Thời gian ơi sao không đổi sắc màu!
|
Đọc tác phẩm Lời cuối với nhà văn đã đi
xa.
Trần Thanh Phương sưu tầm, biên soạn.
Kỷ niệm 71 năm Ngày Cách mạng tháng
Tám thành công, tôi vừa náo nức vừa thẫn thờ hồi tưởng bầu không khí toàn dân
tham gia khởi nghĩa cướp chính quyền, trong biển người đó có chàng trai non dại
tập tễnh vào đời, chợt nhận được món quà của người bạn lâu năm, nhà báo Trần
Thanh Phương, từ Thành phố Hồ Chí Minh gửi ra tặng: Tập Lời cuối với nhà
văn đã đi xa (Nxb Hội Nhà văn - sách không bán). Càng đọc càng bồi hồi.
Lời cuối với nhà văn đã đi xa do Trần
Thanh Phương sưu tầm, biên soạn tập hợp hơn một trăm bài ai điếu (hoặc tương
tự) tưởng niệm, tiễn đưa các nhà văn, nhà thơ về cõi vô cùng. Từ những vì sao
lấp lánh trên bầu trời dân tộc cả trăm năm nay như Nguyễn Đình Chiểu, Dương
Khuê, Phan Châu Trinh, Tản Đà, Vũ Trọng Phụng, Lan Khai, Huỳnh Thúc Kháng,
Ưng Bình Thúc Giạ Thị, Nguyễn Bính... đến những người tuổi cùng trang lứa với
chúng tôi: Nguyễn Quang Sáng, Anh Đức, Trần Thanh Giao, Nguyễn Khắc Phục -
nhà văn này, người sau cùng nhận “Lời cuối” của bạn hữu in trong tập sách,
chia tay chúng ta cách đây hơn hai tháng, ngày 20-6-2016.
Làm sao không chạnh lòng gặp lại mấy câu thốt
lên từ miệng cụ Tam Nguyên Yên Đổ khi hay tin người bạn tri âm, tiến sĩ Dương
Khuê giã từ cõi thế:
Bác Dương thôi đã thôi rồi!
Nước non man mác ngậm ngùi lòng ta...
... Bác già tôi cũng già rồi
Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là! (1902)
Hay lời cụ Ca Văn Thỉnh phát biểu trước mộ
nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu ở huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, thời đất nước còn
trong vòng nô lệ, trước mặt quan Thống đốc Tây: “Thơ Vân Tiên còn thì thinh
danh cụ Đồ Chiểu vẫn còn. Mà thinh danh cụ còn thì tấm gương tài hoa, tiết
tháo của cụ không bao giờ tan vỡ” (1943).
Có những người đi xa nhưng không bao giờ
khuất bóng trong lịch sử dân tộc, bởi các vị đã để lại cho đời tấm gương và
bài học:
Trước đã giỏi thế sau nên giỏi nữa, dấu cộng
hòa xin ráng sức theo đời;
Thác còn thiêng thời sống phải thiêng hơn,
thang độc lập quyết đều tay xin với.
Bên mộ nhà thơ Tản Đà: “Một giọt nước mắt
nhỏ trên nơi tiên sinh sắp yên nghỉ lâu dài mãi mãi, ly gián hẳn với đời sống
chật vật, phiền phức, khó khăn, mà sinh thời tiên sinh thường coi là một giấc
mộng lớn, chúng tôi có cảm giác khóc cho cả nghệ thuật nước Việt Nam và, sao
ta chả nói thế được - cho cả nghệ thuật chung cả loài người chúng ta nữa.
…Chúng tôi, thanh niên của thời đại mới,
đang băn khoăn đi tìm lý tưởng, và lý do của hành động, và hơn hết cả, sự
trong sáng và lòng hy sinh, chúng tôi vẫn mến phục tiên sinh, và coi ở tiên
sinh hai nhân vật: một người đã đón sự sống với một triết lý giản dị và cao
thượng; một nhà thơ đã cho kẻ đọc cái giác vị thuần túy của cả một nền văn
chương viễn đông ngày hôm qua” (Đinh Gia Trinh, Chủ nhiệm báo Le Monôme, cơ
quan của Tổng hội sinh viên trường Cao đẳng (Hà Nội, 07-6-1939).
