Nữ sĩ Hồ Xuân Hương - Thiên
tài bất hạnh
Ngồi buồn nhớ chị Xuân Hương
Hồn thơ còn hãy như nhường trêu ai…
Hồn thơ còn hãy như nhường trêu ai…
(Giấc mộng con của Tản Đà)
Dân tộc Việt Nam luôn chiến
đấu dành độc lập, tự do, mở đầu cuộc khởi nghiã của chị em Hai Bà Trưng (40-30
trước công Nguyên) và Bà Triệu (năm 248) để lại những chiến tích oai hùng. Những
người không cầm gươm, đao xông pha nơi chiến trận, thì cầm bút đóng góp cho nền
văn hoá dân tộc những nhà thơ nữ nổi tiếng như: Đoàn Thị Điểm dịch giả Chinh
Phụ Ngâm khúc của Đặng Trần Côn, Ngọc Hân công Chúa với Ai tư vãn… Ngô Chi Lan Ỷ
Lan Phu nhân, Huyện Thanh Quan, Sương Nguyệt Ánh. Nữ sĩ nổi tiếng một thời được
gọi là Bà Chúa Thơ Nôm (1) Hồ Xuân Hương xuất hiện vào thế kỷ thứ 18. Giai đoạn
đất nước chia đôi hai miền Nam Bắc. Trịnh– Nguyễn phân tranh gọi là Đàng trong
Đàng ngoài, lấy sông Linh Giang làm biên giới từ những năm 1627 đến 1772.
Hồ xuân Hương sinh năm
(1772-1822) (2) con ông Hồ Phi Diễn, làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu Nghệ An.
Theo một số tài liệu dẫn chứng: Hồ Sĩ Anh đời nhà Lê sinh bốn người con trai :
Hồ Thế Viêm, Hồ Phi Quyền, Hồ Phi Cơ, Hồ Phi Tích (1665-1734 đậu Hoàng giáp năm
1700). Hồ Thế Viên là ông Tổ bốn đời của anh em nhà Tây Sơn đã đổi từ họ Hồ
sang Nguyễn, còn Hồ Phi Cơ là ông tổ bốn đời cuả Hồ phi Mai tức nữ sĩ Xuân
Hương. Như vậy Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Hồ X Hương là anh em cùng họ ông tổ
năm đời (3)
Hồ Xuân Hương và thân phận
Ông Hồ Phi Diễn thi đỗ Tống
Sinh làm quan cuối thời đại vua Lê. Ông đã lập gia đình nhưng cưới thêm vợ thứ
quê Hải Dương, sinh ra Xuân Hương. Lúc Xuân Hương 13 tuổi thân phụ mất, Xuân
Hương rời làng Khán Xuân theo mẹ về làng Thọ Xương gần Hồ Hoàn Kiếm, đi học một
thời gian phải ở nhà giúp mẹ lo sinh sống gia đình. Xuân Hương tự học thêm,
thông minh làm thơ hay, tiếng tăm lừng lẫy. Có Tổng Kình tên tự Nguyễn Công Hoà
tục gọi là Tổng Cóc ở làng Tứ Xã (nay thuộc huyện Phong châu – Vĩnh Phú). Cai Tổng
mến tài của Xuân Hương, nhờ người mai mối cưới Xuân Hương làm thứ thiếp. Theo tục
truyền chiều 30 tết, Tổng Cóc đem biếu quà tết cụ Đồ Xứ bị Hồ Xuân Hương ra câu
đố.
“Tối ba mươi khép cánh càn
khôn kẻo nữa ma vương đưa quỷ tới”
Sáng hôm sau, Tổng Cóc đến
làm xong thủ tục xông nhà đọc lại câu đối
“Sáng mồng một mở then tạo
hoá để cho thiếu nữ rước xuân vào”
Có thể Xuân Hương mến mộ
chàng trai nầy có khiếu văn chương? nên nhận lời kết hôn với Tổng Cóc. Theo tài
liệu của Giáo sư Lê trí Viễn (4), Tổng Cóc không phải là một anh trọc phú, mà
là một nho sĩ từng có phen lều chõng như ai và trong sự gặp gỡ Xuân Hương có
chuyện chữ nghiã chứ chẳng phải chỉ có đồng tiền… ” Tổng Cóc yêu thương Xuân
Hương và từng bảo nàng làm thơ viết vào gỗ để người ta sơn then giữ cho bền, hiện
nay tại nhà thờ của ông Kiều Phú, thôn Đại Đình, xã Sơn Dương huyện Phong Châu,
Vĩnh Phú còn tấm ván mít ghi những nét thơ Nôm của Hồ Xuân Hương. Bút tích còn
4 câu thơ:
Thảo lai băng ngọc kính
Xuân tận hoá công hương
Độc bằng đan quế thượng
Hào phóng bích hoa hương
Xuân tận hoá công hương
Độc bằng đan quế thượng
Hào phóng bích hoa hương
Tạm dịch:
Nói đến tấm gương bằng ngọc
Hóa công cũng chịu lúc tàn xuân
Chỉ bằng lúc vin cành quế đỏ
Tha hồ hoa biếc tỏa hương thơm (5)
Hóa công cũng chịu lúc tàn xuân
Chỉ bằng lúc vin cành quế đỏ
Tha hồ hoa biếc tỏa hương thơm (5)
Tình yêu giữa hai người
không được bao lâu trong hoàn cảnh gia đình mà người chồng yếu đuối, Xuân Hương
bản tính nghệ sĩ giao tiếp rộng… không tránh được va chạm hằng ngày trong xã hội
phong kiến “Đau đớn thay phận đàn bà! Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu” Xuân
Hương bị gia đình bên chồng đè nén với thân phận làm lẽ. Nên đã phản kháng quyết
bỏ nhà ra đi. Thân phận của Xuân Hương cũng như hoàn cảnh cua kiếp đàn bà làm lẽ
mọn:
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh
lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!
