Thứ Ba, 27 tháng 12, 2016

Đôi nét cảm nhận về thơ của Bùi Giáng

Đôi nét cảm nhận về thơ của Bùi Giáng
DẪN NHẬP
Trong nền thi ca của Việt Nam, có biết bao nhiêu nhà thơ nổi tiếng đã để lại những tác phẩm kiệt xuất cho cuộc đời. Có những bài thơ đọc lên nhẹ nhàng, thanh thoát, có những bài đọc lên thấy chua chát, đắng cay. Trong thời hiện đại, xuất hiện một con người đa tài, ông không chỉ làm thơ, dịch tiểu thuyết, viết sách khảo luận triết học mà còn viết rất nhiều tùy bút văn học, đặc biệt là tùy bút về thơ, đó chính là Bùi Giáng.
Đọc thơ Bùi Giáng thì phải đọc hết toàn bộ mới cảm nhận được hết cái hay vì cuộc đời của ông là cả một bài thơ lớn. Mỗi bài thơ là một âm sắc trong bản nhạc giao hưởng mà mỗi âm sắc đó có phản ánh một mặt của cuộc đời ông. Người đọc không những đọc mà còn phải nghe và còn phải suy ngẫm về nó rất nhiều có khi phải sống trong nó thì mới cảm nhận được hêt những điều hay trong đó.
Nguyễn Hữu Hồng Minh nhận định: “Gọi Bùi Giáng là "người thơ" tôi muốn xác tín hai điều: Bản chất thuần Việt của thi ca, tác phẩm ông và tính cách dân dã, bụi bặm, gần gũi với quần chúng của ông. Trong lịch sử thơ ca Việt Nam hiện đại chưa từng sản sinh ra một trường hợp nào lạ lùng và độc đáo như vậy”. “Bùi Giáng, không chỉ là nhà thơ, mà đi xa hơn, ông chính là hiện thân của một "đạo thơ", một "thi sĩ sinh ra giữa cỏ cây và sẽ chết đi giữa cỏ cây ly kỳ gây cấn”
Dù đã có rất nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhà phê bình viết và nhận định về văn thơ cũng như cuộc đời của Bùi Giáng, nhưng mỗi bài viết chỉ là một góc cạnh nhỏ về ông cũng như tác phẩm của ông mà thôi. Không ai có thể hiểu hết những tác phẩm của ông cũng như cuộc đời ông. Những tác phẩm của ông khó hiểu giống như cuộc đời của ông vậy. Chẳng biết ông là thi sĩ hay Bồ tát hóa than nữa mà có người gọi ông là “thi sĩ Bồ Tát”.
Thơ ông đa chiều cạnh, khó cảm nhận nhưng người đọc vẫn bắt gặp được chính con người mình trong đó. Với kiến thức nông cạn, người viết chỉ nêu lên “Đôi nét cảm nhận về thơ của Bùi Giáng” qua những gì mà người viết cảm nhận. Tuy nhiên với giới hạn của bài viết, người viết chỉ nêu ra một vài nét đặc trưng như cõi xuân, sự hư thực và triết lý Phật giáo trong thơ của ông. Theo Thái Tú Hạp đã viết: “Có rất nhiều những nhà trí thức triết gia, giáo sư và những nhà thơ, văn Việt Nam viết rất nhiều cõi văn chương tuyệt tác của thi sĩ Bùi Giáng, đều những khám phá, tán dương, ca ngợi một cách chân tình, trung thực.” Dù với bao nhiêu lời nhận định nào đi nữa ta vẫn thấy một điểm chung ở mọi người là đã dành sự yêu mến cho con người siêu lãng tử lẫn thiên tài độc đáo này.
NỘI DUNG
1. ĐÔI NÉT VỀ TÁC GIẢ BÙI GIÁNG
1.1. Tiểu sử Bùi Giáng
Bùi Giáng (1926-1998), là nhà thơ, dịch giả và là nhà nghiên cứu văn học của Việt Nam. Các bút danh khác của ông là: Trung niên thi sĩ, Thi sĩ đười ươi, Brigitte Giáng, Giáng Moroe, Bùi Bán Dùi, Bùi Bàn Dúi, Bùi Tồn Lưu, Bùi Tồn Lê, Bùi Bê Bối, Bùi Văn Chiêu Lỳ...Ông nổi tiếng từ năm 1962 với tập thơ Mưa nguồn.
Bùi Giáng sinh ngày 17 tháng 12 năm 1926 tại làng Thanh Châu thuộc xã Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.
Cha ông là Bùi Thuyên, thuộc đời thứ 16 của dòng họ Bùi ở Quảng Nam. Do người vợ cả qua đời sớm nên ông lấy người vợ kế là bà Huỳnh Thị Kiều. Bùi Giáng là con thứ hai của Bùi Thuyên với Huỳnh Thị Kiều, nhưng là con thứ 5 nếu tính tất cả các anh em. Khi vào Sài Gòn, ông được gọi theo cách gọi miền Nam là Sáu Giáng.
Năm 1933, ông bắt đầu đi học tại trường làng Thanh Châu.
