Einstein - Cuộc đời và sự
nghiệp
Albert Einstein sinh ngày 14-3-1879 tại Ulm, miền Wurtemberg, nước Đức. Cái tỉnh nhỏ bé này không mang lại
cho Albert một kỷ niệm nào cả vì năm sau, gia đình Einstein đã di chuyển tới
Munich. Sống tại nơi đây được một năm, một người em gái của Einstein ra chào đời
và từ đó không có thêm tiếng trẻ thơ nữa. Chủ gia đình, ông Hermann Einstein là
người lạc quan, tính tình vui vẻ. Còn bà mẹ, bà Pauline Koch, đã tỏ ra có óc thẩm
mỹ ngoài bản tính cần cù, tế nhị. Bà hay khôi hài và yêu thích âm nhạc.
Vốn dòng dõi Do Thái nhưng
gia đình Einstein lại sinh sống như người Đức vì tổ tiên của họ đã sinh cơ lập
nghiệp tại nước Đức lâu đời. Các phong tục Do Thái cũ đều còn lại rất ít, trong
khi tôn giáo bao giờ cũng là thứ mà họ giữ gìn. Vào các ngày lễ riêng của đạo
Do Thái, nhóm dân này thường cử hành các buổi lễ theo nghi thức cổ truyền.
Ngoài ra, cứ vào ngày thứ năm, gia đình Einstein thường mời một sinh viên Do
Thái nghèo túng đến dùng cơm rồi cùng nhau nhắc nhở lại các điều răn trong
Thánh Kinh.
Munich,
thành phố mà Albert Einstein đã sống trong thời thơ ấu, là trung tâm chính trị
và văn hóa của nước Đức tại miền nam. Ông Hermann đã mở tại thành phố này một
cái xưởng nhỏ về điện cơ. Ông có một người em là kỹ sư điện nhiều kinh nghiệm,
hai anh em cùng góp sức vào việc khai thác nguồn lợi: anh trông nom về mặt giao
dịch buôn bán còn em cai quản phần kỹ thuật chuyên môn.
Từ ngày lọt lòng mẹ, cậu
Albert chẳng có gì khác hơn những đứa trẻ thông thường. Cậu chậm biết nói đến nỗi
lên 3 tuổi mà còn bập bẹ tiếng một khiến cho cha mẹ tưởng cậu bị câm. Hai ba
năm sau, Albert vẫn còn là đứa trẻ ít nói, rút rát, thường lánh xa mọi đứa trẻ
cùng phố. Cậu ít bạn và không ưa thích đồ chơi. Đoàn lính bằng chì của cha tặng
cho cũng không làm cậu vui thích, điều này quả là khác thường bởi vì xứ sở này
phải gọi là quê hương của những đoàn quân thiện chiến, của các tướng lãnh lừng
danh như Bismarck, như Von Moltke. Cách giải trí mà cậu ưa thích là hát khe khẽ
các bài thánh ca khi dạo mát một mình ngoài cánh đồng. Einstein đã sống trong
tình thương của cha mẹ và bên cạnh người chú tài ba. Chính nhờ ông này mà
Einstein có được các khái niệm đầu tiên về Toán Học.
Thời bấy giờ tại nước Đức,
các trường tiểu học không phải do chính phủ mở ra mà được các giáo hội phụ
trách. Tuy theo đạo Do Thái nhưng ông Hermann lại cho con theo học một trường
tiểu học Thiên Chúa giáo, có lẽ ông muốn con mình về sau này sinh sống như một
đứa trẻ Đức. Einstein đã theo dần các lớp tiểu học mà không hề cảm thấy mình là
một đứa trẻ khác đạo. Tại trường học, Albert Einstein không tỏ ra xuất sắc. Bản
tính rút rát và ưa tư lự của cậu khiến cho các bạn thường chế riễu cậu là người
mơ mộng.
Năm lên 10 tuổi, Albert
Einstein rời trường tiểu học vào Gymnasium tức là trường trung học Đức. Việc học
của các thiếu niên Đức từ 10 tới 18 tuổi đều do Gymnasium quyết định và cho
phép lên Đại Học hay bước sang các ngành kỹ thuật. Tại bậc trung học, học sinh
phải học rất nhiều về tiếng La-Tinh và Hy Lạp. Kỷ luật nhà trường rất nghiêm khắc,
các giáo sư thường độc đoán và xa cách học sinh. Sống tại một nơi có nhiều điều
bó buộc như vậy, Albert Einstein cảm thấy khó chịu. Có lần cậu nói: “tại bậc tiểu
học, các thầy giáo đối với tôi như các ông Thượng Sĩ, còn tại bậc trung học,
giáo sư là các ông Thiếu Úy”. Sự so sánh này làm nhiều người liên tưởng tới đội
quân của Vua Wilhelm II, với các ông Thượng Sĩ là những người thô tục và tàn bạo
còn sĩ quan thường ưa thích uy quyền, lại tỏ ra bí mật và quan trọng.
Từ thuở nhỏ, Albert Einstein
đã yêu thích học hỏi về Vật Lý. Cậu còn nhớ khi lên 5 tuổi, cha cậu cho cậu một
chiếc địa bàn. Chiếc kim lúc nào cũng chỉ về một hướng làm cho cậu bé này thắc
mắc, suy nghĩ. Lớn lên, Einstein ưa thích đọc các loại sách Khoa Học. Chàng
sinh viên Do Thái tới ăn cơm vào ngày thứ năm đã khuyên Einstein đọc bộ sách
“Khoa Học Phổ Thông” của Aaron Bernstein. Nhờ cuốn này mà Einstein hiểu biết
thêm về Sinh Vật, Thực Vật, Vũ Trụ, Thời Tiết, Động Đất, Núi Lửa cùng nhiều hiện
tượng thiên nhiên khác.
Về Toán Học, không phải nhà
trường cho cậu các khái niệm đầu tiên mà là gia đình và ông chú ruột đã chỉ dạy
cho cậu rõ ràng hơn các giáo sư tại Gymnasium. Nhà trường đã dùng phương pháp cổ
điển, cứng rắn và khó hiểu bao nhiêu thì tại nhà, chú của cậu lại làm cho cách
giải các bài toán trở nên vui thích, dễ dàng, nhờ cách dùng các thí dụ đơn giản
và các ý tưởng mới lạ.
Năm 12 tuổi, Albert Einstein
được tặng một cuốn sách về Hình Học. Cậu nghiền ngẫm cuốn sách đó và lấy làm
thích thú về sự rõ ràng cùng các thí dụ cụ thể trong sách. Nhờ cuốn này, cậu học
được cách lý luận phân minh và cách trình bày thứ tự của một bài tính. Do đó, cậu
hơn hẳn các bạn về môn Toán. Vì được cha mẹ cho học đàn vĩ cầm từ khi lên 6 tuổi
nên càng về sau, Einstein càng yêu thích âm nhạc và cảm thông được vẻ trong
sáng và bay bướm trong các nhạc phẩm của Mozart. Năm 14 tuổi, Albert Einstein
đã được dự vào các buổi trình diễn âm nhạc và nhờ vậy, cậu thấy mình còn kém về
kỹ thuật vĩ cầm.
Đời sống tại nước Đức càng
ngày càng khó khăn. Vào năm 1894, ông Hermann đành phải bán cửa hàng của mình rồi
sang Milan, nước Ý, mở một cơ xưởng tương tự. Ông để con trai ở lại nước Đức
theo nốt bậc trung học, vì chính nơi đây sẽ cho phép con ông bước lên bậc Đại Học.
