Thiên nhiên nơi ký thác
tâm hồn
|
Có một điều thú vị, sau
khi đọc xong 3 trường ca của nhà thơ Hữu Thỉnh, tôi bỗng nhận ra một sự nhất
quán là hình như thiên nhiên đã vì ông mà phó thác hồn mình vào hồn người và
Hữu Thỉnh như cũng tan chảy cảm xúc cùng với sự rung động của thiên nhiên.
Không còn thụ động “cho vui mới được vui, cho buồn mới được buồn”, thiên
nhiên trong trường ca Hữu Thỉnh ở tầng nấc cao hơn, vận động đầy biến hóa, đầy
sắc thái… thiên nhiên là sinh mệnh thứ hai, là sự hóa thân của con người.
CẢM HỨNG THIÊN NHIÊN – MẠCH
NGUỒN SÁNG TẠO, SỰ SẺ CHIA TẬN ĐỘ
“CON người là một tiểu vũ
trụ”, trường ca Hữu Thỉnh cho ta hiểu rõ hơn điều đó. Trong cái vô thường, vô
vi của cuộc sống; con người, thiên nhiên luôn ẩn chứa bao điều bí ẩn. Hình
như thiên nhiên lấy cảm xúc của mỗi con người mà làm nên tâm trạng, mà bộc bạch
với chính trời đất, mà tồn vong, và con người hình như cũng tìm thấy nơi
thiên nhiên lắng đọng tâm hồn mình để giải bầy, sẻ chia, gửi gắm, để hóa
thân…Và cũng vì lẽ đó, con người thừa hưởng hay được ân huệ mang trong mình
nhiều giá trị bất diệt của thiên nhiên, cái mênh mông mà gần gũi, cái rộng
dài mà thẳm sâu, cái gấp khúc, quanh co; cái éo le, dang dở mà làm nên sự
ngay ngắn…để rồi đích đến là sinh khí, là hạnh phúc của trái ngọt, là cái tồn
tại vĩnh cửu, là gen quý di truyền, ký thác, để nhận diện “cái khác” khác
“cái khác”.
Hiểu mình, thấu lẽ với
thiên nhiên, nhà thơ Hữu Thỉnh lúc như mang hồn người, lúc như lại mang hồn cỏ
cây sông nước… mà cất lên niềm say đắm, mê hoặc lòng người “ Còn chút lửa hoa
dong riềng cuối giậu/ Sợ một chiều sương muối đến đem đi”. Sự tinh tế làm nên
sức lan tỏa, làm nên sự khác biệt, ông đi tìm cái khác biệt để đạt được cái
hòa đồng, biến cái không thể thành cái có thể, khiến thơ Hữu Thỉnh biến hóa
khôn lường.
Tuyển tập tập hợp ba trường
ca: Sức bền của đất, Trường ca biển, Đường tới thành phố là sự
tích tụ khát vọng, tư tưởng, tình cảm của tác giả về cuộc đời, con người; về
cách lấy cái hữu hạn để ứng xử với vô cùng. Hữu Thỉnh đã tìm đến thể loại
trường ca để thể hiện, không phải như ông khiêm nhường chia sẻ là “không có
tài viết ngắn”. mà có lẽ “Cuộc sống lớn lao, bi tráng quá, đòi hỏi phải mở rộng
các kích cỡ. Những điều gì cần nói và có thể nói được tôi đã nói trên trang
giấy”. Đọc liền một mạch ba trường ca của ông có bao điều, bao nhiêu cảm xúc
tôi được tận hưởng mà chỉ có ông mới là người đem đến được; trong rất nhiều
khía cạnh, chiều kích khác nhau trường ca Hữu Thỉnh khiến tôi tâm đắc, tôi mạnh
bạo với vài lát cắt các trường ca của ông như là bày tỏ lòng khâm phục chia sẻ
cùng độc giả.
THIÊN NHIÊN SINH MỆNH THỨ
HAI, NƠI KÝ THÁC TÂM HỒN
Trong sự hòa hợp, ký thác ấy
đất được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, trước hết đất là khởi nguồn của sự sống,
đất là sinh linh, đất là vĩnh cửu, trường tồn, con người sinh ra từ cát bụi,
đến khi ký thác lại trở về với cát bụi. Thiên nhiên, con người là những dạng
vật chất tinh túy cụ thể, được “vắt” ra từ đất, nó biến đổi không ngừng, kết
thúc một hành trình, một đời sống... Lại trở về với “mẹ” - Đất. Trường ca Sức
bền của đất, đi tìm lời giải đáp đâu là căn nguyên, cái gì là tố chất tác
thành sức bền của một hành trình, một đời sống...mà làm nên sức bền của đất.