Năm thì mười hoạ chăng hay chớ
Một tháng đôi lần có cũng không
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn, mướn không công
Thân nầy ví biết dường nầy nhỉ
Thà trước thôi đành ở vậy xong
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!
Năm thì mười hoạ chăng hay chớ
Một tháng đôi lần có cũng không
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn, mướn không công
Thân nầy ví biết dường nầy nhỉ
Thà trước thôi đành ở vậy xong
Ca dao cũng có bài:
Tối tối chị giữ mất buồng
Chị cho manh chiếu nằm suông chuồng bò
Mong chồng, chồng chẳng xuống cho
Đến khi chồng xuống gà o o gáy dồn…
Chị cho manh chiếu nằm suông chuồng bò
Mong chồng, chồng chẳng xuống cho
Đến khi chồng xuống gà o o gáy dồn…
Từ giã gia đình Tổng Cóc đi
tìm phương trời thơ mộng tự do hơn, vốn người yêu thơ văn lãng mạn muốn vượt
qua bức tường nho giáo khắc nghiệt, nhưng không tránh được cái nghiệp tình
duyên ngang trái. Xuân Hương lấy ông phủ Vĩnh Tường, tình yêu được trân quý hơn,
nên Xuân Hương làm bài thơ giã từ “khóc Tổng Cóc”.
Chàng Cóc ơi! Chàng Cóc ơi!
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé
Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi.
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé
Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi.
Bài “khóc Tổng Cóc “gây nhiều
dư luận trong văn học, những người ở Làng Mương, làng Giáp nói bài thơ đó là
khóc cho mối tình của Xuân Hương, không phải khóc người chồng đã mất, bởi vì
Xuân Hương từng khổ đau với hoàn cảnh làm vợ lẽ trong gia đình Tổng Cóc nên
dùng những từ ngữ chỉ họ hàng nhà Tổng Cóc nào là nòng nọc đứt đuôi… để giễu
lúc Tổng Cóc còn sống, Xuân Hương lập gia đình với ông phủ Vĩnh Tường cũng
trong cảnh lẽ mọn không tránh được cảnh khổ ghen tương cay độc như Hoạn thư
Rằng tôi chút dạ đàn bà,
Ghen tuông, thì cũng người ta thường tình
Lòng riêng, riêng cũng kính yêu.
Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai
Ghen tuông, thì cũng người ta thường tình
Lòng riêng, riêng cũng kính yêu.
Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai
Kiều của Nguyễn Du
Thời gian chung sống tri ngộ
ông phủ Vĩnh Tường (ở Thổ Tang, Vĩnh Phú bây giờ) tuy làm vợ lẽ nhưng ông Phủ
coi nàng là bạn văn chương tình duyên không đến nỗi bẽ bàng. Nhưng tình nghiã vợ
chồng chỉ trong 27 tháng ông Phủ mất, Xuân Hương đã khóc chồng. Cuộc đời Xuân
Hương về tình duyên bất hạnh.
Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường
ơi!
Thiếp bén duyên nàng có thế thôi
Chôn chặt văn chương ba thước đất
Ném tung hồ thỉ bốn phương trời
Cán cân tạo hoá rơi đâu mất;
Miệng túi càn khôn thắt lại rồi
Hăm bảy tháng trời là mấy chốc;
Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ơi!
Thiếp bén duyên nàng có thế thôi
Chôn chặt văn chương ba thước đất
Ném tung hồ thỉ bốn phương trời
Cán cân tạo hoá rơi đâu mất;
Miệng túi càn khôn thắt lại rồi
Hăm bảy tháng trời là mấy chốc;
Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ơi!
