngữ của thế gian, vượt ra ngoài luận lý của con người, chỉ có thể
cảm nhận nó bằng sự rung cảm của tâm hồn.
eva airlines
Trả lờiXóavé máy bay đi mỹ mùa nào rẻ nhất
hãng hàng không hàn quốc
vé máy bay từ sài gòn đi mỹ
Vé máy bay đi canada
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Ngẫu Hứng Du Lịch
Tri Thuc Du Lich