Nói một cách khác Tổ quốc là đất đai, cỏ cây, sông núi, là con người, là vạn
vật, là sự gắn bó gần gũi thân quen, là câu ca, lời hát, là tình yêu, là máu
mủ ruột già, là quê hương nòi giống tổ tiên... Mẹ Tổ quốc vừa là cái gì đó
thiêng liêng vĩ đại, vừa là cái gì đó nhỏ nhoi, bình dị mà ấm áp sâu đằm như
đất. Ký thác tâm hồn mình vào thiên nhiên là cách nhà thơ bày tỏ tình cảm của
mình với Tổ quốc.
Đất. Ở đâu chúng ta cũng gặp
đất:
Cây
cối thưa dần
Màu ngụy trang cuối cùng
là màu của đất.
Đất chiến hào như một người
hay chuyện
Ta chưa một lần được thư
thả đất ơi
Đất vẫn đất của dân ca và
mía mật
Gió thổi rừng lồ ô xao xuyến
biết bao nhiêu
Con đường tấy lên như một
lời thề
Đất gọi ta, làng gọi ta,
nóng bỏng
Đắp nắm đất cho người ở lại
Trận đánh hiểm nghèo: tất
cả giơ tay!
Đến lời đề từ cũng đầy
hương vị đất đai:
Qua sông lấy sóng mà yêu
Đường xa gặp núi lấy đèo
mà tin
Con người khi đã qua cái
khó khăn và gian lao được đúc rút bằng niềm tin trực giác. Cái triết lý đời
thường được gửi gắm vào thơ không chỉ đúng nhất thời mà còn được mài rũa theo
thời gian, không chỉ hiện thực mà còn thơ mộng. Sự am hiểu về quy luật thiên
nhiên đã cho Hữu Thỉnh những câu thơ triết luận có lý với đời. Cái hấp dẫn của
thơ ông phải chăng là sự hòa hợp với thiên nhiên. Tâm thế tác giả từ đó mà được
thiên nhiên nâng lên can trường, dũng cảm và tự chủ.
Và song song ở một tầng vỉa
khác hình ảnh mẹ cũng được ông nhắc đi nhắc lại nhiều lần:
Đom đóm bay ra hoa gạo đỏ
Mẹ ở nhà đã cất áo bông
Mẹ có ra bờ sông
Qua bến đò tiễn con dạo
trước
Đường xuống bến có mười
sáu bậc
Mẹ nhớ thương đã bạc mái đầu...
Đất nước ngày có giặc
Mẹ vẫn đỏ miếng trầu
Ấm một vùng tin cậy phía
sau.
Mẹ vẫn đong bữa ăn bằng
chiếc lon nho nhỏ
Quá nửa những cánh đồng
dành cho đứa con xa
Kim nhể gai kim càng phải
nhọn
Mẹ dạy con như thế tự bao
giờ
Xa mẹ chúng con vỡ nhẽ
trăm điều
Đất và mẹ, hoà quyện, tan
lẫn vào nhau trong cảm xúc của thơ ông, tuy hai mà một, để cho ông có được
không gian đủ để giải bầy và cao hơn để ký thác tâm hồn mình, nhận
diện mình.Từ mẹ, từ cây đa bến nước sân đình, từ cái nôi của hát xoan, hát ghẹo,
thơ ông mang đậm sắc thái văn hóa dân gian, dân ca. Nhiều ngạn ngữ, thành ngữ,
tục ngữ, ca dao trữ tình nhập vào ông giờ đây được ông huy động vào Sức bền của
đất một cách tài tình, hư ảo, biến hóa khôn lường:
- Với hát xoan, hát ghẹo:
Cây vối đứng bờ ao, cặp thừng
treo gác bếp
Bồ muối để dành vần cạnh bếp
tro
Cái cối cái chày đếm nhịp
nhỏ to
Bao truyền thuyết được kể
ra từ đấy...
Hai chữ thủy chung đính ở
góc khăn
Bớt chông chênh những ngày
chờ đợi
Kim chỉ có đầu hoa thơm có
cội
Bèo trôi lôi bến tiễn đưa
nhau.
- Với ngạn ngữ, thành ngữ,
tục ngữ, ca dao:
Tre làm nhà ngâm ba năm mới
vớt
Ớt cựa gà ba vụ mới cay
Trời có mưa có nắng
Giếng có cạn có đầy
Con gái ở bền không chê tấm
vá
Đường tới thành phố là trường
ca nối tiếp mạch Sức bền của đất.Mở đầu hai trường ca này đều bắt đầu từ “lửa”.