Cuộc đời Xuân Hương có thể
“bảy nổi ba chìm” qua hai đời chồng hy sinh cả đời chịu thân phận làm lẽ mọn, nỗi
khổ đau cũng là niềm dang dở cái mối duyên thiên, duyên trời nào có phải là hậu
qủa oan nghiệt của con nguời như “chữ tài liền với chữ tai một vần”!.
Thơ và bạn đời
Tập thơ Lưu Hương Ký chú dẫn:
Hoan Trung Cổ Nguyệt Đường Xuân Hương nữ sĩ sử tập Lưu Hương Ký viết xong năm
Giáp Tuất (1814) mãi đến năm 1964 được phát hiện (?). Tên di cảo có nghiã là
ghi mùi hương thơm của ngọc lưu, chữ Lưu này nhắc nơi Xuân Hương sinh ở huyện
Quỳnh Lưu. Trong tập thơ có 30 đầu đề; 24 bài thơ chữ Hán và 28 bài thơ Nôm,
phần xướng hoạ có lẫn thơ của văn nhân thời bấy giờ để lại số đề tài khúc chiết,
nồng nàn yêu đương mong đợi. Ở Cổ Nguyệt Đường do Xuân Hương dựng lên ở phường
Khán Xuân gần Hồ Tây khu vực vườn Bách Thảo, trường Bưởi đường Cổ Ngư làng Yên
Phụ. Tình yêu, tình bạn của Xuân Hương rất nhiều bài gợi cảm, lãng mạn với những
văn nhân thi sĩ như (trích dẫn mỗi người một tựa đề):
Thi hào Nguyễn Du
(1765-1820) bài: Cảm cựu Kiêm Trình Cần Chánh học sĩ Nguyễn Hầu
Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ
nhung
Mượn ai tới đấy gửi cho cùng
Chữ tình chốc đã ba năm vẹn
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không?
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập
Phấn son càng tủi phận long đong
Biết còn mảy chút sưong đeo mái
Lầu Nguyệt năm canh chiếc bóng treo…
Mượn ai tới đấy gửi cho cùng
Chữ tình chốc đã ba năm vẹn
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không?
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập
Phấn son càng tủi phận long đong
Biết còn mảy chút sưong đeo mái
Lầu Nguyệt năm canh chiếc bóng treo…
X. Hương với Tốn Phong hai
bài: Ngụ ý đến Tốn Phong Thi” v v…
Đường hoa dìu dặt bước đông
phong
Nghĩ kẻ tìm thơm cũng có công
Lạ mặt dám quen, cùng gió nước
Nặng lòng nên nhẹ đến non sông
Da trời nắng nhuộm tươi màu biếc
Phòng gấm trăng in dải thức hồng
Ai nhớ lấy cho lòng ấy nhỉ!
Trước trăm năm hẳn nợ chi không?
Nghĩ kẻ tìm thơm cũng có công
Lạ mặt dám quen, cùng gió nước
Nặng lòng nên nhẹ đến non sông
Da trời nắng nhuộm tươi màu biếc
Phòng gấm trăng in dải thức hồng
Ai nhớ lấy cho lòng ấy nhỉ!
Trước trăm năm hẳn nợ chi không?
Xuân Hương với Hiệp trấn Sơn
Nam Thượng họ Trần Ngọc Quán….
Vác cắm đàn tao một ngọn cờ
Ấy người thân đấy, phải hay chưa ?
Lắc đầy phong nguyệt lưng bầu rượu
Giắt lỏng giang hồ nửa túi thơ
Đình nguyệt góp người chung đỉnh lại
Trời Hoan mỏ mặt nước non xưa
Bấy nay tài tử bao nhiêu tá?
Thèo đảnh khen ai khéo đạt cho!
Ấy người thân đấy, phải hay chưa ?
Lắc đầy phong nguyệt lưng bầu rượu
Giắt lỏng giang hồ nửa túi thơ
Đình nguyệt góp người chung đỉnh lại
Trời Hoan mỏ mặt nước non xưa
Bấy nay tài tử bao nhiêu tá?
Thèo đảnh khen ai khéo đạt cho!