Năm 1936, ông học trường Bảo An (Điện Bàn) với thầy Lê Trí Viễn.
Năm 1939, ông ra Huế học tư tại Trường trung học Thuận Hóa. Trong số thầy dạy ông có Cao Xuân HuyHoài ThanhĐào Duy Anh.
Tháng 3 năm 1945Nhật đảo chính Pháp, nhưng sau đó ông cũng kịp đậu bằng Thành chung.
Năm 1949, ông tham gia kháng chiến chống Pháp, làm bộ đội Công binh.
Năm 1950, ông thi đỗ tú tài đặc biệt do Liên khu V tổ chức, được cử tới Hà Tĩnh để tiếp tục học. Từ Quảng Nam phải đi bộ theo đường núi hơn một tháng rưỡi, nhưng khi đến nơi, thì ông quyết định bỏ học để quay ngược trở về quê, để đi chăn bò trên vùng rừng núi Trung Phước.
Năm 1952, ông trở ra Huế thi tú tài 2 ban Văn chương. Thi đỗ, ông vào Sài Gòn ghi danh học Đại học Văn khoa. Tuy nhiên, theo T. Khuê thìsau khi nhìn danh sách các giáo sư giảng dạy lại, ông quyết định chấm dứt việc học và bắt đầu viết khảo luận, sáng tác, dịch thuật và đi dạy học tại các trường tư thục [1].
Năm 1965, nhà ông bị cháy làm mất nhiều bản thảo của ông.
Năm 1969, ông "bắt đầu điên rực rỡ" (chữ của Bùi Giáng). Sau đó, ông "lang thang du hành Lục tỉnh" (chữ của Bui Giáng), trong đó có Long XuyênChâu Đốc...
Năm 1971, ông trở lại sống ở Sài Gòn. Thi sĩ Bùi Giáng mất lúc 2 giờ chiều ngày 7 tháng 10 năm 1998, sau một cơn tai biến mạch máu tại bệnh viện Chợ Rẫy (Thành phố Hồ Chí Minh, tức Sài Gòn cũ) sau những năm tháng sống "điên rồ lừng lẫy chết đi sống lại vẻ vang" (chữ của Bùi Giáng).
1.2. Những tác phẩm của Bùi Giáng
Theo thống kê chưa đầy đủ, tác phẩm của Bùi Giáng có (tạm phân theo thể loại):
Tập thơ: Mưa nguồn (1962), Lá hoa cồn (1963), Màu hoa trên ngàn (1963), Ngàn thu rớt hột (1963), Bài ca quần đảo (1963), Sa mạc trường ca (1963), Mười hai con mắt (1964), Rong rêu (1972), Thơ vô tận vui (1987), Mùa màng tháng tư (1987), Mùi Hương Xuân Sắc (1987), Đêm ngắm trăng (1997), Thơ Bùi Giáng (Montréal, 1994), Thơ Bùi Giáng (California, 1994)…
Giảng luận: Giảng luận về Nguyễn Công Trứ, Giảng luận về Cung oán ngâm khúc, Giảng luận về Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, Giảng luận về Phan Bội Châu, Giảng luận về Chu Mạnh Trinh, Giảng luận về Tôn Thọ Tường, Giảng luận về Phan Văn Trị, tất cả đều được xuất bản năm 1957-1959.
Triết học: Tư tưởng hiện đại (1962), Martin Heidgger và tư tưởng hiện đại I và II (1963), Sao gọi là không có triết học Heidgger? (1963), Dialoque (viết chung, 1965)
Tạp văn: Các sách xuất bản năm 1969, có: Đi vào cõi thơ, Thi ca tư tưởng, Sa mạc phát tiết, Trăng châu thổ, Mùa xuân trong thi ca, Thúy Vân. Các sách xuất bản năm 1970, có: Biển Đông xe cát , Mùa thu trong thi ca. Các sách xuất bản năm 1971, có: Ngày tháng ngao du, Đường đi trong rừng, Lời cố quận, Lễ hội tháng Ba, Con đường ngã ba-Bước đi của tư tưởng…
Sách dịch: Các sách xuất bản năm 1966, có: Trăng Tỳ hải, Cõi người ta, Khung cửa hẹp, Hoa ngõ hạnh, Othello. Các sách xuất bản năm 1967, có: Bạo chúa Caligula, Ngộ nhận, Kim kiếm điêu linh. Các sách xuất bản năm 1968, có: Con đường phản kháng, Mùa hè sa mạc, Kẻ vô luân. Các sách xuất bản năm 1969, có: Nhà sư vướng luỵ, Ophélia Hamlet, Hòa âm điền dã. Các sách xuất bản năm 1973 và 1974, có: Hoàng tử Bé (1973), Mùa xuân hương sắc (1974)... Hiện nay, nhiều tác phẩm của ông đã và đang được tái bản và xuất bản trong và ngoài nước.