Nếu lửa ở Sức bền của đất phát ra từ ánh sáng con đom đóm còn “chập chờn,
sáng tối”; thì lửa ở Đường tới thành phố đã đạt đến độ “hừng” đủ để
bùng cháy, đủ để làm nên biến đổi. Như vậy, trong tư duy và hình
tượng thơ, Đường tới thành phố đã có sự kế thừa Sức bền của đất.
Tuy nhiên, tất cả đã được đẩy lên cao hơn, biên độ của cấu trúc được mở rộng.Cấu
trúc mạch thẳng được duy trì, cấu trúc hình sin xuất hiện, cùng với nó là
không gian thơ được mơ rộng, tạo ra bề rộng cho sự liên tưởng, bề sâu cho cảm
xúc. Thế giới nghệ thuật trong Đường tới thành phố đã được dựng
lên thành một tổng phổ đa tầng, nhiều sắc thái, nhiều mảng miếng, nhiều cung
bậc, nhiều tuyến đan chéo nhau tạo nên sự cộng hưởng. Nói cách khác, với nhân
vật trọng tâm là người lính, Đường tới thành phố là cảm hứng phức hợp, nhiều
tầng, là sự cộng hưởng của cái chung và cái riêng, cái hiện hữu và cái vô
hình, niềm vui và nỗi buồn, đau thương và kiêu hãnh, sự đan xen giữa khát vọng
và lý tưởng mà tuổi trẻ thời đại nào cũng cần suy ngẫm. Được hỏi về trường ca
này, nhà thơ Hữu Thỉnh bộc bạch “Hiện thực chiến tranh trong tác phẩm của tôi
chỉ là cái cớ để nhà thơ dựng lên một chân dung tâm trạng của người lính
trong chiến tranh. Đó là đời sống tinh thần, tâm hồn, tình cảm, trái tim của
người lính trong những bối cảnh khốc liệt nhất, từ đó lóe sáng tình yêu của họ
về đất nước, quê hương, về con người.”
Có thể dễ dàng nhận thấy
“màu của lửa” tràn ngập khắp các chương, đoạn của trường ca. Ngọn lửa trở
thành biểu tượng mà tác giả gửi gắm bao quan niệm sống, bao suy tư; nơi ký
thác tâm hồn mình mà sẻ chia với nhân thế: “Không biết cách nào lửa đã nhóm
lên/ Như không phải củi rừng đang cháy/ Có gì đó trong đốm tàn hoa cải/ Cứ
bay lên là nhẹ người ngồi/ Lửa vút cao vách đất bóng người/ Đang ấm lại bao nỗi
niềm để ngỏ/ Tiếng suối đổ hãy nghe suối đổ/ Chảy cồn cào ngang dọc mỗi tâm
tư…”
Lửa như hoá thân vào mỗi
cung bậc khác nhau của tình cảm để mà cháy, để mà hiện hữu, để mà tỏ bày. Người
đọc như bị thôi thúc được khám phá, được vỡ oà:
Nếu mẹ biết ta còn đông đủ
Đang bập bùng thương nhớ suốt
hành lang
Giọn đèn ấy bớt đi nhiều
khuya khoắt
Chia bình yên cho mỗi con
đường
và:
Đốt ngọn lửa để tìm vào
tri kỷ
Và:
Chúng tôi trẻ nên củi rừng
mau bén
Chúng tôi làm thơ ghi lấy
cuộc đời mình
Hoa bí đỏ từ vạt nương tư
lệnh
Đỏ dần sang khắp cứ bạt
ngàn
Anh xoa xuýt trước màu hoa
cứu đói
Lửa cho sự liên tưởng đầy
thú vị và tinh tế. Lửa có sinh mệnh, có sức lan truyền nhân lên sức mạnh và cảm
hóa. Thiên nhiên, đất đai, cỏ cây , sông núi, lửa... có thể coi là một kiểu
“nhân vật” mang gương mặt người thể hiện đặc điểm tư duy, đánh dấu những tìm
tòi và sáng tạo của nhà thơ muốn ký thác.