Trước Cách mạng tháng Tám 1945, hầu hết các
nhà văn nước ta sống nghèo, chết nghèo. Vũ Trọng Phụng một tài năng lớn là điển
hình. Thay mặt các đồng nghiệp cùng tiễn đưa tác giả Số đỏ, nhà thơ Lưu
Trọng Lư đau đớn cho bạn và cũng là bộc bạch nỗi niềm của số đông, nói với
nhà văn đã nằm trong huyệt: “Anh đã chết như một chiến sĩ đã đấu tranh đến
phút cuối cùng. Tuy anh ngã, mà tất cả vinh quang đã về anh, sẽ về anh... Tử
thần không thể làm gì nữa. Thôi, xin mời anh đi, và anh nên an thỏa. Ở đây
hay ở kia, anh vẫn là một người có quyền an thỏa”.
Nhà văn Nguyễn Vỹ tiếp lời Lưu Trọng Lư,
còn bức xúc hơn: “Anh Vũ Trọng Phụng, đi đưa đám ma anh, tôi buồn lắm, tôi tủi
cho anh, tôi tủi cho tất cả các bạn đi đưa anh, tôi tủi cho văn học nước Nam
mà anh là một đại biểu xứng đáng hơn hết. Nguyễn Khắc Hiếu chết cũng quạnh
hiu như anh. Nguyễn Nhược Pháp chết cũng quạnh hiu như anh. Vũ Lang chết cũng
quạnh hiu như anh. Đỗ Thúc Trâm chết cũng quạnh hiu như anh, Hoàng Tích Chu
cũng vậy! (Hà Nội, 15-10-1939).
Càng xúc động nữa khi đọc lại một vài đoạn
điếu văn mà bản thân người viết bài này từng nhiều lần chắp tay cúi đầu lắng
nghe trong khuôn viên ngôi nhà quen thuộc số 51, Phố Trần Hưng Đạo, hay Nhà
tang lễ số 5 Phố Trần Thánh Tông, Hà Nội. “Những giá trị tinh thần mà Xuân Diệu
để lại cho chúng ta là những di sản đẹp đẽ và lâu bền, có thể truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác, không chỉ có giá trị trong nước mà còn có giá trị quốc
tế. Tất cả những giá trị ấy đều bắt đầu từ trái tim anh, trái tim lớn của anh
như không biết đến sự phai tàn... Sao trái tim ấy hôm nay ngừng đập? Một cây
lớn nằm xuống làm cho cả khoảng trời trống vắng. Tổn thất này, biết rằng chẳng
thể náo tránh khỏi, nhưng mà sao đến sớm thế, đột ngột thế, và biết lấy gì để
bù đắp?
“Diệu ơi! Anh còn nghe không anh, anh có thấy
không anh?” (Hà Xuân Trường - Hà Nội, 21-12-1985).
Xuân Diệu không chắc còn nghe, có thấy
nhưng mọi người có mặt tại lễ tang đều thấy, đều nghe và đều rúng động tận
tâm can. Chế Lan Viên bật khóc: “Diệu đi trước rồi chúng mình đi tiếp/ Diệu nằm
ở thơ chứ đâu ở quan tài!”