Vốn bản tính ưa thích Tự Do, Albert Einstein cảm thấy ngạt thở khi phải sống tại
Gymnasium. Rồi quang cảnh ngoài đường phố nữa: vào mỗi buổi chiều, khi đoàn
lính đi qua, tiếng trống quân hành đã kéo theo hàng trăm đứa trẻ. Các bà mẹ Đức
thường bế con đứng xem đoàn thanh niên trong bộ quân phục diễn qua, và ước mơ của
các thiếu nhi Đức là một ngày kia, chúng sẽ được đi đứng hiên ngang như các bậc
đàn anh của chúng. Trái với sở thích chung kể trên, Albert Einstein lại rất
ghét Quân Đội, rất ghét Chiến Tranh. Về sau này, có lần Einstein đã nói: “Tôi hết
sức kinh rẻ kẻ nào có thể vui sướng mà đi theo nhịp quân hành, nếu họ có một khối
óc thì quả là nhầm lẫn rồi, một cái tủy xương sống là đủ cho họ”.
Nền kỹ nghệ phát triển rất
nhanh tại nước Đức đã khiến cho con người hầu như quên lãng thiên nhiên. Trái lại
tại nước Ý, cảnh thiên nhiên rực rỡ và bầu trời trong sáng của miền Địa Trung Hải
đã khiến cho Einstein tin tưởng đó là thiên đường nơi hạ giới. Vì sống trong cảnh
cô đơn quá đau khổ nên nhiều lần Albert Einstein đã định bỏ trường học mà sang
nước Ý sống với cha mẹ. Cuối cùng cậu tìm đến một y sĩ và xin giấy chứng nhận
mình bị suy yếu thần kinh, cần phải tĩnh dưỡng tại nước Ý trong 6 tháng. Ông
Hermann rất bực mình khi biết con bỏ dở việc học mà theo sang Milan. Albert lại
cho cha biết ý định từ bỏ quốc tịch Đức bởi vì cậu đã chán ghét sự bó buộc của
xứ sở đó. Nhưng cuộc sống tại Milan không phải dễ dàng. Ông Hermann cũng không
quyết định cư ngụ tại nơi đây và việc xin cho Albert nhập quốc tịch Ý chưa chắc
đã thành công trong một thời gian ngắn, như vậy Albert sẽ là một người không có
tổ quốc. Ông Hermann khuyên con trai nên chờ đợi.
Thời gian sống tại nước Ý đối
với Einstein thật là sung sướng. Cậu lang thang khắp các đường phố, đâu đâu
cũng vang lên tiếng hát của người dân yêu thích âm nhạc. Cậu đi thăm rất nhiều
viện bảo tàng, và các lâu đài tráng lệ với các tác phẩm nghệ thuật đã làm cho mọi
người phải say sưa, lưu luyến. Phong cảnh của nước Ý thực là hữu tình nên đã
khiến cho con người yêu mến thiên nhiên. Người dân tại nơi đây không làm việc
như một cái máy, không sợ quyền hành, không bị ràng buộc vào các điều lệ nhân tạo
gò bó mà trái lại, tất cả mọi người đều cởi mở, vui vẻ và hồn nhiên.
Tại Milan, nghề điện đã
không giúp được cho gia đình Einstein sung túc. Ông Hermann phải bảo con trai
đi kiếm một việc làm nuôi thân. Albert tính rằng để có thể tiếp tục sự học, điều
hay nhất là cậu xin vào một trường nào cấp học bổng. Vì không tốt nghiệp từ
Gymnasium, Albert không thể nào xin lên đại học được, vả lại cậu khá về toán học
nên một trường kỹ thuật sẽ hợp với cậu hơn.
Tại châu Âu vào thời kỳ đó,
ngoài các trường kỹ thuật của nước Đức ra, trường Bách Khoa tại Zurich là nơi
danh tiếng. Trường này thuộc Liên Bang Thụy Sĩ là một nước có nền chính trị
trung lập ở châu Âu. Các sinh viên ngoại quốc nào không thể theo đuổi sự học tại
nước mình vì lý do chính trị, có thể tiếp tục sự học tại nơi đây. Vì vậy trong
trường Bách Khoa, số sinh viên nước ngoài cũng khá đông. Muốn vào trường, sinh
viên phải qua một kỳ thi tuyển. Einstein cũng nộp đơn dự thi nhưng chàng bị rớt:
chàng thiếu điểm về môn sinh ngữ và vạn vật, tuy rằng bài toán của chàng thừa
điểm. Thực vậy, sự hiểu biết của Einstein về Toán đã vượt hơn các bạn.
Sau khi thi rớt, Einstein bắt
đầu lo ngại. Cái viễn ảnh đen tối hiện lên trong trí óc chàng. Cuộc mưu sinh của
cha chàng tại nước Ý cũng gặp nhiều trắc trở. Einstein tự trách đã nông nổi bỏ
sang nước Ý và hối tiếc sự học tại Gymnasium khi trước, tuy bó buộc thực nhưng
đủ bảo đảm cho tương lai. Nhưng may mắn cho Albert, bài làm xuất sắc về Toán của
chàng đã khiến cho viên giám đốc trường Bách Khoa chú ý. Ông ta khuyên chàng
nên theo học tại một trường khá nổi danh thuộc tỉnh Aarau. Einstein tự hỏi liệu
nơi mình sẽ tới học có giống như các trường tại nước Đức không? Cái hình ảnh cũ
của ký túc xá hồi còn nhỏ khiến cho chàng sợ hãi lối sống cũ và phân vân trước
khi bước vào một nơi học mới. Bất đắc dĩ, Einstein đành phải nhận lời.
Khi tới Aarau, Einstein đã
ngạc nhiên hết sức: tất cả các điều ước đoán của chàng khi trước đều sai hết.
Nơi đây không có điều gì giống Gymnasium của nước Đức. Tinh thần của thầy trò
nơi đây khác hẳn: kỷ luật sắt không có, giáo sư cố công hướng dẫn học sinh biết
cách suy nghĩ và tự làm việc. Các bậc thầy đều là những người cởi mở, luôn luôn
tiếp xúc với học sinh, bàn bạc cùng cho họ những lới khuyên bảo chân thành.
Tinh thần học hành tại nơi đây đã theo đường lối dân chủ thì phương pháp học tập
cũng được canh tân theo đà tiến bộ. Học sinh được làm lấy các thí nghiệm về Vật
Lý và Hóa Học, được xem tận mắt các máy móc, các dụng cụ khoa học. Còn các môn
học khác cũng được giảng dạy bằng cách căn cứ vào các dẫn chứng cụ thể, rõ
ràng.
Sau một
năm theo học tại Aarau, Einstein tốt nghiệp trung học và được nhận vào trường
Bách Khoa Zurich mà không phải qua một kỳ thi nào khác. Trường kỹ thuật này đã
cho chàng các sự hiểu biết căn bản về Vật Lý và Toán Học. Ngoài ra, vào các thời
giờ nhàn rỗi, Einstein thường nghiền ngẫm các tác phẩm khoa học của Helmholtz,
Kirchhoff, Boltzmann, Maxwell và Hertz.
Càng chú tâm đọc sách Vật Lý
, Einstein lại càng cảm thấy cần phải có trình độ hiểu biết rất cao về Toán Học.
Tuy nhiên, vài giờ Toán tại trường đã không khiến cho chàng chú ý, phải chăng
do giáo sư toán thiếu khoa sư phạm? Thực vậy, ông Hermann Minkowski, Giáo Sư
Toán, đã không hấp dẫn được sinh viên vào các con số tuy rằng ông là một nhà
toán học trẻ tuổi nhưng xuất sắc. Dù sao, những ý tưởng về các định luật Toán Học
do ông Minskowski đề cập cũng đã thấm nhập ít nhiều vào trí óc của Einstein và
giúp cho chàng phát triển về môn Vật Lý sau này.
Tại nước Ý, cơ xưởng của ông
Hermann chỉ mang lại một nguồn lợi nhỏ nên Albert Einstein sống nhờ vào tiền trợ
cấp của một người trong họ. Hàng tháng chàng nhận được 100 quan Thụy Sĩ. Tuy
món tiền này quá nhỏ nhưng Einstein phải để dành 20 quan, hy vọng sau này sau
khi tốt nghiệp, chàng có đủ tiền xin được quốc tịch Thụy Sĩ. Vì cách tiết kiệm
này, chàng phải chịu cảnh thiếu thốn và không hề biết tới sự xa hoa.