Sông ơi sông nếu ta phải
ra đi
Bậc thấp xuống cho em ra
gánh nước
Đất mặn đắng tan dần rồi
chảy khắp
Đất thì thầm và nóng bỏng
như em
Hoa bung biêng ơi, con lắc
của mùa xuân
Rừng không ngủ vì những hồi
gõ tím
Tôi là chỗ thất thường của
gió
Khi người yêu cởi áo trao
khăn
Hình ảnh người chị, người
vợ xuất hiện trong chiến tranh cũng đầy chia sẻ:
Suối cứ thế âm thầm nuôi
biển lớn
Cứ âm thầm chảy xiết với
thời gian
Anh hỏi hoài để được nghe
chị nói
Hàng tre thưa đưa gió rắc
lên thềm
Nhẫn vẫn lỏng trên ngón
tay khô héo
Thiên nhiên đồng hành cùng
nhà thơ, “thấu tận nguồn cơn” những hy sinh gian khổ trong chiến tranh. Chính
thiên nhiên đã cỗ vũ, nâng bước cho người lính làm nên ý chí, làm nên lịch sử.
Cũng chính thiên nhiên nói hộ tâm tư người lính trên đường ra trận mỗi khi
ngoái lại nhìn về quê nhà:
Cha cả nghĩ còn mẹ thường
ít nói
Lúa đồng mình mỏi mắt vẫn
chưa hoe
Nếu trước kia thiên nhiên
(Sức bền của đất) biểu trưng cho sự sống, cho sức bền, cho sự dẻo dai đối lập
với chiến tranh, với sự chết chóc, có khả năng lan tỏa niềm tin, thì giờ đây
(Đường tới thành phố) thiên nhiên, là hiện diện, tồn tại của cá thể, mang tâm
thế của con người.
Sau Trường ca Đường tới
thành phố, nối tiếp mạch cảm xúc, “Trường ca Biển là một sự kế tục và cũng là
một cuộc vượt thoát trong nghệ thuật viết trường ca của Hữu Thỉnh. Trước hết
là sự thay đổi bối cảnh. Nếu như ở hai trường ca trước, bối cảnh chính là cái
khoảnh khắc khốc liệt cuối cùng của chiến tranh, thì ở đây là cái dữ dội của
biển trên một vùng đảo nhỏ xa xôi của Tổ quốc trong sự nhòm ngó, xâm lăng của
kẻ thù. Kết cấu Trường ca Biển đã khác nhiều so với Sức bền của đất và Đường
tới thành phố. Yếu tố tuyến tính, mạch thẳng đã bị thay thế bằng kết cấu song
hành giữa một bên là câu chuyện của người lính, một bên là lời của sóng; giữa
những cuộc đối thoại biển với người lính và bên kia là những cuộc độc thoại.
Kỹ thuật cắt đoạn và bố trí các chương với sự giãn nở biên độ tạo ra những
khoảng lặng, khoảng trống gợi liên tưởng và tưởng tượng ở người đọc, đã tạo
cho trường ca này có màu sắc hiện đại và mang dáng vẻ của một bản giao hưởng
ngôn từ với điệp trùng các tuyến, các vỉa tầng ngữ nghĩa, các cung bậc cảm
xúc và chi tiết biến hóa.”*
Cuộc trò chuyện giữa
người lính và biển thật thú vị, có chiều sâu nhân văn. Sức hút đó không phải
bởi sự kỳ vĩ hóa mà bởi tính chân thực, gần gũi thấu hiểu thiên nhiên:
Những vết thương của tôi
nhiều hơn cả tuổi
đời…
Cây không đi tìm gió,
nhưng kẻ thù sẽ đến tìm
ta.
Ta lấy gì để che mắt
chúng?
Màu cát hay màu biển”.
Biển cũng thấu hiểu, cảm
phục và truyền cho người lính cái cách để tồn tại nơi mà con người không có
ưu thế:
Sống với nước hãy bắt đầu
từ nước .
Còn với sóng - Thế lực của
biển khơi hình như cũng dịu dàng đi trước màu áo lính
Em muốn gửi tròn tay
Gối mềm trên đảo cát
Hay
Em muốn đem tóc xanh
Buộc trời cho đỡ bão
Cát thì:
Biển có đảo biển đỡ lặp lại
mình
Đảo có lính cát non thành
Tổ quốc
Lửa - chính là tác nhân
trui rèn, đào luyện nên dáng vóc người lính trong chiến tranh, bước sang thời
bình, đối diện với một thực tế khác, dẫu không còn là cảnh sự sống, và cái chết
luôn đeo bám, rình rập quanh mình, nhưng cuộc sống người linh cũng không vì
thế mà bớt đi phần khắc nghiệt. Suy tư, ngẫm ngợi của người lính về
thời cuộc, về nhân thế, về cái tôi của mình cũng khác xưa, đa chiều hơn, trầm
lắng sâu sắc hơn:
Đom đóm ơi, đom đóm dẫn đi
đâu
Đêm là tàu lá sen che nửa
phần trái đất.