Hãy cùng lắng nghe lời nhà thơ Nguyễn Đình
Thi vĩnh biệt tác giả Vang bóng một thời, người đi tìm cái đẹp, cái thật:
“... Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ bậc thầy của tiếng Việt Nam... Những tuỳ bút
của ông quả là một nhân chứng của thời đại chúng ta, từ những năm liền trước
Cách mạng cho đến suốt hơn 40 năm chiến đấu chống đế quốc xâm lược và xây dựng
chế độ xã hội mới, cuộc sống mới của chúng ta giữa muôn vàn khó khăn... Trong
những trang viết của Nguyễn Tuân, ở dưới sâu của những cái bề nổi gai góc hoặc
phiêu lãng, ở đằng sau những sự ngoa ngoắt và cả khinh bạc của một thời ngột
ngạt, quẩn quanh, tù túng, bế tắc, ở dưới sâu tất cả những cái ấy là sự đi
tìm cái đẹp và đi tìm cái thật, là nỗi khao khát cái đẹp và nỗi khao khát cái
thật, là lòng yêu cái đẹp và yêu cái thật...” (Hà Nội, 31-7-1987).
Về Chế Lan Viên, trong khi tại Thành phố Hồ
Chí Minh, nhà thơ Bảo Định Giang khóc bạn: “... Trong đêm tối mất nước, tập
thơ Điêu tàn của nhà thơ vừa qua tuổi thiếu niên xuất hiện trên thi
đàn “như một niềm kinh dị”, theo lời nhà phê bình Hoài Thanh. Người ta gặp
trong Điêu tàn những Tháp Chàm, những Chiêm nương, những sọ người, những bóng
ma, những nỗi đau nỗi buồn, nhưng trên tất cả những cảm hứng lãng mạn chủ
nghĩa ấy là lòng yêu nước, “kiếp dân Chàm nước mất, kiếp dân mình đâu xa”,
thì cùng giờ phút ấy, tại Hà Nội, nhà thơ Nguyễn Đình Thi thay mặt đông đảo
nhà văn, nhà thơ chen chúc trong ngôi nhà số 51 và hàng nghìn người dân đứng
chật một khúc phố Trần Hưng Đạo, đau đớn “chia tay với nhà thơ Chế Lan Viên,
một trí tuệ và một tài năng lớn của văn học ta vừa ra đi, để lại một tòa nhà
lớn về thơ... Từ năm mười bảy tuổi, Chế Lan Viên đã đem đến cho văn học ta những
câu thơ lạ lùng:
Ta cùng nàng nhìn nhau không tiếng
nói
Sợ lời than lay đổ cả đêm sâu
Những câu thơ bật lên tia lửa của một tài
năng không dễ có trong đời. Tài năng lớn ấy đã gặp được cách mạng và đi vào
cách mạng,
Khi ta ở chỉ là nơi ta ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn.
Với ánh sáng lớn và tình yêu lớn ấy, Chế
Lan Viên đã đem tất cả trí thông minh luôn có những sáng tạo bất ngờ của anh
tìm hết mọi cách dùng thơ làm vũ khí đóng góp vào cuộc chiến đấu của nhân dân
ta...” (24-6-1989).
Từ bấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim...
“Ngục tù của thực dân đế quốc đã không khuất
phục nổi ý chí cách mạng và niềm tin tất thắng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc
của người chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi” (Thủ tướng Phan Văn Khải - Hà Nội,
13-12-2002).
“Vào những năm 1937 - 1938, khi hầu hết các
nhà thơ mới đều say sưa bơi lội trong dòng sông tâm tư tình cảm cá nhân, né
tránh thân phận nô lệ mất nước của mình thì Tố Hữu từ bối cảnh của Huế đã xuất
hiện những bình thơ nói về những con người dưới đáy cùng xã hội, nói với sự đồng
cảm sâu sắc nỗi khổ đau của giai cấp cần lao. Hồn thơ Tố Hữu là hồn thơ một
thi nhân đồng thời là một chiến sĩ đấu tranh không mệt mỏi cho giải phóng dân
tộc, cho mọi tâm hồn đang đau khổ” (Lời Phó bí thư Tỉnh uỷ Thừa Thiên - Huế
Nguyễn Huy Ngọc vĩnh biệt nhà thơ Tố Hữu, người con xứ Huế. (Huế, cùng ngày
13-12-2002).