Từ thuở nhỏ, Einstein đã ít
chơi đùa cùng các đứa trẻ trong xóm thì ngày nay khi sống tại trường đại học,
chàng cũng vẫn là một sinh viên dè dặt. Tuy vậy, không phải Einstein không có bạn
thân. Chàng hay tiếp xúc với Friedrich Adler. Anh chàng này là người Áo, con một
nhà lãnh tụ phe Dân Chủ Xã Hội thuộc thành phố Vienna và ông này không muốn con
trai của mình dính dáng tới chính trị nên đã gửi Adler tới Zurich theo học.
Einstein còn có một cô bạn gái rất thân: cô Mileva Maritsch, người Hung. Cô này
thường trao đổi bài vở với Einstein.
Vào năm 1901, Albert
Einstein tốt nghiệp trường Bách Khoa và cũng trở nên công dân Thụy Sĩ. Đối với
những sinh viên mới ra trường và có năng khiếu về Khoa Học thì ước mơ của họ là
làm thế nào có thể xin được một chân giúp việc cho một giáo sư đại học nhiều
kinh nghiệm rồi nhờ vậy có thể học hỏi thêm những phương pháp khảo cứu khoa học
của ông ta. Einstein cũng mong ước như thế nhưng các đơn xin đều bị khước từ.
Không xin được việc tại trường đại học, Einstein quay sang việc nạp đơn vào một
trường trung học, nhưng mặc dù có nhiều thư giới thiệu nồng nàn, mặc dù xuất
thân từ trường Bách Khoa và có quốc tịch Thụy Sĩ, Einstein vẫn không xin được
việc làm. Phải chăng người ta đã không coi chàng như một người dân chính gốc mà
chỉ là một công dân trên giấy tờ?
Chờ mãi thì phải có việc: một
người bạn của Einstein giới thiệu chàng với ông Haller, giám đốc Phòng Văn Bằng
ở Berne. Văn Phòng này đang thiếu một người thạo về các phát minh khoa học
trong khi Einstein lại chưa có một kinh nghiệm gì về kỹ thuật cả. Nhưng sau một
thời gian thử việc, Einstein được chấp nhận. Bổn phận của chàng là phải xem xét
các bằng sáng chế: công việc này không phải là dễ vì các nhà phát minh thường
là các tài tử, không biết diễn tả những điều khám phá theo thứ tự, rõ ràng.
Nhờ làm việc tại Phòng Văn Bằng,
Einstein được lãnh lương 3 ngàn quan. Cuộc sống tương đối dễ chịu khiến chàng
nghĩ đến việc hôn nhân. Einstein cưới cô bạn gái cũ là Mileva Maritsch tuy nàng
hơn chàng vài tuổi. Mileva là người có tư tưởng hơi tiến bộ lại không biết cách
sống hòa mình với các người chung quanh, vì vậy gia đình Einstein không được hạnh
phúc lắm. Ít lâu sau, hai người con trai ra đời, đứa con cả cũng mang tên
Albert như cha. Einstein đã tìm được hạnh phúc bên hai đứa con kháu khỉnh.
3- Thời kỳ khảo cứu khoa học
Sau nhiều tháng sống tại
Berne, Albert Einstein thấy rằng các công việc tại Phòng Văn Bằng càng ngày
càng trở nên dễ dàng hơn, vì vậy ông có đủ thời giờ để tâm tới môn Vật Lý Toán
Học.
Tuy Einstein ưa thích lối sống
cô đơn nhưng không phải là ông không có cảm tình với các người chung quanh. Tư
tưởng cởi mở của ông khiến cho ông có nhiều bạn. Sự vui đùa và cách châm biếm
khiến ông luôn luôn vui nhộn và đầy nhựa sống. Nụ cười hiện ra trên môi làm cho
mọi người phải chú ý đến ông. Người nào đã sống gần Einstein đều nhận thấy rằng
sự cười đùa của ông là một nguồn vui, song đôi khi nó còn là sự chỉ trích. Hình
như Einstein có cảm tình với bất cứ ai, nhưng ông lại không thích đi tới sự quá
thân mật khiến cho ông thiếu tự do. Phải chăng sự ưa thích sống cô đơn để hy
sinh hoàn toàn cho Khoa Học đã làm cho Einstein xa cách các bạn bè trong khi nội
tâm của ông lại có tình cảm với tất cả mọi người. Mãi về sau, vào năm 1930,
Einstein đã phân tích cái trạng thái tình cảm đó như sau: “vì tôi say mê sự
công bằng và nhiệm vụ xã hội nên tôi đã phạm phải một điều tương phản kỳ lạ khá
quan trọng là tôi thiếu sự hợp tác trực tiếp với mọi người. Tôi là một con ngựa
tự thắng lấy yên cương".
Tại Berne, ngoài thời giờ khảo
cứu về Toán và Vật Lý Học, Einstein còn để tâm đến Triết Học. Vài triết gia đã
giúp ông học được các nguyên tắc đại cương của phương pháp luận lý. Chính
phương pháp này cho phép các nhà bác học diễn tả những điều nhận xét trực tiếp
thành các định luật rõ ràng. David Hume, Ernest Mach, Henri Poincaré và
Emmanuel Kant thuộc vào hạng các triết gia kể trên. Còn Schopenhauer và
Nietzsche khiến Einstein chú ý vì các vị này đã phát biểu các tư tưởng đôi khi
không cần thiết, đôi khi tối nghĩa bằng các câu văn đẹp đẽ, gợi lên cho người đọc
những cảm xúc, khiến cho người ta phải mơ màng, suy nghĩ, chẳng khác gì một người
biết nhạc được thưởng thức vài khúc tiết tấu nhịp nhàng. Tuy nhiên, David Hume
(1711-1776, người Anh) vẫn là người được Einstein ưa thích nhất. Nhiều người biết
rằng triết gia gốc Anh này là người khởi xướng phương pháp luận lý thực nghiệm
và cách trình bày suy luận của ông ta thực là sáng sủa, phân minh.
Suốt trong 5 năm trường, từ
1901 tới 1905, các cố gắng tư tưởng của Einstein đã mang lại kết quả: ông đã
nghiên cứu và lập ra định luật liên kết thời gian và không gian. Vào một buổi
sáng tháng 6 năm 1905, viên chủ nhiệm tạp chí Annalen der Physik tại Munich tiếp
một thanh niên tóc đen không chải, quần áo cũ kỹ. Thanh niên đó đưa viên chủ
nhiệm một cuộn giấy 30 trang và yêu cầu đăng trên tạp chí khoa học.
Albert Einstein đã trình bày
“Thuyết Tương Đối” của mình trên tờ báo vật lý Annalen der Physik. Ông đã đề cập
đến sự tương quan của năng lượng và khối lượng bằng một phương trình lừng danh
nhất của Khoa Học: E = MC2. Nói một cách đại cương, phương trình trên có nghĩa
là năng lượng của vật chất thì bằng khối lượng nhân với bình phương tốc độ của
ánh sáng. Theo lý thuyết này, nếu người ta biết một phương pháp kỹ thuật, thì với
một cân than gỗ, hay một cân đá sỏi, hay một cân mỡ heo, người ta có thể rút ra
một năng lượng tương đương với 25 triệu triệu (trillions) kilôwatt-giờ điện lực,
nghĩa là số điện lực sản xuất thời bấy giờ của tất cả các nhà máy phát điện tại
Hoa Kỳ chạy suốt trong một tháng mà không nghỉ.