Hay:
Còn chút lửa hoa dong riềng
cuối dậu
Sợ một chiều sương muối đến
mang đi.
Rồi:
Cá rô rạch ngược mưa rào
Hám gì bỏ nước cầu ao vào
lờ
Cứ thế, bằng cách kiến tạo
ra những cuộc đối thoại giữa người lính với biển cả, giữa cát với đảo, sóng với
cát, những cuộc độc thoại đan xen,… làm phát lộ những vỉa tầng cảm xúc mới,
mang thân phận người. Hữu Thỉnh đã nói được cái mình cần phải nói với tư
cách là một người lính trước thời cuộc, trước Tổ quốc, đó là lòng quả cảm, là
thái độ sống, ý thức công dân, trách nhiệm người cầm bút.
Với ba trường ca trên nhà
thơ Hữu Thỉnh đã ký thác tâm hồn mình, dân tộc mình trong thiên nhiên với nhiều
cung bậc, chiều kích khác nhau. Có thể khẳng định, không gian vô bờ của thiên
nhiên, trong thế giới thơ Hữu Thỉnh nói chung và thế giới trường ca Hữu Thỉnh
nói riêng, thực sự là cả một cõi nhân gian, cõi người với bao vui - buồn, sướng
- khổ, được - mất...
Lựa chọn thiên nhiên để ký
thác những tâm tư và suy nghĩ, cảm xúc và tư tưởng của mình là cách thi nhân
lấy cái hữu hạn để ứng xử với cái vô cùng. Những thông điệp nghệ thuật được
nhà thơ gửi gắm vào thiên nhiên giàu ý nghĩa nhân văn nó thể hiện tình thương
yêu, nỗi đau và niềm tin trước cuộc đời của một ngòi bút từng trải mà mộng
mơ; sâu sắc, tài hoa mà thanh thoát, tinh tế; ham triết lý mà vẫn đằm thắm,
tình tứ...
Trường ca Hữu Thỉnh kết hợp
hài hoà những yếu tố truyền thống và hiện đại, nhuần nhị bản sắc phương Đông
mà vẫn có nhiều cách tân mới lạ. Tác giả đã sử dụng nhiều thủ
pháp, bút pháp nghệ thuật đồng hiện, tái hiện, nhân hóa, ẩn dụ, so sánh, điệp
từ, điệp ngữ, điệp câu, câu đặc biệt… Thể loại thơ đa dạng lục bát, thất
ngôn, song thất lục bát, thơ tự do là chủ yếu, phù hợp với từng bối cảnh.
Ngôn ngữ kết hợp độc thoại, đối thoại và nghệ thuật đồng hiện để phát huy đặc
tả nội tâm. Vốn văn hóa, văn học dân gian, kết hợp với tư duy và thể thơ hiện
đại được phát huy ưu thế. Linh hoạt trong điểm nhìn, sáng tạo trong những
khúc kể tránh sự nhàm chán. Thiên nhiên trong thơ Hữu Thỉnh là dấu ấn thi
pháp, là gương mặt và số phận con người, là kí ức dân tộc và tín hiệu văn
hóa. Một cách khái quát, thiên nhiên là sinh mệnh thứ hai có sức sống và độ
ám ảnh, là yếu tố nổi bật làm nên một phong cách thơ Hữu Thỉnh độc đáo và dồi
dào tiềm năng sáng tạo.
Thy Lan
|
Thứ Bảy, 24 tháng 12, 2016
Thiên nhiên nơi ký thác tâm hồn
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng 2
Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng 2 MƯỜI SÁU Trên mênh mông vùng đồi xứ Ai Len Tôi được Ban lãnh đạo khu sáng tác mang tên nh...
-
Vài nét về văn học Đông Nam Á Đặc điểm của văn học Đông Nam Á (ĐNA) Nói đến văn học Đông Nam Á là phải nói đến sức m...
-
Cảm nhận về bài thơ một chút Kon Tum của nhà thơ Tạ Văn Sỹ “Mai tạm biệt – em về phố lớn Mang theo về một chút Kon Tụm”… Vâng...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
hãng máy bay eva
Trả lờiXóavé máy bay đi mỹ khoảng bao nhiêu
vé máy bay korean airlines
phòng vé máy bay đi mỹ
vé máy bay đi canada giá bao nhiêu
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Ngau Hung Du Lich
Kien Thuc Du Lich