2. ĐÔI NÉT CẢM NHẬN VỀ THƠ CỦA BÙI GIÁNG
2.1. Cõi xuân trong thơ Bùi Giáng
Những tác phẩm của Bùi Giáng rất nhiều nhưng nỗi bật nhất là tập thơ Mưa nguồn và những hình ảnh mùa xuân trong thơ ông. Người đọc như lạc vào vườn xuân với những nét xuân khác nhau theo từng cung bật cảm xúc của tác giả. Đó là cõi riêng của ông và cũng là niềm tin của ông. Ông tin tưởng vào muà xuân vì đó là một mùa đẹp nhất trong một năm và mùa xuân cũng là mùa hạnh phúc. Mùa xuân trong thơ ông đối với thời gian là vô cùng và không gian là vô tận.
“Mùa xuân bữa trước mùa xuân bữa sau, xuân bốn bên trong hiện tại vây hãm tấn công đời hạnh phúc lạnh như băng không làm sao nhúc nhích”. (Bờ xuân, Mưa nguồn, tr.38-39)
Ông sử dụng nhiều điệp ngữ “xuân” “xuân bữa trước, xuân bữa sau, xuân bốn bên”. Dụng ý ở đây muốn nói lên một mùa xuân miên viễn, lòng ông lúc nào cũng tràn ngập mùa xuân. Dù trong vòng chu kỳ của một năm chỉ có ba tháng mùa xuân, xuân đi rồi xuân sẽ trở lại, nhưng mấy ai cảm nhận được xuân từng “bữa” như ông. Phải chăng ông xem xuân giống như những “bữa ăn” cho nên ông tận hưởng được mùa xuân ấy trong từng “bữa” đó là thời gian, còn không gian là “xuân bốn bên” nghĩa là nơi nào cũng có mùa xuân cả. So với xuân của chu kỳ trời đất, xuân của Bùi Giáng hiện hữu trong giờ phút hiện tại và vây hãm, tấn công nhưng nó lại mang đến cho ông một hạnh phúc.
Ngôn từ rất Bùi Giáng, mấy ai nói xuân “vây hãm tấn công” bao giờ. Chỉ có Bùi Giáng mới thế, ông có “điên” trong ngôn ngữ hay không điều đó không biết nữa. Chỉ có ông mới hiểu nỗi cái ngôn ngữ của ông. Dù không biết ông có “điên” hay không nhưng nếu tinh ý ta vẫn thấy ông“hạnh phúc” trong mùa xuân mà ông cảm nhận. Khác với mùa xuân của trời đất theo chu kỳ ba tháng trong một năm, còn xuân của ông là từng “bữa” cái “bữa” đó ông đã thưởng thức nó trong niềm hạnh phúc thẩm sâu vào trong tận hồn ông, mà nói rõ hơn là cảm nhận bằng “Tâm”. Giống như những  câu thơ trong bài thơ Nguyên Đán của nhà thơ Xuân Diệu:
“Xuân của đất trời nay mới đến
Trong tôi xuân đến đã lâu rồi
Từ lúc yêu nhau, hoa nở mãi
Trong vườn thơm ngát của hồn tôi.”
Không những ông tận hưởng mùa xuân trong cả không gian và thời gian mà còn tin vào một mùa xuân miên viễn như tin một cánh én sẽ báo tin một mùa xuân đang về. Hình ảnh chim én bay, báo hiệu mùa xuân cho nhân loại. Đây là một niềm vui chung chứ chẳng phải riêng một mình ông. Khi chim én về báo hiệu mùa xuân đến, xua tan đi mùa đông đầy băng tuyết giá lạnh để cho những cây khô nẩy lộc đâm chồi:
Én đầu xuân tuyết đầu đông
Rừng cô tịch ngóng nội đồng trổ hoa.(Mưa nguồn, tr.62)
Ông đồng cảm nghĩ với nhạc sĩ Văn Cao, trong ca khúc Xuân đầu tiên của Văn Cao có đoạn: “Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về, mùa bình thường mùa vui nay đã về…” Xuân đến lòng người ai lại chẳng vui, ai chẳng nao nức, ai chẳng muốn gặp lại cố nhân, những người đã xa vắng từ bao giờ. Xuân về cho lòng người một cảm giác ấm cúng, thân thương, khó tả:
Mùa xuân hẹn thu về em trở lại
Ta nhìn nhau trong bóng nước mơ màng
Nước chảy mãi bởi vì xuân trở lại
Với dòng trong em hẹn ở bên đường
Ta sẽ đợi nghe đời em kể lại
Thuở xưa kia... bờ nước ấy xưa kia
Ta sẽ đợi nghe đời em nói mãi
Bên đời ai vạn đợi đã chia lìa
Mùa xuân hẹn thu về em trở lại
Bên đời đi còn giữ mãi hay không
Giòng bất tuyệt xanh ngần xuân thơ dại
Sầu hoang vu vĩnh hạ vọng non hồng. (Về cố quận, Mưa nguồn, tr.61)
Những câu thơ của ông thật lạ, không giống như những mùa xuân của thiên hạ hay tả là mùa xuân có bướm có hoa. Mùa xuân của Bùi Giáng là “hạnh phúc” mà hạnh phúc của ông chỉ trong những câu nói bỏ lững, chính vì vậy ta mới thấy ông cảm nhận ở “Tâm: “Thuở xưa kia…bờ nước ấy xưa kia” Câu thơ không mang một nội dung gì cả, “thuở xưa kia”là thuở nào, xưa là từ bao giờ, “bờ nước ấy” là bờ nào, rồi lại nhắc thêm một lần “xưa kia” nữa. Phải chăng mùa xuân của ông là một sự hoài niệm, khắc khoải, chờ đợi, hay là mơ ước cho một mùa xuân đẹp sẽ đến khi ông khát khao một nàng thơ nào đó sẽ trở về. Nhưng dù thế nào thì ông cũng cảm nhận được hạnh phúc trong mùa xuân của mình. Ông đã sớm linh cảm rằng cuộc đời của ông chỉ xoay vòng trong một tọa độ mà tọa độ đó được xác đinh bởi không gian “Cố quận” và thời gian “Nguyên xuân” đễ đến nổi ông phải thối lên rằng:
Rồi tôi lớn, đi vào đời chân bước
Cỏ Mùa Xuân bị giẫm nát không hay
Chợt có lúc hai chân dừng một lượt
Người đi đâu? Xưa chính ở chỗ này. 