Xuân Hương với Mai Sơn Phủ”
Hoạ thơ Sơn Phủ” bài thơ bằng Hán văn gởi bạn tỏ lòng quyến luyến nhớ thương.
khoảng thời gian (1799- 1801)
Này đoạn chung tình biết với
nhau
Tiễn đưa ba bước cũng nên câu
Trên tay khép mở tanh chiều nhạn,
Trước mặt đi về gấp bóng câu
Nước mắt trên hoa là lối cũ,
Mùi hương trong nệm cả đêm thâu
Vắng nhau mới biết tình nhau lắm
Này bạn chung tình biết với nhau…
Tiễn đưa ba bước cũng nên câu
Trên tay khép mở tanh chiều nhạn,
Trước mặt đi về gấp bóng câu
Nước mắt trên hoa là lối cũ,
Mùi hương trong nệm cả đêm thâu
Vắng nhau mới biết tình nhau lắm
Này bạn chung tình biết với nhau…
Xướng họa với Chiêu Hổ tức
Phạm đình Hổ (1768-1839) đối thủ với Hồ Xuân Hương
Anh đồ tỉnh, anh đồ say
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Này này chị bảo cho mà biết
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay…
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Này này chị bảo cho mà biết
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay…
Xuân Hương trải qua nhiều
kinh nghiệm nhân sinh, nhất là về ái tình để rồi “quang cảnh trong đời chiếc gối
mơ!” đời sống phóng túng của Xuân Hương để nhận lấy lời phê bình “tự thán”
Muôn kiếp biết là duyên trọn
vẹn
Một đời riêng mấy tiếng chua cay
Một đời riêng mấy tiếng chua cay
Sau khi viết xong tập Lưu
Hương Ký (1814), bảy năm sau (1822) Xuân Hương mất, nhưng mộ bà được táng ở
đâu? ngày nay vẫn chưa tìm được tung tích, chắc chắn cũng ở quanh Hà Nội ? năm
1842 Tùng Thiện Vương ra thăm cảnh Hồ Tây có làm bài thơ viếng mộ Xuân Hương
“Long Biên trúc chi từ” bản dịch ra Việt ngữ của học giả Hoàng Xuân Hãn
Đây hồ rực rỡ hoa sen
Sai người xuống hái để lên cúng đàn
Chớ trèo qua mộ Xuân Hương
Suối vàng còn giận tơ vương lỡ làng
Sen tàn, phấn rữa mồ hoang
Xuân Hương đã khuất bên làn cỏ xanh
U hồn say tít làm thinh
Gió xuân mấy độ thế tình không hay !!
Sai người xuống hái để lên cúng đàn
Chớ trèo qua mộ Xuân Hương
Suối vàng còn giận tơ vương lỡ làng
Sen tàn, phấn rữa mồ hoang
Xuân Hương đã khuất bên làn cỏ xanh
U hồn say tít làm thinh
Gió xuân mấy độ thế tình không hay !!
Những nét tiêu biểu trong
thơ Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương trưởng thành
trong giai đoạn lịch sử chiến tranh, ảnh hưởng nặng nề phong kiến “nhất nam viết
tử thập nữ viết vô”. Đàn bà ít được đi học ứng thí như đàn ông, may mắn học ít
chữ, lấy chồng sanh con lo việc nội trợ. Xuân Hương đã tỏ ra là một thiên tài,
làm thơ khẩu khí bị trợt té người ta cười, bà làm ngay hai câu thơ để chữa thẹn
Giơ tay với thử trời cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài
Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài
Hồ Xuân Hương thông minh, có
tài, khá tiếc thay sinh ra phận gái nên cái lỗi lạc của bà thành ra lãng mạn mà
lắm người cho là “lẳng lơ”! Nhưng hãy đọc mấy câu thơ sau của bà, dũng khí như
một đấng tu mi nam tử. Khi đi ngang qua miếu Sầm Nghi Đống, bị vua Quang Trung
giết ở Đống Đa mùng 5 tháng giêng năm Kỷ dậu 1789. Người Hoa lập miếu thờ, tin
đồn miếu linh thiêng nên Xuân Hương đã đề mấy câu thơ:
Ghé mắt trông nghiêng thấy bảng
treo
Kià đền Thái thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?
Kià đền Thái thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?
Dưới xã hội thời phong kiến
người ta quan niệm “trai năm thê bảy thiếp, gái chín chuyên chỉ một chồng” Xã hội
bất công ! vấn đề đa thê ngày nay không được chấp nhận (ngoại trừ các nước theo
Hồi Giáo). Ngày xưa chồng chết vợ phải thủ tiết thờ chồng… Nhưng Xuân Hương đã
muốn phá cái phong tục thời đó. Nên lúc sống với ông Phủ Vĩnh Tường, có người
goá phụ còn trẻ muốn được tái giá, làm đơn xin quan phủ xét, gặp lúc ông phủ đi
vắng, Xuân Hương xem đơn và phê ngay:
Phó cho con Nguyễn thị Đào
Nước trong loe lẻo cắm sào chờ ai?
Chữ rằng xuân bất tái lai
Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già.
Nước trong loe lẻo cắm sào chờ ai?