Nhà thơ Hữu Thỉnh nói lời cuối với Nguyễn
Văn Bổng: “Nói đến Nguyễn Văn Bổng là nói đến một nhà văn xứ Quảng anh hùng,
giàu bản sắc, một nhà văn hàng đầu của văn xuôi Việt Nam hiện đại, một bút lực
dồi dào với những tác phẩm tràn đầy nhựa sống... Nói đến Nguyễn Văn Bổng là
nói đến một nhà văn chiến sĩ vào Nam ra Bắc, xông pha nơi đầu sóng gió, sống
trọn một cuộc đời đầy biến động và thử thách khắc nghiệt, đi cùng lịch sử đất
nước, luôn có mặt ở những nơi mũi nhọn, những điểm nóng... Nói đến Nguyễn Văn
Bổng là nói đến một tài năng làm báo bẩm sinh...” (13-7-2001)
Với Phạm Tiến Duật, người đồng đội một thời
quân ngũ, nay ra đi hơi sớm, Hữu Thỉnh quả quyết: “Dưới bầu trời sinh tử của
chiến tranh, Phạm Tiến Duật đã vươn lên làm một bước đột phá điển hình nhất,
đưa thơ chống Mỹ lên đỉnh cao, một hiện tượng thơ ca đặc sắc của chiến tranh:
Thơ anh mang đến cho bạn đọc niềm vui lớn như những tin thắng trận từ tiền
tuyến lớn. Độc đáo và vui sáng, đầy sức lay động và ấm áp ngay cả trong những
lúc cay nghiệt nhất của chiến tranh, đó là vẻ đẹp của thơ Phạm Tiến Duật” (Hà
Nội, 11-12-2007).
Tôi đã làm một việc người đọc sách không
nên làm, không được phép làm là trích dẫn miên man từ cuốn sách mình đọc. Vậy
mà tôi vẫn muốn trích nữa, dẫn thêm. Biết có cách nào tốt hơn? Những vị đọc
hay viết những lời ai điếu dù rất ngắn gọn, bằng tất cả cái tình, cái nghĩa
và chiều sâu cảm nhận về con người, sự nghiệp nhà văn vừa nằm xuống, các vị
đã bày tỏ giúp tôi nghĩa tình cùng cảm nhận của mình, mà tôi làm sao diễn tả
được như vậy? Huống nữa, đây là cuốn sách không bán. Vậy hãy cho tôi chia sẻ
với đông đảo bạn đọc thêm được chút nào hay chút ấy, chắc là được phép? - xin
biện bạch.
Chợt nhớ một lần, cách đây đã khá lâu, nhà
thơ Hữu Thỉnh và tôi cùng đi chung một chiếc xe taxi lần lượt về nhà sau cuộc
họp muộn sáng chủ nhật. Mới hôm trước, chúng tôi vừa gặp nhau trong buổi tiễn
đưa một đồng nghiệp. Tôi nói với anh Chủ tịch Hội Nhà văn: “Tôi đã nghe, đã đọc
gần như tất cả các điếu văn của anh mấy năm gần đây. Bài nào cũng có những
nét riêng, nhiều ý đặc sắc, và bài nào cũng xúc động”. Nhà thơ Hữu Thỉnh
khiêm nhường: “Những lời tiễn đưa thường vọt thẳng từ trái tim tôi”. Trái tim
và trí tuệ nữa chứ, anh!