Sau khi bài khảo cứu của
Albert Einstein được phổ biến tại châu Âu, thì Henri Poincaré ở Pháp, Hendrik
Lorentz ở Hòa Lan, Max Planck ở Đức, cùng tất cả các đầu óc khoa học vĩ đại thời
bấy giờ đều sửng sốt và đã viết thư hỏi tòa báo:
- “Ai đã viết bài báo đó ? Có
phải là một giáo sư đại học không? ". Tòa báo đã trả lời:
- “Một thanh
niên Do Thái, quốc tịch Đức, 26 tuổi, giúp việc tại Phòng Văn Bằng tại Berne”.
Bài khảo cứu của Einstein đã
làm cho nhiều người thắc mắc, nghi ngờ. Vào thời kỳ đó, ít người đo lường nổi sự
quan trọng lớn lao của học thuyết Einstein nhưng dù sao, lý thuyết đó đã cách mạng
hóa quan niệm của con người về Vũ Trụ. Henri Poincaré khi đó đã viết về Albert
Einstein như sau: “Ông Einstein là một trong các đầu óc khoa học phi thường mà
tôi chưa từng thấy. Đứng trước một bài tính vật lý, ông Einstein đã không bằng
lòng với các nguyên tắc cổ điển sẵn có, mà còn nghiên cứu tất cả các trường hợp
có thể nhận được”.
Thật là kỳ lạ khi công trình
khảo cứu có giá trị lớn lao đó lại do một nhân viên xoàng của Phòng Văn Bằng phổ
biến. Người ta vội mời ông giảng dạy tại trường Đại Học Zurich. Mọi người đều
biết rằng tại các trường Đại Học, trước khi trở thành một giáo sư thực thụ, ai
cũng phải trải qua thời kỳ của một giảng sư. Einstein nhận giữ chân này theo lời
khuyên của Giáo Sư Kleiner.
Chân Giáo Sư môn Vật Lý Lý
Thuyết tại trường Đại Học Zurich bị trống. Vì vấn đề chính trị, hội đồng quản
trị đại học mời Friedrich Adler, giảng sư, lên phụ trách, nhưng Adler đã từ chối
và nói: - “Nếu có thể có một người như Einstein vào Đại Học của chúng ta thì việc
gọi đến tôi thật là vô lý. Tôi thú nhận rằng trình độ hiểu biết của tôi không
thấm vào đâu với Einstein. Chúng ta không nên vì vấn đề chính trị mà không mời
một người có thể làm cho mức hiểu biết tại bậc đại học được cao hơn". Vì vậy
vào năm 1909, Einstein được bổ nhiệm làm “Giáo Sư Đặc Cách” của trường Đại Học
Zurich.
Tuy bước lên một địa vị cao
hơn trong xã hội, nhưng lúc nào Einstein cũng thản nhiên, bình dị. Cuộc sống mới
này tuy khá hơn trước về mặt tài chính, nhưng bà vợ ông vẫn phải chứa trọ các
sinh viên để kiếm thêm tiền. Trước tình trạng vật chất còn eo hẹp đó, Einstein
đã có lần nói đùa như sau: “Trong Thuyết Tương Đối của tôi, tôi đã đặt rất nhiều
đồng hồ tại khắp nơi trong Vũ Trụ nhưng thực ra, tôi thấy không có đủ tiền mua
nổi một chiếc để đặt ngay trong phòng của chính mình”. Thời gian sinh sống tại
Zurich thật là phẳng lặng, hai ông bà Einstein cùng hồi tưởng thời sinh viên và
coi cái tỉnh này như một tổ quốc nhỏ bé, nhưng yêu dấu.
Năm 1910, Đại Học Đường thuộc
Đức tại Prague, Tiệp Khắc, thiếu một chân giáo sư vật lý lý thuyết. Đây là trường
đại học cổ nhất của miền Trung Âu. Trong hậu bán thế kỷ 19, các giáo sư Tiệp và
Đức cùng nhau giảng dạy, nhưng rồi cuộc tranh chấp chính trị đã khiến cho nhà cầm
quyền quyết định rằng từ năm 1888, trường đại học này được phân ra làm hai, một
đại học Đức, một đại học Tiệp. Sự phân chia đó đã làm cho các giáo sư và sinh
viên của hai đại học đường không liên lạc gì với nhau và còn hiềm khích nhau nữa.
Theo nguyên tắc, trường đại
học đề nghị các giáo sư vào các ghế trống, còn ông Bộ Trưởng Giáo Dục chỉ định
vị được tuyển dụng nhưng thực ra vào thời kỳ đó, quyền chọn lựa thuộc về nhà vật
lý học Anton Lampa, một người đã có công trong việc canh tân phương pháp giáo dục.
Lúc bấy giờ có 2 người đủ khả năng: Gustave Jaumann, giáo sư thuộc Viện Kỹ Thuật
Brno và Albert Einstein là người thứ hai. Theo quy luật, thứ tự các người được
chọn lựa phải căn cứ vào công cuộc khảo cứu khoa học của họ, và vì lý thuyết của
Einstein được nhiều người biết tới, Einstein được xếp lên trên Jaumann. Nhưng
cuối cùng, ông Bộ Trưởng Giáo Dục lại trao chức vụ cho Jaumann, vì ông ta không
muốn bổ nhiệm một người ngoại quốc. Jaumann từ chối. Chức vụ về tay Einstein.
Phải rời bỏ Zurich để đến một
nơi xa lạ là một điều gia đình Einstein không muốn, ông do dự nhưng cuối cùng
nhận lời. Sống tại Prague, Einstein thường gặp gỡ Ernest Mach, Viện Trưởng Đại
Học và cũng là một nhân vật nổi danh về một ngành Triết Học. Trong thời gian giảng
dạy tại Prague, ngoài việc xây dựng lý thuyết về trọng lực, Einstein còn để tâm
tới lý thuyết về Quanta ánh sáng của Max Planck. Thuyết ánh sáng truyền theo
làn sóng của Augustin Fresnel và thuyết Điện Từ của James Maxwell đã không thể
cắt nghĩa được hiện tượng Quang Điện (photoelectric effect). Einstein liền dùng
công cuộc khảo cứu của Planck vào các điều suy đoán của mình.
Vào năm 1911, một hội nghị
khoa học nhỏ được tổ chức tại Bruxelles, nước Bỉ. Người đứng ra tổ chức là nhà
triệu phú Ernest Solvay. Ông này là một kỹ nghệ gia về Hóa Chất và đã thành
công lớn. Tuy giàu có nhưng Solvay vẫn yêu thích Khoa Học và có khảo cứu chút
ít về Vật Lý. Solvay muốn được nhiều người chú ý đến công lao của mình.
Trong số các bạn, nhà triệu
phú Solvay thường giao du với Walther Nernst, một nhà hóa học danh tiếng.
Walter Nernst nghĩ đến ý thích của Solvay và đến ích lợi của Khoa Học, nên đề
nghị với nhà triệu phú chịu phí tổn cho một hội nghị gồm các nhà bác học danh
tiếng của châu Âu và các vị này sẽ bàn luận về các trở ngại của “Nền Vật Lý Mới”
rồi nhân dip này, Solvay có thể trình bày lý thuyết của mình. Ernest Solvay ưng
thuận. Hội nghị được tổ chức. Sir Ernest Rutherford đại diện cho Anh Quốc,
Henri Poincaré và Paul Langevin thay mặt cho Pháp Quốc, Max Planck và Walther
Nernst đại diện cho Đức Quốc, H.A. Lorentz là đại biểu của Hòa Lan, xứ Ba Lan
được thay mặt bởi bà Marie Curie khi đó đang làm việc tại Paris, còn Albert
Einstein đại diện cho Áo Quốc cùng với Franz Hasenohrl.
Hội nghị lấy tên là Solvay
và diễn ra trong vòng thân mật. Không ai chỉ trích lý thuyết của ông Solvay cả,
tất cả đều tránh vì muốn tỏ lòng biết ơn và lịch sự đối với chủ nhân. Ngoài ra,
trong cuộc bàn cãi, mọi người đều kinh ngạc về những ý tưởng mới lạ của
Einstein. Sau hội nghị, Solvay nhận rõ chân giá trị của buổi gặp gỡ nên về sau,
ông ta thường tổ chức các buổi họp khác mà vai chính là Einstein.