(Chỗ này, Mưa nguồn, tr.82)
Mùa xuân trong thơ ông có lúc đã rất vui, rất hạnh phúc, nhưng cũng lại có mùa xuân đau đớn, tái tê thể hiện qua câu: “Cỏ Mùa Xuân bị giẫm nát không hay”. Cỏ đẹp thế, mùa xuân đẹp thế nhưng bị giẫm nát lúc nào không hay biết. Phải chăng ông đã rất đau đớn một điều gì đó, tâm hồn ông đã giằn xé hay xót xa cho kiếp cỏ cây hay cho thân phận con người. Với ý nghĩ này Trịnh Công Sơn cũng xót xa cho thân phận của “cỏ” qua ca khúc Cỏ xót xa đưa:
“Trên đời người trổ nhánh hoang vu 
Trên ngày đi mọc cánh lá mù 
Những tim đời đập lời hoang phế 
Dưới mặt trời ngồi hát hôn mê 
Dưới vòng nôi mọc từng nấm mộ 
Dưới chân ngày cỏ xót xa đưa.”
“Cỏ” trong thơ của Bùi Giáng cũng như trong nhạc của Trịnh Công Sơn đều đau đớn như nhau. Cỏ như thân phận kiếp người cũng bị con người chà đạp, cỏ cũng biết xót xa biết tủi nhục, biết tái tê, biết rơi lệ. Như vậy, mùa xuân trong câu thơ này của Bùi Giáng cũng u buồn, chứ đâu phải mùa xuân trong câu thơ nào của ông cũng vui.
Mưa nguồn cũ quá xa rồi một trận
Ôi xuân xanh vĩnh biệt như thể nào
(…) Người viết mãi một màu xanh cho cỏ
Người viết hoài một màu cỏ cho xuân…(Bài ca Quần Đảo, tr.22-23)
Với thơ ông, mùa xuân của đất trời hay xuân trong lòng thì cũng có lúc xuân buồn, cũng có lúc xuân vui, có lúc xuân hạnh phúc nhưng cũng có lúc xuân xót xa. Có những mùa xuân đã qua đi không bao giờ trở lại nhưng cũng có những mùa xuân ở mãi trong lòng ông. Rồi suốt một đời, ông đã ấp ủ một mùa xuân và ông vẽ cho chính mình một chân dung chân dung duy nhất, như viết hoài một màu cỏ cho xuân.
Xuân mười sáu suốt bến xuân chìm tắt
Một bài thơ gieo suốt tự bao giờ (Bài ca Quần Đảo, tr.11)
Không biết năm mười sáu tuổi đã xảy ra biến cố gì trong cuộc đời ông mà bến xuân trong ông đã chìm tắt? Điều đó cũng chẳng ai biết, chỉ biết là ông làm thơ từ dạo ấy, khoảng vào năm 1942, tại Huế, như theo lời kể của ông trong đầu sách Lời Cố Quận.[2]
Đọc thơ ông người đọc như lạc vòa một cánh rừng u tịch, không biết lối ra, không định hình được hướng, Người đọc choáng ngợp với từ từ, từng ngữ, từng câu thơ ông. Họ say sưa, họ suy nghĩ, … nhưng không thể hiểu hết những gì ông viết trong thơ. Trong khi họ còn đang đắm mình với cỏ cây hoa lá trong mùa xuân của ông thì bất chợt đâu đây lại nghe một lời chào như hư như thực: 
“Xin chào nhau giữa con đường
Mùa Xuân phía trước miên trường phía sau.”
