Nhà nghiên cứu phê bình Lại Nguyên Ân: Nhân
70 năm ra mắt tập thơ Điêu tàn của Chế Lan Viên, trên tạp chí Thơ,
tôi đã giới thiệu một bài viết của Chế Lan Viên, đăng năm 1938 (mà khi ấy tôi
vừa sưu tầm được), trong đó nhà thơ tác giả Điêu tàn lên tiếng đáp
lại ý kiến của nhà phê bình Trương Tửu về tập thơ này.
Phải nói rằng việc tìm thấy bài viết ấy của
Chế Lan Viên còn cho biết thêm một thông tin nữa ít ai biết: Trương Tửu đã từng
động bút đến Điêu tàn không lâu ngay sau khi tác phẩm ấy ra đời. Và
lúc vui mừng giới thiệu bài viết của Chế Lan Viên với bạn đọc yêu thơ thì tôi
cũng chưa hy vọng sớm tìm lại được các bài báo ấy của Trương Tửu.
Gần đây, nhân tìm đọc lại tuần báo
"Ích hữu", may mắn là tôi đã tìm được cả hai bài báo của Trương Tửu
về tập Điêu tàn. Bài thứ nhất nhan đề "Một thi sĩ của Điêu Tàn";
bài thứ hai nhan đề "Quan niệm về thơ của Chế Lan Viên".
...Chế Lan Viên không phải là đối tượng
công kích của ngòi bút phê bình của Trương Tửu; thơ Điêu tàn được Trương Tửu
đánh giá khả quan, nhưng một số ý tưởng trong bài tựa, - mà Chế Lan Viên cũng
như Hàn Mặc Tử, coi như tuyên ngôn của Trường Thơ Loạn, - lại khiến cảm tình ở
Trương giảm đi, hoặc, những lập luận dị thường trong tuyên ngôn kia cũng phần
nào thách thức khiếu hùng biện của nhà phê bình Trương Tửu chăng?
Cố nhiên, sự phê bình của Trương Tửu là dịp
rất tốt cho các đại diện ít ỏi của Trường Thơ Loạn lên tiếng chứng tỏ sự có mặt
của mình giữa làng thơ mà phần đông còn thấy mấy cây bút mới này là rất lạ lẫm.
Bài đáp lại của Hàn Mặc Tử thì chúng ta chưa tìm thấy, nhưng bài đáp lại của
Chế Lan Viên mà chúng ta đã đọc, ít ra đã chứng tỏ điều đó.
Trước mặt công chúng và giới nghiên cứu
ngày nay, cả Chế Lan Viên lẫn Trương Tửu đều là những sự nghiệp đã hoàn tất.
Hai bài Trương Tửu viết về Điêu tàn cũng như bài đáp lại của Chế Lan Viên chỉ
là những tình tiết nhỏ trong hành trạng của hai tác gia ấy. Song, sự hiểu biết
về cả hai tác gia ấy, nhất là tác gia Trương Tửu thì hiện còn rất khiếm khuyết;
trong tình hình ấy, thiết nghĩ, việc tìm lại những tình tiết như hai bài viết
này là sự cần thiết, không chỉ ở phương diện văn học sử.
Giới thiệu lại cùng bạn đọc những tư liệu
cách đây đã hơn bảy mươi năm, chúng tôi hy vọng chúng ta sẽ hiểu hơn tiến
trình phát triển của thơ hiện đại Việt Nam cũng như những bước đi đầu tiên
không hề đơn giản của một tài năng lớn, luôn tạo nên những niềm sửng sốt, như
nhận xét của Hoài Thanh. – Lại Nguyên Ân.
Đã có lần bàn về thơ, tôi viết:
"Mỗi vật, mỗi sự trong thiên nhiên và
trong nhân sinh đều có một lịch sử và biểu lộ một sức mạnh. Nhỏ như hột cát
mà cũng có một nguồn gốc, một biến hóa, một kết tinh của các nguyên tố. Gò
mây, gợn sóng, dãy núi, rừng cây cũng đều là kết quả của một trình tự tiến
hóa. Cái này làm quả cho cái kia để rồi lại làm nhân cho cái khác: luật không
sinh không mất chứng thực một lẽ tuần hoàn mầu nhiệm.