Năm 1912, sau một thời gian
sống tại Prague, Einstein lại được giấy mời giữ chân giáo sư môn vật lý lý thuyết
tại trường Bách Khoa Zurich. Trường này thuộc quyền của Liên Bang Thụy Sĩ nên rất
lớn, và những kỷ niệm của tuổi trưởng thành làm cho Einstein cũng muốn quay về
nơi chốn cũ. Hơn nữa, bà Mileva vợ ông, lại cảm thấy khó chịu khi sống tại
Prague và mong muốn trở lại Zurich, tổ quốc nhỏ bé của bà. Vì vậy Einstein cùng
gia đình rời Prague.
Sự ra đi khỏi thành phố
Prague của Einstein làm cho nhiều người xao động. Ai cũng muốn lưu giữ danh tiếng
của nhà bác học cho địa phương của mình. Các báo chí cho rằng các bạn của ông
đã ngược đãi Einstein và bắt ông xin đổi đi. Có người lại nói vì ông gốc Do
Thái, nhà cầm quyền không đối xử tử tế với ông khiến cho Einstein phải từ giã
Prague. Đúng ra, các điều kể trên trái với sự thực. Tại Prague, Einstein cảm thấy
dễ chịu và người dân nơi này với tính tình cởi mở, đã làm cho ông quý mến họ.
Tới cuối năm 1912, Albert Einstein
trở thành Giáo Sư Thực Thụ của trường Bách Khoa Zurich và mang lại danh tiếng
cho đại học này. Einstein làm việc không ngừng. Các lý thuyết mới về Toán của
các nhà toán học Ý Đại Lợi Ricci và Levi-Civita đã làm cho Einstein chú ý đến.
Ông cùng với Marcel Grossmann, một người bạn cũ, khảo cứu các phương pháp toán
học mới ngõ hầu có thể dùng cho lý thuyết về Trọng Lực.
Vào năm 1913, một hội nghị
các nhà bác học Đức được tổ chức tại Vienna. Người ta mời Einstein tới trình
bày lý thuyết về Trọng Lực của ông. Trong buổi thuyết trình này, ai cũng phải sửng
sốt về các ý tưởng mới mẻ, quá kỳ dị của Einstein. Mọi người trông chờ ở ông một
lý thuyết tổng quát, tân kỳ.
Berlin, thủ đô của nước Đức,
dần dần trở nên Trung Tâm Chính Trị và Kinh Tế của châu Âu. Hơn nữa, người Đức
còn muốn thành phố này là nơi tập trung Khoa Học và Nghệ Thuật. Riêng về Khoa Học,
muốn cho bộ môn này phát triển, cần phải có các viện khảo cứu và nhiều nhà bác
học danh tiếng. Tại Hoa Kỳ, ngoài các trường đại học ra, còn có các viện khảo cứu
được các nhà tư bản như Rockfeller, Carnegie, Guggenheim trợ giúp. Hoàng Đế
Wilhelm II cũng muốn các công chình tương tự được thực hiện tại nước mình. Vì
thế các kinh tế gia, kỹ nghệ gia và các thương gia Đức cùng nhau góp công, góp
của vào việc thành lập Viện Kaiser Wilhelm Gesellschaft. Được tuyển làm nhân
viên của Viện là một danh dự lớn lao, lại được danh hiệu Viện Sĩ, được mặc y phục
lộng lẫy và đôi khi được tham dự các buổi yến tiệc với nhà vua.
Người ta đang tìm kiếm các
nhà bác học lỗi lạc và sự chọn lựa được căn cứ theo giá trị khoa học của từng
người. Vào thời kỳ đó, Max Planck và Walther Nernst là hai nhân vật dẫn đầu về
Khoa Học của nước Đức. Hai ông này khuyên vị Giám Đốc Viện Wilhelm, ông Adolphe
von Harnack, gửi giấy mời Albert Einstein, một ngôi sao sáng đang lên của nền
trời Vật Lý Mới. Einstein cũng được Planck và Nernst khuyên nhủ nên nhận lời để
sau này có thể trở nên nhân viên của Hàn Lâm Viện Hoàng Gia Phổ, một danh dự mà
các giáo sư Đại Học Đường Berlin đều ao ước. Einstein được mời vào Viện Hoàng Đế
Wilhelm thực.
Công việc của Einstein trong
Viện sẽ là nghiên cứu theo ý riêng của mình. Ông lại được mời làm Giáo Sư Đại Học
Đường Berlin, tại nơi này công việc giảng dạy nhiều hay ít tùy ý. Việc quản trị
đại học đường cùng với việc trông coi các kỳ thi, ông sẽ không phải để tâm tới.
Einstein được hoàn toàn tự do khảo cứu.
Riêng đối với Einstein, ông
cũng phân vân trước việc trở lại Berlin. Cái xã hội đó không hợp với thâm tâm của
ông thực, nhưng địa vị cao sang sẽ giúp cho cuộc sống hàng ngày của ông dễ chịu
hơn. Nhà bác học bị giằng co giữa hai ý tưởng: quan niệm sống cho Khoa Học, cho
bản thân và ý tưởng về một chủ nghĩa xã hội hợp đạo lý. Ngoài ra tại Berlin,
Einstein còn có cô em họ, cô Elsa. Ông có gặp cô này vài lần và thấy có cảm tình
với nàng. Cuộc ly dị cách đây vài năm với cô Mileva vì bất đồng ý kiến ở vài điểm,
đã khiến Einstein nghĩ tới việc lập lại một gia đình mới. Chính điều này cũng
góp đôi phần vào quyết định của Einstein trở lại thành phố Berlin. Einstein từ
bỏ Zurich vào cuối năm 1913.
Đúng vào năm 34 tuổi, Albert
Einstein là nhân viên của Viện Hàn Lâm Berlin và tượng trưng cho một thanh niên
sống giữa các đồng viện hầu hết đều cao tuổi hơn, đều là những bậc lão thành
trong cuộc sống đại học. Những vị này thường tự cho là quan trọng, trong khi
cách cư xử của Einstein lại dễ dàng, bình dị. Tại Berlin, vài vật lý gia thường
họp với nhau để bàn luận các vấn đề Khoa Học. Trong các buổi thảo luận đó,
ngoài Einstein, Planck và Nernst ra, người ta còn thấy Max Von Laue, Jacques Franck,
Gustave Hertz, cô Lise Meitner và sau này có Erwin Schrödinger, người đã có
công về Thuyết Lượng Tử (theorie quantique).
Einstein sống tại Berlin
chưa được một năm thì Thế Chiến Thứ Nhất bùng nổ. Một số các nhà bác học thấy rằng
mình cũng phải góp phần với các chiến sĩ ngoài mặt trận. Họ liền hoạt động
trong phạm vi của họ, tức là nghiên cứu và chế tạo các dụng cụ chiến tranh.
Walther Nernst chế tạo hơi ngạt, Fritz Haber, người bạn thân của Einstein,
nghiên cứu việc điều chế ammoniac bằng cách dùng khí nitrogen rút ra từ không
khí.
Trong thời gian sống tại
Berlin này, Einstein đã gặp cô Elsa, một người em họ, một người bạn từ thuở nhỏ.
Cô này lúc bấy giờ góa chồng và có 2 đứa con riêng, song cô là người tính tình
vui vẻ, lại đảm đang. Hai người thành hôn với nhau và sống một cuộc đời tương đối
đầy đủ, nhưng hạnh phúc.
4- Hoạt động chính trị
Từ trước, Albert Einstein vẫn
ghét chiến tranh. Ông cho phổ biến các ý tưởng của mình. Einstein đã diễn thuyết
tại nhiều nơi như Hòa Lan, Tiệp Khắc, Áo, vừa giảng giải về lý thuyết vật lý, vừa
biện họ cho ý tưởng hòa bình.