Chữ rằng xuân bất tái lai
Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già.
Những bài thơ tuyệt tác của
Xuân Hương được lưu truyền hậu thế qua tập Lưu Hương Ký. Biệt tài thơ Xuân
Hương dùng chữ Việt thuần tuý, không vay mượn điễn tích sáo ngữ, đọc thơ hiểu
được nghiã đen và nghiã bóng. Đọc thơ Hồ Xuân Hương với tâm hồn nghệ sĩ thực sự
phát hiện được những khía cạnh miêu tả rất thẩm mỹ.
Đọc bài “Ngủ quên” như xem bức
tranh trưa hè người thiếu nữ đang ngủ, độc giả có thể liên tưởng đến bức tượng
khỏa thân với những đường nét tuyệt vời sống động…. cảm thấy rung động nghệ thuật
trước hình ảnh đẹp lành mạnh.
Mùa hè hây hẩy gió nồm đông
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng
Lược trúc chải cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long
Đôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm
Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt
Đi thì cũng dở ở không xong.
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng
Lược trúc chải cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long
Đôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm
Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt
Đi thì cũng dở ở không xong.
Cái đẹp bất cứ ở đâu đều được
mọi người yêu chuộng, người trần tục ai thấy hoa đẹp không muốn nhìn? Từ xưa và
nay nhiều phê bình bàn cãi tranh luận, thơ Xuân Hương mang tính chất dâm và tục…Những người yêu thơ Xuân Hương thường hết lời ca tụng xem những sáng tác cuả
Xuân Hương kỳ diệu từ cách dùng chữ chính xác âm điệu kỳ tài… Nhóm khác phê
bình thơ mang chất tục sinh lý đè nén “Libido”… Bài thơ đầu đề không được thanh
“Dương vật” Hồ Xuân Hương tả rất hay
Bác mẹ sinh ra vốn chẳng hèn
Ban đêm không mắt sáng như đèn
Đầu đội nón da loe chóp đỏ
Lưng đeo bị đạn rủ thao đen
Ban đêm không mắt sáng như đèn
Đầu đội nón da loe chóp đỏ
Lưng đeo bị đạn rủ thao đen
Để có thể thẩm định thế đứng
của nhà thơ nầy, nói về Văn học không thể đọc một số bài thơ rồi cho là dâm tục
có quá đáng chăng?… Bởi vì vấn đề Tình Dục từ Á sang Âu thường được trình bày
qua các tác phẩm văn chương, những hình điêu khắc chạm trổ trong các Cung điện,
Đền đài lưu tại từ ngàn năm về trước có những nét đẹp độc đáo như thân thể đàn
bà qua những đường cong tuyệt vời, bộ ngực no tròn lồ lộ dưới lớp xiêm y mỏng
manh… những tác phẩm đó thể hiện linh động văn hóa, sắc thái mang tính chất diễn
tả về nghệ thuật. Mỗi dân tộc văn minh có sinh hoạt văn hoá khác nhau, Nhiều sắc
dân họ thờ các bộ phận sinh dục, dân tộc Chàm xây các Tháp theo hình tượng
Lingam (dương vật) tình dục được nói đến trong sinh hoạt của con người. Xã hội
bình dân xưa không thoát khỏi qui luật dục vọng cá nhân là lẽ sống con người, dục
vọng tập thể là lẽ sống của xã hội. Bởi vậy ca dao được truyền tụng trong dân
gian.
Có chồng từ thuở mười lăm.
Chồng chê tôi nhỏ không nằm cùng tôi.
Đến chừng mười chín đôi mươi.
Chồng chê tôi nhỏ không nằm cùng tôi.
Đến chừng mười chín đôi mươi.
Tôi ngủ dưới đất chàng lôi
lên giường
Một rằng thương, hai rằng
thương
Có bốn cẳng giường gãy một còn ba!
Có bốn cẳng giường gãy một còn ba!
(Ca dao)
Đời sống qua thi ca bình
dân, diễn tả trào lộng, vui tươi vốn có trong thực tế không nói xa gần, cái điếu
cày hút thuốc người bình dân.