Trong lẽ ấy nhà khoa học muốn thấy một sức
mạnh vô ý thức, nhà tôn giáo nhận ra một Thượng đế. Thi sĩ không truy nguyên,
không biện thuyết. Thi sĩ cảm thấy ở mỗi vật một linh hồn đồng điệu. Mỗi khi
nghe một âm thanh của chim, của gió, của cây, của rừng, của suối, thi sĩ thấy
tâm hồn rung động, lào xào, ào ạt, mênh mang. Hình như giữa phím đàn trong hồn
thi nhân và cung đàn vạn vật có một giác cảm của hai nhạc điệu đồng chất. Rồi
tự nhiên, một cách dễ dàng, thi sĩ cảm thấy mỗi cảnh mỗi vật ở ngoại giới làm
nẩy nở một tình tứ trong tâm khảm.
Nghe chim ca tưng bừng ngoài vườn, thi sĩ
vui sướng như lòng mình cũng đang ca và họa theo tiếng ca của các người vui
sướng. Nghe gió rít qua kẽ lá hay sóng gầm ngoài biển, thi sĩ băn khoăn hồi hộp
như lòng mình cũng đang hò thét và nghĩ đến những phong ba của kiếp người lận
đận. Ngắm mây hồng bay trên không trung, thi sĩ thấy tâm hồn lâng lâng quên hết
những ám ảnh của trần hoàn, ước mơ đến vô tận. Ngó đống gò cỏ úa, thi sĩ
trông thấy định mệnh tàn ác và thương xót kẻ chôn mình dưới đất đen... Tóm lại,
mỗi cái trông thấy, nghe thấy đều gợi mau chóng cho thi nhân một cảm xúc mật
thiết với sự vật. Không một tính tình nào thi sĩ không cảm được, từ cái sầu của
thiếu nữ, cái nhục của kẻ nghèo, cái đau của trẻ mồ côi đến cái hăng hái của
chiến sĩ, cái hùng tráng của vĩ nhân.
Thi nhân sống ở hiện tại, sống ở dĩ vãng, sống
ở tương lai. Vai thi nhân nặng trĩu những thế kỷ. Mộng của thi nhân đầy những
lý tưởng. Tay thi nhân tung những vỗ về an ủi. Thi nhân là người của thống khổ,
của tình yêu. Thi nhân là người nhận thấy sức mạnh của sự vật, của nhân loại.
Trong thế sự tối mò, thi nhân là một bó đuốc.
Thơ là biểu thị của tinh hoa vạn vật và của
tính tình nhân loại. Thơ là lý tưởng của các thời, kết tinh của các ước vọng.
Bởi vậy nên, tuy huyền bí, nó vẫn thấm vào tim óc các hạng người. Nó là luồng
gió ở vô tận bay lại mách cho ta biết phía xa lạ ấy có những gì. Nó là bóng
ma ở dưới mồ hiện lên thì thầm với ta các chuyện quá khứ. Nó là tất cả để phô
diễn tất cả.
Thơ Việt Nam có tính cách bao quát và sâu
xa ấy không? Đã bao giờ ta thấy thi nhân Việt Nam họa tiếng rên rỉ của kẻ
nghèo khổ giữa xã hội, ca cái oanh liệt của những anh hùng trong lịch sử, hỏi
cái huyền bí của thiên nhiên? Hay thơ Việt Nam chỉ là một mớ mộng ảo phù phiếm,
một đám nét vẽ mơ hồ, một tụm cảm giác nông nổi? Vẫn biết nó tuyệt sảo trong
phạm vi nhỏ hẹp của nó. Nhưng nó thiếu.
Đâu, thơ của Thống Khổ?
Đâu, thơ của Hùng Vĩ?
Đâu, thơ của Huyền Bí?
Thiếu ba cái ấy tức là thiếu hết.
Hỡi thi nhân Việt Nam hiện đại! Hẵng rửa
cái nhục ấy cho thi ca Việt Nam!
Hát đi những cảnh đọa đầy của kẻ cơ hàn.