Vào thời bấy giờ tại châu
Âu, các người Do Thái thấy rằng cần phải liên kết dòng giống của họ hiện đang sống
rải rác khắp bốn phương. Một phong trào phục hưng quốc gia Do Thái đang thành
hình. Vào năm 1921, Chaim Weizmann, người lãnh đạo phong trào Do Thái Tự Trị
(Zionism) có gửi giấy mời Einstein cùng sang Hoa Kỳ vận động cho việc tái lập một
quốc gia Do Thái tại Palestine. Weizmann muốn dùng danh tiếng của Einstein để
khiến các nhà triệu phú Do Thái tại Hoa Kỳ giúp tiền thành lập một trường đại học
tại thủ đô mới. Einstein nhận lời.
Khi Einstein đến New York
vào tháng 5 năm 1921, các phóng viên ùa tới chụp ảnh và phỏng vấn ông. Họ hỏi rất
nhiều về Thuyết Tương Đối của ông đến nỗi ông tưởng mình bị vào một kỳ thi vấn
đáp. Các nhà báo cũng hỏi bà Elsa xem bà có hiểu gì về lý thuyết của chồng
không, thì bà trả lời: “ồ không, tuy rằng ông Einstein đã cắt nghĩa cho tôi nhiều
lần, song sự không hiểu rõ đó không ảnh hưởng tới hạnh phúc của chúng tôi”.
Albert Einstein và vợ đi qua
đám người hiếu kỳ đứng đón tại bến tầu. Tay phải ông cầm tẩu thuốc lá, tay trái
xách chiếc đàn vĩ cầm, hình ảnh này khiến cho nhiều người tưởng lầm ông là một
nhạc sĩ tài ba đến trình diễn tại New York, mà không phải là một nhà bác học đã
làm đảo lộn quan niệm của con người về Vũ Trụ.
Tại Hoa Kỳ, Weizmann và
Einstein được tiếp đón rất trịnh trọng. Tuy hai nhân vật này chỉ đi bênh vực
cho một chủ nghĩa Do Thái, nhưng họ được coi như hai người đại diện thực sự cho
dân tộc Do Thái vậy. Einstein đã diễn thuyết tại nhiều nơi bằng tiếng Đức, vì lúc
đó ông không thạo tiếng Anh lắm. Vào ngày 9 tháng 5 năm đó, Einstein được trao
tặng văn bằng Tiến Sĩ Danh Dự của trường Đại Học Princeton và vị Viện Trưởng đã
ca tụng bằng tiếng Đức “một Christopher Columbus của Khoa Học, đã băng qua các
đại dương của tư tưởng mới lạ”. Sau khi rời Hoa Kỳ, Einstein sang nước Anh rồi
trở về Berlin vào tháng 7 năm 1921.
Cuộc hành trình của Albert
Einstein đã khiến cho sự giao hảo giữa các nhà bác học Mỹ, Anh và Đức được khả
quan hơn. Vì vậy, vài nhà bác học Pháp đã đề nghị mời Einstein sang Paris, tuy
rằng tại nơi đây, người ta chưa quên mối thù Pháp-Đức cũ. Trong số các người chủ
trương ý tưởng trên, có Paul Painlevé và Paul Langevin là hai nhà toán học.
Langevin đề nghị dùng một phần lợi tức của trường Collège de France để mời
Einstein sang Pháp. Painlevé tán thành nồng nhiệt trong khi nhiều nhà bác học
Pháp lại phản đối ra mặt.
Tại nước Đức, các nhóm tương
tự cũng muốn bắt buộc Einstein từ chối nhưng vào thời kỳ đó, cả hai nhóm trên tại
Pháp và Đức đều chưa đủ mạnh nên chưa thể ngăn trở cuộc hành trình. Einstein nhận
lời sang Pháp. Langevin cùng Charles Nordmann, một nhà thiên văn, tới Jeumont gần
biên thùy nước Bỉ, để đón Einstein. Thời đó, một nhóm thanh niên ái quốc Pháp định
tổ chức một cuộc phản đối tại nhà ga. Langevin được tin đó do cảnh sát cho biết.
Ông ta quyết định cho xe lửa chở Einstein ngừng tại một ga nhỏ, không có người
đứng đón, rồi dùng xe điện ngầm về khách sạn có ngờ đâu rằng trong khi đó, con
trai ông và các sinh viên khác đang mỏi mắt trông chờ được ngưỡng mộ nhà đại
bác học tại ga chính.
Albert Einstein tới Paris
vào ngày 22-3-1922. Ngày 31, ông diễn thuyết tại Collège de France. Chỉ những
người nào yêu thích Khoa Học và không có ý định biểu tình phản đối mới nhận được
giấy mời. Ngày hôm đó, Painlevé là người đến trước tiên và đích thân coi sóc việc
kiểm soát. Tại Đại Giảng Đường, nơi mà các đại triết gia Ernest Renan và Henri
Bergson đã từng diễn giảng hôm đó đông chật thính giả. Người ta thấy có mặt bà
Marie Curie, ông Henri Bergson và nhiều nhân vật danh tiếng. Einstein đã dùng
tiếng Pháp để thuyết trình. Giọng nói chậm chạp của ông, đôi khi lạc vào cách
phát âm của tiếng Đức, đã làm cho bài diễn giảng thêm phần quyến rũ và bí ẩn.
Sự có mặt của Einstein tại
Paris khiến cho Hàn Lâm Viện Pháp chia làm hai phe phản đối nhau, trong khi tại
nước Đức, một số nhà bác học cũng không bằng lòng. Tuy nhiên, Einstein chỉ nghĩ
đến lợi ích chung của Khoa Học và nghĩ tới sự giao hảo giữa các dân tộc trên Thế
Giới. Sau khi từ Pháp về, Einstein lại sang Thượng Hải vào ngày 15-11-1922, rồi
sang Nhật Bản và ở tại nơi đó cho tới tháng 2 năm sau mới trở lại Palestine, rồi
du lịch qua Tây Ban Nha. Khi Einstein sắp đến châu Á thì vào ngày 10-11-1922,
Hàn Lâm Viện Khoa Học Thụy Điển quyết định trao tặng ông Giải Thưởng Nobel về Vật
Lý Học.
Thuyết Tương Đối của Albert
Einstein tuy được nhiều người biết đến nhưng vào thời kỳ này sự tranh luận còn
đang sôi nổi, người ta nghi ngờ không biết lý thuyết đó có phải là một phát
minh khoa học hay không. Bởi vì Alfred Nobel quy định rằng Giải Thưởng phải được
trao tặng cho nhân vật nào đã phát minh ra thứ gì hữu ích cho Nhân Loại, nên
Hàn Lâm Viện Thụy điển đã phân vân trước công trình của Einstein về Khoa Học, rồi
sau cùng quyết định như sau: “Giải Thưởng được trao cho Albert Einstein về định
luật Quang Điện và công trình của ông trong địa hạt Vật Lý Lý Thuyết”.
Từ lâu, các nhà vật lý đều
nhận thấy rằng khi cho một loại ánh sáng có tần số đủ cao chiếu vào một miếng
kim loại đặc biệt, sẽ có một dòng điện phát ra. Hiện tượng điện học do ánh sáng
mà có này được gọi là hiện tượng Quang Điện. Lý thuyết ánh sáng truyền theo làn
sóng của Augustin Fresnel rồi Thuyết Điện Từ của James Maxwell đều không thể
cho biết căn nguyên và đặc tính của hiện tượng trên. Einstein đã dùng lý thuyết
của Max Planck về Quang Tử (quanta) dẫn vào trong định lý về ánh sáng và đặt giả
thuyết rằng trong làn sóng ánh sáng có các quang tử chứa năng lượng. Nhờ giả
thuyết này, ông đã tìm ra được định luật Quang Điện và định luật này cho phép
các nhà khoa học cắt nghĩa được các hiện tượng có bức xạ.