(Chào Nguyên Xuân)
Ủa! quen hay lạ mà chào nhau thế? Phải chăng trong từ vô thỉ mọi người đã quen nhau? Thôi thì thôi cũng xin chào nhau vì tất cả mọi người cùng đi trên một lộ trình cơ mà. Kiếp người đã là một lộ trình dài vô tận, trên lộ trình đó thi thoảng con người đã gặp nhau rồi. Trong luân hồi sanh tử ấy nếu có duyên. Vậy thì hãy cứ chào nhau đi, cứ vui đi như tận hưởng những mùa xuân vậy. Niềm khát khao nhất một kiếp người không phải là đi tìm hạnh phúc đó sao? Vậy thì xin cứ xem nhau như những người quen để còn được thấy nhau, được chào nhau. Hôm nay còn gặp thì hãy cứ chào đi, cứ vui đi như xuân đang về vậy, và hãy để cho mùa xuân ấy miên trường ở phía sau, có nghĩa là còn vui trong vạn ngày tới nữa. Hãy bỏ qua những đau thương mất mác trong cuộc đời để đi tìm một bến bờ hạnh phúc. Hãy cảm nhận nó trong từng bước chân và đừng nói thêm gì nữa:
Thưa rằng nói nữa là sai
Mùa Xuân đang đợi bước ai đi vào
Hỏi rằng: đất trích chiêm bao
Sá gì ngẫu nhĩ mà chào đón nhau.(Chào Nguyên Xuân)
Mùa xuân trong thơ Bui Giáng còn ở bước chân của ai nữa kia. Xuân cũng có thể theo người mà về chứ chẳng cần có chim én. Phải chăng là mùa xuân của tâm hồn khi tâm hồn tràn ngập niềm vui thì một bước chân nhè nhẹ cũng là một hạnh phúc. Nhưng sao trong những câu thơ này Bùi Giáng tự hỏi rồi lại tự trả lời. Ông có cô đơn không? Có lẽ tâm trạng ông vừa hạnh phúc vừa cô đơn chăng? Chính vì cô đơn nên ông mới độc thoại với chính mình. Có khi ông rất mơ hồ, rất triết lý nhưng có khi ông lại rất thực tại:  
“Thưa rằng: ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân.”
Không chỉ có vậy, những câu thơ về mùa xuân của ông có cái gì đó ngộ ngộ mà xưa nay chưa có một ai nghĩ ra dù nó chỉ là những hiện tượng bình thường của cuộc sống:
“Xuân về xuân lại xuân đi
Đi là đi biệt từ khi chưa về”
Theo Đặng Tiến nhận xét: “Hai câu thơ đơn giản. Ngớ ngẩn mà thâm sâu. Vớ vẩn mà thần sầu. Thâm sâu ở chỗ: lời nói tự hủy, tự lời bôi xóa lời. Câu thơ có nghĩa là: tôi vô nghĩa. Thần sầu ở chỗ: không mấy ai thấy cái chốn thâm sâu.”
Theo Nhất Thanh nhận định: đây là “Một bài thơ Xuân lạ lùng! Người làm thơ cứ như nhảy chân sáo trong thơ. Rất bông đùa, hóm hỉnh mà lại triết lý đến không ngờ. Qua tới đi về, cứ như mùa Xuân đang lượn lờ trước mắt chúng ta. Thế mà nó đã đi, đi biệt khi tất cả chúng ta chưa kịp thấy nó về. Hay nói cách khác, mùa Xuân vẫn mãi đi về giữa đất trời lớn rộng, trong khi lòng người quá nhiều bận rộn nên chưa kịp thấy hết nhịp điệu đến đi phiêu bồng của một cõi Nguyên Xuân.”[3]
Nói theo chu kỳ của vũ trụ thì xuân đến thì xuân phải về, dù cho con người có mong đợi hay không. Khi xuân đến có bảo xuân đừng đến cũng không được mà khi xuân đi có nắm giữ xuân lại thì cũng không thể. Hai câu thơ của Bùi Giáng nói lên chu kỳ của trời đất rất bình thường thôi nhưng nghe lại không bình thường. Có cái gì đó hay hay, lạ lạ, không dùng ngôn ngữ bay bướm, phóng đại gì cả, tuy rất đời thường nhưng lại rất khác thường. Có cái gì đó rất hay theo kiểu của Bùi Giáng mà ta không thể nói nên lời.