Tập sách do nhà báo Trần Thanh Phương sưu tầm,
biên soạn, như nhan đề của nó, là “Lời cuối với nhà văn đã đi xa”. Bên cạnh
những phát biểu tại lễ tiễn đưa, có một số bài tưởng niệm những người khuất
bóng từ lâu, như nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh nhớ Nguyễn Bính, nhà văn Triệu Xuân
viết về Ưng Bình Thúc Giạ Thị, Vũ Bằng, Lê Văn Trương, Phó Giáo sư, Tiến sĩ
Trần Mạnh Tiến về Lan Khai…
Từ xưa tới nay, có những áng văn chương người
làm ra mà không hề nghĩ mình làm văn chương, vậy mà nhiều đôi câu đối, vần
thơ khóc bạn, văn điếu, văn tế dưới dạng kinh điển hay dân gian vẫn cứ tự
mình lan tỏa và sống mãi cùng thời gian. Không ít bài văn tế các cụ tiên tổ
chúng ta làm, nay hiện diện trong giáo trình trung học, đại học dạy các lớp hậu
sinh. “Văn tế thập loại chúng sinh”, cụ Tiên Điền không nói với một người mà
hướng tới số đông vì vậy càng da diết thâm trầm. “Văn tế Trương Định” của cụ
Đồ Chiểu lan tỏa hào khí Đồng Nai và tiết tháo người Ngũ Quảng. Ở miền Trung,
bài vè “Thất thủ kinh đô” có đoạn hướng về “âm hồn”, tức vong linh những đồng
bào, chiến sĩ khuyết danh ngã xuống trong trận quân đội Pháp đánh chiếm kinh
thành Huế năm 1885, thực chất là văn ai điếu dân gian.
Ở nước ngoài, như Pháp chẳng hạn, các điếu
văn vốn có từ thượng cổ, đến thời Phục hưng trở thành thể loại văn học chính
thống bên cạnh kịch cổ điển, tiểu thuyết lãng mạn, văn hiện thực, thơ tượng
trưng..., khởi đầu nhờ tài năng của Giám mục Bossuet. Trước sau Đức Giám mục
viết có mười bài điếu, ba bài trở thành bất hủ. Sang thời đương đại, có nhà
văn viết ai điếu về người vừa ra đi hay tưởng niệm vị anh hùng khuất núi cả mấy
trăm năm trước, tức là chưa từng biết nhau, quen nhau. Nhà văn André Malraux
(1901-1976) tác giả Thân phận con người, chỉ có tám bài trong thời gian
ông làm Bộ trưởng Văn hóa, từ 1958 đến 1965. Nổi tiếng hơn cả là lời tưởng niệm
nhà yêu nước Jean Moulin, Chủ tịch Hội đồng quốc gia Pháp chống phát xít
trong Chiến tranh thế giới thứ hai, bị Đức sát hại, tại buổi lễ chuyển di cốt
ông vào Điện Panthéon. Xuất sắc tới mức ngày nay, khi tổng thống đương nhiệm
Pháp đọc lời ai điếu tại một dịp tương tự, có tờ báo lớn đưa tên tít: “Sau tiền
lệ Malraux, điếu văn đọc tại Điện Panthéon trở thành bài tập làm văn ngặt
nghèo”.
Dùng tấm gương người xưa làm bài học dạy
người nay, gợi lại lịch sử để bàn về thời cuộc, tinh túy của các bài ai điếu,
tưởng niệm là ở chỗ đó. Trong lịch sử nước ta, có những ai văn mặc nhiên trở
thành hùng văn. Bài cụ Phan Bội Châu khóc cụ Phan Châu Trinh, sau khi ngợi ca
tấm gương người vừa khuất:
Dọc ngang trời đất rực vẻ văn minh,
Tức tối nước nhà cam đường hủ bại.
Cá chậu chim lồng vẩn vơ thế, áo công danh
thôi vất lối tầm thường,
Rồng mây cọp gió lạ lùng chi, miền thanh
khí thử hô người trung ngoại
Cuối cùng cụ chốt lại:
Trước đã giỏi thế sau nên giỏi nữa, dấu cộng
hòa xin ráng sức theo đời
Thác còn thiêng thời sống phải thiêng hơn,
thang độc lập quyết đều tay vin với.
Cụ tôn vinh người trước mà nghĩ tới người
sau. “Người sau” đây có phải là chàng Nguyễn Ái Quốc, con trai một người bạn
cùng quê với cụ, lúc này đang bôn ba tìm đường vân động nhân dân ta cùng đứng
lên “đều tay vin với” giành độc lập, tự do cho đất nước?
Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng
dân tộc, nhà văn hóa lớn chưa bao giờ nhận mình là nhà văn, nhà thơ. Thời hoạt
động ở nước ngoài, khi cần làm thủ tục đăng ký dự một cuộc hội nghị lớn, Người
ghi nghề nghiệp của mình là làm báo. Bài điếu văn tiễn đưa Người về chốn vĩnh
hằng, một công trình tập thể do Đống Ngạc chấp bút, sau ba lần Bộ Chính trị họp
cho ý kiến mới đi đến nhất trí thông qua, lại còn trải qua sự chỉnh sửa ngôn
từ lần cuối bởi những cây bút như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Tố Hữu, Hoàng
Tùng, trước khi Bí thư thứ nhất Lê Duẩn thay mặt Ban Chấp hành Trung ương và
toàn Đảng đọc trước cuộc mít tinh hàng vạn người tại Quảng trường Ba Đình, Hà
Nội và đồng bào chiến sĩ cả nước trong cảnh “đời tuôn nước mắt trời tuôn
mưa”, sáng 9 tháng 9 năm 1969, bài điếu văn ấy lừng lững đi vào lịch sử như một
áng hùng văn:
“Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước
ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch người anh hùng dân tộc vĩ đại và chính người đã làm
rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta”.
Tấm gương và bài học Bác Hồ để lại cho đời
được đúc kết thành năm lời thề Ban chấp hành Trung ương thay mặt đồng bào,
chiến sĩ cả nước thề trươc anh linh Người, mau chóng biến thành sức mạnh hành
động, đưa cuộc chiến đấu chống Mỹ vô cùng gian lao của chúng ta đạt đích giải
phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc sớm hơn so với dự kiến ban đầu của Bộ
Chính trị.
Cảm ơn tấm lòng Trần Thanh Phương, người
con Đất Mũi Cà Mau, nhà báo, nhà văn mà sức viết “dù thể loại nào cũng để lại
ấn tượng trong người đọc một giọng văn thuần phác, dung dị nhẹ nhàng” (lời
nhà văn Mai Văn Tạo). Tuy nhiên đam mê lớn nhất, đeo đẳng Trần Thanh Phương
suốt đời là sưu tầm, lưu giữ tư liệu báo chí, văn học Việt Nam, không phải để
ẵm làm của riêng mà sẵn sàng mang ra phục vụ mọi người.
Trước khi bắt tay vào sưu tập tư liệu bộ
sách Lời cuối, Trần Thanh Phương “có làm mâm cơm, thắp nén hương xin hương hồn
các nhà văn, nhà thơ qua cố cho phép tôi được làm cái việc thiêng liêng”. Nói
dại, một ngày kia theo qui luật muôn đời, đến lượt Trần Thanh Phương dung dị
nhẹ nhàng nằm xuống, người thay mặt anh em nói lời cuối với anh, có thể yên
tâm quả quyết: “Trần Thanh Phương, nhà sưu tầm tư liệu văn học, báo chí tâm
huyết có một không hai trong lịch sử văn chương Việt Nam đương đại”.
2-9-2016
|
Thứ Bảy, 24 tháng 12, 2016
Thời gian ơi sao không đổi sắc màu
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Khúc hát Marseilles
Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...
-
Vài nét về văn học Đông Nam Á Đặc điểm của văn học Đông Nam Á (ĐNA) Nói đến văn học Đông Nam Á là phải nói đến sức m...
-
Cảm nhận về bài thơ một chút Kon Tum của nhà thơ Tạ Văn Sỹ “Mai tạm biệt – em về phố lớn Mang theo về một chút Kon Tụm”… Vâng...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
hãng eva airline
vé máy bay đi mỹ là bao nhiêu
vé máy bay korean air
đại lý vé máy bay đi mỹ
săn vé máy bay giá rẻ đi canada
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Du Lich Tu Tuc
Tri Thuc Du Lich