Vào tháng 7 năm 1923, Albert
Einstein sang Thụy Điển nhận giải thưởng và diễn thuyết trước một số đông các
nhà bác học tại Goteborg. Vua Thụy Điển cũng tới dự.
Trong năm 1925, Albert
Einstein có lần đi Nam Mỹ diễn thuyết, còn các năm sau, ông đều sống tại thành
phố Berlin. Từ tháng 3 năm 1929, gia đình Einstein bắt đầu cảm thấy khó chịu.
Einstein bị nhiều người dòm ngó và báo chí để ý, vì vậy ông quyết định rời sang
một căn nhà bên bờ sông ngoài thành phố. Thấy vắng nhà, các báo chí Đức lại
phao lên rằng ông đã sang Hòa Lan rồi sang Mỹ.
Sống tại vùng quê, Einstein
cảm thấy dễ chịu. Ông có hai sở thích: lái thuyền và chơi đàn. Ai cũng biết rằng
việc lái thuyền buồm đòi hỏi ở người thủy thủ nhiều điều hiểu biết về Cơ Học và
Vật Lý. Khéo lợi dụng chiều gió để điều khiển con thuyền đi cho đúng hướng mới
là người lái giỏi. Về điểm này, Einstein có đủ. Ông thường mang lương thực xuống
thuyền mà đi cho đến gần tối mới trở về.
Albert Einstein rất thích âm
nhạc. Âm nhạc đối với ông vừa là môn giải trí, vừa là nguồn an ủi và còn là sự
cần thiết nữa. Ông có tai nghe nhạc rất đúng và rất ưa thích các nhạc phẩm của
Mozart. Ông không có bàn tay đặc biệt của các nhạc sĩ kỳ tài, các bàn tay này
thường dài, dầy dặn, với các ngón tay thon thon, song ông chơi đàn một cách rõ
ràng, đúng nhịp, không đi trước mà cũng không bỏ qua các dấu nhạc. Trong các nhạc
cụ, Einstein ưa thích vĩ cầm. Nhiều người quý mến ông đã gửi tặng ông các nhạc
cụ do những thợ đàn danh tiếng làm, nhưng Einstein lại ưa thích cây vĩ cầm tầm
thường của Nhật Bản, hình như cây đàn này đã cho ông nhiều kết quả tốt đẹp.
Thật là may mắn cho Einstein
khi gặp được bà vợ thứ hai này: bà Elsa. Tại Berlin, Einstein lấy riêng một căn
phòng để làm việc. Không ai được phép vào đây, ngay cả vợ ông. Chính tại căn
phòng này, ông nghiên cứu và bàn luận với các bạn bè mà không sợ bị quấy rầy.
Einstein ưa thích được tự do, bất chấp cả bụi bậm và sự vô thứ tự trong căn
phòng làm việc. Hai điều này đã làm cho bà Elsa luôn luôn ân hận. Bà Elsa thường
chăm sóc chồng một cách hiếm có. Bà chỉ cho phép ông mỗi ngày hút một điếu thuốc
lá. Chính thức thì ông tuân theo kỷ luật này, nhưng trong phòng của ông lại có
một hộp thuốc do các bạn ông bỏ đầy vào. Einstein không uống rượu và không thức
khuya, sợ rằng việc làm ngày mai sẽ bị đình trệ.
Trời đã phú cho Einstein bản
tính hay cười. Không bao giờ ông quên khôi hài, ngay cả khi bị rủi ro. Có người
phàn nàn với Einstein rằng thuyết Tương Đối của ông khó hiểu quá, Einstein liền
trả lời - “Có gì là khó hiểu, chẳng hạn như khi ta ngồi cạnh người yêu thì thấy
một giờ ngắn bằng một phút, còn nếu ta ngồi trên lò lửa hồng thì một phút lại
lâu bằng một giờ”.
Một hôm, có người hỏi
Einstein:
- “Ông có chắc rằng lý thuyết của ông đúng không ?”. Einstein đáp:
-
“Tôi tin chắc rằng đúng, nhưng người đời chỉ có được dẫn chứng cụ thể vào năm
1981, khi đó tôi đã chết rồi. Khi đó nếu tôi có lý, thì tại nước Đức người ta bảo
tôi là người Đức còn người Pháp lại bảo tôi là dân Do Thái. Nếu lý thuyết của
tôi sai, thì người Đức bảo tôi là dân Do Thái còn người Pháp sẽ bảo tôi là dân
Đức".
Einstein có thể chất tốt,
tuy rằng ông bị đau dạ dầy và yếu tim. Ông có cái đầu khác thường: tất cả khối
óc hầu như được đặt tại đằng trước và gần như ông không có hậu chẩm (occiput).
Phải chăng chỉ có cái đầu không cân xứng này mới nghĩ ra được các ý tưởng khoa
học phi thường?
Vào mùa đông năm 1930,
Albert Einstein được mời tới thành phố Pasadena, thuộc tiểu bang California,
Hoa Kỳ, để diễn thuyết tại Viện Kỹ Thuật C.I.T. Trong thời gian này, Einstein
có gặp nhà bác học Robert Andrews Millikan, người đã làm cho miền California trở
nên một trung tâm danh tiếng về nghiên cứu Khoa Học. Mùa đông năm sau, Einstein
trở lại Pasedena và quay về Berlin vào mùa xuân năm 1932, lúc mà nền Cộng Hòa Đức
hấp hối. Vào tháng 3 năm 1932, Hindenbourg thắng Hitler trong cuộc tuyển cử và
trở thành Tổng Thống của nước Đức.
Cuối năm 1932, Einstein lại
sang Pasadena, Hoa Kỳ, và vào tháng 1 năm 1933, khi ông đang ở California thì
được tin Hindenbourg mời Hitler làm Chưởng Án. Hitler chủ trương thuyết quốc
gia cực đoan và là người rất căm thù dân tộc Do Thái, vì vậy Einstein đã phân
vân trước khi quay về Đức.
Einstein trở lại châu Âu vào
đầu năm 1933 và ngụ tại Ostende, nước Bỉ. Tại nước Đức, dân chúng đã bắt đầu kỳ
thị sắc dân Do Thái. Einstein không biết nên xin ra khỏi Hàn Lâm Viện Phổ hay
chờ xem Hàn Lâm Viện này loại trừ ông. Cuối cùng, ông đã xin rút tên ra để
tránh cho Max Planck đỡ phải khổ tâm trục xuất một người có công khỏi Hàn Lâm
Viện theo mệnh lệnh cuồng tín của đảng chính trị Quốc Xã.
Ít lâu sau, Hitler vu cho
Einstein chứa khí giới bất hợp pháp và gia sản của ông bị tịch biên. Hơn nữa, đảng
Quốc Xã đã treo giải thưởng chiếc đầu của Einstein với giá là 20,000 marks.
Einstein quyết định không trở lại Berlin nữa mà tìm kiến một nơi trú ẩn mới. Rất
nhiều trường đại học của châu Âu đã gửi giấy mời nhà bác học đến giảng dạy
nhưng Einstein muốn rời khỏi châu Âu. Mùa hè năm 1933, Hoa Kỳ gửi giấy mời
Albert Einstein.
5- Cuộc sống tại Hoa Kỳ
Mấy năm về trước, vào khoảng
năm 1930, ông Louis Bamberger và bà Felix Fould, theo lời khuyên của ông
Abraham Flexner, đã bỏ ra một số tiền 5 triệu mỹ kim để thành lập một Viện Khảo
Cứu và Giáo Dục. Nhờ đó, Viện Nghiên Cứu Cao Cấp (The Institute for Advanced
Study) được thành lập tại thành phố Princeton, tiểu bang New Jersey. Flexner đi
khắp châu Mỹ và châu Âu để tìm người giúp việc cho Viện. Flexner có gặp nhà bác
học R.A. Millikan và được ông này nói tới Albert Einstein. Einstein nhận được
giấy mời và đành nhận lời bởi vì thời cuộc lúc đó không cho phép ông trở lại nước
Đức.
Từ năm 1938, Otto Hahn và F.
Strassmann tại Berlin, Irène Curie và Savitch tại Paris, Lise Meitner và O.
Frisch tại Copenhague đã làm nhiều thí nghiệm chứng tỏ rằng khi bắn các nhân
nguyên tử Uranium, sẽ có một nhiệt lượng đáng kể phát ra. Rồi Enrico Fermi
thành công trong việc phá vỡ nhân nguyên tử.
Thế Chiến Thứ Hai đã bùng nổ.
Nhiều nhà bác học tại châu Mỹ lo lắng trước tình trạng tiến triển và khả năng
nguyên tử của nước Đức. Họ liền báo động các thẩm quyền quân sự Hoa Kỳ và muốn
bắt tay vào các công trình nghiên cứu nguyên tử tương tự. Nhưng cuộc vận động của
họ không mang lại kết quả nào. Vì vậy, họ đành phải nhờ tới danh tiếng của
Albert Einstein.
Vào ngày 2-8-1939, Einstein
viết thư cho Tổng Thống Franklin Roosevelt như sau: “Thời gian vừa qua, tôi được
đọc các bản thảo về những công trình khảo cứu của E. Fermi và L. Szilard. Những
công trình này khiến tôi thấy rằng chất Uranium có thể trở nên một nguồn năng
lượng mới rất quan trọng trong tương lai gần đây Nguồn năng lượng này có thể được
dùng vào việc chế tạo một loại bom cực kỳ mạnh. Tôi có đầy đủ tài liệu để quả
quyết rằng Đức Quốc Xã cũng đang tiến hành công trình trên. Mỹ Quốc phải vượt
lên về phương diện này, nếu không, nền Văn Minh sẽ bị hủy diệt”.
Nhận được thư của nhà bác học
Einstein, Tổng Thống Franklin D. Roosevelt liền chú tâm vào việc khởi thảo một
chương trình nghiên cứu Nguyên Tử Lực và Hoa Kỳ đã mở đầu một cuộc chạy đua
kinh khủng nhất trong Lịch Sử về khí giới chiến tranh. Dự Án Manhattan, tên
riêng của dự án chế tạo bom nguyên tử, được thành hình.
Vào năm 1941, Albert
Einstein nhập quốc tịch Mỹ cùng với cô Helene Dukas và người con dâu Margot.
Dukas là thư ký của Einstein. Cô ta là người thông minh, thứ tự và cương quyết.
Khi bà Elsa qua đời vào năm 1936, Dukas đã trở nên nội tướng và đảm đương công
việc trong gia đình. Tại thành phố Princeton, New Jersey, Einstein còn có một
người em gái là bà Maja, tới sống với ông từ năm 1939.
Cuộc sống tại Hoa Kỳ của
Albert Einstein thực là bình thản. Mỗi buổi sáng, ông mặc một bộ đồng phục da
màu đen và về mùa lạnh, ông đội một chiếc mũ len đan cũng màu đen giống như chiếc
mũ của một chàng lính thủy, với bộ quần áo lố lăng này, ông đi bộ chừng hai cây
số để đến nơi làm việc. Người dân của thành phố Princeton thường thấy ông đi dạo
trong vườn của Viện Nghiên Cứu từ 4 giờ sáng tinh sương, hai tay vắt sau lưng.
Cảnh tịch mịch rất cần thiết đối với ông, nhưng ông không sống như một nhà ẩn dật.
Mỗi ngày, ông nhận được hàng trăm bức thư. Đối với các bức thư viết đúng đắn,
ông đều trả lời qua đó phản ánh lòng tế nhị của ông. Có một lần, một cậu bé
không làm nổi một bài toán ra ở trường, đã gửi đầu bài và nhờ nhà bác học cắt
nghĩa giùm. Einstein vui vẻ giảng giải. Lại một lần khác, một nhà toán học trẻ
tuổi gửi đến cho ông một bài toán rất hay, giải rất đúng, nhưng trong khi tính
toán có hai chỗ lầm. Einstein biết rằng các nhà thông thái thường tự phụ, nên
ông viết thư trả lời nhà toán học kể trên và báo cho biết trong bài toán có hai
chỗ lầm, nhưng ông lại không nói rõ lầm ở chỗ nào trong bài toán.
Cũng như nhiều nhà bác học
khác, Albert Einstein không những đã tìm thấy tại Hoa Kỳ một nơi ẩn náu mà còn
tìm được một nơi làm việc và một nơi thuyết trình nữa. Trong căn phòng làm việc
tĩnh mịch, ông ngồi hàng giờ, viết các chữ rất nhỏ hay các ký hiệu toán học.
Cây viết chì và mảnh giấy là các dụng cụ xây dựng nên công trình khoa học của
ông. Ông dùng bộ óc làm phòng thí nghiệm. Khi mới gặp Einstein, ai cũng nhận thấy
rằng ngoài mớ tóc rối lộn và bộ ria rậm rạp, hai con mắt của ông có vẻ như mơ
màng nhưng khi nhìn lại chứa nhiều vẻ long lanh, tò mò và kiên nhẫn.
Albert Einstein là môn đồ của
chủ nghĩa tự do cá nhân. Mặc dù lòng tin tưởng không thể lay chuyển được nơi
Thượng Đế, Einstein cũng như nhiều nhà bác học khác vẫn là người vô thần. Vốn bản
tâm quảng đại, nhưng không bao giờ ông tham gia một tổ chức xã hội nào. Ông làm
việc cho Nhân Loại với tất cả Lương Tâm. Ông không ngừng kêu gọi các nhà bác học
khác hãy coi chừng các phát minh của họ và luôn luôn cảnh cáo mọi người về các
nguy hiểm sẽ gặp phải. Ông đã nhắc nhở nhiều lần rằng tuy Khoa Học có thể giúp
ích cho Nhân Quần Xã Hội thực, song cũng có thể quay lại cung cấp vũ khí cho kẻ
thù của Nhân Loại và đưa đến các kết quả tuyệt vọng. Einstein tin tưởng rằng sớm
hay muộn, con người có thể giải đáp được mọi thắc mắc về Khoa Học, bởi vì “Tạo
Hóa tuy huyền diệu thực, nhưng không bao giờ thâm độc cả”. Chính sự tin tưởng
này đã khiến cho ông không bao giờ mất hy vọng trong các công trình tìm tòi,
nghiên cứu. Albert Einstein quyết định hiến nốt đời mình cho việc tìm ra lý
thuyết “Trường Đồng Nhất” (Champ unitaire) cho phép liên lạc 2 thứ lực là Điện
Từ Lực và Lực Hấp Dẫn.
Albert Einstein qua đời vào
ngày 18-4-1955. Trước khi chết, ông đã viết giấy tặng bộ óc của mình cho các
nhà nhân chủng học nghiên cứu.
Trong tiền bán thế kỷ 20,
Thuyết Tương Đối của Albert Einstein đã làm thay đổi quan niệm Khoa Học thông
thường của con người và người ta chỉ gặp các cuộc Cách Mạng Tư Tưởng tương tự với
Newton và Darwin trong các thế kỷ trước. Vì thế, Đại Văn Hào Bernard Shaw đã
không nhầm lẫn khi gọi Albert Einstein là “VĨ NHÂN THỨ TÁM” của Thế Giới Khoa Học,
sau Pythagoras, Aristotle, Ptolemy, Copernicus, Galileo, Kepler và Newton.
Viet Sciences
vé máy bay eva airlines
vé máy bay đi mỹ khoảng bao nhiêu
hàng không hàn quốc
đặt vé máy bay đi mỹ
mua vé máy bay đi canada
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Ngau Hung Du Lich
Tri Thuc Du Lich