Theo nhận định của người viết: “Nếu nói Trịnh Công Sơn là “phù thủy về ca từ trong âm nhạc” thì Bùi Giáng là “kẻ điên về từ ngữ trong văn chương” điều đó không ngoa chút nào. Còn Đặng Tiến cũng khẳng định: “Thơ Việt Nam nhiều câu hay. Nhưng hay kiểu Bùi Giáng, xưa nay có một. [4]
2.2. Triết lý Phật giáo trong thơ Bùi Giáng
Đọc thơ của Bùi Giáng không những ta thấy được nét xuân mà còn thấy đầy triết lý của Phật giáo. Giống như Trịnh Công Sơn những ca từ trong ca khúc Trịnh thấm đượm tinh thần Phật giáo thì từ ngữ trong thơ của Bùi Giáng cũng mang nhiều hơi hướng của Đạo Phật. Nhiều người cho rằng “ông điên” nhưng hình như “ông điên để được tỉnh”, tỉnh trong thơ và tỉnh trong cả cuộc sống. Điên mà ông nhận chân được cuộc sống này là “hư vô” là không thật, là hữu hạn:  
Cũng vô lý như lần kia dưới lá
Con chim bay bỏ lại nhánh khô cành
Đời đã mất tự bao giờ giữa dạ
Khi lỡ nhìn viễn tượng lúc đầu xanh. (Hư vô và vĩnh viễn)
Mấy ai trong cuộc đời này hiểu được cuộc sống là “vô thường” biến đổi không ngừng nghỉ. Có lẽ ông cảm nhận điều này nên ông đã làm một kẻ lữ hành rong chơi suốt cả một đời không vướng víu. Ông giống như một gã cùng tử trong kinh Pháp Hoa cứ mãi lang thang cả một đời đến khi sực tỉnh lại thì mới nhận chân ra được “đời chỉ là cõi tạm”, chỉ là “quán trọ trần gian” thôi, có gì đâu mà vui. Cõi tạm thì vô thường mà quán trọ chỉ là chỗ nghỉ chân. Cõi tạm này chẳng biết bắt đầu từ khi nào và kết thúc từ bao giờ. Nhưng có điều mà ông biết được đó là cái chết. Cái chết là điều gì đó thương tâm của kiếp người mà không ai tránh khỏi, cũng như kiếp hoa rồi cũng sẽ úa tàn:
“Lỡ từ lạc bước bước ra
Chết từ sơ ngộ Màu Hoa Cuối Cùng.” (Chớp biển, tr.45)
Nếu gọi nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ của “Tình yêu và thân phận” mà trong đó yếu tố thân phận là yếu tố đã làm cho Trịnh Công Sơn trở nên bất hữu thì Bùi Giáng cũng có thể gọi là thi sĩ của “Tình yêu và thân phận”. Trong “cái thân phân” đó con người đã gặp nhau, đã vui sướng, đã đau khổ, đã dằn vặt, đã cấu xé lẫn nhau:
                        “Anh cứ tưởng đầu đường thương xó chợ
                        Ai có ngờ xó chợ cũng thương nhau.”
Hai câu thơ này chẳng biết chính xác là như thế nào mà lại có câu thơ dị bản khác:
                        “Cứ tưởng đầu đường thương xó chợ
                         Nào ngờ xó chợ cũng chơi nhau.”
Dù có dị bản đi chăng nữa, ta vẫn thấy được nó chứa đựng một triết lý rất Phật giáo mà lại “rất Bùi Giáng. Theo quan niệm của đạo Phật, cuộc sống của một kiếp người là đau khổ. Sự khốn khổ cùng cực với sinh lão bệnh tử, ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc… Bùi Giáng hiểu điều này, chính vì vậy mà ông đã sử dụng vào thơ của mình với hình ảnh “đầu đường” “xó chợ”, “đầu đường” “xó chợ” ở đây không phải là những người bần cùng theo phương diện xã hội mà ông muốn nói trên phương diện nỗi khốn cùng của kiếp người. Nhưng dù có là những kẻ “đầu đường” “xó chợ” đi chăng nữa thì phải biết thương nhau chứ. Kiếp người vốn dĩ đã chịu nhiều đau khổ của luật vô thường, của nhân quả nghiệp báo rồi, tại sao con người còn phải gây thêm những đau khổ cho nhau nữa. Cũng phân thận “đầu đường” “xó chợ” cả thôi, thì có gì sung sướng, có gì vinh quang đâu mà lại “chơi” nhau.
Trong xã hội người khốn khổ về vật chất nhất là những kẻ “đầu đường” “xó chợ” thì với triết lý của nhà Phật con người chỉ là một “gã cùng tử” không hơn không kém. “Gã cùng tử” chỉ biết rong chơi, lang thang đây đó, cho đến một lúc nào đó:
Biển dâu sực tỉnh giang hà
Còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh.(Áo xanh)
thì mới nhớ đến quê nhà. Thế gian là cõi tạm, cuộc sống là vô thường, biến hoại, không hằng hữu, chỉ có quê nhà mới là nơi êm ấm, là chốn bình yên. Mỗi con người ai không có một quê hương, một chốn để về. Lang thang suốt một đời rồi mới:
Sực nhớ rằng đây rừng rú thẳm
Là quê thân thiết biết bao chừng (Người về)
Ông nhận chân ra được quê nhà ấy ở trong lòng, nghĩ là sự cảm nhận của tâm. Chỉ có “chân tâm” mới là quê nhà thật sự. Chỉ có hạnh phúc thật sự là ở mãi trong tâm:
Lòng chim gieo sáng dệt vân sa
Trên bước đường xuân trở lại nhà
Mở sách chép rằng: vui một sáng
Nghìn năm còn mãi tấm lòng ta (Áo xuân, 1942)
Phải chăng Bùi Giáng muốn trở về với “chân tâm” của mình hay là khéo nhắc mọi người đừng đi tìm chân hạnh phúc ở đâu xa mà chính là ở tâm mình. Ông đã rất khéo léo vận dụng ngôn ngữ của Phật giáo và trong thơ ông. Ngôn từ tuy có khác nhưng ý nghĩa thì tương đồng, thế mới nói chân lý chỉ có một nhưng phương tiện là rất nhiều. Trở lại quê nhà ở đây không khác là trở lại với chân tâm, chính nơi đây mới là hạnh phúc và giá trị của hạnh phúc này phải đánh đổi bằng bao nhiêu năm lang thang nơi xứ lạ quê người.
Trong kinh Hoa Nghiêm, Phật dạy: “Nhất thiết duy tâm tạo”.Trước Bùi Giáng,  Đại thi hào Nguyễn Du trong Truyện Kiều cũng nói về “Tâm” khi khẳng định về thân phận của kiếp người qua hình ảnh của nàng Kiều: “Thiện căn ở tại lòng ta, chữ Tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Trịnh Công Sơn cũng có một câu trong ca khúc Để gió cuốn đi đã trở thành một câu dường như là bất tử: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng”. Tấm lòng đó là “Tâm”, nếu sống mà không có “Tâm” thì cuộc sống trở nên vô nghĩa. “Tâm” của Bùi Giáng có lúc lang thang, có lúc ngỡ ngàng, có lúc hiu quạnh, lúc có niềm vui… nói chung là trái tim ông cũng xao động theo mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút:
“Đường đi ngõ quạnh lang thang,
Niềm vui tao ngộ muôn vàn lạ thay.
Trái tim mỗi mỗi mỗi ngày,
Mỗi giờ phút đọng mây trời rung rinh”.
Điều này ứng với giáo lý của nhà Phật là: “Tâm viên, ý mã” (Tâm như con vượn truyền cành, ý như con ngựa chạy rong trên đường.) Bùi Giáng hiểu được điều này, chính vì vậy mà ông muốn “trở về cố quận” để tìm lại cõi “nguyên xuân” của kiếp người. Cõi “nguyên xuân” đó chính là quay về với tự thân của cuộc sống đời thường mà bấy lâu nay con người ta bỏ quen. Cứ tưởng hạnh phúc nằm ở đâu xa xôi lắm con người cứ mãi khát khao đi tìm, đâu có ngờ hạnh phúc nằm ở những điều giản dị nhất của cuộc sống. “Hạnh phúc đâu chỉ là những nụ cười mà con tô điểm thêm bằng những giọt nước mắt. Hạnh phúc đâu chỉ là ánh mặt trời ấm áp mà còn là vầng trăng lạnh lẽo đêm thâu.”[5]. Bùi Giáng đã nhận chân ra được hạnh phúc nên ông đã sống một cuộc đời không bon chen không danh lợi. Ông tìm vui trong những gì đơn sơ nhất, giản dị nhất mà mỗi người ai cũng có thể tìm được:  
“Mỗi sáng tôi nhìn mặt trời mọc trong mây,
Mỗi chiều tôi nhìn mặt trời lặn trong mây,
Suốt ngày tôi lắng tai nghe tiếng chim hót trong lá cây reo,
Và nhìn thấy rất nhiều mùa xuân mênh mông đang đi tới”.
(Nhìn thấy - “Đêm ngắm trăng” tr.27)
Ông tận hưởng cuộc sống với mỗi sáng sớm được còn nhìn thấy mặt trời mọc trong mây, mỗi chiều cũng được thấy mặt trời lặng trong mây, và lđược lắng nghe tiếng chim hót trong khoảng trời mênh mông vô tận. Cuộc sống tấp nập hối hả đã làm cho con người mãi chạy theo vật chất, với công việc, những mối quan hệ xã hội chằn chịt, những lo toan vây hãm, đâu có ai có thời gian để tận hưởng cuộc sống, dù chỉ là được nhìn cảnh bình minh và hoàng hôn. Cuộc sống rất ngắn ngủi, sang còn tối mất như cánh phù dung sớm nở tối tàn. Cái chết chẳng đợi ai nên đừng truy tìm hay ước vọng về quá khứ và tương lai mà cứ an trú trong phút giây hiện tại để thấy mình còn hiện hữu trên cõi đời này. Trong kinh Người biết sống một Đức Phật dạy:
“Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng.
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến,
Chỉ có pháp hiện tại
Tuệ quán chính ở đây.”[6]
Chỉ có giờ phút hiện đại mới tìm thấy được hạnh phúc mà hạnh phúc đó là trạng thái của Niết Bàn. Niết Bàn hiện hữu trong từng hơi thở, trong từng thớ thịt của mạch sống chứ đâu phải ở đâu xa xôi. Niết bàn là sự hiện hữu của cái nhìn, cái thấy trong giây phút hiện tại khi tâm tỉnh giác. Tỉnh giác với tự thân và tỉnh giác ở cảnh vật mà ở đây trong thơ ông là tỉnh giác với thiên nhiên qua ánh nắng của mặt trời. Chỉ bao nhiêu đó thôi là đã đủ giàu có, thế mà tại sao con người vẫn mãi lang thang làm gả cùng tử, đến lúc nào đó gã cùng tử muốn quay trở về cố quận, dù đường về có quá xa xôi. Trịnh Công Sơn cũng nói:
“Đường xa mỏng mộng vô thường
Trái tim chợt tỉnh tôi nhừng nhịn tôi.”
Lang thang suốt một độ luân hồi rồi cũng may là có lúc tỉnh ra, có người suốt đời cũng đâu hiểu cuộc đời chỉ là giác mộng vô thường. Dẫu biết rằng con người không biết sinh ra từ đâu, nghĩa là cội nguồn hay quê hương là ở đâu, vì thế mà Bùi Giáng đã tự hỏi:
“Hỏi rằng người ở quê đâu
Thưa rằng tôi ở rất lâu quê nhà”.
hay:
“Từ đâu ngươi đến? – Từ đây ta về”.
Cuộc hành trình về cố quận của Bùi Giáng quả thật là dài, nhưng đâu đó ông cũng đã gặp được những triết lý của Phật giáo để rồi từ đó ông đem nó vào trong thơ ca của ông, nó trở thành chất liệu sống của ông theo từng năm tháng. Những tháng ngày một mình trên lộ trình của cuộc sống thông qua những câu thơ bình dị mà trác tuyệt là cả một tâm hồn siêu thoát. Cho nên có người còn gọi ông là “vị Bồ tát của văn chương”. Đúng vậy, ông đã từ bỏ một cái ràng buột, “ồn ào của cuộc sống để thong dong bước vào đạo”.[7] Đó là hạnh nguyện hay chỉ là một sự ngẫu nhiên của cuộc đời ông hoặc là cái nghiệp văn chương của ông phải như thế. Dù sao đi nữa thơ ông cũng mang đầy tâm trạng, mang đầy màu sắc mà màu sắc Phật giáo là một kho tàng vô giá mà ông đã may mắn bắt gặp được. Âu đó cũng là một phần thưởng của hạnh phúc đã dành cho ông và từ đó ông đem ban tặng đến tất cả mọi người qua những vần thơ tuyệt tác.
2.3. Nét hư thực trong thơ Bùi Giáng
Có người cho rằng Bùi Giáng “điên” nhưng hình như ông chỉ “điên trong thơ” mà thôi. Cái điên đó thể hiện ở nét hư thực trong ngôn từ và nội dung của ông. Thơ của ông dung dị mà sâu sắc, đơn giản mà tài hoa, bong đùa mà nghiêm túc, khoáng đảng mà khắc,  như vậy đâu thể nói Bùi Giáng là một “người điên”, thơ ông hay là thế. Những câu thơ trong thơ ông có thể bỏ lững, có thể không lý do nhưng ta vẫn có thể cảm nhận nó theo tâm trạng của mỗi người. Ai muốn hiểu sao thì hiểu, nhưng không ai có thể hiểu hết thơ ông. Và cho đến chính bản thân ông cũng không thể hiểu nổi ông kia mà:
Xưa kia tôi đã có lần
Và bây giờ đã đôi phần tôi quên.
(Ca dao, Mưa nguồn, tr.143)
Ông không cho biết ông quên gì, nhớ gì, vì ông cũng không biết ông đã làm gì để mà nhớ. Có đôi khi con người ta “tưởng rằng đã quên” nhưng sự thật có quên đâu bao giờ, không những không quên chút nào mà nổi nhớ ấy lại được cất giữ ở một góc khuất trong tâm hồn mà thôi. Bùi Giáng cũng vậy, cái ông quên là những gì ông có thể quên vì không ai nhớ hết tất cả mọi điều. Cuộc sống còn có những điều quan trọng hơn cần phải nhớ và cần phải nghĩ. Cũng rất “may” là ông đã quên chứ  không ông còn có nhiều câu thơ hay hơn thế nữa. Câu thơ đọc lên rất bình thường nhưng lại không bình thường. Chính vì thế mà người đời mới bảo ông “điên”.
Những câu thơ của ông vừa hư vực, hư ở đây là nó thực đến nỗi mà hóa “hư” còn “thực” ở đây là hư đến nỗi mà hóa “thực”. Có những thứ mà chẳng ai đem nó vào thơ nhưng hình ảnh “đầu đường” và “xó chợ” vậy mà ông lại đem vào thơ không những thế mà lại hay nữa chứ. Có những dụng cụ tầm thường trong cuộc sống chẳng đưa nó vào thơ vậy mà qua ngòi bút của ông những thứ đó lại trở nên sống động hư thực:
“Bằng bút chì đen 
Tôi chép bài thơ 
Trên tường vôi trắng
Bằng bút chì trắng 
Tôi chép bài thơ 
Trên lá lục hồng
Bằng cục than hồng 
Tôi đốt bài thơ 
Từng phút từng giờ
Tôi cười tôi khóc bâng quơ 
Người nghe cười khóc có ngờ chi không?” 
 Pháp Như
Theo http://hoquytoc.com/


1 nhận xét:

Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng 2

Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng 2 MƯỜI SÁU Trên mênh mông vùng đồi xứ Ai Len Tôi được Ban lãnh đạo khu sáng tác mang tên nh...