Lòng em cay đắng quanh năm
Khi ngồi, khi đứng, khi nằm nghênh ngang
Các anh các bác trong làng
Gặp em thì lại vội vàng nâng niu
Vắng em đau khổ trăm chiều
Tuy rằng cay đắng nhưng nhiều người mê
Khi ngồi, khi đứng, khi nằm nghênh ngang
Các anh các bác trong làng
Gặp em thì lại vội vàng nâng niu
Vắng em đau khổ trăm chiều
Tuy rằng cay đắng nhưng nhiều người mê
(Ca dao)
Nổi tiếng như Truyện Kiều diễn
tả lại chuyện tình dục trong khuê phòng:
Đêm xuân một giấc mơ màng
Đuốc hoa để đó, mặc nàng nằm trơ
Đuốc hoa để đó, mặc nàng nằm trơ
hoặc:
Này con thuộc lấy nằm lòng
Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề
Chơi cho liễu chán hoa chê
Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời
Khi khóe hạnh khi nét ngài
Khi ngâm ngơi nguyệt khi cười cợt hoa
Điều là nghề nghiệp trong nhà
Đủ ngần ấy nếp mới là người soi
Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề
Chơi cho liễu chán hoa chê
Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời
Khi khóe hạnh khi nét ngài
Khi ngâm ngơi nguyệt khi cười cợt hoa
Điều là nghề nghiệp trong nhà
Đủ ngần ấy nếp mới là người soi
Hay Trạng Quỳnh với bài tạ
ơn cô hàng bánh:
Đương cơn nắng cực đói lòng
thay
Thết đãi ơn cô có bụng nầy
Giờ biết lấy gì mà tạ lại
Xin quỳ hai gối chống hai tay
Thết đãi ơn cô có bụng nầy
Giờ biết lấy gì mà tạ lại
Xin quỳ hai gối chống hai tay
Sinh hoạt xã hội bất kỳ ở tầng
lớp nào, dục tính cá nhân vẫn len lỏi vào cuộc sống. Cái khác biệt toàn thể về
bản chất không ai giống ai. Hồ Xuân Hương người trần tục nên ca tụng sinh họat
trần tục và những niềm vui trần tục, đọc thơ Xuân Hương để tiếp nhận cái tinh
thần hồn nhiên trong ca dao, tục ngữ. Tôi Không đào sâu cái “tục” trong thơ làm
đề tài chính. Thơ Xuân Hương rất sống động tài tình mang tinh hoa khác, đó là một
giá trị tồn tại mãi mãi trong lâu đài văn hoá dân tộc. Đọc hai bài thơ sau để
so sánh bài đèo Ngang và đèo Ba Đội cuả hai nữ sĩ
Bước tới đèo ngang bóng xế
tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ (rợ) mấy nhà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ (rợ) mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con cuốc
cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
Huyện Thanh Quan
Chúng ta cảm nhận bài thơ ấy
hay nhẹ nhàng trang nhã, bài nầy có 8 câu nhưng vay mượn ý của hai câu chữ Hán
Dạ thính đỗ quyên minh quốc
quốc
Nhật văn cô điểu khiếu gia gia
Nhật văn cô điểu khiếu gia gia
Nghiã là:
Đêm nghe đỗ vũ kêu quốc quốc
Ngày lắng gà rừng gọi gia gia
Ngày lắng gà rừng gọi gia gia
Hồ Xuân Hương vịnh đèo Ba Đội
là một bức tranh tả chân đơn sơ:
Một đèo, một đèo lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo
Cửa son đỏ loét tùm hum nóc
Hòn đá xanh rì lún phún rêu
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
Đầm đià lá liễu giọt sương rơi
Hiền nhân quân tử ai là chẳng
Mỏi gối chồn chân cũng muốn trèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo
Cửa son đỏ loét tùm hum nóc
Hòn đá xanh rì lún phún rêu
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
Đầm đià lá liễu giọt sương rơi
Hiền nhân quân tử ai là chẳng
Mỏi gối chồn chân cũng muốn trèo
Bài thơ nầy đọc qua độc giả
có thể nhận ra ngay đó là đèo Ba Đội, “một đèo, một đèo lại một đèo” từ màu sắc
“cửa son đỏ lóet; tùm hum, xanh rì; lún phún; lắt lẻo”…Xuân Hương đã tài tình
tạo ra một bức tranh sống động thành hợp tấu kỳ thú, từ âm thanh, màu sắc, nếu
đi qua đèo thi độc giả chia sẻ với thi nhân Xuân Hương là một nhạc sĩ tài tình,
phối hợp cả âm thanh, màu sắc, không gian lẫn thời gian, tạo những nét đặc sắc,
thông thường ít nghe diệp âm “hõm hòm hom, toen hoẻn… ” trong bài vịnh hang Cắc
Cớ
Trời đất sinh ra đá một chòm
Nứt làm đôi mảnh hõm hòm hom
Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn,
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm
Gịot nước hữu tình rơi lõm bõm
Con đường vô ngạn tối om om
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc
Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm
Nứt làm đôi mảnh hõm hòm hom
Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn,
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm
Gịot nước hữu tình rơi lõm bõm
Con đường vô ngạn tối om om
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc
Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm
Giọt nước từ những thạch nhủ
rơi từng giọt, xuống vũng nước bên dưới lõm bõm, con đường vào hang thiếu ánh
sáng. Ngày nay nhờ phương tiện lưu thông thuận lợi, nếu ghé hang Thánh Hoá ở
làng Thuỵ Khê, huyện Sài Sơn tỉnh Sơn Tây (Hà Tây) hang ở hòn núi có Chùa Thầy.