Hát đi những bất bình phẫn uất của người chiến bại! Hát đi những linh hồn của
vĩ nhân trong lịch sử! Hát đi những lẽ nhiệm màu của thiêng liêng!
Ngòi bút của thi nhân Việt Nam hiện đại từ
nay nên cắm vào tim rồi hẵng gạch lên giấy những vần thơ đẫm máu!"
("Tiếng trẻ" số 8, ngày
13-1-1936; bài "Định nghĩa của thơ")
Từ ngày ấy, tôi băn khoăn chờ nổi dậy trong
cái sinh lực bất tuyệt của giống nòi những nguồn thơ mãnh liệt đủ sức gây những
phong ba sôi nổi trong thi ca Việt Nam hiện đại. Tôi thâm tín rằng một thời
khoảng lịch sử bão táp của đất nước như thời khoảng này tất nhiên phải đào tạo
ra những tâm hồn bão táp biểu diễn nó bằng vần điệu tân kỳ.
Hy vọng của tôi không đến nỗi thành ảo vọng.
Tôi đã được sung sướng đọc những bài thơ
thâm trầm của Nguyễn Vỹ ca hát cảnh nhỡ nhàng đau xót của kẻ ăn mày trong đêm
khuya, cảnh tan vỡ bi đát của giọt sương tình ái dưới sức tàn phá của hơi gió
bấc, cảnh đổ nát của lâu đài thân hữu trên bờ bể.
Tôi đã được sung sướng đọc những điệu hùng
tráng lâm ly của Huy Thông hồi sinh một vài cảnh oanh linh vụn nát của những
thời kỳ oanh liệt trong lịch sử, họa bản đờn ái ân đoạn tuyệt của Ngu Cơ vào
tiếng địch ai hoài của Trương Lương réo rắt trong im lặng của đêm mờ.
Tôi đã được sung sướng đọc những vần thống
thiết đẫm lệ của Mộng Sơn than khóc cho số kiếp đọa lạc phiêu linh của những
cô hồn lang bạt bị định mệnh đánh ngã gục trên đường lữ thứ.
Tôi đã được sung sướng đọc những lời ca
hùng võ của Phạm Ngọc Khuê, phát biểu một cách gần như tuyệt đối cái tinh hoa
nhuần nhị của sức mạnh muôn loài, chủ ý lọc sạch cái bản năng thiên bẩm của
giống nòi bị vẩn đục bởi những thế tình hỗn độn.
Mỗi lần những bài thơ ấy rơi đến trước mắt
tôi, là cả tâm hồn tôi rung động một hoan lạc rồi. Tôi cảm thấy trong lọ mực
của các thi nhân kia đang bồng bột những sóng gió phi thường. Rồi từ lọ mực ấy
phát ra những luồng sống ạt ào trong trẻo, thổi lùa vào những kẽ ngạch tinh
thần u ám của xã hội hiện thời. Các thi nhân ấy đã thấm nhập linh hồn vào
linh hồn của đại thể, của xã hội đau khổ, của nhân loại tranh đấu, của tổ quốc
điêu linh. Họ sống với những cái đang sống. Họ sống với những cái đang chết.
Họ sống cả với những cái sắp sống. Nhưng trong cái sống rộng rãi và mãnh liệt
này, tôi vẫn thấy thiếu một cái gì... Một cái gì nó không gợi trong lòng ta một
cảm hoài, một thương xót, một phấn khích, một hy vọng. Một cái gì ấy chỉ gợi
cho ta cái không và cái chết (le Néant et la Mort).
Cái không, cái chết này là hai phản hình của
cái có và cái sống. Vì cái không ấy đã có, cái chết ấy đã sống. Có trong
không gian, sống trong thời gian. Cái đã có và hiện giờ không có nữa, cái đã
sống và hiện giờ không sống nữa, phải phục hưng nó lại để nó dự phần vào cái
di sản tinh thần vĩnh viễn của loài người.
Cái đã có ấy là Điêu Tàn, là Diệt Vong. Cái
đã sống ấy là Ma, là Tinh. Người có công phục hưng hai cái đó trong lòng
chúng ta là thi sĩ Chế Lan Viên.
Thơ của Chế Lan Viên là thơ của Điêu Tàn, của
Ma Tinh. Thơ của U giới. Thơ của Huyền Bí. Trong thơ ấy, Điêu Tàn hiện thành
một giống nòi. Ma Tinh hiện thành một đầu lâu. Cái giống nòi bị diệt vong bởi
luật thích dã sinh tồn chỉ còn chút đền tháp làm di tích! Cái đầu lâu bị mốc
meo trong nghĩa địa chỉ còn chút não tủy làm kỷ niệm!
Đọc Chế Lan Viên bị ám ảnh bởi cái tháp
điêu tàn và cái đầu lâu điêu tàn ấy.
Có ai thấy, một chiều thu ảm đạm, nhà thơ
thanh niên ủ rũ đi lang thang bên giòng nước đỏ ngầu của Sông Linh, đếm nhẩm
những tiếng rơi âm thầm của gạch Chàm trong mấy cây tháp bỏ hoang?
Có ai thấy, một đêm đông giá buốt, nhà thơ
thanh niên lủi thủi đi trong bãi tha ma, hà hơi vào lỗ mũi khô héo của một
chiếc đầu lâu cô quạnh?
Đừng khua động! Nhà thơ thanh niên ấy đang
đi tìm nguồn sống trong cái chết, nguồn có trong cái không. Cái chết, cái
không đang réo rắt trong tâm hồn thi sĩ như một tiếng ca rồi biến dần thành
tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú rít, rồi lại chuyển ra tiếng rên, tiếng nấc,
tiếng thở dài, để rồi lại đi ngược cái vòng biến chuyển ấy.
Ông Chế Lan Viên đã quên mất cái Ta, chỉ
còn sống trong cái Mê. Ông mê thấy những con voi Chàm khóc cảnh điêu tàn của
giống Chiêm Thành trong ngàn sâu. Ông mê thấy người Chiêm nữ tắm mình trong
ánh trăng mát mẻ của U Hoài. Ông mê thấy xương máu của các chiến sĩ Chiêm
Thành ca hát dưới vùng cỏ úa. Ông mê thấy những linh hồn vong quốc của giống
Hời khóc than bên Sông Linh. Ông mê thấy im lặng chuyển mình trên máu đỏ, rừng
xanh lăn nhẹ khối u sầu. Ông mê thấy đầu lâu chạy bon bon trong mộ địa đi tìm
cảnh sống không còn nữa. Rồi trong lúc mê ấy, ông nhúng bút vào bình mực.
Bình mực sôi lên. Mực đã hóa ra máu nóng của điêu tàn, của Ma Tinh. Thế là
bàn tay run rẩy của nhà thơ trẻ tuổi kia gạch lên trang giấy trinh tiết những
vần thơ ma quái, kỳ dị, trong đó nhảy, múa, ca, hát, khóc, gào những vong hồn,
toàn những vong hồn.
Những vong hồn này vừa hiện ra trước mắt
tôi lúc tôi đọc tập thơ Điêu tàn của ông Chế Lan Viên. Nhà thơ đã thành công.
Cái không đã thành có. Cái chết đã thành hình. Và trong tâm hồn tôi đã nở một
nguồn sống mới và mạnh gây ra bởi hai nguồn chết: tháp Chàm và đầu lâu.
Tôi yêu tập thơ Điêu tàn của ông Chế Lan
Viên. Tôi yêu nhà thi sĩ của Huyền Bí. Tôi đã giải phẫu trên đây cái tâm hồn
ma quái, điên rồ, mê cuồng của người bị ám ảnh bởi tháp Chàm và đầu lâu.
Nhưng người ấy không chiếm được hết tình
quyến luyến của tôi, vì người ấy không điên hẳn, không mê hẳn. Người ấy đã tỉnh
trong một phút.
Trong phút tỉnh, người ấy đã lý thuyết hóa
cái điên cái mê của mình. Một trạng thái kỳ dị của tâm hồn, người ấy đã làm
thành một quan niệm về thơ. Một quan niệm sai lầm và nguy hiểm. Bài sau tôi sẽ
phê bình quan niệm ấy.
Nguồn: Ích hữu, Hà Nội, s.101 (26
Janvier 1938), tr.1,6.
Lại Nguyên Ân sưu tầm và tái công bố,
2009.
Quan niệm về thơ của Chế Lan Viên
Cảm tưởng cuối cùng của tôi, sau khi đọc tập
Điêu tàn, là một tình thương não nuột.
Không phải tôi thương giống Chàm bị diệt
vong chỉ còn để lại một vài đền tháp hoang tàn.
Không phải tôi thương lũ quỷ không đầu thường
hiện hình trong bãi tha ma những đêm mù khóc cái sọ dừa khô héo.
Không phải tôi thương con chiến tượng thất
cơ, thủng thỉnh bước trong ngàn sâu, "mắt mờ sau màn lệ" và "nỗi
lo sầu mong nhớ quẩn theo chân".
Không phải tôi thương cô Chiêm nữ đã trôi
giạt nơi trời xa nước lạ không bao giờ lại nữa.
Tôi thương thi sĩ Chế Lan Viên.
Ông Chế Lan Viên lúc này đang quằn quại
trong một khủng hoảng tinh thần đáng sợ. Trên tảng trán đáng lẽ sán lạn của
người thi sĩ thanh niên ấy, một khối mây đen đang tụ đọng. Và cái tâm hồn
đáng lẽ trong trẻo ngây thơ kia đang làm nơi hò hẹn của hình phạt dị kỳ. Tất
cả những ý nghĩ, tình cảm của khối óc trái tim ông đang bị lồng khung trong một
nấm mồ lạnh lẽo. Đời sống của ông đang bị kìm kẹp trong u giới. Và mạch máu
ông đang cuồn cuộn chảy những chất tủy nhờn nhánh của các sọ dừa vứt rải rác
trong nghĩa địa.
Cái khủng hoảng lạ lùng ấy càng cấu xé ông
hơn nữa là ông đang tìm phương pháp tự giải phóng mình mà chưa thấy. Ông trốn
lên cung trăng, ông trốn lên sao Đẩu, ông trốn xuống đáy sông Linh, ông trốn
vào Hư Vô..., đâu đâu ông cũng bị cái khủng hoảng kia quăng lưới lôi về. Ông
hoảng hốt. Ông mê. Ông điên. Ông vội lấy cái điên khác đuổi cái điên, lấy cái
mê khác trùm cái mê, lấy cái ngông đè cái hoảng hốt. Nhưng cái điên khác, cái
mê khác, cái ngông ấy chỉ làm ông bị khủng hoảng hai lần. Rồi ông rơi xuống
đáy Đau Khổ. Ở hiện tại, ông thấy toàn vô nghĩa, ở tương lai ông thấy toàn buồn
bã, ở dĩ vãng ông thấy toàn chán nản. Ông liền kêu cứu. Ấy thế là tập Điêu
tàn ra đời.
Cho xuất bản tập Điêu tàn, ông Chế Lan Viên
chỉ cốt ý tìm lấy một người tri kỷ. Người tri kỷ này, than ôi, không bao giờ
ông gặp được.
Chỉ vì ông đã dại dột đặt thành quan niệm
cái điên của ông và phô diễn quan niệm ấy trong bài tựa.
Ta đọc:
"Hàn Mặc Tử nói: Làm thơ tức là điên.
Tôi thêm: Làm thơ là làm sự phi thường. Thi sĩ không phải là người. Nó là người
mê, người say, người điên. Nó là tiên, là ma, là quỷ, là tinh, là yêu... Người
ta không hiểu được nó."
Ông Chế Lan Viên đã khách quan hóa cái chủ
thể của ông. Nên ông lầm. Vì thi sĩ bao giờ cũng có khuynh hướng chủ quan hóa
cái khách thể của sự vật. Ông đã rời bỏ khuynh hướng ấy. Ông đã phản cái bản
tính thiên bẩm của mình. Ông có tội với Nàng Thơ.
Ông viết: Thi sĩ không phải là người; bởi
lúc mê, ông không nhận thấy rằng người nào cũng là thi sĩ. Bao nhiêu cái điên
cuồng của ông, dù điên cuồng đến mực nào đi nữa, cũng chỉ là những tâm trạng
nằm tiềm tàng trong thế giới vô ý thức của các tâm hồn rất thông thường. Những
cái điên cuồng ấy chỉ là dấu hiệu xao xuyến của một nhu cầu giải thoát mà ai
cũng có. Có khác là ông lồng nhu cầu giải thoát này vào những chế phẩm lăng tằng của
trí tưởng bị đốt nóng quá độ và ông đặt nó thành vần thành điệu. Cũng như nhà
cách mạng dàn nhu cầu giải thoát ấy vào những lý thuyết xã hội và thực hiện
nó bằng các chiến thuật có tổ chức. Và cũng như người thường phát biểu nó bằng
những tiếng cười ngạo nghễ, những khóe mắt khinh đời miệt tục.
Bỏi lẽ đó thơ dễ hòa nhịp nhất với tình tứ
chung của nhân loại, dù là thơ điên, thơ ma hay thơ quỷ. Tính cách đồng cảm
mãnh liệt ấy của thơ đã được chứng thực trong các thế kỷ, ở các mẩu đất có
loài người sinh hoạt.
Đã có người nói thi sĩ là bộ bách khoa trữ
tình của thế kỷ (une encyclopedie lyrique du siècle). Có thể nói rộng nữa: bộ
bách khoa trữ tình của nhân loại. Thi sĩ là bạn của tất cả mọi người trong tất
cả những trường hợp khuất khúc về tâm sự.
Chỉ có ông Chế Lan Viên dám phản đối một
cách độc đoán cái chân lý ngàn tuổi ấy.
Người ta không hiểu được nó. Nó đây là thi
sĩ? Không! Nó đây là ông Chế Lan Viên. Nó, ai mà hiểu được? Nó đã nói bằng
trí ở một trường hợp mà nó phải nói bằng tim. Nó đã ly dị với Nàng Thơ. Nó muốn
khoác áo một nhà triết học.
Nhưng tại sao lại có chỗ lầm lỡ quá đáng ấy
ở ông Chế Lan Viên? Theo ý tôi, sở dĩ ông Chế Lan Viên bơi trong lầm lẫn một
cách bướng bỉnh như vậy là vì tâm thần ông rối loạn quá. Rối loạn bởi ông tự
gông cùm trong cái quan điểm eo hẹp của một người dân vong quốc.
Nếu ông Chế Lan Viên quả thật là người
Chàm?
Đằng này không! Ông chỉ có cảm tình mật thiết
với một giống nòi xấu số. Cảm tình ấy, ông cố ý đào sâu mãi. Ngờ đâu, chiếc xẻng
thân yêu của ông, dở cuộc, bị gẫy nát bởi một tảng đá lớn nằm dưới cảm tình ấy.
Tảng đá này là thiên nhiên. Người ta không thể mượn cho mình một linh hồn
khác chất mà không mất mát chút gì. Ông Chế Lan Viên đã mất mát sự thành thực.
Cho nên những tình cảm mượn, ông không thể tả
được bằng thể trữ tình nó là tiếng nói của trái tim nóng hổi. Ông phải tả bằng
danh từ và hình tượng. Ta bực bội gặp dưới ngòi bút Chế Lan Viên rất nhiều
danh từ trừu tượng viết bằng chữ hoa: Hư Vô, Vui Tươi, Hồn Điên, Trời Mơ, Lầm
Lạc, Màu Quên, Đau Thương, Quên Lãng, Ta, U Buồn, Trần Gian, Chán Nản...Còn
gì nữa? Những danh từ này là một khối nặng chết (poid mort) buộc lòng thòng
vào tập Điêu tàn. Chúng chứng thực tính cách giả dối của những cảm tình mượn
và nài ép.
Số kiếp tan nát của giống Hời đáng lẽ phải
làm ông Chế Lan Viên khóc. Nó chỉ làm ông nhăn nhó, cố nhăn nhó. Nhăn nhó như
người đàn bà bắt chước Tây Thi.
Tuy vậy, những hình tượng đặc sắc rải rác
trong tập Điêu tàn, nhờ thi nghệ tài hoa của tác giả, đã có thể thay chân một
cách rất đáng khen những tình cảm mà ông định diễn. Nên ông đã hồi sinh được
cả một cái đã mất. Được vậy là nhờ ở khiếu trực giác linh mẫn của ông.
Tôi có thể nói không sợ ai bẻ: Ông Chế Lan
Viên chỉ sống bằng trực giác. Bao nhiêu hình tượng đặc sắc - những hình tượng
có cánh - ông đều tìm thấy đột ngột, nhờ trực giác, một linh cảm huyền diệu
chỉ nảy nở sớm ở những tâm hồn tế nhị.
Trực giác cao hơn trái tim, nhưng phải lấy
trái tim làm nền tảng. Nhà thi sĩ thuần túy là người biết xây cái nhà trên
cái móng. Ở ông Chế Lan Viên, thi tứ bay vụt một cái lên mái nhà. Nó đậu ở đấy
giây lâu rồi lại té nhào.
Hẵng xây cái nền tảng, thi sĩ Chế Lan Viên!
Nói khác đi, hẵng trở về sống trực tiếp với trái tim. Hẵng căng cho tận lượng
tất cả những sợi dây để hòa thấm lòng với tất cả những tình nhân loại của con
người. Hẵng sống đã. Chỉ có sống thật thật đầy đủ, thật mãnh liệt mới tạo được
cho trái tim những dịp ma luyện phi thường.
Sống đầy đủ và mãnh liệt là dùng tình yêu
thuần túy đi sâu vào các kẽ ngách tối tăm của nhân tâm để khơi đào ở
đó những nguồn tha thứ khoan hồng ân ái.
Sống đầy đủ và mãnh liệt là phát triển hoàn
toàn cái tình thương thấm thía của trái tim, để tắm gội những cõi lòng đau khổ
rải rác quanh mình vào bằng một bụi mưa trắc ẩn.
Sống đầy đủ và mãnh liệt là phát triển cả
cái phản ảnh của tình yêu, tình thương. Phải biết nuôi trong lòng những cái
ghét chính đáng để gây cho hành động một nguyên lực mạnh mẽ và bền vững.
Sống đầy đủ và mãnh liệt, tóm lại, là sống
chung với cái sống của nhân loại bằng cái sống trong trẻo và tưng
bừng của trái tim.
Lúc đã yêu, ghét, thương, buồn - yêu, ghét,
thương, buồn đến gần đứt sự sống - lúc ấy trái tim mới cảm chân thành được bề
sâu thăm thẳm của nhân tâm, thế sự. Lúc ấy, thơ mới là tiếng nói của Người,
thi sĩ mới là bộ bách khoa trữ tình của Nhân Loại.
Lúc ấy, ông Chế Lan Viên bình tĩnh đọc lại
bài tựa quyển Điêu tàn mới nhận thấy mình đã lầm khi muốn lý thuyết hóa vội
vàng một tâm trạng nhất thời chưa được căn cứ vào trái tim trác luyện.
Chẳng chóng thì chầy, ông Chế Lan Viên sẽ
biết thành thực khóc cái Điêu Tàn mà hiện giờ ông mới chỉ có cảm tình, nhờ trực
giác. Bấy giờ ông mới lại sẽ hiểu thêm rằng: khóc cái điêu tàn dĩ vãng chưa đủ,
phải khóc cái thống khổ hiện tại nhiều hơn. Vì cái khóc kia đưa đến cái không
mà cái khóc này mới dắt đến tranh đấu. Tranh đấu, ấy mới là biết sống.
Nguồn: Ích hữu, Hà Nội, s.102 &
103
(09 Fevrier 1938), tr. 1, 6.
Lại Nguyên Ân sưu tầm và tái công bố,
2009.
Tạp chí Thơ HNV/vanvn.net
Trương Tửu
Theo http://trieuxuan.info/
|
vé máy bay eva
vé máy bay đi mỹ là bao nhiêu
dai ly korean air
khuyến mãi vé máy bay đi mỹ
giá vé máy bay từ tphcm đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Ngau Hung Du Lich
Tri Thuc Du Lich