Hàng năm có hội chùa Thầy mà không vào hang Cắc Cớ thì coi như chưa biết chùa
Thầy. Đến đó sẽ nhớ ngay nữ sĩ Xuân Hương! là một thiên tài cũng vịnh cảnh
Chùa Hương Tích ở huyện Mỹ Đức Hà Đông rất linh động cảnh trời mây non nước…
vào những ngày đầu xuân, hội Chùa Hương nhộn nhịp, người tu hành thì ít, kẻ trần
tục thì nhiều, muốn lên phải gọi là trèo các bậc thì đúng hơn là đi, chen chân
trong động hương khói pha mờ mù sương.
Người quen cõi Phật chen
chân xọc
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm….
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm….
Bài “đánh đu” bức tranh quê
sống động hơn, diễn tả cảnh vui xuân náo nhiệt:
Bốn cột khen ai khéo khéo trồng
Người thì lên đánh, kẻ ngồi trông
Trai đu gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng
Bốn mảnh quần hồng bay phất phới
Hai hàng châu ngọc duỗi song song
Chơi xuân ai biết xuân chăng tá?
Cột nhổ đi rồi, lỗ bỏ không!
Người thì lên đánh, kẻ ngồi trông
Trai đu gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng
Bốn mảnh quần hồng bay phất phới
Hai hàng châu ngọc duỗi song song
Chơi xuân ai biết xuân chăng tá?
Cột nhổ đi rồi, lỗ bỏ không!
Có thể Hồ Xuân Hương phỏng
theo bài thơ trên bài cây đánh đu vốn có trong tập Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập
Bốn cột lang nha ngắm để trồng
À thì đánh cái ả còn ngong
Tế hậu thổ khom khom cật,
Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng
Tám bức quần hồng bay phất phới,
Hai hàng châu ngọc đứng song song
Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy
Nhổ cột đem về để lỗ không.
À thì đánh cái ả còn ngong
Tế hậu thổ khom khom cật,
Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng
Tám bức quần hồng bay phất phới,
Hai hàng châu ngọc đứng song song
Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy
Nhổ cột đem về để lỗ không.
Ngày nay ở miền Bắc hội xuân
vẫn còn giữ trò chơi đánh đu, thường những trai gái thích đánh đu như cuộc thi
lòng dũng cảm. Khi chàng trai nhấn đu, cô gái trong tư thế tay nắm chặt, chân
duỗi thẳng, chờ đón độ cao bay bổng. Khi độ cao đã giảm đến lượt cô gái nhún,
chàng trai lại chờ đón… tất cả phải nhịp nhàng, khoẻ mà mềm mại bay cao ung
dung, vẻ đẹp càng hiện rõ hình thể bên ngoài… gối hạc, lưng ong, ngưả ngửa
lòng, phất phới, song song. Xuân Hương đã khéo tài tình dùng điệp khúc
Qua ca dao Việt nam cũng có
nhiều bài truyền tụng rất là “tục” như cái vịnh cái quạt:
Rành rành ba góc rành rành
Khi khép nhỏ lại, khi vành to ra
Khi vui thì sướng thay là
Khi buồn thì nước chảy ra rì rì…
Khi khép nhỏ lại, khi vành to ra
Khi vui thì sướng thay là
Khi buồn thì nước chảy ra rì rì…
Hồ Xuân Hương tả cái quạt
duyên dáng hơn có tính cách tương tự như ca dao tục ngữ hài hước, tả cái quạt
có nhiều nan được bồi bằng giấy với hình dáng xòe ra để quạt cho mát, bất cứ ở
đâu, khi mưa có thể che đầu, khi xếp lại những nếp giấy chồng lên vẫn còn thừa.
Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa
Duyên em dính dáng tự bao giờ
Chành ra ba góc da còn thiếu
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa
Mát mặt anh hùng khi nắng gió,
Che đầu quân tử lúc sa mưa
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa…
Duyên em dính dáng tự bao giờ
Chành ra ba góc da còn thiếu
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa
Mát mặt anh hùng khi nắng gió,
Che đầu quân tử lúc sa mưa
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa…
Ngành tiểu công nghệ dệt vải
thời xưa mỗi gia đình ở thôn quê, thường trồng cây bông, nuôi tằm ươm tơ làm luạ
tự dệt may sắm áo quần. Ban ngày làm việc đồng áng, đêm về dệt vải với dụng cụ
đơn giản cái khung cửi, hai ống trục, một bộ go, hai cái lược, một đôi guốc con
suốt, con thoi (con cò bằng gõ). Xuân Hương tả đêm cô gái dệt vải; mà phẩm chất
vải tốt không phai màu phải ngâm lâu
Thắp đèn lên thấy trắng phau
Con cò mấp máy suốt đêm thâu
Hai chân đạp xuống năng năng nhắc
Một suốt đâm ngang thích thích mau
Rộng hẹp nhỏ to vưà vặn cả
Ngắn dài khuôn khổ cũng như nhau
Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ
Chờ đến ba thu mới dãi màu
Con cò mấp máy suốt đêm thâu
Hai chân đạp xuống năng năng nhắc
Một suốt đâm ngang thích thích mau
Rộng hẹp nhỏ to vưà vặn cả
Ngắn dài khuôn khổ cũng như nhau
Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ
Chờ đến ba thu mới dãi màu
Chùa Quán Sứ được xây dựng từ
thế kỷ thứ 17 nằm ở phố cũng mang tên Quán Sứ Hà Nội; Phật giáo vào thời Xuân
Hương suy thoái, thời nào cũng có người núp dưới chiếc áo cà sa… Xuân Hương đã
nghi ngờ về chùa Quán Sứ trong cảnh vắng teo.
Quán sứ sao mà cảnh vắng teo
Hỏi thăm sư cụ đáo nơi nao
Chày kình, tiểu để suông không đấm
Tràng hạt, vãi lần đếm lại đeo
Sáng banh không kẻ khua tang mít
Trưa trật nào ai móc kẽ rêu
Cha kiếp đường tu sao lắt léo
Cảnh buồn thêm chán nợ tình đeo
Hỏi thăm sư cụ đáo nơi nao
Chày kình, tiểu để suông không đấm
Tràng hạt, vãi lần đếm lại đeo
Sáng banh không kẻ khua tang mít
Trưa trật nào ai móc kẽ rêu
Cha kiếp đường tu sao lắt léo
Cảnh buồn thêm chán nợ tình đeo
Hay qua bài:
Khi cảnh, khi tiu, khi chũm
choẹ
Giọng hi, giọng hỉ, giọng hi ha
Tu lâu có lẽ lên sư cụ
Ngất nghểu tòa sen nọ đó mà
Giọng hi, giọng hỉ, giọng hi ha
Tu lâu có lẽ lên sư cụ
Ngất nghểu tòa sen nọ đó mà
Người đời nhớ Xuân Hương ở
tiếng cười phá phách, nhưng trong lòng Xuân Hương mang nặng những niềm đau…
trong đó khối tình của Xuân Hương nặng như đá, với những tâm sự thế thái nhân
tình làm rung động sâu thẳm cõi lòng người
Gan nghiã giãi ra cùng nhật
nguyệt
Khối tình cọ mãi với non sông
Đá kia còn biết xuân già dặn
Chả trách người ta lúc trẻ trung
Khối tình cọ mãi với non sông
Đá kia còn biết xuân già dặn
Chả trách người ta lúc trẻ trung
(Đá ông chồng, đá bà chồng)
hoặc qua bài tình tự:
Canh khuya văng vẳng trống
canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
Chén rượu hương đưa đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn !
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn
Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tý con con.
Trơ cái hồng nhan với nước non
Chén rượu hương đưa đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn !
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn
Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tý con con.
Xuân Hương vịnh bánh trôi nước
quen thuộc của người bình dân. Thân em ở đây (Xuân Hương) hay là thân phận đàn
bà dưới thời phong kiến lắm lận đận? nhưng tấm lòng được tôn trọng.
Thân em trắng phận em tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Lớn nhỏ mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
Bảy nổi ba chìm với nước non
Lớn nhỏ mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
Hồ Xuân Hương có phong cách
riêng tiêu biểu cho thái độ tự nhiên tràn đầy tình cảm trong sáng, thơ Hồ Xuân
Hương rất bình dân, duyên dáng giàu khả năng gợi cảm, gợi tình, chứa chan tình
tự và cảm khoái, không dùng hán tự điển tích. Bà có biệt tài sử dụng điệp khúc,
âm điệu và tiết tấu, thích hợp với từng ý, từng hoàn cảnh. Dù muốn chê hay
khen, đọc thơ Xuân Hương cảm thấy cái vui vui xen lẫn vào hồn, cái hay trong
thơ Xuân Hương rất tuyệt vời, nhưng bài viết giới hạn không thể trình bày và
trích giải hết được…Hồ Xuân Hương là nhà thơ độc đáo có một không hai trong
văn học sử Việt Nam…
Nguyễn Quý Đại
Theo https://hientinhvn.wordpress.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét